Nhân quả phụ giải Lương Hoàng Sám

Chương 7: Nói Rõ Quả Báo



∗ Giải thích Sám văn

Vì ác nghiệp mà phải đọa trong ba đường dữ, đi khắp ác thú, sinh ra ở nhân gian phải chịu quả báo đau khổ. Quả khổ này đều do nhân đời trước chiêu cảm nên xả thân này chịu thân khác cứ trả báo mãi mãi không thôi.

Bởi thế chư Phật và Bồ-tát dùng thiên nhãn xem, thấy chúng sinh trong ba cõi khi hết phước rồi, cứ theo nghiệp mà đọa vào các chỗ khổ. Thấy chúng sinh từ cõi trời vô sắc giới hết phước mạng chung, đọa xuống cõi trời dục giới. Vì hết phước nên có khi cũng đọa làm cầm thú. Những chúng sinh ở cõi trời sắc giới, khi hết phước phải đọa, từ chỗ thanh tịnh đọa xuống dục giới là chỗ không thanh tịnh, từ chỗ không thanh tịnh lại thọ dục lạc. Chúng sinh ở sáu cõi trời dục giới khi hết phước cũng đọa xuống địa ngục chịu vô lượng khổ.

Chư Phật và Bồ-tát nhìn thấy chúng sinh nhân gian, nhờ tu thập thiện được sinh làm người. Nhưng thân người có lắm khổ, khi mạng chung phần nhiều lại đọa vào các đường ác.

Lại thấy chúng trong cõi súc sinh chịu lắm khổ, bị đánh đập, chở nặng, đi xa, nếm đau đớn cắt da, chịu trầy vai trợt cổ, bị sắt nung đóng dấu. Lại thấy cõi ngạ quỷ thường đói khát, hằng bị lửa thiêu thân. Nếu không có chút thiện, vĩnh kiếp không thể giải thoát. Nếu có được chút phước, thì được sinh lên làm người nhưng thân hình gầy yếu, nhiều tật bệnh và bị yểu mạng chết non.

Giải thích:

Do thời gian bất đồng, một ngày ngắn ngủi tại nhân gian thì ở địa ngục có thể là trăm ngàn năm rồi.

Có người lý luận: “Tôi mà chết rồi, thì sẽ nhờ con cái siêu độ cho, nên bây giờ dẫu ăn chút thịt nào có nhằm gì”. Ai mà ôm quan niệm này, xin hãy xem Kinh Địa Tạng, trong đó ghi rõ:

“Đều là do chúng sinh trong cõi Diêm Phù Ðề làm những điều ác mà tùy nghiệp chiêu cảm ra những địa ngục như thế. Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu di, có thể sâu dường biển cả, có thể ngăn đạo thánh. Vì thế chúng sinh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không tội, sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy. Chí thân như cha với con, mỗi người cũng theo nghiệp của mình mà đi khác đường, dầu có gặp nhau cũng chẳng bằng lòng chịu khổ cho nhau”.

Người sát sinh, tạo nghiệp xấu nhiều, một khi chết đi sẽ lập tức đọa vào địa ngục, không cần mang thân trung ấm trải qua 49 ngày chờ đầu sinh.

Cho nên tôi khuyên các bạn, đã tin Phật rồi thì nên mạnh dạn dứt tuyệt đồ mặn, nguyện ăn chay trường, hãy từ bỏ và đừng ỷ y vào thuyết có thể ăn tam tịnh nhục. Bởi vì đây là phương tiện tạm Phật dành cho người sơ học do không thể một lần dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường nên tạm cho họ phương tiện, để họ dần dần sinh khởi từ tâm. Trước tiên cho họ tịnh tay, nhãn, nhĩ nghĩa là tạm được ăn ba loại thịt không do mình ra tay giết, mắt không thấy người giết, tai chẳng nghe tiếng vật rên xiết lúc bị giết. Gọi đây là tam tịnh nhục và khuyên họ ăn chay mười ngày trai, tất cả đều là phương tiện tạm mà thôi.

Sám văn:

Đại chúng nên biết: Thiện ác như hai bánh xe lăn chưa từng tạm nghỉ, quả báo cũng tiếp nối xoay vần không dứt. Sang quý bần tiện, tùy nghiệp tạo ra, đều do gieo nhân nên mới chiêu quả. Vì vậy kinh nói:

Làm người giàu sang, quốc vương, trưởng giả là do đời trước lễ bái phụng sự Tam bảo.

Làm người đại phú là do đời trước bố thí.

Làm người sống lâu là do đời trước giữ giới bất sát.

Làm người xinh đẹp là do nhẫn nhục.

Làm người có tài, sáng suốt, hiểu rộng thấy xa là do tu trí huệ.

Làm người có âm thanh trong trẻo là do hay ca vịnh tán thán Tam bảo.

Làm người sạch sẽ không bệnh là do có từ tâm.

Làm người cao lớn xinh đẹp là do nhân khiêm cung.

Làm người thấp lùn là do tính kiêu căng, khinh người.

Làm người xấu xí là do hay sân giận.

Làm người ngu si là do không chịu khó học hỏi.

Làm người đần độn là do không chịu dạy bảo người.

Làm người câm ngọng là do đời trước hay nói lời dối gian, hủy báng Tam bảo.

Làm người hạ tiện, bị kẻ khác sai khiến là do đời trước mắc nợ người không trả.

Làm người da đen xấu xí là do đời trước ngăn che ánh sáng quang minh của Phật.

Giải thích:

Để ấn chứng câu làm người đại phú là do bố thí mà nên tôi xin kể câu chuyện Phạm Trọng Yêm:

Lúc Phạm Trọng Yêm hai tuổi thì cha mất. Mẹ ông do nhà nghèo nên bất đắc dĩ phải tái giá. Khi ông tạm lớn chút, hiểu việc rồi, liền gạt lệ từ biệt mẫu thân đến ở nhờ nơi Phật tự khổ học.

Cũng nhờ thiện duyên này, mà từ nhỏ sớm được nghe Phật pháp, nhờ ông cần khổ phấn đấu, siêng năng học tập. Lớn lên lại có tính ưa bố thí hành thiện, rộng gieo phúc điền.

Lúc ông làm quan thì lo tu sửa chùa, cúng dường chư Tăng tại xứ đó.

Hồi Phạm Trọng Yêm còn ở chùa học tập, từng phát hiện ra cái hầm chôn dấu vàng trong chùa nhưng ông không chiếm lấy, mà cho lấp lại che như cũ, chẳng lấy một tơ hào.

Đến lúc ông ra làm quan, khi tăng chúng cần trùng tu chùa hư nát, cầu cứu ông, ông mới bảo tăng nhân trong chùa, hãy lấy vàng này ra tu bổ tự viện.

Vào cuối đời, ông lại hiến nhà mình cho tự viện, bổng lộc mấy mươi năm dành hết vào việc tạo phúc điền, hành thiện tích đức.

Ông từng thiết lập Nghĩa Điền để cung cấp nuôi dưỡng ba trăm hộ con em nhà nghèo. Khi ông nghe thầy phong thủy nói nhà ông tại Tô Châu có phong thủy tốt, đời con cháu ắt sẽ làm nên chức công khanh, thì lập tức cho đổi nhà này thành trường, thu nhiều con em đến học, lấy đây làm cơ sở giáo dục đào tạo nhân tài cho quốc gia. Tục ngữ có câu giàu không quá ba đời, nhưng gia tộc Phạm Trọng Yêm lại hưng vượng 800 năm, 4 con Phạm Trọng Yêm không những quý hiển đến chức công khanh, có đạo đức tột cao, mà còn luôn noi theo phong cách của cha xả tài cứu đời, con cháu họ làm quan tại triều nhiều đời không dứt.

Nhân quả báo ứng chân thật không dối, như bóng theo hình, chưa từng đình chỉ.

Hôm nay chúng ta được tướng mạo cao đẹp, giàu sang phú quý đều nhờ nhân lành đời trước đã gieo, nên mới chiêu cảm quả tốt như thế.

Chỉ có người y theo Phật pháp tu hành, mới có thể chuyển biến vận mệnh không tốt của bản thân, chẳng phải đời này tu đến đời sau mới có thể chuyển, mà là tùy theo sự minh lý của bản thân và mức độ đoạn ác tu thiện, mà vận mệnh sẽ bắt đầu phát sinh thay đổi ngay trong hiện tại. Không những ác bệnh tiêu, sự nghiệp thuận lợi, mà ngay cả dung mạo, thân thể địa vị đều có thể chuyển biến.

Thường giảng Phật pháp, da đen sẽ dần biến thành trắng, thường niệm Phật, xướng danh Phật có thể khiến âm thanh chuyển thành hay, dễ nghe. Người thường dùng hoa tươi cúng Phật, dung mạo sẽ đổi thành mỹ lệ trang nghiêm, người ác cũng sẽ đứng xa mà kính.

Hiện nay trong nước, tôi nghe kể không ít người nhờ ăn chay tụng Kinh Địa Tạng, tuy bệnh hoạn, dù chẳng trị lại không cánh mà bay. Còn có nhiều thai phụ vì thai nhi tụng Kinh Địa Tạng thảy đều sinh con khỏe mạnh, thông minh, như ý. Bạn đừng cho đây là chuyện thần thoại hay là chuyện hoang tưởng, không tưởng! Xin hãy tìm xem các cuốn “Báo Ứng Hiện Đời”, những chuyện tôi kể ghi trong đó toàn là người thực việc thực.

Được người trong cuộc đồng ý, tôi xin đăng thư một vị độc giả cư sĩ gửi cho tôi, mục đích là để chư pháp lữ và người có bệnh hiểu rõ nhân quả, nghiêm túc tuân giữ ngũ giới, dứt mặn ăn chay, chí thành sám hối các tội đã làm, như vậy mới có thể tu hành chánh đạo, khiến ác bệnh hồi phục.

Thư này họ viết cho tôi, nhưng do muốn độc giả tin thư này hoàn toàn là sự thật, nên tôi chép y nguyên văn. Nhưng trước khi in, tôi có cho đổi tên địa điểm và danh tính thực của người trong cuộc, hầu tránh phiền toái cho đương sự.

Hơn nữa có những từ người viết dành cho tôi quá tán dương nhưng tôi biết mình rất rõ, nếu không phải do tôi may mắn được gặp Phật pháp thì có thể tôi sớm đã đọa địa ngục rồi, tôi tuyệt không dám nhận những lời này và không dám có chút tâm kiêu mạn tự đại.

Sau đây là nguyên văn lá thư:

Giáo sư Quả Khanh tôn kính, vạn an!

Tôi năm nay 37 tuổi.

Vào mùa thu năm 2000, tôi phát hiện ngực mình có khối u, bác sĩ chẩn đoán khối u đang phát triển sinh sôi, từ đây tôi bắt đầu chữa trị.

Đến mùa xuân năm 2006, khối u nơi ngực tăng lớn dữ và lan đến phía dưới nách, tôi đi Bệnh viện Nhân dân thành phố khám, kết quả là bị ung bướu tuyến sữa.

Ngày mồng 6 tháng 3 năm 2006, tôi nhập viện tiến hành phẫu thuật cắt bỏ ngực, tổng cộng trị liệu khoảng 6 lần. Trong thời gian trị liệu tôi làm theo lời hướng dẫn của cha mẹ, hằng ngày tụng mười biến Chú Đại Bi, một bộ Kinh Địa Tạng.

Vào ngày 25 tháng 7 thì tôi qui y Phật môn. Đồng thời thỉnh các sư cùng cư sĩ tụng hai đợt Kinh Địa Tạng, mỗi đợt tụng 108 bộ.

Nào ngờ đến trung tuần tháng 8 lại phát hiện mình có thêm mấy khối ung bướu nhỏ. Theo như bệnh viện thành phố chẩn đoán là bướu đã lan đến gáy. Lập tức phải cho xạ trị các vùng gáy, ngực và phối hợp với uống thuốc. Bác sĩ xác định:

– Một khi ung bướu lây lan, muốn trị lành thì hy vọng không cao, cho dù có xạ trị thì cũng không thể tiêu trừ ung bướu.

Lúc này tôi và thân nhân đều rơi vào kinh hoàng, tôi như người không còn hồn vía đang rơi vào hố thẳm tuyệt vọng, cảm giác như tử thần đang từng bước tiến đến sát bên uy hiếp mình. Đã tiêu tốn hơn tám vạn rồi, mà không thể trị lành bệnh. Cha mẹ tôi đều là người tin Phật, niệm Phật. Họ đã nhiều lần suy nghĩ: Vì sao đã niệm Phật, tụng biết bao kinh chú, cũng đã tổ chức lễ siêu độ cho các oan gia trái chủ rồi, nhưng do đâu mà không đạt được cảm ứng? Nhất định là chúng tôi có làm sai chỗ nào đó.

Trong lúc lâm vào đường cùng, tâm rối như tơ, vô phương giải quyết, thì cha tôi sực nhớ đến người bạn đạo là Chu cư sĩ, ông quyết định dù thế nào cũng phải tìm cho bằng được Giáo sư Quả Khanh, để cầu ngài giúp đỡ, giải thích cho chúng tôi hiểu nguyên nhân là do đâu?

Nhờ nhóm cư sĩ Thượng Hải giúp cho nên cuối cùng hôm mồng 6 tháng 4 thì chúng tôi liên lạc được với ngài.

Khi Chu cư sĩ kể bệnh tình của tôi, ngài rất nhiệt tình, rất từ bi, cho ngay đáp án rằng:

1. Hãy bảo bệnh nhân phải lập tức bỏ mặn ăn chay, nếu vừa ăn mặn vừa tụng kinh thì không thể nào đạt được lợi ích.

2. Phải chân thành tha thiết sám hối, những tội sát, đạo, dâm, vọng đã tạo trong đời này, đặc biệt là các mối quan hệ tình ái lăng nhăng phải sám hối triệt để.

3. Phải liên tục quỳ tụng Kinh Địa Tạng.

4. Người nhà nếu ai bỏ mặn ăn chay cũng có thể tụng Kinh Địa Tạng trợ giúp.

Cơ hội chỉ có một lần, bảo bệnh nhân ngàn vạn lần không nên bỏ qua, đừng làm lỡ mất cơ hội này.

Khi chúng tôi được ngài khai thị như thế rồi, cả nhà đều mừng rỡ và hổ thẹn. Mừng vì gặp được giáo sư cứu tinh chỉ điểm, mạng tôi ắt được cứu. Hổ thẹn là rõ ràng mình biết không nên ăn mặn, đã hiểu rõ tội mình sâu nặng nhưng lại không chân thành sám hối.

Từ lúc được ngài chỉ dạy rồi, hằng ngày tôi tụng Chú Đại Bi, Kinh Địa Tạng. Đêm đến vào buổi khuya yên tĩnh, tôi quỳ trước Phật, Bồ-tát chí thành chắp tay rơi lệ đau khổ thống thiết, sám hối từng tội lỗi mình đã tạo trong đời này, kể ra hết những việc mà không ai hay biết, đồng thời tôi lễ bái ngài Tuyên Hóa, cầu ngài từ bi gia hộ, cứu vớt tôi.

Tôi cứ làm như vậy, thì chưa đến mười ngày, vô tình phát hiện ung bướu của mình đã tiêu, đúng là tật bệnh không cánh mà bay, Phật pháp quả là huyền diệu vô biên, không thể nghĩ lường. Phật lực cũng huyền diệu không thể nghĩ lường!

Tôi đến bệnh viện thăm một số bạn bệnh, bọn họ đều xạ trị nhưng không thể tiêu trừ ung bướu. Bác sĩ khám cho tôi tỏ vẻ vui mừng và vô cùng kinh ngạch, các bạn bệnh thảy đều mừng cho tôi, các bạn đạo đều chúc mừng tôi.

Giáo sư Quả Khanh! Ngài đúng là bác sĩ tài ba đã ban cho toa thuốc thần giúp chữa lành bệnh tôi, thông qua quá trình phát bệnh và lành bệnh này, tôi đã hiểu rõ và tin chắc rằng lời Phật dạy là chân ngữ, thật ngữ, bất vọng ngữ.

Muốn được Phật pháp từ bi gia trì, ắt cần phải tu đúng pháp, y giáo phụng hành. Phải nghiêm trì giới luật, đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện. Chỉ cần đối với những điều mình đã tạo, đã làm trong quá khứ thành tâm ăn năn, hổ thẹn phát lồ sám hối quyết lòng sửa sai không tái phạm, được vậy mới có thể tiêu diệt mọi tai ương bệnh tật, mới có thể chiêu phúc vô lư8ợng.

Giáo sư tôn kính, cảm tạ ngài đã ban cho tôi mạng sống lần thứ 2. Ngay đây tôi xin thay mặt toàn gia đình kính chúc ngài khang kiện trường thọ, gia đình hạnh phúc. Tôi nhất định chăm chỉ tu theo Phật pháp, nguyện làm người thuần thiện, chân chính, thệ nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu hành, làm một đệ tử đúng nghĩa, xứng đáng trong Phật môn hầu có thể báo đáp ân ngài và ân chư Phật, Bồ-tát.

Ngày 5 tháng 12 năm 2006

Phật tử Trí Tân xin kính thành đảnh lễ.

Sám văn:

Làm người sinh vào nước lõa hình là do ăn mặc mỏng manh suồng sã, tự cho mình hơn người.

Giải thích:

Chúng ta xem báo đài, thấy đăng tin hiện nay trên thế giới còn vài bộ lạc sống lõa thể, gần giống như người thời nguyên thủy. Vì sao họ có tập quán này?

Ấy là do đời trước họ có tính ưa khỏa thân phô bày trước người, còn kiêu ngạo tự cho là cơ thể mình đẹp, gợi cảm. Họ rất thích hở hang và ưa phơi bày quá mức, thường mặc y phục rất mỏng, ngắn đến nỗi có mặc mà như không mặc, nghĩa là nhìn thấu hết, trông rất suồng sả cẩu thả. Có thể dùng từ đường đột, đường là cẩu thả, đột là đột phá quan niệm thể diện liêm sĩ của con người. Họ luôn tự cho mình là có thân thể khỏe đẹp, khêu gợi hấp dẫn hơn ai hết.

Điều này cũng cảnh báo giới trẻ chúng ta rằng mặc y phục chẳng nên hở hang khoe thân bao gồm mặc bikini của nữ và chỉ mặc quần tam giác của nam. Những dạng ảnh chụp khỏa thân quảng cáo nơi hình bìa hay phụ trang hoặc tờ rơi, mục đích nhằm khơi gợi dâm tâm của người. Nếu bạn không cẩn thận, đời này sau khi chết rồi, trước tiên sẽ phải vào địa ngục, thoát kiếp địa ngục thì làm súc sinh, mãn kiếp súc sinh thì đầu thai vào địa phương ưa sống lõa thể. Trả báo đến lúc nào mới xong? Phải đợi nhưng người do bị các hình ảnh khỏa thân gợi dục của họ mà sinh khởi dâm tâm tu đến không còn dâm tâm nữa thì tội kia mới tiêu!

Đây thực rất đáng sợ. Tôi hoàn toàn không nói dối hay bịa đặt chi đâu! Vì vậy tha thiết xin cảnh báo các nam nữ thanh niên, tuyệt đối không nên vì muốn chinh phục, muốn quyến rũ, muốn chơi nổi mà khoe thân ăn mặc hở hang. Nếu ai có tính này thì cần phải sám hối cho diệt tội, nên kiên quyết sửa đổi ngay.

Sám văn:

Làm người sinh vào nước móng ngựa là do nhân đời trước mang giày dép đi thẳng vào chỗ thờ phụng, tôn nghiêm, luôn tự cho mình cao, ngon hơn người.

Giải thích:

Vào thập niên 80, báo chí có đăng ở miền Tây Trung Quốc có một thanh niên hai chân hướng ra sau, hình dạng giống như móng ngựa, đi rất nhanh.

Năm 2000 truyền hình cũng đưa tin, có một nữ nhi hai bàn chân hướng ra sau, phải lên thành phố làm phẫu thuật.

Đây chính là quả báo sinh nước móng ngựa như trong kinh đề cập. Do những người này đời quá khứ không tin nhân quả, bất kính Tam bảo, từng tỏ thái độ kiêu mạn, để chân còn mang guốc, giày xồng xộc đi thẳng vào đạo tràng, giảng đường, nơi thờ phụng, lộ vẻ ngang nhiên cao ngạo đứng trước người. Hiểu rõ điều này rồi, quý vị nhất định phải cẩn trọng chú ý, không nên tại đạo tràng, giảng đường hoặc nơi tôn nghiêm có những hành vi vô lễ hoặc nói năng ồn ào làm ảnh hưởng tới việc nghe pháp của người, bởi quả báo rất đáng sợ, không thể nghĩ lường.

Sám văn:

Làm người sinh vào nước xuyên ngực là do đời trước bố thí làm phước xong rồi sinh tâm hối hận tiếc của.

Giải thích:

Đến nay trên thế giới vẫn có những bộ tộc mà nam nữ, ưa đeo khoen trước ngực giống như kiểu xỏ lổ tai và cho đó là đẹp. Vì sao họ ưa trang sức kiểu như thế? Là do bởi đời trước người này từng dùng tài vật bố thí cho người, đây vốn là việc tốt tạo phúc điền, nhưng bố thí xong rồi lại hối hận, do có tâm hối hận này mà bị sinh vào nước xuyên ngực. Há chẳng nghe kinh nói khởi tâm động niệm không chi mà chẳng phải là tội hay sao, chỉ một niệm hối hận đó thôi mà cũng lãnh quả báo, nhưng e là những người có tâm hối hận không ít đâu.

Nếu không sám hối thì sao có thể an được?

Sám văn:

Làm người sinh trong loài hưu nai là do đời trước hay dọa nạt, làm người khiếp sợ.

Giải thích:

Câu này rất dễ hiểu, nghĩa là kẻ ưa hành ác, hay bắt nạt khủng bố người, tương lai sẽ sinh vào loài nai, hoẵng nhát gan sợ sệt. Nếu có ý khiến người kinh hoàng, tức phải làm nai, là do tội khủng bố người.

Sám văn:

Sinh trong loài rồng là do cái nhân đời trước ưa trêu chọc (đùa tình).

Giải thích:

Người dâm tâm nặng thường thích trêu hoa ghẹo nguyệt (quấy rối phụ nữ), rất ưa chuyện tình ái lăng nhăng. Chỉ một điểm này thôi, thì kiếp sau khi mất thân người phải đọa vào trong loài rồng. Không phải làm rồng là không hay, nhưng rồng tuy có thần lực, khéo biến hóa làm mưa, song cũng chỉ là loài súc sinh ở trên trời hoặc trong sông biển thôi. Các Long vương hiện hữu ở cõi Ta bà này luôn có ba điều sợ hãi:

1. Rất sợ gió, cát nóng dính thân, nung đốt da thịt, xương tủy.

2. Sợ Long cung bị cuồng phong bão tố nổi lên thổi bay mất y phục trang sức quý, khiến thân rồng phải hiện bày.

3. Sợ lúc vui vẻ khoái lạc tại Long cung bị chim đại bàng cánh vàng đến bắt ăn thịt.

Làm rồng cũng chẳng được tự tại, do lúc làm người có tu, nên loài rồng ưa hộ pháp, rộng hành bố thí. Song cho dù tu thành rồng vàng, có thể trở lại nhân gian làm đế vương, nhưng tâm dâm vẫn rất hừng thịnh. Bằng chứng là vua rất ưa tuyển mỹ nữ, ham chứa gái đẹp đầy tam cung lục viện, nếu cứ mê buông thả tà dục thì sau khi chết rồi phải sa vào ác đạo, trầm luân trong biển khổ sinh tử. Vì vậy phải cẩn trọng lưu ý không nên có tính ưa bỡn cợt đùa tình, mà ngay cả ý niệm tà dâm cũng phải khắc phục không để sinh khởi, luôn giữ tâm đoan chính.

Sám văn:

Thân sinh ghẻ lở dữ là do ưa đánh đập, ngược đãi chúng sinh (đời quá khứ hay dùng roi vọt đánh đập hành hạ người và vật).

Người thấy mình sinh hoan hỷ là do mình thấy người hay sinh hoan hỷ.

Giải thích:

Trong xã hội hiện nay, có nhiều người tính khó cảm thông hay ôm hận nên thường bị cô độc, khó sống hài hòa với người. Chi bằng nên cười hỷ xả, hằng giờ hằng phút dùng tâm hoan hỷ, mỉm cười đối với bất kỳ người nào mình gặp. Dần dà sẽ phát hiện ra giữa mình và người các mối giao hảo đã chuyển tốt và cũng thay đổi được thái độ ưa nhăn nhó, lạnh nhạt vốn có của mình. Đây là diễn tiến theo tự nhiên của luật nhân quả. Thực ra đối với tất cả chúng sinh phải nên từ bi hỷ xả, đây cũng là lời dặn dò của chư vị minh sư dành cho chúng ta.

Sám văn:

Làm người hay bị bắt giam, là do đời trước hay giam nhốt chúng sinh trong lồng trong chậu.

Giải thích:

Đã có người vô duyên vô cớ bị án liên lụy và bị bắt tống giam oan, sau đó qua điều tra họ được phán vô tội và phóng thích. Đây là do đời quá khứ hoặc hiện tại bản thân họ từng giam nhốt chúng sinh.

Tôi từng gặp một nữ Viện trưởng Viện ấu nhi, chồng bà là lãnh đạo một cơ quan nọ. Mấy năm trước, ông bị người vu cáo tham ô nên bị bắt tống giam 3 năm. Sau nhờ điều tra phán ông vô tội và được thả về nhà. Tuy được cấp lương lại nhưng cũng đã nên ba năm tù tội. Bà muốn biết nguyên nhân là do đâu? Tôi hỏi:

– Nhà bà có ưa nuôi chim cảnh không?

Bà kể lúc họ kết hôn, nơi nhà mới có treo lồng chim đủ loài đủ dạng, mãi đến khi chồng bị giam, bà mới tặng hết cho người. Tôi quán sát tìm xem nguyên nhân do vì sao chồng bà bị giam ba năm khổ sở thì thấy rõ từ đời quá khứ đến hiện tại ông rất ưa nuôi chim, do dùng lồng giam cầm chúng sinh mà phải thọ quả báo này!

Ngày 4/7/2007 Thời báo Hoàn Cầu đăng tin như sau:

Ở thôn Êkati thuộc nước Ấn Độ, có một người dân không làm sai bất kỳ điều gì, cũng không phạm lỗi gì với ai, nhưng lại bị giam trong ngục tới 53 năm.

Sau khi được thả ra, ông được bồi thường 1 Ru-bi (tương đương 2,5 USD hoặc 2 hào Nhân dân tệ).

Xin kể thêm câu chuyện do đệ tử ngài Hư Vân là Thích Quán Bổn ghi:

∗ Con Chồn Trắng

Năm Dân Quốc 25, Bính Tý. Sau khi Nam Hoa đã mở Đại giới đàn, truyền ba đàn xong. Lúc sắp giải giới, thì Lâm Quốc Canh – Đoàn trưởng Sư đoàn 16 đang đóng quân tại Tào Khê đến thăm, tay xách cái lồng, trong nhốt một con vật, toàn thân trắng tuyết, điểm lấm chấm đen, lông mướt rượt, mõm nhô, đuôi dài, đích thị là một con chồn. Đoàn trưởng nói:

– Con vật này có lý lịch ly kỳ lắm, mới đầu nó bị thợ săn ở núi Bạch Vân – Quảng Châu bắt được. Người ta kể rằng khi phá bức tường thành Quảng Châu để mở con đường cái thì thấy nó từ trong thành phóng ra và bị bắt.

Bạn tôi mua nó với giá 40 đồng, tính đem về nấu ăn cho bổ và khoái khẩu. Nhưng nhìn thấy mắt nó linh động, long lanh, có vẻ hiểu được ý người nên ông ta không nỡ làm thịt, bèn nhốt lại và đem bán cho Vườn Sở Thú Quảng Châu. Rồi sau đó, tự nhiên ông ta bị bắt, bị tống vào tù mà không rõ nguyên do tội trạng, án cứ lưu như thế mãi mà không ai giải quyết.

Tình cờ, vợ ông ta tham dự một buổi cầu cơ, chưa mở miệng hỏi gì thì đã thấy quẻ chạy, đề cập đúng chóc điều bà đang thắc mắc trong lòng và giải thích rằng ông nhà hiện đang bị nhốt, là do chiêu cảm quả báo của việc bán con chồn cho sở thú giam giữ, còn chỉ cho bà rằng hiện có bậc cao tăng đang chủ trì hoằng pháp tại chùa Nam Hoa, hãy mau đem con chồn đến đó phóng sinh thì người chồng ắt sẽ được thoát nạn.

Bà vợ giật mình cả kinh, vội đem tiền chuộc con chồn. Do Lâm Đoàn trưởng là bạn thân của chồng bà, sẵn dịp ông đang đóng quân ở Tào Khê nên bà nhờ ông mang con chồn đến chùa phóng sinh giùm.

Ngài Hư Vân nghe kể chuyện, liền thu nhận con chồn. Ngài thuyết Tam Quy Ngũ giới cho nó xong thì thả nó ra khu rừng rậm phía sau chùa. Hằng ngày, nó đều vào chùa để Tăng chúng cho ăn. Từ khi thọ giới xong, nó không chịu ăn thịt nữa, chỉ ăn chay và rất thích ăn trái cây. Những người thợ xây chùa muốn trêu chọc nó, họ nhét thịt vào chuối đưa cho nó ăn. Con chồn khi biết mình ăn nhầm liền nhổ ra. Nó dùng móng chân trước cào vào thức ăn, kiểm soát mấy lượt, nhìn tới nhìn lui, mắt lườm mấy ông thợ, tỏ vẻ giận dữ bất bình, vì họ đã dối gạt nó. Sau đó nó bỏ đi thẳng suốt mấy ngày mà không trở về.

Một hôm, do bị người trong làng đuổi bắt, nó leo lên một ngọn cây cao chót vót ngót mấy chục trượng, ôm cành kêu khóc. Chú Sa-di thấy vậy vào bạch với Phương trượng. Ngài Hư Vân liền đi ra đến dưới gốc cây đứng nhìn lên. Vừa thấy Ngài, con chồn liền tuột xuống, đeo ngay vào tay áo Ngài, vẻ rất mừng rỡ. Hòa thượng đem nó về. Sợ nó bị người rình bắt, Ngài đóng cho nó một cái chuồng. Sau đó khi thả vào rừng, nó chỉ đi quanh quẩn trong chùa, không vào rừng nữa.

Một hôm, ông Tưởng Giới Thạch đi cùng mười lính hầu đến thăm chùa nhưng không thấy báo trước. Họ vừa đến cổng Tào Khê thì thấy con chồn, thị vệ định bắn nhưng ông Tưởng ngăn lại. Chồn lúc lắc đầu, ve vẫy đuôi, dắt ông Tưởng đi vào. Đến đại điện, nó chạy như bay vào Phương trượng, cắn áo Hòa thượng kéo xuống lầu gặp ông Tưởng. Nghe kể chuyện đó, ai cũng cười.

Mỗi khi Hòa thượng ngồi thiền, chồn thường nằm dưới thiền sàng. Thấy Hòa thượng nhắm mắt ngồi lâu quá thì nó bắt đầu táy máy, kéo râu Ngài đùa nghịch. Hòa thượng mở mắt nhìn nó, bảo:

– Con có linh tánh, chớ vào rừng, đừng ra ngoài sơn môn hay tới gần nhà dân mà bị bọn trẻ quấy phá!

Một hôm, chẳng biết nó đi đâu mà bị xe cán trọng thương, nằm nhẹp, không đứng dậy nổi. Thấy Hòa thượng đến thăm, nó ráng chìa vết thương ra cho Ngài xem. Hòa thượng biết không cứu được, thương nó đau đớn, bèn khai thị:

“Cái túi da này, không đáng để lưu luyến nữa! Con đừng bám víu vào, hãy buông xả và sám hối tất cả nghiệp duyên quá khứ. Khởi một niệm sai thì phải đọa, phải nhận lấy ác báo, chịu nhiều thống khổ. Giờ đây, quả báo của nghiệp xưa đã mãn, ta mong con nhất tâm niệm Phật, để sớm được giải thoát”.

Chồn hiểu ý, gật gật đầu, kêu lên mấy tiếng, rồi tắt hơi. Thi thể nó để hai ngày vẫn không biến đổi. Hòa thượng nhớ đến câu chuyện Tổ Bách Trượng độ chồn hoang, nên cho tổ chức tang lễ nó như một vị Tăng, chôn nó ở phía Nam núi.

Việc này xem ra ly kỳ, nhưng sở dĩ những điều đó phát sinh trong cuộc sống, nguyên nhân cũng giống như trong sám văn đã tả thôi.

Chúng ta là phàm phu, thường hay lý luận việc nuôi chim, cá là trò tiêu khiển cực kỳ thú vị. Đa số còn có quan niệm ngu muội rằng hễ đã phát tài chút ít thì có quyền ra ngoài giải trí chơi bời hưởng lạc tha hồ bằng cách mua hoa, bao gái và họ lập luận rằng nhà thổ lầu xanh vốn là chốn mua vui, để mình tiêu khiển giải trí. Họ nào biết hưởng phúc kiểu này chính là tạo họa, đâu hay rằng chính hành vi mê tối này đã vô tình tạo nhân xấu khiến họ phải sa vào địa ngục vô biên vô tận, đợi đến khi ác báo trổ trên thân, vô thường ập tới, lúc đó có hối cũng đã muộn!

Sám văn:

Nghe thuyết pháp mà cứ trò chuyện ồn ào làm loạn tâm người thính pháp, sau sẽ đọa vào loài chó tai dài.

Giải thích:

Có nhiều người đến dự pháp hội, không phải vì muốn nghe pháp mà vì muốn trò chuyện bình luận, ưa làm pháp quan, phân tích mổ xẻ. Chỉ cần vừa nghe lời không thuận lỗ tai mình, thì vội vàng luận tam thuyết tứ. Hoặc đến đạo tràng mà không chú tâm nghe, toàn nói chuyện phiếm, gây ồn náo vày quấy nhiễu người nghe pháp. Những người này tương lai sẽ đọa làm chó trong cõi súc sinh, bởi vì loài chó vừa nghe tiếng động, không kịp phân biệt xanh hồng trắng đen chi đã há miệng sủa to, khuấy động sự yên tĩnh bốn bề.

Nếu như đối với người thuyết pháp bị nhiều đàm tiếu thị phi thì nên y pháp chẳng y người. Phải nghiên cứu giáo lý giảng cho đúng lễ, thái độ nên đoan trang cung kính, phương pháp và thời cơ đề phải thích nghi. Đệ tử Phật tuyệt không nên có thái độ bới lông tìm vết hay lộ vẻ vui thích hả hê khi thấy lỗi người. Càng không thể nhân vì một số vấn đề vụn vặt mà đi quấy rối đại chúng đang chăm chú nghe chánh pháp.

Trong xã hội hiện nay, có nhiều người tham dự thảo luận Phật pháp trên mạng và mối liên lạc theo cảnh nói một câu ngàn người nghe, tạo thành ảnh hưởng rất lớn. Vì vậy điều cần chú ý là phải hết sức cẩn trọng ngôn hạnh, chớ tạo lỗi đàm thoại làm nhiễu loạn người đang cần tập trung nghe pháp.

Sám văn:

Xan tham bỏn sẻn ăn một mình, bị đọa trong ngạ quỷ, sinh làm người thì bần cùng đói khổ.

Giải thích:

Do xan tham bủn xỉn giành ăn lén một mình, bị đọa vào cõi ngạ quỷ, ác báo hết thì chuyển sinh vào nhân gian, sống rất bần cùng, đói khổ.

Năm 1990 ngày nọ, một người bạn đến nhà tôi kể là chị dâu ông vừa chết, tang sự làm xong mới một tuần.

Ông mới nói đến đây thì tôi lập tức thấy ngày một nữ nhân gầy như que củi, đầu rối bù, dập đầu cúi lạy như tế sao, van cầu tôi cứu bà.

Tôi định tĩnh, dòm kỹ hóa ra đây là bà chị dâu đã chết, đi theo ông bạn đến tận nhà tôi. Bởi bà biết rõ về tôi, nên mới đi theo chú em chồng mà đến, mục đích cầu xin tôi cứu bà (những người an chay niệm Phật đều có một vầng kim quang bao phủ, hễ tu càng giỏi, thì kim quang càng dày, càng tỏa ánh sáng ngũ sắc khiến bất kỳ yêu tà quỷ thần gì cũng đều phải kính sợ, không dám xâm phạm).

Tôi hỏi bà:

– Có biết vì sao mình bị đọa vào cõi quỷ chăng?

Bà kể sau khi mình được gả cho nhà đó, bình thường hay nhín ăn nhịn thèm để có được danh tiếng tốt, khiến mọi người chấp nhận cảnh ăn uống đạm bạc. Nhưng tối đến bà và chồng thường lén cùng nhau dùng đồ ngon, ngay cả tết đến cũng chỉ cho mẹ chồng ít đầu cá, cẳng gà.

Do mẹ chồng thoái hưu lương ít, nên hễ cho có một xu thì bà liền nổi nóng gây gỗ cùng chồng, lại do bà sát sinh thái quá, nên mới 40 tuổi thì đã bạo tử tại nhà.

Sau 49 ngày, bà đọa vào cõi quỷ, bây giờ chịu đói tới hai con mắt nổ lửa, khổ hết chỗ nói, chỉ biết cầu xin chúng tôi cứu bà.

Lúc này Quả Lâm vừa nhìn thấy bà, thì đã nhận ra do phạm tội gì rồi, thế là nó liền dạy bà niệm “Nam mô A Di Đà Phật!”. Chỉ niệm ba câu thì bà được đi đầu thai.

Do lúc sống làm người tham lam bỏn sẻn, nên dù được đầu thai vào nhân gian, bà phải sinh làm một người dân nghèo, cả đời sống túng thiếu. Nhưng có điều an ủi là bà sẽ gặp được Phật pháp tu hành và nhờ đây mà chuyển biến vận mệnh. Nếu như không nhờ đi theo chú em chồng, được Quả Lâm dạy niệm Phật và ngay đó thoát thân ngạ quỷ, thì bà phải chờ đến lúc thọ báo kiếp quỷ tận, mới được sinh vào nhân gian, làm kẻ bần cùng khốn khổ, phải đi xin ăn.

Sám văn:

Kẻ đem đồ ăn xấu tệ (ác thực) cho người, sẽ bị sinh làm heo lợn, bọ hung.

Giải thích:

Ác thực là thức ăn ôi thiu biến chất, những ai lấy đồ thúi, cũ… ngụy trang giả làm thức ăn ngon tốt đem cho hoặc bán, tiêu thụ thì tương lai sẽ bị làm heo, bọ hung, chịu quả báo ăn đồ thiu dơ, ôi thúi. Cuối cùng heo còn bị giết ăn thịt.

Bọ hung là loài chuyên vùi đầu ăn phân.

Ác thực là từ ngữ chỉ tất cả thực phẩm có hại cho sức khỏe con người.

Hiện nay đa số người tín ngưỡng kém, đạo đức suy đồi, chỉ biết có tiền, không quan tâm đến việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng, họ dùng đủ thứ phụ gia hay hóa chất có hại bỏ vào trong thực phẩm, thuốc men khiến vấn đề an toàn thực phẩm trở thành nguy hại nghiêm trọng, rất đáng lo.

Chúng ta cần nỗ lực tuyên truyền nhân quả trong xã hội, cảnh tỉnh và đánh thức lương tâm những người tỉnh bơ đem đồ ác cho người dùng, nếu họ cứ làm vậy, tương lai sẽ bị đọa và cõi xấu thọ khổ báo.

Sám văn:

Cướp đoạt của người, sau đọa làm dê, bị thế gian lột da ăn thịt.

Ưa trộm cướp tài vật của người, sau sinh làm trâu, bò, ngựa bị người sai khiến, hành hạ.

Giải thích:

Làm trâu ngựa chở nặng đi xa, hứng chịu đòn roi của người, đến già không còn làm được, thì bị giết ăn thịt, để trả nợ kiếp trước trộm cướp tài vật của người.

Sám văn:

Ưa nói dối, rêu rao điều xấu của người, sau đọa địa ngục, bị rót nước đồng sôi nóng đỏ vào miệng, bị kéo lưỡi ra cho trâu cày. Đền tội xong thì sinh làm chim cú, ai nghe tiếng nó kêu cũng ghét sợ, cho là yêu quái đem điềm gở tới, đa số đều nguyền rủa mong nó chết.

Giải thích:

Kẻ ác hạnh ưa nói dối, thêu dệt, bịa đặt, rêu rao điều xấu cho người, là tự tạo quả báo đọa địa ngục nặng nề, mãn kiếp địa ngục rồi thì chuyển sinh làm loài chim cú có âm thanh khó nghe, khiến người hoảng sợ chán ghét, họ xếp loại chim này mang điềm bất tường, nên hay nguyền rủa trù chết. Tội ác ngữgian dối, vu rao lỗi người, nếu là bịa đặt vu khống rao lỗi tứ chúng đệ tử Phật (chư Thiện tri thức, đại đức, cao tăng của Phật môn), thì tội này càng nặng, Phật xếp việc nói lỗi tứ chúng là tội nặng trong Bồ tát giới, tuyệt đối phải tránh không phạm.

Có nhiều đoạn trong “Lương Hoàng Bảo Sám” viết “Cù dục” (鴝鵒) là chim bát ca (八哥) là loài chim sáo, nhưng sáo là loài con người rất ưa nuôi, thông minh lanh lợi, giỏi bắt chước tiếng người, rất được yêu thích, nên văn viết cù dục là sai, không hợp. Tôi đã tra trong sách cổ, thấy ghi có loài chim tên cù các (tiếng kêu the thé chói tai). Vậy từ “các” này mới là đúng! Có thể khẳng định rằng chữ “cù các” bị viết thành “cù dục”. Do người cầm bút trong khi sao chép kinh đã viết sai nét nên mới biến chữ “các” (各鳥) thành chữ “dục” (谷鳥) gây ra nhầm lẫn, xin nhắc nhở mọi người lưu ý chỉnh lại cho đúng.

Sám văn:

Người ưa uống rượu say, sau đọa vào địa ngục phẩn trào. Tội hết rồi sinh vào loài đười ươi. Mãn nghiệp, được sinh làm người ngu si, không ai thu dùng.

Giải thích:

Người ưa uống rượu, cả ngày ở nơi bàn nhậu, nếu thích say sưa không bỏ được, thì đời này đa số chết vì rượu, chết rồi lập tức đọa vào ngục phẩn cuộn. Ở nhân gian cũng có những chỗ giống như vậy, là hầm phân của những vùng nông thôn chưa phát triển chứa đầy giòi, giòi cả ngày say sưa bầu bạn với phân giống như người uống rượu, cho rượu là thứ cực ngon, nhưng người không ưa rượu thì nghe hơi xông ra từ kẻ nhậu rất khó ngửi, tanh hôi. Nhất là uống rượu mà còn ói mửa, thì hôi thối không cùng. Do tham đắm vị rượu, bị quả báo chết rồi ăn phân, uống nước giải. Nhân như thế thì quả như thế, tự làm tự chịu. Ác báo này hết, thì đọa làm đười ươi, sau được sinh vào nhân gian, nhưng ngu muội vô trí, bị người khinh khi chán ghét.

Sám văn:

Kẻ tham lam bóc lột sức người, bị sinh làm voi.

Giải thích:

Hay sai khiến, lạm dụng sức người, trả lương ít cho công nhân hoặc mượn tiền mà không trả, chết rồi làm voi. Là loài chỉ ăn cỏ nhưng phải làm việc chuyên chở nặng và còn phải nhẫn nhục chịu đựng.

Sám văn:

Kẻ có địa vị giàu sang, làm người trên mà đánh đập kẻ dưới. Kẻ dưới không biết thưa kiện với ai. Những người giàu ác này, chết rồi vào địa ngục, chịu quả báo đau khổ cả ngàn vạn năm.

Từ địa ngục thoát ra, lại đọa làm trâu, bị xỏ mũi lôi thuyền kéo xe, hứng chịu đòn roi nặng nề khổ sở, để đền lại nợ oán trái xa xưa.

Giải thích:

Người giàu sang hay kẻ có quyền thế, làm chủ xí nghiệp hoặc tư gia, hay đánh mắng ngược đãi tôi tớ hoặc công nhân, thuộc hạ, mà người bị đánh do sợ quyền lực hoặc sợ bị mất việc mà không dám tố cáo. Hoặc do họ không tìm được ai bênh vực mình. Đối với những chủ nhân bắt nạt khinh người này, đến một ngày phúc báu hưởng tận thì họ sẽ đọa vào địa ngục, thọ khổ mấy ngàn vạn năm, mãn kiếp địa ngục thì sinh làm trâu, bị người xỏ mũi bắt lao động nặng, còn phải hứng chịu đòn roi đau đớn để trả nợ xưa.

Sám văn:

Làm người ăn ở dơ bẩn là từ trong loài heo mà ra.

Người xan tham keo kiết, không biết tự tính là từ trong loài chó mà ra.

Những người độc dữ, tự dụng một mình là từ trong loài dê mà ra.

Người có tánh hiếu động, nóng nảy, không giỏi nhẫn là từ trong loài khỉ, vượn mà ra.

Người có thân thể tanh hôi là từ trong loài cá, ba ba mà ra.

Người có tâm hiểm ác là từ trong loài rắn độc mà ra.

Người không có từ tâm, tàn nhẫn, bạo hại là từ trong loài hổ báo, sài lang mà ra.

Giải thích:

Tập khí tính tật mỗi người, đều có quan hệ với đời quá khứ. Xin kể câu chuyện như sau:

∗ Nam Cư Sĩ X

Nam cư sĩ X là pháp lữ của tôi, vốn là nhân vật có tiếng tăm gốc người Bắc Kinh, dung mạo kỳ lạ, đang độ tuổi trung niên. Ông tu hành tinh tấn, dốc lòng hoằng dương Phật pháp. Tướng người cao lớn, uy mãnh oai hùng, nhất là ngũ quan kỳ dị, ẩn hình bóng xà. Những lúc ông nổi giận, trông hung mãnh lắm, ai cũng sợ.

Tôi từng nghe ông kể qua, tiền kiếp mình là đệ tử của sư phụ, ngài giao ông giữ nhiệm vụ hộ pháp.

Hôm nọ tình cờ ông thổ lộ: Tiền kiếp ông tuy là một vị tu hành, nhưng kiếp trước đó nữa thì lại là mãng xà. Kiếp trước của mãng xà thì làm báo biển, ông còn nhớ rất rõ lúc làm báo biển đã từng giao đấu với gấu bắc cực ra sao.

Do kiếp vừa rồi ông là người tu hành, nên đời nay mới mấy tuổi đã biết rành nghi thức hành trì Mật tông và nhận ra rất nhiều pháp khí. Thậm chí còn am tường mọi cấm kỵ trong tông môn. Hiện tại, ông vẫn nhớ rõ chuyện ba kiếp trước của mình. Ở kiếp thứ hai ông làm mãng xà, nhờ nhân duyên đặc biệt may mắn nên sau khi xả báo thân mãng xà thì chuyển lên làm người, được quy y Tam bảo tu hành. Nhưng do ông sống quá lâu trong kiếp mãng xà nên đời này vẫn còn lưu nhiều tập khí mãng xà, chẳng hạn như từ nhỏ đến lớn đều rất ưa ăn trứng gà, hễ nhìn thấy gà là phấn chấn. Mỗi năm vào mùa đông, đôi tay ông vẫn còn bị lột da ba lần. Hiện nay nhờ tu hành nhiều năm nên nét hung tợn nơi ngũ quan ông đã giảm bớt. Đối với thế gian huynh X không có hứng thú với danh lợi, bất kể là thức ngon, mỹ sắc, ông không hề động tâm. Ông chỉ có tập khí rất ưa ăn thịt, nhưng từ khi phát tâm tu hành thì đã bắt đầu trường trai.

Qua đây đủ thấy, bất kể chúng ta từ đâu tới nhân gian, nhưng hôm nay được gặp Phật pháp, có thể hành trì bái sám, chứng tỏ đời quá khứ chúng ta từng là đệ tử Phật, nếu không thì đâu thể tiến vào đại môn để tham dự bái sám này.

Bạn xem, hiện tại tứ chúng đệ tử không phải là mỗi người đều có tập khí tật riêng hay sao? Nếu như ngay trong đời này có thể thệ nguyện nghiêm trì giới luật Phật chế, bỏ hết thói xấu, thì nhất định đạo nghiệp sẽ thành.

Còn nếu đến phút lâm chung, tật xấu của mình vẫn chưa sửa đổi, thì tánh tật đó sẽ thành nhân tệ ác, chết rồi ắt phải theo nhân mà thọ quả xấu. Từ vô thỉ đến nay, mỗi người chúng ta đã có vô số lần vào thai lừa bụng ngựa, từng xuống địa ngục, lên thiên đường, làm người vô số lần, học Phật cũng vô số lượt, nhưng chính do không chịu đoạn dục khử ái, không buông hết vọng tưởng chấp trước, bị vô minh che lấp, nên cứ trầm luân thọ khổ vô tận trong tam giới, quay đầu chẳng thấy bờ. Hiện nay chúng ta đã hiểu sâu lý này, nếu như không khéo buông bỏ, không ném hết những ân oán thế gian, thì biết đâu một khi vô thường đến, mình chết đi, đâu ai bảo đảm là ta có thể quay trở lại làm người.

Sám văn:

Sinh ra làm người bị nhiều bệnh, chết sớm, chịu bao thống khổ không thể kể xiết, như thế là do ba nghiệp ác gây ra, khiến ta mắc phải quả báo trong ba đường dữ.

Giải thích:

Kiếp người chúng ta nhiều bệnh, đoản thọ, thống khổ trùng trùng, đều là do ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo ra, làm người mà có khẩu ác, tâm ác, thân ác tất phải bị ác báo.

∗ Căn Bệnh Đáng Sợ

Hai năm trước tôi đến thành phố nọ ở Giang Tây, đã cùng Ngô cư sĩ ghé thăm nhà một bệnh nhân.

Đây là một ngôi biệt thự cực kỳ lộng lẫy sang trọng, nhưng ông chủ lại bị bệnh, đang ở trong nhà. Tôi thấy ông quỳ trên giường, hạ thể quấn tả, trông khoảng hơn 30 tuổi.

Sau khi Ngô cư sĩ giới thiệu tôi với chủ nhà xong, ông ta cười đau khổ, hỏi tôi có muốn kiểm tra hay khám bệnh gì cho ông chăng? Tôi nói không cần.

Lúc đó tôi có cảm giác ngũ tạng cùng tứ chi ông không bị bệnh nặng gì, tôi bèn hỏi:

– Ông mắc bệnh chi?

Vợ ông kể chồng bà trước đây bị mọc ung bướu nơi hậu môn, lúc đại tiện đau đớn vô cùng, đã đi bệnh viện cắt bỏ rồi, nhưng vết thương chẳng những không lành, mà ngược lại còn thối rữa lở loét, nên phải mổ tiếp lần hai, vì vậy hậu môn cũng mất đi công năng, khiến ông không thể nằm xuống, chỉ có thể quỳ mới thấy bớt đau. Bệnh này chẳng gây ảnh hưởng gì đến ăn uống, nhưng ông chẳng thể khống chế đại tiểu tiện, nó cứ tự động tuôn ra do vậy mà khổ hết chỗ nói. Bệnh viện Tây y bó tay vô phương chữa, nên hiện giờ ông đang trị theo Đông y, song chữa chạy đã nhiều ngày, mà không thấy hiệu quả.

Cư sĩ Quả Năng là bạn đạo đi cùng tôi, bỗng lên tiếng hỏi:

– Trong lúc bà đang kể, thì tôi thấy trước mắt mình hiện hình dạng một cái cân rất lớn, bàn cân hai bên liên tục trồi lên hạ xuống không ngừng. Còn thấy trên hai cái bàn cân này, mỗi bên có một tiệc rượu, vậy công việc của ông nhà liên quan đến những gì?

Bà vợ đáp:

– Dạ, ảnh làm thẩm phán, công tác tại Pháp đình.

Tôi bảo:

– Trong kịch bản phim truyền hình “Tể tướng họ Lưu” có lời thoại rằng:

“Giữa đất trời có cán cân”, đây là cán cân công lý rất bình đẳng đối với mọi người. Bất luận làm việc gì, dù đối với người ngoài hay là quyến thuộc, thì khi tham dự xử án nhất định phải công tâm, không được lừa trên dấu dưới, biến trắng thành đen, không được làm tổn người lợi mình.

Trong Phật giáo từng giảng: “Hạt gạo thí chủ nặng như núi tu di, ăn mà không tu phải mang lông đội sừng đền trả”. Mấy câu này, ai cũng phải luôn nhớ và hiểu rằng “Vô công bất thọ lộc”.

Nếu như đã nhận tiền của, quà lễ (hoặc ăn của người thật nhiều) mà chẳng làm gì cho họ, còn khiến họ mang cảm giác bị ức hiếp, dối lừa, tất nhiên lòng dấy lên căm hận. Nếu hành vi xấu này tái lập quá nhiều, ắt đương sự sẽ bị đại chúng căm hận nguyền rủa và mãnh lực đó sẽ biến thành sức mạnh cực lớn, tuy vô hình nhưng gây hại không nhỏ cho người cậy quyền thế “vô công thọ lộc”, và quả báo sẽ hiển hiện qua dạng báo ứng, nghĩa là bệnh hoạn đau khổ sẽ giáng xuống thân thể đương sự.

Vì vậy mà Phật giáo giảng: “Làm tổn hại ngÜời chính là làm tổn hại mình!”.

Mỗi người cần tha thiết sám hối tội nghiệp mình đã tạo. Nếu trước đây từng ăn nhiều thịt chúng sinh, thì phải nên phóng sinh thật nhiều, nếu như lỡ thu nạp nhiều tài vật mà bản thân mình không xứng đáng nhận nhưng không thể trả lui, thì hãy dốc hết vào việc ấn tống kinh, sách thiện và phóng sinh hoặc đóng góp vào quỹ phúc thiện lợi ích cho cộng đồng, làm vậy sẽ giúp tiêu nghiệp diệt tội.

Tốt hơn hết là, mỗi ngày bệnh nhân này nên tụng ít nhất một bộ Kinh Địa Tạng. Cần nghiên cứu hiểu rõ giáo lý Phật giảng mới có thể phát tâm sám hối chân chính.

Nếu ông nhà muốn lành bệnh, thì phải xem ông có phát tâm sám hối chí thành hay không? Người thân cũng có thể góp sức phụ tụng Kinh Địa Tạng để hỗ trợ ông sớm hồi phục. Nhưng phải lưu ý: Bắt buộc phải dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường mới có công đức và hiệu quả. Lúc giã từ, vợ ông hỏi:

– Thưa, ở đâu có Kinh Địa Tạng ạ?

