Lại nói đến Quán Âm Đại Sĩ ở núi Phổ Đà rằng: một hôm, ngài muốn thay đổi không khí, tịnh mãi cũng muốn “động” một chút, muốn đi du ngoạn một phen, bèn tính truyện trèo lên ngọn núi cao nhất là Phật Đỉnh Sơn. Ngài dùng tuệ nhãn phóng tầm mắt nhìn về phía xa, thấy chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai là nơi có cảnh đẹp, có nhiều vị Đầu đà và Hòa thượng qua lại tấp nập, chắc đều là đồng đạo với ta cả. Thế là ngài quyết định “Ta phải đi một chuyến”. Nghĩ vậy, ngài nhún mình một cái rời khỏi bàn đạp Quán Âm (Bàn đạp Quán Âm ở bên cạnh khóm Trúc Tía, hiện nay trên tảng đá còn vết chân ngài, truyền rằng Bồ tát Quán Âm nhấn vào bàn đạp ở đấy nhảy qua biển). Đến cửa chùa Quốc Thanh, nơi đây núi non thanh tú, cây cối um tùm, rừng tre mườn mượt, cỏ mọc xanh rờn, quả là chốn “Thiên đường trong cõi tục”. Hơn năm trăm vị La hán ở chùa này, hàng ngày từng tốp từng tốp hai ba người chờ sẵn ở cửa núi, để đón khách đàn việt thập phương cùng thiện nam tín nữ đến chùa lễ Phật, phát tâm để có dịp rộng kết duyên lành, phát lộc lấy phúc. Từ xa họ nhìn thấy Quán Thế Âm Bồ tát đi đến, bèn sửa lại pháp y cho uy nghi long trọng, cho rằng đây là một bậc đại Hộ pháp có tiền, nhất định sẽ có nhiều của cải kết thiện duyên với chùa, cho nên họ vội vàng người nào người nấy nâng tà áo Pháp lên (đó là những động tác quen thuộc hàng ngày của họ) đồng thanh nói rằng: “A Di Đà Phật, xin kết duyên lành!” Quán Thế Âm Bồ tát bằng tuệ nhãn nhận ra họ đều là La hán sống, ứng hóa xuống cõi trần. Họ sắm vai Tăng như thật, họ vây quanh Quán Âm để xin hóa duyên, họ cũng không biết đây là người đạo một nhà, càng không nhận ra đây là vị đại Bồ tát ở núi Phổ Đà Nam Hải. Quán Âm bị vây chặt, ngài chỉ cười mà không nói gì. Cuối cùng chính Phương trượng đại Hòa thượng của chùa Quốc Thanh, là một bậc đạo cao đức trọng, dùng tuệ nhãn nhận ra người khách không mời mà đến này, ắt là một vị đại Bồ tát ở danh sơn nào đó, xuống chốn trần gian này để “du ngoạn bốn phương nhằm độ hóa”. Ngài bước lên gạt đám đông ra, chắp tay lễ và nói rằng: “Xin hỏi Đại đức từ chốn danh sơn nào quá bộ đến đây vậy?” Quán Am Bồ tát cũng đáp lễ: “Tôi là Quán Thế Âm từ bi phổ độ ở núi Phổ Đà Nam Hải, hôm nay vượt biển qua đây để xin được thưởng ngoạn danh sơn thắng cảnh”. Các vị La hán nghe nói đây là Quán Thế Âm đều tỏ ra vui mừng khôn xiết, thưa rằng: “Thật là dịp may, được đại Bồ tát hạ cố chốn sơn môn thanh bần này, thật là vinh dự cho chúng tôi, rất mong đại Bồ tát phải ở chơi chốn sơn môn nhỏ bé này vài ngày với chúng tôi để đám Tiểu La hán chúng tôi được hầu hạ đại Bồ tát. Chúng tôi sẽ xin làm món ăn La hán để mời ngài chứng trai với chúng tôi”. Sau này, câu truyện đối đáp này trở thành câu tục ngữ trong ngôn ngữ dân gian là: “La Hán thỉnh Quán Âm, khách thiểu, chủ nhân đa” (như câu tục ngữ Việt Nam thường nói: “Khách ba, chủ nhà bảy” – Lời Người Dịch).