Theo lời tựa trong chánh văn thì bộ LƯƠNG HOÀNG SÁM này do Hòa thượng Chí Công biên tập từ đời Vua Lương Võ Đế bên Tàu.
Nguyên Vua Lương Võ Đế có một bà Hoàng hậu yêu quý nhất tên là Hy Thị. Vì được vua yêu quý nên lòng đố kỵ của bà ngày càng lên cao; Hy Thị ganh tị các cung phi, độc ác với mọi người và hủy báng Tam Bảo. Trong Triều ngoài Quận ai cũng biết Bà Hy Thị là một “quái phi”.
Sau bà nhuốm bệnh nặng, các lương y đều thúc thủ, bà phải từ trần. Một hôm vào lúc đêm khuya, đang ngồi trong cung tịch mịch, Vua Lương Võ Đế nghe tiếng người kêu van thảm thiết.
Dưới ánh đèn mờ, Vua Lương Võ Đế lạnh cả người, muốn chạy trốn, nhưng không được. Vua bèn lên tiếng hỏi: “Ngươi là ai mà đêm khuya thanh vắng nghiêm mật thế này lại vào đây được?”
– Hoàng đế ơi! Thiếp đây chính là Hy Thị. Vì quá độc ác nên chết rồi thiếp phải đọa làm rắn mãng xà. Ngày đêm đau khổ, thân thể tanh hôi, vi vẩy đều bị sâu trùng rúc rỉa, nhức nhối không thể chịu được. Nhớ lại tình cầm sắc xưa kia nên thiếp đến đây mong nhờ Hoàng đế tìm phương cứu thiếp.
Nói rồi biến mất. Nghe xong, Vua Lương Võ Đế như thoát cơn ác mộng và lòng đau như dao cắt! Ngày mai khi lâm Triều, Vua kể lại chuyện ấy cho bá quan nghe để tìm phương cứu vớt Hy Thị.
Trong số các quan có người đề nghị: Xin cung thỉnh Hòa thượng Chí Công lo việc này. Vua lương Võ Đế chấp thuận. Hòa thượng Chí Công là một cao tăng đắc đạo đương thời. Thể theo lời thỉnh cầu của nhà Vua, Ngài liền triệu tập các danh tăng soạn ra Sám Pháp này, và lập Đàn tràng làm lễ sám hối cho Hoàng hậu Hy Thị.
Nhà Vua chí tâm, thân hành lễ bái. Vài hôm đầu, người ta nghe có mùi hương lạ thơm nức, ngào ngạt khắp cả đạo tràng.
Lễ tụng đến quyển thứ năm, ngay tại chỗ, trên không trung, Vua Lương Võ Đế nghe có tiếng của Hy Thị. Bà hiện thân thiên nữ đẹp đẽ, nói tiếng ngưởi, tỏ lòng cám ơn Hòa thượng, Hoàng đế.
Hy Thị cho biết bà đã thoát nạn và đã sanh lên Đao Lợi Thiên Cung, nhờ công đức sám hối.
Từ đó Sám Pháp này được truyền tụng khắp nơi, rất thạnh hành.
Bản chánh bằng Hán văn trọn bộ 10 quyển. Danh hiệu Phật và lời sám đều rút trong Tam Tạng Thánh giáo Đại thừa.
Năm 1948 – 1950, Bồ-tát giới Tuệ Nhuận và một số đạo hữu khá đông ở Bắc Việt đã dịch âm ra Việt văn, thành 2 tập.
Năm 1952, lúc còn tu học ở Phật học viện Báo quốc Huế, tôi bắt đầu dịch nghĩa bộ này ra tiếng Việt, đến nay mới đủ cơ duyên xuất bản.
Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong đền đáp lại bốn ơn muôn một và cứu giúp muôn loài phần nào.
Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong giúp hàng sơ cơ một phương pháp tu hành giản dị để cải ác tùng thiện, để đi Tây phương, về Lạc Quốc.
Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này làm cho người tu hành ngày càng tinh tiến, nghiệp chướng chóng tiêu trừ, thân tâm thường an lạc và sở cầu được như nguyện.
