Sư họ Tư Mã, tổ tiên quê ở Hà Nội, thân phụ Sư dời về Kỳ Châu huyện Quảng Tế, mới sanh Sư.
Sư xuất gia khi còn để chóp. Tuy tuổi ấu thơ mà Sư có ý chí siêu việt, ngưỡng mộ Không tông và các môn giải thoát.
Năm 14 tuổi là một Sa-di, Sư gặp Tổ Tăng Xán cầu xin pháp môn giải thoát, được Tổ khai ngộ. Sư theo hầu Tổ suốt 9 năm mới được truyền pháp. Sau khi được pháp, Sư một bề tinh tấn, trọn ngày đêm không nằm.
Niên hiệu Đại Nghiệp thứ 13 (613 TL) đời Tùy, Sư thống lãnh đồ chúng sang Kiết Châu. Đến đây bị bọn giặc Tào Võ Vệ vây thành suốt 7 tuần. Dân chúng trong thành kinh hoàng. Sư dạy họ chí tâm niệm “Ma-ha Bát-nhã”.
Toàn dân trong thành đều thành kính tụng niệm. Quả nhiên, bọn giặc nhìn trên thành có thần binh trùng điệp, chúng sợ hãi rút quân.
Niên hiệu Võ Đức thứ 2 (619 TL) đời Đường, Sư sang đất Loa Xuyên. Ở đây, Sư giáo hóa ngót 7 năm.
Sau, Sư trở về an trụ tại Kỳ Xuân trên núi Phá Đầu. Ở đây, Tăng chúng bốn phương đua nhau tìm đến tham vấn rất đông.
Đời Đường niên hiệu Trinh Quán thứ tư (630 TL), Sư đang ở trên núi Phá Đầu nhìn xem khí tượng, biết trên núi Ngưu Đầu có bậc dị nhân. Sư đích thân tìm đến núi này, vào chùa U Thê hỏi thăm những vị Tăng:
– Ở đây có đạo nhân chăng?
Có vị Tăng đáp:
– Phàm là người xuất gia, ai chẳng phải đạo nhân?
Sư hỏi: – Cái gì là đạo nhân?
Tăng im lặng không đáp được. Có vị Tăng khác thưa:
– Cách đây chừng 10 dặm bên kia núi, có một vị sư tên Pháp Dung, lười biếng đến thấy người chẳng đứng dậy chào, cũng không chắp tay, phải là đạo nhân chăng?
Sư liền trèo núi tìm đến, thấy Pháp Dung đang ngồi thiền trên tảng đá, dường như chẳng để ý đến ai.
Sư hỏi: – Ở đây làm gì?
Pháp Dung đáp: – Quán tâm.
– Quán là người nào, tâm là vật gì?
Pháp Dung không đáp được, bèn đứng dậy làm lễ, thưa:
– Đại đức an trụ nơi nào?
Sư đáp:
– Bần tăng không có chỗ ở nhất định, hoặc Đông hoặc Tây.
– Ngài biết Thiền sư Đạo Tín chăng?
– Vì sao hỏi ông ấy?
– Vì nghe danh đức đã lâu, khao khát muốn đến đảnh lễ.
– Thiền sư Đạo Tín là bần đạo đây.
– Vì sao Ngài quang lâm đến đây?
– Vì tìm đến thăm hỏi ngươi, lại có chỗ nào nghỉ ngơi chăng?
Pháp Dung chỉ phía sau, thưa: – Riêng có cái am nhỏ.
Pháp Dung liền dẫn Sư về am. Chung quanh am toàn loài cọp sói nằm đứng ngổn ngang. Sư giơ hai tay lên làm thế sợ.
Pháp Dung hỏi: – Ngài vẫn còn cái đó sao?
Sư hỏi: – Cái đó là cái gì?
Pháp Dung không đáp được. Giây lát, Sư lại tấm đá của Pháp Dung ngồi vẽ một chữ PHẬT. Pháp Dung nhìn thấy giật mình.
Sư bảo: – Vẫn còn cái đó sao?
Pháp Dung không hiểu, bèn đảnh lễ cầu xin Sư chỉ dạy chỗ chân yếu.
Sư bảo:
– Phàm trăm ngàn pháp môn đồng về một tất vuông. Diệu đức như hà sa thảy ở nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới, định, huệ, thần thông biến hóa, thảy đều đầy đủ nơi tâm ngươi. Tất cả phiền não xưa nay đều không lặng. Tất cả nhân quả đều như mộng huyễn, không có tam giới có thể ra, không bồ-đề có thể cầu. Người cùng phi nhân tánh tướng bình đẳng. Đại đạo thênh thang rộng lớn, bặt suy dứt nghĩ. Pháp như thế, nay ngươi đã được không thiếu khuyết, cùng Phật không khác, lại không có pháp gì lạ.
Chỉ tâm ngươi tự tại, chớ khởi quán hạnh, cũng chớ lóng tâm, chớ khởi tham sân, chớ ôm lòng lo buồn, rỗng rang không ngại, mặc tình tung hoành, chẳng làm các việc thiện, chẳng làm các việc ác, đi đứng ngồi nằm, mắt thấy gặp duyên thảy đều là diệu dụng của Phật. Vì vui vẻ không lo buồn nên gọi là Phật.