Ngô cư sĩ nói ngày mai ông sẽ đem đến.

Quả Năng bổ sung thêm:

– Hiện tại cần niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát và niệm ra tiếng, nếu mệt thì có thể niệm thầm, sẽ giúp giảm bớt thống khổ.

Tôi dặn dò:

– Sau khi Kinh Địa Tạng mang tới rồi thì mỗi ngày chịu khó tụng, sức có thể tụng mấy bộ thì ráng tụng bấy nhiêu. Lúc rãnh thì niệm Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát, Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát đều tốt cả.

Hiện nay có rất nhiều người đang phạm lỗi làm tổn hại người lợi mình, rất ưa rút công bồi tư và hoàn toàn quên mất lời cổ huấn: làm nhiều việc bất nghĩa là tự hại mình thê thảm!”.

Câu chuyện này xin cảnh báo những ai đang làm việc liên quan đến pháp đình, phải hết sức cẩn thận và nên khắc ghi vào lòng câu: “Chấp pháp công minh, quyết không lợi dụng chức quyền để tham nhũng, hối lộ, ăn hiếp, trấn lột, đoạt lừa của người”.

Bạn thấy ác báo của ngài thẩm phán này chăng? Khi cái miệng ở trên vừa thu nạp cho vào toàn cao lương sơn hào hải vị, thì cái “miệng” ở dÜới do công năng bị hư, không thể kiềm chế, nên cứ tự nhiên phun bắn ra ngoài toàn những thế phẩn uế, huyết tanh. Cho dù người bệnh chưa chết, nhưng sống mà bị như thế cũng giống như đã nếm cảnh địa ngục rồi. Nếu muốn chuyển hóa ác báo này, đương sự bắt buộc phải thành tâm sám hối. Nguyện từ đây đoạn ác tu thiện, phải hết sức chân thành, thực lòng ăn năn tu sửa. Nếu làm được vậy thì không những giúp mình tiêu trừ ác bệnh, lìa khổ được vui, mà tương lai còn có thể dùng chuyện xảy ra cho bản thân mình để thuyết pháp làm gương, cảnh tỉnh người, rộng tạo công đức lớn.

Chớ gieo nhân xấu khổ không lường
Vinh hoa phú quý tựa khói sương
Đêm qua còn đủ ngàn thứ tốt 
Sáng nay thọ tội: Quỳ trên giường
Tham của, tâm tà hành sai luật
Biến thành phẩn uế rơi vãi vương
Nếu không hối lỗi siêng niệm Phật
Bệnh khổ hành quỳ đến ly trần!
Mạng sống vô thường, xin tinh tấn
Dứt ác tạo lành, phúc thọ khương!

Sám văn:

Bỗng trong nháy mắt, đến chốn Diêm vương, ngưu đầu, ngục tốt ở địa ngục không kể tôn ti, chỉ xét tội phước nặng nhẹ, kiểm thiện ác nhiều ít, lúc sinh tiền đã làm thế nào thì thần thức tự thú tội không dám che giấu. Do nhân gieo mà tùy nghiệp trả quả, đến chỗ khổ hay vui là do mình làm mình chịu.

Vả lại, các thiện thần ghi chép thiện ác của người không thiếu sót mảy may. Người thiện làm lành được phước thêm thọ, người ác làm dữ, giảm thọ thêm khổ. Cứ xoay vần như vậy, nếu bị đọa làm quỷ đói thì hết kiếp quỷ đói, lên làm súc sinh. Thống khổ khó kham, không bao giờ cùng.

Xin kể câu chuyện:

∗ Cánh Tay Đau Nhức

Có một anh nọ khoảng hai mươi mấy tuổi, vô duyên vô cớ cánh tay phải bị đau nhức nên tới tìm tôi.

“Tay anh vì sao đau như thế?”… Tôi vừa mới khởi niệm thắc mắc, lập tức đã nhận ra: Anh này có tật hay chôm chỉa, móc túi trộm đồ người.

Thế là tôi hỏi:

– Anh có lấy đồ người làm của mình (móc túi, chôm chỉa tài vật của người) chăng?

Mặt anh ta đỏ lên nhưng vẫn ráng đáp:

– Sao tôi có thể… làm như vậy chứ?

Tôi bảo:

– Nếu anh không nhớ được thì tôi đành chịu, vì không thể giúp anh.

Anh hỏi:

– Nếu như tôi có… phạm… lỗi này… thì phải làm sao? Tôi bảo:

– Hãy đem những tiền bạc anh trộm lấy của người, tính thêm cả lãi vào để bồi hoàn (bằng cách đem đến hiến tặng Viện dưỡng lão hay cô nhi), nhớ khi làm đừng lưu danh tính mình thì tay anh có hy vọng lành.

Sau đó quả nhiên tay phải anh được lành, anh đến cảm tạ tôi và thưa:

– Từ rày tôi nguyện không dám làm các việc xấu nữa.

Rồi anh hỏi tôi:

– Vì sao ngài biết tôi làm những việc xấu này vậy?

Tôi nói:

– Thì cũng giống như nhân gian, trên trời cũng có rất nhiều “thiên thần tuần cảnh” chuyên trông coi việc thiện ác của thế gian và ghi lại tỉ mỉ tất cả hành vi thiện ác của chúng sinh vào trong sổ nghiệp (họ lưu trữ cũng giống như máy tính sao lưu vậy). Cho nên lúc anh hỏi tôi nguyên nhân bệnh kia, thì tuần cảnh liền đem những việc xấu anh đã làm (được thu hình) chiếu ra hết cho tôi xem.

Anh chàng này hiện nay học Phật rất tinh tấn, bỏ hẳn thói xấu kia. Anh còn chí thành lễ bái trước hình ngài Tuyên Hóa vạn bái, giờ đã là tiểu sư đệ của tôi.

Năm 1990, tôi vừa mới học Phật, nghe nhiều người kể một nữ đồng nghiệp của tôi có phẩm hạnh buông thả, phóng túng tà dục, lại không biết kiểm điểm.

Lúc nghe vậy tôi chỉ khởi niệm: “Quả có chuyện này hay sao?”

Vừa thắc mắc như thế thì trong óc tôi lập tức hiện hình ảnh: Có sáu nam nhân đang quanh quẩn bên cô ta. Tôi không tin nên khởi niệm nghi ngờ.

– Có lẽ bọn họ chỉ là bạn tốt của nhau.

Vừa nghĩ vậy thì lập tức tôi thấy ngay cảnh bọn họ có hành vi phi lễ vượt quá giới hạn cho phép. Tôi liền khởi niệm: Mình không muốn xem những cảnh này!

Lập tức cảnh tượng ấy biến mất, còn có nhiều điều khiến tôi rất kinh ngạc, hoảng sợ, nhưng tôi không tiện kể rõ.

Lúc đó, trong tâm tôi không hề khởi chút ý coi khinh vị nữ đồng nghiệp này, ngược lại còn gấp rút phản tỉnh, tự kiểm xem mình có từng tạo lỗi lầm gì sai trái chăng.

Từ đó tôi thấm thía câu: “Muốn người đừng biết, thì mình đừng làm!”

Tôi cảm thấy giống như trên trời có một máy quay phim cực lớn, mỗi giây mỗi khắc đều ghi lại hết những gì tạo tác của mỗi cá nhân: Từng câu nói, ý nghĩ, hành vi ta làm ra. Tất cả những việc lỗi lầm, tệ xấu lúc ta mê muội tạo tác, thậm chí những việc mình khó thể mở miệng hé răng nói với ai, cứ tưởng không ai biết và tự cho mình thông minh, chẳng ngờ những việc làm xấu ấy cuối cùng thành ra tự hại mình!

Con gái tôi sau khi tham gia tu tập thiền tọa rồi, trí huệ nó khai mở vượt xa tôi. Tuy nó chẳng xem nhiều kinh điển, chỉ tùy duyên thuyết pháp gở rối cho người, song nó chỉ cần nói một câu là có thể chỉ ngay căn nguyên phiền não, giúp giải khổ mau lẹ cho chúng sinh, lời luôn khế hợp với giáo lý của Phật.

Tôi chẳng chút ganh tị, phỏng vấn nó:

– Con là con ta, chính ta hướng dẫn con đả tọa, tu hành, nhưng vì sao con lại giỏi hơn ta vậy hả?

Nó cười bảo:

– Ba à, bởi vì ba làm việc xấu nhiều hơn con mà!

Lúc đó tâm tôi bỗng thấp thỏm bất an. Quả thực tôi có sợ những gì mình đã tạo (khi nghĩ đến những điều đáng xấu hổ của mình) bị con gái thấy rõ mồn một.

Nói một cách phiến diện thì theo quy luật vũ trụ, chỉ có làm các điều lành mới giúp ta khai mở trí huệ vốn có trong tự tính.

Thực ra, vẫn có nhiều người có trí huệ cao hơn, vượt xa con gái tôi. Tính nội trong quốc gia này thôi, tôi đã gặp hơn trăm vị, ấy là chưa kể đến những vị ẩn cư tại núi cao rừng thẳm (những vị đã đoạn dục khử ái hay là bậc cao tăng xuất gia tu hành). Tôi dám khẳng định tuyên bố với chư đồng tu rằng: Hễ ai trì chí bền tâm nghiêm trì ngũ giới, tu thập thiện dài lâu, chịu khó thiền tịnh song tu, đối với những nghiệp đã tạo trong dĩ vãng sám hối triệt để thì trí huệ nhất định sẽ xuất hiện.

Hơn nữa, nếu sám hối càng triệt để, tha thiết, thì trí huệ xuất hiện càng sớm. Chỉ cần bạn chịu tu thực sự, tất sẽ được Phật lực gia trì, khai mở trí huệ có sẵn.

Trên thế giới này những người sở hữu trí huệ uyên thâm đã có nhiều như thế, thì nói chi đến các bậc đại trí như chư Phật, Bồ-tát? Phật Thích Ca nếu không có trí huệ quảng đại viên mãn, sao có thể nói ra chân tướng vũ trụ? Sao có thể giảng nhiều kinh điển như thế?

Tôi chẳng phải không tham (tài, sắc, danh, lợi), mà chính vì nhờ hiểu rõ Phật pháp rồi nên không còn dám tham nữa. Thậm chí ngay cả trong ý nghĩ cũng không dám có. Trong Kinh Lăng Nghiêm giảng: “Nhiếp tâm là giới, nhân giới sinh định, nhân định sinh huệ”thế thì nếu cứ để tam độc hừng thịnh, làm sao chúng ta có thể nhiếp tâm?

Cần phải hiểu và tin sâu nhân quả luôn có thật không dối, như vậy chúng ta mới có thể đạt đến nhiếp tâm giữ giới. Trong “Báo ứng hiện đời” tôi có viết rằng: “Những người đến cầu Hòa thượng Diệu Pháp chỉ giáo, thảy đều là thầy tôi, vì nhờ họ mà tôi biết rõ báo ứng nhân quả chân thật không dối”. Sau khi bọn họ lành bệnh rồi, lại dùng tiền tài để cảm tạ tôi, không phải tôi không cần, mà là không thể tham, cũng chẳng dám cầu. Bởi vì hiện tại giáo pháp nói ra truyền lợi ích cho người, ân này vốn thuộc về Phật Thích Ca, nếu muốn tạ thì phải tạ ân Ngài. Chúng ta chẳng thấy được sắc thân Phật, cần nên cúng dường Tam bảo tạ ân Ngài mới đúng. Huống nữa bản thân tôi cũng nhờ Phật lực gia trì nên mới có thể cải tà quy chính. Đã có chư thiên thần ghi thiện ác của từng cá nhân kỹ đến mảy lông cũng không thể lọt đó là chưa kể bạn và tôi ngay hiện tại mỗi một niệm khởi, mỗi một hành vi, chư Phật, Bồ-tát đều biết hết, thấy hết. Vì vậy, bạn hãy mau mau buông bỏ tất cả ân oán thế gian, thực nhiện nhiếp tâm là giới, cùng tu chánh đạo xuất thế.

Nếu chẳng lo tu, bỗng chốc vô thường tới, thân xuống chỗ Diêm la, lúc này mới nhận ra tội của mình thì e quá muộn.

Chúng ta còn phải cảm tạ chính phủ đã cho phép Phật pháp được lưu truyền, nhờ họ mà chúng ta được đọc, xem kinh Phật như hiện nay. Vì vậy mà mỗi người Phật tử chúng ta, trước tiên cần phải làm một công dân tốt, tuân thủ quốc pháp, vì lợi ích dân tộc quốc gia mà phụng hiến báo ân đất nước.

Sám văn:

Ngày nay mỗi người nên tự giác ngộ sinh tâm hổ thẹn.

Đã hiểu làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ thì không nên làm ác; đã biết làm lành chẳng mất quả lành, làm ác tự rước lấy tai họa thì chớ nên khinh thường sám pháp này.

Chớ khinh thường điều thiện nhỏ, cho là không phước, giọt nước tuy nhỏ, chảy lâu cũng đầy bát to. Không tích thiện nhỏ đâu thể thành Thánh hiền. Chớ cho ác nhỏ là không tội, bởi ác nhỏ nếu tích chứa lâu ngày cũng đủ chiêu họa diệt thân.

Giải thích:

Mỗi chúng ta cần phải tự mình giác ngộ, khởi tâm hổ thẹn ăn năn sám hối, quả báo thiện ác không sai mảy may. Lành dữ họa phúc đều do tâm ta chiêu cảm nên. Mặc dù mắt phàm của ta không thể nhìn thấu quá trình diễn tiến từ nhân đến quả, nhưng đây là điều hoàn toàn có thực.

∗ Lý Do Tuyệt Tự

Hai năm trước tôi đi Quảng Đông, gặp một anh hơn ba mươi tuổi, kết hôn đã được hai năm, do bị chứng chết tinh và viêm tuyến tiền liệt mà vợ không thể mang thai nên hướng tôi cầu giúp đỡ. Tôi bảo:

– Anh sở dĩ mắc chứng bệnh này, trị đã lâu mà không khỏi, nguyên nhân là do trước khi kết hôn anh thường lăng nhăng, có lắm mối quan hệ yêu đương bừa bãi bất chính, từng xâm hại, phá hủy nhiều trinh tiết phụ nữ. Nếu như không chân thành sám hối, nguyện vì những cô gái bị anh hại đó tụng Kinh Địa Tạng hồi hướng, bày tỏ lòng ăn năn, hối lỗi thì nội oán hận của bọn họ dành cho anh thôi, cũng đủ để khiến anh ngay trong đời này phải đoạn tử tuyệt tôn! Nếu như anh có thể phát nguyện từ đây nghiêm trì ngũ giới, thệ dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường, hằng ngày kiên trì vào mỗi buổi sáng hoặc tối quỳ trước Phật tụng một bộ Kinh Địa Tạng hồi hướng cho những cô gái bị anh phá hại đời, thì dần dần bệnh sẽ khỏi.

Còn nữa, những lúc rảnh thì nên niệm thầm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát”, tất sẽ sinh đÜợc con hiếu thuận khỏe mạnh, dễ nuôi. Anh muốn cải tà quy chánh thì phải phát thệ như tôi bày, trừ việc tụng kinh ra còn phải mỗi ngày lễ Phật một trăm lạy.

Năm nay tôi lại đi Quảng Đông, vợ chồng họ ẳm một bé trai một tuổi đến gặp tôi, thằng bé mi dài mắt to, tướng hảo phương phi, trông thật bụ bẫm, khiến họ vui mừng khôn xiết.

Nguyện cho nam nữ thanh niên trong thiên hạ, có thể nghiêm trì ngũ giới, thường tụng Kinh Địa Tạng, được vậy thì tương lai nhất định bản thân họ sẽ có một gia đình hạnh phúc mỹ mãn. Vì trồng thiện nhân ắt được thiện quả, tạo ác tất phải chiêu họa ương. Họa phúc, lành dữ, thảy đều do tâm tạo.

Kinh Địa Tạng chính xác là một bộ kinh vi diệu không thể nghĩ lường, trong kinh giảng về quả báo tu thiện làm ác của người đời này lẫn đời sau, mô tả cảnh địa ngục đáng sợ, đủ khiến chúng sinh nghe xong kinh hoàng, hồi đầu dứt ác hành thiện. Nếu có thể từ đó thệ giữ ngũ giới, lễ Phật tụng kinh tu hành tinh tấn, sẽ càng thu được lợi ích lớn.

Trong kinh nói: “Lại vầy nữa, này Phổ Quảng! Trong mỗi tháng những ngày: mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi, mười ngày trên đây là ngày mà các nghiệp tội kết nhóm lại để định là nặng hay nhẹ.

Tất cả những cử chỉ động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Đề không có điều gì chẳng phải là tội lỗi, huống nữa là những kẻ buông lung giết hại, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ trăm điều tội lỗi.

Về đời sau, nếu có chúng sanh nào trong mười ngày trai kể trên đây, mà có thể đối trước hình tượng của chư Phật, Bồ Tát, Hiền, Thánh để đọc tụng Kinh, này một biến, thời chung quanh chỗ người đó ở bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc trong khoảng một trăm do tuần không có xảy ra những việc tai nạn.

Còn chính nhà của người đó ở, tất cả mọi người hoặc già, hoặc trẻ về hiện tại và vị lai đến trăm nghìn năm xa khỏi hẳn các ác đạo.

Trong mười ngày trai trên đây nếu có thể mỗi ngày tụng một biến Kinh này, thời trong đời hiện tại hay làm cho người trong nhà không mắc phải bịnh tật bất ngờ, đồ ăn mặc dư dật.”

Tụng Kinh Địa Tạng có nhiều lợi ích, nhiều điều hay như thế, những vị mới biết đến Phật pháp, nếu không ngại xin mời tụng thử hơn một tháng xem? Nếu vị nào do bận rộn công tác, không thể y theo ngày tháng liệt kê trên mà tụng kinh, thì cũng có thể tụng bất kỳ thời gian nào. Cần nhớ kỹ tuyệt đối không nên sát sinh giết vật để ăn, phải bỏ mặn ăn chay, cũng không nên ăn ngũ tân, làm được vậy thì quý vị sẽ thấy ngay trên thân mình sẽ phát sinh việc tốt lành bất tư nghị.

Người đời đa số đều nghĩ sai lầm, cứ cho rằng chết là hết, cảnh giới sau khi chết cũng như thuyết lục đạo luân hồi của nhà Phật giảng là hoàn toàn không có thực, nhưng hiện nay không ít học giả chuyên môn nghiên cứu kinh nghiệm lúc cận tử đã viết bài đăng lên báo, làm thay đổi quan niệm này.

Ngày 5/9/2006, Thời báo Sinh Mệnh đã đăng bài nghiên cứu của Giáo sư Phùng Chí Dĩnh – tiền Viện trưởng Bệnh viện An Định ở Thiên Tân là chuyên gia nghiên cứu đã viết bài “Kinh nghiệm sắp chết” của một trăm vị sống sót trong trận động đất ở Đường Sơn, trong số nạn nhân này có nữ sĩ họ Địch tâm sự như sau: Ý thức tôi hầu như dần dần lìa khỏi thân, bởi tôi đã có thể nhìn thấy mình, tôi bắt đầu nhớ lại các việc trước đây. Từ bé thơ rồi đi học, trưởng thành, yêu đương, những chuyện bình thường không hề lưu tâm nhưng bỗng dưng đều nhớ rõ hết.

Tình cảnh này chứng minh trong Kinh Lăng Nghiêm miêu tả: “Lúc lâm chung chưa xả hơi ấm, thiện ác cả đời ngay đó đều hiện ra”.

Tôi trước đây từng đọc nhiều bài viết trong nước lẫn ngoài nước hoặc xem các VCD về vong linh của nước Mỹ, tường thuật những liên quan sau khi chết. Nội dung chứng tỏ lục đạo luân hồi là có thực, có tồn tại giống như trong

Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Địa Tạng Phật đã giảng. Chỉ là do người không đồng quốc gia tường thuật mà thôi. Đây cũng chứng minh lời Phật Thích Ca nói là chân ngữ, thật ngữ. Trí huệ Phật thấu suốt tất cả, chúng ta không thể không tin.

Sám văn:

Chúng con vô phước sinh vào đời mạt pháp, nếu không siêng năng học tập tu hành, không dốc sức làm lành, thì đến phút cuối, có ăn năn cũng muộn. Bây giờ đã biết rõ mọi tội lỗi trong kinh Phật dạy, đã nhận ra tội mình thì lẽ nào không bỏ ác hành thiện? Vì đời này nếu không xả thân cầu đạo e rằng phải đọa địa ngục. Bởi trong lúc tạo tội, thường ôm lòng độc ác, nóng nảy, giận hờn mãnh liệt. Giống như giận người nào thì muốn người ấy chết. Ghét một người nào, thì không ưa thấy điều tốt của họ. Muốn hủy hoại ai, thì quyết dồn họ vào thống khổ. Muốn đánh người nào, thì quyết cho người ấy đau thấu trời đất.

Khi nổi sân hung bạo thì vô lễ chẳng kể tôn ti thượng hạ, thốt toàn ác ngữ thô ngôn, mắng nhiếc đủ điều; thậm chí la hét chửi vang như sấm dậy, mặt mày tóe lửa.

Giải thích:

Chúng ta hiện đang khỏe mạnh nên dốc lòng học Phật tu hành, đừng ỷ y phút lâm chung sẽ có con cái siêu độ giùm cho. Dù con cái chí hiếu hết lòng tổ chức lễ tụng kinh siêu độ, nhưng nên nhớ kỹ công đức có bảy phần, bản thân người được hồi hướng chỉ hưởng một phần. Vì vậy, phải lợi dụng cơ hội mình đang còn khỏe mạnh, mà nỗ lực tự tu, lo tụng kinh, sám hối, dùng tiền của chính bản thân bỏ ra phóng sinh, in kinh, sách thiện tạo công đức v.v… như vậy thu hoạch sẽ trọn vẹn, chắc chắn hơn.

Lời trong kinh nói chân thực bất hư, cho nên nhất định ngay đời này chúng ta phải phát đại Bồ đề tâm, tu thoát tam giới, nếu không chắc chắn sẽ đọa địa ngục. Bởi vì những lúc ta tạo ác nghiệp, thường khởi tâm ác độc như sói lang. Nếu hận người nào, thì muốn họ chết ngay. Nếu tật đố ai, thì không thấy điểm tốt nào của họ. Nếu muốn hủy một người nào, nhất định làm cho họ khổ mới nguôi hận. Khi đánh ai, là muốn họ đau thấu trời đất. Lúc phẫn nộ, hai mắt phóng ánh nhìn tóe lửa. Bất kể thân phận địa vị, tất cả lời ác độc đều phun hết ra, mù quáng tạo đủ thứ tội lỗi.

Sám văn:

Khi làm phước thì thiện tâm yếu ớt. Tuy lúc đầu muốn làm nhiều, sau lần lần giảm ít đi. Tâm đã không quyết chí, luống để ngày tháng trôi qua, do dự mãi cho đến khi không còn nhớ đến hành thiện.

Đủ biết lúc làm tội, tâm rất mãnh liệt; còn lúc làm phước thì ý chí bạc nhược yếu hèn. Nếu đem cái nhân làm phước yếu hèn ấy mà cầu thoát quả báo tạo ác dữ dội kia, thì làm sao được?

Giải thích:

Có lúc chúng ta khởi niệm muốn làm chút việc tốt, nhưng do niệm thiện mỏng manh nên ý lành này nhanh chóng tiêu tan. Thí như muốn cứu giúp nạn khổ, lúc vừa nghe thì tâm muốn đóng góp, song đến lúc cầm tài vật trong tay đem cho, thì lại khởi tâm tiếc, nên cho không được bao nhiêu.

Mới đầu phát nguyện hùng hổ vậy, nhưng chỉ là đầu voi đuôi chuột, lúc nói thì mạnh như sấm nổ rền vang nhưng lúc làm thì như nước nhỏ giọt, cứ do dự trù trừ mãi. Rồi theo thời gian bèn đổi ý, quên luôn.

Hôm nay chúng ta muốn dùng chút nhân toan làm thiện tí tẹo đó để cầu quả báo thoát ly ba cõi ác hoặc sinh về thế giới Cực Lạc, thì làm sao nguyện có thể thành?

Nếu như có cơ hội làm việc lành, thì nhất định phải hết sức trân quý, vì đấy chính là trồng phúc điền cho mình.

∗ Phương Thuốc Giải Độc

Tại An Huy có một ngƯời tên là Tưởng Tử Viên, có phương thuốc bí truyền giải độc thạch tín rất hay và cực kỳ hiệu quả. Nhưng ai đến cầu trị, y đều đòi giá rất cao. Nếu như không đáp ứng đủ cho y, thì y cứ ngồi nhìn, để mặc người bệnh trúng độc chết, chẳng chút động lòng.

Một hôm y sang huyện kế bên hành nghề, nửa đêm bỗng dưng chết đi. Y báo mộng cho người chủ phòng trọ nói:

– Tôi do tham tiền, hành động sai lầm, để mặc chín mạng người chết. Bọn họ chết rồi dâng cáo trạng kiện, nên Âm ty phán tôi chín đời đều bị uống nhầm Thạch tín mà chết. Giờ tôi xin đem bí phương giải độc Thạch tín này mà nói cho ông biết, nếu như ông có thể dùng phương thuốc đó cứu một người, thì tôi giảm được một đời thọ báo ác.

Cuối cùng y nói:

– Giờ tôi hối hận thì đã quá muộn!

Câu chuyện này trích từ “Nhân Quả Tuyển Tập” do Uông Đạo Đỉnh đời Thanh viết. Trong bài ghi bí phương chỉ có một vị thuốc là: Phòng phong (防風) một lạng, đem nghiền nát thành bộ, dùng nước hòa uống. Ngoài ra trong “Dị Đàm Khả Tín Lục” có ghi: Dùng nước lạnh hòa Thạch cao cũng có thể giải độc Thạch tín.

Sám văn:

Kinh dạy rằng: “Sám hối thì không tội nào mà không diệt”.

Nhưng đến lúc sám hối, quyết phải đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát đất như núi Thái sụp đổ, thậm chí không tiếc thân mạng. Vì muốn diệt tội mà ân cần, khuyên nhau tự kiểm điểm xem mình từ khi sinh ra đến nay đã gây ra bao nhiêu tội lỗi? Phải biết tự trách, ân hận không tiếc thân mạng, có kham được khổ nhọc mà chân thành sám hối như thế mới thu quả tốt.

Trong kinh có dạy:

“Chưa từng thấy có chút thiện nào từ giãi đãi lười biếng mà sinh; chưa thấy có chút phước nào từ kiêu mạn, buông thả mà được”.

Giải thích:

Trong kinh giảng: Chân thành sám hối không tội nào mà không tiêu. Thế nhưng gọi là sám hối, tức phải biết nhận tội kiểm lỗi, thống trách mình quá khứ không hiểu Phật pháp, nên tạo nhiều tội. Nhân đó năm vóc gieo sát đất, là biểu hiện thành tâm sám lỗi, giống như địa chấn núi sụp vậy. Thậm chí cảm thấy mình hiện tại đáng phải đọa địa ngục, hoặc có chết nhiều lần cũng không giải hết nỗi ân hận trong lòng. Nội việc chỉ nghĩ đến tội trong một đời này ta đã giết ăn biết bao chúng sinh, cũng đủ đáng chết trăm ngàn lần rồi, huống nữa là các tội khác.

Bởi vậy khi sám hối, tụng kinh, niệm Phật tất cả công đức đều phải hồi hướng cho chúng sinh. Nếu chỉ vì cầu khỏe mạnh, cầu phúc cho mình mà tụng kinh bái sám, thì là tâm ích kỷ, không thể làm tiêu tan tâm oán hận của những chúng sinh bị mình giết hại.

Vì vậy chư vị đồng tu, các gia đình Phật hóa, cần nên đốc thúc khuyến khích nhau, giúp nhau nhớ lại những tội thập ác mà mình đã tạo mà sám hối, còn phải đặt mình vào vị trí kẻ bị hại để thấu hiêu cảm thông rằng: Những lúc ta giết vật đó, chúng đau đớn kinh hoàng biết dường nào, mới thấy ta độc ác và ti tiện biết bao nhiêu!

Khi đó bạn sẽ sinh tâm đồng thể đại bi, khởi tình thương xót chúng sinh, sinh lòng ăn năn tự trách, mới có thể cam chịu khổ nhọc mà chịu đến đạo tràng bái sám.

Nếu như không thể phát tâm đồng thể đại bi thì khi niệm Phật, nhiễu Phật chưa được mấy vòng, tâm sẽ sinh mỏi mệt, chán nản, hoặc lạy chưa bao nhiêu đã thấy sức không kham nổi.

Lại có người ngồi thiền tĩnh tâm chưa được bao lâu, đã thấy chân đau, lưng nhức, muốn đi nằm nghỉ. Vừa duỗi chân nằm là ngủ say như chết, ném hết việc lễ Phật tu hành lên tận chín tầng mây.

Từ xưa đến nay, chưa từng thấy ai biếng nhác mà thành đại sự, nói chi tới thành đạo? Cũng không có ai thành tựu việc lớn, mà sinh tự mãn, phóng túng tự kiêu.

Sám văn:

Đệ tử hôm nay tuy được thân người, nhưng tâm hằng trái đạo, vì từ sáng đến trưa, chiều, tối từng giờ từng phút, từng niệm, từng giây không hề nhớ Tam bảo, nhớ pháp tu. Nay thử kiểm lại thì thấy không có công phu nào đáng nói.

Chỉ có phiền não trọng chướng mịt mù, nếu không kiểm điểm thì cứ tưởng lầm, tự cho là mình có nhiều công đức.

Giải thích:

Xin kể câu chuyện nhỏ:

∗ Tổn Người Lại Hại Mình

Ngày nọ Khổng sư đệ pháp danh Quả Mạnh đến nhà tôi, kể rằng mấy hôm trước vợ chồng người chị gái đến nhà thăm ông.

Chị ông vừa vào nhà thì liền đến bên giường chơi đùa với đứa con gái mới sinh tám tháng của ông, con bé tỏ vẻ vui thích, bật cười sáng khoái. Nhưng lúc chị khom xuống, bé nhìn thấy anh rể Quả Mạnh (là chồng chị đang đứng phía sau) thì lộ vẻ kinh hãi khóc to. Mẹ bé (vợ Quả Mạnh) vội ôm con lên, thì bé im bặt, nhưng mắt vẫn mở to nhìn trừng trừng vào khoảng không phía sau anh rể họ. Mẹ cháu vội xoa lưng, vỗ về con để trấn an. Nhưng một tiếng sau thì bé phát sốt cao.

Quả Mạnh lại kể, anh rể ông nửa tháng trước đang chỉ đạo xây một tòa kiến trúc, thì vô ý bị té ngã suýt chút nữa là đầu bị đập vào đống gỗ tạp, xem như anh may mắn thoát hiểm trong gang tấc.

Thực ra ngay lúc Quả Mạnh kể thì tôi liền quan sát và hiểu ngay nguyên nhân khiến cháu bé khóc. Đó là do cháu nhìn thấy một cái đầu lâu và rất nhiều vong quỷ đang bu quanh người anh rể này, chúng vừa chỉ trỏ vào ông vừa căm hận trách: “Đồ ác nhân xảo biện hại người!” Quả Mạnh nói:

– Anh rể ông là cán bộ cao cấp tại một bệnh viện lớn nọ, ông chuyên xử lý việc tranh chấp. Hễ xảy ra sự cố có người chết oan, thì ông sẽ đứng ra tranh cãi giúp cho y viện, dốc sức giúp y viện thoát tội, không bị bồi thường hoặc trả phí thật ít cho người chết. Tôi nói:

– Bệnh nhân tuy không do anh rể ông hại chết, nhưng anh ta xử lý không công bình, toàn lợi dụng tài ăn nói của mình để biện hộ giành phần thắng về cho y viện, khiến người chết bị thiệt thòi, chịu hàm oan, thân quyến họ cũng không được bồi thường xứng đáng! Do vậy mà những vong này ôm thù nhất quyết tìm ông rửa hận.

Tôi thúc Quả Mạnh hãy mau mau đi khuyên anh rể: Đừng làm những việc mê muội thất đức, trái lương tâm như vậy nữa, vì khi ác báo ập tới thì xem như hết cứu.

– Hãy bảo chị và anh rể ông phải mau học Phật ăn chay, nên vì những oan quỷ đó tụng Kinh Địa Tạng, cầu siêu và hướng họ sám hối. Hằng ngày còn phải vì mỗi vị tụng một bộ kinh, ít nhất cũng phải tụng cho đến khi oan quỷ báo mộng, phát tín hiệu tốt.

Tôi nhắc lại:

– Về bảo với anh rể ông là bắt buộc phải hành đúng như tôi chỉ bày, ắt sẽ giúp anh ta kéo dài thọ mệnh và tương lai có chuyển biến tốt.

Anh rể Quả Mạnh vốn được mọi người công nhận là hiếu tử. Nếu như anh bị té và chết bất ngờ, thì mọi người chắc chắn sẽ buông lời oán trách: “Trời già bất công, người hiền không được trường thọ”.

Rõ ràng là do chẳng am tường nhân quả và không biết Phật pháp nên anh đã hành sự điên đảo, vậy có khổ hay không?

Sám văn:

Nếu làm được chút việc thiện gì liền nói: Ta làm, ta biết thực hành, người khác thì không! Tâm sinh cao ngạo, xem “mục hạ vô nhân”, thấy quanh mình không có ai đáng để mắt tới. Tự xét ngẫm nghĩ thật đáng xấu hổ.

Giải thích:

Nếu chân thành nghĩ đến những tội mình đã tạo ra như sám văn đã nói, thực lòng ăn năn, chân thành hổ thẹn, mới gọi là sám; chứ không phải chỉ đọc văn sám suông. Nếu cứ đọc suông cho đủ số thì xem như sám mà không phải sám, chẳng thể phát huy tác dụng diệt tội.

Đã sám tội quá khứ của mình, còn phải nhìn thấy ánh sáng quang minh nơi tâm, hoan hỷ bố thí cho chúng sinh. Nguyện chúng sinh đều có thể bỏ tối về sáng, thân cận Tam bảo. Tự thanh tịnh bản tâm, tự tăng lợi ích. Nhân quả báo ứng không sai mảy may. Các tội lớn lỗi nhỏ thảy đều có báo ứng, không thể che giấu lừa dối, vì vậy bắt buộc phải sám hối trừ sạch.

Sám văn:

Đại chúng chớ nói: “Tôi không có tội gì, mà đã không tội, thì đâu cần sám hối?” Nếu có ý này, xin hãy từ bỏ ngay. Bởi vì chính những lầm lỗi sơ sót nhỏ nếu gộp lại, sẽ thành tội lớn.

Một khi phẫn hận, sân si khởi lên, huân lâu thành thói quen khó sửa.

Chẳng nên buông thả tâm ý, để niệm chạy cuồng mà không điều phục. Nếu khéo nhẫn nhịn điều phục tâm, thì phiền não có thể trừ. Nếu cứ giãi đãi lười biếng buông lung thì chẳng cứu được.

Giải thích:

Bất kỳ ai cũng không nên nói “Tôi chẳng có tội, đâu cần sám hối”. Cho dù là người ưu tú nhất thế gian, thậm chí là người không làm ác, chuyên tâm làm lành trong đời này, cũng không bảo đảm là đời trước hoặc nhiều kiếp nữa mình chưa từng tạo vô số nghiệp ác (sát, đạo, dâm, vọng)… Không ai có thể nói: “Tôi không có tội đâu cần sám hối!”.

Ngày thường không để ý lưu tâm, là bất chợt sẽ phát ngôn bừa, tạo thành lỗi, nếu không kịp tỉnh, sửa lỗi ngay, thì đã cấu thành tội ác khẩu!

Lần đầu tham chút lợi nhỏ, lấy của người mà chẳng nhận ra đó là lỗi, do thường tham lợi nhỏ, tật này “tích tiểu thành đa” lâu ngày tội nhỏ hóa lớn, biến thành kẻ đại ác!

∗ Ni Diệu Hân

Năm 2004, tôi và cư sĩ Quả Năng đi đến Am Pháp Hoa. Lúc tôi đang giảng trên đại điện, bỗng thấy một nữ cư sĩ dìu một Sư ni khoảng 40 tuổi tiến vào đại điện. Vị Sư này chân trái không nhắc lên để bước qua bậc của được, nên cô Phật tử phải dùng hai tay phụ nhấc chân Ni lên đưa giúp vào đại điện.

Ngay khi đó, tôi bỗng nhìn thấy rõ ràng có vong một con rắn to đang quấn chặt quanh chân trái Sư ni này.

Đợi đến lúc Sư hỏi nguyên nhân căn bệnh của mình, tôi liền chất vấn:

– Trước khi xuất gia bà có giết qua nhiều rắn hay không? Trong số đó có một con rắn to, tôi dùng hai tay miêu tả độ dài ngắn của con rắn.

Bà lập tức nói:

– Trước khi xuất gia tôi làm công tại tiệm ăn, từng giết rất nhiều loài vật, trong số đó có một con rắn to. Sau khi xuất gia rồi tôi cũng đã sám hối trước Phật.

Tôi giải thích:

– Con rắn này là xà vương, đời quá khứ nó cũng từng xuất gia tu hành, do tâm sân nặng mà bị đọa làm vua rắn. Xin bà hãy vì nó tụng bảy bộ Kinh Địa Tạng để siêu độ, cầu cho nó sinh làm người trở lại xuất gia tu đạo và tôi mong tất cả chúng ta hãy cùng giúp đỡ nó.

Rồi tôi dặn dò:

– 9 giờ tối nay, khi bà tĩnh tọa, hãy vì xà vương niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát” khoảng nửa tiếng là được rồi, tôi và Quả Năng cũng sẽ phụ giúp bà siêu độ xà vương cho thành công. Bảy bộ Kinh Địa Tạng này bắt buộc bà phải tụng xong trong ba ngày, tùng càng nhiều càng tốt!

Tối đến khi tĩnh tọa, tôi giảng “yếu nghĩa tâm kinh” cho vong linh xà vương nghe và khuyên nó nên buông bỏ tâm sân hận, vì làm vậy chính là tạo công đức, tức khắc sẽ được đầu sinh nhân gian trở lại tu hành.

Xà vương vâng lời, thế là nó liền đi đầu thai. Sinh vào một nhà phú quý, là một bé trai. Tôi quán sát thấy đến năm 17 tuổi thì nó sẽ đến Thiên Đài xuất gia làm Tăng.

Hôm sau, lúc tôi và Quả Năng dùng cơm sáng, vị Sư ni đến cảm tạ và nói cái chân đau đã lành rồi.

Tôi nhắc bà phải tụng cho xong bảy bộ Kinh Địa Tạng để gia tăng thêm phúc báu cho bé trai kia ở nhân gian.

Hôm ấy giảng pháp sáng xong, tôi nghĩ dùng cơm trưa xong thì giảng tiếp đến bốn giờ rưỡi chiều, rồi đợi cư sĩ Ninh Ba lái xe đến đón về.

Nhưng khoảng bốn giờ chiều, thì vị Sư ni kia đột nhiên đứng dậy, chạy tới trước tôi la lớn:

– Ngài Quả Khanh! Xin hãy cứu tôi!

Rồi bà đứng tại đại điện vung vẫy tay áo tràng, quơ tay múa chân.

Lúc đó các cư sĩ trong điện đều rời chỗ ngồi đứng dậy vây quanh. Tôi thỉnh mọi người hãy vì Sư niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát”. Riêng tôi vẫn đứng giữa điện vừa trì Chú Đại Bi vừa quan sát để tìm xem là linh thức nào đang gá vào thân bà?

Một phút, hai phút, ba phút trôi qua… tôi vẫn chưa nhìn ra là vong linh nào đang đến đòi nợ vị Ni kia, đành phải cầu Bồ-tát Quan Thế Âm gia hộ. Đột nhiên vị Ni đang quơ tay múa chân kia bỗng té nhào xuống nằm sóng xoài trên đất chân trái duỗi ra, chân phải cong lại. Trong chớp mắt tôi nhận ra hình dạng này giống y như hình hài một cô gái bị té lầu chết. Lúc đó tôi rất bàng hoàng, lòng thực sự lo âu vì tình huống phát sinh bất ngờ này, những niệm ưu tư này trong chớp mắt đã tan biến, bởi tôi tin chắc rằng Phật, Bồ-tát tuyệt không hề ngồi nhìn mà bất quản! Nhất định các Ngài sẽ từ bi gia hộ.

Khi đó mọi người niệm Phật vang rền đại điện, Chú Đại Bi lại về trong tâm tôi. Tôi tin chắc vị Sư này không thể chết đi, cho dù sắc diện bà đã chuyển sang sắc tối đen cực kỳ u ám. Trong suốt mười phút, vị Sư không hề động đậy, tôi cảm thấy đại chúng cũng đang lo âu cho sự sống chết của bà. Nhưng do tôi cứ đứng yên chắp tay trong đại điện, nên mọi người cũng an lòng, bình tĩnh niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát.

Đột nhiên, vị Ni kia lồm cồm đứng dậy, hai tay chắp lại đi về phía tôi, miệng lớn tiếng rên rỉ:

– Ngài Quả Khanh, xin hãy cứu tôi!

Tôi thầm cảm tạ Phật lực gia trì, khẽ hỏi:

– Ngươi là ai?

Vong linh đáp:

– Tôi là một cô gái hai mươi hai tuổi, nguyên là có hai nam nhân muốn cưới tôi. Nhưng hắn (chỉ tiền thân vị Ni này kiếp trước là nam) vì muốn chiếm đoạt tôi, nên đã lừa tôi lên lầu, dở trò xâm hại vô lễ, nhưng tôi kiên quyết không thuận theo, vì không được thỏa mãn thú tính nên hắn đã xô tôi té lầu mà chết. Lúc đó oan hồn tôi một mực đeo theo hắn, rất muốn báo thù, giết hắn chết, nhưng do hắn còn phúc báu quá lớn, nên tôi không thể tiếp cận làm hại được. Mãi đến sau này, khi hắn chết đi rồi thì đầu thai làm nữ nhân, song tôi vẫn chưa thể tiếp cận báo thù được.

Rồi đến khi hắn vào làm ở tiệm ăn, tạo đại sát nghiệp, tự tàn phá phúc báu của mình khiến phúc thọ bị giảm thì xem như tôi đã có cơ hội báo thù rửa hận! Nhưng đột nhiên hắn lại xuất gia! Vì vậy mà ngay trong đời này của hắn, tôi vẫn chưa báo được cừu thù.

Suốt hai ngày nay, tôi đã được nghe ngài thuyết pháp, nên cũng minh bạch lý nhân quả. Tôi thầm nghĩ: “Đời trước hắn hại tôi chết, ắt là có nguyên nhân khuất tất trước đó nữa. Biết đâu, tôi cũng đã từng hại chết hắn? Nếu như bây giờ tôi báo thù, thì oan oan tương báo sẽ tiếp nối tái diễn không bao giờ dứt, thế thì tôi sẽ thống khổ hết chỗ nói”. Vì vậy mà tôi không còn muốn báo thù hắn nữa, cầu xin ngài hãy chỉ cho tôi con đường sáng để đi.

Dù khi nạn nhân trình bày, lời nói không được rõ ràng, nhưng tôi rất hiểu: Oan hồn cô gái này đã hỷ xả, chịu buông bỏ oán thù, phát tâm muốn quy y Phật. Thế nên tôi bảo:

– Nơi này gần Phổ Đà, cô hãy đến đó bái Bồ-tát Quan Âm làm thầy mà tu hành nha.

Tôi nói xong, liền thấy Sư ni thần thái khôi phục lại bình thường, nhưng vẫn còn ẩn hiện vẻ phấn khởi mừng vui của vong linh. Mấy vị nữ cư sĩ liền dìu bà vào liêu phòng nghỉ ngơi.

Lúc này đã hơn 5 giờ chiều. Cư sĩ Ninh Ba thúc tôi khởi hành. Lúc tôi chuẩn bị lên xe, bỗng nghe tiếng gọi to:

– Ngài Quả Khanh, xin hãy đợi một chút!

Tôi quay đầu nhìn, thấy Sư ni hồi nãy hình dáng giống cô gái trẻ tuổi bước ra, tiến đến trước tôi quỳ xuống bậc thềm biểu thị lòng cảm tạ.

Tôi bảo:

– Đó là nhờ Bồ-tát Quan Âm từ bi gia hộ, chúng ta nên làm đệ tử ngoan của Bồ-tát. Ngài lúc nào cũng gia hộ cho các Phật tử.

Qua câu chuyện này, tôi muốn nhắc nhở: Nếu tâm sinh khởi chút ý hận cho dù là trong khoảnh khắc cũng sẽ huân thành tập quán xấu, vì vậy phải lo tu chỉnh, sửa sai ngay.

Không nên dung dưỡng chút lỗi nhỏ nào, cần cảnh giác trong từng khởi tâm động niệm, lúc nào cũng phải luôn đề tỉnh, giữ chánh niệm, tăng gia quán chiếu tập tu hạnh nhẫn. Được vậy mới không sinh phiền não mà còn tăng thêm công phu tu cho bản thân.

Sám văn:

Xin đại chúng hãy lắng nghe kinh “Tội Nghiệp Báo Ứng Địa Ngục” dạy:

Ngày nọ Phật đang ở nơi núi Kỳ Xà Quật, thành Vương Xá, cùng với chư Đại Bồ-tát, chư Thanh Văn và quyến thuộc của các Ngài, cùng các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, chư thiên, quỷ thần… thảy đều đến dự hội.

Lúc đó Bồ-tát Tín Tướng bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn, hôm nay có đủ các loài chúng sinh sang, hèn, giàu, nghèo, có cả các chúng sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh… Họ nghe Phật thuyết pháp cảm thấy hạnh phúc như con thơ gặp mẹ, như bệnh gặp thuốc, như lạnh có áo, như tối có đèn.

Lúc này Phật quán sát thấy thời cơ đã đến liền phóng đạo hào quang trắng giữa đôi mày, soi khắp mười phương vô lượng thế giới, ngay lúc đó địa ngục ngưng hành hình, thống khổ hóa an. Tất cả chúng sinh đang thọ tội, nương theo ánh sáng quang minh của Phật mà tới; nhiễu quanh Phật bảy vòng, thành tâm lễ bái thỉnh Phật thuyết pháp và nhờ đây mà được giải thoát.

Giải thích:

Tôi xin phụ giải đoạn mô tả: “Lúc phật phóng quang giảng pháp thì địa ngục ngưng hành hình, thống khổ hóa an” bằng câu chuyện sau đây:

Năm 1990, sau khi cả nhà tôi ăn chay niệm Phật rồi, toàn gia pháp hỷ sung mãn, đúng là “hạnh phúc như con thơ gặp mẹ, như bệnh được lành, như lạnh được áo, như tối được đuốc” chỉ cần vừa về đến nhà, nếu không tụng kinh thì tôi trì chú. Hơn nữa gặp ai đến thăm nhà, tôi luôn khuyên họ giữ giới, niệm Phật, tụng kinh, trì chú, tập tĩnh tọa để khai mở trí tuệ. Trong thời gian chưa đầy sáu tháng, nhiều người khai mở được thiên nhãn, thiên nhĩ… tính ra có hơn mấy mươi vị. Nhưng mấy tháng sau lúc tôi gặp lại họ, thì đại đa số năng lực này đều bị mất hết, bởi do họ không thể giữ giới, chẳng bỏ được rượu thịt.

Kinh Kim Cang nói: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Tôi kể câu chuyện dưới đây ngoài việc chứng minh cho cảnh trong kinh đã thuyết ra, tuyệt không có ý xúi người học Phật đắm chấp hình tướng, mê cầu thần thông huyền diệu; thực lòng tôi kể chuyện này chỉ là muốn giúp mọi người hiểu rõ nhân quả, tăng thêm tín tâm, tinh tấn tu hành mà thôi. Nên nhớ rằng người chân chính học Phật phải luôn luôn dụng công tu, thường điều phục tâm, nghiêm trì giới luật, chí thành sám lỗi, sửa sai tối kị ham mê thần thông, ngoài tâm cầu pháp!

∗ Tiểu Phí

Có một thanh niên tên Tiểu Phí, sau khi tôi khuyên y dứt tuyệt đồ mặn, ăn chay trường, tập tĩnh tọa rồi, thì chưa đầy mấy ngày y đã đạt được một số năng lực vi diệu. Một hôm y đến nhà tôi chất vấn:

– Ngài nói tụng Chú Đại Bi uy cảm thiên địa hả? Nhưng hằng ngày, sáng nào tôi cũng đều tụng mười biến Chú Đại Bi, song chẳng thấy hiện tướng lành gì ráo, chỉ thấy quỷ thần qua đường ngó tôi nửa mắt mà thôi, việc này là sao vậy?

Lúc đó Quả Đạt (con trai tôi) 15 tuổi cũng đang ở đó. Thế là tôi bảo cả hai:

– Bây giờ tôi tụng Chú Đại Bi , Tiểu Phí thì lo nhìn cảm ứng trên trời, còn Quả Đạt thì theo dõi cảm ứng nơi địa ngục nhé! Căn dặn xong tôi liền ngồi khoanh chân, gõ mỏ chuông (lúc đó tôi còn rất chấp tướng, thực ra chẳng cần vậy) và bắt đầu tụng Chú Đại Bi. Tôi tụng chưa được mấy câu, thì chợt nghe tiếng Tiểu Phí khóc nức nở bên tai. Sau khi tụng xong, tôi hỏi y:

– Vì sao mà khóc vậy?

Y đáp:

– Ngài vừa gõ chuông, thì tôi thấy có rất nhiều Thiên nhân, quỷ thần tụ hội, ngài vừa đọc chú lên thì có rất nhiều thiên chúng đồng quỳ xuống chắp tay nghe, có lúc họ đứng chắp tay nghe, còn có hai con rồng đang bay cũng đáp xuống, nằm trên đất lắng nghe. Ngài tụng xong rồi thì tất cả đều hành lễ mà đi, tôi chấn động quá nên bật khóc.

Quả đạt thì kể trong lúc tôi tụng chú, nơi địa ngục liền đình chỉ tất cả hình phạt trị tội. Toàn bộ kẻ thọ hình đều quỳ tại đó chắp tay hướng lên nghe Chú Đại Bi. Tụng chú xong, thì nơi địa ngục bắt đầu hành hình lại, nhưng mức độ giảm đi, người thọ hình chịu thống khổ cũng nhẹ hơn.

Nghe họ kể tự nhiên tâm tư tôi cao hứng, thế là tôi bảo Tiểu Phí:

– Giữ giới chẳng phải chỉ là không sát sinh, không ăn thịt mà còn phải: Không làm các điều ác, siêng làm các điều lành, thành thật sám hối các tội nghiệp đã tạo trong quá khứ nữa.

Hễ bạnh càng tinh tấn sửa tật tánh mình, thì âm thanh tụng chú biến chuyển càng vang xa và chúng sinh đến nghe kinh càng đông! Tụng kinh là như vậy đó! Tụng chú là nương sức mạnh của chú làm tiêu tội nghiệp, quỷ thần Thiên nhân nghe rồi lập tức cũng tiêu định nghiệp của họ.

Tụng kinh ắt có thể khiến chúng sinh minh lý, biết sai hối lỗi, vĩnh viễn dứt vô minh. Người tu hành chân chính tụng kinh, sẽ khiến Thiên nhân nghe được tăng thọ, quỷ thần sớm ra khỏi ác đạo chuyển sinh vào cõi lành. Hễ ai không làm các điều ác, luôn làm các điều lành, thì khi tụng kinh trì chú sẽ chiêu cảm vô lượng công đức.

Nếu người tham sân si nặng hoặc không giữ giới mà tụng kinh trì chú thì chẳng đạt được kết quả tốt.

Lúc đó tôi mới trì giới, thời gian bỏ mặn ăn chay chưa được lâu, cho nên chỉ tụ tập được nhiều thiên nhân, quỷ thần đến nghe chú. Nếu như tôi tu hành tốt, ắt sẽ có vô lượng chúng sinh đến nghe kinh, thọ ích. Hơn nữa trong lúc tụng kinh chú, tâm phải định tĩnh chuyên nhất, nếu không sẽ khó đạt kết quả tuyệt đối.

Ngày 23/10/1994, lần đầu tôi đi Vạn Phật Thánh Thành (đến chỗ ngài Tuyên Hóa), sau khi quay về rồi, lúc tôi và con gái Quả Lâm đến Phổ Đà Sơn lễ Phật, tại Phổ Tế Tự đã gặp một vị thọ thần cây Chương ngàn năm, ông nói mình nghe ngài Tuyên Hóa giảng “Tâm Kinh” rồi, nhưng không hiểu nghĩa câu “Vô khổ, tập, diệt, đạo” và hướng tôi cầu xin giải thích.

Chúng tôi hiếu kỳ hỏi ông:

– Đại sư giảng kinh tại Mỹ, ông ở tại Phổ Đà Sơn (Đại Lục), vì sao có thể nghe ngài giảng kinh được chứ?

Thọ thần nói:

– Khị ngài Tuyên Hóa giảng kinh, khắp pháp giới đều nghe được hết, chỉ có con người bị tài sắc danh lợi che mờ làm lụy mới không nghe không thấy, còn tất cả các chúng sinh khác đều im lặng nghe Thượng nhân giảng pháp, lo tự huân tu, bồi dưỡng hạt giống Bồ-đề.

Ông kể mình đã nghe ngài Tuyên Hóa thuyết pháp từ rất lâu rồi.

Lúc đó tôi giải đáp những điều thắc mắc trong Tâm kinh cho ông nghe. Hơn nữa sau khi về nhà, tôi đã gọi điện trình báo sự tình này với ngài Tuyên

Hóa. Sau đó tại Thánh tự ở Los Angeles, ngài Tuyên Hóa đã đặc biệt vì Thọ thần này, tổ chức lễ quy y chính thức cho ông.

Khi đó tạp chí “Tổng hội Phật giáo Pháp giới” cũng có đăng bài tường thuật việc này. Nếu pháp lữ nào đi Phổ Đà Sơn lễ Phật, không ngại thì hãy đến Phổ Tế Tự hỏi trực tiếp vị đệ tử đặc biệt kia của ngài Tuyên Hóa. Cây này là đệ nhất cổ thụ cực kỳ to lớn, nằm bên trái phía trong cổng chùa.

Ngài Tuyên Hóa giảng: Người đã đoạn sát, đạo, dâm, vọng… thì thân tâm thanh tịnh, chỉ cần họ nói một câu: “Vãng sinh đi!” thì đã có thể siêu độ vong linh vào cõi thiện rồi, huống chi là còn thuyết giảng kinh pháp. Bởi vậy, tất cả đệ tử Phật, đều cần phải lấy giới làm thầy, lấy đức dưỡng đạo, phúc huệ song tu, mới có thể giúp chúng sinh đạt đến lợi ích cực lớn, đồng thời cũng làm lợi cho chính mình.

