Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng, lắng lòng mà nghe:
Luận rằng: Nhân quả ảnh hưởng lẫn nhau, cảm ứng tương sanh nhau. Đạo lý tự nhiên như vậy không sai lầm. Nhưng về hạnh nghiệp của chúng sanh, mỗi người một khác, không giống nhau, nên quả báo cũng không giống nhau. Hoặc tinh thô, hoặc sang hèn, hoặc thiện, hoặc ác, sai khác muôn vàn.
Đã có sai khác thì không rõ nguyên nhân sự sai khác ấy do đâu. Vì không rõ nên sanh ra nghi ngờ, lầm lạc. Hoặc nói người tinh tấn tu hành, giữ giới trong sạch, đáng lẽ được sống lâu, sao lại chết sớm? Người hàng thịt đáng lẽ chết sớm, sao lại sống lâu? Người thanh liêm đáng lẽ được giàu sang, sao lại thấy nghèo thiếu? Người tham lam trộm cướp, đáng lẽ nghèo thiếu khốn khổ, sao lại giàu có phong lưu?
Nghi ngờ sai lầm như vậy, ai cũng có nghĩ đến, không tránh khỏi. Do vì không rõ việc của mình đã làm từ bao kiếp trước, hột giống của mình đã gieo không thuần, nên ngày nay đem lại kết quả bất nhất như vậy.
Kinh Bát Nhã dạy rằng: “Nếu người nào đọc tụng Kinh này, bị kẻ khác khinh chê, là vì người ấy đời trước có tội nghiệp nặng, đáng đọa vào đường ác. Ngày nay nhờ người khinh chê nên tội nghiệp đời trước được tiêu diệt.
Bởi chúng sanh không hết lòng thâm tín lời Phật dạy, mới có tâm nghi ngờ. Chúng sanh bị vô minh mê hoặc, che lấp tâm tánh nên luống sanh tâm nghi ngờ, điên đảo như vậy.
Chúng sanh lại cũng không tin: Còn ở trong ba cõi là khổ, ra khỏi ba cõi là vui.
Những người thường say đắm thế gian đều cho đời là vui. Chúng ta thử hỏi: Nếu đời thật là vui, cớ sao trong tâm biết vui ấy lại có tâm biết khổ.
Ăn uống quá độ liền sanh tật bệnh: ban sởi, ho hen, khí tức, cổ trướng, đau đớn, khó chịu.
Nói đến y phục, càng thấy khổ nhiều. Lạnh được áo mỏng thì bạc ân người cho, lòng nghĩ nông nổi. Nắng được áo kép, lông chiên, khổ não càng nhiều. Nếu y phục là vui, cớ sao lại sanh khổ não.
Nếu cho gia đình quyến thuộc là vui, lẽ ra cùng nhau vui mãi, hoan lạc ca cười không dứt, cớ sao thoạt vậy vô thường, qua đời trong nháy mắt! Vừa có đó liền không đó. Sớm còn tối mất, kêu trời vang đất, can trường đoạn đoạn! Chúng sanh lại cũng không tự biết mình từ đâu đến đây? Chết rồi đi đâu. Người còn khóc kẻ mất, ôm lòng thương xót, tống táng đưa nhau, thẳng đến sơn cùng, chắp tay vĩnh biệt, nhất từ vạn kiếp, đau đớn biết bao? Những điều như vậy, sầu khổ vô lượng, chúng sanh mê chấp, cho đó là vui.
Trái lại, gây nhân vui xuất thế, chúng sanh đều cho việc ấy là khổ.
Thấy người trai giới tương dưa, nuôi thân qua buổi, không mặc lụa là, quen bận phấn tảo, ăn mặc nâu sồng. Chúng sanh đều cho các việc ấy là tự ép xác, khốn khổ, không biết làm như thế là gây nhân giải thoát, gieo giống an vui.
Hoặc thấy người bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, kinh hành, lễ bái, tụng tập chuyên cần, chúng sanh đều cho là khổ. Không biết làm như vậy là tu tâm xuất thế, để được an vui.
Thảng hoặc thấy có người tật bệnh mà chết, liền sanh tâm nghi rằng: Người ấy bắt buộc thân tâm này làm việc quá độ, trọn ngày không được tạm nghỉ. Sức lực con người không thể nào kham nổi. Nếu người tu hành không siêng năng khó nhọc thì đâu đến nỗi luống mất thân mạng với việc làm vô ích như vậy.
Hoặc có người chấp chặt lý thuyết của mình, tự cho mình là đúng, chớ không biết suy quả tầm nhân, luống sanh tâm mê chấp, luống làm việc sai lầm.
Nếu may gặp được Thiện tri thức thì có thể hết mê lầm. Nếu không may gặp phải bạn ác, thầy tà thì si mê càng lắm.
