Lại nói, năm trăm vị đại La hán rời khỏi núi Thiên Thai, đến chân núi Phổ Đà bèn bay xuống, biến thành các nhà sư nghèo đi hành hương khất thực, quần áo rách rưới lôi thôi, thậm chí có vị biến thành nhà sự mù lòa câm điếc, có vị còn biến thành nhà sư mắc chứng điên dại, thôi thì đủ các loại. Mục đích của các vị ấy là đến đây để phá rối chốn đạo tràng tề chỉnh, trang nghiêm, mỹ quan thanh tịnh của Bồ tát Quán Thế Âm, vì bị làm mất mặt, nên họ càng làm ra vẻ nghèo đói, cứ gặp khách đi lễ là vén vạt áo lên xin tiền – gọi là “Tiểu Hóa Duyên”. Khắp chốn núi rừng, dâu đâu cũng nghe tiếng hóa duyên (xin bố thí tiền) của họ: “A Di Đà Phật! Xin kết duyên lành!” Khách đi lễ thấy vẻ các nhà sự nghèo khổ tàn tật đều rủ lòng thương, người nào cũng ít nhiều bố thí để được phúc lành. Việc đó đến nay đã trở thành phong tục của Phổ Đà. Hàng năm cứ đến tháng hai, dịp hội chùa Phổ Đà, rất nhiều người xuất gia tu hành ở khắp nơi đều đến Phổ Đà để “Hóa Tiểu Duyên”. Hồi tôi đến trọ ở Phổ Đà, đôi khi cũng nhập vào đám đông cho vui và cũng vén vạt áo lên xin thí chủ Hóa Tiểu Duyên. Chẳng cần phải bảo ai, chen vào đám đông mà hóa duyên, thấy có toán khách hành hương đi đến, chúng tôi tự động xếp thành hàng một, cũng nâng vạt áo lên như mọi người. Thí chủ đi qua mặt, tùy duyên mà bỏ vào vạt áo thứ này thứ nọ để tạo duyên lành, nhiều khi chúng tôi được bố thí rất nhiều thứ, cũng có người còn bố thí cả kim chỉ, khăn mặt, bít tất, tiền bạc, đủ các thứ. Đó là lối Tiểu Hóa Duyên của La hán ở núi Phổ Đà lúc bấy giờ. Bởi vậy sau này họ cũng bắt chước làm theo, và đặt cho cái tên là “Cảnh giới La Hán”. Những thí chủ hiểu Phật pháp thì tỏ ra rất cung kính đối với đám khất sĩ Tiểu Hóa Duyên này, vì họ cho rằng chưa từng có cả các vị A La Hán hiển thần thông đứng lẫn trong đó, cho nên họ không dám tùy tiện khinh mạn. Đó là lai lịch của việc Sư Tăng hóa duyên ở núi Phổ Đà.
Các đại trai chủ giàu có, vào núi dâng lễ, tổ chức cơm chay cúng dàng cho hàng ngàn Tăng bảo. Năm trăm vị La hán cũng vào dự chay. Trước khi vào dự, các vị La hán có triệu tập một cuộc họp, thống nhất với nhau rằng, hôm nay đến dự chay, mọi người phải để bụng mà ăn một bữa cho ra trò, phải ăn làm sao cho cơm ở Trai đường không đủ, làm cho Quán Âm Bồ tát phải mất mặt về chuyện này, hạ uy tín của Bồ tát xuống, như vậy cũng coi là ta đã trả được thù rồi. Thế là năm trăm vị La hán như những ngôi sao hổ đói xuống trần, đọc xong bài chú cúng dàng, rồi cứ cắm đầu cắm cổ ăn lấy ăn để, “ba bát không đủ, năm bát chẳng no, bảy tám bát vẫn chưa dừng đũa”. Như một đội quân chủ lực ra trận, xông pha thiện chiến, chỉ trong vài phút mà cơm của Trai đường đã sạch sành sanh. Năm nghìn xuất ăn, năm trăm người đánh sạch mà vẫn ngồi chờ ăn nữa, còn những người khác chưa được ăn thì xôn xao, họ la lối ầm ỉ và còn thốt ra những lời khó nghe: “Trời ơi, nào là Phổ Đà là chốn danh sơn vang tiếng bốn biển mà đến cơm chay cho mấy Sư Tăng ăn cũng thiếu, sao gọi là chốn đạo tràng của bậc đại Bồ tát được? Nếu không cho chúng tôi ăn no thì chúng tôi không đi đâu cả”. Kẻ nói qua, người nói lại nhốn nháo cả Trai đường, cuối cùng thầy Trật Tự phải đứng ra xin lỗi: “Mời các vị tạm thời rời khỏi Trai đường, hôm nay cũng đã phải nấu thêm mấy chảo cơm lớn mà vẫn không đủ cho các vị ăn, bây giờ thì cũng đã muộn rồi, bữa mai chúng tôi nhất định sẽ không để các vị phải đói!” Đám chúng có người đứng lên nói: “Thôi được, nếu mai còn để chúng tôi đói, thì xin lỗi, chúng tôi sẽ đập vỡ cái nồi nấu cơm “ngàn Tăng” đấy!” Nói xong họ hầm hầm rời khỏi Trai đường. Việc này ngay cả Quán Thế Âm Bồ tát cũng không lường trước được, mà chỉ tưởng rằng họ là các Sư Tăng hành hương, chứ không biết là năm trăm vị La hán ở núi Thiên Thai đến trả thù, làm náo loạn lên như vậy để làm mất mặt Bồ tát. Mọi người đều bàn tán xôn xao về việc này: “Các Sư Tăng này không biết từ đâu đến, đúng là bụng La hán, nếu họ cứ ăn mãi như thế này thì núi Phổ Đà đến kiệt quệ mất! Mai đến giờ chứng trai, họ lại đến ăn vài chục tạ gạo chưa chắc đã đủ! Mà không cho họ ăn no, họ còn gây rối, thầy đầu bếp đang xin từ chức, không dám nấu cơm nữa, biết làm sao đây!”
Lúc đó bỗng có một thầy Tăng nói: “Tôi xin sung vào làm đầu bếp, dù có là “bụng La hán” thì cũng ăn không hết được cơm nhà chùa!” (thành ngữ “bụng La hán” trở thành một câu nói trong dân gian, chỉ những người ăn khỏe, ăn bao nhiêu cũng không biết no – Lời Người Dịch). Hôm sau, quả nhiên cái đám La Hán như hổ đói ấy lại kéo đến, họ lại mở trận “xung phong” (từ “xung phong” vốn là thuật ngữ quân sự dùng để chỉ việc đánh trận, sau này cũng trở thành từ ngữ thông dụng để chỉ việc ăn cỗ – Lời Người Dịch). Họ không biết rằng Bồ tát đã có chuẩn bị, cơm nước đầy đủ, ùn ùn mang lên Trai đường, họ ăn thả cửa, đến nổi người nào người nấy bụng phình ra như cái trống cả, không sao ăn được nữa, thế mà trong thùng cơm vẫn thừa. Lúc này thầy Trật Tự mới an tâm, mạnh dạn tuyên bố: “Xin các vị phát tâm ăn no, đã dám mở hàng cơm thì không sợ bụng khách to, cơm và thức ăn của chúng tôi đầy đủ, chỉ sợ các vị không có sức ăn thôi!” Lúc này năm trăm vị La hán đã biết ngay đó là thần thông quảng đại của Quán Thế Âm Bồ tát, biết rằng không thắng nổi Bồ tát, nên họ cũng đành lặng lẽ rút lui. Sau khi họ đi rồi, Bồ tát sai đóng cửa núi lại, không cho họ đến gây rối nữa. Các vị La hán thấy Bồ tát đóng cửa không cho họ vào nữa, bèn nói: “Thôi được, chúng tôi xem các vị đóng cửa mãi được không, cứ mở cửa là chúng tôi sẽ đến ăn!”
Đó là lai lịch của việc cửa Chùa Trước bao đời nay không mở, và đó cũng là câu truyện thú vị đậm màu sắc thần thoại. Sau này mới biết, thầy đầu bếp chính là Bồ tát hiện thân, cho nên mới ứng phó được năm trăm vị La hán, để các vị rời khỏi chùa. Chùa Phổ Đà, từ đấy có lệ khi dùng cái nồi nấu cơm của Bồ tát để nấu cơm, bao giờ cũng để lại một ít cơm nguội, ghế vào nồi cơm mới, rồi ăn đến nồi cơm mới cũng lại để một ít ghế vào nồi tiếp theo, cứ thế, thì lúc nào cũng đủ cơm tiếp đãi không lo cái nạn “Sư nhiều, cháo ít” nữa. Đến nay đã mấy ngàn năm rồi, nhưng vẫn còn lệ đó. Đó chính là xuất xứ của cái lệ “ghế cơm thừa” của Chùa Trước.