Nói đến cái chuông lớn cổ quái hiếm thấy này, bản thân tôi, trước khi đến núi Phổ Đà, cũng thường nghe người ta kể rằng: “Núi Phổ Đà có một cái chuông lớn, nặng hơn bảy ngàn cân, được treo bằng một sợi dây thừng bện bằng rơm ở trên gác chuông”. Hồi đó tôi cũng thuộc loại mắt ít thấy, tai ít nghe, nghe nói như vậy thì cho là chuyện lừa bịp, bịa đặt vô căn cứ, thần thoại nói xằng. Đến khi tôi lên núi Phổ Đà dâng hương, có người đề nghị đi xem chiếc chuông treo bằng dây thừng bện bằng rơm ở Chùa Trước, trong đầu óc vốn vẫn hồ nghi truyện đó trong mấy năm trời, tôi bèn cùng đi với mọi người xem sao.
Gác chuông nằm ở góc đông nam điện Thần Vận, bậc lên gác chuông rất hẹp, chỉ vừa một người lên xuống, cho nên vào dịp hội chùa, người đến xem chuông chật ních, chen chút nhau từ sáng đến tối. Trên gác chuông có một Sư thầy chân đi tập tễnh coi việc đèn nhang, hương nến, vừa làm nhiệm vụ tiếp khách, vừa thắp hương đốt nến cho khách lên thăm, đôi khi giải thích chuyện lạ về cái chuông ấy cho khách tham quan.
Tôi còn nhớ như in, thầy khoa chân múa tay kể cho chúng tôi nghe: “Chiếc chuông lớn này nặng bảy ngàn cân, dúc vào năm Gia Định thứ 13 đời Thanh, các vị thấy đấy, chuông lớn như vậy mà chỉ treo bằng một sợi dây thừng bện bàng rơm, đến nay đã gần ba trăm năm rồi, các vị thấy có lạ không?” Lúc đó có một ngài sĩ quan cũng nghi ngờ như tôi, ấy tay rút một đoạn rơm trong chiếc dây thừng ra xem, quả nhiên đúng là rơm thật. Lúc đó, sự thật đã thắng mọi lời hùng biện, chúng tôi không còn phải nghi ngờ gì nữa. Cái độ lớn của thân chuông to hơn nhiều so với chiếc chuông lớn của chùa Hàn Sơn trong câu thơ “Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự. Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” (Thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn). của Trương Kế đời Đường. Tiếng chuông âm vang, tuy chưa đạt đến mức “trên thấu tầng trời, dưới thông địa ngục” nhưng so với tiếng chuông ở các chùa khác dăm bảy trăm cân đến ngàn cân thì phải nói hơn hẳn.
Người đến xem như chúng tôi, ai cũng muốn đến cầm dùi thỉnh ba tiếng (chiếc dùi gỗ được buộc bằng dây gai bên cạnh chuông), mỗi lần thỉnh chuông như vậy, du khách lại cho thầy hương đăng vài xu gọi là tiền đèn nhang. Cái gác chuông cổ kính, cũ kỹ bao đời nay, phải chịu đựng một cái chuông lớn như vậy, trông nó như đang run rẩy ngã nghiêng như sắp đổ, nhưng biết bao các tín nam thiện nữ đến dâng hương lễ bái, các bậc tao nhân mặc khách đến du sơn ngoạn cảnh, các sĩ quan quân đội từng xông pha nơi chiến địa, các cháu học sinh đến tham quan ngắm cảnh, còn có cả các nhà học giả nghiên cứu triết học, khoa học… đến nơi đây để tận mắt nhìn thấy chiếc chuông treo trên sợi dây thừng bện bằng rơm rạ mà mọi người đều ca tụng, họ nhìn thấy sự thực rõ ràng, trong óc càng nảy sinh bao điều nghi hoặc, chưa tìm ra được đáp án cho điều kỳ lạ này. Có lẽ đây là một vấn đề khoa học ngày nay cũng chưa thể giải đáp được chăng!