Nhân vì nghi ngờ mê hoặc nên đọa vào ba đường ác, ở trong ấy, ăn năn không kịp.
Hôm nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng nên hiểu rõ. Phàm nghi ngờ như vậy có vô lượng nhân duyên.
Vả chăng hột giống nghi ngờ lầm lạc ấy, tu hành thoát ra khỏi ba cõi luân hồi còn chưa hết, huống gì thân phàm phu này làm sao trừ ngay cho được. Đời này không lo đoạn trừ, đời sau càng thêm.
Đại chúng cùng nhau vừa mới tu tập, đường hãy còn dài, tự tu khổ hạnh, nên căn cứ vào lời Phật dạy, đúng pháp mà tu, không nên nghi ngờ, từ chối sự mệt nhọc.
Chư Phật Thánh nhân, sở dĩ ra được khỏi sanh tử, đến bờ giải thoát bên kia, là nhờ công tích thiện, nên được quả giải thoát vô ngại tự tại.
Chúng con ngày nay chưa lìa khỏi sanh tử, nghĩ cũng tự đáng thương, làm sao còn ham muốn ở trong đời ác trược này nữa. Nay đây may được tứ đại chưa suy đồi, ngũ phước còn thạnh, tới lui thong thả, động chuyển tự do, mà không nỗ lực tu hành, còn đợi gì nữa? Đời trước đã không thấy đạo, đời này cũng luống qua, không chứng ngộ gì, thì đời sau làm sao tế độ chúng sanh?
Xem lại tự tâm, thật cũng đau lòng! Ngày nay đại chúng chỉ nên khuyên nhau nỗ lực siêng tu, không nên nói rằng: Phải có tin tức chứng ngộ gì mới chịu tu tập. Vì Phật đạo lâu dài, không thể một mai mà làm xong được. Nếu cứ chờ tin tức, như vậy một mai rồi lại một mai, biết bao giờ chứng quả.
Nay hoặc có người nhân tụng kinh, ngồi thiền, siêng tu khổ hạnh, hơi có chút tật bệnh liền nói: Vì tụng tập siêng năng, khổ hạnh quá nhiều nên sanh bệnh hoạn. Người nói như thế là vì họ không tự biết. Nếu họ không làm như vậy thì cũng đã chết sớm mất rồi. Nhờ tu hành có phước đức mới mong sống đến hôm nay.
Vả lại, bốn đại tăng giảm, tật bệnh là thường, cho đến già chết còn không thể tránh. Sanh ở thế gian này, chung cuộc rồi ai cũng tận số. Nếu muốn được đạo, phải y lời Phật dạy mà tu. Trái lời Phật mà đắc đạo thì không có lẽ ấy.
Chúng sanh vì trái lời Phật nên xoay chuyển trong ba đường, chịu đủ thống khổ. Nếu đúng như lời Phật dạy mà tu hành không thôi nghỉ, siêng năng tinh tấn, như cứu lửa cháy đầu, thì đâu đến nỗi một đời luống qua, không có lợi ích gì. Mọi người cùng nhau nhất tâm tha thiết, đầu thành đảnh lễ như núi Thái sơn sụp đổ, nguyện vì những người sau đây mà đảnh lễ thế cho họ.
Kể từ khi có tâm thức cho đến ngày nay, cha mẹ nhiều đời, bà con nhiều kiếp, Hòa thượng, A-xà-lê, đồng đàn tôn chứng, thượng trung hạ tọa, tín thí đàn việt, Thiện ác tri thức, chư Thiên, chư Tiên, hộ thế Tứ Thiên Vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương Long Vương, Long Thần bát bộ, khắp đến mười phương, vô cùng vô tận hết thảy chúng sanh mà quy y Đấng Thế Gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Duy Vệ Phật
Nam mô Thi Khí Phật
Nam mô Tùy Diệp Phật
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật
Nam mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật
Nam mô Ca Diếp Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ-tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo.
Nguyện xin Tam Bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ; dùng sức thần thông che chở, cứu vớt chúng con, khiến chúng con từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, Bốn vô lượng tâm, Sáu ba-la-mật thường được hiện tiền; Bốn vô ngại trí, Sáu sức thần thông được như ý tự tại; tu đạo Bồ-tát, vào trí huệ Phật, hóa độ mười phương, thành bậc Chánh giác.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng, lại khéo nhiếp tâm, suy nghĩ cho kỹ:
Đã được cùng nhau sanh lòng tin rồi thì nên giữ ý thanh tịnh, lấy điều ấy làm nẻo xu hướng, đối với các pháp trong thân ngoài thân, chớ cho trở ngại.
Nếu không biết rõ việc làm, hay tự mình không thể làm thì lúc thấy người làm việc phước thiện, chỉ nên khuyến khích, chắp tay tán thán công đức của người, không nên sanh tâm trở ngại, khiến người tu hành phải thối chí.