Tôi cũng xin cầu nguyện cho tất cả người thấy, người nghe, người hủy báng, người tùy hỷ, đều được lợi lạc, thoát khổ não, và nguyện xin cho tất cả chúng sanh xả ly tà kiến, biết sám hối.
SÁM HỐI NGHĨA LÀ GÌ?
Kinh dạy:
– Sám là sám kỳ tiền khiên. Hối là hối kỳ hậu quá.
– Sám là ăn năn các việc ác đã làm, thề xin chừa bỏ, không dám tái phạm.
– Hối là hối cải. Những điều ác chưa làm, sau này xin thề nguyện không bao giờ làm nữa. Bao nhiêu điều thiện xin làm hết.
Chữ Phạn gọi là Sám-ma, Tàu dịch là hối quá, ghép cả hai chữ lại mà đọc là Sám hối.
Sám hối cũng có sự sám và lý sám.
Sự sám tức là thiết lập Đàn tràng, trang nghiêm Phật tượng, cúng dường hương hoa, ân cần đảnh lễ, thành khẩn nguyện cầu tam nghiệp như nhất, tỏ bày tội lỗi. Cầu xin chư Phật, chư đại Bồ-tát phóng hào quang, dùng thần lực gia hộ cho kẻ tu hành mau tiêu trừ nghiệp chướng, chóng thoát oan khiên, sạch hết tội lỗi.
Lý sám là sám hối tự tâm.
“Tội thành do tâm tạo
Tội diệt phải do tâm sám;
Tâm không thì tội cũng không,
Tội diệt thì tâm cũng diệt.”
Tội không, tâm diệt thì không còn gì nữa mà sám hối. Như vậy mới là chân thật sám hối.
Sau khi lạy một lạy, tụng một câu, người tu hành nên xét lại tự tâm, diệt sạch vọng tưởng, quán lý vô sanh, phải biết tội do nhơn duyên mà thành, thì tội cũng do nhơn duyên mà diệt. Nhơn duyên là những điều kiện tạo nên tội và phương pháp sám hối.
Tội vốn không thật có. Vì không thật có, nên chúng ta có thể chuyển tội thành phước, chuyển khổ thành vui, chuyển mê thành ngộ.
Khi xướng một câu danh hiệu Phật, chúng ta cần phải thật hiểu nghĩa lý danh hiệu ấy. Hiểu để tu tập, để làm theo những đức tánh cao đẹp của chư Phật.
Ví như chúng ta xướng câu: “Nam mô Phổ Quang Phật”, thì ít ra chúng ta cũng phải hiểu sơ như thế này:
Chúng con xin kính lễ (Nam mô) đấng giác ngộ hoàn toàn (Phật) đầy đủ đức tánh cao rộng đẹp đẽ (Phổ) sáng suốt vô biên (Quang).
Ngoài ra chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm bản tâm của chúng ta. Tâm của chúng ta cũng có những đức tánh cao rộng đẹp đẽ như thế.
NAM MÔ: Nghĩa là quy y, kính lễ, v.v…
PHỔ: Nghĩa là phổ cập, phổ biến, cùng khắp, không có giới hạn, ngoài thời gian và không gian, không phân biệt người và ta. Trái lại, Phổ có nghĩa hàm súc những đức tánh từ bi hỷ xả với tất cả mọi loài, mọi vật, mọi chốn, mọi nơi.
Tâm ta cũng có những tánh chất phổ biến như thế. Từ nay ta phải sống theo tiếng gọi của cõi lòng, không tiêu cực mà tích cực, không ích kỷ mà vị tha, không sân hận mà từ bi, không xan tham mà bố thí, không tật đố mà hỷ xả, không ngu si mà trí huệ.
QUANG: Nghĩa là sáng suốt tuyệt đối, soi khắp mười phương, thông suốt ba đời mà không lìa nơi một niệm. Tội nhơn và khổ quả của chúng sanh đã gây tạo và sẽ chịu đền trả, từ bao giờ, ở nơi đâu, nhất nhất đều sáng tỏ, hiểu biết hết.
Tâm ta có tính cách sáng suốt như vậy, từ nay trở đi, ta phải hành động, ăn ở theo tâm tánh sáng suốt ấy, không còn ngu si mê mờ mà tạo tội nữa.