Sám văn:

Đại chúng lắng nghe lời kinh:

Bấy giờ Thế Tôn phóng hào quang trắng giữa đôi mày chiếu sáng khắp hết thảy chúng sinh trong sáu đường. Khi ấy Bồ-tát Tín Tướng vì thương xót chúng sinh, liền từ tòa đứng dậy đến trước Phật quỳ gối chắp tay thưa rằng:

– Bạch Thế Tôn! Con thấy có chúng sinh bị các ngục tốt cắt chặt bằm giã thân thể từ đầu đến chân. Khi họ chết đi thì xảo phong thổi sống lại, rồi bị chém chặt, bằm giã tiếp, họ phải thọ khổ báo như thế vô cùng vô tận không bao giờ ngừng, là do tội gì vậy?

Phật đáp: Những chúng sinh ấy ở đời trước không tin Tam bảo, không biết cúng dường, bất hiếu cha mẹ, tâm ác hừng thịnh; làm nghề hàng thịt, chuyên chém chặt bằm giã chúng sinh, vì các lỗi ấy nên bị hành tội như vậy.

Giải thích:

Xem trong Kinh Tạp Bảo Tạng Đồng Nữ Nhân Duyên, Phật cũng dạy chúng ta: “Đối với cha mẹ, làm chút cúng dường được phúc vô lượng, tạo chút bất hiếu, bị tội vô lượng”. Do vậy Phật dặn dò mỗi chúng ta cần phải tận tâm tận lực cung dưỡng cha mẹ.

Sám văn:

Lại có chúng sinh, thân thể sần sùi, mày râu rụng hết, toàn thân lở loét, bạn với chim muôn, bị người xa lánh, bà con ruồng bỏ, không ai muốn gặp. Ác báo này là bệnh phong hủi. Do nhân duyên gì mà bị như vậy?

Phật đáp: Do đời trước người này không tin Tam bảo, bất hiếu cha mẹ, phá tháp hủy chùa, sang đoạt, cướp của người tu, chém bắn Thánh hiền, làm thương hại Sư trưởng, chưa từng biết lỗi; vong ân bội nghĩa, thường hành động như súc sinh, cưỡng hiếp làm nhục người trên, không kể thân sơ, không biết hổ thẹn, vì nhân duyên ấy nên mắc phải khổ báo như vậy.

Giải thích:

Hồi thiếu niên tôi từng gặp một người ngủ lang ngoài đường, toàn thân ghẻ lở chảy mủ, có hình dạng giống y như trong kinh mô tả: “Bị người lánh xa, thân quyến ruồng bỏ”. Do mọi người chán ghét, nên y phải lang thang đầu đường xó chợ.

Đời trước do không tin Phật, tạo nhiều ác nghiệp, phá hoại chùa tháp, sang đoạt hoặc trộm tài vật người tu, thậm chí báng bổ thánh hiền, vu oan hãm hại người tôn kính cho đến cưỡng hiếp giới nữ, hành vi phóng túng loạn luân không xứng phẩm hạnh người như: Cha hiếp con gái, con trai làm nhục mẹ, anh hiếp em, em trai hiếp chị cho đến những tà hạnh bất chính diễn ra giữa sư đồ. Ngay hiện đời ắt họ sẽ bị ác bệnh trói thân, chết rồi vào địa ngục, ngày đêm vạn lần chết đi sống lại, mãn kiếp địa ngục, khi tái sinh làm người sẽ bị thân thể sần sùi, mày mi rụng hết, toàn thân lở loét chảy đầy máu mủ. Mãn kiếp rồi thì sinh vào cõi thú, nếu quá khứ không gieo trồng chút điều lành gì thì xem như rất khó thoát ra.

Sám văn:

Lại có chúng sinh thân hình dài lớn, tai điếc, không chân, quằn quại, bò lết mà đi, chỉ ăn bùn đất mà sống; bị côn trùng rúc rỉa; ngày đêm thọ khổ không gián đoạn; là do nhân duyên gì mà bị như thế?

Phật đáp: Do đời trước làm người chỉ biết có mình, không tin lời lành. Bất hiếu cha mẹ, phản nghịch chống trái, hoặc làm địa chủ hay quan lớn trấn nhậm bốn phương, hoặc làm trưởng châu đầu tỉnh, cai trị dân nhưng cậy oai ỷ thế, tham nhũng, chiếm đoạt xâm hại của dân, không hành đúng pháp, sống phi đạo đức, khiến dân nghèo khổ. Vì nhân ấy nên bị như vậy.

Giải thích:

Có những người đời trước tính cố chấp, khư khư làm theo ý mình, chẳng thèm nghe lời “nghịch nhĩ trung ngôn”, sông bất hiếu, cư xử ác độc, ngỗ nghịch với cha mẹ. Còn có kẻ làm quan, chuyên lợi dụng chức quyền để vơ vét của công, sang đoạt của dân, lấy của công tô bồi cho mình vinh thân phì gia. Những người này chết rồi sẽ thành một loại giống như đại trùng, ăn đất mà sống, thân thể còn bị ký sinh trùng rúc rỉa ngày đêm, khổ không gián đoạn. Nhân quả như thế là tự làm tự chịu.

Loài trùng này có thân dài lớn, chuyên ăn mùn, đồ mục rữa nơi đất mà sống, hiện thời có nghe nói. Vì có báo đăng tin: Nơi Cáp Nhĩ Tân thuộc tỉnh Hắc Long Giang, Trung Quốc được phát hiện có một con trùng khổng lồ rất to dài.

Đoạn sám văn này cảnh tỉnh các tham quan ô lại và những người làm tổn hại nhân dân đất nước, nên dứt ác thành thiện, hối lỗi đổi mới. Nếu không, cho dù họ có thể trốn thoát khỏi quốc pháp không bị trừng trị, cũng không thoát được luật báo ứng nhân quả vận hành. Đây gọi là lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt.

Sám văn:

Lại có chúng sinh đui hai mắt, không thấy gì, đi va vào cây hoặc sa hầm hố mà chết, chết rồi sống lại; sống lại rồi chết, cứ bị thế mãi. Vì nhân duyên gì, mà bị như thế?

Phật đáp: Vì đời trước không tin tội phước, che ánh sáng Phật, may bít mắt người, giam nhốt chúng sinh, lấy bao trùm đầu chúng sinh không cho thấy đường. Do nhân ấy mà bị như vậy.

Giải thích:

Có chúng sinh hai mắt bị mù, dẫn đến tông vào cây mà chết hoặc rơi vào kênh, rạch chết, lưu chuyển trong ác đạo không dứt, nguyên nhân do đời trước không tin nhân quả, từng ngăn trở người nghe Phật pháp hoặc tụng kinh. Tương tự hành vi may mắt người là dùng lồng nhốt chim không cho bay nhảy tự do, hoặc dùng bao chụp đầu người, khiến người không nhìn thấy, đây là gieo nhân bị mù.

Vừa rồi Chu cư sĩ, tháng trước có gọi điện cho tôi, hỏi rằng gần chỗ bà có cư sĩ Trương, đột nhiên hai mắt bị mù, nguyên nhân do đâu?

Tôi nói: Người này ưa ăn đầu cá, gà, mắt vật… cũng rất ưa ăn gan tạng động vật. nếu có thể thành tâm sám hối tụng kinh, thì sẽ chuyển tốt.

Người ta thường lý luận ăn gì bổ đó, đây là tà thuyết điên đảo mê tín, là quan niệm cực kỳ ngu si sai lầm. Phải lo thực hành pháp sám hối diệt tội, chớ để ác bệnh vào thân rồi mới hối thì đã muộn.

Không bao lâu, Chu cư sĩ gọi điện tới, kể là ông Trương kia đã có thể nhìn thấy rồi, nhưng thị lực không được 100% như xưa.

Tôi bảo: Bà khuyên ông nên kiên trì sám hối tụng kinh, ắt có thể hồi phục hoàn toàn.

Sám văn:

Chúng con có thể đã làm những tội như thế. Vì vô mình che lấp tâm tánh nên không tự nhớ được. Những tội như vậy vô lượng vô biên. Ngày nay chí tâm, tha thiết đảnh lễ, cầu xin sám hối, nguyện cải đổi tâm tánh.

Những tội đã làm nhờ sám hối mà trừ diệt. Những tội chưa làm, từ đây thanh tịnh.

Nguyện Tam bảo đem ánh sáng quang minh diệt trừ si ám cho chúng sinh; thuyết giảng pháp môn vi diệu nhiệm mầu cho chúng sinh nghe, khiến tất cả đều được chứng quả Vô thượng Bồ đề, thành bậc Chánh giác.

Giải thích:

Chúng ta hy vọng Tam bảo đại từ đại bi có thể khiến chúng sinh vĩnh viễn thoát ly khổ báo nơi ba cõi ác, đạt được an lạc, rốt ráo thành Phật.

∗ Nàng Dâu Quý

Nhớ lại vào năm 1993, mới vừa qua rằm tháng Giêng âm lịch. Bạn đạo của tôi là Bác sĩ Hoàng gọi điện cho Quả Lâm, mách rằng có một nữ đồng hương ngụ nơi quê nhà Hoành Thủy của ông mắc phải quái bệnh: Toàn thân đau đớn khó chịu, đau đến phải khóc la như quỷ gào sói tru. Trị thế nào cũng không hết, phải quỳ trên giường mới có thể tạm giảm bớt đau đớn. Nhưng mồm luôn kêu rên: “Ôi đau! Đau quá” không ngừng. Bởi âm thanh rên khóc quá ghê rợn ồn náo, làm ảnh hưởng đến những người bệnh khác cần nghỉ ngơi, nên các y viện nhỏ không chịu thu nhận cô nhập viện và khuyên cô hãy đến bệnh viện lớn chữa trị. Người trong thôn sực nhớ có Bác sĩ Hoàng là đồng hương, đang công tác tại Thiên Tân, liền bảo người chồng đưa cô đến đó. Bác sĩ Hoành sắp xếp cho cô nhập viện rồi, nhưng y viện khám không ra bệnh.

Hôm qua, cô quỳ trên giường thét rên không ngớt, khiến các người bệnh nơi phòng khác không ai nghỉ ngơi gì được.

Hừng sáng hôm nay y viện thông báo phải cho cô ra viện ngay. Trong tình cảnh này, đừng nói là cô khó thể trụ tại nhà ai, mà ngay cả thuê phòng cũng chẳng được. Do vậy Bác sĩ Hoàng đành hỏi chúng tôi về nguyên nhân căn bệnh của cô.

Quả Lâm bảo:

– Cô này hiện nay thọ mạng chỉ còn trong sớm chiều. Bác sĩ mau đi hỏi cô: Đời này đã phạm lỗi gì với ai nhiều nhất? Chỉ cần cô đáp đúng, lập tức cơn đau có thể dừng. Sau đó hãy để cô tự phát lồ, nói ra hết những lỗi mình đã phạm phải. hễ tự thú được càng nhiều, thì tội càng bớt, cơn đau càng giảm.

Hôm sau, Bác sĩ Hoàng gọi điện tới, tường thuật tình hình bệnh nhân.

Ngay lúc cô đang quỳ trên giường kêu rên, Bác sĩ Hoàng hỏi:

– Ngay cả y viện lớn tại Thiên Tân này cũng tìm không ra bệnh của cô, tôi đã đi thỉnh ý một vị tu hành, họ bảo tôi nên hỏi cô: Cả đời này có làm điều gì phạm lỗi với ai không? Nếu nói đúng thì bệnh dừng.

Cô đáp:

– Tôi có lỗi rất lớn đối với mẹ chồng!

Cô vừa nói xong, giống như bị một đôi tay vô hình đẩy một cái, liền ngã lăn ra trên giường, miệng không còn rên la nữa mà lộ vẻ rất vui mừng mãn ý. Cô có vẻ muốn nói nữa nhưng do quá kiệt sức không thốt ra lời nổi nữa nên đành nhắm mắt lại rồi cô thiếp đi, chìm vào giấc ngủ.

Tính ra từ lúc phát bệnh đến giờ, cô phải quỳ như thế suốt ba bốn ngày chưa được nghỉ ngơi. Lần này cô ngủ mộtlèo hơn hai mươi tiếng, ngay cả truyền nước biển vào tay cũng không tỉnh.

Lúc Bác sĩ Hoàng đến gặp cô, dù vẫn còn nằm trên giường, nhưng cô không còn thét la kêu rên chi nữa. Bác sĩ Hoàng giảng lý nhân quả Phật giáo cho cô nghe và hướng dẫn cô niệm mười mấy tiếng “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát” sau đó bảo cô nếu chân thành nhận lỗi sám hối tha thiết thì có thể tiêu tội.

Xem ra cô đã thực sự biết lỗi rồi và bắt đầu phát lộ việc mình có lỗi đối với mẹ chồng như sau:

“Tôi ngay từ lần đầu tiên bước vào nhà mẹ chồng, thì phát hiện bà là một bà già quá mê tín, trong nhà thờ bài vị “Thiên, Địa, Quân, Thân, Sư” tôi bảo:

– Nay là thời đại gì rồi, mà mẹ còn tin ba cái thứ nhảm nhí đó, hãy mau mau đem bài vị vứt đi!

Nhưng mẹ chồng nói chúng tôi tuổi trẻ không hiểu chuyện, quả thực trên đầu ba thước có thần minh, tâm con người ta lành hay ác trời đất đều nhìn thấy biết hết cho nên làm người phải kinh trời đất, hiếu song thân, trọng sư trưởng, nếu sống mà không chịu hành thiện tích đức, toàn làm việc xấu, sớm muộn gì cũng sẽ bị ác báo!

Tôi nghe vậy thầm cho lời mẹ chồng giáo huấn ngầm chứa ác ý đối với tôi, nên từ đó ghim hận trong lòng.

Khổ nổi, chồng tôi rất hiếu thuận, mỗi khi ăn cơm đều mời bà ngồi trên (thượng tòa). Bà mà chưa cầm đũa, thì chúng tôi chẳng thể ăn trước. Điều này càng khiến tôi tức giận.

Kết hôn xong, thì tôi sinh con, thầm nghĩ: “Đã có con rồi, thì xem như tôi có đủ tư cách để nghênh chiến cùng mẹ chồng”. Bởi vậy hễ muốn ăn thì tôi ăn, muốn uống thì uống, trong nhà không cho chơi Mạt chược, thì tôi đến nhà bằng hữu chơi, có lúc gầy sòng đến sáng mới về.

Hôm sau tôi ngủ mê mệt cho đến khi mẹ chồng kêu dậy, tôi mới rời giường ra ăn cơm. Do chuyện này mà nhiều lần cùng chồng gây cãi, thậm chí có lần còn bị chồng đánh cho, lúc đó tôi tức giận ẳm con về nhà mẹ ruột. 

Một tháng sau, mẹ chồng thân hành tìm đến rước, tôi mới chịu về.

Từ đó, không những mẹ chồng không dám chọc giận tôi, mà chồng tôi cũng phải nhường nhịn nể nang tôi. Tôi cho đó là chiến thắng vẻ vang, còn truyền dạy kinh nghiệm này cho các nàng dâu trong thôn là bạn hữu chơi bài với tôi. Tôi trời thành nữ chủ nhân trong nhà, tất cả việc nhà mẹ chồng tôi phải thầu lãnh hết, ngay cả quét nhà gánh nước gì cũng do bà lo tất.

Mẹ chồng hằng ngày trừ thắp hương lễ bái trước bài vị “Thiên, Địa, Quân, Thân, Sư” ra, bà còn làm thêm việc “thày lay” ngu dốt nữa là: Hễ nhà ai có xảy ra chuyện hôn tang cưới gả thì bà liền nhào tới đó trợ giúp, ngay cả cơm nước cũng bỏ, để mặc người nhà ăn một mình. Còn hễ gặp ăn mày đến nhà mà bị tôi xua đuổi, thì bà rượt theo họ, ráng cho mấy đồng hay thức dùng chi đó. Vì vậy mà tôi nhiều lần gây cãi với bà, mắng bà là: “Đồ đần, ngu như heo, thần kinh!”.

Nhưng mẹ chồng khồng hề dám cãi lại với tôi, chỉ mỉm cười nói:

– Ta nghĩ mình là người biết tiết kiệm tiền, con dừng có quản tới mà chi!

Còn một chuyện khiến tôi tức giận nữa là, nhà tôi ngụ tại đầu thôn, cổng trước cách đường lộ khoảng một-hai trăm mét. Mỗi tối, vào những ngày không trăng, mẹ chồng tôi tự chế ra mười cái đèn bão, cứ cách hai mươi mét thì treo lên một cái, mục đích là để soi đường cho thiên hạ đi, tính ra cả năm bà tiêu phí không biết bao nhiêu dầu, tôi nghĩ chỉ vì bà muốn được mấy câu khen ngợi của dân làng, chứ tính ra có thu được cái quái gì đâu!

Năm nay, vào ngày 30 cuối năm, sáng sớm vợ chồng tôi cùng con traiđi xe hỏa đến Thạch Gia Trang mua hàng tết, về tới nhà thì đã hơn 4 giờ chiều.

Chỉ thấy cái sân được mẹ chồng quét sạch bóng, lu vại gì cũng đã đổ đầy nước, chồng tôi còn hỏi:

– Ai gánh nước đây?

Anh đâu biết là trong nhà này, nếu không phải anh gánh thì là mẹ chồng gánh! Thấy cửa gian giữa hơi khép, con tôi lên tiếng kêu, nhưng gọi mãi mà không thấy bà nội ứng thinh, bèn đẩy cửa tiến vào, thì thấy bà ngồi trên ghế trúc, đầu quẹo qua bên trái ngủ queo.

Chồng tôi vội buông hàng hóa, bước tới gần kêu:

– Mẹ ơi, thức dậy đi, lên giường mà nằm ngủ chứ, ngồi trên ghế ngủ như vầy sẽ mệt đó!

Nhưng mẹ chồng tôi không nhúc nhích cựa quậy gì, chồng tôi vừa lay bà nhè nhẹ, vừa kêu “mẹ ơi” mấy tiếng, nhưng bà vẫn không động đậy, anh hoảng hốt khóc to, kêu réo mẹ thức dậy um sùm.

Tôi đang rửa sơ cái mặt thì nghe nói: “Mẹ chết rồi, đã ngừng thở rồi”. Tôi cáu tiết rủa ngay:

– Sớm không chết, muộn không chết, lại ra đi đúng vào ngày 30 cuối năm, chẳng phải là muốn chúng tôi không được ăn tết ư? Thiệt thất đức quá mà!

Chồng tôi đang khóc, nghe tôi lầm bầm như vậy liền quay qua tát mạnh vào mồm tôi, tôi liền tru tréo khóc ầm lên. Hàng xóm cùng người trong thôn đều chạy qua, bu đầy nhà. Mọi người đều khóc thương mẹ chồng tôi. Lúc đó tôi còn nghĩ: “Trong đám láng giềng này nhất định sẽ có kẻ mắng tôi”, nhưng không ai làm vậy.

Bây giờ nhớ lại, có thể là mẹ chồng tôi chưa từng ra ngoài nói xấu tôi với ai. Tôi đã hiểu lầm lòng tốt của mẹ chồng, thật quá có lỗi với bà.

Tối 30, đây là lần đầu người toàn thôn phá lệ xưa, không nhà nào chơi đùa hay đốt pháo hoa, không một đứa trẻ nào ăn mặc diễm lệ.

Hầu như người toàn thôn thay nhau giữ linh quan suốt đám tang.

Bây giờ tôi mới hiểu, do mẹ chồng hay giúp đỡ xóm giềng, nhiều năm nay những đêm tối không có trăng chiếu, bà đã treo đèn soi sáng đường về giúp người trong thôn. Nên toàn thôn hiện thời ngay cả năm mới chẳng ai muốn đón mừng, chứng tỏ mẹ chồng tôi rất được cả làng yêu thương kính quý. Bản thân bà biết mình sắp ra đi, còn ráng vì chúng tôi làm chu đáo hết mọi việc trong nhà rồi ngồi trên ghế an lành ra đi. Bà quá nhân nghĩa mà! Nhưng lúc đó tôi lại mắng trách mẹ chồng, tôi quả thật đáng chết!

Rằm tháng giêng vừa qua chưa được mấy ngày, tôi bỗng cảm thấy toàn thân khó chịu, ban đầu tôi cho là: “Chắc tại lo đám tang nên mỏi mệt”, do nghĩ “Tết đến nơi mà còn phải lo ma chay” nên tôi rất hận mẹ chồng, tôi còn hướng về chồng nói xấu bà nữa. Lúc đó chồng tôi rất khó chịu, trừng mắt lườm tôi và chỉ nói một câu:

– Em làm ơn lưu giữ chút khẩu đức đi!

Rồi anh im lặng không nói thêm gì nữa.

Sáng hôm sau tôi thức dậy, vừa cúi xuống định mang hài rời giường, thì té nhào trên đất. Đau dến nổi tôi thét lên oang oác, cảm giác như đang bị cả trận mưa roi trượng bằng sắt giáng quất vào thân. Chồng tôi vội chạy đến đỡ tôi dậy nhưng không đỡ lên nổi, vì hễ tay anh chạm vào đâu, là tôi nghe chỗ đó đau như muối xát kim châm. Tôi bị đau đớn thống khổ dày vò suốt thời gian dài, mới phát hiện ra. Chỉ có tư thế quỳ trên đất và dang hai tay ra vịn trên đất mới tạm giảm đau chút đỉnh.

Toàn thân tôi có cảm giác như xương cốt đều bị bẻ gãy vỡ vụn, hễ động đậy một chút là đau không chịu nổi.

Tôi lúc đó không hề biết đây là ác báo do mình vô lễ hỗn hào, ngược đãi phỉ báng mẹ chồng. Bởi tôi không bao giờ tin vào mấy cái thuyết nhân quả báo ứng! Nhưng bây giờ tôi đã tin rồi, tôi chưa muốn chết, do con tôi chưa trưởng thành, tôi nguyện từ nay nhất định sẽ tu sửa, lo hương hỏa thờ phụng mẹ chồng, ngày ngày thắp hương lễ sám, sẽ làm nhiều việc thiện, tạo phúc đức.”

Bác sĩ Hoàng thấy bà đã biết nhận lỗi, thân thể cũng không còn đau, liền khuyên bà lúc nào cũng phải niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát” phải tâm niệm miệng niệm mới được. Và ông tặng bà một xâu chuỗi, nhắc nhở bà phải luôn kiểm lại những lỗi lầm suốt mười mấy năm nay đã cư xử tệ với mẹ chồng, nên phát tâm sám hối, có lẽ sẽ mau chóng lành bệnh.

Nửa tháng sau, Bác sĩ Hoàng đến nhà tôi, báo tin là ông vừa cho bệnh nhân kia xuất viện về quê. Nhưng thêm một chuyện lạ phát sinh nữa, nên vội đến báo cho chúng tôi hay.

Nàng dâu ngỗ nghịch này sau khi hối lỗi, tự đánh vào mình nhừ tử rồi, thì mỗi ngày đều niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát” thì ngủ được an lành. Nhưng không thể ăn gì, chỉ có thể nương vào truyền dịch mà duy trì mạng sống. Bác sĩ Hoàng có lần vào phòng bệnh, phát hiện bà nằm trên giường, miệng động đậy, tay phải để trên ngực lần chuỗi, hai khóe mắt tuôn tràn lệ, ướt đẫm cả gối.

Một hôm, sáng sớm thức dậy bà hưng phấn nói với chồng, kể rằng bà mơ thấy mẹ chồng đến thăm, cười ha hả bảo bà:

– Yên tâm đi, nhà ta sẽ ngày càng tốt hơn.

Rồi đột nhiên mẹ chồng hóa thành vị trời, biến mất. Bà nói: “Chắc là bệnh mình sẽ lành”.

Nhưng ồng chồng thấy bà mỗi ngày càng một tệ hơn, bèn quyết định dùng xe cứu hộ đưa bà về quê. Hôm đó thời tiết đặc biệt lạnh. Xe khởi hành rồi thì Bác sĩ Hoàng nhắm mắt niệm “Nam mô A Di Đà Phật!” hỗ trợ thêm cho bệnh nhân.

Đột nhiên ông nghe thấy tiếng bà nói với ông:

– Tôi đi đây, cảm tạ ông cứu tôi, đã dạy tôi niệm Phật.

Ông vội mở bừng hai mắt, ý thức bà đồng hương nọ đã chết, thế là vội nghiệm thây, kiểm tra quan sát, thấy bà đã tắt thở.

Họ dừng xe lại, người chồng lo khoác y phục tốt cho bà. Lúc này xe vừa ra khỏi huyện Tĩnh Hải, gió lạnh vây bủa tứ bề. Phải mất 5 tiếng mới về tới nhà. Khi khiêng người chết xuống, thấy thân bà rất mềm dịu, so với lúc sống không khác bao nhiêu. Tang sự hoàn tất thuận lợi.

Chuyện của bà trở thành tấm gương giáo dục cho toàn thôn!

Đây là do tội không tin Tam bảo, bất hiếu với mẹ chồng, phỉ báng người lương thiện… nên nàng dâu đã mắc phải hiện thế báo. May nhờ có Bác sĩ Hoàng dạy bà niệm Phật sám hối, diệt được vô lượng tội, nếu không bà sẽ chết rất thê thảm, chết rồi còn bị đọa địa ngục vô gián.

Trong văn Lương Hoàng Sám giảng giải Phật pháp rất vi diệu, tinh tế, là vì muốn chúng sinh tiêu trừ si ám, đạt được quang minh, ai cũng lìa khổ được vui. Vừa niệm “Nam mô Phật”, trọn có thể thành tựu Phật quả.

Sám văn:

“Bồ-tát Tín Tướng thưa: Bạch Thế Tôn! Lại có chúng sinh ngọng nghịu ú ớ, miệng không thể nói, dầu có nói cũng không rõ ràng. Vì nhân duyên gì, mà bị như thế?

Phật đáp: Do đời trước người ấy phỉ báng Tam bảo, khinh hủy Thánh đạo, ưa bàn luận việc xấu, thích tìm việc hay dở của người, vu oan cho kẻ lương thiện, ghen ghét người hiền. Vì nhân duyên ấy, nên bị như vậy.

Giải thích:

Có người không thể nói năng, cà lăm, nói lắp, hoặc nói tiếng khàn khàn, hoặc tuy có thể nói nhưng phát âm không rõ, người khác nghe khó hiểu.

Những người đáng thương này đều do đời quá khứ từng hủy báng Tam bảo, bôi nhọ chánh đạo, hay nói thị phi, quấy, dở của người. Do không giữ khẩu đức mà bị vậy.

Vì thế phải biết giữ thân khẩu ý thanh tịnh, nếu nhìn thấy khuyết điểm người, thì phải có lòng tốt giúp họ sửa sai, không nên bàn luận phê bình nói xấu sau lưng họ. Nếu thấy chỗ hay của người, cần phải tùy hỷ, không được tật đố. Nếu không, tội rất lớn.

∗ Cô Bé Cà Lăm

Tại Hà Nam Sơn Tây, tôi từng gặp hai cô bé mười mấy tuổi, nói lắp cà lăm, phát âm không rõ ràng, là do đời quá khứ từng hủy báng Phật, hay nói chuyện thị phi của người mà chiêu cảm quả này.

Tôi khuyên họ nên sám hối tội xưa và hằng ngày ở trước Phật xướng danh hiệu Ngài, lạy ba trăm lạy. Nửa năm sau hai em hồi phục nói năng bình thường. Phải biết lễ Phật một lễ, tột diệt hằng sa, điều này có thực không dối.

Sám văn:

Lại có chúng sinh bụng lớn như trống, cổ nhỏ như kim, không thể ăn nuốt. Nếu có ăn, thì đồ ăn biến thành máu mủ. Vì nhân duyên gì mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước, người ấy trộm cắp đồ ăn của chúng. Khi có đại hội, sắm các thức ăn ngon, người ấy lấy dùng riêng, hoặc lấy thức ăn và cơm đem ra chỗ khuất ăn lén. Lại có tính keo rít, tiếc của mình, tham của người, thường ôm lòng độc ác, cho người uống thuốc độc, hại họ nghẹt thở không thông. Vì nhân duyên ấy nên mắc phải tội như vậy?

Giải thích:

Trộm ăn vật thực và đồ công của mọi người, keo tham xan tiếc không thể xả đồ ra bố thí. Tham lấy của công, rút của người làm của mình. Những kẻ có tính tham lam ích kỷ tư lợi và những người không giỏi y thuật, lạm dụng hoặc cho thuốc không đúng bệnh, thậm chí có tâm xấu ác, cố ý cho người uống thuốc độc khiến họ bệnh nặng thêm thì chết rồi sẽ vào cõi ngạ quỷ chịu khổ, bụng to cổ nhỏ, chẳng ăn uống gì được. Nếu muốn ăn chi, lập tức thức dùng biến thành máu mủ.

Sám văn:

Lại có chúng sinh bị ngục tốt thiêu nướng, rưới nước sắt nóng đỏ lên thân, đóng đinh vào thân xong, tự nhiên lửa khởi, thiêu đốt thân thể cháy tiêu. Tội gì mà bị như vậy?

Phật nói: Bởi do đời trước, làm thầy châm lễ, gây tổn thương người, không biết trị bệnh mà gạt người để lấy tài vật, khiến họ thống khổ, nên bị như thế.

Giải thích:

Hiện nay có nhiều người không tinh thông y thuật lại mạo xưng là danh y, hòng gạt tiền người.

Họ đã trị bệnh không lành, ngược lại còn khiến nạn nhân tăng thêm thống khổ do chấm cứu ẩu tả loạn bậy. Hạng y sĩ gian này, chết rồi liền vào địa ngục bị đinh đóng, lửa thiêu thân.

Những ai làm thầy thuốc cần chú ý, nếu như bạn ham tiền hoa hồng kếch xù của công ty Y dược, hoặc vì muốn bán thuốc để kiếm nhiều tiền mà kê toa ra đủ thứ thuốc cho bệnh nhân, gạt bịp đủ trò mà không cần khám chẩn, báo hại bệnh nhân phải bỏ ra nhiều tiền mua thuốc nhưng lại tăng bệnh thêm vì bị tác dụng phụ. Những lỗi này cũng khiến bác sĩ phải xuống địa ngục thọ ác báo đã tạo, quý vị sao không cẩn thận chứ?

Hiện nay trong xã hội chúng ta có nhiều thầy thuốc lang băm, những hạng thuật sĩ giang hồ bịp bợm, không những bọn họ sau khi chết phải xuống địa ngục, mà hiện đời này cũng bị quả báo rất nặng.

Ngày 18/5/2000 báo “Chiều Nay” của Phúc Kiến đã đăng câu chuyện:

“Có đôi vợ chồng ngư phủ không hiểu gì về y học, đã mở phòng mạch treo bảng: “Chuyên trị các bệnh lậu, giang mai, phong tình” để lừa tiền người. Không ngờ vô ý tự hại mình, cả nhà ba người đều bị nhiễm bệnh Sida nối tiếp nhau qua đời”.

Cổ nhân nói: “Bác sĩ cần có y đức”. Thần y Tôn Tư Mao đã đề xướng: “Làm thầy cần phải có y đức cao, phát huy tinh thần nhân đạo cứu tử giúp người”. Danh y cần tu dưỡng hai mặt: Tinh và Thành. Tinh là giỏi tay nghề, am tường lãnh vực chuyên môn. Thành là phải có phẩm đức cao thượng. Nghĩa là người làm thầy cần “Y thuật tinh thông, phẩm đức cao tột”. Nếu các bác sĩ thế gian đều hiểu rành đạo lý này, thì đệ tử Phật cũng cần yêu cầu mình nghiêm khắc, giữ giới thanh tịnh hơn nữa.

Sám văn:

Lại có chúng sinh thường bị ngưu đầu ngục tốt, tay cầm xoa sắt, móc bỏ vào vạc nước sôi nấu rục, rồi gió thổi cho sống lại. Sống lại thì bị nấu nữa. Vì nhân duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước người ấy làm nghề hàng thịt, giết chúng sinh, trụng nước sôi, nhổ lông, sát hại nhiều đến không thể kể xiết. Vì ác nghiệp ấy nên bị hành tội như vậy.

Giải thích:

Trên đây tả cảnh hành hình tàn khốc, có giống lúc chúng ta giết vật ăn không? Nơi bếp của các gia đình ăn thịt, cũng là chốn hành hình loài vật giống hệt vậy. Chúng ta đối đãi với vật làm sao, thì ngục tốt hành ta y vậy nhưng tàn khốc hơn vạn bội. Vì sao suốt một ngày đêm tội nhân phải vạn lần chết đi sống lại? Nghĩ kỹ xem đời này chúng ta đã giết ăn biết bao nhiêu chúng sinh rồi? Có nhớ nổi không? Nếu như hôm nay chẳng dùng tấm lòng thành để sám hối, thì đợi đến khi bị ném vào chảo dầu, vạc nước sôi rồi, có hối cũng đã muộn.

Từ vô thỉ đến nay chúng ta chẳng biết tự thuở nào đã tạo vô lượng tội, có lẽ đến nay ác báo vẫn chưa ập tới. Nếu như chúng ta đã làm qua sói lang và từng ăn thịt động vật, thì ác nghiệp ấy rất sâu nặng, có cái báo trước, có cái báo sau, chỉ Phật, Bồ-tát mới biết chứ chúng ta không thể biết rành.

Không những làm ác sau khi chết rồi bị đọa địa ngục thọ khổ, mà đời này còn bị ác quả rất lớn, nếu chúng ta quan sát kỹ lưỡng sẽ thấy hiện tượng trả báo này xảy ra nhan nhản khắp nơi trong cuộc sống, xin đăng tải mấy chuyện sát sinh “hiện thế báo có thực” để chứng minh:

∗ Đi Săn

Ngày 5/2/2005 tại thôn Ngũ Hồng, huyện Vượng Thương, trấn Gia Xuyên, phố Quảng Nguyên, có anh Hà Triều Phủ muốn ăn thịt rừng, bèn rủ Trương Hiếu Quân là anh rể đồng lên núi săn bắn. Trong lúc chia nhau đi săn, Trương Hiếu Quân thấy trong khu rừng rậm có một đôi mắt xanh biếc dòm mình, bèn bóp cò súng, chỉ nghe đoàng một tiếng, con mồi thét to và ngã xuống.

Trương Hiếu Quân vội chay tới xem, hóa ra là Hà Triều Phủ đang ngã trong vũng máu. Hà Triều Phủ được chở tới bệnh viện nhưng không thể cứu chữa, phải lìa đời. còn Trương Hiếu Quân bị kết tội trữ súng ống phi pháp cộng với tội làm mất mạng người nên bị phán án tù.

∗ Tiệm Gà Rán

Báo “Kim Văn” ở Thiên Tân từng đăng: Có đôi vợ chồng dẫn theo đứa con trai hai tuổi đến địa phương nọ mở tiệm kinh doanh gà rán. Công việc rất phát đạt. Năm đó cuối đông, người cha mới giết xong mấy mươi con gà và cũng mới vừa rán xong, anh nhấc chảo dầu sôi xuống đặt ở phía sau mình, rồi xoay người lấy than bỏ thêm vào lò.

Lúc này thằng con còn mặc quần lủng đáy chạy tới đứng phía sau lưng anh, nó ôm lấy chân cha, nũng nịu đòi bồng. Người cha do bận việc nên không quay đầu lại, vừa đưa tay đẩy nhẹ thằng bé ra, vừa nói: Đi chỗ khác chơi đi con!

Nhưng anh bỗng nghe tiếng con thét lên thảm thiết, hóa ra anh quên béng cái chảo dầu sôi đang nằm phía sau mình và cú đẩy nhẹ kia đã làm con té vào chảo dầu. Anh vội đưa con đến bệnh viện cấp cứu, thấy cả vùng mông và cơ quan sinh dục của bé bị phỏng nặng. Xem như dù có bảo tồn được mạng sống, nhưng thằng con phải chịu tàn phế suốt đời.

Con trai bị dầu sôi rán, chính là hoa báo hiện đời này đối với cặp vợ chồng chiên rán chúng sinh này, quả báo xuống địa ngục nếm thống khổ vẫn còn chờ ở phía sau. Nhưng đối với bản thân đứa bé mà nói, chính là đời trước nó cũng đã từng gieo ác nhân tương đồng nên phải chiêu cảm ác báo này, đây chính là đạo lý đồng nghiệp tương cảm.

Có người nói: Đây chỉ là nhất thời vô ý tạo thành mà thôi! Thực ra không đúng. Khi một người tạo tội ngày càng gia tăng, thì sẽ đến lúc nước đầy tràn ly, khi đó ác báo ập tới…

∗ Nghề Phụ

Có một nữ cư sĩ tên Thu, ăn chay đã lâu, mấy năm trước qua úc định cư.

Năm ngoái bà Thu gọi điện đến cho tôi, kể là mình bị băng huyết, uống thuốc gì cũng không cầm, chẳng biết phải làm sao.

Vừa tiếp điện thoại, tôi có cảm giác bà đang phá giới, liền hỏi: Bà có giết gà hoặc làm nghề gì liên quan đến kinh doanh thịt chúng sinh không?

Bà tỏ vẻ rất kinh ngạc, vội kể là hiện tại mình đang làm thu ngân cho một siêu thị, ông chủ là người Trung Quốc, cư xử với bà rất tốt. Vì muốn giúp bà kiếm thêm nhiều tiền, nên kế bên bàn thu ngân ông còn lập thêm một lò nướng điện, để bà tranh thủ lúc rảnh thì phụ tẩm ướp gia vị vào con gà (mà nhà bếp đã giết rồi) và cho vào lò nướng…

Bà hỏi:

-Làm vậy mà cũng tính là phá giới hay sao?

Tôi không đáp ngay, mà hỏi lại bà:

-Giả sử có một nhóm người đi cướp ngân hàng, đến nơi họ thuê tôi đứng canh cổng giúp cho họ. Bà hãy nói xem: Khi cảnh sát đến phá án, họ có bắt tôi không hả? Vì vậy, nếu những người đích thân cầm dao sát sinh, mà có ai tham dự vào (dù chỉ làm công tác phụ giúp), thì cũng đồng tội. Bà là đệ tử tại gia của Phật, đã thọ giới, sám hối, thệ dứt trừ ác nghiệp. vốn là đời này túc nghiệp đã trả hết rồi, vậy mà bây giờ lại đi tạo thêm tội mới nữa! Cho dù là bà không giết vật, chỉ tham gia làm công tác phụ tẩm ướp gia vị và nướng chín thôi, thì điểm chính cũng là: Mượn đây để gia tăng thu nhập cho mình, mà việc này Phật từng xếp loại: Thuộc về nghề bất chính, là tà nghiệp chứ không phải chánh nghiệp. Nhìn bề ngoài tưởng rằng việc này là chuyện nhỏ, nhưng nghiệp tội trên thân bà rất lớn. Vừa tạo nghiệp thì bị thọ báo ngay! (Đúng ra cũng là việc tốt, vì được trả báo liền). Bà phải sám hối lỗi này trước Phật, xong rồi thì tuyệt không được làm nghề gì liên quan đến dạng công tác tương tự như thế nữa, thì bệnh sẽ lành.

Bà nghe xong, hiểu minh bạch, lập tức sám hối thệ đoạn tận ác nghiệp. Ngay hôm đó chứng băng huyết liền dừng.

Loại báo ứng ngay trên thân như thế này, thực ra có rất nhiều.

Chúng ta nhất định phải lấy giới làm thầy, áp dụng Lục độ vào trong đời sống thường nhật, đây là ý nghĩa chân chánh của niệm Phật, như vậy mới được chư Phật, Bồ tát gia trì.

Sám văn:

Bồ tát Tín Tướng thưa: Bạch Thế Tôn, có những chúng sinh ở trong hỏa thành bị thiêu đốt tâm can, vì sao mà bị như thế?

Phật đáp: Do đời trước khi làm người họ thiêu đốt rừng núi, phá hang ổ, chiên, rán loài vật, làm cho chúng sinh chết trong thống khổ đau đớn, nên nay bị hành tội như vậy.

Lại có chúng sinh ở nơi tuyết sơn, bị gió lạnh làm da thịt nứt nẻ, cầu chết không được, cầu sống không xong, khổ sở trăm ngàn, tội này do đâu?

Phật nói: Là do phạm các lỗi: Cướp bóc hung bạo, lột y vật người, lấy làm của mình. Mùa đông giá rét hại người trần trụi chết cóng, lột da xẻ thịt trâu dê, khiến chúng khổ đau khó kham, do gieo nhân ấy, nên bị thế này.

Giải thích:

Sám văn dễ hiểu nên tôi chỉ giải thêm điều này: Phải hiểu là loài vật dù đã bị giết chết, song thần thức chúng không thể lập tức rời thân liền, nên sau khi chúng chết rồi, còn bị xẻ thịt lột da tiếp tục, thống khổ của chúng sẽ càng dâng cao tột độ. Vì vậy mà kẻ tạo tội phải thọ báo ở ngục Tuyết Sơn.

Tôi ngày xưa lúc chưa biết Phật pháp, đã từng giết qua mười mấy con gà, do không ưa ăn da gà, nên sau khi chặt đầu gà rồi, thì từ cổ trở xuống, tôi lột da ra hết… Còn cá thì đánh vảy sống, tính ra tôi cắt cổ chừng một số gà, nhưng giết cá thì vô lượng. Lúc đó do mình muốn ăn ngon, Iuôn nghĩ: “Con vật chỉ là thức ăn”, đâu biết làm vậy là tạo tội.

Sau khi minh lý một chút thì tôi đích thân tụng “Kinh Địa Tạng” để cầu siêu cho những con vật minh từng giết qua, tha thiết hướng chúng sám hối. Nếu tôi không làm như thế, thì những hình phạt nơi ngục Tuyết Sơn này ắt tôi cũng phải lãnh phần.

Vào năm 1990, tôi xem báo “Kim Vãn” thấy đăng một câu chuyện thế này:

Một nông dân tỉnh Hà Bắc đến chỗ giết mổ trâu bò, ngỏ ý muốn bán con trâu cả đời đã giúp ông làm nông. Sau khi ngã giá thương lượng xong, ông quay về, dắt trâu ra khỏi cổng nhà mình. Ngay giây phút sắp trao dây thừng cho người mua, thì con trâu dường như hiểu được số phận mình, nó bèn quay đầu nhìn chủ, rồi nhìn thương lái… đột nhiên nó rống to một tiếng, lao nhanh tới, dùng sừng húc mạnh vào chủ nhân. Cú tấn công bất ngờ khiến lão chủ không kịp né tránh, bị sừng đâm vào ngực, chết ngay tức thời. Nếu không nhờ người chung quanh phụ nắm dây thừng, khống chế trâu, thì e rằng bức tường rào cũng bị con trâu điên này húc sập.

Tuy gọi trâu điên, nhưng thực ra không phải thế. Bởi khi bị người túm giữ, dù nó vùng vẫy đến rơi sừng trên thi thể chủ, song nó vẫn đứng đấy bất động, thở phì phì, hai con mắt đỏ ngầu nhìn trừng trùng vào thây chủ chết, nhưng không hề làm gì gây tổn thương cho ai khác.

Con trâu cuối cùng không thoát khỏi số mệnh bị giết, nhưng câu chuyện này làm tăng thêm niềm tin kiên định trong tâm tôi. Độc giả hãy tự minh chiêm nghiệm và ngộ ra đạo lý trong đây. Động vật tuy có hình dáng khác người, không thể nói năng, song tâm tư nó vẫn biết buồn thương giận ghét, có đầy đủ cảm xúc, cũng sợ chết tham sống giống y như người.

Sám văn:

Vì sao có chúng sinh ở trên núi dao, rừng kiếm, hễ chạm vào đầu thì liền bị cắt đứt, thân thể tay chân đểu bị chặt, cắt… đau đớn khồ sở không cùng?…

Phật nói: Đời trước họ làm đồ tể, nấu giết chúng sinh, băm vằm, chặt cắt, khiến cốt nhục phân ly, đầu chân một nẻo… còn treo thây vật lên cao, cân lường mà bán. Hoặc vừa treo vừa xẻo thịt sống bán, khiến chúng sinh thống khổ muôn vàn, vì tội này nên bị như thế.

Giải thích:

Tại chợ, chúng ta thường thấy thịt các loài trâu, bò, heo, dê bị giết được treo lên, đầu chúc xuống, trên thớt thịt luôn có dao, búa chặt, băm… cân bán. Bên cạnh còn bày la liệt nào là: Huyết, tim, gan, phèo, phổi, than… thảm đến không nỡ nhìn.

Tôi nói vậy là theo tâm trạng của người hiểu đạo, đã tỉnh ngộ trong hiện tại. Chứ hồi xưa, khi chưa tin Phật, chính tôi cũng là một trong số khách hàng mê ăn thịt, hễ vào đây là lo chọn lựa cho mình miếng tươi ngon trước nhất. Bây giờ nhớ lại cảnh mình ăn nuốt ác độc: Bởi mua thịt về xong, chúng ta ai cũng phải dùng đao chặt, băm mà? Ta khiến chúng xương cốt phân ly, đầu chân đứt đoạn… Động vật và người giống nhau, đều có chung cảm thọ thống khổ; cũng buồn, thương, gian, ghét tương đồng y hệt. Chỉ vì chúng không thể nói như người và mang hình dáng thấp kém, thì phải bị người ăn nuốt hay sao? Những bạn đồng tu còn đang ăn thịt của tôi ơi, nếu không ngại xin hãy ăn chay một tháng thử xem, hãy vì động vật mình đã ăn qua mà tụng “Kinh Địa Tạng” một tháng và kiểm xem trên thân bạn có biến chuyển gì không? Phải hiểu là thần thức con vật sau khi chết đi, cũng giống như chúng ta, đều biết phân biệt, nhận thức thiện ác, cũng có nỗi niềm rung cảm hệt người… Khi chúng ta thành tâm hối lỗi và tụng kinh cầu cho chúng, tất sẽ được chúng tha thứ…

Xin kể câu chuyện: ở Quảng Đông có một cô gái thông minh xinh đẹp, vừa lấy bằng Thạc sĩ và giành được học bổng đi du học bên Mỹ. Nhưng do bị bệnh ghẻ lở mà phải quay về nước. Nhưng y viện trong nước cũng bó tay hết cách, không thể chữa.

Lúc gặp tôi, cô khóc thống thiết.

Tôi chỉ khuyên:

-Cô nên án chay và hãy vì những chúng sinh mình ăn qua mà tụng “Kinh Địa Tạng” cầu cho chúng (là những động vật từng bị cô sát hại thống khổ), cô cũng phải sám hối tội hay nóng giận gây cãi với ba mẹ nữa…

Hai tháng sau, tôi gặp lại, thấy cô đã Iành bệnh, đang chuẩn bị qua Mỹ học.

Khoảng nửa năm sau, tôi nhận được tấm hình chụp: Cô dang Iãnh bằng, tay cầm bó hoa tươi.

Tôi thật mừng cho cô. Hy vọng mọi người đều có thể tụng “Kinh Địa Tạng” vì đây là bộ kinh vi diệu không thể nghĩ lường.

Sám văn:

-Lại có chúng sinh ngũ căn không đủ? Phật đáp: Vì đời trước họ ưa săn mồi, hay bắn chim thú, hại chúng bể đầu, đứt chân, nhổ lông, bẻ cánh, làm chúng sinh đau khổ cực cùng. Vì nhân ấy nên bị như vậy.

Giải thích:

Ngũ căn: Mắt, tay, mũi, lưỡi, thân. Bị các căn không đầy đủ là: Mắt mù, tai điếc, lưỡi ngắn, thân tàn tật v.v… bởi do đời trước, từng săn bắn hại vật, dùng cung, tên, súng ống… bắn, giết gây tổn thương cho vật.

Hiện tại nước ta không cho phép giữ súng, nên chuyện đi săn bằng súng tương đối hiếm. Nhưng ở ngoại quốc, gần đây có một vị Tổng thống, những khi rảnh ổng rất ưa đi săn bắn. Kết quả là: Hôm nọ lúc ông xuất ngoại diễn giảng thì bị người săn giết, đây chỉ là “hiện thế báo”. Sang đời sau nếu ông còn được làm người, sẽ bị ngũ căn không đủ.

Tôi vào thời niên thiếu, cũng dùng ná bắn chim, tàn hại ếch, châu chấu, bọ ngựa, các côn trùng nhỏ… rất nhiều. Đa số đều bị tôi ngắt đầu hoặc làm gãy chân, rụng cánh… May là tôi chưa trả báo thì đã biết tu tỉnh học Phật. Nếu không, có thể tôi sớm đã bị tứ chi bất toàn hay mất mạng…

Nhân quả báo ứng như bóng theo hình, chỉ vì người tạo nghiệp bất đồng, nên khi thọ báo xảy ra nhanh chậm, khác nhau. Có người đợi nhân duyên đời sau chín muồi rồi mới thọ báo, có người ngay trong đời này trả quả liền.

∗ Làm Giàu Sai Cách

Vào năm 1990, tôi đọc một tin đăng trong báo “Kim Vân”, đến giờ vẫn còn “thấy” rất rõ:

Có một ông nọ ở thôn X tỉnh Hà Bắc, con gái đã xuất giá, con trai đi lính đóng tại Tứ Xuyên, trong nhà chỉ còn hai ông bà. Lúc đó vào thời kỳ mới cải cách, nhiều gia đình bắt đầu giàu phất lên, ông này tuy trong nhà y thực không thiếu, nhưng thấy nhà người khác phát tài, trong tâm cũng háo hức, nôn nao theo… thế là ông lo tính toan, phải làm gì đó… để cũng phát tài như thiên hạ.

Một chiều nọ, sau khi làm ruộng xong ông chưa chịu về nhà, vẫn còn ngồi nán lại, cố động não nghĩ cách làm sao để kiếm thêm nhiều tiền. Được một lúc thì trời tối, đột nhiên ông nghe phía sau mình có tiếng chân bước gấp, thầm nghĩ: “Chắc là láng giềng nào trong thôn đang trên đường về nhà đây”… thế là ông nảy ý muốn hù họ một chút cho vui, ông liền ngồỉ thụp xuống ven đường, đợi lúc người kia đi tới gần thì nhảy ra quát to:

-Đứng lại! Hãy nộp tiền mãi lộ cho ta!

Trong đêm vắng, vị khách đi đường bỗng nghe tiếng hét to, thì sự đến vãi cả ra quần, ráng nhìn xem thì chỉ thấy một bóng đen ngồi lù lù trên đường, thế là khách hoảng kinh, vội ném hành lý lại rồi quay người chạy chí chết…

Ông này thấy vậy thì la to:

-Dừng chạy! Là tôi đây mà!…

Nhưng ông càng kêu, bóng đen càng chạy dữ, cuối cùng thì mất hút Ông lão cười đến không thể ngậm miệng lại: – Là ai vậy ta? Sao mà nhát dữ vậy hè?

Ông tiến tới sờ vào cái bao vải to khách ném lại trên đường và đưa tay bóp thử: Thấy mềm mềm, hình như pên trong là y phục. Ông liền ngồi xuống rút thuốc ra hút, có ý đợi người kia quay trở lại lấy đồ… Nhưng hút đã mấy điếu rồi, mà chẳng thấy tên nhát gan kia quay lại.

Bấy giờ đã hơn nửa đêm, ông nghĩ: “Thôi thì trước tiên mình cứ vác cái bao này đem về nhà, sáng mai ắt sẽ có người tới nhận… lúc đó mình giải thích, trả đồ cho họ là được”.

Ông vác hàng về nhà, thắp đèn Iên xem. Thấy bên trong toàn là quần may theo một kiểu, còn có một bao thư chứa năm trăm đồng nữa… Ông đoán tên nhát gan này có lẽ là thợ may ở vùng khác đến.

Hai vợ chồng bàn nhau: Việc này không ai chứng kiến, nếu như nội trong ba ngày mà có ai đến tìm thì mình hoàn trả… bằng không thì sẽ… thanh lý hết khoản này.

Nhưng đợi bảy-tám ngày rồi mà không thấy chủ nhân bao hàng tìm đến, còn dân trong thôn cũng không ai bàn tán gì về vụ này. Thế là họ yên tâm. Sau đó ông chồng đem hàng đến tận phương xa bán đi: Được sáu trăm dồng, cộng thêm năm trăm đồng trong bao thư là ngàn mốt. Vào thời đó đây là số tiền rất to.

Hai vợ chồng chia nhau tài sản, rất hoan hỉ thích thú. Họ mua đồ về, tiệc ăn mừng…

Một ngàn đồng nhanh chóng tiêu hết, túi không còn tiền, họ lại thấy khó chịu. “Ăn cướp quen tay”… nên ông chồng làm gan, diễn lại chiêu này một lần nữa, không ngờ thành công. Ông lại áp dụng tiếp, vẫn được thời…

Rút kinh nghiệm, ông chuyên lựa đêm tối mới ra tay, nếu gặp người quen trong thôn, thì ông nói dóc mấy câu rồi bỏ đi, còn nếu gặp lái buôn lạ, thì ông hét một tiếng dọa họ chạy.

Ông cứ diễn mửng này, lâu lâu làm một vố. Sau một năm, thành ra đại phát tài, xây được ngôi nhà mới khang trang ba phòng, thầm tính là: Đợi con trai phục viên về, thì cho nó cưới vợ, dọn vào nhà mới ở…

Ông ngắm ngôi nhà sang trọng đầy đủ tiện nghi, lòng vui không kể xiết, chính nhờ thủ đoạn “chặn đường cướp của”… mà ông phát tài, giàu sang. ông tính toán: “Thôi thì nhân lúc mình chưa già, nên vơ vét nhiều thêm nữa”…

Cuối năm đó, ông quyết làm một mẻ nữa để ăn Tết, đón xuân sang bằng của cải dư thừa… Thế là ông lấy một thanh sắt giấu trong áo khoác, chờ đêm tối ra đi…

Nhưng đêm đó ông đợi rất lâu mà không thấy ai tới, vừa định quay về, thì bỗng nghe âm thanh đạp xe cót két. Khi xe đến gần, ông liền ngồi thụp xuống quan sát: Thấy phía sau xe có chở rất nhiều đồ, ông vội quát to một tiếng, làm người trên xe hoảng sợ té xuống… Nhưng hắn đà nhanh chóng đứng lên, sẵn sàng quyết đấu cùng ông. Ông vội cầm cây sắt quất mạnh vào đầu bóng đen, bóng đen kêu thét lên, rồi ngã xuống… Ông nghĩ: “Lần này mình ra tay nặng quá”… Không thấy nạn nhân động đậy, ông bèn đưa tay sờ mũi hắn để thăm dò… hóa ra y đã tắt thở.