Nếu người không thối chí, họ cứ tinh tấn như thường, việc người không giảm, chỉ mình bị tổn phước, luống gây thị phi, đối với bản thân, nào có ích gì? Nếu đối với việc lành mình không trở ngại thì có thể gọi là hợp đạo, hữu lực đại nhân. Nếu đời này mình hay trở ngại việc phước thiện của người thì đời sau làm sao thông đạt được Phật đạo?
Cứ lý mà suy, tổn hại ấy rất nặng. Trở ngại thiện căn của người, tội ấy rất lớn.
Như Kinh Hộ Khẩu dạy rằng: Có một ngạ quỷ thân hình xấu ác, thấy phải rùng mình, không ai không sợ. Thân xuất lửa dữ như đám cháy lớn. Trong miệng có sâu dòi rúc ra mãi mãi, máu mủ tanh hôi, đầy cả thân hình, mùi thối bay ra, không ai có thể đến gần. Miệng khạc ra lửa, thân phần lửa đốt, cất tiếng kêu khóc, tuôn chạy cùng khắp.
Bấy giờ có ngài Mãn Túc La-hán hỏi Ngạ quỷ rằng: Xưa kia ngươi mắc phải tội gì mà nay chịu khổ như thế?
Ngạ quỷ đáp rằng: Tôi ngày xưa đã từng làm Sa-môn, tham đắm sự nuôi sống, xan tham không bỏ, không giữ oai nghi, nói lời thô ác.
Nếu thấy người giữ giới tinh tấn lại liền mắng nhiếc, liếc mắt háy nguýt, ỷ mình giàu mạnh, tưởng sống lâu không chết, tạo ra vô lượng tội ác căn bản. Ngày nay nhớ lại, hối hận cũng không ích gì. Thà cầm dao bén tự cắt lưỡi mình, kiếp này sang kiếp khác, cam tâm chịu khổ, không nên nói một lời phỉ báng việc làm của người.
Nguyện xin ngài trở về dương thế, đem hình trạng xấu ác của tôi răn dạy các thầy Tỳ-kheo và các Phật tử, khéo giữ gìn lỗ miệng, chớ buông lời nói ác. Dù thấy người giữ giới hay không giữ giới, cũng nên tuyên dương công đức của người.
Tôi làm quỷ đói đã vài ngàn kiếp, trọn ngày thâu đêm chịu đủ điều đau khổ. Quả báo này hết rồi lại vào địa ngục.
Bấy giờ Ngạ quỷ nói lời ấy rồi, cất tiếng kêu khóc, tự gieo mình xuống đất như núi Thái Sơn sụp đổ.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng, nghe lời Kinh dạy như vậy rất đáng sợ hãi.
Chỉ vì lỗi của miệng mà mang tội nhiều kiếp, luống nữa là còn bao nhiêu điều ác khác. Xả thân này thọ thân khác mà chịu khổ đều do nghiệp ác của mình đã làm. Nếu không gây nhân thì tại làm sao lại có chịu quả. Đã gây nhân quyết định phải chịu trả quả. Tội phước không xa, mình làm mình chịu, như bóng theo hình, không thể rời nhau. Do vô minh mà sanh thì cũng do vô minh mà diệt. Đời này đời sau, bao giờ cũng vậy, chưa từng thấy người tu hành buông lung, lười biếng mà được giải thoát. Trái lại, người hay tinh tấn, giữ gìn tu hành, được phước đức vô lượng.
Ngày nay đại chúng đều nên biết hổ thẹn, rửa sạch thân tâm, sám hối tội cũ. Tội cũ hết rồi, không gây thêm tội mới nữa thì được các Đức Phật khen ngợi. Cùng nhau từ nay trở đi, nếu thấy người làm thiện, chớ nói thành hay không thành, lâu hay không lâu. Dù cho họ chỉ làm lành trong một niệm, một thời, một khắc, một ngày, một tháng, nửa năm, hay một năm, cũng đã hơn người không làm.
Cho nên Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Hoặc có người tâm tán loạn vào trong tháp miếu, xưng một câu Nam mô Phật, người ấy cũng đã thành Phật đạo.” Huống nữa có người phát tâm rộng lớn, siêng làm phước thiện. Nếu chúng ta không tùy hỷ thì Thánh nhân rất thương xót.
Chúng con tự nghĩ mình từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, lẽ ra cũng đã có vô lượng ác tâm, trở ngại việc lành tốt đẹp của người. Vì sao mà biết? Nếu không như vậy, cớ sao ngày nay việc lành của chúng con phần nhiều hay bị trở ngại. Thiền định không hay tập, tri thức không hay tu. Vừa mới lễ bái liền nói khổ lắm. Vừa cầm đến Kinh liền sanh nhàm chán. Trọn ngày chỉ ưa khó nhọc làm các nghiệp ác, khiến cho thân này không được giải thoát, như tầm kéo kén, tự ràng tự buộc, như phù du vào lửa, tự thiêu tự đốt.