PHẬT: Là đấng giác ngộ hoàn toàn, ta đang kính lễ. Phật cũng tức là tâm sáng suốt thanh tịnh, đầy đủ muôn đức tánh tốt đẹp, trùm khắp pháp giới, ra ngoài thời gian.
Tâm ta cũng có những khả năng giác ngộ, những đức tánh như Phật,
Vậy từ nay trở đi ta phải noi gương Phật, sống cách sáng suốt, đầy đủ đức hạnh như Phật, không tạo tội nữa.
Đại khái như thế, cứ theo từng danh hiệu một mà quán sát tự tâm để sám hối.
Lần lần những khả năng tốt đẹp trong tâm ta do sự sám hối sẽ lưu lộ ra: nào là từ bi, hỷ xả, trí huệ, phước đức, hạnh phúc dồi dào tuôn ra như nước, mặc sức ta thọ dụng.
Người hiểu được và làm được như thế là người chánh kiến, không còn bôn ba chạy theo ngoại cảnh, không tà kiến quy y theo quỉ mị tà thần.
Người chánh kiến chỉ biết quy y, lễ bái, tôn thờ đức Phật ở tự tâm, nghe tiếng nói của cõi lòng.
Lễ một đức Phật tức là lễ hết thảy mười phương chư Phật. Đem tâm từ bi bình đẳng, sự lý viên dung, trùng trùng vô ngại mà bái sám thì lo gì tội không diệt, phước không sanh.
Nếu người không thông lý, cứ y sự mà tu hành, chí tâm bái sám thì cũng nhờ được thần lực của Tam bảo gia hộ mà tiêu trừ nghiệp chướng, như trong chánh văn đã thuật rõ.
Phật dạy: “Có hai hạng người mạnh nhất: một là không tạo tội, hai là biết ăn năn”.
Phật dạy: “Nếu không có pháp sám hối thì tất cả đệ tử Phật không thể giải thoát”.
Nhờ sám hối nên vua A Xà Thế phạm tội ngũ nghịch (giết cha) liền được giải thoát.
Ông Trương Thiện Hòa sát sanh vô số cũng không đọa địa ngục, vì biết hối hận.
Có một điều đáng chú ý nhất là thân nghiệp và khẩu nghiệp thô tháo bên ngoài dễ trừ. Duy có ý nghiệp vi tế bên trong, rất khó diệt. Đến quả vị Phật mới hết tham, sân, si.
Do đó người phát đại tâm phải y cứ vào sám pháp đại thừa mới mong chóng trừ diệt được ba độc.
Ngài Phổ Hiển Bồ-tát là Trưởng tử của Phật trên Hội Hoa Nghiêm còn phải phát đại nguyện. Ngài nguyện sám hối mãi cho đến cùng tận đời vị lai.
Nếu phiền não và nghiệp chướng của chúng sanh không cùng tận thì sự sám hối của Ngài cũng không bao giờ cùng tận.
Trong kinh Viên Giác, Phật dạy: “Các vị Đại Bồ-tát lúc lập đạo tràng an cư từ 7 ngày cho đến 21 ngày đầu, sám hối nghiệp chướng”.
Trong kinh Bảo Tích, Phật dạy: “Hàng ngày nên đảnh lễ danh hiệu 35 vị Phật trong kinh ấy mà sám hối nghiệp chướng”.
Trong luật thì pháp sám hối là một vấn đề tối quan trọng, không thể bỏ qua.
Trong luận thì pháp sám hối được giải thích rõ ràng và quyết định sám hối là một việc cần phải có của người chơn tu, không thể thiếu sót.
Không sám hối rất có hại: Nghiệp chướng không tiêu trừ; tội lỗi còn mãi, oan khiên nhiều kiếp theo hoài.
Ngài Ngộ Đạt quốc sư mười đời làm cao tăng mà Triệu Thố vẫn còn theo báo mãi.
Như thế dù cầu hạnh phúc thế gian hay xuất thế gian, việc đời và việc đạo, đều bị trở ngại, tu chứng bất thành.