Ông hoảng sợ, nhưng lại khởi ác niệm, nhớ đến cái kênh nhỏ ở gần đó, bèn nhủ thầm: “Đã làm thì phải làm cho tới nơi! Tại phần số hắn xui xẻo mà thôi!”. –

Thế là ông lấy sạch tài vật trong túi người chết với vẻ rất chuyên nghiệp, ông tháo đồng hồ nơi tay hắn ra và bồng thi thể nạn nhân Iên, ném xuống cái kênh gần đó, rồi chạy về chỗ cũ dùng đất cát xóa hết mọi dấu vết… Sau đó ông chất hàng cướp được Iên xe, ràng kỹ, rồi ung dung đạp xe về nhà…. ném hết mọi căng thẳng âu lo ra phía sau.

Về đến nhà, ông kể cho vợ nghe những gì vừa xảy ra. Vợ ông tuy có hơi lo, nhưng khi thấy trong hành lý có hai bộ y phục mới thật đẹp và vừa khít với vóc dáng họ, thêm phần thức ăn thì quá tuyệt, ngon hết chỗ nói, toàn là những món họ rất ưa ăn, lại có phong bì chứa hơn ngàn đồng nữa… Xem ra “chiến lợi phẩm” kỳ này quá ưng ý khiến hai vợ chồng mừng đến quên sợ… bà lập tức bày dọn tiệc rượu, tấm tắc ca ngợi công lớn của chồng, cả hai cùng nhau ăn uống hỉ hả… Xong xuôi, họ thản nhiên đi ngủ.

Đang say giấc nồng, thì nghe tiếng đập cửa gấp rút khiến họ thức giác.

Ông chồng lớn tiếng hỏi:

-Ai vậy?

Bỗng nghe tiếng con gái họ vang lên. Họ vội vàng mặc áo, ra mở cửa. Con gái vừa vào, hỏi ngay:

-Thằng Tú em trai con đâu, sao không ra?

Ông lão nói:

-Lạ chưa? Không phải em con đang & Tứ Xuyên hay sao?

Cô gái đáp:

-Em con được lệnh theo Thủ trưởng đi Thạch Thị công tác, do thấy chỗ này cũng gần nhà mình nên Thủ trưởng cho phép nó được về thăm ba mẹ. Lúc nó xuống xe thì trời đã tối, nên quyết định đến nhà con ăn cơm trước. Con bảo nó: “Thôi thì em hãy ngủ lại, đợi sáng mai hẵng qua thăm ba mẹ cũng được mà”… Nhưng nó bảo: “Trước mười giờ sáng mai em phải đến Thạch Thị trình diện Thủ trưởng”… nên nó mượn xe đạp của con, tranh thủ chạy qua thăm ba má…

Kể đến đây cô reo lên:

-Kia kìa! Không phải xe của con đang nằm & đó hay sao?

Thấy ba mình không đáp, cô ngước Iên nhìn, thì phát hiện đôi mắt ông đang dại đi, mặt chuyển sắc tái nhợt như người chết. Đột nhiên giống hệt một kẻ phát cuồng, ông nhào ra khỏi cửa, lao đi như tên bắn. Trong khi mẹ cô thì quỵ xuống… tan nát cả ruột gan, bà bật khóc to, bệu bạo nói:

– Đúng là… báo ứng mà!

Khi người cha bồng thi thể ướt sũng của đứa con trai cưng vào nhà, theo sau là nhóm hương thân phụ giúp, mặt họ đầy thắc mắc ngơ ngác… Bà mẹ và cô con gái bổ nhào tới, ôm xác khóc la… Láng giềng cùng bu Ịại xem, ai cũng muôn biết cớ sự ra sao.

Lúc này bỗng dưng có người kinh hoàng thét lên:

-Chú Hai… tự sát rồi!

Hóa ra ba thằng Tú đã dùng liềm cắt cổ mình, hiện dang nằm giày giụa trên đất, miệng trào máu tươi….

Bà vợ thấy vậy, há hốc mồm nhìn, hai mắt mở trừng trừng, rồi bà ôm tim, mặt lộ vẻ đau đớn khủng khiếp rồi thở hắt ra một hơi, cùng ra đi về thế giới bên kia theo chồng…

Nghe xong câu chuyện này, dù ⑹ không giải thích ắt độc giả cũng dư biết hai vợ chòng này chết rồi sẽ đi về đâu1.

Hại người như hại mình! – “Hành bất nghĩa chính là tự hủy hoại minh”.

Sám văn:

Xin nguyện vì hết thảy chúng sinh trong mười phương đã chịu khổ, đang chịu khổ, hoặc sẽ chịu khổ mà giúp họ qui y thế gian Đại từ bi phụ…

Giải thích:

Khi bạn đi trên đường mà nhìn thấy xe chở loài vật, thì hãy âm thầm qui y Tam bảo cho chúng. Ngay cả lúc vào chợ hay siêu thị, nếu nhìn thấy loài vật bị bày bán (dù chưa chết hay đã chết), thì nên niệm như thế này:

Nguyện những chúng sinh mà mắt tôi dang nhìn thấy: Dù đã chết, chưa chết hay chờ chết… và những loài đang bị giết hại, xin hãy nghe theo tôi, khởi một niệm qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng… (đọc 3 lần)

Tiếp đến hãy niệm “Nam mô A Di Đà Phật!” vài lần, tụng thêm chú vãng sinh, từ một đến ba biến, nhiều hơn càng tốt, như vậy sẽ có vô lượng chúng sinh quỳ tại hư không nghe thọ Tam quy, niệm Phật theo bạn. Sau khi chúng chết rồi được vãng sinh thiện đạo, do nhờ phát khởi một niệm Iành này. Phải biết trong pháp giới: “Tất cả do tâm tạo”

Phải hiểu công đức bái sám phi thường lớn, cần dùng lực công đức này, hồi hướng cho những chúng sinh đang thọ khổ, giúp chúng qui y Phật, Pháp, Tăng… khiến cho được lợi. Khi giúp chúng sinh thọ ích, tất nhiên bản thân cũng thọ ích, đồng thời phẩm vị cảnh giới cũng được thăng cao.

∗ Dương Cư Sĩ

Trong câu chuyện con lừa đầu thai làm cháu đến đòi nợ hai vợ chồng (ông Dương và bà Trương), sau khi hai vợ chồng này học Phật rồi, ngày ngày thấm nhuần Phật pháp hoan hỉ tu hành, thì thằng cháu nội đó, nhờ bọn họ biết tu mà sớm chuyển ác duyên thành thiện duyên. Từ cảnh vốn là đứa cháu ngỗ nghịch, nó biến thành ngoan hiền, hiếu thuận tới nỗi có lần ông bài tiết khó khăn, thằng cháu đã kiên quyết khom lưng quỳ xuống để hỗ trợ cho ông suốt nửa tiếng. Nó còn tự học các món chay, thỉnh thoảng nấu dâng cho ông bà dùng.

Tháng 7 năm 2007, Dương pháp hữu ly trần, hưởng thọ 83 tuổi.

Khi tôi tiến đến đặt hoa tươi lên thi thể ông, cúi chào vĩnh biệt… thì nước mắt bỗng tuôn không cầm được (xem như từ nay về sau tôi không còn thấy người bạn già từ thiện hiền lương, “chí đồng đạo hợp” này nữa rồi)…

Đang bùi ngùi thì tôi bỗng nhìn thấy2 ông Dương xuất hiện trên không: Ông đang quỳ trong một hoa sen to lớn, hướng về tượng Tây Phương Tam Thánh đảnh lễ… giữa tiếng Phật nhạc ngân vang hòa cùng âm thanh “Nam mô A Di Đà Phật!” đang niệm liên tục, không ngừng vang vọng vào lỗ tai tôi (vì lúc đó nghi lễ cáo biệt đang tiến hành), cảnh mình vừa thấy khiến tôi phấn chấn, nhưng tôi chỉ có thể chia sẻ niềm vui này bằng cách nói nhỏ vào tai nữ pháp hữu Quả Năng:

-Chèn ơi! Dương lão đã “hoa khai kiến Phật, ngự ở vị “Thượng phẩm hạ sinh” rồi.

Tính ra thời gian ông Dương học Phật chỉ có bảy năm, nhưng nhờ có thiện căn sâu dày, vừa quen biết chúng tôi thì ông lập tức phát tâm: Nghiêm trì giới luật, thệ dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường, ở trước mặt tôi chân thành phát lộ những lỗi lầm sát, đạo, dâm, vọng… đã tạo trong quá khứ, thực lòng ăn năn sám hối…

Bởi vì đúng ra ông sắp bị mổ tim, nhưng nhờ tu tập theo Phật mà được miễn trừ, nên càng tăng thêm tín tâm tu học kiên định.

Sáu năm sau, ông cùng vợ (là bà Trương) đồng phát tâm Bồ-đề, “chuyển gia vi tự”,biến nhà thành đạo tràng, siêng tu tinh tấn không lười. Họ thường phản tỉnh, luôn kiểm điểm sám hối mọi lỗi lầm từ thân, khẩu, ý, mình đã phạm qua. Một lòng cầu thoát ly tam giới, vãng sinh Tịnh độ.

Hằng ngày, cứ mỗi buổi sáng và tối, cả hai cùng đi công viên tản bộ, họ đồng niệm Phật (dùng máỵ đếm), tự định khóa trình thế này: Trên đường đến công viên thì niệm “Nam mô Quan Thế Âm” ngàn tiếng, tại công viên vừa vận động vừa niệm “Nam mô A Di Đà Phật!” ngàn tiếng, còn trên đường quay về nhà thì niệm “Nam mô Địa Tạng Vương Bồ-tát” ngàn tiếng, về tới nhà, ăn sáng xong thì họ nghỉ ngơi nửa tiếng, rồi bắt đầu tụng khóa sáng: Hai người mặc áo tràng, kẻ cầm khánh đi trước, người cầm quyển kinh đi sau, họ tụng niệm, nhiễu Phật từ hai đến ba vòng quanh sảnh phòng, chừng một tiếng thì xong khóa công phu sáng.

Lúc chuông điểm công tác, thì hai người bắt đầu học kinh và nghiên cứu… có lúc vì một câu pháp mà xảy ra tranh luận, nếu không ai phục ai thì đánh dấu số trang ghi trên bàn, đợi gặp tôi nhờ giải giùm. Nếu tôi tán thành quan điểm của ông thì ông hoan hỉ mỉm cười, bà cũng vui vẻ khen và Ịập tức học tập theo. Nếu tôi khen bà đúng thì bà mừng vui nghinh đầu, vỗ tay, mặt mày hớn hở tươi tắn, nhìn hồn nhiên khả ái như trẻ thơ… mỗi khi thấy bà biểu lộ, tính dịu hiền nhẫn nhịn giỏi, tôi thường tự xấu hổ thầm (vì tính tôi vốn rất nóng), cho dù đã lưu tâm sửa nhiều, nhưng so với bà Trương thì tôi vẫn còn thua xa (như trời với vực).

Trước mùa xuân năm 2000, tôi đến thăm ông Dương, mới vừa ngồi xuống, thì bà Trương hướng tôi kể lể và sám hối:

-Tôi tinh cờ thấy trên đỉnh cửa sổ có một điểm đen, nhìn kỹ là con ruồi, bèn kêu chồng:

-Ông ơi, mau cầm quạt tới đây. Ổng hỏi:

-Trời lạnh thấy mồ, bà còn đòi đem quạt tới làm chi?

-Trên tường có con ruồi kìa, hễ tôi mở cửa, là ông cầm quạt xua nó bay ra nhen.

Ông phê bình liền:

-Nè, bà tu hanh kiểu gì mà trời lạnh cắt da lại muốn đuổi con ruồi ra ngoài? Làm vậy chẳng phải là bà muốn… nó bị chết cóng hay sao?

Bà nghe ông nói thì giật mình, biết là mình đã sai, vội thú nhận:

-Ôi chao, quả là tôi tu hành còn kém xa ông, vì không có chút từ tâm. Mô Phật! Con xin sám hối! Xin sám hối! Ông nè, chúng ta hãy cùng qui y cho con ruồi nhé…

Thế là hai người chắp tay hướng về con ruồi qui y cho nó, họ đồng niệm:

“Qui y Phật , Qui y Pháp, qui y Tăng. Qui y Phật bất đọa địa ngục, Qui y pháp bất đọa ngạ quỷ, Qui y Tăng bất đọa súc sinh… Xin chú nguyện cho ruồi: Đời sau được mang thân người, gặp Phật pháp tu hành đắc dạo”…

Ba ngày sau, bà Trương thấy con ruồi vẫn còn ở tại chỗ cũ không động đậy…

Bà lại kêu chồng:

-Này, ông mau cầm quạt tới đây!

-Đem quạt tới làm chi?

-Đã ba bốn ngày rồi mà con ruồi không nhúc nhích, mình quạt cho nó bay xuống ăn gì chứ, nếu không thì nó chết đói làm sao!

Khi họ dùng quạt đuổi con ruồi, thì nó rơi ngay xuống đất. Hóa ra nó đã chết, thác sinh vào thiện đạo rồi.

Từ lúc phát tâm học Phật, thệ ăn chay niệm Phật rồi, thì ông Dương không bị bệnh gì, ăn uống rất ngon miệng. Hồi chưa biết đạo, mỗi năm ông phải đi bệnh viện 1-2 lần. Bởi vi “linh kiện” toàn thân ông đều vướng bệnh.

Nhưng cách đây tám tháng, bao tử ông phát đau khó chịu, các con bèn đưa cha đi kiểm tra, phát hiện bao tử ông có khối u. Sau khi uống thuốc trị ung bướu rồi, thì bạch huyết cầu hạ, ông ngưng thuốc thấy có đỡ hơn, nên quyết định không dùng thuốc nữa. Sau đó ông xuất viện về nhà, chỉ uống chút thuốc duy trì.

Lúc con gái ông Dương gọi điện báo tin cho tôi, thì tôi đang ở Thượng Hải, tôi bảo cô hỏi xem cha mình có… ăn qua thịt lừa hay không?

Ông Dương lúc đó ở cạnh bên, liền đáp:

-Tôi chưa từng ăn qua…

Tôi bảo:

-Ông hãy chịu khó nhớ kỹ lại xem…

Một lát sau, tôi nghe ông Dương kể: Vào năm 1950 ông được phân công tác, gần đơn vị có một tiệm bán thịt lừa, lúc đó ông sống một mình cho nên thường mua ăn.

Thế là tôi bảo ông Dương:

-Trước đây ông phát bệnh, toàn là do lừa đến quấy phá, sau khi ông học Phật ăn chay tụng kinh rồi, lừa cũng minh lý, nên không còn theo báo ông nữa. Nhưng ông lại quên tuốt việc mình đã ãn thịt chúng, nên chẳng biết sám hối, cầu siêu cho chúng, vì vậy mà chúng đang hành hạ khiến ông sinh bệnh khó chịu. Một là: Để cảnh tỉnh ông. Hai là: Muốn ông tụng “Kinh Địa Tạng” siêu độ cho chúng.

Còn nữa, ông có các chiến hữu bị chết trận trong thời kỳ chiến tranh, cũng có một số người là bạn mới kết giao, nhưng sau khi chết rồi họ bị rơi vào ác đạo, do biết ông tu hành tốt, nên đồng tìm tới muốn nhờ ông siêu độ cho họ thoát khổ. Ông hãy ráng nhớ ra tên của bọn họ, hoặc nếu đã quên thì chỉ cần nghĩ tới… đem công đức tu học Phật nhiều năm hồi hướng, ban cho họ, hãy vì họ phóng sinh, tụng nhiều “Kinh Địa Tạng” cầu cho… thì rat tốt.

9 giờ sáng ngày 10 tháng 7, ông Dương đang ngủ được mấy tiếng, bỗng mở bừng đôi mắt, thấy bạn bè và con cái đang ở bên mình, ông Ịộ vẻ hớn hở bảo:

– Vừa rồi Bồ tát ban cho tôi hoa sen, còn chúc mừng tôi, tôi cũng đảnh lễ Bồ tát. Rồi ông nhìn các con và nói:

-Các con nhớ cùng mẹ chăm chỉ tu, niệm Phật kiên định tinh tấn nha! Nhớ phải luôn tỉnh giác đó!

Nói xong ông nhắm mắt, mọi người đều cho là ông nhắm mắt nghỉ ngơi, nào biết rằng ngay trong khoảnh khắc đó, lúc đầu ông quẹo sang phải, là ông đã vãng sinh rồi.

Khi bà Trương gọi điện báo tin cho tôi hay chồng mình mất, bà còn hỏi thêm:

-Hiện đám con không tin Phật của tôi đang muốn lập tức thay y phục tắm rửa liền cho cha nó, tôi phải làm sao đây?

Tôi nói:

– Bà phải ngăn chúng lại ngay. Vì ông nhà đã vãng sinh thế giới Cực Lạc hiện ở quả vị “Trung phẩm trung sinh”, bởi nhờ lúc lâm chung tâm ông không điên đảo, một lòng tha thiết niệm Phật nguyện vãng sinh Tây phương, nên đã được chư Phật, Bồ tát đến rước về Lạc bang rồi. Bà đừng để ông phải chịu ảnh hưởng theo kiểu thế tục thường tình. Linh cữu ông nên để ở nhà bốn ngày, ngăn cấm không cho đốt giấy tiền vàng bạc, thậm chí thời nào cũng không được khóc.

Sau đó tôi cùng các bạn đạo cư sĩ ở tại Phật đường, đồng niệm Phật lớn tiếng (theo phương thức ngũ âm) để hỗ trợ cho ông Dương, âm thanh vang rền lấn áp mọi tiếng ồn nơi phòng khách.

Hôm đó một người con trai không tin Phật của ông Dương thừa lúc rảnh rỗi cũng vào Phật đường tụng niệm theo, khiến tôi rất hưng phấn.

Âm thanh niệm Phật chân thành cũng có thể giúp cảm hóa người mê đến với Phật đường, tiếng niệm Phật nghe thật lớn (đúng là xuyên thấu trời cao)….

Đột nhiên, Đằng cư sĩ hớn hở bảo mọi người:

-Tôi thấy có nhiều Bồ tát và Tỳ-kheo, Tỳ- kheo-ni thân đắp ca sa đều đang chắp tay đứng chung quanh chúng ta niệm Phật, riêng Tây Phương Tam Thánh6 đứng ở phía trên, mỉm cười nhìn chúng ta, đồng phóng hào quang năm sắc phủ khắp… tỏa chiếu đến những người niệm Phật

Hôm đó trước khi ra về, tôi bỗng nhìn thấy rõ ràng: Đài sen của ông Dương đang bay lên “Trung phẩm thượng sinh”.

Về nhà rồi, tôi bèn gọi điện thảo luận cùng hai pháp lữ ở các nơi khác. Họ đều xác nhận là cũng thấy ông Dương đã thăng lên “Trung phẩm thượng sinh”. Điều này khiến tôi càng phấn chấn thêm, khi hiểu rằng: Tín tâm của người trợ niệm, cũng gây ảnh hưởng lớn đến phẩm vị vãng sinh của người mất.

Thế là tôi quyết tâm: Niệm lớn tiếng, dốc lòng tha thiết chí thành niệm Phật và giải thích cho mọi người hiểu: Ngay lúc dang niệm Phật phải nhiếp tâm chánh định, có lòng tin kiên cố, để tạo ra nguồn hỗ trợ mạnh mẽ, giúp ông Dương thăng lên phẩm vị cao hơn nữa.

Mấy ngày sau, có rất đông con cháu ông Dương cùng vào Phật đường niệm Phật, trưởng tử ông trong lúc trực đêm còn ráng tụng “Kinh Địa Tạng” thêm cho cha. Mãi đến khi cáo biệt thi thể, thì ông Dương đã thăng Iên “Thượng phẩm hạ sinh”.

Thế là tôi khuyên mọi người trong vòng 49 ngày này, hãy ráng sức vì ông Dương niệm A Di Đà Phật và tụng “Kinh Kim Cang, Kinh Lăng Nghiêm”… cần phải hành trì liên tục để hỗ trợ ông thăng Iên phẩm vị cao.

Sở dĩ tôi viết câu chuyện này, là mong chia sẻ kinh nghiệm quý giá có thực cùng độc giả. Ắt hẳn sẽ có người phê bình tôi thuyết giảng chẳng đúng pháp… Nhưng tôi tin chắc không nghi, bởi vì Phật từng thuyết: uứng hiện pháp giới tính, tất cả duy tâm tạo”.

Do vậy mà tôi mạnh dạn kể lại tinh huống Dương cư sĩ vãng sinh cho các bạn dồng tu tham khảo. Hy vọng sẽ có người thu được lợi ích.

Sám văn:

Vì sao có chúng sinh tay chân cong vẹo, què quặt, lưng gù, chân thọt, tứ chi lặt lìa, không thể cầm nắm, đi đứng bất tiện?

Phật đáp: Do đời trước làm người độc ác, đặt hung khí phá cầu đường, làm bẫy hại chúng sinh, đào hầm đào hố, gieo hoạn nạn tai ương cho chúng sinh. Vì ác nghiệp ấy nên bị như vậy.

-Vì sao có chúng sinh bị ngục tốt trói, đeo gông, hành tội thống khổ?…

Phật đáp: Vì đời trước họ giăng bẫy, chài lưới, đánh bắt chúng sinh, hay giam nhốt lục súc, hoặc làm kẻ cai trị dân mà cậy thế, ỷ quyền hành hạ ức hiếp người, tính tham lam ưa vơ vét, nhót hại kẻ vô tội, khiến người lương thiện ôm oán hận không biết kêu ai. Vì nhân ấy, nên bị như vậy.

Giải thích:

Trước đây tôi từng kể chuyện một người do nuôi chim mà vô duyên vô cớ bị tù ba năm. Chính vì giam cầm chúng sinh mà bị báo ứng. Cho dù bạn giam vật trong lồng vàng, cho chúng ăn ngon… thì cũng là làm trái quy luật sinh sống tự nhiên của loài vật. Còn có người lợi dụng mình đang có quyền lực, bắt nhốt người vô tội, hoặc bắt lầm, phán tội lầm, tạo ra oan nguc. Tương lai nhất định sẽ có ngày bị gông xiềng trói thân, tự gánh ác quả của mình.

Do vậy những vị giữ chức cao, nắm quyền lớn, làm ở Pháp đình… nhất định phải cẩn thận, nên: Chấp pháp công minh, không được vì tiền tài mà gây điên đảo, thay trắng đổi đen, cho dù đắc thế một thời, thì tương lai khó tránh cảnh bị gông xiềng hình phạt nơi chốn địa ngục .

Sám văn:

-Lại có chúng sinh điên khùng, hoặc si cuồng, sợ hãi, không phân biệt được chi. Vì nhân gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước làm người uống rượu say sưa, gieo nhân loạn trí si tâm, phạm 36 lỗi nên đọa làm người ngu si, giống như người say không phân biệt được tốt xấu, thượng hạ tôn ty. Vì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy

Giải thích:

Xin giải sơ 10 lỗi trong 36 lỗi đó là: 1-Bất hiếu cha mẹ. 2-Khinh bậc trưởng thượng. 3-Bất kính Tam bảo. 4-Chẳng tin kinh pháp. 5-Phỉ báng tu sĩ. 6-Nhiếc mắng người. 7-Hằng nói dối. 8-Vu việc xấu cho ngườỉ. 9-Tung tin đâm thọc. 10-Ấc khẩu t6n hại người v.v…

Sám văn:

Kẻ chê của người, hủy tài bào người, cân non bán thiếu, (gian lận cân lượng), ép giá… nhằm thu lợi cho mình, sẽ bị ác báo…

Xin kể một chuyện phát sinh vào năm 1992.

∗ Trước Lồi Sau Gù

Ông Đường là Cục trưởng Ty thuế vụ Thành phố T. Ông sinh ra trước ngực sau lưng đều có khối thịt bự. Tục gọi là trước lồi sau gù.

Mặc dù trong nhà giàu có, nhưng tuổi hơn 40 vẫn chưa kết hôn, sinh hoạt rất bất tiện. Vị Cục trưởng này tìm dến hỏi chúng tôi: Nguyên nhân do đâu mà ông bị vậy?

Quả Lâm hỏi:

-Phụ thân huynh có phải là một người rất giỏi tính toán làm ăn buôn bán?

Cục trưởng gật đầu đáp phải. Còn nói thân phụ ông dù giỏi kiếm tiền, nhưng tính rất keo kiệt, chẳng giúp ai bao giờ, ngay cả bản thân cũng không dám tiêu xài, sống giống như kẻ nghèo.

Quả Lâm lại hỏi:

-Có phải mới đầu… trong nhà bán thức ăn?

Cục trưởng đáp:

– Đúng vậy!

Quả Lâm giải thích:

-Thân phụ huynh khi buôn bán thường cân non bán thiếu, bày trò giả dối để gạt lường tiền, hành động này cực kỳ trái lương tâm!

Thực ra đời quá khứ nhờ ông ta từng có trồng phúc điền, nên hiện tại mới có thể làm ăn buôn bán lớn và phát tài như thế, song đáng tiếc là ông giở thủ đoạn cân gian bán dối, tạo ra ác nghiệp. Còn nữa, có phải khối thịt trước ngực và trên lưng Đường huynh nhô ra có hình dạng giống y như quả cân? Đây chính là ác quả của hành vi cân lường bán thiếu trong khi giao dịch mua bán…

Cục trưởng cười bảo:

-Quả thật em nói không sai mảy may, cục thịt trước ngực tôi nhỏ, nhưng khối u sau lưng lại to, nhìn y hệt quả cân nhỏ và lớn, (tương tự như khi cân lén bỏ ra, thêm vào gian lận…để kiếm lợi cho mình). Nhưng phụ thân của huynh tạo nghiệp, vì sao quả báo lại rơi xuống ngay trên thân huynh? Như vậy chẳng phải quá bất công sao?

Quả Lâm đáp:

-Bởi vì đời trước Đường huynh cũng tạo nghiệp “cân gian bán thiếu” giống y như thân phụ hiện thời, đây gọi là “đồng nghiệp chiêu cảm”. Phải biết: Gieo nhân sao thì gặt quả vậy! Huynh vốn có phúc báu, được thông minh hơn người, song tự làm thì tự thọ. Nhờ phúc đời trước chưa cạn, nên mặc dù mang thân tàn tật, huynh vẫn được sống một đời y thực phong nhiêu đầy đủ.

“Cán cân thiên địa” xưa nay rất công bằng, hễ ta sống mà dối người thì tổn mình, còn biết giúp người thì trời sẽ đền bù cho. Đối với thân phụ anh mà nói thì: Ngoài việc kiếm tiền bằng hành vi bất chính ra, sau khi kết hôn còn phải chiêu cảm quả báo: Đời con cháu sinh ra có thân thể ngũ quan không vẹn toàn. Cái này gọi là: “Ra ngoài vui vẻ về nhà rầu, đếm tiền hớn hở… ngắm con sầu!”.

Chímg kiến và nghe Quả Lâm giải thích như thế, thú thực tôi cảm thấy kinh sợ tột cùng, xin kể ra để quý vị rõ lý: “Hại người là hại mình”, quả báo này rất đáng sợ, quý vị tuyệt đối phải cẩn trọng, chớ nên khinh thường.

Không những chỉ có thế, mà khởi ý: “Khinh khi người cũng là tự hại mình”. Trong cuộc sống hiện nay, ta thấy không ít người có dung nhan anh tuấn mỹ lệ, tài giỏi siêu quần… nhưng họ lại sinh con ngây ngốc hoặc tàn tật. Vì sao họ bị cảnh bất như ý như thế? Bởi do trong số họ, có không ít người vào lúc được thời đắc ý, đã khởi niệm cười chê giễu cợt, thậm chí khinh khi rẻ rúng những ai có con tàn tật.

Khi bạn cười chê người, là gieo nhân. Bị sinh con tàn tật, là lãnh quả. Nếu như ai có tâm hay khinh khi, ưa chê cười người, thì phải mau mau sám hối, từ bỏ tật xấu này.

∗ Pháp Hội Sám Tội

Đầu năm 1995, tôi và Quả Lâm ở tại lầu ba Giảng đường của Thánh tự Phúc Lộc Thọ thuộc Los Angeles (thành phố lớn nhất bang California nước Mỹ), thay ngài Tuyên Hóa giải đáp những vấn đề mọi người nêu ra (thính chúng đến đây đa số là từ các nước, không quản ngại đường xa, qua Mỹ bái kiến ngài Tuyên Hóa và tham dự pháp hội này).

Chúng tôi chia nhau hồi đáp các vấn đề cho mọi người. Khi nghe xướng tên, một nam nhân tuấn tú cao khoảng một mét tám đứng dậy, đôi mắt vô thần, mặt đầy sắc bệnh. Anh nói:

-Ngài Quả Khanh, tôi là người Đài Loan, không theo đạo Phật Hiện giờ toàn thân tôi rát đau, tứ chi vô lực đã nhiều năm nay. ở Đài Loan tôi đã đi khám khắp các bệnh viện Đông lẫn Tây, sau đó còn qua Mỹ khám, nhưng không tìm ra bệnh. Đã tốn rất nhiều tiền. Nghe bạn bè giới thiệu có quý vị từ Đại Lục sang, có thể giải rõ nguyên nhân căn bệnh nên tôi vội đến đây. Tôi có một thỉnh cầu: Xin ngài chỉ nói riêng với mình tôi, có được chăng? Bởi tôi không muốn ai biết chuyện của mình!

Tôi bảo:

-Ngài Tuyên Hóa từng giảng: “Làm thiện mà muốn người biết là không phải thiện. Làm ác mà sợ người hay, là đại ác”. Chúng tôi cũng không đem những việc xấu anh làm mà nói hết ra, chỉ nương Phật lực gia trì mà nêu lên một hai chuyện, mục đích là giúp anh và đại chúng minh bạch đạo lý: “Muốn người đừng biết, trừ phi mình đừng làm”,và cũng để anh thể hiện quyết tâm: Dũng mãnh đoạn ác tu thiện, tỉnh giác hồi đầu…

Như anh đã chứng kiến, vừa rồi có mấy vị tại giảng đường này cầu xin chúng tôi chỉ ra những sai lầm đã phạm. Nay anh gặp dịp may được sám hối giữa đại chúng, đây quả là pháp sám hối chân chính tuyệt hay, vì phát huy tác dụng giáo hóa người khác rất vi diệu hữu ích, được sám hối giữa đại chúng như thế này chính là pháp “chuyển ác thành thiện” tối ưu đấy. Nhờ vậy mà những bệnh tật phát sinh do anh tạo ác, có thể sẽ tiêu tan không còn dấu vết. Đây chính là đạo lý mà Phật Thích Ca nói: “Nên quán tính Pháp giới, tất cả do tâm tạo”… Bản thân tôi đến 41 tuổi mới bắt đầu biết đoạn ác tu thiện, nên anh đừng cảm thấy xấu hổ… Thêm nữa, nếu như trong đạo tràng này ai cũng đòi giải đáp thầm kín riêng tư, thì sẽ mất đi ý nghĩa phát lộ sám hối giữa đạo tràng…

Nghe vậy, anh tiu nghĩu ngồi xuống, từ bỏ dịp may phát lồ sám tội.

Đột nhiên phía sau anh có một phụ nữ khoảng hơn 40 tuổi đứng dậy, xúc động la to:

-Thưa ngài Quả Khanh, những việc xấu của phụ nữ, tôi đều làm qua! Mọi người hãy nhìn các bệnh trổ trên thân tôi đây, tôi không ngại bị cười chê đâu. Xin ngài cứ nói ra hết những tội ác tôi đã làm và mong mọi người đừng phạm lỗi giống như tôi!

Chị ta nói xong thì ngồi xuống. Mọi người trong hội trường còn đang xúc động vì những lời phát biểu bất ngờ của chị, thì Quả Lâm đà mô tả:

-Khi chị này vừa nói xong, lập tức tôi thấy trên không xuất hiện một cánh tay to lớn, lấy ra (từ nơi giống như là kho chứa văn kiện) một xấp giấy có viết chi chít chữ, tôi định đọc nội dung trong đó thì xấp giấy này bỗng rơi xuống, bốc cháy… do bị lửa che hết chữ, nên tôi không nhìn thấy được gi…1

Tại hiện trường xôn xao như ong vỡ tổ, rồi một tràng vỗ tay vang lên, mọi người hiểu rõ thâm ý Quả Lâm nói. Phụ nữ vừa mới phát biểu khi nãy lộ vẻ xúc động, bước ra quỳ xuống trước mặt chúng tôi. Tôi và con gái vội xuống tòa, cũng quỳ đối diện trước chị. Tôi bảo mọi người:

“Chính sự chân thành sám hối mới có thể diệt được tọi lỗi đầy trời,ỉMỗi chúng ta cần quán sát, tự kiểm điểm mình trong mọi thời khắc, hễ vừa nhớ ra những tội đời này mình đã tạo, thì phải lập tức sám hối ngay, quyết không bao giờ tái phạm nữa. Được vậy thì không tội nào mà không tiêu! Phải biết chính sự can đảm nhận tội chân thành sám hối đó, sẽ chiêu cảm cdng đức vi diệu không thể ngờ!

Sám văn:

-Có những chúng sinh, hình dạng rất xấu: mặt đầy mụn nước, mũi xẹp, mắt đỏ, răng nướu thưa sún, hơi miệng tanh hôi, bụng to, tay chân co quắp; xương nhô ra, toàn thân ghẻ lở tanh hôi, máu mủ nhơ nhớp; hoặc bị phù thủng, phung hủi, ung thư, đủ thứ ác bệnh tụ hội vào thân, Không ai lý tới. Nếu người làm tội, vô cớ mình cũng bị vạ lảy. Hằng không được thấy Phật, nghe pháp, không biết Bồ tát, Thánh hiền. Sa vào chỗ khổ không bao giờ cùng. Vì nhân gì mà mắc phải tội ấy?

Phật dạy: Do đời trước phạm các lỗi: Làm con bất hiếu với cha mẹ; làm tôi bắt trung với vua, làm người trên không thương kẻ dưới, làm người dưới không biết kính kẻ trên, dối gian không thành thật, chẳng thủ tín với bạn bè, không nhân nghĩa với làng xóm; sống vô đạo đức, cư xử hẹp hòi, không độ lượng, lòng dạ đảo điên, ưa sát hại, phản bội Quân thần; khinh khi Tôn trưởng, bán nước buôn dân, phá thành phả lũy, cướp giật, trộm cắp, tạo ác nghiệp vô lượng. Hay khen mình chê người, hiếp kẻ già nua, lấn người cô độc; báng bổ hiền nhân, khinh mạn bậc trưởng thượng; khi dối người v.v… Vì nhân duyên ấy nên mắc phải ác báo như vậy.

Giải thích:

Chúng ta hãy tự đối chiếu với các tội Phật kể ra, tự kiểm kỹ xem mình có phạm hay không? Nếu có, cần mau chóng sám hối, bằng không tuơng lai sẽ bị quả báo rất đáng sợ.

∗ Quan Chấm Thi

Hai năm trước có một phụ nữ dến nhà tôi, kể rằng: Bà có một cháu gái hai mươi tuổi, mấy tháng trước toàn thân bị ngứa. Ngứa thì phải gãi, phải cào… mà càng cào càng ngứa, nên phải gãi cào đến rách da mới thấy đỡ ngứa. Hiện giờ tóc cháu còn bị rụng từng nhúm, tùng nhúm, chân lại sưng phù, y viện tìm không ra bệnh. Đã đi chạy chữa khắp nơi, dùng đủ thuốc rồi mà không khỏi. Là do nguyên nhân gì mà bị vậy?

Lúc đó con trai tôi là Quả Đạt cũng có mặt ở đó, liền hỏi bà ta:

– Phía trên bắp vế phải của cháu gái bà và trên cổ tay phải đang bị thối rửa lở loét nặng, phía bên tả cũng mọc các mụn đỏ lây lan khắp… đúng không?

Bà nói:

-Đúng vậy!

Quả Đạt bảo:

– Cháu gái bà đời trước là quan giám khảo chấm thi, do tham lam nên đã nhận tài vật hối lộ của đám con em nhà phú gia đút lót và ra tay áp bức một thư sinh ba mươi tuổi đà khổ công học tập nhiều năm, hại anh khốn, mất hết tiền đồ!

Vị thư sinh này do bị tên tham quan chèn ép, vùi dập đến không ngóc đầu lên nổi, tinh thần bị đả kích mạnh, tâm ôm đầy oán hận và chán nản… nên anh đã nhảy xuống giếng hoang tự tử. Hài cốt anh nhiều năm sau mới được người phát hiện ra. Vì vậy mà cháu bà bị ba quả báo:

1. Thân thể cô bị sinh ngứa, lở loét thối rửa, là do khởi ác tâm hại người cùng khốn, khiến bản thân nạn nhân suốt thời gian dài không có điều kiện tắm rửa, phải sống cảnh dơ bẩn nên sinh ngứa, do họ phải cào da rách đến lở loét, nên cháu bà cũng bị bệnh tương tự để nếm mùi đau khổ giống như người bị hại.

2. Bị rụng tóc là kết quả của việc: ưa dày vò hành hạ, làm khổ tinh thần người.

3. Chân bị sưng phù: Là do ép nên nhân vào tuyệt lộ đến họ phải nhảy giếng tự tử, khiến thi thể phình trướng vì bị ngâm trong nước.

Nếu cháu bà không chân thành sám hối, thì tương lai sẽ gánh lấy ác quả còn đáng sợ hơn nữa. Trong Phật giáo nói: “Muốn biết nhân đời trước xem quả thọ đời này” là rất đúng thật. Bây giờ, việc cháu bà cần làm là:

1. Phải thành tâm sám hối, thệ đoạn tuyệt đồ mặn, nguyện ăn chay trường, dứt sát, phóng sinh và lo tụng “Kinh ĐịaTạng” hồi hướng cho người bị hại đời trước. Hằng ngày phải kiên trì, có thể tụng bao nhiêu thì tụng, quỳ tụng là tốt nhất.

2. Phải phát nguyện từ nay về sau hết lòng trợ giúp trẻ em thất học hoặc sinh viên nghèo túng, gieo niềm tin và hi vọng cho họ.

3. Đóng góp tiền xây dựng, trang trí tự viện hoặc cúng dường chư Phật, Bồ tát, như: Phụ tô đắp dát vàng tượng Hộ pháp, hay tu bổ, tô lại mỹ dung tượng.

Nếu cháu gái bà thành tâm dốc sức làm, không những ác bệnh sẽ lành mà tương lai còn được làm quan chấm thi. Nhưng cô ấy không được cậy chức quyền thu lợi, hàm hại người. Ngược lại còn phải phù trợ, nâng đỡ, tạo cơ hội giúp cho học sinh thăng tiến… Hễ càng tận tâm, tận tụy với chức vụ bổn phận thì tương lai đời cô sẽ càng tốt. Bởi vì trong kiếp quá khứ cháu bà cũng có làm nhiều việc thiện cho bá tính và hiện thời phúc kia chưa hưởng hết…

Không bao lâu thì chúng tôi dời nhà đi, chẳng còn gặp họ nữa. Nhưng tôi biết rõ là bệnh nhân đã lành. Nay xin đem câu chuyện này kể ra, mong có thể cảnh tính người.

Làm con ngỗ nghịch hay chọc cha mẹ gian là bất hiếu. Chỉ cần điều cha mẹ yêu cầu không gây tổn hại gì đến lợi ích quốc gia hoặc nguôi hay vật, thì có thể chiu theo. Nếu có tư tiròng khác biệt, thì nên theo ý của cha mẹ. Có người viện cớ: Vào thời đại tân tiến phải có “tự do nhân quyền” nên không tán thành thuyết này. Nhưng quy luật tự nhiên không thể vì thời đại mà thay đổi. Cha mẹ có cm giáo dưỡng ta thành nhân, không có cha mẹ thì không thể có ta, nếu viện cớ thời đại mà cho phép mình sống theo bản năng mặc kệ cha mẹ, là bất hiếu.

Nói đơn giản một chút, nếu cha mẹ đòi ăn cơm mà bạn khăng khăng muốn làm mì, thường làm trái ý song thân, như vậy là bất hiếu. Trong kinh Tâm Địa Quán, Phật thuyết: “Nếu có con trai hay gái sống bội ân bất hiếu, thì tâm cha mẹ sinh niệm oán, mà phát ác ngôn, thì con sẽ theo đó bị đọa, hoặc sa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Cha mẹ và Tam bảo như nhau, đều là phúc điền của chúng sinh. Là ân sâu nặng đầu tiên trong bốn đại ân.

Do mẹ cha “ân sâu nan báo”, nên chỉ có: Giúp cha mẹ tin Phật, trì giới, hành pháp, tu giải thoát… (mới là người đại hiếu có trí huệ). Bồ tát Đại thừa hiếu tâm cực lớn (vì xem tất cả chúng sinh là cha mẹ mình). Do chúng sinh từ vô thỉ đến nay từng là cốt nhục thân quyến của ta, đã từng làm cha mẹ ta.

Làm thần chẳng nên bất trung. Làm Thượng cấp thì không nên tham ô tư lợi hay lấy đồ công làm của riêng.

Là bạn bè thì phải dùng tín nghĩa mà đối nhau, không nên cư xử bất lương bất nghĩa.

Nếu làm quan mà chẳng chủ trì công đạo cho bá tính, lại tham ô mê nhận hối lộ, thường lãng phí hoặc lạm dụng công quỹ, thậm chí còn hãm hại người, lăng nhục người tuổi cao hoặc trưởng bối, cấu kết với xã hội đen, xâm hại lợi ích quốc gia, áp bức dân lành, những người như vậy sẽ bị quả báo như trong kinh đã kể.

Chúng ta phải tự kiểm điểm, nếu nhận ra lỗi thì phải sám hối ngay, nguyện nghiêm trì giới Phật.

Sám văn:

Phật dạy: sống phải siêng năng hiếu dưỡng cha mẹ; kính sư, qui y Tam bảo, siêng tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, từ bi, hỷ xả… xem kẻ oán người thân như nhau, không khinh người già nua, cô quả; không xem thường kẻ nghèo; sẵn lòng giúp đỡ… không ôm tâm ác đối với người.

Nếu tu được như vậy thì cũng đã báo được ân chư Phật; hằng xa lìa ba đường ác, không còn đau khổ nữa.

Giải thích:

Người tu ai cũng muốn thành tựu, khai mở đại trí huệ, nhưng do căn khí bất đồng, nên mỗi mỗi biểu hiện khác nhau. Có người sinh ra thông minh hiếu học, có kẻ ngu độn. Giảng theo lục đạo luân hồi thì: Có người vừa mãn kiếp trời là sinh vào nhân gian, nên rất thông minh. Có kẻ mãn kiếp súc sinh rồi mới lên nhân gian Iàm người nên còn ngu độn.

Chẳng hạn như người vốn là Nhạc thần trên trời, khi sinh xuống nhân gian thì ngay từ nhỏ đã bộc lộ thiên tài âm nhạc. Nếu họ ở trên trời từng là vũ công, thì khi sinh xuống nhân gian ngay từ nhỏ đà giỏi khiêu vũ. Do người trên trời dư báo chưa tận, nên phúc cũng còn nhiều. Còn kẻ trước khi đến nhân gian nếu từng là loài khỉ vượn thì tánh ắt hiếu động. Còn loài từ trong hổ lang tới ắt tính hung hãn ưa đấu đá. Như nam nhân từ cõi A tu la tới, sẽ có tính hiếu chiến ưa đấu tranh, tướng mạo hùng mãnh; các nữ nhân từ A tu la tới, tuy xinh đẹp như tiên nhưng có tâm tật đố rất mạnh:

Xin kể câu chuyện thực về một nữ nhân từ cõi trời hạ phàm để quý vị tham khảo:

∗ Mỹ Tú

Năm 1990, ở Nam Kinh có một nữ giám đốc đến hỏi Quả Lâm thế này:

-Mẹ tôi năm nay 70 tuổi, bị bệnh tim đã hai năm, lại còn mắc bệnh suyễn nghiêm trọng.

Quả Lâm nói:

-Có phải mẹ cô thông minh, khéo tay, tính rất ưa thêu thùa?

Cô ta vừa nghe hỏi thì mặt mày hớn hở, vội khoe ngay đây là thiên tài trời phú: Lúc mười hai tuổi mẹ mình đà nổi danh thêu đẹp khắp xa gần. Hiện tại dù bà bị bệnh, nằm trên giường đã hai năm, nhưng chẳng chịu ở không, còn tự thêu áo gối cho các cháu trai, cháu gái… để sau này đến lúc kết hôn, chúng có mà dùng. Các cháu đều kính yêu bà. Do chứng bệnh tim chữa trị tốn rất nhiều tiền mà không hết, nên cô rất lo cho mẹ. Cô vừa kể vừa rơi nước mắt.

Quả Lâm bảo:

-Cô đừng buồn thái quá, là con người thì phải có sinh già bệnh chết, y viện không thể nào trị lành cho tất cả bệnh nhân. Mẹ cô đời trước là thiên nữ & Cung Thêu, thuộc cõi Đao Lợi Thiên, do chúng trời cõi Dục giới tâm còn dục vọng, nên khi bà dùng thiên nhãn quan sát nhân gian, nhìn thấy tình yêu nam nữ ở cõi nhân gian, liền khởi niệm ưa thích (cũng do bà có nhân duỵên đời trước với phụ thân cô nên bị nghiệp tham ái này trói buộc, khiến xui dẫn dắt…), vì vậy mà bà lập tức bị đọa, đầu thai vào nhân gian.

Thời gian trên trời dù ngắn ngủi chỉ tợ… uống chừng ly nước, thì dưới đất đã trải qua mấy mươi năm rồi! Vì vậy mà khi các thiên nhân phát hiện bạn mình vắng mặt, họ liền cúi đầu ngó xuống nhân gian tìm kiếm… thì thấy mẹ cô đã… có con cháu đầy nhà rồi. Do lúc mang thân trời mà khởi ý niệm không thanh tinh, nên mẹ cô bị quả báo là mắc bệnh tim.

Cô có thể thay mẹ sám hối trước Phật, ở trước tượng Phật tụng “Kinh Địa Tạng” cho mẹ. Hễ tụng càng nhiều công đức càng lớn. Bởi vì công đức tụng kinh có bảy phần thì mẫu thân cô chỉ hưởng được một (Cô nên cho mẫu thân biết rõ lai lịch mình, để bà đích thân phát tâm sám hốì sẽ hiệu quả hơn).

Theo quan niệm của nhân gian (bao gồm các lập luận lẫn phim, sách…), đa số thường xúm nhau tô hồng tình ái, dệt gấm thêu hoa quanh nó, luôn mỹ hóa và ca ngợi tình yêu nam nữ đủ điều… Hoàn toàn chẳng biết rằng: Cho dù là chánh dâm1 đi nữa, vẫn không hoàn hảo và mỹ mãn như họ tưởng, về điểm này xin hãy tìm xem “Kinh Thọ Thập Thiện Giới” thì sẽ minh bạch. Vì vậy mà trong “Kinh Lăng Nghiêm” Phật tuyên bố: “Tam dâm chẳng trừ, trần không thể xuất”…

Còn nữa, mẹ cô khi nằm mà gối đầu nghiêng về bên tả là sai, tôi thấy có hai vật bà không nên dùng. Một là: Cạnh bà có một túi vải, bên trong chứa toàn những vật màu trắng, tôi tuy nhìn thấy nhưng chưa nhận rõ đó là gì. Hai là: Trên tường đối diện giường mẹ cô có treo bức tranh. Hai vật tôi vừa kể vốn không phải là “của nhà các vị”. Do vậy chúng sẽ phát ra khí xấu chán nản, làm mẹ cô khó thở, không thoải mái.

Nữ giám đốc kinh ngạc đến ngây người, vội nói:

-Em gái tôi làm Hộ lý trông trong bệnh viện, do mẹ có đàm nhiều, nên nó hay đem một số vải gạc trong kho dự trữ về, để dành cho mẹ nhổ đàm chùi miệng. Em tôi nói “Ai công tác tại bệnh viện đều có thể tùy ý lấy về xài”…Còn bức tranh treo tường là của bệnh nhân ra viện tặng cho y viện để cảm tạ, và y viện chia cho công nhân viên chức đem về nhà. Thế mà cũng không được hay sao?

Quả Lâm bảo:

-Lấy vải gạc (là tài sản thuộc bệnh viện) đem về nhà dùng tức đã phạm lỗi trộm. Biết quan tâm chăm lo cho mẹ là tốt, nhưng xài trộm đồ công là xấu! Do tạo nghiệp thiện ác lẫn lộn như thế thì một khi quả trổ: Ắt trong vui có khổ! Bức tranh là do bệnh nhân cảm tạ y viện, tức thuộc về tài sản của bệnh viện. Nếu khi nhận hay xài mỗi người nên nộp một số tiền sung công, thì có lẽ sẽ không thành vấn đề! Chuyện đem tranh phân chia cho công chức, hành động này là “rút công bồi tư”, ai mà nhận tức đà tự đem luồng khí không tốt về nhà mình và quả báo phải gánh vác sẽ càng lớn…

Đây là kinh nghiệm tôi rút ra được trên đường học Phật, thực ra loại chuyện này rất nhiều. Bỗng nhiên tôi nhớ tới một chuyện nhỏ, xin kể cúng dường các vị.

Trong các sách giảng giải, ngài Tuyên Hóa hay kể về tình hình chư Thiên cõi Lục Dục Thiên, từ Sơ thiền trở xuống (như: Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên) kể rằng Thiên nhân và người thế gian chúng ta hình thể giống nhau, cũng có kết hôn, chỉ là phẩm bậc càng cao thì cách biểu lộ dục niệm càng nhẹ.

Ngài Tuyên Hóa đã giải thích các dục ở các cõi trời như sau:

Tứ (Thiên) Vương, Đao Lợi, dục: Ôm nhau. Dạ Ma: Tay nắm, Đâu Suất: Cười. Hóa Lạc: Chỉ liếc thôi là đủ.

Đấy là dục lạc 6 tầng trời.

Nếu độc giả tinh tấn tu hành, một hôm nào khai mở Thiên nhãn, thì sẽ thấy rõ hết tình huống chư Thiên nơi tam giới.

Phàm phu như chúng ta vì không hiểu Phật pháp, cho nên cử tâm động niệm không gì mà không là tội, không là nghiệp. Ta thường lý luận: “Ở gần hiên lầu trước được ngắm trăng”, nên hay lợi dụng công tác chức quyền, ham lấy đồ công xử dụng như của riêng nhà mình. Có người còn cho rằng “Đấy là do mình hữu phúc”. Hoàn toàn không nhận ra đây là lòng tham si điên đảo, rất đáng thương.

Người có hành vi như thế, là do tham tâm xui khiến, nếu muốn chuộc lỗi thì nên bỏ ra một số tiền để trợ học, cứu nghèo, hoặc giao cho cơ quan từ thiện, hay giúp in thiện thư, kinh sách v.v… cũng có thể tiêu trừ tội nghiệp.

Bản thân chúng tôi đã mua nhiều tập “Khai Thị” của ngài Tuyên Hóa tặng cho người, để sám trừ tham tâm minh. Bởi vì sách này dạy chúng ta minh bạch nhân quả, hiểu nên làm người ra sao.

Chúng ta không nên xem thường mình, tuyệt không phải đời này chúng ta mới bắt đầu học Phật, nếu vậy thì ta chẳng thể tham dự lạy Bảo sám hoặc nghe kinh pháp… Ngài Tuyên Hóa giảng: Phàm những ai có thể nghe “Kinh Lăng Nghiêm”, đọc “Kinh Lăng Nghiêm”, tụng chú Lăng Nghiêm… thì người này đã có trồng nhân duyên rất sâu với Phật. Vì vậy chúng ta nhất định phải phát vô thượng Bồ-đề nguyện, sinh tâm dũng mãnh, sám hối lỗi xưa, tỉnh giác liền, hành “Như* Lai thiền, Lục độ Vạn hạnh chu toàn, thì thế gian nơi noi đều là đạo tràng, chịu trì giới ắt có định huệ hiện tiền”.

Sám văn:

Tín Tướng Bồ tát bạch Phật:

-Bạch Thế Tôn, kinh này gọi là kinh gì? phải phụng trì bằng cách nào?

Phật bảo: Kinh này gọi là “Nghiệp Tội Báo ứng Giáo Hóa Địa ngục Kinh”. Các ngươi nên phụng trì và lưu truyền cùng khắp, công đức vô lượng”.

Kinh Tạp Tạng ghi:

Có con quỷ bạch với Ngài Mục Liên rằng: -Thân tôi không có đầu, nhưng hai vai có mắt, ngực có mũi miệng… Do nhân duyên gì mắc phải tội này?

Ngài Mục Liên đáp: Đời trước ngươi làm học trò ở nhà hàng thịt, khi thấy giết trâu bò thì tỏ ra vui mừng, lấy dây trói, lôi kéo nó. Vì nhân duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó chỉ là là hoa báo (mới ra hoa), quả kết sẽ là ở địa ngục.

Giải thích:

Chuyện này cũng cảnh tỉnh chúng ta, khởi ác niệm tùy hỉ với việc sát sinh, cả đến góp sức hỗ trợ giúp người tạo ác nghiệp đều Iãnh thảm báo nặng nề, huống là đích thân tự làm? Chúng ta nhất định phải viễn ly thập ác sát sinh, cả đến ý niệm tùy hỉ thôi, cũng không được khởi.

Sám văn:

Có con quỉ hỏi Ngài Mục Liên: Thân tôi như khối thịt, không có tay chân, mắt, tai, mũi, lưỡi… lại thường bị trùng, chim… mổ, cắn rứt ăn, gây đau đớn không thể chịu nổi. Vì nhân gì mà mắc phải tội này?

Ngài Mục Liên đáp: Đời trước ngươi cho người uống thuốc độc phá thai, hại sản, khiến chúng sinh không toàn mạng sống. Vì nhân ấy nên mắc phải tội như vậy!

Giải thích:

Đây là ác báo phá thai. Tôi từng nghe người kể: Có người phá thai, do thai nhi đã lớn không thể kéo ra, nên trước tiên hễ ló tay cắt tay, ló chân cắt chân… tóm lại là cắt thai thành từng miếng rồi lấy ra. Ôi! Chúng sinh rõ đáng thương, vì nhất thời ham dâm dục, không chú ý tránh thai… để cho sinh mệnh hữu duyên nhập thai, tạo thành thống khổ cực lớn… Thai nhi này có lẽ đã luân hồi trong ác đạo ngàn vạn năm, nay mới được cơ hội đến thế gian làm người, nhưng lại bị tước đoạt mạng sống, mà người tạo thống khổ đoạt mạng… Ịại là cha mẹ của em. Đời này lẫn đời sau họ tất bị ác báo giáng thân.

Vì vậy những nam nữ phá thai, thậm chí người phụ giúp phá thai, phải mau sớm quỳ trước Phật sám hối, vì thai nhi thành tâm tụng Thật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Kinh” tụng bao nhiêu biến mới có thể diệt tội tùy theo tâm thành mà định. Nếu biết hối tội, tâm như Thái Sơn đổ, thì tụng một biến liền có thề tiêu nghiệp, may mắn được thai nhi tha thứ. Còn nếu cứ thản nhiên không thấy mình có lỗi, chẳng sinh tâm sám hối, thì dù tụng trăm quyển cĩing không thể giải nghiệp.