Những chướng ngại ấy vô lượng vô biên, chướng Bồ-đề tâm, chướng Bồ-đề nguyện, chướng Bồ-đề hạnh, chướng ngại như vậy đều do ác tâm phỉ báng việc thiện của người. Nay mới giác ngộ, rất là hổ thẹn, cúi đầu xin sám hối tội ấy.
Nguyện xin chư Phật, chư Đại Bồ-tát, đem lòng từ bi, đồng gia thần lực, khiến đệ tử những điều sám đều được trừ diệt, những điều hối đều được thanh tịnh. Vô lượng chướng ngại, vô lượng tội nghiệp đều nhờ sám hối này mà được sạch hết.
Mọi người cùng nhau nhất tâm thống thiết, năm vóc sát đất, quy y Đấng Thế Gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Thiện Đức Phật
Nam mô Vô Ưu Đức Phật
Nam mô Chiên Đàn Đức Phật
Nam mô Bảo Thí Phật
Nam mô Vô Lượng Minh Phật
Nam mô Hoa Đức Phật
Nam mô Tưởng Đức Phật.
Nam mô Tam Thừa Hạnh Phật
Nam mô Quảng Chúng Đức Phật
Nam mô Minh Đức Phật
Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ-tát
Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ-tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ-tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát
Lại xin quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo.
Đệ tử chúng con từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, chưa thể đắc đạo, thọ lấy báo thân này vì tham bốn món cúng dường, chưa từng xả bỏ. Tham sân tật đố, ba độc hừng hẫy, sanh ra các ác nghiệp. Thấy người bố thí, trì giới, tự mình không thể làm, không hay tùy hỷ. Thấy người nhẫn nhục, tinh tấn, tự mình không thể làm, không hay tùy hỷ. Thấy người tọa thiền, tu nghiệp trí huệ, tự mình không thể làm, không hay tùy hỷ. Những tội như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thấy người làm lành, tu các công đức, không hay tùy hỷ, đi đứng nằm ngồi, trong bốn oai nghi ấy không biết hổ thẹn, không nghĩ vô thường, không biết xả thân này phải vào địa ngục. Đối với sắc thân người khác, khởi ra điều ác. Chướng ngại người xây dựng và cúng dường Tam Bảo, chướng ngại người tu tập hết thảy công đức. Tội chướng như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, không tin Tam Bảo là chỗ quy y, chướng ngại người xuất gia, chướng ngại người trì giới, chướng ngại người bố thí, chướng ngại người nhẫn nhục, chướng ngại người tinh tấn, chướng ngại người tọa thiền, chướng ngại người tụng Kinh, chướng ngại người làm chay, chướng ngại người tạo tượng, chướng ngại người cúng dường, chướng ngại người khổ hạnh, chướng ngại người hành đạo, cho đến mảy may việc thiện của người, chúng con cũng chướng ngại. Không tin xuất gia là pháp viễn ly, không tin nhẫn nhục là hạnh an lạc, không biết bình đẳng là đạo Bồ-đề, không biết xa lìa vọng tưởng là tâm xuất thế. Vì những tội ấy cho nên ngày nay sanh ra nơi nào cũng gặp nhiều chướng ngại. Tội chướng như vậy vô lượng vô biên, chỉ có chư Phật, chư Đại Bồ-tát mới thấy hết biết hết.
Như chỗ chư Phật và Bồ-tát đã thấy đã biết, tội lượng nhiều ít, ngày nay hổ thẹn tỏ bày sám hối, tất cả tội nhân, khổ quả, nguyện xin trừ diệt. Từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, tu đạo Bồ-tát không biết nhàm chán. Tài thí, pháp thí không cùng không tận, trí huệ phương tiện, làm gì cũng được. Hết thảy người thấy, người nghe đều được giải thoát.
Chúng con cùng nhau chí tâm, đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát đất, nguyện xin mười phương hết thảy chư Phật, chư Đại Bồ-tát, hết thảy Hiền Thánh, dũ lòng từ bi, đồng gia thần lực, làm cho hết thảy chúng sanh trong sáu đường, nhờ sức sám hối này mà đoạn trừ được hết thảy tội khổ, xa lìa được hết thảy duyên điên đảo, không sanh ác tâm, xả nghiệp bốn thú, phát sanh trí huệ, tu đạo Bồ-đề không thôi không nghỉ. Hạnh nguyện chóng viên mãn, mau lên ngôi Thập địa, vào tâm Kim cang, thành Đẳng Chánh giác.