Kinh sách dùng để sám hối có rất nhiều: Như bộ Vạn Phật, bộ Tam Thiên Phật, bộ Thủy Sám, Hồng Danh Sám, Chuẩn Đề Sám và Dược Sư Sám v.v…
Nhưng bộ Lương Hoàng Sám này kể rõ tội nhơn khổ quả, nghe đến ai cũng phải lạnh mình khiếp sợ mà phát tâm cải ác tùng thiện ngay. Bộ này lại có công năng diệt trừ tiền khiên, oan trái nhiều kiếp, nhiều đời, đọc đến phải cảm rơi nước mắt. Mỗi chữ, mỗi câu đều nhắm mục đích đền trả bốn ơn, cứu thoát ba cõi, thay thế lục đạo mà sám hối, cầu nguyện cho tam đồ thoát khỏi trầm luân. Cuối cùng lại vì tất cả chúng sanh mà phát nguyện, hồi hướng.
Người tu hành đọc đến bộ Lương Hoàng Sám, dù không muốn phát đại tâm cũng phải phát, dù không tin địa ngục cũng phải sợ Tam đồ.
Những người tu Tịnh Độ phát tâm Bồ-đề thường nên tu theo pháp sám này để mau về Cực Lạc.
Có thể nói bộ Lương Hoàng Sám này là “bửu bối” riêng của những người cầu Vô thượng đạo, phát Bồ-đề tâm vậy.
Bộ này có năng lực sanh phước diệt tội không thể nghĩ bàn.
Trong chánh văn có bài kệ tán thán công đức sám hối, đại ý như thế này:
Sám vừa cử lên
Tội lỗi tiêu liền;
Giải được oan trái,
Trừ được tai ương;
Thoát khỏi khổ nạn,
Phước đức vô biên.
Sanh lên Đao-lợi,
Hoặc về Tây phương.
Văn Thủy Sám cũng nói: “Lúc nghiệp báo đến, tội nhơn không thể rúc vào núi đá, lặn xuống đáy nước, bay lên không gian hay ẩn núp đâu được. Duy chỉ có nhờ phương pháp sám hối mà thoát được tai nạn mau chóng hơn hết, độc nhất vô nhị”.
Sám hối lợi cho mình, lợi cho người, cho tất cả tam đồ, lục đạo, pháp giới chúng sanh.
Công đức sám hối nói không cùng, nghĩ không tận. Tôi chỉ xin đốt nén hương lòng cầu xin Tam bảo gia hộ cho tất cả người thấy, người nghe, người ấn tống đồng phát Bồ-đề tâm, đồng cầu sám hối, đồng hồi hướng công đức.
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT
Trong lúc phiên dịch văn này, tôi không có hy vọng gì cao xa hơn là giúp cho hàng sơ cơ một phương pháp tu hành thiết thực để về Tây phương Cực Lạc.
Do đó, đầu quyển thứ nhất có nghi thức khai kinh thông thường dễ tụng. Cuối quyển thứ mười có nghi thức Tịnh độ, cầu sanh An dưỡng làm tiêu chuẩn hồi hướng.
Sau hết tôi xin chân thành cảm tạ chư vị đại thiện tri thức trong Hải hội chỉ giáo cho tôi những khiếm khuyết, mong sao kỳ tái bản được hoàn toàn hơn.
Tôi nguyện xin đem công đức này hướng lên cúng dường ngôi Tam Bảo, Đức Quán Thế Âm Bồ-tát, Đức Vô Biên Thân Bồ-tát, và chư vị Hộ pháp đã mật thùy gia hộ cho tôi làm một việc mà tôi tưởng tượng tôi không làm được.
Nguyện xin hồi hướng lên chư vị Đại đức Tăng trong hiện tại đã dìu dắt tôi tu hành. Ni chúng bộ V.N. đã phát tâm xuất bản giúp tôi; cùng chư vị thiện nam tín nữ đã ủng hộ tôi nhiều phương diện trong lúc phiên dịch.
Nguyện xin tất cả đều trọn thành Phật đạo.
DỊCH GIẢ: TỲ KHEO THÍCH VIÊN GIÁC
Viết xong tại Tu viện Giác Hải
Điện Nam Hải Quan Âm ở Vạn Giả
Bắc Nha Trang ngày mãn hạ, năm Canh Tý 2504 (1960)