Một nữ bác sĩ của bệnh viện lớn nọ chuyên đảm trách việc phá thai, sau khi nghe tôi giảng xong, nước mắt bà rơi ràn rụa. Do bà giỏi tay nghề, kỹ thuật cao… nên có rất nhiều thai phụ tìm đến nhờ bà phá cho. Hiện nay bà đã về hưu, cả đời phá bao nhiêu thai bà cũng không nhớ hết được. Hiện toàn thân bà đang bị căn bệnh đau đớn không tên, giờ mới biết rõ nguyên nhân. Bà hỏi tôi mình phải làm sao? Tôi khuyên bà nên làm như tôi vừa thuyết giảng.

Hôm sau bả nhờ người báo tin cho tôi hay rằng: Tối đó bà quỳ trước Phật, vừa khóc vừa tự đánh vào mồm mình, (tôi không hề đề xướng là phải tự vả mình) bà nói do mình không hiểu Phật pháp, nên đã mê muội tạo ra nhiều thống khổ cho vô số sinh mệnh hài nhi, tội khó dung thứ… Giờ đây xin tụng kinh cầu cho những chúng sinh bị bà làm hại, khẩn cầu Phật lực gia hộ cho các bé sớm lìa khổ được vui, trở lại nhân gian, sinh trong gia dinh thiện lành, được tu học theo Phật pháp. Bà kể không nhớ rõ mình đã tụng bao nhiêu bộ kinh, mài cho đến khi mắt không còn mở ra được nữa và ngủ thiếp đi… Bà mơ thấy mình ở một nơi hỗn độn mịt mù, không có trời đất. Đột nhiên nghe vô số tiếng trẻ con gọi “Má ơi”… bên tai minh. Mới đầu nghe gần rồi dần dần xa hẳn, cho đến khi không còn nghe nữa. Giật mình thức tính, bà ngồi bật dậy, cảm thấy toàn thân trở nên thư thái dễ chịu chưa từng có. Bà lập tức hiểu ra: Lòng thành của mình đã được các vong thai bị hại tha thứ, và chúng đã chịu rời bỏ bà, đi đầu thai làm người rồi. Thế là bà liền đứng dậy, đến quỳ trước Phật đường, dập đầu lạy tạ ân cho đến khi trời sáng. Lúc rửa mặt mới phát hiện hai bên má đã hết bị nám đen, hồng hào trở lại, bà phát tâm bỏ ra một vạn in kinh ấn tống.

Tôi kể câu chuyện này cho chư vị nghe, là muốn nhắc mọi người: Phải thực sự biết lỗi thành tâm ăn năn, vĩnh viễn không tái phạm lại mới là sám hối, nếu chỉ đọc văn sám ngoài migng mà trong lòng không thực sự ăn năn chừa bỏ, thì không gọi là sám hối, nên chẳng diệt tội được. Ngoài ra, do nước ta theo chính sách một con, nên các vợ chồng cần tiết chế, lo ngừa thai tốt, đừng để xảy ra cảnh phá thai, tội này sẽ phải gánh rất thảm…

Những vị đã phạm tội thì phải biết ăn năn sám hối, nên tận lực cầu siêu cho thai nhi.

Sám văn:

Có con quỷ hỏi: Bụng tôi to như trống, cổ nhỏ như kim, quanh năm suốt kiếp không ăn uống gì được. Do nhân duyên gì mà mắc phải tội này?…

Ngài Mục Liên đáp: Đời trước ngươi làm chủ thôn, tự ỷ mình hào quý, mặc tình tung hoành, khinh khi… cướp thức dùng của người, khiến người đói khát, khốn khổ. Vì nhân duyên ấy, nên bị như vậy. Đó là quả báo mới đơm hoa, sau sẽ kết quả ở địa ngục.

Giải thích:

Xem kinh giảng rõ, chúng ta phải biết ăn năn sám hối. Vì từ vô thỉ đến nay, chắc chắn chúng ta đà tạo vô lượng vô biên tội ác. Những tội này đều do không có lòng từ, ỷ mạnh hiếp yếu, làm hại chúng sinh… cả đến trộm cướp của người, do mê muội mà xa lìa nẻo chánh, dùng lời ác vu báng Thánh hiền, tạo đủ tội ác. Những tội nặng này nhất định sẽ chiêu quả báo khổ trong cõi ác. Cho nên hôm nay chúng ta thành tâm bái sám, vì những chúng sinh thọ khổ trong lục đạo, vì cha mẹ, sư trưởng, tất cả quyến thuộc, chúng sinh… mà diệt trừ tội, thề không tái phạm nữa. Nguyện từ đây nhất quyết không tạo ác nghiệp, xin Phật chứng minh.

Tạo ác phải lãnh quả báo rất đáng sợ, vì vậy đời này ta phải nguyện tu hành chân chính để giải thoát mọi khổ đau.

∗ Phải Dùng Trí Mà Xem

Năm 1996, ở Hà Nam có một vị mới phát tâm tin Phật. Nửa đêm ông gọi điện tới nói: Vai hữu tôi đau chết đi được!… Và hỏi Quả Lâm nguyên nhân là do đâu?

Quả Lâm hỏi: Có phải ông lấy trộm rất nhiều than của công khố?

Ông “À‘Tên một tiếng và nói:

-Cô không nhắc thì tôi cũng quên béng đó là trộm. Hiện tại nhà tôi dùng than đều là của “Xưởng Hóa Học” thuộc cơ quan vợ tôi công tác. Bao nhiêu năm nay đều quen dùng như vậy, cũng không nghĩ làm vậy là trộm than!

Hóa ra, nhà họ và xưởng than chỉ cách nhau một bức vách. Sát tường là kho chứa than của c6ng ty, nên họ tùy tiện lấy xài, mà công ty thì không ngừng chất than mới vào, nên chẳng ai phát hiện ra than bị họ lấy…

Nhà họ điềm nhiên xài than và cho đây là việc thường, không hề nghĩ đây là hành vi trộm. Nói ra cũng ngộ, trong lúc nghe giảng giải việc này rồi, họ khởi niệm sinh tâm sám hối, thì bệnh đau cũng tiêu tan.

Khoảng một tuần sau, ông ta lại gọi điện tới nói là vai tả mình lại phát đau.

Quả Lâm bảo:

-Lần trước ông đã biết do trộm than mà vai phải phát đau rồi, thì lần này cũng là tội cũ, ông phải tự tỉnh, hằng kiểm điểm xem đễ hiểu được mình đã làm việc xấu gì, thì mới ngăn được trăm việc, ngàn việc khác sẽ xảy ra nữa… Tự bản thân ông phải hồi tưởng, nhớ kỹ lại hết để mà sám hối, chứ không thề cứ ỷ lại, mong chờ người khác chỉ dùm, giải thích giúp cho ông từng việc được! Bởi quá khứ ông cùng Phật có duyên, nên chư Phật Bồ tát mới dùng phương thức này để cảnh tĩnh ông. Từ rày trở đi phải tự mình hồi tưởng kiểm điểm, sám hối hết các tội sát, đạo, dâm, vọng… đã phạm qua, phải siêng lễ Phật, niệm Phật, sám hối cho nhiều vào. Hằng ngày nên tụng “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho chúng sinh, thì sẽ có ngày khổ tận cam lai. Ngoài ra nên hành Lục độ vạn hạnh, độ mình độ người. Giờ tôi xin hỏi:

-Trong sân nhà ông hiện có một chái bếp nhỏ?

-Dạ phải.

-Xà ngang nhà bếp chính là “của lấy trộm” về dùng?

Ông ta kinh ngạc “À!” lên một tiếng, nói:

-Đúng rồi, cũng là lấy của “Xưởng Hóa Học”… tính ra từ đó đến nay cũng gần mười năm rồi.

Quả Lâm hỏi:

– Có phải “vật trộm” gồm sáu cây đòn ngang dài hai mét, được dùng cho chái bếp?

Ông ta đáp:

– Để tôi đi kiểm xem…

Một lúc sau, nghe tiếng ông kinh hoảng hét to: -Ôi trời ơi! Quả đúng là sáu cây! Tiểu thư! Cô làm tôi sợ chết đi được! Vì cô chưa bao giờ tới nhà tôi, nhưng lại thấy và tả rõ mồn một như thể nó đang ở ngay trước mắt. Sao mà cô có thể thấy những việc chúng tôi làm quá rõ ràng như thế chứ hả?

Quả Lâm bảo:

-Trên trời vốn có nhiều “Tuần cảnh” luôn dõi xem và ghi lại đủ hết mọi việc thiện ác của từng cá nhân đã làm mà!

Điện đàm xong, thì vai ông nọ cũng hết đau.

Từ đó về sau ông càng kiên định đạo tâm, tinh tấn tu, nghiêm trì giới luật, không dám cẩu thả mảy may. ông siêng năng tham thiền, tĩnh tọa… cuối cùng thì một hôm cũng phát trí huệ, hiểu rõ hết nhân quả, nhớ được túc mệnh và bắt đầu bước vào con đường tu hành tự độ mình và độ người.

Bất kể ta hành thiện hay hành ác, thảy đều “tích tiểu thành đa”. Người thường hành thiện, ngày càng “Đức cao vọng trọng, chúng nhân cung kính”… Quả thiện không cầu mà tự đến. Còn người thường làm ác, theo năm tháng tích lũy, thói ác hành quen, tội lớn mịt mù… nên tai họa không mời mà tự dến.

Trong “Kinh Địa Tạng”, Ác Độc quỷ vương thưa với Phật:

-Bạch Thế Tôn, chư quỷ vương chúng con số đông vô lượng, & cõi Ta bà này hoặc làm lợi cho người hoặc làm tổn hại người. Mỗi mỗi không đồng nhau, là tùy theo nghiệp báo của họ.

Câu “Thiên tai nhân họa” có nghĩa là: “Trời sở dĩ giáng tai nạn, là do người chiêu mời đến”. Chúng ta hiểu rõ lý này rồi, thì cần phải tức khắc đoạn ác tu thiện. Trước tiên phải thực lòng sám hối tội đã tạo, phát tâm hướng thượng, thì ta mới có thể được đại thần lực Phật gia trì. Phật lực dù lớn, nhưng nếu chúng ta không chịu tu, thì Phật cũng vô phương cứu chúng ta thoát ly tam giới.

Giống như cha mẹ dù có địa vị cao, quyền lực lớn, nhưng nếu con phạm quốc pháp, thì sớm muộn gì cũng bị trừng trị, cha mẹ chỉ có thể đau xót nhìn mà thôi. Vì vậy phải “Đoạn ác tu thiện, y giáo phụng hành, tự thanh tịnh ý”… mới là con đường tu sửa chân chánh.

∗ Tu Phải Có Trí Tuệ

Ngày 14 tháng 9 năm 2006, tôi đi cùng một phái đoàn đến tham quan Đông Hoa Tự. Có một nữ cư sĩ hơn 40, nghe nói tôi là tác giả sách “Báo ứng Hiện Đời”, liền chặn tôi lại, chìa bàn tay bị thiêu hết lóng đầu ngón cái ra, kể rằng tối đến thì đau nhức lắm.

Tôi hỏi:

-Ai xúi bà thiêu tay vậy?

Bà đáp:

-Nghe nói: Nếu thiêu tay sẽ diệt tội nghiệp đời trước…

Tôi nghiêm mặt, không chút khách sáo bảo:

-Bà hiện tại vẫn còn sát sinh, còn làm nhiều việc xấu, thì sao có thể diệt tội kiếp trước được?

Bà nói:

-Tôi từ lâu đã không sát sinh, cũng chẳng làm gì xấu!

Tôi bảo:

-Bà vẫn còn đang ăn thịt, chẳng biết rằng ăn thịt vẫn là sát sinh hay sao?

-Tôi chỉ ăn… có một chút thôi mà!

Tôi bảo:

-Hằng ngày nếu tham ô dù chỉ một xu tiền, vậy có phải vẫn là phạm tội không?

Bà chẳng nói gì. Tôi bảo:

– Có phải tai trái bà bị điếc đôi chút?

– Dạ phải.

– Bởi vì trong tai bà chứa đầy vật đã lấy trộm…

Bà phản đối:

-Tôi không có lấy trộm gì cả!

Tôi hỏi:

-Vậy khi thấy trái cây nhà người mọc thò ra ngoài tường, bà đã hái trộm bao nhiêu?…

-Một quả!

Tôi nói:

-Được! Cứ cho là một quả! Bà làm thế mà không phải là trộm hay sao? Ngoài ra bà còn lấy trộm gì trên đất nhà người nữa?…

– Tôi không có trộm gì cả!

– Thế thứ bà khom limg lấy… là vật gì?

– Chỉ là cây sào thôi, nhà họ đâu cần đến n6!

– Chính miệng người chủ nói với bà là: “Họ không cần ư?”…

-Không có nói!

-Thế không phải bà trộm thì là gì?

Người tại hiện trường đều bật cười vì thái độ mập mờ của người phụ nữ thôn quê này.

Thật sự tôi có khen bà: Vì muốn tiêu trừ nghiệp chướng mà thành tâm thiêu tay (nhung lại quá khờ khạo, bởi chẳng hiểu lý mà cứ nhắm mắt làm bừa theo người xúi bảo)… Chỉ có hiểu rõ giáo lý rồi tuân hành mới là tu chân chánh. Bà đã mê tín, làm sai, vì vậy mà phải chịu đau đớn: Bởi vừa thiêu tay xả thân, lại vừa ăn thịt, trộm cắp…

Tôi giảng “Tứ chủng thanh tịnh minh hối” trong “Kinh Lăng Nghiêm” cho bà nghe và nhắc bà: Nhất định phải nghiêm trì Ngũ giới, tu Thập thiện mới có thể thành tựu đạo nghiệp. Tôi dặn bà: Từ nay về sau phải tụng mỗi ngày một bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho những chúng sinh tùng bị bà giết ăn. Nếu thực sự làm được như thế, ngón tay bà có thể tối nay chẳng còn đau nữa.

Sám văn:

Khi ấy các ngạ quỷ đồng đến hỏi Ngài Mục Liên. Một con hỏi: Tôi cả đời thường bị đói khát, muốn vào nhà xí lấy phần ăn; thì trên nhà xí đã có con quỷ to lớn lấy gậy đánh tôi; nên tôi không đến gần nhà xí được. Vì cớ gì mà tôi măc phải tội ây?

Ngài Mục Liên đáp: Đời trước khi làm người, ngươi là chủ chùa. Gặp Tỳ kheo khách đến khất thực. Ngươi keo kiết không muốn đãi khách, chờ khách đi rồi mới cho chư Tăng thường trú trong chùa ăn. Vì ngươi tham của, cư xử vô đạo, do nhân ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là hoa báo, quả chính sẽ trổ ở địa ngục.

Giải thích:

Mục Liên là vị đệ tử thần thông đệ nhất của Phật Lúc này vừa xuất định đi dến bên s6ng Hằng, chúng ngạ quỷ vừa thấy Bồ tát là tranh nhau thưa hỏi nguyên nhân đời trước của minh.

Chúng ta thường nói: Cúng dường Phật, Pháp, Tăng. Tăng: Là những vị theo Phật xuất gia. Tài vật tín chúng cúng dường chùa đều thuộc về Tăng thập phương sở hữu. Vì vậy nếu bạn chỉ cúng dường cho một Tỳ-kheo trong đó thì không đúng pháp. Khi Tỳ-kheo sống trong chùa tiếp nhận tín chúng cúng dường, tất cần nhập của công. Nếu cho rằng họ cúng dường chúng mà minh được quyền lấy cất giữ dùng riêng, tức là phạm tội: Trộm vật của Tăng.

Là sư phụ, bạn cũng không nên cho rằng: Hễ mình thu đồ đệ, qui y cho thì họ là đệ tử mình!

Thực ra bạn chỉ là vị Sư thay Phật qui y thu nhận đồ đệ mà thôi. Cư sĩ có thể hướng dẫn cho hàng thế tục qui y Phật, Pháp, Tăng. Nhưng họ không thề thay Tăng đoàn tiếp nhận qui y. Các Đạo tràng Phật giáo đều là Đạo tràng thập phương tín chúng, không thể xếp các tín chúng chẳng thuộc Tông môn mình là hạng ở ngoài cửa. Còn nếu bạn cho rằng: Mình chỉ là đồ đệ hoặc Thầy của Tông phái này và cư xử hết sức phân biệt với Đạo tràng Tông phái kia…thì đây là tri kiến sai lầm. Bởi cộng đồng tín chúng đều là đệ tử Phật Thích Ca, đều có chung bậc đạo sư là Phật. Vì vậy Đạo tràng là của tất cả thập phương. Người có tâm chia bè phái, giống như Đề Bà Đạt Đa chia rẽ tăng đoàn, tất nhiên bị tội đọa vô gián.

Sám văn:

Lại có một ngạ quỉ hỏi: Vì sao cả đời tôi trên vai luôn có cái bình đồng lớn đựng đầy nước sôi. Tôi bị nước sôi xối từ trên đầu xuống, khổ vô cùng?..・

Ngài Mục Liên đáp:

-Lúc làm người, ngươi là Sư Tri sự trong chùa. Có một bình sữa, ngươi lén giấu, tới giờ thọ trai cũng không đem ra chia cho chúng, đợi khách đi hết rồi, mới đem chia cho người trong chùa. Sữa này là vật tín thí cúng dường cho chúng Tăng mười phương, nên tu sĩ nào cũng có quyền hưởng. Vì ngươi xan tham, cư xử vô đạo, nên mắc phải tội như vậy. Đây chỉ là hoa báo. Quả sẽ trổ ở địa ngục.

Giải thích:

Vật thuộc Tăng chúng bốn phương mà chẳng cho họ dùng, lại hành xử xan tham vô đức, cho nên phải sinh làm ngạ quỷ thọ tội. Trừ phi tín thí cúng dường riêng, chỉ muốn dâng cho tu sĩ trong chùa, thì không bị lỗi. Người xuất gia ở khắp tứ phương đều cùng họ Thích, là một nhà, thế thì có vật nào lại không thể cho nhà mình dùng?

Đạo tràng Tam bảo không phải chuyện nhỏ. Đã tu hành thì phải minh lý không được làm sai. Chẳng biết mà phạm thì cũng là tội. Ngay đây sám hoi ắt có thể tiêu trừ.

Xin kể câu chuyện có thực phát sinh vào cuối đời Thanh:

∗ Phải Dùng Của Tín Thí Cho Đúng

Có cặp mẹ chồng nàng dâu nọ, là tín đồ thuần thành của chùa. Năm đó chùa chuẩn bị trùng tu, nên hướng đại chúng quyên góp. Hai mẹ con này sau khi bàn bạc một hồi lâu, thì quyết định đem khối đá to là của gia bảo tổ tiên để lại dâng cúng cho chùa làm bia hoặc nền chùa. Cúng xong hai mẹ con đều rất hoan hỉ.

Khi đó thầy Quản viện quyết định sẽ đặt đá này làm nền trang trí trong chùa, nhưng sau đó chùa mua được đá bên ngoài làm nền, nên khối đá quý kia bị sư Tri khách lấy làm đá lót đường đi.

Sau khi chùa tu sửa xong, hai mẹ con nọ nhìn thấy tảng đá gia bảo của họ bị dùng làm đá lót đường, trong Iòng phẫn nộ không nguôi, nhưng việc đến nước này rồi, chùa cũng đã xây xong, họ không thể nói được gì, dành nhẫn nhục nuốt giận.

Thế nhưng khách đến dâng hương khi đi qua tảng đá lót đường này, ai cũng tấm tắc suýt xoa khen tảng đá kia quá đẹp nhưng bị dùng lãng phí…

Nhiều năm trôi qua, việc này đi vào quên lãng. Năm nọ sư Tri khách lâm trọng bịnh qua đời, Tăng chúng trong chùa lo làm lễ siêu độ. Trong thời gian này có vị Tăng là bạn thân của ông, nằm mơ thấy ông toàn thân đầy thương tích, mắt đầm đìa lệ, bảo rằng:

-Tôi hiện đang bị đọa địa ngục thọ khổ, xin hãy cứu tôi…

Vị Tăng này hỏi:

-Bình thường huynh trì giới tu hành tốt, đâu thấy phạm lỗi gì, sao có thể xuống địa ngục thọ khổ được chứ?

-Có chuyện này thầy không biết, mấy năm trước lúc chùa tu sửa, có hai mẹ con nọ mang đá đến cúng. Tôi nhất thời hồ đồ đem dùng làm đá lót đường, đây là của gia bảo do tổ tiên họ để lại, mà họ phát đại tâm hiến cúng. Nhưng tôi lại cầm của báu sung làm đá lót đường cho người mặc tình dẫm đạp, vì vậy tội rất nặng.

Do tội này mà tôi phải xuống địa ngục, cũng chính vì đây mà tôi bị tiêu phúc giảm thọ. Xin thầy hãy mau cứu tôi.

– Nhưng chúng tôi phải làm sao để cứu ông?

-Bảo chúng Tăng hãy mau đào tảng đá đó lên, đem làm bia đá, cho khắc kinh vào đem dựng trước chùa, để mọi người đảnh lễ thắp hương, nhu vậy mới có thể giải tội cho tôi.

Sau khi chúng Tăng đào đá Iên khắc kinh vào đó rồi, thầy Tri khách lập tức thoát địa ngục, thác sinh vào nhân gian.

Câu chuyện này tôi rất muốn kể cho mọi người nghe, vì tôi nhìn thấy chúng cư sĩ lẫn người xuất gia đều lơ là không cẩn trọng đối với nhân quả, thường dùng sai tiền đàn việt đóng góp.

Thí như người cúng tiền phóng sinh, bạn lại đem in kinh. Người ứng tiền in kinh bạn lại dùng xây chùa, toàn dùng làm sai ý. Thực ra làm vậy là không tốt. Trừ phi trước đó được chủ nhân đồng ý chấp nhận thì bạn mới có thể làm khác. Nếu không sẽ rất dễ vướng tội.

Nhiều cơ quan từ thiện và đoàn thể Phật giáo thường thu của tín chúng đóng góp, nhưng hiện nay thường hồ đồ dùng sai làm bậy, tạo tội rất nghiêm trọng. Có người cho rằng dù sao họ cũng không tham ô, chỉ đem của người xây chùa cứu nghèo, hoặc in kinh. Nhưng chính hành vi làm không đúng nguyện vọng người đóng góp sẽ chiêu lấy đại tội, đều bị nhân quả trừng phạt.

Muốn không làm sai nhân quả, tốt nhất không được làm trái ý thí chủ. Người cúng nbi cầm tiền dùng làm gi, thì bạn phải làm đúng y như vậy. Nếu làm không được thì tốt nhất chẳng nên nhận tiền, bởi vì nếu bạn cứ làm đại, ẩu… sẽ tự chiêu lấy tội.

Trong tháng ngày mới học Phật, câu chuyện này gây ấn tượng cực kỳ sâu sắc cho tôi, giúp tôi biết tin sợ nhân quả, hiểu nhân quả rất lợi hại, vì vậy quý vị phải hết sức cẩn trọng.

Bởi những tội này chúng ta đều có thể phạm qua mà không hề hay biết.

Giờ đây đã minh lý, thì phải lập tức đoạn ác tu thiện. Bất kể hiện nay bạn bao nhiêu tuổi, chỉ cần trước khi lâm chung, sớm biết lỗi sám hối, thì đều có thể miễn trừ quả báo đọa tam ác đạo. Huống chi hiện giờ chúng ta thân thể khỏe mệnh, có được điều kiện tụng kinh, minh lý, nhiếp tâm giữ giới, tu pháp Lục độ. Chỉ cần có tín tâm, gặp khó không nản, không thối tâm, thì việc tu ra khỏi tam giới chẳng phải là không thể… Dù bạn thông minh mấy, cũng không biết rõ bao giờ minh lìa bỏ thế gian này. Cho nên, đã hiểu pháp thì phải thực hành ngay, vậy mới là có trí, nhất định sẽ được chư Phật, Bồ tát gia trì.

∗ Duyên Tu Sâu

Ở Quảng Đông có một cô gái, cha mẹ sớm đã qui y thờ Phật, nhưng bản thân cô thì không tin. Lần nọ, khi tôi và các bạn đến đó luận đạo, cô ở cạnh bên chăm chú lắng nghe và hiểu rõ đạo lý, lập tức nhận ra mình đã tạo nhiều tội… liền sinh tâm sám hối. Cô nhắm mắt nghẹn ngào, lệ ăn năn rơi đầm đìa… Trong phút chốc, mặt cô bỗng đổi sắc: Tươi hồng như hoa đào, cười vui rạng rỡ… liên tục suốt mười phút, cô vẫn còn & trong tư thế nhắm mắt trầm tư (giống như đang nhập định vậy). Khi đó tôi biết cha mẹ cô và đại chúng do không hiểu nên đang khởi niệm lo lắng… vì vậy tôi bèn tiến gần, búng vào vành tai cô ba cái, nhưng vẫn chưa thể lay cô xuất định, tôi phải vỗ nhẹ lưng cô ba cái mới thỉnh cô xuất định được. Khi cô mở mắt ra thì liền bày tỏ ý: Muốn làm lễ bái Sư. Tôi nói:

-Vừa rồi, giúp cô chính là ngài Tuyên Hóa, vì vậy cô nên bái ngài làm Sư. Hằng ngày, thấy thời gian nào tiện thì cô lễ bái trước hình ngài Tuyên Hóa, lạy bao nhiêu là do cô tự định, hễ lạy đủ một vạn thì trở thành đệ tử ngài. Pháp danh cô là Quả Thinh. Sư phụ hi vọng tương lai cô sẽ hoằng pháp lợi sinh, tỏa hương Bát nhã (trí tuệ) lưu truyền dài lâu.

Cô rất cảm động, nói với mọi người:

Vừa rồi trong lúc tôi hối hận mắt tuôn tràn lệ, thì bỗng thấy Phật hiện ngay trước mắt, dung nhan tôn nghiêm không thể tả, làm tôi chấn động cả thân tâm, đồng thời phát sinh niềm hỉ lạc vô bờ bến…

Cô kể lúc đó không muốn xa lìa hay ra khỏi niềm khinh an này. Cô không ngờ con người ta có thể đạt được hạnh phúc như vậy. Cô đã thực sự tin Phật pháp, kể từ hôm đó trở đi, cô dứt tuyệt đồ mặn nguyện ăn chay trường, bước vào con đường học Phật, trì giới nghiêm cần.

Mấy ngày sau cô gọi điện cho tôi, kể rằng: Tối đó lúc cô ngồi thiền, bỗng khởi thắc mắc: Không hiểu vì sao mẹ và các cậu mình đều mắc bệnh gan? Lập tức cô nhìn thấy cảnh: Các cậu mình hồi trẻ đang giết một con chó to lớn toàn thân màu đen, chỉ có bốn chân trắng. Tiếp theo cô lại thấy cảnh cả nhà nấu thịt con chó ăn, lúc đó hình dáng mẹ cô trông chỉ độ mười mấy tuổi…

Sáng ra, cô hỏi thăm mẹ thì quả đúng như vậy. Mẹ cô kể hồi nhỏ bà thường chơi đùa cùng con chó này, khi nó bị giết bà đã khóc hết mấy ngày, nhưng khi thịt nó thì bà vẫn ăn.

Cô bảo:

– Mẹ phải vì con chó đó tụng “Kinh Địa Tạng” cầu siêu cho nó, thì bệnh gan mới lành.

Tôi thật mừng cho Quả Thinh, cô vừa bắt đầu tu học đã có thể dùng Phật pháp làm lợi ích cho người. Tôi kể câu chuyện này ra chia sẻ, mong độc giả sinh khởi lòng tin, phát tâm qui y Tam bảo, chịu khó nghe kinh hiểu lý, tịnh tâm, tu hành… đễ được lợi ích mỹ mãn.

Sám văn:

Tại phía Đông Nam thành Vương xá có một hầm xí to, bao nhiêu phần dãi ô uế đều xả vào hố ấy, xông mùi thúi đến khó thể lại gần. Có một con giòi to lớn trong hầm, thân dài mấy trượng; hằng ngàn người đến xem. Ngài A Nan thấy vậy về bạch Phật. Phật và Đại chúng cùng nhau đến hồ xem.

Phật kể: Sau khi Phật Duy Vệ nhập Niết bàn rồi, thì có năm trăm thầy Tỳ kheo đi qua một ngôi chùa. Lúc ghé vào chùa, chủ chùa rất hoan hỷ, mời Đại chúng ở lại để cúng đường. Ông hết lòng thết đãi không tiếc món gì.

Sau đó có năm trăm người buôn ngọc ghé vào chùa, thấy năm trăm thầy Tỳ kheo tu hành tinh tấn, nên rất ngưỡng mộ, đồng nghĩ: “Đây là cơ hội tạo phước điền khó gặp, chúng ta nên cúng dường”.

Thế là mỗi người cúng một viên ngọc; tồng cộng được năm trăm viên, đem gửi chủ chùa nhờ chuyển giùm. Chủ chùa liền sinh tâm tham, muốn đoạt lấy làm của riêng, không chịu giao, phát

Khi các thầy Tỳ kheo hỏi:

– Ngọc châu của lái buôn cúng cho chúng tôi xin ông giao ra…

Chủ chùa bèn đáp:

– Ngọc ấy là họ cúng ta, nếu các ngươi muốn chiếm lấy thì ta chỉ có… phẩn dơ ban cho thôi. Còn nữa, nếu bây giờ mà các ngươi không cút xéo cho lẹ thì ta sẽ… chặt tay chân các ngươi, quăng vào hầm phẩn…

Chư Tăng nghĩ tội nghiệp ông này ngu si nên im lặng bỏ đi.

Vì tội ác ấy mà đời nay chủ chùa kia phải đọa làm con giòi khống lồ sống trong hầm phân này; sau còn phải vào địa ngục, chịu vô lượng khổ…

Giải thích:

Thiện hay ác đều có quả báo. Ngay cả tà niệm vừa khởi thôi, cũng có báo. Huống chi Trụ trì này còn thốt lời ác ngông cuồng? Đã nói bậy như thế mà không biết lỗi sám hối sửa sai, nên sau khi chết rồi, lời ác rủa người lại trổ ngay trên thân mình, sẵn đây tôi xin kể một chuyện:

∗ Bệnh Này Do Đâu?

Có một nữ sĩ tại Đạo tràng bên Mỹ, tuổi hơn 40, bỗng bị bệnh mắt, chẳng bao lâu thì mù. Cô hỏi Quả Lâm nguyên nhân là do đâu?

Quả Lâm hỏi:

– Cô hay ăn mắt dê, bò, cá, gà, vịt, nghĩa là rất ưa ăn mắt loài vật, có phải vậy không?

– Đúng thế! Vì ba tôi nói: “Thị lực con quá kém, cần phải ăn nhiều mắt loài vật”…

Quả Lâm lại hỏi:

– Lúc cô tức giận gây cãi cùng chồng, có phải thường hay nói: Tôi đúng là mắt mù nên mới lấy loại người như anh?…

Cô nghe vậy, rơi nước mắt, bảo:

– Lúc đó tại tôi giận quá nên mới nói như thế, chứ chẳng phải là thật lòng. Chỉ nói như vậy mà cũng bị báo ứng hay sao?

– Lời nói dù thốt ra tùy tiện, cũng phát xuất từ tâm mà. Hơn nữa nội dung chứa đầy ác ý xúc phạm, gây tổn thương người. Mỗi lần cãi nhau xong, dù làm lành rồi, có phải cô vẫn chưa từng hướng về chồng xin lỗi hoặc thú nhận mình sai bằng mấy câu tạ lỗi như: Em thực không đúng, xin anh tha thứ?…

Cô gật gật đầu.

Quả Lâm nói: Nếu như do cô tức giận mà nói bậy rồi sau đó biết ăn năn, sám lỗi thì tội này không đến nỗi nặng như thế, và có lẽ không đến mức giờ đây phải bị mất ánh sáng..

Cô hỏi:

– Vậy mắt tôi còn có thể hồi phục chăng?

– Điều này phải xem cô có thật sự chân thành sám hối hay chăng? Chẳng phải cô vẫn còn ăn thịt chúng sinh hay sao?

Cô nói:

– Nhưng tôi ăn Tam tịnh nhục mà…

Quả Lâm bảo:

– Đây chỉ là phương tiện, Phật tạm hóa độ người sơ cơ, chưa thể ngay trong một lần dứt trừ ăn mặn được. Nhưng thực tế thì ăn thịt chính là sát sinh, cái quan niệm “Ăn gì bổ nấy” chính là tà thuyết cực kỳ sai lầm! Nếu muốn mắt sáng lại, cần phải dứt tuyệt đồ mặn (bao gồm cả trứng) và nguyện ăn chay trường.

Nếu cô hiểu được loài vật bị giết ăn, đau đớn thống khổ thế nào, thì phải lo mà phóng sinh cho nhiều vào. Tụng kinh niệm Phật không phải để cầu mạnh khỏe cho mình, bởi vì bị mù là quả báo tội lỗi của cô. Phải vì những chúng sinh cô ăn, giết… mà niệm Phật, tụng kinh giúp chúng lìa khổ được vui. Nếu chúng được cầu siêu, mở lòng tha thứ cho cô và chuyển sinh vào thiện đạo rồi, thì tự nhiên thị lực cô sẽ phục hồi. Nhãn căn cô vốn không bị hư, chỉ là do nghiệp lực ngán che thị lực mà thôi.

Cô vui mừng tiếp thọ.

Bất kể bạn tin Phật hay không, dù là người xuất gia hay thế tục, thì nhân quả báo ứng không sai mảy may, như bóng theo hình. Cho nên chúng ta thờ Phật, không những miệng thường niệm Phật, mà cần phải chú trọng đến tâm ý, nghĩa là trong tâm lúc nào cũng phải có Phật! Vậy mới là quản tâm giỏi, không để nó chạy bậy. Mỗi một niệm trong tâm đều phải tương ưng cùng tri kiến Phật. Vì chữ “Phật” là giác ngộ. Phật dạy thế nào, hãy làm theo thế ấy… bởi minh lý, nên không làm sai!

Nhưng ngoài những lúc niệm Phật ra, vẫn phải luôn tu, nghĩa là mỗi thời mỗi khắc đều canh giữ tâm, chẳng khởi tà niệm, mà chẳng dấy tà niệm tức là Phật niệm. Minh bạch đạo lý này rồi, thì tinh tấn trì giới tu hành, niệm niệm giác ngộ, ngôn hạnh đúng pháp, tức là khai ngộ.

Khai ngộ: Không phải khai mở Thiên nhãn Thiên nhĩ… mà chỉ là khởi đầu từ chẳng tin Phật thành tin Phật, đây là tầng khai ngộ đầu tiên. Tiếp theo bắt đầu phát nguyện giữ giới, đó là tầng khai ngộ thứ hai. Tiến đến chịu tu Lục độ Vạn hạnh, là tầng khai ngộ thứ ba. Cho tới chứng Sơ quả, Nhị quả, Tứ quả… thậm chí đạt Nhất địa… Thập địa Bồ-tát cho đến thành Phật, tính ra có vô số tầng khai ngộ…

“Ác do tâm khởi, Thiện từ tâm sinh”, nếu không khiến tâm dừng ác hướng thiện, không nhiếp phục được tâm, thì dù có tu pháp gì, có bái ai làm thầy, cũng không ra khỏi tam giới.

Sám vản:

Ngài Mục Liên thấy một kẻ có cái lười rắt to dài bị đóng đinh, bị lửa đốt cháy hừng hực, chịu khổ suốt ngày đêm, bèn hỏi Phật:

– Y tội gì mà chịu khổ như vậy?

Phật đáp:

– Người này xưa kia là chủ chùa, đồi với các thầy Tỳ kheo dù là thường trú hay khách… ông đều mắng nhiếc, xua đuổi, không cho ăn uống, không chia đồ cúng dường bình đẳng. Vì nhần ấy nên bị như vậy.

Giải thích:

Tín chúng cúng chùa bất kỳ vật gì, đều là cúng cho Tam bảo (Phật Pháp Tăng), dù là Tăng thường trú hay khách đến thì vẫn là tu sĩ, đều có quyền thọ dụng của cúng dường, nếu xử tệ sẽ bị quả báo đáng sợ.

Sám văn:

– Có một con cá lớn có trăm đầu, bị sa vào lưới. Thế Tôn thấy vậy bèn nhập định “Từ tâm Tam muội” gọi con cá kia. Cá liền ứng khẩu trả lời.

Thế Tôn hỏi cá:

– Mẹ ngươi ở đâu?

– Mẹ tôi làm con giòi trong nhà xí!

Phật bảo các Tỳ kheo:

– Lúc Phật Ca Diếp ra đời, con cá lớn này làm vị Tam tạng1 Tỳ kheo; do ác khẩu nên bị quả báo nhiều đầu. Còn mẹ ông do thọ hường lợi dưỡng do ông chu cấp, nên bị đọa làm con giòi trong cầu tiêu.

Phật giải thích:

– Mắc phải báo này là do tội ác khẩu, nói lời thô, bịa đặt đâm thọc, làm cho hai bên tranh đấu hỗn loạn. Sau khi chết rồi thì vào địa ngục, bị quỷ sứ nung đỏ khí cụ hành hình để ủi cái lưỡi người có tội, rồi nung đốt đỏ rực cái móc sắt, (móc này có ba mũi nhọn bén như dao) dùng đoạn lưỡi của tội nhân và kéo dài lưỡi ra cho trầu cày.

Quỷ còn đốt đỏ chày sắt dộng vào yết hầu… trải qua ngàn vạn kiếp. Đền tội xong mới ra khỏi địa ngục, sinh làm loài chim.

Nếu ác khẩu mạ người, tương lai sẽ bị quả báo có nhiều đầu như rắn hai đầu, dê hai đầu, v.v…

Giải thích:

Dù tinh thông Tam tạng nhưng nếu phạm lỗi ác khẩu, thì cũng xem là: Không giữ giới luật. Mà không giữ giới thì chẳng phải đệ tử Phật, chỉ là kẻ mượn danh Phật, sống bôi nhọ đạo pháp. Tội này lớn không thể nghĩ, bởi: “Một hạt gạo thí chủ, lớn như núi Tu Di, ăn mà không tu, thì phải mang lông đội sừng đền trả! Thế nên bản thân vị này đã thọ nhận của tín thí nan tiêu, lại còn đem vật chất thuộc của Tam bảo về cung cấp nuôi dưỡng mẫu thân, vậy làm sao mà “tiêu được hết?”… Vì vậy mẫu thân ông chết rồi phải làm giòi trong nhà xí, thực rất đáng thương. Đây là lời Phật, ai dám không tin?

Theo như tôi biết, hiện tại có những người xuất gia tự tiện đem tài vật của chùa về nhà làm của riêng, thậm chí mỗi tháng đều chuyển tiền về tư gia, tự biến của Tam bảo thành tài sản riêng nhà mình. Nếu không mau sám hối sửa lỗi, tương lai ác báo họ phải thọ, có thể đoán biết được.

Phật nói những người thốt lời thô lỗ, ác ngôn xú ngữ, thêu dệt, ưa đơm đặt chuyện thị phi… chết rồi phải vào địa ngục thọ báo. Chúng ta thường phạm lỗi ác khẩu, đâm thọc, nếu không nhanh chóng sám hối còn đợi đến bao giờ? Những câu chửi thề thô tục đầy ác ý dơ bẩn, tuyệt không nên thốt ra từ miệng mình. Người mà miệng nói lời xú uế, hay mắng người, dễ bị bệnh miệng, lưỡi… lở loét, nghĩa là những chứng bệnh liên quan đến khẩu nghiệp. Những ai mắc bệnh này chữa mãi không lành có thể đến trước Phật phát nguyện: Từ nay về sau con thệ dứt tuyệt, không ác khẩu hại người! Và tụng ba bộ “Kinh Địa Tạng” thì lành. Hằng ngày nên uống ba chén nước “Chú Đại Bi”, sẽ hồi phục rất nhanh. Nhưng từ đây về sau tuyệt đối không được mắng người, phải luôn giữ khẩu đức. Nếu phạm tội ác khẩu, hay nói, chửi tục tỉu sẽ bị bướu cổ, bướu miệng.

Chúng ta đã nghe kinh dạy, hiểu cách lìa khổ được vui, nếu không mau sửa lỗi ăn năn, còn đợi khi nào? Phật nhắc nhở: Mỗi ngày trôi qua mạng sống tổn giảm, như cá ít nước, nào có gì vui? Phải nên tinh tấn như cứu lửa cháy đầu…

Trước đây Phật từng tiên đoán: Vào thời Mạt pháp, tà thuyết hoành hành, sẽ có nhiều người xúm nhau công kích lý nhân quả Phật thuyết, trong đây có cả những vị thuộc nội bộ Phật giáo: Họ có thể là Giảng sư, học vấn cao, nhưng lại tự ý chế đặt, lý luận theo chủ kiến riêng, lập thuyết bội ngược với giáo lý Phật và còn trích dẫn kinh điển do họ khảo chứng để chỉ trích Phật giáo và công khai tuyên bố rằng: Kinh A Di Đà, kinh Địa Tạng và các kinh điển Tịnh độ, Mật tông… thảy đều là ngụy kinh!… Khi họ lập luận tuyên bố như thế, chính là tự tạo tội vào địa ngục cắt lưỡi, sẽ thọ khổ vô cùng.

Sám văn:

Tội phước tuy khác nhau nhưng cũng phải đợi kỳ trả báo, mong mọi người đều sáng suốt tin và không sinh tâm nghi.

Giải thích:

Từ vô thỉ đến nay, chúng ta ở trong tam giới, tâm tham, sân, si, kiêu mạn, nghi ngờ… hừng thịnh khó điều phục. Thế nên vừa ra khỏi thai trâu, bò, lừa… thì vào bụng ngựa, xuống địa ngục… chẳng biết bao nhiêu lần. Đời này không biết lỗi xưa, quên sạch những khổ đau từng chịu trong ác đạo. Phật giảng đủ loại cảnh trạng trong địa ngục ra, khiến người nghe kinh tâm táng đởm. Chẳng ai chịu nghĩ đến giây phút vong thân mình sẽ như thế nào? Phàm phu ngu si, sống tại nhân gian, trong khổ cho là vui, nào chịu tin địa ngục là có thực? Mà trên đời nào có ai đi địa ngục, tận mắt chứng kiến cảnh chúng sinh thọ khổ ở đó rồi về nhân gian kể cho nghe đâu? Mà dù có người nói, giảng hay kể ra, thì phàm phu cũng không thể tin, bởi họ nói: Phải tận mắt chứng kiến mới nhìn nhận đấy là có thực.

Vậy có Lục đạo hay không, từ mấy ngàn năm trước Phật Thích Ca đã tả cảnh địa ngục với đủ loại khổ hình. Rốt cuộc thì có hay không? Trước tiên ta chẳng cần quản đến, mà hãy chú ý đến cảnh thế gian trước đã:

Ai từng vào bệnh viện cũng đều biết thảm cảnh khổ đau, rên la, kêu gào? Còn trong phòng phẫu thuật, có người đang bị cắt mổ… thay đổi bộ phận nào đó. Kẻ bị a-xít hại khuyết tay chân, thiêu rụi mặt mày… Đây chẳng phải là “Địa ngục nhân gian” hay sao? Vào chốn này không những bị thu phí rất cao, mà có nhiều nơi còn phải o bế, lo thủ sẵn phong bì hậu hĩnh đề biếu tặng các vị Chủ mổ, Chủ sự, Chủ hộ lý… nếu không sẽ bị khổ nhiều vì bệnh hành, thậm chí sẽ mất mạng…

Những người thọ tội này, họ hoàn toàn chẳng biết đây là quả báo do ác nghiệp sát sinh ăn thịt mà ra. Nhìn theo lý nhân quả, thì bị bệnh phải mổ xẻ, tốn tiền… cũng là nghiệp. Nhưng bởi do không hiểu Phật pháp, đến lúc ẩm thực, thân nhân lại tiếp tục đem đến nào là: Thịt quay, gà rán, cá hầm v.v… đề… cho họ tạo nghiệp tiếp. Bởi do muốn dùng thây loài vật tẩm bổ xác thân mình, nên họ không biết lúc nào thân thể sẽ được an? Khi mà một vòng ác nghiệp (mới tạo) lại bắt đầu, rồi thì chẳng bao lâu, có thể họ sẽ tiếp tục vào phòng mổ nữa để bị cắt xẻ, chẩn trị… và có thể… cũng không còn cơ hội quay về nhà. Bởi không ai dám bảo đảm chuyện này. Chẳng phải trước khi mổ bác sĩ luôn buộc người nhà phải viết giấy cam kết hay sao? Do không tin nhân quả nên họ thực đáng thương và cũng không biết làm sao để thoát khổ.

Tôi xin dùng loài heo trong cõi súc sinh để thí dụ: Heo sống trong chuồng hiện đại hóa rất ít. Đa số chúng được nông dân nuôi trong chuồng thô sơ, cho ăn cám bã hư thiu. Thậm chí lúc heo kiếm ăn cũng vẫn ăn đồ cặn bã, còn vì tranh ăn mà cắn xé nhau. Và trong lúc ăn uống nó còn phát ra âm thanh ột ột, lộ vẻ say sưa ngây ngất, tâm màn ỷ thỏa. Ăn no rồi thì nằm tại chỗ dơ, bài tiết trong chuồng mà ngủ say. Giống như đang ở nơi sướng khoái vô tư lự, thanh bình an vui. Đến khi thức dậy, heo đực heo cái còn lao vào luyến ái, bận rộn gieo giống, sinh sản…truyền tông nối dõi…

Heo không biết lúc nào mình chết đi và cách chết ra sao? Càng không biết chết rồi thân thể, thịt da máu huyết, nội tạng… đều bị con người biến thành thức ăn ngon. Heo sống trong trại nuôi hiện đại hóa, dù sinh hoạt tương đối được cải thiện, nhưng thực tế vẫn rất đáng thương, vì chỉ sống tạm trong thời gian ngắn, còn bị dưỡng nuôi bằng hóa chất và kích thích tố, khiến thân chóng trưởng thành, phát dục mau, chỉ trong mấy tháng là bị đưa đến lò mổ… (Đối với những loài vật bị giết, chẳng phải lò mổ và nhà bếp của người ăn mặn rất giống với cảnh địa ngục Phật vừa mô tả hay sao?)

Bạn đừng nghĩ loài vật chết rồi sẽ hết thống khổ, phải hiểu rằng: Sau khi bị giết, thần thức nó vẫn còn đeo theo thi thể, lưu luyến nhìn hoài, bởi nó cũng chấp: Đây chính là thân nó mà! Vì vậy khi chúng ta đem xác nó cắt, xẻ, bám, chặt… nghĩa là nó nếm mùi vào núi đao xong thì phải vào chảo dầu… đau đớn cùng tột. Lúc ấy nó cắn răng ôm cám hờn, nhưng lại vô năng bất lực không thể phản kháng. Xét ra mức độ thống khổ của thần thức nó phải chịu còn mãnh liệt hơn cơn đau thân xác rất nhiều.

Kho thịt nướng cá cho thỏa thèm
Nào biết vật chết không cam tâm
Hồn sẽ gá vào trên thân bạn
Sớm muộn gì cũng đỏi nợ thôi!

Ngày 17/4/2007 Thời báo “Sinh Mệnh” nổi tiếng trong nước, đã đáng hàng tít: “Phong trào ăn chay hưng khởi toàn cầu” do các nhà khoa học và chuyên gia nghiên cứu dinh dưỡng thuộc Đại học Mỹ quốc biên giải như sau:

“Nếu lấy loài vật làm thức ăn, sẽ phát sinh các bệnh mãn tính như: béo phì, tim, ung bướu v.v… Còn ăn thực vật thì sẽ rất mạnh khỏe, còn có được khả năng đề kháng ngăn ngừa và khống chế bệnh tật. Suy ra: Ăn chay chính là ẩm thực lựa chọn đúng đắn nhất của nhân loại”.

Hãy quan sát các loài: Bò, dê, chim… chúng dùng thức ăn là thảo mộc, nói theo quan niệm dinh dưỡng của con người thì quá đơn giản và thiếu chất bổ? Thế nhưng chúng vẫn có thể lớn mạnh, cường tráng. Trừ gặp phải ôn dịch hay bị người giết ra, hầu như chúng không có bệnh gì.

Mấy năm trước, các báo đăng tin: “Bò Anh quốc bị điên!”… Chẳng phải nguyên nhân là: Do thức chăn nuôi chúng bị trộn bột thịt, nên mới dẫn đến thảm cảnh này hay sao?

Lại nữa: Con người và bò, dê, ngựa v.v… răng đều bằng, so với loài ăn thịt như: Hổ, báo, sói lang… hoàn toàn khác. Hai từ thức ăn (chữ Hán) đều có bộ thảo trên đầu, là biểu trưng cho thực vật, người ta ưa nên mới xếp chúng vào hàng thức ăn, nhưng chúng ta lại cho thảo mộc là không đủ dinh dưỡng, vậy mà chúng có thể nuôi trâu, bò, ngựa v.v… sống mạnh khỏe.

Con người chúng ta tự hào là thông minh, sao không thử động não ngẫm suy vấn đề này? Hãy nghĩ xem: Trong y viện những người vào đó bị phẫu thuật… có bao nhiêu người ăn chay? Có phải do số người này vì ăn chay mà bị bệnh chăng? Tại sao người ăn thịt xem như có “đầy đủ dinh dưỡng” lại thường bị bệnh nặng? Nhìn xem loài heo sống trong hoàn cảnh tệ lậu, án toàn đồ dơ cặn bã, chúng không cho là khổ mà còn yêu đời hoan hỉ, số phận chúng bao giờ chết tùy thuộc vào quyết định của chủ nhân. Còn chúng ta ăn thịt, không phải là dùng thi thể động vật tanh hôi hay sao? Ta ướp vào đó các chất gia vị để che lấp mùi tanh thúi, hòng biến thi thể thành mỹ vị? Người chết rồi thân xác gọi là thi thể, thế bò, dê, heo, chó, gà, vịt v.v… chết rồi không phải cũng là thi thể hay sao? Thịt chúng và… thịt người có gì khác nhau? Đều là thịt thây chết! Lẽ nào không phải như thế? Bởi thân con người cũng giống như vật, đều có mắt tai mũi lưỡi thân ý, đều có ngũ tạng, lục phủ… đều có nỗi niềm tham sống sợ chết hệt nhau, chỉ vì thọ quả báo bất đồng, nên hình thể, ngôn ngữ khác nhau thôi. Nhưng nếu khuyên người: Hãy dứt sát ăn chay! Quả thật khó như lên trời.

Dù là người rất thông minh, cũng chẳng biết lúc nào mình sẽ chết. Thực ra con người ta trường thọ hay đoản mệnh, sống hạnh phúc hay đau khổ, đều có quan hệ trực tiếp đến chuyện giết chóc ăn thịt chúng sinh. Những người ăn thịt, hằng ngày đời sống họ như ở trong nhà lửa mà họ không biết. Bởi vì hằng ngày khẩu phần họ toàn tăng thêm nhiều “thần thức những chúng sinh bị giết ăn”, nên âm hồn chúng cứ quẩn quanh, đeo quấn lấy họ, chờ dịp báo oán. Thậm chí chúng còn gá nhập vào trong thân thể khiến họ thường sinh bệnh, nổi cáu, phát khùng… Họ giống như kẻ ở trong căn nhà có thể đổ sập bất cứ lúc nào nhưng hoàn toàn chẳng biết chạy thoát ra, vậy có đáng thương, đáng lo hay không?

Những lời tôi nói đây quá lạ, quá khó tin và khó tiếp thu. Nhưng tôi vẫn mong các độc giả có thể đích thân tự thực nghiệm một lần, vì những gì Phật Thích Ca tuyên giảng: Mỗi câu đều là chân lý! Trong thực tế đã được biết bao người thể nghiệm…

Nếu không ngại xin bạn hãy thử bỏ mặn, ăn chay một lần xem? Chỉ ăn khoảng 15 ngày thôi (tôi chẳng dám nói một tháng vì sợ bạn không kiên trì thực hiện nổi). Còn nữa, trong thời gian bạn ăn chay đó, hằng ngày nên ráng tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” cầu cho những con vật bạn đã từng ăn, giết qua. Lúc tụng kinh, nếu tâm tán loạn thì phải kéo về ngay, lo nhiếp tâm trì tụng. Nếu làm được thế, nhất định sẽ thấy hiệu quả, bạn sẽ lìa khổ được vui, giống như dựng sào là thấy bóng liền. Vì… tất cả do tâm tạo!

Nếu tâm chí thành, có lẽ vừa tụng một bộ kinh là bạn đã thấy có cảm ứng. Song nếu lúc tụng kinh, bạn không thể khắc phục tâm tán loạn, thì trong nửa tháng, dù không thấy có kết quả rõ ràng, nhưng bạn đã cùng Phật kết thiện duyên thâm sâu. Lâu ngày, ắt bạn sẽ thể hội được điều hay và không còn bị bất kỳ tồn hại nào. Bất kể là niệm Phật hay tụng kinh, chỉ cần bạn hành trì, thì “Công phu xem như không luống uổng, phúc kia chẳng hề tiêu mất”.

Sám văn:

Phật bảo A Nan: Nếu chúng sinh nào giết cha hại mẹ, làm nhục sáu dòng bà con, người ấy sau khi mạng chung, vào địa ngục Vô gián chịu đủ thống khổ….

Giải thích:

Trong nhiều kinh Phật thuyết, đều xếp tội giết cha mẹ là hàng đầu trong Ngũ nghịch, đủ chứng minh tầm quan trọng của tính hiếu thuận.

Có thể nói thế này, nếu như không hiếu thuận, thường khiến cha mẹ tức giận (chưa kể đến việc ngược đãi, đánh mắng, giết hại cha mẹ)… thì người này có thể gặp tai họa bất ngờ, toi mạng ngoài ý muốn, đây chính là tai họa “Thiên địa sát báo”.

Cho nên người muốn học Phật, trước phải học làm người, muốn làm người: Trước phải hiếu thuận cha mẹ. Kết hôn rồi thì phải hiếu thuận cha mẹ đôi bên. Không hiếu, thì cho dù bạn niệm Phật có được trời rải hoa tán thán, cũng khó thể xuất tam giới.

Làm người phải chánh, làm con phải hiếu, làm học sinh phải siêng, làm nữ hay nam đều phải đoan chính, an định. Hành được bốn điểm này, cả đời bạn sẽ: Tâm muốn việc thành.