Pháp Dung thưa:
– Tâm đã đầy đủ, cái gì là Phật? Cái gì là tâm?
Sư đáp:
– Chẳng phải tâm thì không hỏi Phật, hỏi Phật thì chính là tâm.
Pháp Dung thưa:
– Đã không khởi quán hạnh, khi gặp cảnh khởi tâm, làm sao đối trị?
Sư đáp:
– Cảnh duyên không có tốt xấu, tốt xấu khởi nơi tâm, nếu tâm chẳng theo danh (tên), vọng tình từ đâu khởi? Vọng tình đã chẳng khởi, chân tâm mặc tình biết khắp. Ngươi chỉ tùy tâm tự tại, chẳng cầu đối trị, tức gọi là Pháp thân thường trụ, không có đổi thay. Ta thọ pháp môn đốn giáo của Tổ Tăng Xán, nay trao lại cho ngươi. Nay ngươi nhận kỹ lời ta, chỉ ở núi này, sau có 5 vị đại nhân đến nối tiếp giáo hóa.
Một hôm, Sư đến huyện Hoàng Mai, giữa đường gặp một đứa bé dáng vẻ khôi ngô, độ chừng 7 tuổi. Sư để tâm nơi đứa bé, bèn hỏi:
– Ngươi họ gì ?
Đứa bé đáp: – Họ thì có, mà không phải họ thường.
– Là họ gì ?
– Là họ Phật.
– Ngươi không họ à?
– Vì họ ấy là không.
Sư nhìn những người thị tùng bảo:
– Đứa bé này không phải hạng phàm, sau này sẽ làm Phật pháp hưng thịnh.
Sư cùng thị tùng tìm đến nhà đứa bé, thuật những lời đối đáp lạ thường của nó và xin mẹ nó cho xuất gia. Mẹ đứa bé đồng ý. Thế là, Sư nhận đứa bé làm đệ tử xuất gia, đặt tên là Hoằng Nhẫn.
Một hôm, Sư gọi Hoằng Nhẫn đến bảo:
– Xưa, Như Lai truyền Chánh pháp nhãn tạng chuyển đến đời ta, nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát. Ngươi đều giữ gìn, cố gắng truyền trao, không cho dứt bặt. Nghe ta nói kệ:
Hoa chủng hữu sanh tánh,
Nhân địa hoa sanh sanh.
Đại duyên dữ tín hiệp,
Đương sanh sanh bất sanh.
Dịch:
Giống hoa có tánh sống,
Nhân đất hoa nảy mầm.
Duyên lớn cùng tín hợp,
Chính sanh, sanh chẳng sanh.
Sư lại bảo Hoằng Nhẫn:
– Trước trong thời Võ Đức, ta có viếng Lô Sơn, lên tột trên đảnh nhìn về núi Phá Đầu, thấy một vầng mây màu tía giống như cái lọng, dưới phát ra lằn hơi trắng chia ra sáu đường, ngươi cho là điềm gì?
Hoằng Nhẫn thưa:
– Đó là điềm sau Hòa thượng, con cháu sẽ chia thêm một nhánh Phật pháp.
Sư khen: – Hay thay, ngươi khéo biết đó.
Niên hiệu Trinh Quán thứ 18 (644 TL) nhà Đường, Vua Thái Tông ngưỡng mộ đạo hạnh của Sư, sai sứ mang chiếu thỉnh Sư về kinh đô để tham vấn đạo lý. Sứ đi đến ba phen mà thỉnh không được. Sư cứ từ chối là già bệnh.
Lần thứ tư, vua hạ lệnh nếu Sư không chịu đi thì lấy thủ cấp đem về, vì Sư phạm tội trái lệnh. Sứ giả đọc chiếu chỉ xong, Sư ngửa cổ cho sứ chém, mà thần sắc vẫn thản nhiên. Sứ giả thấy thế, không dám hạ thủ, trở về tâu lại nhà vua. Vua nghe việc này càng thêm kính phục, gởi đồ lụa gấm đến cúng dường.
Đến niên hiệu Vĩnh Huy năm thứ 2 (651 TL) đời Đường, ngày mùng 4 tháng 9 nhuần năm Tân Hợi, Sư gọi môn nhân vào dặn:
– Tất cả các pháp thảy đều là giải thoát, các ngươi phải tự gìn giữ và giáo hóa đời sau.
Nói xong, Sư ngồi an nhiên thị tịch, thọ 72 tuổi. Môn nhân xây tháp thờ tại núi Phá Đầu.
Sư từ khi ngộ đạo cho đến lúc thị tịch gần ngót 50 năm mà vẫn tinh tấn tu hành, không khi nào nằm nghỉ. Thật là một gương sáng về hạnh giải đều tuyệt đỉnh.
Ngày mùng 8 tháng 4 năm sau, tự nhiên cửa tháp mở ra, nghi dung của Sư xinh tươi như lúc sống. Từ đây về sau, môn nhân không đóng cửa tháp.
Đời Tống, vua truy phong Sư hiệu Đại Y Thiền Sư.
Trang trước | Mục lục | Trang sau |