Vì núi cao đường xa, thợ lại đông, trên núi không đủ nước cung ứng, thợ thuyền không thể làm việc ở trên núi được. Cho nên Thái phú nhân đã lường trước được, bà cho chuẩn bị vật liệu, gạch ngói, chạm trổ, khắc biển, mọi thứ sẵn sàng, rồi chở đến Phổ Đà để ở dưới núi, sau đó cho thợ lên trên núi san đất đắp nền, rồi đưa khung nhà lên lắp ghép là xong. Nếu vật liệu chuyển vận từ cửa núi Phổ Đà, thì sẽ tốn nhiều công, đồng thời đoạn đường núi này cũng khó đi, cho nên bà quyết định đưa vật liệu lên đỉnh núi từ chỗ bờ biển ở núi sau. Có lẽ do Bồ tát phù hộ, đúng vào cái hôm chuyển vật liệu lên núi, lại có mấy trăm thuyền đánh cá ở Phúc Kiến đỗ ở chân núi. Nhân tiện nhờ mấy trăm ngư dân giúp đỡ một tay, đứng dàn thành hàng một từ chân núi lên đỉnh núi, rồi cứ thế chuyền nhau đưa lên. Bởi vậy đến nay, người thuyền chài ở Phúc Kiến lên Phật Đỉnh Sơn ăn cơm sẽ được miễn trả tiền, coi như để trả thù lao ngày xưa. Lại nói truyện trong khi đào móng san nền, bỗng nhiên đào được một ngôi tượng gỗ, hình một cụ già, dáng mặt chú Sa Di y hệt như thầy Sư phụ của chú, do đó mọi người mới biết thầy tiểu Sa Di chính là cụ già thừa nguyện ứng hiện trở lại xây dựng tùng lâm, hoàn thành túc nguyện của cụ.
Qua mấy năm trời, chịu đựng bao khổ cực, cuối cùng có chí thì nên, đạt được mục đích. Lần đầu tiên tôi đến nhà Tổ thấy trên bàn thờ hai bức tượng gỗ, mặt giống nhau như đúc, lúc đầu tôi tưởng đó là hai anh em cùng xuất gia ở một nơi, sau đọc lịch sử núi Phổ Đà mới biết một bức tượng đào được ở dưới đất, còn một bức chính là vị Sư tổ Sa Di người sáng lập ra chùa này.
Bởi vì Sư tổ xuất thân Sa Di, cho nên ở núi Phật Đỉnh cho đến nay, Sa Di có thể đến trọ lại. Theo quy định của nhà Phật, chưa được thụ tam đàn đại giới, không có giới điệp thì không được trọ ở lại tùng lâm. Thường Sa Di đến Chùa Trước Chùa Sau không được trọ lại, nên đều đến Phật Đỉnh Sơn. Nhưng Sa Di vẫn là Sa Di, chưa nghiên cứu kinh điển, và cũng chưa hiểu Phật pháp lắm, có nhiều nơi có quy định không đúng Phật lý. Thí dụ hàng ngày sớm tối lên chùa làm xong khóa tụng phải lễ bốn mươi tám lễ gọi là lễ nguyện. Trong số danh hiệu xưng niệm, lễ cả Ngọc hoàng Thiên tôn Bồ tát. Do đó cho đến ngày nay, có nơi vẫn khấn lễ như vậy, giữ theo lối cũ tổ truyền, không biết uốn nắn lại. Đường đường là bậc tiểu Tỳ khưu mà lại lễ Ngọc hoàng Thượng đế (thiên cung) thật là buồn cười! Hồi tôi ở Phật Đỉnh Sơn, sớm chiều lễ nguyện, nhiều người vẫn lễ Thiên cung, tôi chỉ lễ Phật hiệu. Tôi rất mong vị Đại đức nào trụ trì Phật Đỉnh Sơn sau này, nên mau mau sửa lại để giữ nếp trang nghiêm, chớ để tiếng cười chê của thức giả.