Sám văn:

Lại có chúng sinh phá cắm giới của Phật, phỉ báng Tam bảo, ôm tà kiến, không biết nhân quả, không học trí huệ Bát nhã, khinh chê mười phương Phật, trộm cắp của Pháp, uổng ăn của tín thí, làm việc ô uế dâm tà bất tịnh, không hổ thẹn, hủy nhục bà con, tạo nhiều điều ác… Người ấy khi sắp lâm chung, bị báo phong đao xè thân, nằm ngửa bất tỉnh, như bị đánh đập…

Những kẻ này đọa vào địa ngục A tỳ tám vạn bốn ngàn đại kiếp. Người phạm lỗi hủy báng các kinh Đại thừa, tạo đủ tội ngũ nghịch; phá hoại Hiền Thánh, đoạn các cản lành… sẽ phải chịu đủ hình phạt nặng nề.

Giải thích:

Kẻ phá hoại giới Phật, không tu hành tốt, uổng thọ của tín thí cúng dường. Kẻ dùng tà kiến phỉ báng chánh pháp, không hiểu nhân quả, truyền dạy sai khiến người mất đi cơ hội học kinh Phật khai mở trí tuệ. Kẻ phá hoại Phật, Pháp, Tăng… trộm kinh, pháp vật của Phật giáo… kẻ tạo đủ hạnh bất tịnh ô uế, không ăn năn xấu hổ… thảy đều sẽ vào địa ngục Vô Gián thọ khổ.

Tôi xin kể câu chuyện có thực, xảy ra vào năm 2003 (mặc dù lúc đó tại hiện trường có nhiều người chứng kiến và biết rất rõ việc này), nhưng tôi vẫn xin giấu đi tên họ, địa điểm, chỉ dùng hóa danh thôi. Tôi kể câu chuyện này để mọi người cảnh giác: Nếu đã làm thầy thì không nên hướng dẫn sai…

∗ Sư Chân Huệ

Một hôm Lưu cư sĩ gọi điện thoại tới, báo tin là tại chùa X có Ni trụ trì Chân Huệ. Hiện con gái, con rễ bà đang nháo nhào tìm kiếm Hòa thượng Diệu Pháp (vị Tăng phi phàm trong sách “Báo ứng Hiện Đời” mô tả) nhưng tìm không ra. Phần Ni Chân Huệ thì nhất quyết tuyệt thực, đã ba ngày nay rồi.

Lưu cư sĩ kể rõ nguồn cơn:

– Số là hôm nọ Ni Chân Huệ bỗng cảm thấy ngũ tạng rất khó chịu, đi bệnh viện khám cũng không tìm ra bệnh. Tình cờ lúc đó có một đệ tử đưa cho bà cuốn “Báo ứng Hiện Đời”, nói là của một nữ cư sĩ tặng, xin mời sư xem.

Sư Chân Huệ bảo:

– Thân tôi đang bệnh đau, còn sức khỏe đâu mà đọc? Thôi thì các ngươi hãy tự mình xem đi!

Bà vừa dứt lời thì bỗng nghe trong bụng mình có một giọng nói nghiêm khắc vang lên bảo:

– Ngươi không đọc được, thì kêu đồ đệ đọc cho mà nghe!

Ni Chân Huệ vừa ngạc nhiên vừa hoảng sợ, vội hỏi:

– Là ai đấy? Sao có thể ở trong bụng tôi?…

Âm Thanh kia nghiêm nghị bảo:

– Không được hỏi gì khác! Hãy mau kêu đệ tử đọc cho nghe đi!

Thế là Ni Chân Huệ vội ra lệnh cho đệ tử đọc…

– Họ bắt đầu từ bài đầu tiên: “Nguyên Nhân Tôi Đến Với Đạo” cho tới khi đọc xong bài: “Nước Tràn Kim Sơn Tự” và đang chuẩn bị đọc sang bài kế tiếp, thì giọng nói trong bụng Ni bỗng vang lên, yêu cầu họ đọc lại bài “Nước Tràn Kim Sơn Tự” lần nữa, rồi cứ thế: Bắt họ phải đọc bài này tới lui ngót mấy lần!

Ni Chân Huệ hỏi:

– Sao cứ bắt đọc mãi bài này?

Âm thanh ấy đáp:

– Ta không những kêu ngươi đọc bài này, mà còn muốn ngươi tìm Hòa thượng Diệu Pháp cho ta nữa!

Ni Chân Huệ đáp:

– Tôi xuất gia đã 9 năm, cũng quen rất nhiều người ở Ngũ Đài Sơn, nhưng chưa từng nghe nói là: Có Hòa thượng Diệu Pháp ở đó!

Âm thanh trong bụng lại bảo:

– Nếu Ngũ Đài Sơn không có, thì sao ngươi chẳng về cố hương Thiên Tân của mình để tìm?

Thế là Ni Chân Huệ bèn về nhà nhờ con gái. Nhưng con gái báo tin: Đã cố hết sức mà vẫn không tìm ra Hòa thượng Diệu Pháp…

Ngay lúc này “dị nhân” trong thân bà không ngừng hành hạ, làm bụng bà phình to. Bà thầm nghĩ: “Tìm không ra Hòa thượng Diệu Pháp ắt là khổ! Chi bằng ta… chết quách cho xong!”… Thế là bà bắt đầu tuyệt thực. Vợ chồng con gái thấy vậy hoảng hồn, bèn cầu cứu các cư sĩ khắp nơi, xin hãy hỗ trợ họ tìm Hòa thượng Diệu Pháp giùm.

Bởi vì lúc đó rất nhiều người chẳng hay biết rằng tôi đã từng tuyên bố: “Chuyện là có thực, nhưng tên tạm đặt, không nên tìm tung tích Hòa thượng Diệu Pháp nữa”.

Do vậy mà thiên hạ thường lên Ngũ Đài Sơn tìm Hòa thượng, nhân đó phát sinh ra tệ cảnh: Một số người xuất gia tham tài và những kẻ ưa gạt lường thừa dịp mạo danh: Xúm nhau xưng là Hòa thượng Diệu Pháp để được tín đồ dâng cúng tiền tài.

Do Ni Chân Huệ quá khổ, tôi buộc phải xuất hiện thay ngài và bảo các cư sĩ rằng:

– Hòa thượng Diệu Pháp trong sách chỉ là tên tạm đặt, Diệu Pháp là Phật pháp, vì Phật pháp chính là Diệu Pháp, hàm ý: Người tu nên tuân theo tôn chỉ Phật pháp. Mọi người phải trì giới minh lý, tự tịnh tâm ý, không nên ngoài tâm cầu pháp!

Có lẽ Phật và Bồ tát sớm đã an bài sắp xếp cả rồi, nên con gái Ni Chân Huệ được giáo sư một Đại học nọ sốt sắng giúp đỡ và hẹn là hôm sau sẽ dẫn họ đến gặp tôi.

Nghe vậy Ni Chân Huệ rất mừng. Âm thanh trong bụng bà cũng truyền lệnh: Xin bà thỉnh gấp tôn tượng Bồ-tát Địa Tạng Vương, thay ông cúng dường ngài Quả Khanh giùm!

Lúc đó đã 4-5 giờ chiều, khi con trai con rễ bà ra tiệm thì tiệm đã đóng cửa. Họ về nhà kể lại tình hình… thì thấy bụng bà lại phình trướng lên, Ni Chân Huệ vội la to:

– Xin ngài đừng hành khổ tôi nữa! Sáng sớm ngày mai tôi sẽ sai chúng nó đi thỉnh tượng ngay!

Thế là bụng bà xẹp lại bình thường.

Hôm sau, lúc 9 giờ, tôi và Lưu cư sĩ đến chỗ hẹn để gặp họ, thì thấy sư Chân Huệ và các đệ tử Tăng, tục của bà đã ở đó đợi sẵn. Chào hỏi xong thì tất cả cùng ngồi xuống. Tôi mới nói với sư Chân Huệ mấy câu, thì Lưu cư sĩ bỗng thì thầm vào tai tôi: “Có thể trên thân Ni Chân Huệ là một con đại mãng xà!”.

Bà Lưu nói đúng, vì đầu rắn đang lắc lư phát tín hiệu, hiển lộ tướng mạo rõ ràng.

Tôi hỏi Ni Chân Huệ:

– Bà tu pháp môn gì?

Sư đáp:

– Vốn là Thiền Tịnh song tu, sau đó tôi xem băng đĩa, bèn đổi sang kiểu tu: “Chỉ niệm một câu Phật, xem một bộ kinh thôi” và thấy rằng khi mình niệm danh hiệu Phật chỉ có bốn chữ thì cảm giác phi thường tốt!

Tôi hỏi sư Chân Huệ:

– Nếu bà nhất quyết cho rằng tu theo thuyết: “Chỉ niệm một câu Phật, xem một bộ kinh thôi… là đủ để độ người liễu sinh thoát tử”… vậy thì Phật giảng nhiều kinh để làm chi? Bắt mọi người phải đọc và học bao nhiêu kinh đó, chẳng phải là làm lãng phí thời gian và cuộc sống của họ hay sao? Khác nào ngầm cho rằng: Phật chẳng biết đến chuyện “Chỉ xem một bộ kinh, niệm một câu Phật thôi” là đủ để cứu chúng sinh thoát khổ?… Thế thì người tung ra thuyết này, có trí huệ cao hơn Phật ư? Còn nữa, từ Phật giáo truyền vào Trung Quốc, lịch đại Cao táng đều dạy chúng ta phải “Thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển”, đều dạy chúng ta phải niệm: “Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát”. Nam mô: Có nghĩa là qui y, vì sao lại bác bỏ, loại chữ Nam mô ra, không cần niệm nữa?

Bà thân là Sư phụ, lại dạy người chỉ cần niệm bốn từ: “A Di Đà Phật!” thôi, vậy có nghĩa là: những gì lịch đại Tổ sư truyền dạy từ xưa đến giờ thảy đều sai cả? Xin hỏi: Bà xuất gia 9 năm rồi, tại sao chỉ vì xem một đĩa giảng thì phủ nhận hết tất cả những kiến thức trí huệ chứa trong kinh Phật mà mình đã từng theo học và tiếp thu suốt 9 năm? Bà một bề tự khởi thấy biết sai lệch, khăng khăng cố chấp, rồi nhất loạt bài trừ, phủ nhận hết bao kinh điển lẫn tám vạn bốn ngàn pháp môn Phật giảng cho đa số, còn gạt phăng lời Sư phụ dạy mình qua một bên, khiến đệ tử lầm mê theo, từ bỏ không học kinh điển, đánh mất cơ hội khai mở trí tuệ, tu trì chân chính… bà làm vậy mà không thấy hổ thẹn ư?

Bởi vì bà thay đổi pháp tu, gieo ảnh hưởng kinh động, khiến cả đám đệ tử chuyển sang tu sai lầm hết theo bà! Do chư Phật Bồ-tát từ bi, không nỡ nhìn bao người tu lạc sai theo bà, tự hủy hoại hết bao công phu chân chánh. Vì vậy vị gá trên thân bà chẳng phải là quỷ quái chi nhập vào đâu, mà chính là Long thần hộ pháp đến giúp, bức ép bà phải tìm chúng tôi, để chúng tôi giải rõ, chỉ thẳng cho bà hiểu: “Nếu như bà chịu hồi đầu, tu hành theo con đường Sư phụ bà đã dạy, thì bệnh bà sẽ lành”.

Ni Chân Huệ nói:

– Tôi cũng thầm biết vị gá trên thân tôi không phải là quỷ…

– Bà đã biết là do Hộ pháp làm ra, thế sao còn tuyệt thực?

Bà không đáp.

Tôi hỏi:

– Bà có chịu quay về phương pháp tu hành chân chính trước đây để tiến lên không?

Bà đồng ý.

Đột nhiên Ni Chân Huệ nói:

Vị Hộ pháp trên thân tôi nói: “ông ấy muốn ra đi, xin ngài sắp xếp giúp cho một chỗ”…

Tôi nói: Hễ đến nơi nào thì chỗ đó tốt, còn hỏi tôi làm gì.

Bỗng nhiên, tôi nhớ tới bức tượng Địa Tạng cao hơn một mét mà họ mua biếu cho đang để ở dưới lầu, liền bảo mãng xà trên thân Ni Chân Huệ rằng:

– Tôi không đủ tư cách nhận thọ ông cúng dường, nên sẽ thay ông chuyển tôn tượng này đến cúng cho đạo tràng Trịnh Châu. Nơi ấy hiện đang thiếu tượng Bồ tát Địa Tạng Vương.

Lúc này mặt Chân Huệ lộ vẻ hớn hở tươi cười, hiện sắc khinh an thư thới, đầu không còn lắc lư nữa.

Trưa đó, mọi người cùng dùng cơm với nhau. Đại chúng chứng kiến cảnh vừa rồi tâm tư đều xúc động. Phật, Bồ tát vì cứu độ chúng sinh, vì thành tựu cho chúng sinh, nên dùng đủ phương tiện giáo hóa, giúp chúng ta không lìa chánh đạo. Ni Chân Huệ chịu hồi đầu, không những thành tựu cho mình, mà còn thành tựu cho nhiều chúng sinh. Cảm tạ chư Phật, Bồ tát đại từ đại bi…

Lúc cáo biệt nhau, mọi người đều pháp hỷ sung mãn.

Tối đó tôi về nhà, trong lúc kể lại việc này cho gia đình nghe, tôi bỗng thấy một cảnh tượng hiện ra giống như trong phim: Không có chính điện, Phật Thích Ca đang ngồi nơi tòa sen cao nhất ở giữa, chung quanh là hai hàng thính chúng nghe pháp, ở giữa hai hàng chúng này có một lối đi, Ni Chân Huệ quỳ ở giữa, đang chắp tay, trên đầu bà có một vầng hào quang nhỏ. Tôi ý thức được là Phật đang khai thị chúng tôi: Ni Chân Huệ là vị thực tu, có công phu, song chỉ vì nhất thời mê muội mà đi sai đường. Bỗng tôi thấy Bồ tát Quan Âm lướt về hướng Phật, đối diện với mãng xà, Ngài vẫy tay một cái, mãng xà liền tiến đến trước Phật rồi quay sang Bồ tát Quan Thế Âm. Bỗng mãng xà lắc mình, làm biển cả dậy sóng phát ra thanh âm rì rào… trong chớp mắt sóng biển tiêu tan, mãng xà cũng không còn. Chỉ thấy Bồ tát Quan Âm đang đứng trên một con rồng, tôi lập tức hiểu ra: Con mãng xà gá trên mình Ni Chân Huệ, chính là con rồng này hóa hiện… Lúc đó lòng tôi thật hưng phấn.

Chư Phật, Bồ tát đối với mỗi khởi tâm động niệm của chúng sinh không gì mà chẳng rõ. Mỗi người tu hành học Phật chúng ta, cần phải khéo léo biến người gây chướng cho mình thành Bồ tát… Nếu biết xem tất cả đều là Bồ tát, bản thân mới có thể thành tựu.

Tất cả phiền não mâu thuẫn giữa mẹ chồng nàng dâu, vợ chồng, xóm làng, đồng sự v.v… nếu khéo chuyển thì biến thành Bồ-đề. Nên gọi phiền não tức Bồ-đề. Chẳng những lòng ta không chán ghét đối phương mà ngược lại còn sinh tâm cảm kích. Nghịch cảnh đến thì nhận. Đa số thiên hạ thường lý luận: “Người chẳng phạm ta, ta chẳng phạm người, còn nếu phạm ta, thì ta phạm lại”… Nhưng giờ đây chúng ta minh lý rồi, thì dù bị người báng, gây nên lỗi… ta đều nghe như uống cam lộ, cho tiêu dung tan nhập vào bất tư nghị. (Tiêu dung: Nghĩa là không khởi mảy may sân hận, ngược lại còn sinh tâm hoan hỉ) nếu làm được thế, thì Sự việc tốt vi diệu không thể nghĩ lường sẽ phát sinh ngay trên thân bạn.

Chư Phật, Bồ tát, thiên địa quỷ thần đều sẽ hộ trì, trợ giúp người chân tu thành tựu đạo nghiệp. Chư Phật, Bồ tát lúc nào cũng dõi theo sự tiến bộ trưởng thành của chư đệ tử. Người chân chính tu hành mà khởi tâm động niệm, hễ vừa có chút sai lập tức sẽ bị báo ứng ngay. Đây gọi là: Chư Phật, Bồ tát luôn kịp thời gia hộ chỉnh sửa cho đệ tử, lúc nào cũng dẫn đường cho đệ tử…

Vì vậy, khi bạn đóng cửa bị kẹt tay, ăn cơm nhai… nhằm miệng, lưỡi… hoặc đang bước đột nhiên ngã nhào, hay không cẩn thận bị trẹo chân… hắt xì hơi hay cụp lưng… hoặc đi đường bị xe tông, va quẹt… thì những lúc ấy bạn phải nghĩ kỹ và kiểm xem: Vừa rồi mình có nói hay làm gì sai không? Thân, khẩu, ý có gì không đúng pháp chăng? Tâm có khởi tà niệm gì chăng? Đây chính là: Đi đứng nằm ngồi đều chẳng lìa tu hành, tu đến mức: Lúc nào cũng làm chủ được tâm, luôn tỉnh giác trước mỗi niệm khởi, không để chúng sai sử, dẫn dụ hành sai! Được vậy thì chỗ chỗ đều là đạo tràng.

Mỗi một người tu, đều có khuyết điểm, giống như bốn đệ tử của Đường tăng, đều có thể gặp 81 nạn. Chỉ cần thời khắc nào cũng giữ chánh niệm, lấy giới làm thầy, khéo biến ma chướng thành trợ duyên giúp mình tu tiến, nhất định sẽ tăng thêm ích lợi cho bản thân, sớm thành tựu đạo nghiệp.

Phật nói tất cả pháp, vì độ tất cả chúng sinh, pháp vốn không phân cao thấp, chỉ vì căn cơ chúng sinh bất đồng mà có khác biệt. Vì vậy, hễ hợp cơ ắt là Diệu Pháp. Nên: Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh… môn nào cũng bình đẳng, cũng hay nhất, mọi người đều có thể tu. Chỉ cần khéo tuyển lựa pháp môn hợp với mình thì sẽ thành công. Do chúng sinh căn tính và pháp duyên có ngàn muôn sai biệt, nên không thể dùng một pháp tu làm chướng ngại các pháp khác. Nếu như vừa đi lệch khỏi con đường đạo pháp, thì phải kịp thời tu chỉnh lại ngay như Ni Chân Huệ.

Thế thì, đối với những ngôn luận tuyên bố không đúng pháp trong đạo, ta phải ứng xử ra sao? Có một bài kệ xin chia sẻ cùng đại chúng:

Mạt thế thuyết pháp
Có sai có chánh
Cần bỏ thì bỏ
Cần dùng thì dùng
Tùy duyên hóa độ
Sân tức mê muội!

Những người không tin, phỉ báng Phật, là tự tạo vô lượng lỗi, quả báo của họ sau khi chết nếu ta nhìn thấy được sẽ kinh tâm. Chư Phật, Bồ tát luôn đại từ đại bi, hằng quan tâm đến chúng sinh nơi ác đạo, dùng đủ phương tiện để hóa độ (bao gồm cả trách quở nghiêm khắc), mong cứu chúng sinh bị đọa lạc.

Chúng ta phải biết: Chư Phật, Bồ tát giáo hóa người, không phải chỉ toàn dùng lời ái ngữ dịu dàng, mà đối với những chúng sinh cứng đầu ngỗ nghịch, có lúc các Ngài cũng phải hiện thân kim cang, trừng mắt thịnh nộ…

(Những cảnh địa ngục đau khổ trong kinh mô tả có nhiều vô cùng, không thể ghi chép ra hết, xin đại chúng hãy tìm xem trong kinh sẽ rõ). Giờ tôi xin kể tiếp một câu chuyện:

∗ Quả Tiệp

Quả Tiệp từ nhỏ tai phải mất thính lực, thời Tiểu học mắc bệnh viêm cơ tim, phải nghỉ học nằm viện, sau đó còn bị bệnh gan.

Năm mười sáu tuổi đột nhiên đầu cháu nhức thống thiết, hôn mê suốt năm ngày, tỉnh dậy rồi thì không biết chữ, (thậm chí một cộng một là mấy cũng tính không ra).

Bác sĩ phán: Do ngày trước huyết quản não bất thường, não bị tẩm huyết, nên phải phẫu thuật. Tuy mổ thành công, nhưng không lâu lại bị bệnh động kinh, lúc lành lúc phát, nên chẳng thể đi học. Cha mẹ cháu vì vậy khổ tâm khôn xiết, mãi đến khi xem sách “Báo ứng Hiện Đời”, rồi gặp được tôi, thì họ bắt đầu ăn chay, tụng “Kinh Địa Tạng”, nhờ vậy bệnh động kinh của cháu ngưng phát tác.

Một năm sau, mẹ cháu gọi điện cho tôi, kể:

Tối qua toàn thân Quả Tiệp co rút, nhưng không còn bị nôn ói dữ dội như trước đây. Tâm trí vẫn tỉnh táo, biết một bề niệm Phật. Cha mẹ hiểu là: Dù có đưa cháu đến bệnh viện khám cũng vô dụng, nên họ đồng quỳ trước điện Phật nhà mình chí thành niệm Phật, lát sau thì cháu ổn lại.

Sáng ra, cháu hối thúc mẹ mình hãy mau gọi điện thoại cho tôi. Tôi bảo bà:

– Có thể con gái bà đang nhớ nhung tơ tưởng đến một nam nhân, tôi không tiện nói qua điện thoại. Trước tiên, bà hãy khuyên con không nên nghĩ xằng tưởng loạn, ngày mai tôi sẽ đến nhà bà bàn chuyện.

Hôm sau tôi đến gặp họ. Quả Tiệp trông có vẻ yếu. Trước tiên tôi xác nhận cháu nửa năm nay có cố gắng tụng kinh niệm Phật nhiều và đã lạy hình ngài Tuyên Hóa đủ vạn lạy, đã thành đệ tử Ngài. Tôi khen cháu chịu khó học tập, làm việc nhà siêng năng và cũng chỉ ra những lỗi lầm…

Tôi hỏi:

– Có phải con đang nhớ tới nam nhân?

Mặt Quả Tiệp đỏ lên, khẽ gật gật đầu và nói:

– Con… kềm chế không được.

Tôi bảo:

– Sư phụ bảo ta nên nhắc con: Tụng kinh niệm Phật là để giải nghiệp, khi nghiệp chướng đời trước tiêu trừ, thì bệnh sẽ lành. Nếu như lòng con tâm dâm vừa sinh khởi, thì Thần hộ pháp sẽ lập tức xa lìa con ngay và oan gia trái chủ sẽ thừa cơ tiếp cận, đòi nợ, hành hạ, báo oán con…

Ta cũng biết: Đang độ tuổi xuân mà cấm con không được nghĩ đến người khác phái, chẳng nên yêu đương thì quá khó cho con. Nhưng nếu muốn giải nghiệp, con cần phải tu và làm được những điều khó làm, chỉ có chân thực tu hành mới được chư Phật, Bồ tát gia hộ. Lúc tâm khởi niệm sai quấy thì nên kịp thời điều phục, thì không sao cả…

Đợi đến khi con 25-26 tuổi, túc nghiệp sẽ tiêu trừ, khi đó tự con cũng có thể nhận ra. Lúc ấy nếu con còn muốn kết hôn, nhất định sẽ gặp người có thiện duyên với mình.

Tháng 4 năm 2006 tôi lại nhận điện thoại mẹ Quả Tiệp gọi tới, nói:

– Có Tổng giám đốc của một công ty lớn nọ là bạn thân họ, đang mở tiệm chơi bô-linh, biết con gái bà đang rảnh, nên muốn giúp đỡ họ bằng cách để dành cho nó một chân làm việc ở quầy thu ngân và hỏi Quả Tiệp có chịu đi làm không? Bà hỏi ý tôi phải làm sao?

Tôi không trả lời. Quả tình có thầm lo: Nếu Quả Tiệp đi làm, e là trong môi trường tiếp xúc có nhiều nam giới, nó khó mà khống chế được tình cảm yếu đuối của mình, do vậy tồi đề nghị: Để tự nó quyết định.

Tất nhiên Quả Tiệp chọn đi làm.

Một ngày mùa Thu tháng 8, mẹ Quả Tiệp lại gọi điện tới, kể:

– Tối qua con tôi phát bệnh, sức khỏe rất xấu, hiện giờ không ngóc dậy nổi, nó cứ thúc tôi phải gọi điện cho ngài.

Ngay lúc ấy tôi nhận ra: Tâm Quả Tiệp đang tơ tưởng đến nam nhân, nên liền tra gạn… thì quả nhiên đúng thế.

Mẹ nó nói:

– Gần đây cháu về nhà, ngó bộ tinh thần bất định. Nghe nó kể có một nam sinh thường nhắn tin cho nó.

Do cảm thông Quả Tiệp từ nhỏ đến giờ luôn bị bệnh hành, tôi bảo mẹ con họ hãy đến chỗ tôi. Sau đó tôi kể câu chuyện tiền thân của Quả Tiệp cho bọn họ nghe.

“Vào thời quá khứ, có một đôi vợ chồng, gia đình giàu có, nhưng không con. Thế là họ đi chùa, đến chỗ Bồ tát Quan Thế Âm cầu con. Không lâu thì bà vợ mang thai, sinh ra một bé trai khôi ngô tuấn tú (tạm gọi là Bảo), cả nhà cưng như châu ngọc. Bảo tính thông minh, nhưng do được nuông chiu quá mức nên càng lớn càng kiêu ngạo, chẳng nể nang ai, muốn gì làm đó, toàn theo ý mình.

Lúc này cha mẹ muốn quản giáo, cũng đã muộn, chỉ biết tiếc hận mà thôi.

Sau đó thân phụ chàng tạ thế, mẹ vẫn cưng chìu. Bảo ngày càng phát thói tệ xấu, không làm việc, thường kết bè cùng bạn ác, lêu lổng đàng điếm ăn chơi, qua lại chốn thanh lâu nhậu nhẹt mua vui…

Sau đó, trong nước xảy ra chiến tranh, Bảo cũng tùng quân đánh giặc, giết người không ít.

Tàn cuộc chiến, chàng hồi hương, cưới vợ sinh con, vẫn không lo làm việc, chỉ biết ăn xài hoang phí. Tiền toàn là chi ra không thu vào, nên dần cạn kiệt, vợ Bảo khuyên can, chàng cũng không thèm nghe! Còn nổi thịnh nộ, ra tay đánh đấm… tát mặt đá vợ, khiến nàng bị trọng thương, hôn mê cả một ngày một đêm mới tỉnh.

Kết quả: Tai phải nàng bị điếc, toàn thân bầm dập, mang nhiều vết thương trong lẫn ngoài. Hơn nữa đầu còn bị đau nhức không ngừng, có chữa trị mấy cũng không hết và nàng lìa đời.

Gia đình nhà vợ tức giận kiện thưa lên quan. Bảo bị bắt thẩm tra, mẹ chàng phải bán hết gia sản mới cứu được con trai toàn mạng, Bảo bị kết án: Sung quân lưu đày.

Đến lúc chàng trở về nhà, thì mẹ đã mất, chỉ còn căn nhà trống, chàng phải bán nhà để sống qua ngày. Nhưng vẫn quen thói bê tha truy tìm hoan lạc.

Cuối cùng cũng đến một ngày: Tiền của hết sạch, Bảo phải lang thang ăn mày, biến thành kẻ trộm cắp chôm chỉa, thường bị người vây đánh… Đến một ngày nọ, chàng té nằm trên đất toàn thân co giựt, miệng trào đờm, người chung quanh nhìn thấy cũng không ai thèm giúp. Sau đó tuy Bảo chẳng chết, nhưng sống bần khốn suy sụp, luôn bị người phỉ nhổ…

Lần nọ, trong lúc đang phát bệnh co giựt, thì bỗng có một chiếc xe ngựa đi ngang qua và dừng lại, thấy nha đầu dìu đỡ một phu nhân quyền quý trên xe bước xuống. Bà tiến đến gần chàng, khom lưng nhìn… rồi đưa tay bấm vào mấy huyệt đạo trên thân Bảo, chàng lập tức hết co giựt. Bà bèn lệnh cho phu xe mua nước rửa mặt cho chàng và ban tặng thức ăn. Chàng nhờ vậy hồi sinh. Lúc này phu nhân cảnh báo, nhắc nhở với mọi người rằng: Sở dĩ Bảo sa cơ đến bước đường cùng này là do tội ngỗ nghịch bất hiếu, tạo lắm điều ác mà ra! Bà khuyên dân làng nên lấy chàng làm gương: “Sống phải biết hiếu thuận cha mẹ, cư xử tốt với người phối ngẫu, phải làm tròn bổn phận, thiên chức mình trong gia đình, nên đoạn ác tu thiện, mới mong phúc đến bệnh tiêu.

Khuyên nhắc xong, bà hỏi chàng: Nếu chịu cải tà quy chính thì sẽ giúp đưa đến chùa cạo tóc tu hành, không còn phải lo chuyện ăn mặc.

Bảo nghe nói vậy rất hoan hỷ, bèn lạy tạ rồi lên xe cùng đi.

Chàng xuất gia xong, trọn ngày tụng kinh bái Phật. Nhưng tâm dâm chưa đoạn, nên đã phá giới phạm dâm lem nhem, vì vậy sau khi chết rồi thì vào địa ngục thọ tội, mãn kiếp thì đầu thai vào cõi súc sinh”…

Tôi kết luận:

– Đó là chuyện tiền kiếp của Quả Tiệp. Đời này được làm người, tuy mang thân nữ, nhưng khổ báo của nghiệp cũ vẫn chưa hết, do vậy mà ngay từ nhỏ bị bệnh tật triền miên. Nhờ đời trước từng xuất gia tụng kinh, nên nay được gặp Phật pháp tu theo, song nếu muốn giải túc oán tội nghiệt thì tuyệt đối không được để tâm dâm manh nha vọng động…

Quả Tiệp nghe xong, kinh hoàng tỉnh ngộ, liền dũng mãnh phát nguyện: Xin thề từ đây không nghĩ xằng tưởng loạn, quyết chẳng tái phạm lỗi dâm ái nữa, đời này nhất quyết tu cho thoát ly tam giới…

Hai ngày sau Quả Tiệp lại đến, trông thần sắc bình thường. Tôi bảo cháu:

– Không nên vì biết quá khứ mình tạo tội sâu nặng mà mất đi niềm tin. Ngươi có nghĩ ra hay chăng? Đời trước là nam, mình đã từng được Bồ tát Quan Âm giúp đỡ. Do tạo ác nghiệp nên tán gia bại sản, rơi vào đường cùng. Ngay lúc nguy nan lại gặp phu nhân quyền quý cứu cho và đưa vào chùa…

Đời này ngươi lại được Phật pháp cứu nữa, ngươi không nhận ra vị phu nhân đó chính là: “Hóa thân của Bồ tát Quan Ầm” hay sao? Vì vậy, ngươi đừng có phụ ân giúp đỡ và kỳ vọng của Ngài…

Quả Tiệp hiểu ra, rơi nước mắt, gật đầu.

Sám văn:

Mỗi ngục đều có chủ quản. Ngưu đầu ngục tốt tánh tình bạo ngược không có chút từ tâm. Thấy chúng sinh thọ ác báo chỉ sợ họ không khổ mà thôi. Nếu phỏng vấn ngục tốt:

– Chúng sinh thọ khổ rất đáng thương, vì sao các ngươi hành hình độc ác, không chút thương xót?

Ngục tốt liền đáp:

– Những người thọ khổ kia đã phạm các tội ác như thế này: “Bất hiếu cha mẹ, phỉ báng Phật Pháp Tăng, chê bai Thánh Hiền, nhục mạ lục thân, khinh mạn Sư trưởng, hủy hoại tất cả… hay nói lời độc ác, đầm thọc, nịnh hót, tật đố, cố ý chia rẽ người, giận hờn nóng nảy, sát sinh, hoang dâm, tham lam, dối gạt, khinh người, sống tà mạng, tà cầu, tà kiến… Biếng lười, buông lung, kết nhiều thù oán…

Khi bọn họ đến đây thọ tội xong rồi, mỗi khi họ thoát ra, chúng tôi thường khuyên: ở đây khổ lắm, các người đừng tạo tội để khỏi phải trở vào đây nữa.

Nhưng họ đâu có chịu ăn năn chừa bỏ? Mới thấy thoát ra đấy đã trờ vào lại. Họ ra vô chốn này mãi mà không biết ngán, báo hại chúng tôi phải nhọc mệt vì họ. Do họ cứ sống tồi như thế mãi nên chúng tôi đối với tội nhân không có chút lòng thương, còn cố ý hành cho thật đau để họ tởn! Chúng tôi mong họ thấm thìa khổ, mà biết hổ thẹn, ăn nản, không còn vào đây nữa.

Họ đã ngu si vô trí, không biết lìa khổ tìm vui, nên phải thọ khổ, thì làm sao có thể dung thứ, xót thương cho họ được?

Đại chúng hãy suy gẫm và đem so chuyện này với cảnh lao ngục ở thế gian thì sẽ hiểu đây không phải là hư dối.

Giống như có người nhiều phen vào tù ra khám, đến mức bà con thân tộc thấy họ cứ vào ra nhà ngục mãi cũng đâm chán ngán, không thương nồi… thì đám ngưu đầu ngục tốt cũng giống vậy thôi.

Tất cả chúng sinh đều có oán thù. Vì nếu không oán thù thì không có ác đạo. Hiện nay ác đạo không dứt, ba đường còn mãi, thì biết oán thù hiện không cùng tận .

Phải nhớ trong kinh dạy rằng: “Hết thảy chúng sinh đều có tâm nên đều có thể thành Phật”… mà tinh tắn tu.

Vì thế nếu đã thoát khỏi ác đạo rồi thì nên gắng tu tâm dưỡng tánh, cải sửa thói quen xấu. Nếu không trừ bỏ thói xấu thì sẽ chìm trong biển khổ mãi và tiếp tục nếm hết khổ này đến khổ khác, không bao giờ ngừng…

∗ Mẹ Và Con Trai

Một thanh niên khoảng 20 tuổi gọi điện đến nhà tôi khóc kể, cầu xin tôi giúp anh ta tìm mẹ (bỏ nhà ra đi đã mấy ngày nay). Lúc đó tôi đang bận viết cuốn sách này nên đưa điện thoại cho sư đệ Quả Công (là khách đến thăm nhà), phụ gỡ rối giùm.

Quả Công hỏi:

– Có phải do em chẳng chăm học tập, khiến mẹ tức giận bỏ đi phải không?

– Y nói:

– Dạ phải.

Quả công lại hỏi tiếp:

Thành tích học tập của em tuột dốc, tệ dữ, là do em quá mê xem phim, sách, băng, đĩa… đồi trụy phải không?

– Y kinh ngạc nói:

– Chuyện của tôi ngài làm sao chỉ qua điện đàm mà biết hết vậy? Xin ngài hãy làm ơn chỉ giùm: Mẹ tôi hiện đang ở đâu? Bà bỏ nhà đi đã hai ngày rồi!

Quả Công hỏi:

– Ba em đâu?

– Cha tôi mất sớm, chỉ còn tôi và mẹ nương nhau mà sống. Tôi sắp thi lên Cao học, nhưng do mê xem phim, ảnh, sách, báo… đồi trụy, khiến trong lòng toàn tưởng loạn, nghĩ điên, dẫn đến thành tích học tập bị sa sút… Mẹ tôi la mắng hoài, hôm trước còn mắng nữa, nên tôi có cự cài với mẹ… Thế là bà tức giận bỏ đi. Xin ngài hãy cứu mẹ tôi. Nói xong anh ta khóc nức nở.

Quả Công bảo:

-Tôi cũng chẳng biết mẹ em ở đâu, nhưng tôi biết bà không có đi… tự tử. Bà từng nói: “Nếu con không bỏ được thói xấu này, thì mẹ sống cũng chẳng có hy vọng gì, chi bằng chết quách cho yên thân!”.

Bên kia lại vang lên tiếng khóc nức nở, y nói:

– Mẹ tôi lúc sắp bỏ đi quả có nói vậy, nhưng ngài làm sao mà biết rành như thế? cầu xin ngài giúp đỡ, chỉ ra chỗ của mẹ giùm, tôi sẽ tới đó xin lỗi, nhất quyết từ nay sẽ không xem hay coi gì bậy nữa!

Quả Công nói:

– Nếu em thực lòng muốn mẹ quay về, thì phải dứt tuyệt đồ mặn, ăn chay trường. Hây quỳ trước tượng Phật nhà em, nhà em có thờ tượng Quan Thế Âm bằng sứ phải không?

– Dạ đúng vậy.

Quả Công bảo y:

– Tôi thấy dung nhan Bồ tát Quan Thế Âm rất trang nghiêm, Ngài nói: “Đời này nếu em không cải tà quy chính sửa lỗi, thì số mệnh sẽ rất bi thảm”.

Y vừa nghe, kinh hoảng nháo nhào, vội hỏi số mệnh mình thế nào?…

Quả Công khuyên y mỗi ngày phải ăn chay và tụng “Kinh Địa Tạng” từ hai đến ba bộ mà hồi hướng cho chúng sinh. Tụng đủ 21 bộ, thì mẹ y nhất định sẽ quay về…

– Nếu tâm em chí thành, có lẽ tụng chừng vài bộ là mẹ sẽ về. Nhưng mà em vẫn phải kiên trì tụng cho xong 21 bộ, như vậy mới có thể giúp tiêu trừ ác nghiệp bất hiếu (dám cự cãi) với mẹ.

Từ nay về sau chẳng những không được xem sách báo phim ảnh đồi trụy, mà còn phải thiêu hủy hết. Nếu không, chư Phật, Bồ tát, Thiên long hộ pháp sẽ lìa xa nhà em ngay. Trong thời gian đi học, hằng ngày (trước khi ngủ và đến trường), trên đường đi phải tụng thuộc làu mười biến “Chú Đại Bi” thì em sẽ đạt thành tích tốt.

Ba ngày sau, từ nhà họ, mẹ y gọi điện tới, ngoài việc bày tỏ lòng cảm ân ra, bà còn hỏi thêm một số việc của con trai.

Tôi cũng khuyên bà từ nay nên dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường, mỗi ngày cần tụng một bộ “Kinh Địa Tạng”, tương lai không những tất cả đều thuận lợi, mà cuối đời bà cũng hạnh phúc, có thể vàng sinh cõi lành.

Sau đây xin ghi rõ nhân duyên giữa hai mẹ con này (do sư đệ Quả Công quan sát và kể ra):

“Nước Anh có một trưởng nam của gia đình giàu có nọ, từ nhỏ quen sống phóng túng, huân toàn ác hạnh, không chăm học hành, chỉ ưa kết bè kết bạn, nhậu nhẹt vui chơi, bồ bịch với nhiều bạn gái…

Lần nọ, anh lái xe chở người bạn gái rất thân đi đến miền viễn phương chơi, dọc đường xảy ra tranh cãi. Chàng trai trong lúc nổi giận đã đuổi thẳng cô bạn gái xuống xe, rồi một mình quay về.

Khi chàng bình tĩnh lại, lập tức quay ngược đầu xe lại để tìm bạn gái, nhưng không thấy bóng dáng nàng đâu. Phần cô gái sau khi xuống xe, dòm thấy bốn bề mênh mông vắng vẻ không bóng người, trong lòng rất sợ. Lúc đó bỗng nghe tiếng chuông Giáo đường từ xa vọng tới, thế là cô đi về hướng Giáo đường.

Hôm sau vị Linh mục lái xe đưa cô về nhà. Sau đó cô biết bạn trai mình do quá lo mà sinh bệnh, liền cãi lời cha mẹ lén đến thăm chàng. Bọn họ trải qua trận phong ba này, cảm tình càng thêm thắm thiết. Đến tuổi có thể kết hôn, do cha mẹ cô gái kiên quyết phản đối, nên họ chẳng thể thành thân”…

Kiếp trước bọn họ không thành chồng vợ, đời này lại thành mẹ con. Do thân phận bất đồng làm thay đổi mối duyên tình đời trước. Nhờ Bồ tát Quan Thế Âm gia trì, Quả Công (là đệ tử Ngài Tuyên Hóa) đã giúp mẹ con bọn họ đi vào con đường học Phật…

Nguyện hai mẹ con họ đời này đạo nghiệp thành tựu…

Sám văn:

Phải biết Bà con quyến thuộc đều là nguồn gốc oán thù ba đời… Tất cả oán thù đều do thân quyến mà khởi. Nếu không có bà con thì không có oán. Lìa thân quyến tức là lìa oán. Vì sao?

Mỗi người ở một nơi, xa cách nhau thì không thể sinh oán. Sinh oán hận là do thân gần. Bởi trong lòng ai cũng có ba độc: Tham, sân, si nên thường xảy ra xung đột gây cãi, oán hận.

Do vậy mà bà con thân thích hay trách móc, hiềm hận lẫn nhau. Hễ có chút không vừa lòng là sinh tâm giận dữ.

Nếu ai giàu sang phú quý thì được bà con nhìn, đua nhau đến xin; còn nghèo thiếu thì không ai để ý.

Thông thường, kẻ xin dù được cho vẫn luôn thấy thiếu; vì càng được càng chưa thấy đủ. Trăm lần xin, trăm lần được cũng không cho là ân, song hễ một lần chẳng vừa lòng thì khởi giận hờn. Từ đó bắt đầu ôm lòng ác, nghĩ cách kết thù gieo họa, đời đời không thôi.

Từ đây mà suy, oán thù ba đời, không ai xa lạ, thảy đều là bà con thân thích, quyến thuộc của ta.

Giải thích:

Oán thù đối nghịch chẳng ai xa lạ, chính là thân nhân, cũng là oan gia trái chủ đời trước tụ hội. Biết rõ điều này thì chúng ta chỉ có sám hối nghiệp chướng của mình. Xin kể một câu chuyện:

∗ Nhã Trúc

Có cặp vợ chòng 35 tuổi, cũng là đôi trai tài gái sắc nổi bật nơi thị trấn họ cư ngụ.

Người chồng làm việc ở cơ quan, cô vợ mở tiệm giày trong thị trấn, có một đứa con khoảng 10 tuổi và bà mẹ chồng chưa đến 60. ở ngoài nhìn vào thì đây là một gia đình hạnh phúc, người chồng rất có hiếu với mẹ.

Cô vợ tên Nhã Trúc, khi kể chuyện mình đã tức tưởi bật khóc, lệ tuôn đầm đìa…

Cô nói chồng rất yêu thương mình, kết hôn xong, mãi đến khi sinh con cô vẫn thấy mình thực là tốt số, vì đã chọn đúng người. Nhưng không hiểu sao, cô sinh con xong rồi thì mẹ chồng đối với cô thái độ từ bình thường bỗng chuyển sang khiêu khích, lúc nào cũng bắt lỗi. Mẹ chồng không thèm gây cãi với cô, mà cứ đợi chồng cô đi làm về, là kể tội cô đủ thứ… Chồng cô nồi danh có hiếu, tính rất nóng nảy nên dễ bốc hỏa, hễ thấy mẹ tức giận, thì chẳng cần hỏi rõ trắng đen chi đã tát cho cô mấy cái nổ đom đom mắt, làm mặt cô sưng vù, cả tuần sau mới dám mở tiệm kinh doanh lại.

Lúc này đứa con vẫn chưa đầy tháng, xem như cơn ác mộng phát sinh từ đó. Cứ cách bảy, tám ngày thì cô bị chồng đánh một trận nhừ tử, hơn nữa anh còn cấm không cho kêu la, không được khóc. Nếu như cô khóc, thì anh tát ngay vào mồm cô, đã mấy lần khiến cô suýt chết. Từ đó về sau mỗi lúc bị chồng đánh, cô không dám khóc. Chẳng những phải im lặng, chấp nhận bị chồng đánh mà còn phải van xin, nài nỉ anh đừng đánh trên mặt mình, vì lo sợ hôm sau không thể buồn bán bình thường. Mẹ chồng cô chẳng những không can ngăn, ngược lại còn đứng ở ngoài nhìn vào với vẻ hả hê, đắc ý; như thể cô có thâm thù đại hận với bà vậy…

Vừa kể cô vừa xán tay áo, vén chân cho mọi người xem những vết thương bầm tím dọc ngang, chằng chịt trên mình. Mấy cô gái nhìn vào đều phát hoảng, xúc động cảm thương rơi nước mắt.

Tuy bị hành hạ đánh đập thường xuyên, nhưng Nhã Trúc không hề kể cho cha mẹ mình biết, cũng chẳng dám nói với bạn bè, vì sợ mọi người cười chê. Thậm chí cũng không dám đề nghị ly hôn. Cô nói cô biết chồng vẫn yêu thương mình, vì mỗi lần đánh cô xong, anh đợi cho mẹ ngủ, thì đến bên cô, vừa khóc vừa thủ thỉ bên tai cô xin lỗi. Còn hứa hẹn, bảo đảm là sẽ không đánh cô nữa.

Nhưng chẳng được mấy ngày, hễ vừa nghe mẹ chồng ca cẩm nói xấu cô, thì tệ trạng kia vẫn tiếp diễn như cũ.

Nhã Trúc hỏi tôi cô phải làm sao? ở chỗ cô nếu phụ nữ mà ly hôn rất bị coi thường khinh rẻ, giả sử có tái giá cũng chẳng tìm được gia đình tốt. Rồi cô hỏi:

– Chẳng biết tôi đời trước tạo ác nghiệp gì, mà nay bị thống khổ quá như thế?

Tôi quán sát một hồi, rồi kể cho Nhã Trúc nghe:

“Đời trước cô là nam nhân X, trong nhà có nuôi một con ngựa cái lông trắng mỹ miều. Nó lớn lên càng xinh đẹp, cường tráng, mạnh mẽ, nhìn bắt mắt vô cùng. Thế là mọi người xúm nhau hướng anh X chi tiền trả giá cao, lo đặt mua ngựa con trước. Đến lúc phối giống, anh X đi khắp nơi tìm giống tốt. Con ngựa hoài thai rồi mà vẫn phải làm việc.

Có người bảo anh X:

– Ngựa cái bụng to như thế ròi, không nên để nó làm việc nặng nữa…

Nhưng anh X lại tung chân đá vào bụng ngựa thám dò và nói:

– Con ngựa này da dầy, sẽ không bị đẻ non đâu!

Ngựa con sinh ra quả nhiên rất đẹp, nhiều người giành nhau mua. Anh X hưởng lộc thiệt ngọt. Nhờ bán ngựa con mà giàu có. Mỗi lần ngựa mẹ hoài thai rồi sinh con, thì ngựa con đều lần lượt bị bán đi, khiến ngựa mẹ và con ôm niềm thống khổ vì mẫu tử bị chia cách…

Ngựa mẹ từ lúc mang thai chưa từng được ngưng chuyên chở và luôn bị đòn roi. Mỗi khi sinh con xong, chưa được mấy ngày nó đã phải kéo xe hay cày bừa, còn hứng chịu roi đòn chửi mắng. Đến khi ngựa mẹ không còn khả năng sinh sản và làm việc được nữa, thì nó bị bán vào lò mổ, anh X thu món tiền cuối cùng bằng việc bán mạng nó”…

Khi tôi kể xong câu chuyện, Nhã Trúc mở to mắt, thảng thốt hỏi:

– Vậy… mẹ chồng tôi chính là… con ngựa cái ấy?

Tôi gật đầu:

– Đúng thế!

Cô hỏi tiếp:

Vậy… chồng tôi là ai?

– Là một trong số các ngựa con bị bán đi…

Tôi giải thích tiếp:

– Do đời trước làm ngựa con, thời gian sống gần mẹ chẳng được bao nhiêu thì đã bị bán đi, đời này lại sinh làm mẹ con cùng nhau nữa, tình thâm vẫn còn, nên anh chỉ biết nghe theo lệnh mẹ, không muốn để mẹ phải có chút phiền bực nào. “Lúc không nổi nóng thì anh là người chồng yêu thương cô, còn lúc nổi nóng thì anh chính là ngựa con bị bán đi, biến thành cừu nhân!”.

Nhã Trúc mắt đầy lệ, mặt tái nhợt, đương nhiên rất kích động:

– Sao đời trước của tôi xấu xa đến thế? Do tôi làm toàn việc tổn đức, nên đời này bị chồng đánh quả là đáng kiếp, không hề oan! Từ nay trở đi tôi không còn oán hận mẹ chồng nữa. Tôi thệ sẽ sống hiếu thuận với mẹ chồng…và tương lai nếu tôi tu thành Phật, thì người đầu tiên tôi độ là mẹ chồng…

Cô nói xong mọi người đều cảm động rơi nước mắt… chẳng phải buồn sầu, mà là mừng cho cô.

Nửa năm sau, tôi có chuyện phải đến nơi này, sẵn dịp, Nhã Trúc kể cho mọi người nghe:

Từ lúc tôi theo quý vị học Phật rồi, tâm tình tốt hẳn lên. Nguyên là bên nhà chồng tôi không có thờ Phật, nên chẳng biết đến niệm Phật hay tụng kinh chi.

Vì vậy, tôi phải đợi những khi mẹ chồng đi vắng, thì đóng cửa, lén tụng “Kinh Địa Tạng”, có lần chồng tôi bất ngờ trở về phát hiện ra… anh liền chạy tới đánh tôi, suýt nữa thì xé nát kinh, lúc đó tôi quỳ xuống cầu xin anh dừng tay, nên anh chỉ cầm quyển kinh đập vào đầu tôi.

Vì vậy hễ tôi tụng kinh thì phải tụng thầm, hành trì lén lút giống như là kẻ trộm, một khi tai vừa nghe tiếng cổng khua là lo dẹp ngay, sau đó chờ dịp thuận tiện mà tụng tiếp.

Không bao lâu thì mẹ chồng tôi đột nhiên phát bệnh đau lưng, đã đến nhiều y viện chẩn khám rồi, mà chữa không hết. Bà sợ tốn tiền vô ích nên không thèm đi trị nữa. Hằng ngày ở nhà nằm rên rỉ không ngừng.

Thế là tôi bỗng nảy ý: Tôi đóng cửa phòng mình lại và quỳ xuống, chắp tay hướng lên không, khẩn cầu: Xin Bồ tát đại từ đại bi gia hộ, con nguyện vì mẹ tụng ba bộ “Kinh Địa Tạng”, cầu cho bệnh bà được an. Nếu như bệnh có thể lành, thì xin khiến mẹ chồng con hồi tâm, cho phép con được thờ Phật tụng kinh”… khấn xong tôi lạy ba lạy.

Sau đó tôi tiến vào phòng mẹ chồng, thưa:

– Mẹ ơi, để con tụng ba bộ “Kinh Địa Tạng” cầu cho mẹ hết đau lưng nhé…

Mẹ chồng tôi nhăn nhó nói:

– Tụng kinh mà có thể lành bệnh thì người ta còn đi bệnh viện làm cái quái gì?

Tôi nói:

– Chẳng phải bệnh viện cũng không trị lành bệnh mẹ hay sao? Con thành tâm tụng kinh nhất định sẽ cảm động chư Phật, Bồ tát gia trì cho mẹ, mẹ hãy cho phép con thực hiện thử nhé? Dù sao cũng đâu có tốn tiền gì?…

Mẹ chồng nói:

– Ta đang đau muốn chết, ngay cả thở cũng đau! Muốn thử thì tại sao không mau tụng đi?

Bà vừa nói vừa bốc hỏa…

Thế là tôi lao vào phòng mình, chắp tay lớn tiếng tụng “Kinh Địa Tạng”. Lần đầu tiên tôi yên tâm tụng kinh nên mừng khôn xiết, do mừng quá nên mắt tuôn lệ đầm đìa: “Tạ ân chư Phật, Bồ tát, con xin thành tâm đảnh lễ …”, tận đáy lòng tôi không ngừng vang lên âm thanh cảm kích này…

Chuyện kỳ diệu phát sinh, khi tôi tụng xong một bộ kinh, không còn nghe tiếng mẹ chồng rên rỉ nữa, tôi lén đi ra thăm dò, mới hay bà đã ngủ từ lúc nào.

– Ôi chao! Hoàng thiên ơi! Đây là điều chưa từng có kể từ hồi bà phát bệnh tới nay.

Tôi mừng rơi nước mắt, lại quỳ xuống tụng kinh tiếp. Đến khi tôi tụng xong ba bộ “Kinh Địa Tạng” thì hai đầu gối tê dại chẳng còn cảm giác nữa, tôi đứng lên không được và té ngã ra đất, phải nằm cả buổi mới có thể ngóc dậy… Mẹ chồng tôi vẫn còn đang ngủ say. Tôi biết bà quá khốn đốn, quá mệt rồi”….

Câu chuyện của Nhã Trúc, tôi xin phép được dừng ngang đây. Tôi nghĩ mình không nên viết thuật tiếp nữa, dù khi kể tôi đã thay đổi tên, chỉ dùng hóa danh, song cũng không nên để lộ quá nhiều chuyện bí mật của người.

Tôi chỉ muốn chứng minh câu sám văn đã nói: “Không có thân nhân thì không có oán, nếu lìa quyến thân thì cũng lìa oán”…

Bằng chứng là, về sau này, khi Nhã Trúc được phép xuất gia rồi, thì đúng là cô được hưởng cuộc đời bình an “lìa thân lìa oán”. Tôi cũng từng đi thăm cô. Nghe Sư phụ tôi nhận xét:

Căn cơ Nhã Trúc rất tốt, là bậc nhân tài trong hàng tu sĩ!

Tôi thầm chúc cô sớm thành Phật đạo, trở lại hóa độ chúng sinh…

Nếu quá khứ chúng ta có kết oán với người rất lâu rồi mà chưa giải, thì hôm nay, ta là đệ tử Phật, cần phải biết nhận ra lỗi mình, không nên giận oán nhớ lỗi người, mà chỉ nhìn vào chỗ lỗi của mình, như vậy mới có thể giải oán kết giữa mình và đối phương.

Đối với người còn sống, chỉ cần thành tâm sám hối, thắp hương lễ bái, quỳ trước Phật niệm tên người ấy, hướng về họ nói lên lời sám hối, thì cũng giống như người đó đang quỳ cạnh mình ở trước Phật vậy. Khi mình nói lời xin lỗi họ xong, nguyện vì họ tụng “Kinh Địa Tạng” để gia tăng thêm phúc báu cho họ.

Và kể từ hôm đó trở đi, đề nghị bạn mỗi ngày hãy nhìn thời gian, ở trước Phật tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” cầu cho họ. Trước khi tụng, nhớ nói một câu: Con xin vì người tên… mà tụng “Kinh Địa Tạng”, cầu cho họ khang kiện, hạnh phúc, lìa khổ được vui V.V.. Đã nói vậy rồi thì tới lúc Hồi hướng, không cần phải đọc lại tên này nữa, bởi vì bạn chỉ cần quỳ trước Phật niệm tên họ, thì (dù là còn đang sống) thần thức họ cũng sẽ lập tức đến nghe, sẽ quỳ ngay trước Phật. Cho dù họ đối với bạn còn ôm lòng oán thù (như tôi trước đã từng giảng qua là: Tụng một biến “Kinh Địa Tạng” cầu cho, cũng giống như bạn tặng họ 20 vạn Nhân dân tệ, thêm vào đó bạn còn chân thành sám hối với họ, nên họ sẽ tiếp nhận).

Hằng ngày, chỉ cần bạn kiên trì tụng một bộ “Kinh Địa Tạng”, đừng tụng quá nhanh, đọc rõ ràng, thì sẽ có một ngày, khi tình cờ gặp mặt nhau, họ sẽ chủ động chào hỏi bạn.

Lúc được như thế thì bạn cũng nên chủ động nói mấy câu xin lỗi ngay đó, thì mâu thuẫn oán kết tự nhiên được hóa giải.

Nếu muốn hóa giải oán hận với người đã chết, thì cũng dùng cách này. Ở trước Phật thốt ra lời xin lỗi và nguyện vì người đã chết tụng “Kinh Địa Tạng” 3, 5, 7 hoặc 21 bộ, (đương nhiên càng nhiều càng tốt) được vậy thì đời sau sẽ không gặp nghịch duyên nữa, cũng có thể trong mộng người chết sẽ hướng bạn báo tin vui. Lời này muôn vàn chính xác, hy vọng độc giả tham khảo thử nghiệm, sẽ thấy Phật pháp hay không thể nghĩ lường. Chỉ cần bạn chịu thực hành, thì điều kỳ diệu gì cũng có thể xảy ra.

Tất cả oán thân trong lục đạo
Nghe con phát nguyện với tâm thành
Nếu họ thiếu nợ, con không đòi!
Còn con nợ, xin tụng kinh cho họ!
Cầu xỉn tha thứ con ngu si…
Tâm thành đảnh lễ nguyện sửa mình
Tu đến Đạo thành, thân tâm tốt
Quay về Ta bà độ chúng sình…

Xin kể một câu chuyện hóa giải túc oán:

∗ Quả Trụ

Công ty Hàng Không nổi danh nọ có Cư sĩ Quả Trụ, học Phật đã nhiều năm, ưa làm nhiều việc thiện. Ông từng giúp đỡ một bằng hữu (do bị bệnh nên thất nghiệp). Người bạn này thời Trung học bị trường kỳ mất ngủ, tinh thần suy sụp, nên phải nghỉ học ở nhà.

Lúc Đường Sơn bị động đất, mẹ y do mất thân nhân nên bị sốc, thần kinh hóa ra thất thường, cả nhà nương vào phụ thân y (đang làm việc tại Thiên Tân) nuôi dưỡng. Do cuộc sống y quá khó khăn nên Quả Trụ thường tiếp tế cho. Nhưng lần nọ, tình cờ ông phát hiện: Người bạn này đã gian trá ngụy tạo, mượn danh nghĩa góp vốn cho phụ thân để gạt ông lấy đi năm ngàn. Khi y diễn tiếp trò này để mượn 5 ngàn nữa thì Quả Trụ cương quyết không cho. Y rất tức giận vì lâu nay quen sống ỷ lại vào sự trợ giúp của Quả Trụ, nên rắp tâm báo thù: Do y bị chứng mất ngủ, nên hằng ngày cứ đợi nửa khuya là gọi điện đến nhà Quả Trụ quấy phá, trong điện thoại toàn nói những câu hung hăng hăm dọa, đại loại như: “TA GIẾT CHẾT MI”… MAU CẦM TIỀN TỚI!” hoặc cho bật nhạc rùm beng, khiến Quả Trụ phải tháo dây điện thoại ra…

Bấy nhiêu vẫn chưa đủ, y còn gọi đến nhà cha mẹ Quả Trụ ở tận miền quê Sơn Đông, xổ toàn lời tục tằng khó nghe để lăng mạ cha mẹ Quả Trụ, hoặc phao tin: “Quả Trụ bị xe tông chết”, khiến song thân Quả Trụ khổ sở, chịu hết thấu…

Được thể, y càng làm tới, táo tợn gọi điện đến sở làm của Quả Trụ để quấy nhiễu. Lần nọ, cơ quan ông tiếp được một cú điện thoại: “Chúng tôi là công an, tên Quả Trụ đang bị chúng tôi truy nã, yêu cầu Lãnh đạo công ty lập tức đến nhà hắn ngay!”.

Lúc đó trong nước đang căng thẳng vì chuyện tà giáo Pháp Luân Công gây ầm náo, nên khi nhận được tin này, ban lãnh đạo công ty Quả Trụ cực kỳ căng thẳng, vội bỏ hết các việc quan trọng, gấp rút dẫn nguyên đội quân tới nhà Quả Trụ, khiến ông ngơ ngác nhìn quân dân Ban lãnh đạo mà không hiểu mô tê gì, sau đó đành phải nhọc nhằn giải thích…

Quả Trụ cũng có báo cảnh sát, nhưng chẳng ăn nhằm gì. ông cũng gọi điện khuyên lơn, quở trách và nhờ cha y quản giáo, can thiệp giùm… nhưng có dùng đủ cách, cũng không hiệu quả chi, vẫn bị y gọi điện hành khổ không ngừng. Tuy đã biết tệ trạng này thuộc về nhân quả, nhưng Quả Trụ cũng cảm thấy quá phiền, vì nơi ông công tác thuộc nghành tối quan trọng, nên ông khó đổi số điện thoại, mà không đổi… thì tiếp tục hại bao người bị quấy nhiễu lây. Nếu như nhà ông đổi số điện thoại, thì người bạn kia mất chỗ trút hận, ắt ngày ngày sẽ gọi tới công ty ông quấy phá, như vậy lại càng phiền hơn. Đúng là “oan gia trái chủ”, làm sao cũng không tránh được nợ oán chưa trả…Quả Trụ càng thấm thìa câu khổ “oán tắng hội” mà Phật dạy.

Sau đó Quả Trụ tìm gặp tôi, kể lể mọi khổ não của mình, tôi cười bảo anh ta:

– Làm việc tốt, ra ân lại mắc oán, bị rơi vào cảnh khổ phiền vì kẻ thọ ân quấy rối, đấy chính là: “Quả báo nặng đang chuyển thành trả nhẹ, không phải là việc xấu đâu”. Giữa ông và người bạn này do kiếp xưa từng kết oán nên mới thành ra vậy, ông nếu minh bạch lý nhân quả rồi, thì tôi không cần giải thích nhiều. Hãy thực hiện điều này thử xem: Nên phát tâm sám hối để tiêu trừ tất cả oán hận với y, sau khi về nhà ông hãy vì y tụng bảy bộ “Kinh Địa Tạng” rồi hẵng bàn tiếp…

Quả Trụ hiểu ra, thực sự trước đây ông cũng có vì y hồi hướng cho, nhưng tâm vẫn còn ôm niệm oán tức, vì vậy mà không thấy có hiệu quả.

Thế là tối đó, về nhà ông chí thành sám hối túc nghiệp, tự biết đời trước mình có nợ oan trái với y. Nên ở trước tượng Phật ông trang trọng thắp hương lễ bái. Mỗi ngày tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho người bạn kia. Còn phát nguyện học theo Bồ tát Địa Tạng Vương trợ giúp cho cha mẹ y. Quả Trụ không tháo dây điện thoại nữa, mà để tùy ông ta…

Kết quả: Suốt sáu ngày tụng “Kinh Địa Tạng”, anh bạn kia vẫn ngày ngày quấy phá không ngừng, Quả Trụ cũng không thèm lý tới, vẫn một lòng cầu lợi ích cho anh ta…

Đến ngày thứ bảy, khi quỳ tụng kinh đủ số bảy bộ rồi, kỳ tích phát sinh: Cả nhà ông được ngủ yên ổn, điện thoại không còn reo quấy phá nữa… Hơn nữa từ đó về sau, mối hận hiềm người bạn này cưu mang suốt ba năm, tưởng như khó xả, bỗng tiêu tan không còn. Cả nhà Quả Trụ cảm thấy khó tin nổi. Nhưng sự thật hiển nhiên là thế, Phật pháp vốn không thể nghĩ lường mà.

Khoảng một tháng sau, Quả Trụ nhận được điện thoại người bạn kia gọi đến (vào ban ngày), nói:

-Tôi sai rồi, tôi đối với người có ân giúp đỡ mình cực lớn như anh, lại hành xử quá tệ và có lỗi. Xin anh tha thứ…

Nghe vậy lòng Quả Trụ vô cùng xúc động, thầm cảm tạ Phật pháp đã giúp ông chuyển oan gia biến thành bạn bè.

Mới đây, Quả Trụ còn dẫn người bạn này đến gặp tôi. Tôi khuyên y ráng tu học tốt, y gật gật đau.

Cho đến bây giờ, Quả Trụ vẫn thường nhận điện thoại anh bạn kia gọi tới vấn an, hỏi thăm sức khỏe.

Khi chúng ta khốn đốn vì oán ghét tụ hội khổ sở, chẳng hạn như: Cha mẹ làm chướng ngại học Phật, thân quyến không thèm nghe Phật pháp, con cái ngỗ nghịch khó dạy, cấp trên xung đột, đồng nghiệp khó hòa, không hiểu sao đi đường hay bị người làm khó… gặp chó dữ gây phiền, bị ruồi nhặng, chuột, muỗi, dán kiến (các côn trùng, động vật…) xâm hại, nghĩa là đủ loại phiền toái xảy ra. Thì bạn đừng ngại, hãy cố thử xem: Đầu tiên tận trong lòng phải tiêu hết khí oán đối với chúng sinh, phát nguyện giữ gìn giới cấm thanh tịnh, sinh khởi tâm sám hối túc nghiệp và phát ý chân thành vì lợi ích đối phương, nhất tâm vì họ tụng “Kinh Địa Tạng” hoặc kinh Đại thừa hay trì chú, niệm Phật v.v…, bạn nhất định sẽ có được thu hoạch không ngờ…

Sám văn:

Nguyện hết thảy oán thù trong ba đời ngay đây sạch hết. Từ nay trở đi cho đến ngày thành Đạo, vĩnh ly tam đồ, lìa bốn ác thú; tất cả Sống hòa, hằng làm bà con Phật pháp, quyến thuộc Từ bi, tu vô lượng trí, thành tựu tất cả công đức…

Giải thích:

Vì tham lam mê muội mỗi chúng ta đều phạm tội hoặc ít hay nhiều, chẳng hạn như: Tham lấy vật công, ăn chận bòn rút, ráng chiếm thật nhiều để làm của riêng, gây tổn người lợi mình, dâm tâm hừng thịnh v.v… Lúc chưa thành gia, thì nghĩ đủ cách để chinh phục quyến rũ thật nhiều người khác phái. Kết hôn rồi, thì luôn thấy vợ (hay chồng) người khác hấp dẫn hơn người của mình và dùng đủ thủ đoạn thực hiện ý gian. Lo sắp bày mưu chước để hưởng lạc nhất thời, chẳng màng hậu quả… Càng chẳng biết làm vậy là tương lai phải xuống địa ngục thọ tội, phải ôm cột đồng…

Còn những tội lỗi ngu si như: Làm cò dẫn mối, mở nhà thổ kiếm tiền dơ bẩn, tương lai sẽ bị đọa địa ngục khó có ngày thoát ra, cho dù nhờ trước kia có hành thiện mà được làm người, thì cũng bị túc nghiệp trói thân, khổ không thể nói…

∗ Cặp Vợ Chồng Trí Thức

Tại Hàng Châu tôi từng gặp một đôi vợ chồng trí thức, học vấn cao, giàu có sung túc.

Họ có một con trai, tốt nghiệp Đại học xong thì cứ ở lì tại nhà, bắt cha mẹ nuôi, dù có nhiều công tác ngon mời tham dự mà chẳng chịu làm. Hằng ngày cậu cứ ra ngoài ăn nhậu vui chơi, khi về thì ngữa tay xin tiền cha mẹ. Không cho thì gây ầm náo, ném vỡ đồ đạc, thậm chí còn tuyệt thực để yêu sách…

Cha mẹ cậu chỉ biết thúc thủ bó tay, điều khiến song thân lo nhất là, trong phòng cậu dán đầy ảnh phụ nữ khỏa thân. Hằng ngày, mỗi sáng sớm, cậu xả ra cả bãi tinh dịch trên giường, nhưng chẳng thèm thu dọn, toàn để cho mẹ thanh lý… Thậm chí khi nhà có phụ nữ đến, cậu ra đứng lỳ tại phòng khách, mắt dán chặt vào họ: Một tay dùng báo che hạ thể mình, còn tay kia thì thủ dâm.

Khi đó người mẹ vừa thuật chuyện này cho tôi nghe vừa khóc, còn người cha thì mặt mày căng thẳng, không nói tiếng nào.

Tôi tâm tư rất nặng nề, không thể nói là cảm thông, mà là: Cảm thán! Lại còn phải ráng kềm cơn phẫn nộ…

Đối diện với hai vợ chồng đang vọng ngóng mong chờ “cứu rỗi”, tôi hạ thấp giọng, hỏi thật nhỏ:

– Có phải hai vị thường xem phim sex, xem rất nhiều?

Cả hai lộ vẻ cực kỳ ngạc nhiên, họ ngây người nhìn tôi một lúc rồi gật đầu.

– Hai vị muốn biết nhân quả đời trước giữa mình với con trai không?

Ánh mắt người mẹ nhìn tôi đầy hi vọng.

Tôi hỏi tiếp:

– Các vị có muốn biết đời quá khứ mình đã từng làm gì không?

Cả hai lộ vẻ rất cao hứng, đáp:

– DẠ RẤT MUÔN ẠỊ

– Được rồi, tôi sẽ kể rõ cho các vị nghe:

“Hai người đời trước cũng là vợ chồng, đồng mở một kỹ viện (nhà chứa). Con trai các vị hiện giờ, kiếp đó là con gái một nhà nghèo, bị các vị mua về, ép con nhà lành làm gái điếm.

Trước tiên, hai vị buộc nó tiếp khách ban đêm, sau đó vì ham tiền, ép nó ban ngày cũng phải tiếp khách. Tiền nó bán thân: Tất cả dành để cung phụng hai vị ăn uống vui chơi, do vậy mà hai vị thiếu nợ nó rất nhiều. Bây giờ phải trả nợ là lẽ đương nhiên!

Kiếp này, con trai mình thủ dâm thì hai vị thấy đau lòng, sao không thử nghĩ xem: Cô con gái kiếp trước từng bị các vị ép bán dâm cả ngày lẫn đêm đó, cảm thọ cô ta như thế nào? Những gì hai vị chứng kiến bây giờ đều là quả báo nhẹ, tương lai lúc các vị bệnh, thân thể không còn mạnh khỏe, cử động khó khăn, thì hắn sẽ còn rất nhiều màn kinh khủng để biểu diễn cho các vị xem!”…

Tôi nói bình thản nhưng nghiêm nghị. Hai vợ chồng nhìn nhau. Người mẹ gượng cười nói:

– Chúng tôi làm sao có thể… mở kỹ viện được chứ ạ?

Ngẫm nghĩ một hồi, họ hỏi tiếp:

– Xin ngài dạy chúng tôi phải làm sao để con trai mình thay đổi?

Bọn họ đã tin lời tôi nói.

Tôi bảo:

– Muốn con thay đổi, trước tiên bản thân mình phải thay đổi bốn điều:

1. Hai vị phải chân thành sám hối tội ác (đời quá khứ mở kỹ viện ép gái nhà lành bán thân).

2. Phải lập tức thiêu hủy ngay tất cả các sách, truyện, băng, đĩa… phim ảnh đồi trụy mà các vị đang cất giấu trong nhà. Thực sự thì con trai các vị đã phát hiện ra và nhìn thấy hết, vì vậy nó luôn thừa lúc hai vị đi vắng, ở nhà lén lấy mở ra xem. Đời này hại con trai mình sinh tật thủ dâm, trách nhiệm đầu tiên, lỗi lầm trước hết là ở nơi các vị. Cộng thêm các tội cũ chưa cải hối, ắt phải gánh lấy ác quả.

3. Từ nay trở đi, hai vị cần bỏ thuốc, bỏ rượu, dứt tuyệt đồ mặn và thệ ăn chay trường, không ăn cả ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, nén…) hằng ngày sớm tối gì cũng được, phải quỳ trước bàn thờ Phật nhà mình, thành tâm sám hối tội đời trước đã làm hại nhiều cô gái, sau đó mỗi người phải vì bọn họ tụng “Kinh Địa Tạng” càng nhiều càng tốt. Ngày ngày kiên trì tụng, nhất định sẽ có kết quả hay không thể nghĩ lường. Tâm thành ắt có kết quả nhanh, tâm tán loạn ắt có kết quả đến chậm. Tự mình phải nỗ lực thôi.

4. Phải làm nhiều việc phúc thiện như: phóng sinh, in kinh sách và dốc sức giúp người đoạn ác tu thiện.

Chưa được hai tháng, lúc tôi lại gặp họ, thấy người mẹ mặt mày hớn hở, vui vẻ báo tin: Con trai họ đã thay đổi rồi, sau khi họ tụng xong bộ “Kinh Địa Tạng” thứ bảy, thì con họ không còn tật xấu tà dục kia, cháu chuyển biến rất mau. Còn siêng năng làm việc nhà, hằng ngày còn vào bếp làm cơm cho họ ăn. Hiện cháu đang lựa công tác thích hợp, đã có ý muốn đi làm.

Tôi nghe xong thực là mừng cho họ. Bà còn hỏi tôi:

– Có phải từ nay mỗi ngày tôi nên tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho chúng sinh?

Tôi nói:

– Được vậy thì rất tốt. “Kinh Địa Tạng” luôn hợp căn cơ với các loài. Chỉ cần khéo giữ giới, triệt để dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường, thì lúc bạn tụng kinh chúng sinh đều sẽ đến nghe kinh thọ ích, chiêu vời công đức không thể nghĩ lường. Lâu dần thân thể sẽ càng lúc càng khỏe, sống an, tăng thọ. Hơn nữa nếu siêng tu tinh tấn đời này có thể thoát ly tam giới.

Hai vị đều cười, pháp hỉ sung mãn.

Từ vô thỉ đến nay chúng ta và tất cả chúng sinh tạo vô lượng oán kết, chỉ có lìa phân biệt oán thân, hành Bồ tát đạo, dùng nguyện từ bi cứu độ tất cả chúng sinh, chân thành sám hối, mới có thể tội nghiệp tiêu trừ.

Tại đạo tràng Hòa thượng Thể Quang ở núi Thanh Nguyên, có một ao phóng sinh. Cả đoàn chúng tôi đang chuẩn bị tiến vào điện bái Phật thì bỗng nghe có người nói:

– Ô, cá ở đây nhiều quá!

Mọi người liền tới xem. Lần đầu vừa nhìn vào ao, thì thấy trong đó có vô số người xuất gia1 đang bơi lội qua lại, có đủ già trẻ, lớp thì trêu đùa nhau, lớp thì gây cãi… nhìn lại lần nữa thì toàn là cá. Trong nhóm chúng tôi có người hỏi2 cá:

– Các vị là Tăng chúng từ đâu? Sao lại bị đọa làm cá trong ao phóng sinh này?

Đám cá đáp:

– Chúng tôi đều là người xuất gia bao kiếp nơi chùa này, do phạm đủ tội nên bị đọa vào địa ngục thọ khổ, tùy theo lâu mau, khi tội mãn thì đầu thai làm cá. Do quá khứ cùng chùa này có duyên, nên được các cư sĩ mua, đem về phóng sinh trong ao này. Nhờ vậy ngày ngày thính pháp nghe kinh, đời sau có thể làm người, xuất gia, tu hành tại đây, cầu xin quý vị hãy giúp đỡ chúng tôi.

Thế là chúng tôi vào đại điện sám hối thay cho chúng, nguyện cầu Phật lực cứu bạt lũ cá trong ao sớm được mang thân người, xuất gia tu hành thoát ly tam giới.

Lúc đó tôi nghĩ: “Mình có thể cũng đã từ ba cõi ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh… mà đến nhân gian này. Nhờ được minh sư khai thị, mới biết đoạn ác tu thiện và học Phật”…

Sau khi tôi học Phật được một năm, thì tiếp được điện thoại của ngài Tuyên Hóa từ nước Mỹ xa xôi gọi qua, ngài còn bỏ tiền ra mua vé mời toàn gia tôi qua Mỹ, đến Vạn Phật Thành. Lúc đó tôi mừng tới nỗi suốt mấy ngày không ngủ được. Bởi ngài Tuyên Hóa là vị cao tăng vang danh thế giới, sao có thể biết và gọi điện cho một kẻ tiểu tốt vô danh như tôi? Đây có thể nói là duyên số, trước kia đã từng có người tiên đoán, cảnh báo là: Sau này tôi sẽ thành đồ đệ một vị sư ở Tây phương. Vậy nước Mỹ chẳng phải là Tây phương sao? Có lẽ thời khắc nào người cùng người tương ngộ với nhau, nhân duyên ấy sớm đã được định sẵn hết cả. Xem kinh Phật rồi mới biết, bất kề thiện hay ác duyên “đều do kiếp quá khứ có duyên, nên đời này mới có dịp tương hội”. Nếu đời này không hiểu, không biết chuyển ác duyên thành thiện duyên, thì oan trái sẽ kết càng sâu và đời sau bất kể gặp nhau ở đâu, oán hận càng tăng kịch liệt.

Chúng ta thường gặp qua chuyện này: Có người mình vừa mới gặp, bất kể họ anh tuấn mỹ lệ đến đâu, trong lòng ta vẫn thấy không chút thiện cảm, thậm chí còn nổi lên niệm ghét, khó ưa… Còn có người dù ta mới gặp, tuy họ không có gì xuất chúng, nhưng không hiểu sao lòng mình lại rất mến mộ, ưu ái… Loại cảm giác này, là do tác động của thiện duyên hoặc ác duyên chi phối, lưu ảnh hưởng, kéo dài từ tiền kiếp đến giờ.

∗ Tia Nhìn Tiềm Thức

Tại Los Angeles, một đệ tử của ngài Tuyên Hóa hỏi Quả Lâm:

– Tôi chưa biết mặt cấp trên (là ông An) bao giờ, chỉ xem qua hình chụp rồi vâng lệnh lãnh đạo ra phi trường đón ông ta thôi.

Khi ông An vừa ra khỏi phi cơ, trông rất hớn hở, tươi cười, ông dáo dác ngó quanh tìm người đón mình. Nhưng ngay giây phút bốn mắt chúng tôi vừa chạm nhau, thì mặt ông lập tức sa sầm, lộ vẻ nặng nề. Thậm chí ông cũng chẳng thèm bắt tay đáp lễ trước sự chào đón nồng hậu của tôi.

Từ đó về sau, mỗi lần gặp mặt nhau, ông chẳng bao giờ dành cho tôi một nụ cười, trái lại mặt luôn quạu quọ nhăn nhó, lại thường soi mói tìm lỗi để quở trách tôi, nguyên nhân là do đâu?

Quả Lâm hỏi:

– Có phải anh rất ưa ăn thịt ếch?

Anh ta tỏ vẻ rất kinh ngạc, nói:

– Đúng vậy, ngay từ nhỏ tôi đã rất thích ăn. Quả Lâm nói;

– Cấp trên của anh đời trước từng là vua ếch sống trong cái ao lớn. Khi hai người vừa gặp nhau lần đầu, con mắt tiềm thức của ông ta đã nhận ra ngay: Anh chính là… oan gia của ổng. Vì kiếp trước anh là một con cá chép to, cùng sống trong ao đó, đã ăn qua vô số con cháu ếch của ông ta. Vì vậy mà tia nhìn ông chứa đầy thù hận với anh. Thực ra nếu có ai hỏi vì sao ông không ưa anh, ông sẽ đáp là không hiểu tại sao.

Anh nhân viên lại hỏi:

– Thế vì sao tôi biết qui y Tam bảo, còn hàng cấp trên như ông ta lại không…?

Quả Lâm đáp:

Con cá chép sau khi bị người giăng lưới bắt được đem bán, thì may mắn gặp một nữ Phật tử mua về, đem đi phóng sinh trong ao của chùa. Nhờ hằng ngày nó được nghe kinh thính pháp, cho nên đời nay mang thân người, được qui y Tam bảo.

Qua đây có thể thấy, ân oán giữa người với nhau, đều nằm trong nhân quả.

∗ Người Cha Ngoại Giáo

Tại Seattle có gia đình Hoa kiều nọ: Người vợ và hai con gái đều theo Phật giáo, là đệ tử ngài Tuyên Hóa, nhưng ông chồng (gần 70 tuổi) lại là con chiên ngoan của Chúa. Mỗi bên tự quý đạo của mình nên khó thể dung hòa.

Số là người chồng trước ở Đài Loan, do làm ăn thất bại, công ty bị phá sản, không thể bồi hoàn số nợ bạn bè đã hùn vốn nên ông phải đem toàn gia qua Hương Cảng. Nào ngờ một năm sau, lại chạm trán chủ nợ tại đây.

Mặc dù lúc ấy bọn họ không đòi nợ, song cũng đủ khiến ông lo lắng bất an. Dù suốt 6 tháng không có chủ nợ nào mò đến gõ cửa, nhưng ông rầu lo đến đêm không thể ngủ, sức khỏe suy sụp.

Thế là ông lại di dân qua Seattle (ở Mỹ), tính đến nay đã mấy năm, không gặp phải người quen Đài Loan nào. Dù vậy, mỗi khi ra đường, là ông mặt mày căng thẳng, mắt lấm lét nhìn tứ phía, tâm hãi hùng như kẻ trộm…

Do cả đời ông sự nghiệp không thành, trong lòng cảm thấy có lỗi với vợ con, nên sống không vui vẻ thoải mái. Vì vậy mà hai cô con gái mới hỏi Quả Lâm về chuyện của cha mình.

Quả Lâm giải thích:

– Phụ thân hai vị đời quá khứ có phúc báu rất lớn, ông được thừa hưởng gia sản kếch xù, mọi mặt đều có người lo liệu, có thể nói là ngày ngày thu vô cả đấu vàng. Nhưng ông làm gì cũng không hỏi ai, chỉ biết vung tay tiêu tiền, dốc sức hưởng lạc.

Trong nhà còn nuôi một số văn nhân mặc khách ăn bám theo, thường tụ họp vui chơi yến ẩm…

Ông nhiều lần tổ chức trò chơi: Cho thả hằng trăm con chim, có đeo vàng nơi chân chúng, hễ ai bắt được chim thì thưởng luôn vàng đó, khiến mọi người tranh nhau giành bắt, riêng ông ngồi đó ngắm nhìn tiêu khiển.

Số khách kiếp trước theo ăn bám ông, đời này cũng tụ hội quanh ông, nhờ ông còn phúc dư nên còn duy trì sự nghiệp. Những kẻ hùn vốn với ông toàn là đám thực khách kiếp xưa theo ăn của ông, nay do trả nợ mà tìm tới, cho nên dù có xảy ra công ty bị thất bại họ vẫn không đòi nợ ông. Dù biết ông lìa quê đề trốn nợ, họ cũng không có tâm truy đuổi kiếm đòi, nhưng cả hai bên đều không hiểu rõ, họ cư xử như vậy đều thuộc về nhân quả.

Phần mẫu thân và hai chị em cô, kiếp xưa đều là thê thiếp của ông, cho nên đời này không những rất muốn chăm sóc ông, mà còn phải lo kiếm tiền cho ông xài. Tất cả đều thuộc nhân duyên túc thế”.

Chúng ta nếu muốn sống hạnh phúc thì nên dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường, buông bỏ tất cả ân oán thế gian, thời gian chúng ta sống trên đời không nhiều, hãy chân thành lễ bái khoảng ba bộ Lương Hoàng Sám, có thể giúp tiêu trừ vô lượng tội nghiệp. Lấy lời răn “Tứ chủng thanh tịnh minh hối” để noi theo, chọn pháp tu thích hợp với mình. Đừng phí thời gian bàn phải quấy, bình hay dở của người. Phải biết quán tự tại (tự quán xét mình) mới là Bồ tát, quán tha tại (dòm xét người) chính là phàm phu. (Đừng hễ ở nhà là thấy chồng không tốt, bà xã không hay, toàn bới móc
khuyết điểm… đừng vào công ty là thấy anh Lý chẳng đúng, chú Trương sai, ai cũng xấu!)

Qui y Tam bảo rồi, chớ cho Trương cư sĩ quá dữ, ông Lý quá hiền, bà Vương chỗ nào cũng chướng mắt… Vào chùa thì thấy Đại hòa thượng vô tích sự, Nhị hòa thượng chẳng tu, Tam hòa thượng chẳng giữ Thanh quy, tóm lại chỉ có mình ta là tốt, đúng nhất.

Người như vậy là chỉ biết “quán tha tại”, chẳng giỏi “quán tự tại” cho nên trong mắt chứa toàn lỗi người, đầy bụng toàn là than oán, chỗ chỗ đầy phiền não… thế thì làm sao có thể sống tự tại được? Nếu thường quán tự tại, thì phải luôn tự tỉnh, chẳng để phạm lỗi, hằng thấy tất cả là Bồ tát. Hành được vậy thì sống ở đâu cũng tự tại, lúc nào cũng hưởng pháp hỷ sung mãn. Đây chính là cách tu tốt nhất.

Trong Tâm kinh nói: Bồ tát Quán Tự Tại quán sát thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức… đều hư huyễn, là không, hành trì bền bĩ, khai mở trí tuệ, vượt qua tất cả khổ ách)

Ngài Tuyên Hóa giảng: Chỉ cần thấy lỗi mình, không thấy chỗ sai của người. Phải xem tất cả bình đẳng, thương như nhau (đồng thể đại bi). Có thể quá khứ ta cũng đối họ như thế, nên hôm nay họ mới đối với ta như vậy, nếu nghĩ được thế này, thì việc gì cũng hóa giải được.

Đại sư Ấn Quang dạy: “Nếu thường thấy lỗi mình và kịp thời sửa sai là đang đi trên đường

Bồ-đề”. Chúng ta sống hòa hợp hoan hỷ, viễn ly phân biệt, không nghĩ oán thân, mới là diệu pháp giải oán kết.

Người tu hành đối với việc bị phỉ báng và công kích như thế nào? Sư Vĩnh Gia trong Chứng Đạo Ca có dạy chúng ta: Mặc người phỉ báng, nói xấu bạn, nếu họ làm vậy cũng giống như cầm lửa muốn đốt trời, tự phí công thôi.

Khi chúng ta nghe lời tục tằn xấu ác, thì hãy vui như uống cam lộ. bởi vì người đang giúp ta tu thành tựu. Làm được vậy gọi là “tiêu dung”. Tiêu: là tâm khéo hóa giải tất cả chướng ngại, tâm cùng hư không hòa thành một, có thể dung chứa tất cả. Nếu làm được như thế bạn sẽ chứng nhập cảnh giới bất tư nghị. Những lời ác khẩu tổn hại kia, thực giống như tư lương giúp ta tu hành, là Thiện tri thức của ta. Ta không nên vì những lời dèm chê phỉ báng mà sinh phân biệt oán thân. Bằng không, sao có thể phát huy sức mạnh vô sinh nhẫn?

Chỉ cần chúng ta thành tâm sám mọi hối oán kết cùng chúng sinh, dùng tâm từ đối đãi… thì ác duyên sẽ hóa giải.

Ví dụ như con muỗi, ta không nên cho là nó có chủ ý muốn hút máu. Người đã tiêu nghiệp chướng sẽ không bị chúng cắn (bởi vì không còn thiếu nợ chúng).

Xin kể câu chuyện ngài Tuyên Hóa giải trừ oan kết với muỗi như sau:

∗ Đại Sư Và Con Muỗi

Ngài Tuyên Hóa có khi viết chữ cho người, thường ghi: TỲ-KHEO MUỖI, TIÊN SINH MUỖI. Nguyên nhân là sao? Chuyện này phải kể hồi ngài còn trẻ, vào khoảng thời gian cư tang giữ mộ mẹ ba năm.

Khi ngài ra vùng dã ngoại giữ mộ mẫu thân thủ hiếu, tối đó, từng bầy muỗi to ào tới hút máu người. Ngài biết đây là cửa ải khó khăn, bèn phát tâm bố thí, bảo muỗi thế này:

– Xin các ngươi cứ đến hút máu, ta đãi! Nói xong thì cởi áo ra. Bầy muỗi lập tức bu lại, bò đầy trên mình ngài. Ngài không hề đuổi xua, còn thầm phát nguyện:

– Ta xin bố thí máu cho các ngươi, cứ tha hồ hút nhé. Ta mà chết ở đây, tương lai sẽ không báo oán đâu. Chẳng những không báo, mà đến lúc ta thành Phật, ta nguyện sẽ cứu độ các ngươi. Bắt đầu từ nay trở đi, ta xin được làm bạn với các ngươi! Vậy mình làm bạn nhé!

Thực kỳ quái, muỗi bò qua lại trên mình ngài, nhưng không hút máu, chúng bò trên mình ngài một lát thì toàn bộ đều bay đi. Từ đó về sau, không những mùa xuân chẳng có muỗi tới quấy rầy, mà ngay cả mùa hạ (bầy muỗi vốn nổi tiếng là tai họa của vùng hoang dã này cũng không hề cắn ngài). Nhưng khách đến đây ai cũng bị muỗi cắn nát, riêng Ngài thì không hề bị cắn. Sau đó Ngài giải thích: Chúng không cắn là thực lòng bày tỏ thiện ý: Muốn làm bạn với tôi!

Xin kể tiếp một câu chuyện giải oán kết cùng loài vật:

∗ Trương Phu Nhân

Có một bà họ Thẩm ở Thượng Hải sau khi học Phật rồi, thì dốc sức hóa độ mẫu thân chưa tin Phật. Mẹ bà họ Trương, trước khi về hưu từng là lãnh đạo cao cấp của Công ty Hàng không nọ. Bà Trương luôn miệt thị, cho Phật pháp là mê tín. Song vì chiu con, bà cũng ráng mướn xe đến Thiên Tân gặp tôi một lần.

Lúc tôi vừa bắt đầu giảng, bà quay mặt sang chỗ khác, ra cái điều “ta đây không thèm nghe, không thèm để ý tới”… Đến khi tôi kể những câu chuyện nhân quả có thực mình từng chứng kiến và đích thân trải qua, thì bà dần dần quay mặt lại, chăm chú lắng nghe, tuy cảm thấy có lý nhưng vẫn còn bán tín bán nghi…

Mấy tháng sau, bà đi Sơn Đông và ngụ nơi nhà người quen mấy ngày. Bình thường bà rất ghét và sự chó, nhưng nhà người quen này lại nuôi một con chó săn to lớn, dữ tợn. Tất nhiên đối với bà, nó tỏ vẻ rất hung hăng. Mỗi lần bà bước ra sân, con chó luôn nhào tới sủa dữ và nhe nanh: Như muốn tấn công bà. Khi chủ nhân la mắng thì nó tạm im một chút, rồi sau đó lại gay gắt sủa tiếp…

Đang lúc muốn đối phó với con chó này, bà Trương bỗng nhớ tới lời tôi giảng (hay khuyên nên qui y cho loài vật và bày cách ứng xử với kiến, muỗi v.v…) Thế là bà liền đứng ở chỗ con chó không thể vồ tới, thử nói với nó như thế này:

– Ngươi đối với ta như vậy, có lẽ do kiếp trước ta có chỗ không phải với ngươi. Riêng phần ngươi, chắc chắn đã từng làm qua việc xấu, nếu không thì giờ này đâu phải mang thân chó, sống chẳng được thoải mái tự do? Ta thấy rõ là ngươi cũng không muốn hướng ta đòi nợ, vậy thì xin ngươi hãy niệm Tam quy theo ta, phát tâm tu hành theo Phật, để đời sau sớm được làm người mà tu hành, ngươi có chịu không hả?

Khi nói như vậy, bà phát hiện con chó khí thế đang bừng bừng hung háng bỗng lập tức dịu lại, nó không sủa nữa mà ngồi xuống nghiêng đầu, nhìn chăm chăm vào bà. Bà bèn tiến tới gần con chó, lớn tiếng niệm: “Qui y Phật, bất đọa địa ngục! Qui y pháp bất đọa ngạ quỷ! Qui y Tăng bất đọa súc sinh!”… Bà đọc liên tục ba lần, lúc này chuyện đáng kinh ngạc xảy ra: Con chó đang ngồi, bỗng nhiên nó chắp hai chân trước lại giống như người ta chắp tay, sau đó đầu nó phủ phục xuống, mọp sát đất, nó làm hét sức có quy củ, còn hướng bà đảnh lễ ba lần! Trương cư sĩ sửng sốt, đứng ngây người nhìn…

Một lúc sau bà mới hiểu ra và thấm thìa: Quả thực là loài vật cũng biết tu!

Từ đó về sau, mỗi khi con chó gặp bà thì nó lắc mình vẫy đuôi, lộ vẻ vui mừng như thấy người thân, không còn nét gì là hung dữ nữa. Bà Trương cũng nhờ việc này mà tín tâm thêm kiên định, bà thực sự bước vào con đường học Phật, tu hành.

Đại chúng nên tinh tấn tu, sám hối diệt tội giải oán.

∗ Ngài Viện Trưởng Đại Y Viện

Ba năm trước tôi đến thành phố nọ ở Hà Bắc, một cư sĩ mời tôi đến thăm ngài Viện trưởng “Y viện Nhân dân”, ông được mọi người ca ngợi là một Viện trưởng tốt.

Mấy ngày trước ông bỗng đau tim và bệnh phát tác nhanh đến không còn có thể nói năng, cử động gì được nữa.

Hiện ông đang nằm truyền dịch trong bệnh viện, các Bác sĩ chần khám đều nói không thể phẫu thuật nên không cần chuyển đến viện nào khác nữa.

Tôi vừa bước vào thì thấy mũi ông thở dưỡng khí, tay đang truyền dịch, hai cô con gái khoảng chừng 36, 37 tuổi đang ở cạnh bên chăm sóc. Lý cư sĩ nói nhỏ vào tai ông:

– Viện trưởng! Có cư sĩ Quả Khanh đến thăm ông nè!

Chỉ thấy ông từ từ mở mắt, như kiếm tìm… Hai cô con gái ông kinh ngạc, reo lên mừng rỡ:

– Ô! Ba mở mắt được rồi!

Họ kể từ khi thân phụ bị bệnh tới giờ, đây là lần đầu tiên ông mở mắt… Tôi đến trước giường, chắp tay hỏi thăm. Các cư sĩ giới thiệu cho ông biết tôi là tác giả cuốn “Báo ứng Hiện Đời” và hỏi ông có muốn nghe tôi giải thích nguyên nhân căn bệnh không? ông trả lời bằng ánh nhìn chứa đầy vẻ khát khao muốn biết…

Thế là tôi giải thích cho ông nghe lý nhân quả báo ứng thiện ác, rồi hỏi: ông có tin không? ông mấp máy đôi môi, lộ vẻ đồng tình.

Tôi hỏi:

– Ông có muốn nghe tôi nói những lỗi sai ông đã phạm phải, cũng chính là nguyên nhân dẫn tới căn bệnh này không?

Ông mỉm cuời, tỏ vẻ đồng ý.

Thế là tôi hỏi:

– Có phải ông rất ưa ăn tim heo, gà, vịt và tim các loài vật khác?…

Ông biểu lộ: – Đúng như vậy!

Tôi lại hỏi:

– Ông là một Viện trưởng sống liêm khiết, thực tâm giúp người chẳng hề muốn thu tiền tài của họ, nhưng khi người khác cương quyết biếu xén và đem lễ tạ đến đặt tại nhà ông, ông cũng không chối từ, phải không?

Viện trưởng lộ vẻ rất cao hứng, mấp máy môi phát âm ra tiếng: Đ…Ú…NG!

Tôi giải thích:

– Hai điểm này là nguyên nhân phát bệnh của ông. Hiện tại ông đã biết mình sai chưa?

Ông gật đầu.

– Ông niệm theo tôi câu: “Nam mô A Di Đà Phật!” ba lần được không?

Ông lại nói ra chữ: Được!

Thế là tôi nắm bàn tay phải ông, niệm từng câu “Nam mô A Di Đà Phật!”, mặc dù ông không thể phát âm rõ ràng, nhưng cũng gắng niệm theo. Tôi hướng dẫn ông đọc Tam quy: Qui y Phật, Qui y Pháp, Qui y Tăng…

Cuối cùng tôi hỏi ông:

– Ông có chịu xuất tiền ra nhờ con mình phóng sinh giùm chàng?

Ông tỏ vẻ đồng ý.

Hai cô gái đều nói họ không rành làm việc này, các cư sĩ có mặt đều nhiệt tình bày tỏ thiện ỷ sẽ làm giúp thay cho. Tôi bảo ông:

– Các cư sĩ này đang tính in kinh sách Phật, nếu ông bỏ tiền thu lễ của bệnh nhân ra in kinh sách thiện cho người, thì có thể giúp tiêu trừ tội nghiệp, bệnh ông sẽ mau lành.

Ồng tỏ vẻ đồng ý.

Các cư sĩ hỏi:

* Ông muốn góp bao nhiêu? ông đưa lên ba ngón tay miệng mấp máy: Ba… vạn!

Chúng tôi biểu thị sự tán thán ông biết sai chịu sửa lỗi. Trước khi chúng tôi đi, ông còn ráng giơ tay vẫy chào tạm biệt. Tôi cúi xuống nói vào tai ông:

– Dù nằm trên giường cũng có thể niệm thầm Nam mô A Di Đà Phật! Sẽ giúp ông giảm thống khổ, bệnh sẽ mau ổn.

Ông nhìn tôi như muốn nói: ông hiểu.

Mấy tháng sau Lý cư sĩ gặp tôi báo tin:

– Viện trưởng đã mất rồi. Lặng lẽ im lìm mà ra đi. Từ hôm cáo biệt chúng ta xong, ông không nói một lời nào nữa.

Tôi nghe kể Lý cư sĩ đã hỏi con gái ông có muốn thực hiện nguyện vọng “in kinh sách và phóng sinh”… của cha mình không? Nhưng hai cô nín thinh chẳng trả lời.

Tôi thở dài: Người ta thường nói con “là chủ nợ” tìm tới. Ngay lúc xác thân bạn không còn động đậy, thì tất cả hết thuộc quyền mình quyết định nữa rồi. Vì vậy, muốn liễu sinh thoát tử chúng ta phải lo tu tập khi thân đang cường tráng, mỗi người cần phải tự cố gắng!

Do chúng ta bị vô minh tham, sân, si che mờ trí cho nên mới tạo ra vô lượng oán, chỉ có chân chính sám hối, nương lực nhiếp thọ của chư Phật, Bồ tát mới có thể tiêu trừ.

∗ Ngài Phó Cục Trưởng

Ở Sơn Đông có một gia đình: Người chồng là Phó cục trưởng “Cục Công thương”, vợ kinh doanh tiệm tạp hóa. Họ có hai con trai: Con trưởng là cán bộ Cục Công thương, con thứ làm nghề may y phục. Cả hai cậu con đều chưa kết hôn.

Khoảng 9 giờ tối, Phó cục trưởng lái xe đến gặp tôi, xin được thưa chuyện riêng. Thế là có câu chuyện như sau:

Trước tiên xin kể về cậu cả: Là người có tài, tính không ưa chơi bời giao lưu bạn gái. Nhưng hễ tan sở thì chẳng về nhà, mà lại tụ tập cùng đám bạn ăn nhậu chơi bài. Song thắng ít mà thua nhiều. Một đêm thua ít nhất phải mấy mươi, nhiều thì mấy trăm, chưa đầy một tháng đã thua hơn cả vạn. Con bạc đòi nợ, thì cậu hướng các Giám đốc xí nghiệp vay tiền, mỗi khi viết giấy nợ, toàn là ghi tên của cha mình: Phó cục trưởng Cục Công thương. Các chủ xí nghiệp không thể từ chối khi cậu vay. Thời gian lâu dần, tiền nợ tăng hơn cả vạn, các Giám đốc bèn tìm đến đưa giấy nợ cho Phó cục trưởng và nói:

– Đây là giấy nợ do cậu cả ghi, ngài không cần hoàn tiền, chỉ cần ngài chiếu cố cho chúng tôi phương diện kia, nọ v.v… là đủ.

Kể đến đây, Phó cục trưởng than:

– Tôi là cán bộ quốc gia, cũng tin nhân quả, thì làm sao có thề làm chuyện lấy công giúp tư được chứ? Mấy năm nay tôi đã thay con trả nợ hơn hai mươi vạn, nhưng nó vẫn không hối cãi, khuyên gì cũng không nghe!

Riêng thằng con út cũng rất phức tạp: Tính ưa ăn nhậu, thường la cà các tửu quán. Hễ khi nhậu thì rủ bạn bè đông, xài rất rộng tay: Chi, bao… hào phóng. Do vậy mà thành thiếu nợ và giấy nợ cũng toàn là… ghi tên tôi. Đến nay, tiền tôi trả thay cho nó ít nhất cũng đã hai mươi vạn. Vậy mà nó còn hay hướng tôi xin tiền, thậm chí chạy ra tiệm mẹ nó ngoài chợ, hễ không cho thì la hét, quậy ầm lên. Đến nỗi mẹ nó bị ám ảnh, hễ vừa nghe tin “Nhị thiếu gia” tới!… thì đã hoảng kinh, vội chụp lấy hộp tiền, lẻn ra cửa sau mà chạy trốn. Nhưng có trốn cũng không thoát, vì tối đến nó mò về xin ngay tại nhà, một lần hả miệng ra xin là phải đưa tới mấy ngàn, không cho thì nó đòi nhảy lầu.

Tôi cười hỏi:

– Thế cậu út nói nhảy lầu… là có phải muốn hăm he… hù dọa hai vị chăng?

Phó cục trưởng nói:

– Dạ không! – Nó nhảy thực đấy, may mà tôi cứu kịp, tôi đã chụp chân nó kéo lên từ ngoài lan can… một lần rồi!

Những gì tôi dành dụm đều đã tiêu sạch. Tiền mẹ nó bán buôn được cũng phải góp trả phụ vào. Đó là nhờ tôi vay bạn bè thêm mấy mươi vạn nữa, chứ mình tôi sao có thể trả nổi khoản nợ cao như vậy? Từ lúc xem sách “Báo ứng Hiện Đời” của ông rồi, thì tôi rất ước ao mong được gặp ông. Tôi mà hiểu được nguyên do chuyện này rồi, thì dù có nhắm mắt tôi cũng cam lòng!…

Vậy tôi xin phép hỏi một câu:

– Số tiền nợ “khủng” mà ông vừa kể đó, đâu hẳn là do hai công tử tạo ra?…

Ông nhìn tôi kinh ngạc, hơi ngây người một lúc, rồi lộ vẻ xấu hổ nói:

– Tôi có một chuyện khó thể hé răng, giờ không dám giấu nữa, xin thố lộ cùng ông…

Thế là câu chuyện thứ ba tôi được biết như sau:

“Năm đó, do giải quyết việc cho công ty, ông phải một mình đến đàm phán với một nữ nhân viên của xí nghiệp nọ và được cô này mời vào nhà hàng khách sạn. Kết quả: Do uống say, không kềm chế được trước sự mồi chài của cô, ông đã quan hệ vượt giới hạn…

Nhưng ả này không biết xấu hổ, thậm chí sau đó còn ngang nhiên chặn đường ông, đe dọa là: Sẽ công khai cho mọi người biết chuyện xảy ra giữa ông với ả. Vì vậy ông phải dùng tiền để bồi thường cho mối quan hệ sai lầm này. Nhưng tiền đã cho rồi mà ả cứ giở mửng cũ, không ngừng hành hạ ông… Tới giờ thì vợ ông cũng đã biết chuyện, tuy bà không làm ầm náo gì, nhưng điều khiến ông đau lòng nhất là: Hiện mình đang bị dồn vào tuyệt lộ, không còn đường sống, đành đến cầu xin tôi giúp đỡ…

Ngay lúc ông kể, trong óc tôi bỗng hiện ra hoạt cảnh nhân quả (giống như bộ phim đang chiếu)… liên quan đến nguyên nhân thống khổ hiện tại của ông. Đó là hậu quả của ba câu chuyện, tôi xin thuật lại như sau:

– Chuyện thứ nhất:

Có một chàng nông dân mặc y phục thời cổ, tay cầm nông cụ, đang bước qua cái cầu cây. Chợt anh nghe có tiếng động trong nước, liền quay đầu lại nhìn thì thấy có một cánh tay đang ló trên mặt nước quơ quơ… Nghĩ là ai đó đang chơi đùa bơi lội, nên anh liền bỏ đi, mới tiến tới vài bước, anh bỗng nghĩ lại: – Thời tiết lạnh thế này đâu hợp để chơi đùa bơi lội? Thế là anh quay đầu dòm lại, phát hiện: Không phải người ta chơi đùa mà là đang giẫy giụa trong nước… Tuy anh có chạy tới, nhưng do không biết bơi nên đành đứng yên giương mắt nhìn người kia chìm dần trong làn nước.

Sau đó anh nhìn quanh, bắt gặp hành lý nạn nhân để lại trên đất: Có tới mấy kiện hàng, trông rất hấp dẫn, khấm khá…. Anh vội mở ra xem thì thấy bên trong có một di thư, nhiều ngân lượng và rất nhiều của cải…

Trong di thư người chết viết, đại khái nói là: Do mình làm ăn thất bại, không còn mặt mũi về quê gặp cha mẹ, vợ con… đành để lại số tiền và của cải này, xin ủy thác cho người qua đường nào bắt gặp, xin hãy chuyển giao đến thân nhân kẻ bất hạnh giùm!

Anh nông dân sau khi nhìn thấy mớ tài sản này thì động lòng tham. Dù nhà người chết ở cách đó không xa, nhưng anh chẳng làm đúng theo thư tuyệt mệnh đã ủy thác, mà nhẫn tâm độc chiếm toàn bộ của cải, còn nghĩ thầm: Đâu có ai chứng kiến mà loi…

– Chuyện thứ hai:

Có một người tên Khang, mặc y phục thời Thanh, muốn mở tiệm buôn. Do vốn không có đủ, nên đã hướng láng giềng tên Tân vay một số tiền, hứa là ba năm sau sẽ trả đủ cả vốn lẫn lời.

Nhưng đến năm thứ hai thì chủ nợ Tân có việc gấp, nên đề nghị Khang trả tiền sớm, tiền lời sẽ giảm cho. Nhưng thương nhân Khang cho rằng thời gian trả tiền chưa đến, nên nhất quyết “một xu cũng không đưa”… Anh Tân không biết làm sao, quá tức giận nên đứng từ hiên lầu nhảy xuống, may mà Khang lanh tay, chụp chân Tân kéo lại được, nhờ vậy mà Tân tự tử không thành.

Để ứng phó, Khang đành trả tạm một chút tiền, do không đủ giải quyết nhu cầu cấp bách của Tân, mà Tân không mượn được tiền của ai, nên đành phải dùng lại hạ sách cũ, nghĩa là mỗi lần đòi tiền Tân đều phải liều mạng… nhảy lầu để ép buộc khang, mới có thể lấy được ít tiền về. Khi hạn kỳ ba năm đã mãn, tuy vốn lời tính đủ, nhưng trong lòng Tân đối với thương gia Khang vẫn còn ôm oán hận, ghi mãi trong lòng…

– Chuyện thứ ba:

Vào một kiếp nọ, có một vị nhìn giống như tướng quân thời cổ Ai Cập. Những lúc rảnh rỗi đi chơi, ông quen một cô gái xinh đẹp con nhà thường dân và đem nàng vào doanh trại. Do chiến tranh tàn khốc, nên bọn họ không thể thành phu thê như bao người bình thường.

Mấy năm sau, trong một lần bị địch quân đánh úp, vị tướng quân này bỏ mặc người đẹp kẹt lại trong vòng vây để tự thoát thân một mình. Do vậy mà số phận cô này rất bi thảm… Kể từ đó nàng đối với tướng quân ôm mối thù hận thâm sâu.

Nhân quả báo ứng như bóng theo hình, độc giả có thể tự mình suy gẫm đối chiếu để hiểu…

Người tự sát, lưu di thư và tài sản cho thân quyến nhưng bị anh nông dân tham lam chiếm đoạt, nay chính là cậu cả. Còn anh láng giềng Tân cho mượn tiền mà phải đòi khốn khổ bằng cách… nhảy lầu, nay chính là cậu con út của ngài Phó cục trưởng. Còn nữ lang ôm hận kia, hiện thời là cô gái giăng bẫy tống tiền ông…

Không cần nói ắt quý vị cũng biết tiền thân ngài Phó cục trưởng là ai ròi? ông rất tin những chuyện tôi kể là có thực, bởi vì khi tôi nói cô gái này có tài xem tay, bói toán (do tập khí cũ của thời cổ Ai Cập lưu lại)… thì ông xác nhận ngay: Đây chính là tài đặc biệt mà cô ta dùng để dẫn dụ trói buộc ông. Rồi ông hỏi tôi: Vợ ông hiền lành đáng thương như thế, vì sao lại phải gánh chung tội nợ cùng ông?

Tôi giải thích: Hai vị đã từng là vợ chồng nhiều kiếp và bà đã cùng ông tiêu xài những món tiền bất nghĩa nên phải cùng trả báo…

Tôi bảo:

– Ông hãy ở trước Phật tha thiết sám hối tội lỗi đối với hai nam nhân xa xưa, vì họ tụng 49 hoặc 108 bộ “Kinh Địa Tạng”, càng nhiều càng tốt. Còn phải vì cô gái kia tụng một bộ “Tâm Kinh” và hai mươi mốt bộ “Kinh Địa Tạng”. Nhất là phải “Triệt để dứt bỏ đồ mặn, ăn chay trường” thì tụng kinh mới linh và chiêu hiệu quả tốt.

“Muốn biết nhân đời trước, xem quả thọ đời này”. Lời Phật dạy muôn vàn chính xác. Hãy nghĩ xem đời này chúng ta tạo đã bao nhiêu nghiệp? Từ vô thỉ kiếp đến nay ắt là tội tạo vô lượng vô biên? Bất kể thân phận địa vị bạn cao quý mấy, giàu đến đâu, thì nhà nào cũng có “những câu chuyện khó nói, những phiền muộn kể không bao giờ hết”…

Nếu vị Phó cục trưởng kia nghe xong mấy câu chuyện tiền kiếp này rồi, mà biết đem tâm oán hận người, chuyển thành ăn nần sám hối tội lỗi mình, thì tất sẽ có ngày hóa giải được mọi nạn khổ kia.

Xin hồi hướng công đức kể ra câu chuyện này đến gia đình ông Phó, hy vọng cả nhà ông sớm an ổn vui hòa.

Sám văn:

Đã biết nguồn gốc đau khổ đều do ác nghiệp thì phải dũng mãnh diệt trừ. Điều kiện thiết yếu để diệt khổ, chỉ có cách sám hối. Cho nên trong kinh, Phật thường khen rằng: “ở đời có hai hạng người mạnh nhắt: Một là người không tạo tội; hai là người tạo tội rồi mà biết ăn năn, sám hối”.

Giải thích:

Đoạn văn này nhấn mạnh tầm quan trọng của sám hối, trong kinh nói: Hạng mạnh nhất là người không tạo tội, nhưng hiếm có ai được vậy. Còn “người tạo tội rồi mà biết ăn năn sám hối”, thì chúng ta đều có thể làm được. Hy vọng mỗi chúng ta đều có thể chân thành sám hối sửa lỗi, vượt phàm vào dòng thánh, huân bồi phẩm hạnh thanh cao (không còn tạo lỗi nữa).

Do thân khẩu ý, tạo họa ương…
Chìm trong sinh tử khổ khôn lường
Oán thù theo báo không ngừng nghỉ
Sám hối tội tiêu, tạ sám Lương…
Một niệm thành, cảm mười phương Phật
Lễ sám diệt tội, hết còn vương
Ai nói: “Núi băng không thể chảy? ”
Phật pháp phá tan, hay lạ thường!

Phải sám hối tất cả ác nghiệp của thân, do thân mà có đủ khổ báo. Giờ tôi xin kể một câu chuyện để chứng minh câu: “Ai làm nấy chịu. Tự gây nhân thì tự lãnh quả”.

∗ Ngón Tay Bị Thương

Chuyện phát sinh vào năm 1995.

Ngày nọ, do tôi không cẩn thận, ngón út trái bị kẹt cửa gây thành vết thương. Tôi thấy không có gì đáng lo, nhưng vợ tôi nhất quyết ép phải băng lại (kể từ sau khi học Phật rồi, nhà tôi không có trữ thuốc men chi), do vậy tôi đành lấy chút bông gòn đậy lên vết thương rồi cột vải băng sơ sài, cốt yếu là để cầm máu mà thôi.

Chiều đó, tôi đến bệnh viện bàn chuyện cùng Bác sĩ Hoàng, ông thấy ngón tay tôi băng quá ẩu tả bèn rịt thuốc, bó lại đàng hoàng cho tôi. Tôi không từ chối, nhưng sau đó tôi trả tiền thì ông nói:

– Chỉ là chuyện vặt, có tốn kém gì to tát đâu mà ông đòi trả tiền?

Tôi bảo:

– Người học Phật như chúng ta “Hễ không phải của mình thì một xu cũng không được lấy. Huống nữa là lấy nhiều hơn thế”…

Bác sĩ Hoàng liền nói:

– Xem như đó là “của tôi cho ông”…

Vì vậy tôi mới chịu thôi, không ép ông lấy tiền nữa.

Trước lúc từ giã, Bác sĩ Hoàng trao cho tôi xấp băng keo cá nhân còn lại (gồm chín miếng), bảo tôi hãy đem về cất, để dành khi cần thì có mà xài (cho tiện lợi)… Tôi nhận xong, nhất quyết đưa tiền, thì ông nói:

– Tôi thường đến nhà ông ăn cơm uống trà, ông cũng tốn tiền mua thức ăn khoản đãi, vậy khoản tiền này để tôi lo, không được hay sao?

Trước lúc quay về, tôi chưa yên tâm nên cứ dặn dò ông mãi:

– Nhất định phải nhớ trả tiền giùm cho tôi đó nha!

Ông cười gật đầu.

Hôm sau, vết thương nơi ngón út trái đã tạm lành. Qua hôm sau nữa thì ngón trỏ phải của tôi lại bị thương chảy máu, tôi lâp tức lấy băng keo ra xài. Thầm nghĩ: “Bác sĩ Hoàng đưa cho mình mang về cất xài đúng là thật tiện lợi!”.

Khi con gái tôi tan học về nhà, vừa vào cổng nó đã hỏi:

– Ba à, ngón trỏ phải của ba vì sao lại bị thương vậy?

Tôi đáp:

– Do ba không cẩn thận bị kẹt tay!

Nó bảo:

– Không phải vậy đâu! Mà… băng dán trên tay… là do ba mua về hả?

Tôi đáp:

– Tiền mua băng là do Bác sĩ Hoàng cho… Con tôi vừa nghe lật đật nói liền:

– Nhưng Bác sĩ Hoàng không có trả tiền, cũng không lưu tâm gì đến chuyện này! (Bởi ông cho rằng mình là Bác sĩ của bệnh viện, dù có lấy chút bông, băng… tặng ba thì cũng chẳng hề gì). Ba ơi! Chỗ này ba sai rồi! vốn là ba không nên tích trữ đồ phi pháp để… tiện dùng! Ba không thấy hiện tại mình đang bị thương tiếp để… “dùng cho tiện”… hay sao?

Tôi bảo:

– Bác sĩ Hoàng có hứa với ba hẳn hoi mà, ông ta không thể nào chẳng trả tiền giúp cho ba!

– Vậy thì bây giờ ba hãy gọi điện để xác minh, là sẽ rõ ngay thôi!

Thế là tôi gọi điện hỏi Bác sĩ Hoàng:

– Này tiên sinh, ông có trả tiền băng keo giùm cho tôi không hả?

Bác sĩ la lên:

– Ôi trời ơi! Chỉ là chút việc cỏn con mà sao ông cứ đeo mãi trong lòng vậy hả? Tôi không còn nhớ tới nữa…

Tôi cười bảo ông:

– Nhờ ông anh có nhã ý muốn tôi “lấy đại” băng về dự trữ cho “tiện dùng” nên quả thực là “rát tiện” đó: Hôm qua ngón út trái của tôi bị thương mới vừa lành, thì hôm nay ngón trỏ phải lại bị thương tiếp (cho xứng với mớ băng phi pháp ông đưa tôi tích trữ)… Này Tiên sinh, ông làm ơn làm phước… mau mau trả tiền giùm cho tôi đi! Nếu không, tôi sẽ phải bị thương 8 lần nữa cho đủ với 9 miếng băng “cất giữ bất hợp pháp” này đó!

Nghe vậy, Bác sĩ Hoàng lật đật xuất tiền ra trả ngay.

Do tôi dùng băng cứu thương “là của công”, không phải là “của riêng nhà Bác sĩ Hoàng”, tất nhiên “phải trả tiền”.

Ngày nọ lúc ăn cơm, cánh tay tôi đột nhiên bị đau nhức như bị vật gì kẹp vào. Đau đến tôi phải bật tiếng rên. Con tôi nói:

– Ba à, trên cánh tay ba con thấy có cái kìm nhổ đinh (vô hình) đang kẹp thịt ba, ba có lấy trộm kìm của ai không hả?

Vừa nghe vậy tôi liền đáp:

– Không phải chỉ có kìm, mà còn các thứ khác như: Tua-vít, mỏ lết v.v… Nghĩa là nguyên bộ đồ nghề sửa xe đạp. Đấy là vào thuở “mười năm tai kiếp” xa xưa… Lúc ấy do công xưởng ngưng hoạt động nên vật dụng đồ nghề trong đó ai cũng có thể đem về, ba cũng lấy hộp đồ nghề sửa xe, hiện giờ vẫn còn trong nhà mình. Hồi đó con chưa sinh ra! Đây đúng là “muốn người đừng biết trừ phi mình đừng làm”. Thực là “tự làm tự chịu!” mà…

Tôi nói xong cánh tay cũng hết đau. Đến nay đồ nghề vẫn còn ở trong rương tôi, trở thành “Giới sư” nhắc nhở tôi về Luật báo ứng nhân quả: “Tự làm tự chịu”.

Những việc nhỏ thế này, tôi nghĩ chư độc giả ắt sẽ có nhiều người phạm phải. Xin quý vị vào những lúc rãnh rang, hãy tĩnh tâm tự kiểm điểm thật kỹ xem, mình có lấy “của công”, những đồ thuộc kho xưởng tư nhân hay quốc gia… đem về làm “của riêng nhà mình” hay không? Phải tính luôn cả giấy, bút… nghĩa là: Từ mẩu bút chì cho đến một xu nhỏ (bất cứ vật nào không thuộc về mình mà lấy thì đều là tội!). Quý vị cần phải nhớ ra hết, mà sám hối cho đủ. Những đồ vật trót lấy phi pháp đó quý vị có thể quy ra thành tiền, dùng vào việc in kinh, phóng sinh, làm từ thiện v.v… đều có thể giúp diệt tội. Phải biết, một phần trăm đồng vẫn là một đồng, chút ác nhỏ nếu không đoạn dứt mà tích chứa lâu ngày sẽ biến thành tội to! Vì giọt nước chảy lâu cũng có thể soi thủng đá. Lỗi nhỏ còn phải sám hối, huống chi là tội lớn!

Trong xã hội hiện nay: Tâm tham, sân, si của con người rất nặng (có thể vì tiền mà làm đủ tội ác). Đệ tử Phật cùng tất cả chúng sinh trên thế giới cần phải tự thắp đuốc trí tuệ lên, chiếu soi tâm mình, đem lại ánh sáng cho xã hội.

∗ Người Bệnh Lạ

Tôi từng gặp một vị toàn thân nổi đầy ghẻ lở ung mủ, ruồi nhặng bu quanh, khắp người xông hơi thối nồng nặc… khiến ai cũng lánh xa không dám tới gần, ngay cả bệnh viện cũng không nhận chữa trị.

Tôi hỏi: Có phải anh từng làm thầy lang châm cứu?

Anh gật đầu đáp:

– Phải.

Tôi hỏi:

– Anh đã trị lành cho bao nhiêu người?

– Không biết! Tôi chữa mấy đợt, thấy họ không đến nữa thì chắc… lành rồi.

Tôi hỏi anh tốt nghiệp bệnh viện nào? Anh kể mình tự học mà thành tài. Tôi hỏi bốn huyệt chủ trị các bệnh đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau gan là gì? Anh đáp trật lất.

Tôi bảo:

– Tôi là người ngoài nghề mà còn biết rành mấy huyệt:

Bụng thì Tam Lý lưu,
Lưng thì Ủy Trung cầu,
Đầu thì tìm Liệt Khuyết,
Mặt thì Hợp Cốc thu…

Vậy mà anh là thầy châm cứu lại không biết rõ? Anh toàn là châm ẩu tả tạo thêm bệnh cho người, thậm chí còn dùng kim chưa khử trùng khiến họ bị nhiễm trùng… vậy mà còn thu phí cao. Anh xem, ngày nay mình anh đầy ghẻ lở, chính là do anh làm sai, châm chích bậy bạ, tạo thành vết thương gây nhiều thống khổ cho người. Nếu không thành tâm sám hối, thì không ai trị lành bệnh cho anh được. Tạm thời tuy anh không bị mất mạng, nhưng cũng là sống cảnh đền tội, đây chỉ là quả báo nhẹ ở nhân gian, chết rồi sẽ vào địa ngục thọ báo.

Anh vội hỏi:

– Phải làm sao đề sám hối?

Tôi bảo:

– Hãy nghĩ kỹ xem anh đã làm cho bao người bị thương tích, thống khổ… thì nhớ mà sám hối. Không những trong tâm mình phải biết tội, mà số tiền thu phí kia anh phải đền bù gấp bội cho họ. Nếu không tìm ra người để trả thì có thể dùng tiền đó mà in sách thiện, hoặc in “Kinh Địa Tạng” cho người. Cũng cần phải dứt tuyệt đò mặn ăn chay trường, mỗi ngày tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho những người bị anh làm hại. Hiện tại nếu anh muốn dùng thuốc (mà có thành phần động vật ở trong thì không nên dùng), nên đặt thuốc trước Phật, rót một ly nước rồi quỳ tụng 21 biến “Chú Đại Bi”. Xong, lấy nước này rửa vết thương và hòa với thuốc mà chữa trị. Lưu ý: 21 biến “Chú Đại Bi” này, người nào ăn chay trường cũng có thể tụng thay cho anh, chỉ cần anh dùng tâm sám hối chí thành, kiên tâm bền chí, dần dần bệnh sẽ lành. Bệnh có thể hồi phục triệt để hay không là tùy ở nơi anh thực hiện tốt hay không mà thôi.

∗ Vải Dư

Năm 1992, có một phụ nữ ở nông thôn bị đau bao tử nhiều năm không lành. Mẹ chồng cô đến hỏi Quả Lâm. Quả Lâm đáp:

– Y phục các bé và nội y nhà các vị được may bằng đủ loại vải hết có phải không?

Bà đáp:

– Dạ phải. Là con dâu tôi may. Nó là thợ khéo tay, may giỏi nhất nhà chúng tôi.

Quả Lâm lại hỏi:

– Có phải đồ này được may từ số vải dư không hoàn trả khách mà ra?

Bà đáp:

– Thuở đời nay có thợ may nào mà không ăn vải thừa chứ hả?

Quả Lâm bảo:

– Tiền may cũng đã tính và thu phí rồi, thấy vải dư nhiều thì phải hoàn trả, trừ phi khách nói không cần, chịu biếu cho. Nếu lấy của người tùy tiện như vậy thì là trộm. Muốn bệnh lành cần phải sám hối và phải xuất ra số tiền tương đương để làm việc công ích. Bởi vì xài trộm vật dư của dân làng, thì phải làm công ích cho dân làng, như vậy bệnh mới lành.

Lợi dụng tín nhiệm người khác, xài trộm của người, bao gồm: Kẻ làm nghề xây dựng mà trộm vật liệu, thì phải tính từ con ốc, đinh vít, cho đến sơn tường v.v… nếu cứ lấy đại đem về tu bổ nhà mình; làm công mà trộm đồ chủ… thì những của lấy trộm đó, cho dù là người không biết, thì sớm hay muộn gì quả cũng sẽ trổ trên thân thôi. Lúc đó tổn thất phải gánh nếu đem so với những món đồ mà mình nổi tâm tham chiếm lấy, tính ra còn nhiều hơn vạn bội! Bởi nhân ác đã trồng dẫu không trả đời này thì cũng phải trả ở đời sau. Cũng có thể xảy ra các tai nạn bất ngờ như: Bị người trộm, bị dọa nạt trấn lột hoặc bị lửa thiêu cháy trụi tài sản… Bất kể bạn hành thiện hay tạo ác chi, đều là: “Xuân gieo một hạt, Thu gặt trăm hạt”. Nếu đã minh bạch lý này rồi, thì phải lo tận lực sám hối cho tiêu tội, nên đem những đồ, tài vật mình từng trộm, cắp, quy ra thành tiền, dùng vào việc ích lợi cho quốc gia nhân dân. Khi bồi hoàn phải tính thêm tiền lãi vào đấy. Nếu làm được vậy, thì có thể xóa tội, tạo thành lợi chung. Trong lòng bạn chẳng cần nhớ mình đã làm việc tốt gì mà chỉ cần nghĩ mình phải hoàn trả nợ đủ chưa và biết sinh tâm sám hối, thì tương lai oán kết ắt sẽ tiêu tan.

Sám văn:

Từ vô thỉ cho đến nay, hoặc làm chúng sinh đói khát, hoặc giựt lương thực của người, hoặc bức ép chúng sinh uống mặn, nuốt đắng, hoặc đoạn nguồn nước uống của người; bao nhiêu nghiệp ác như vậy, sinh ra oán thù, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Giải thích:

Đoạn nước uống của người là đại tội. Hiện nay việc làm nguồn nước ô nhiễm là vấn đề đáng hãi hùng kinh tâm! Có nhiều người là Giám đốc các xưởng giấy, xưởng hóa học v.v… vì si mê hám lợi, không lưu tâm tạo công đức. Vì tiết kiệm tiền, sợ tốn kém, họ đã cho xả nước ô nhiễm vào sông ngòi, kênh rạch, tạo ảnh hưởng xấu trầm trọng cho lưu vực, khiến người không thể uống hay dùng nước… Kể cả trồng trọt cũng bị thất thu. Hành động kém ý thức này gây ra tổn thất cực lớn cho quốc gia và nhân dân.

Điều đáng nói là: Quốc gia dù có bỏ ra phí tổn gấp trăm lần thu nhập của các công xưởng này, cũng chẳng khôi phục được nguồn nước trong lành như cũ. Đây chính là hành vi làm chúng sinh đói kém, đoạn lương thực, thức uống của người, ép chúng sinh vào con đường khổ.

Chỉ làm một người đói khát thôi, là tội rất lớn rồi, huống nữa là hại vô số người, khiến bao người thiếu thức ăn tốt, nguồn nước sạch để dùng! vấn đề ô nhiễm môi trường và nguồn nước… xảy ra trên thế giới ngày càng trầm trọng.

Bạn đừng tưởng mình quăng xác vật chết xuống sông, suối, ao, hồ, kênh, rạch… là người bị ô nhiễm chứ không phải mình, đừng nghĩ là: Khi bạn quăng rác, nội tạng vật… xuống cống, rãnh… là ai đó bị lụy chứ không phải mình. Thực ra bạn tạo tội ác vô cùng nghiêm trọng. Bạn vào công viên hưởng không khí thoáng mát và ra đi sau khi xả rác đầy trong đó… bạn làm ô nhiễm môi trường, dòng nước, khiến dân không có nước sạch xài, khiến người phu quét đường phải nhọc nhằn thanh lý mớ rác xả bừa bãi, người thợ móc cống phải dầm mình trong làn nước xú uế để thông cống, vớt vật dơ… Tất cả khổ nhọc bạn khiến người phải nếm trải, bạn sẽ nhận lại gấp trăm ngàn: Sẽ gặp cảnh ngập lụt lầy lội, không có nước sạch xài, phải sinh sống ở nơi ô nhiễm hôi thối, phải ăn uống hay bị trúng độc, sức khỏe kém… vì những nhân ác bạn gieo cho người. Đây là những quả báo gần nhất, mà bạn phải trả trong nhân gian.

Vì vậy chúng ta rất cần tuyên truyền lý nhân quả Phật dạy rộng khắp trong xã hội, hầu giúp cải thiện nhân tâm thế giới. Như Phật pháp từng thuyết: “Y báo tùy theo chánh báo chuyển”. Nếu lòng người thanh tịnh thiện lương, ai ai cũng biết tôn trọng giữ gìn bảo vệ lợi ích chung, tự nhiên sẽ chiêu cảm được nguồn nước trong lành. Nếu lòng người đầy tam độc, tham, sân, si hừng thịnh, thì nước sẽ bị ô nhiễm đổi sắc đen, chát, mặn… đây là kết quả tất nhiên.

Sám văn:

Từ vô thỉ đến nay, chúng con xa lìa minh sư, thân cận bạn ác, do ba nghiệp tạo nhiều lỗi, phóng túng giết hại người vô tội, khiến họ chết yểu oan uổng. Thường đánh đập chúng sinh hoặc triệt phá ao hồ, bít lấp ngòi rãnh, làm hại các loài thủy tộc… Hoặc thiêu đốt núi rừng, bủa giảng chài lưới, sát hại tất cả chúng sinh. Oán thù, tội lỗi như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Giải thích:

Có một anh nọ bị bệnh. Đi y viện khám không tìm ra nguyên nhân, anh bèn đến chỗ tôi nhờ giải thích giùm.

Tôi bèn hỏi anh chàng bị bệnh:

– Có phải anh hay dùng chân đá vào bộ phận nọ… của vật?

Dạ, thỉnh thoảng con chó cứ đeo theo dưới chân, gặp lúc tâm tư đang bực nên con tống cho nó một đạp.

Tôi bảo:

– Hãy kiểm xem chỗ đau của anh xem, có phải cũng giống nơi chỗ… anh đã làm tổn thương con chó?

Anh ta gật đầu nói đúng.

Định luật vũ trụ rất kỳ diệu: “Nhân như vậy quả như vậy”. Nếu bạn đầu độc chuột, giết côn trùng, tất nhiên sẽ có ngày bạn ăn uống bị trúng độc. Bạn dùng điện bẫy chuột, chích cá… thì sẽ có ngày bạn bị chết vì chính dây điện này. Không những hiện đời bị ác báo, mà đời sau do oán kết sâu, khiến bạn bị vô số oan gia truy tìm. Chỉ có sám hối mới giải được oán kết. Nhân quả là tối công bình, không hề thiên lệch với bất kỳ ai. Phật dạy: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, có thể tu thành, vì vậy phải biết tôn trọng mạng sống muôn loài.

∗ Viên Cư Sĩ

Mùa hạ năm 2004, tôi đến thăm cư sĩ Quả Trụ, gặp một đồng nghiệp là Viên nữ sĩ, cô mới vừa theo Phật giáo. Cô kể hai năm trước cảm thấy tim mình bị đau, đập nhanh, thường có cảm giác hồi hộp, khó chịu, nhưng đi khám không ra bệnh.

Tôi hỏi:

– Mấy ngày trước khi phát bệnh này, có phải cô đã từng ăn ba ba?

Cô nói với vẻ quả quyết:

– KHÔNG HÈ CÓ! Tôi đâu ưa ăn mấy thứ này!

– Chẳng đúng! Cô nhớ lại xem, chuyện xảy ra trong buổi họp mặt, lúc ấy trên bàn tiệc có canh ba ba. Mọi người đều cho đây là thức ngon đại bổ, xúm nhau khuyên ăn. Tuy cô không ưa, nhưng vì lịch sự, nên đã múc cho mình khoảng một chén đề dùng. Cô kiểm lại xem có việc này hay chăng?

Viên nữ sĩ động não một lúc rồi kinh ngạc nói:

– Quả thực có việc này, nhưng chỉ một chén canh ba ba… mà cũng bị báo ứng như vậy ư?

– Dù cô chỉ ăn một chén canh thịt ba ba thì ngay đó đã kết ác duyên cùng chúng sinh rồi. Cô nghĩ xem, nếu có người đem cô giết rồi nấu canh ăn, cô đối với họ không sinh lòng oán ư? Con ba ba này hiện đang hướng tôi tố cáo tội lỗi của cô đấy!

– Vậy tôi phải làm sao?

Biết mình làm sai thì phải phát tâm sám hối, hễ làm tổn hại ai thì nhất định phải hướng người đó xin lỗi.

Từ rày trở đi, tận đáy lòng cô phải hướng con ba ba mình từng ăn qua xin lỗi, phát nguyện tụng “Kinh Địa Tạng” cầu siêu cho nó và xin nó tha thứ. Cô còn phải phát nguyện vĩnh viễn không sát sinh, hãy thử làm như vậy xem!

Một tháng sau, cô mách với cư sĩ Quả Trụ, sau khi cô làm y theo lời tôi bày, thì bệnh tim đã hoàn toàn lành.

Có một điểm cần nêu rõ: Chúng ta không nên uống thuốc có thành phần động vật trong đó, vì làm vậy cũng giống như ăn thịt.

Còn câu sám văn nói: “Dùng độc dược hại chúng sinh”, ta có thể hiểu tương tự như thuốc diệt chuột, giết côn trùng. Chuyện “Dùng độc hại người” tuy chúng ta không thường thấy, nhưng có thể hiểu là: Hiện nay rất nhiều người ham làm giàu, đã cho thêm vào thực phẩm các chất gia vị độc, gây tổn hại đến sức khỏe con người và vật. Quả báo này khi trổ sẽ khiến họ khổ không kể xiết.

Còn nữa, mỗi lần gặp giỗ quảy, lễ tiệc hay mừng năm mới… người ta thường sát sinh hại vật, hại cá tôm, giết thú cầm… Phạm những tội này cần tha thiết sám hối.

Sám văn:

Đối với kinh tượng Phật Thánh, tâm không cung kính, do tính kiêu ngạo, khinh người mà gây ra… do ba ác nghiệp của thần, miệng, ý, mà tạo vô biên tội.

∗ Phòng Dịch Kinh

Năm 1995, có cô Ni làm trong Ban phiên dịch thuộc một tự viện ở Mỹ quốc, cô đến hỏi Quả Lâm: Không biết vì sao mấy ngày nay trong người cảm thấy không khỏe?

Quả Lâm hỏi:

– Có phải trong phòng chứa nhiều kinh Phật?

– Đương nhiên rồi. Tôi làm công tác phiên dịch kinh mà…

– Nhưng bình thường cô để kinh rất lộn xộn?

– Kinh sách nhiều quá, nên tôi không chú ý đến…

Vậy Sư hãy về kiểm lại xem, nếu thấy kinh sách để trên bàn mà có quyển nào bị rớt xuống, thì hãy lượm lên sắp cho ngay ngắn, như vậy thì chỗ bệnh khó chịu nơi thân sẽ lành.

– Vậy sao? Để tôi về kiểm xem. Việc này hệ trọng dữ vậy ư?

– Kinh là Pháp bảo hiện hữu, giống như có Phật tại đó, do vậy mà được Thiên long Bát bộ hộ vệ. Nên khi có quyển kinh rơi xuống, dù Sư không biết, nhưng hiện vẫn có một vị thần hộ pháp đang đứng đó hai tay nâng đỡ mãi. Vị thần này phải ở tại đó suốt mấy ngày nay rồi, Sư rất có lỗi vì đã khiến cho thần hộ pháp không thoải mái, như vậy thì sao bản thân Sư dễ chịu được chứ? Mong Sư từ nay về sau, đối với kinh sách phải hết sức chú ý cẩn thận, cất giữ nên tôn kính, trân trọng hết lòng…

Cô Ni này về chùa kiểm xem, thì thấy quả thực có quyển kinh trên bàn bị rớt xuống, nên vội chỉnh lại và sám hối trước Phật, sau đó cô hướng thần hộ pháp xin lỗi, thì bệnh đau trên thân liền lành.

Mọi người thử nghĩ xem, đối với Tam bảo, không phải do ác ý vô tình mà lỡ phạm sai sót cũng còn lãnh ác báo, huống nữa là những ai cố ý phá hoại kinh, tượng… không cung kính Tam bảo, thì hậu quả có thể tưởng tượng được.

Sám văn:

Khẩu nghiệp là cửa họa của tất cả oán thù. Cho nên chư Phật dạy: “Không được nói hai lưỡi, nói lời hung ác, nói dối, nói thêu dệt”. Nên biết lời nói ác đem lại tai họa không ít, phải trả báo rất nặng.

Giải thích:

Ác báo do ba nghiệp tạo rất kinh khủng. Trong kinh Hiền Ngu kể có vị trưởng giả sinh ra không có tai, mắt, lưỡi v.v… là do làm chứng gian, nói dối. Cảnh báo chúng ta hiểu là: Nghiệp vọng ngữ rất đáng sợ.

∗ Tà Kiến Báng Tam Bảo

Tôi có vị sư đệ tên Quả Trí ở Thượng Hải, mẹ chồng cô tin Phật mấy mươi năm, nhưng là người tà kiến, ngang bướng khó độ, luôn luôn cho mình là đúng. Lại hay ác khẩu, ưa phê bình, nói lỗi người. Vào thời tà giáo “Pháp Luân Công” thịnh hành, bà biến thành “Đại tướng tiên phuông”, hăm hở gom kinh sách, tượng Phật… trong nhà đem thiêu hủy hết và bắt đầu tuyên truyền tà giáo, phỉ báng Phật pháp.

Nửa năm sau, miệng bà sinh ung bướu phải mổ hai lần, sau đó còn bị may cả hai mép, miệng thường rỉ nước hôi dơ, nên thường dùng khăn lau mãi và phải mổ tới lần ba. Mổ rồi thì bệnh lại tái phát tiếp diễn mãi không lành. Khi tôi tới nhà Quả Trì, thấy mặt bà đã đổi sắc xanh đen.Tuy thân không còn khỏe, nhưng bà vẫn rất cố chấp, ôm tà kiến mạnh mẽ, hung hăng không chịu nghe ai khuyên.

Tôi bảo Quả Trí, hãy tụng “Kinh Địa Tạng” giúp cho mẹ chồng, bởi bà tạo ác quá nhiều: Hủy báng Tam bảo, vọng ngữ tà kiến, tội khẩu nghiệp quá nặng. Bà lại hay sát sinh ăn thịt, không nghe ai khuyên, mạng của bà không còn thọ nữa. May là có con dâu tu theo chính pháp, biết giúp bà, nếu không chắc chắn bà sẽ đọa vào địa ngục A tỳ thọ khổ…

Ngày 14 tháng 4 năm 2007, Quả Trí gọi điện báo tin: Mẹ chồng cô mất ngay sáng hôm đó, thống khổ không thể tả. Mặc dù dưới sự hướng dẫn của Quả Trí, cộng đồng gia quyến dù không tin Phật cũng ráng hộ niệm cho bà gần hai tiếng. Trong suốt quá trình niệm Phật, Quả Trí luôn quỳ cạnh mẹ chồng, cô thấy mặt bà đang biến tướng rất hung dữ, thầm đoán biết bà đi về nơi không tốt.

Sám văn:

Chúng con quen tạo khẩu nghiệp bất thiện nên hay tuyên truyền điều ác. ưa nói lời thô tục hung bạo, hủy báng chê bai, thích tụ hội xúm nhau nói xấu, nói lén, nói lời vô nghĩa… Không nói có, có nói không, rắp tâm vu oan giá họa, đồi trắng thành đen… miệng thường buông lời dè bĩu khinh khi, xảo biện, phát ngôn luôn nói dối, ý tính toan quỷ quyệt, làm đảo lộn sự thật để lợi mình hại người, lời nói không đi đôi với việc làm, do vậy mà chiêu vời ác báo nhiều kiếp không dứt…

Hễ nói đến mình thì bao nhiêu phước đức đều quy về cho mình. Còn nói đến người thì bao nhiêu xấu ác đều đổ hết cho họ.

Thậm chí ưa phỉ báng Thánh Hiền, còn đố kỵ, dèm chê người thiện, sống vô đạo, vô nhân… dùng lời ác làm hại tất cả…

Giải thích:

Lỗi vọng ngữ rất nguy hại, mọi người không nên cho rằng “Nói dối có thể đạt được thành công”. Phải biết: Vọng ngữ chí lừa được nhất thời chứ không gạt được cả đời! Sớm muộn gì cũng sẽ thành là: “vác đá đập chân mình”.

Như vừa rồi một Khoa học gia nước Hàn, đã giả mạo, lấy luận án của người làm của mình, tuy nở mày mặt một thời nhưng cuối cùng thì thân bại danh liệt. Từ vị trí được xem như một anh hùng dân tộc bỗng biến thành kẻ dối lừa, bị thiên hạ rẻ khinh.

Mọi người hãy quan sát kỹ xem: Trên thế giới có nhiều xí nghiệp tiếng tăm, được lưu danh trường cửu, há chẳng phải nhờ họ xây dựng cơ nghiệp trên nền tảng thành thật trung tín hay sao? Nếu một người, một xí nghiệp cương quyết không vọng ngữ, luôn giữ phẩm chất thực thà trung tín, chẳng sợ thiệt thòi, nhất định sẽ chiêu thiện báo.

Từ đây mà suy, cách sống không thành tín, tạm thời thấy như có lợi, nhưng thực sự là đang tự hủy hoại, làm tổn phúc báo mình, cuối cùng phải lãnh hậu quả cực xấu. Muốn thay đổi phong khí tệ lậu thì phải để thuyết nhân quả lưu truyền rộng thấm sâu vào lòng người để thiên hạ tỉnh giác, biết tự bảo vệ mình, thì đây mới là cách hay giúp trị độc tận gốc!

Lưu ý: sống mà “Ngôn hành trái nhau, nói đến, làm không đến, cũng là vọng ngữ”. Vì vậy hễ đã phát thiện nguyện gì rồi thì nhất định ta phải thực hành cho tới nơi, nếu không sẽ nhận lãnh quả xấu.

∗ Nhân Viên Kỹ Thuật Hàng Không

Năm 2004, tôi và sư đệ Quả Trụ gặp một chuyên viên Kỹ thuật Hàng không. Do con trai ông bỗng phát bệnh thần kinh, gây ầm náo… khiến chòm xóm chung quanh chẳng an. ông đã tốn nhiều tiền mà không trị hết, nên vội đến tìm chúng tôi, xin giải thích giùm: Con ông bị bệnh như vậy là do nguyên nhân gì?

Quả Trụ hỏi:

– Có phải mấy năm trước ông từng giết chết một con bồ câu?

Ông lúng túng một hồi rồi ấp úng thưa:

– Lúc đó tôi công tác tại Thái Nguyên, có con bồ câu đưa thư bay tới chỗ tôi, tôi bắt nó nuôi mấy ngày, sau đó thèm quá nên… giết làm thịt cho cả nhà ăn.

– Con bồ câu ấy hiện đang đeo theo để chờ thời cơ báo thù cả nhà ông. Do hiện thời phúc ông còn nhiều, sức khỏe quá tốt, nên nó chưa thề báo oán ông. Còn con trai ông do thân thể suy nên nó được dịp quấy phá. Chỉ còn cách này: Ông nên phát nguyện ăn chay, hãy vì con chim mà cầu siêu, ông có làm được không hả?

Ông ta hùng hổ đáp:

– Chẳng hề chi! Đừng nói là không được ăn thịt và phải tụng kinh! Cho dù phải thực hiện những điều khó hơn thế nữa, thì… vì CON TRAI, TÔI SẴN SÀNG LÀM BẤT CỨ CHUYỆN GÌ!

Được mấy tuần, ông gấp rút gọi điện hỏi Quả Trụ:

– Từ hôm đó trở đi tôi hoàn toàn làm y theo lời ông dạy, thấy con tôi mấy ngày qua tình trạng rất tốt. Nhưng mới hồi hôm này, nó lại nổi cơn… quậy gây ầm náo, nguyên nhân là do đâu?

– Ông có làm y như tôi bày không?

– Có mà! Mấy hôm nay tôi một bề ăn chay, ngày nào cũng tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” đề siêu độ con bò câu.

– Không đúng! Mấy ngày nay ông ăn sủi cảo nhân thịt mà?

Ông vừa nghe, xấu hổ nói:

– Vợ tôi làm sủi cảo ăn, tôi thèm quá., nên có ăn… một tí xíu… chỉ… một cái thôi hà!

– “Ăn một cái” thì cũng không tính là “ăn chay”! Hồi đầu ông phát nguyện như thế nào? Ông nói hùng hồn ngon lành vậy mà làm không tới nơi, ông tái ăn mặn làm tổn hại chúng sinh, thế thì làm sao nó có thể tha thứ cho ông được?

– Ông ta lúc đó xấu hổ khó kham, luôn miệng hứa là… sẽ không ăn mặn nữa.

– Mấy tháng sau khi liên lạc lại, con ông quả nhiên đã hết bệnh.

Con đường tu giống như đi học, nếu bạn muốn biết chữ để đọc báo thôi, thì chỉ cần tốt nghiệp Sơ trung là đủ. Còn muốn học chuyên khoa, để tương lai làm về Kỹ thuật, thì phải vào trường Kỹ thuật chuyên nghiệp. Còn nếu ôm hoài bão cao, muốn trở thành Khoa học gia, Giáo sư v.v… thì bắt buộc phải thi đậu vào Viện Nghiên cứu (Đại học) mới có thể thành tựu.

Đương nhiên mục tiêu càng cao, ắt thi cử thử thách phải nhiều và hi sinh càng lớn. Học phí tốn cũng bộn.

Có người quan niệm: Chỉ cần không làm người xấu, dù có làm nữ hay nam… chi cũng tốt. Nhưng có kẻ lại cho rằng: Phải thường bố thí, để tương lai sinh ra được giàu sang… Dù có quan niệm thế nào, bạn cũng cần nhớ kỹ:

Ăn thịt là sát sinh, nếu ăn thịt chúng sinh, thì không bảo đảm tương lai bạn sẽ sinh làm người. Còn muốn sinh lên trời hưởng phúc, thì bạn phải trì Ngũ giới, tu Thập thiện. Nếu muốn xuất tam giới, thì bắt buộc phải tu hành theo “Bốn điều thanh tịnh” trong kinh Lăng nghiêm dạy. Phải đoạn hẳn sát, đạo, dâm, vọng. Nếu muốn thành Phật, Bồ tát thì phải tu Lục độ.

Tùy theo chí hướng và tâm nguyện mà ta phải trải qua nhiều cuộc khảo thí, e rằng so với Đường Tăng trong Tây Du Ký không phải chỉ có 81 nạn, mà có thể nhiều đến tám vạn bốn ngàn nạn…

Những ai phỉ báng Hiền thánh, tất phải chân thành sám hối mới có thể diệt trừ quả báo địa ngục. Có người thấy sư phụ vừa viên tịch thì lập tức phản bội, chẳng tuân thủ lời dạy, còn bài xích chống đối, kết bè dựng phái, chẳng hề biết hành vi “Khi sư diệt tổ” này sẽ khiến mình sau khi chết đi phải vào địa ngục A tỳ thọ tội, không có ngày ra.

Sám văn:

Nguyên nhờ Phật lực khiến tất cả chúng sinh trong lục đạo giác ngộ mà đến Đạo tràng.

Nếu người nào thân hình bị câu thúc trờ ngại, có lòng mà không thể đến được, thì xin nhờ lực chư Phật, Bồ tát, Hiền Thánh… thâu nhiếp khiến họ có thể đến được Đạo tràng này, thọ lãnh sự sám hối…

Chúng con vì sân hận, tham ái, ngu si, kiêu mạn, tật đố… mà tạo nghiệp nói dối, đâm thọc, chia rẽ… phá hoại thâm tình quyến thuộc, làm người đau khổ; khiến họ gây gỗ đấu tranh, cốt nhục chia lìa; làm nhiễu hại tất cả… Hoặc tạo tội ỷ ngữ, nói lời tục, lời vô nghĩa, vô ích… gây phiền cho cha mẹ, Sư trưởng, bạn bè và hết thảy chúng sinh. Khẩu nghiệp xấu ác như vậy tạo ra oán thù vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Giải thích:

Lưỡng thiệt: Là nói lời ly gián, đâm thọc hai bên, chiêu quả báo rất nghiêm trọng. Người phạm lỗi này, không ai ưa thân cận. Nhất định sẽ đọa cõi ác, bị cắt lưỡi cả ngàn lần.

Ỷ ngữ: Là chỉ tất cả ngôn từ chứa ý dâm tà bất chính. Ngày xưa dịch là: Ỷ ngữ, có nghĩa là tạp uế ngữ. Phàm những ngôn từ vượt vòng khuê các, không tao nhã thanh bai đều là ỷ ngữ. Ngày nay gọi là lời hôi tanh: Những lời tục tĩu, đồi trụy, dâm ngôn… đều là ỷ ngữ. Tất nhiên người tu không được dùng, trong sám văn chỉ nói là: Vô nghĩa ngữ, vô lợi ích ngữ, nhưng thực chất đều thuộc về Ỷ ngữ.

Trong “Thập Thiện Giới Kinh” có nói về Quả báo Ỷ ngữ: Kẻ nói lời vô ích, vô nghĩa, ca ngợi ngũ dục, nói lời tục, đen tối, đồi trụy… thốt lời như gai góc, chuyên móc, châm… chúng sinh… Người này sau khi mệnh chung, sẽ bị đọa vào địa ngục “Rừng chông” bị trăm ngàn chông nhọn móc lưỡi ra cắt thành trăm ngàn đoạn. Những người ưa Ỷ ngữ cần nên thức tỉnh:

Chẳng nói lời uế ngữ vớ ích Oán nghịch vô biên đều trừ diệt.

Sám văn:

Đã sám hối thân nghiệp, khẩu nghiệp rồi, tiếp theo lại sám hối ý nghiệp cho thanh tịnh.

Tâm trong sạch là nguồn gốc giải thoát; ý thanh khiết, là nền tảng của thăng tiến. Vô lượng khổ đều do ý tạo ra.

Nếu thân và khẩu không được vừa ý thì tâm càng sinh độc ác, muốn sát hại nhau không thương xót.

Như chúng con hơi có chút ghẻ ngứa đã không thề chịu được, nhưng nếu việc ấy xảy cho người thì lại thấy là đau khổ không bao nhiêu.

Hễ thấy lỗi của người thì muốn tuyên nói um sùm, còn mình có lỗi thì giấu nhẹm không muốn ai biết. Có tâm như vậy thật là xấu hổ.

Phật dạy rằng: “Giặc cướp công đức không gì hơn sân si”.

Khởi một niệm sân, thì trong tắt cả ác không có niệm nào ác hơn nữa. Vì một niệm sân tạo ngàn vạn chướng ngại.

Chướng không thấy Bồ đề, không nghe chánh pháp, làm cho phải sinh vào đường ác, bị nhiều tật bệnh, bị người hủy báng, sinh ra ám độn. Hay gần ác trí thức, không ưa làm lành, thường xa chánh kiến, chánh giáo của Phật, sa vào cảnh ma, bội nghịch thiện trí thức, bị các căn khiếm khuyết, hay sinh vào gia đình tạo nghiệp ác, sống nơi biên địa hạ tiện.

Những chướng như vậy đều do sân hận, nhiều không thể kể hết.

Chúng con từ vô thỉ đến nay, đã có vô lượng vô biên ác tâm sân hận, khi khởi sàn thì không kể gì bà con họ hàng, sinh khởi phiền não và tâm ác độc mãnh liệt mà không tự biết. Tuy bên ngoài không thực hiện được, nhưng trong ý tưởng thì gì cũng có thể nghĩ đến…

Nếu như niệm ác mà tâm vừa nghĩ ra có thể thực hiện được thì ắt là thống khổ sẽ giáng xuống… tràn lan cho mọi người.

Do vậy mà “Khi thiên tử nồi giận thì thây phơi đầy đường ngàn dặm”…

biển sinh tử không có ngày ra.

Tất cả tội ác ấy, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Nguyện từ nay giữ giới trong sạch, không làm ô uế đạo tâm, thường tu nhân nghĩa, luôn nhớ báo ần cha mẹ, Sư trưởng, Quốc vương… xem mọi người như mình, hiểu thông chánh pháp, kiên tâm cầu đạo Bồ đề, tự khai ngộ và trở lại hóa độ vô biên chúng sinh, đồng thành chánh giác.

∗ Hai Mẹ Con

Ở Thượng Hải có nữ sinh viên đại học năm hai, tin Phật theo mẹ, hôm nọ cô quyết tâm trì giới thệ dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường. Biết ngài Tuyên Hóa từng phát nguyện: “Ai không gặp ngài, mà muốn qui y ngài, thì đối trước hình ngài lễ vạn lạy, liền trở thành đệ tử ngài. Được ngài ban cho pháp danh như sau: Đặt tên “Quả” đứng trước chữ cuối tên đời của mình, thành là pháp danh.

Hai mẹ con họ quyết định mỗi ngày lễ Hòa thượng Tuyên Hóa ba trăm lạy, nguyện làm đệ tử ngài. Cô con gái còn nói nếu mẹ lạy xong vạn lạy trước thì là sư huynh, mình làm sư đệ… Ngày đầu tiên khi con gái lạy được 37 lễ thì bỗng thấy… ngài Tuyên Hóa ngồi trên ghế trước mặt, tay cầm tích trượng, toàn thân phóng kim quang, mỉm cười hiền từ nhìn cô. Cô kinh ngạc mừng vui gọi mẹ, nhưng mẹ cô chạy đến thì chẳng thấy gì.

Từ đó cô lễ lạy thành tâm gấp trăm lần, lễ xong một vạn, do tên cô là Di, khi ghép chữ Quả vào ở trước thành là pháp danh: Quả Di.

Mẹ cô lễ vạn lạy xong trước con gái, tuy bà không thấy hiện tượng lạ hay điềm lành gì, song vẫn rất kính tin ngài Tuyên Hóa.

Hôm nọ hai mẹ con ngồi trên giường đùa giỡn, con gái hứng chí đưa tay đấm vào vai mẹ, mẹ cô vừa cười vừa la:

– Sư phụ, ngài chẳng quản đệ tử, để nó đấm con đây này!…

Bà vừa dứt lời, thì thấy con gái buông tay xuống, mặt mỉm cười, lộ vẻ xấu hổ, không nói chỉ.

Người mẹ hỏi con:

– Sao thế?

Cô gái đáp:

– Con bị Sư phụ phê bình là: Không biết quy củ, nề nếp… chẳng tôn trọng mẹ!

Tôi trích kể câu chuyện nhỏ này cho độc giả nghe, là muốn chứng minh: Nếu bạn có tâm thành, thì sẽ chiêu cảm ứng cùng chư Phật, Bồ tát và tất cả chúng sinh. Cho dù nhất thời bạn

không nhìn thấy chư Phật, Bồ tát, nhưng chư Phật, Bồ tát vẫn luôn tồn tại. Giống như trong kinh “Đại Thừa Bổn Sinh Tâm Địa Quán” đã ghi: Giả như chúng sinh tôn kính Như Lai, hoan hỉ tu hành pháp Đại thừa, tôn trọng Tam bảo, người này nhất định: “Nghiệp chướng tiêu trừ, phúc huệ tăng trưởng, thành tựu thiện căn, sớm được thấy Phật, vĩnh lìa sinh tử, chứng đắc Vô thượng Bồ đề”. Mong mỗi người chúng ta hãy tự cố gắng tu, sớm viên thành đạo.

∗ Chúng Ta Từng Đi Khắp Lục Đạo

Một ngày vào năm 1988, con gái tôi tan học về nhà, nó cất xe đạp xong thì kể:

– Vừa rồi tại ngã tư Hải Quang, người đạp xe đông đúc. Con tình cờ nhìn qua bất ngờ phát hiện ông cưỡi xe bên trái con là mình dê, chân người, con liền nghĩ: Đây là ảo giác, có thể người này kiếp trước là từ kiếp dê chuyển sinh làm người (thời điểm đó chúng tôi chưa đến với Phật giáo).1 Khi con quay sang nhìn người bên tả, thì thấy họ toàn thân là ếch. Con bèn phóng mắt nhìn chung quanh xa hơn: Thấy chỉ có số ít mang thân người, còn lại đa số là các loài như: Heo, trâu, bò, chó, chuột, mèo, voi, thỏ, hổ, sói v.v… tính ra có đủ loại, lớn nhỏ không đồng.

Tôi hỏi:

– Thế con có sợ chăng?

Nó đáp:

– Có gì mà phải sợ, đấy là lưu ảnh thân dáng đời trước của họ, hiện tại chẳng phải tất cả đều đang mang thân người rồi hay sao?

Tôi lập tức hiểu ra: Vì sao có người giàu lòng từ bi ưa giúp đời, nhưng lại có nhiều kẻ ưa trộm cướp giết người… Vì sao có kẻ mê ăn thịt, nhưng có người lại không thề ăn mặn, có lẽ tất cả đều liên quan đến việc này.

Lúc đó tôi rất buồn cười, hễ ai đến nhà, là tôi ráng soi nhìn… lai lịch họ, nếu như nhìn thấy là trâu, ngựa… thì tôi sẽ cho người này tính thực thà trung hậu… Hễ nhìn thấy tướng sư tử, sài lang, hổ báo… thì tôi biết những người này rất hung dữ. Còn nếu nhìn thấy chồn, chuột, thì lo đề phòng… họ sẽ trộm đồ, nếu nhìn thấy hồ ly, thì biết người này… thông minh giảo quyệt…

Cho đến một hôm, tôi nghĩ đến bản thân mình, cũng thắc mắc muốn biết tiền thân mình thế nào? Thế là tôi lập tức quán sát ngay: Hóa ra là súc sinh. Tôi thất vọng quá cỡ! Bởi tôi cứ đinh ninh, chắc mẫm thầm rằng: “Mình đây ắt phải là một vị thần tiên nào đó”…

Kể từ đấy tôi chẳng thèm phí công quán sát, nhìn, tìm, soi… lai lịch ai nữa. Cho đến khi… lần đầu tiên xem qua quyển sách Phật giáo “Giác Hải Từ Hàng”, tôi mới biết là có sáu cõi luân hồi.

Tiếp đến, tôi đọc cuốn Khai Thị của ngài Tuyên Hóa, tìm được con đường tu hành, nỗ lực tu và tiến thẳng đến hôm nay. Tôi thấy mình được gặp Phật pháp là cực kỳ may mắn.

Thực ra mỗi người đều có vô số tiền kiếp, nếu ta nhìn thấy một đời nào đó, thì cũng giống như mộng huyễn, đều không phải là ta chân thực. Cho nên, nhiều người hiếu kỳ muốn biết xem tiền thân tiền kiếp của mình là gì và chấp chặt vào đó… phải biết điều này là sai và hoàn toàn không cần thiết!

Quá khứ đã qua không trở lại, thân người ta mang hôm nay cũng là tạm thời, chỉ là hư vọng mà thôi. Nếu chẳng nắm ngay thời cơ này ráng tu cho liễu sinh thoát tử thì rất uổng phí. Ta tuyệt không nên tiếp tục sai lầm đánh mất cơ hội thoát ly tam giới trong đời này. Vì vậy xin quý vị hãy chịu khó tinh tấn, đối với Phật pháp cần tin sâu, hành thâm; mới có thể ngày ngày hưởng thọ pháp hỉ sung mãn. Nếu lúc nào cũng có Phật trong tâm, thì ưu tư làm chi chuyện mình (sinh trước hay sau Phật) không có phúc duyên hiện hữu ngay thời Phật trụ thế.

Chúng ta ngày nay tuy sinh ra không gặp Phật, nhằm đời mạt pháp, nhưng có đủ tín tâm, sáu căn thanh tịnh, đi lại vừa ý, đứng ngồi tự do, vô ngại. Những quả báo tốt đẹp ấy đều do duyên lành đời trước, nhờ ân Tam bảo khiến phát tâm Bồ đề. Những lợi ích như thế vô lượng vô biên,

không thể kể xiết. Vậy chúng ta há không báo ân, cúng dường Tam bảo hay sao?

“Muốn báo ân Phật, cần phải phát tâm Bồ đề, lập bốn lời thệ nguyện rộng lớn, tạo vô lượng duyên lành, trau dồi tu sửa thân tâm. Ấy là kẻ trí biết báo ân Phật”.

∗ Sinh Con Như Ý

Có một thanh niên (sinh trong gia đình Phật giáo đồ tại Sơn Tây), từ nhỏ kính tin Phật, tốt nghiệp bậc Trung học. Sau anh lên Bắc Kinh làm công cho người, nhờ thông minh lanh lợi, nên giúp cho công ty Giám đốc phát to. Vì vậy Giám đốc quyết định giao xí nghiệp cho một mình anh trông coi phát triển. Anh có tài nên làm ăn khấm khá, dần dần trở thành phú ông vạn ức, anh rộng hành bố thí, cưới vợ xinh đẹp giỏi giang. Cô vợ sinh con gái đầu lòng, ba năm sau lại mang thai tiếp, thai được tám tháng, đi siêu âm thì là nữ.

Vợ anh bèn hỏi tôi, cô từng ở trước Phật cầu sinh con trai, chồng cô đã bỏ ra trăm vạn để sửa chùa tạc tượng, in kinh… nhưng vì sao vẫn không được như nguyện?

Tôi đáp:

– Đây là do tuy tin Phật mà không chịu giữ giới. Có phải hai vị ngũ giới không thanh tịnh?

Cô nói: Làm ăn giữ giới rất khó, nhất là chồng cô.

Tôi bảo:

– Nếu cô muốn sinh con trai, thì phải ở trước Phật phát nguyện: “Từ nay trở đi xin dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường, nguyện giữ ngũ giới, cầu

Phật ban cho đứa con trai có thể hoằng pháp lợi sinh giúp đời”.

Mỗi ngày còn phải tụng một bộ “Kinh Địa Tạng”, niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát” vạn lần, làm được vậy thì thai nữ có thể sẽ chuyển thành nam.

Cô nói:

– Còn một tháng nữa là sinh rồi, còn chuyển đổi được hay sao?

– Phật thuyết: “Tất cả do tâm tạo”, những điều Phật giảng trong “Quan Thế Âm Bồ tát Phẩm Phổ Môn”, đều là chân thực không dối. Nếu cô không tin, thì xem như tôi không có nói!

Thế là cô lập tức đến trước Phật, thắp hương, quỳ phát nguyện y như tôi bày.

Tôi viết thêm câu chuyện này vào đây, là bởi vì cô đã sinh ra một bé trai kháu khỉnh dễ dàng, tính đến giờ được mười hai ngày rồi. Khi cồ vừa rời phòng sinh thì vội gọi điện báo hỷ tín cho tôi ngay. “Thai nữ chuyển thành nam”, bạn nói có vi diệu không hả?

∗ Lưu Kế Toán

Năm 1989, hôm nọ lúc dùng cơm tối, vợ tôi kể về Lưu kế toán là đồng nghiệp làm chung công ty và hỏi con gái: Không hiểu vì sao bà Lưu liên tục bị mất trộm?

Lần thứ nhất bà Lưu cưỡi xe đạp đi làm thì bị mất trộm. Sau đó bà mua chiếc thứ hai, đi làm được nửa tháng thì lại bị mất. Một tuần sau bà mua chiếc thứ ba: Vừa chạy về, mới dựng dưới nhà để đi lên lầu lấy đồ chuẩn bị đi làm, khi xuống lầu thì chiếc xe đã biến mất…

Tức quá bà khóc một trận. Vì trong một tháng mà bị mất liên tiếp ba chiếc xe đạp. Người chung quanh ai cũng cảm thông, đồng xúm nhau rủa thằng ăn trộm… thất đức!

Bởi Lưu kế toán tính tình tốt, hay giúp người, ở công ty năm nào cũng được bầu chọn, khen thưởng. Bà làm việc giỏi, xã giao khéo. Theo ý vợ tôi, bà tốt như thế, vì sao thường bị ác báo?

Quả Lâm hỏi:

– Mẹ ơi, có phải dì Lưu thường hay lấy giấy…. của công ty đem về nhà?

Nghe con gái nói, tôi hiểu ra ngay.

Thời đó bao bì, thùng chứa bánh kẹo là loại giấy bối vàng. Vợ tôi thường mách rằng: Trong công ty từ cán bộ đến nhân viên, đa số đều lấy giấy trong sở đem về nhà dùng làm giấy vệ sinh. Lúc đó tôi còn hỏi vợ:

– Sao em không lấy đem về nhà dùng?

Vợ tôi nói nàng không dám làm vậy. Bởi cảm thấy hành động này cũng chẳng khác chi ăn trộm (nàng là một kẻ: Hễ thấy người làm việc xấu thì mình đã phát run trước nhất)…

Con gái tôi nói:

Dì Lưu thường đến quầy Thương Phẩm, lấy giấy công ty đem về nhà xài (mà đó không phải là hàng xấu hay phế phẩm). Do dì thường lấy đồ quốc gia đem về làm của riêng, nên việc mất xe đạp chỉ là chuyện nhỏ. Nếu dì cứ tiếp tục lấy của công đem về dùng riêng, thì tương lai nhà dì sẽ bị trộm, cướp viếng… nghĩa là sẽ bị mất những thứ giá trị còn lớn hơn ba chiếc xe đạp nữa …

Quả nhiên, sáu tháng sau, vợ tôi kể: Nhà bà Lưu lại bị trộm viếng, truyền hình, máy thu âm, tiền bạc v.v… đều bị mất, tính ra tổn thất rất lớn.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.