Những Chuyện Nhân Quả

13. Lão già



Trăm đời làm cha Phật không tiếp tục,

Bởi gây chướng ngại Bồ Tát đạo.

Lúc đức Như Lai ở thành Xá-vệ, có một lần đức Như Lai đang trên đường đến vườn Kỳ-đà bỗng gặp một ông già Bà-la-môn. Ông già này vừa thấy đức Như Lai, không cầm được lòng liền gọi lớn một cách mừng rỡ:

– Con yêu của cha! Con yêu của cha!

Nói xong, ông cắm đầu chạy nhanh đến, định ôm chầm lấy đức Như Lai. Ngay tức khắc, các thầy tỳkheo đi phía sau vội bước tới cản lại, không cho ông làm như vậy.

Đức Như Lai từ bi bảo các vị tỳ-kheo:

– Các con không nên ngăn cản ông ấy, bằng không ông ta sẽ lập tức thổ huyết chết.

Các vị tỳ-kheo liền buông ông già ra, ông nhào đến ôm chầm lấy đức Như Lai, giống như người cha lâu ngày thương nhớ con, cuối cùng đã được gặp, miệng lắp bắp gọi:

– Con yêu của cha! Con yêu của cha!

Đức Như Lai vẫn đứng yên như vậy rất lâu. Ông già khi ấy mới nhẹ nhàng buông tay ra, tâm kích động dần dần lắng xuống, ông bình tĩnh trở lại.

Lúc đó, đức Như Lai liền thuyết giảng với ông giáo pháp giải thoát thích hợp. Ngay tức khắc, ông già này được chứng đắc quả Dự lưu.

Sau khi chứng quả, ông quỳ xuống phát nguyện với đức Như Lai:

– Con mong muốn được xuất gia trong giáo pháp của đức Như Lai, xin Ngài từ bi chấp nhận.

Đức Như Lai hoan hỷ nhận lời, lại dùng cách gọi “thiện lai tỳ-kheo” để truyền giới cụ túc cho ông.

Sau khi xuất gia sống đời tỉnh thức, ông luôn nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu tập đúng theo Chánh pháp.

Sau đó, đức Như Lai tùy theo căn cơ của ông mà thuyết giảng những pháp giải thoát thích hợp. Ông nỗ lực tu tập tinh tấn, không bao lâu dứt trừ được hết phiền não trong Ba cõi, chứng đắc quả vị A-lahán.

Lúc đó, chúng tỳ-kheo cung kính đảnh lễ thưa hỏi đức Như Lai:

– Kính bạch đức Thế Tôn! Trong ngàn vạn người nam từng quỳ mọp đảnh lễ Ngài, chẳng có ai cư xử với Phật giống như ông già này. Hành vi kỳ lạ của ông già này, rốt cuộc là do nhân duyên như thế nào? Ngưỡng mong đức Như Lai từ bi giảng nói cho chúng con được rõ.

Đức Như Lai từ bi nhìn khắp đại chúng một lượt rồi chậm rãi nói:

– Này các tỳ-kheo! Ông lão này đã từng làm cha của ta trong suốt 500 kiếp trước. Do tập khí đời trước còn sót lại nên mới có hành vi như vậy.

Chúng tỳ-kheo lại bạch hỏi:

– Kính bạch đức Thế Tôn! Ông lão này đã làm cha Ngài suốt 500 kiếp, vậy sao đời này lại không tiếp tục như vậy?

Đức Như Lai đáp:

– Khi ta tu hành đạo Bồ Tát, rất ưa thích sự bố thí rộng khắp, tâm xuất ly mãnh liệt, nhưng ông lão này trong suốt 500 đời đó thường không ủng hộ ta, cố ý tạo ra rất nhiều chướng ngại, nghịch duyên. Vì thế ta đã phát nguyện là sau này ông ấy sẽ không làm cha ta nữa. Ngoài ra, đức vua Tịnh-phạn, cha của ta trong đời này, trước đây đã từng phát nguyện khi ta thành Phật sẽ được làm cha ta. Do hai nhân duyên đó nên đời này ông ta không còn được làm cha ta nữa.

Các vị tỳ-kheo lại thưa hỏi:

– Kính bạch đức Thế Tôn! Vậy không biết vào đời trước vua Tịnh-phạn đã có nhân duyên phát nguyện như thế nào?

Đức Phật dạy:

– Cách đây 91 đại kiếp về trước, vào thời đức Phật Câu-lưu-tôn còn tại thế, có một người lái buôn lớn cúng dường đức Phật Câu-lưu-tôn, thấy sắc thân vàng ròng đủ 32 tướng tốt, vô cùng thù thắng trang nghiêm của đức Như Lai, ông ta liền phát nguyện:

“Do công đức cúng dường đức Phật hôm nay, nguyện cho sau này tôi sẽ có được người con giống như Đức Phật.”

Người lái buôn thuở đó nay chính là vua Tịnhphạn. Do nguyện lực ngày trước nên đời này trở thành cha của ta.

Chúng tỳ-kheo lại thưa hỏi:

– Kính bạch đức Thế Tôn! Vậy do nhân duyên gì mà ông lão Bà-la-môn đó phải chịu quả báo đời này bần cùng, mãi đến cuối đời mới gặp được đức Như Lai và xuất gia sống đời tỉnh thức?

Đức Phật dạy:

– Này các tỳ-kheo! Do nhân duyên nhiều đời gây chướng ngại cho sự bố thí rộng khắp và sinh tâm xuất ly của Đại Bồ Tát, nhất là ngăn cản sự xuất gia sống đời tỉnh thức, như vậy tạo tác không ít duyên xấu. Vì thế nên đời này ông ấy phải chịu quả báo nghèo khổ, mãi đến những năm cuối đời mới được gặp Phật, xuất gia sống đời tỉnh thức.

Các vị tỳ-kheo lại hỏi:

– Kính bạch đức Thế Tôn! Vậy do nhân duyên gì mà ông ấy khởi tâm hoan hỉ đối với Như Lai, lại xuất gia sống đời tỉnh thức trong giáo pháp giải thoát, chứng đắc quả vị A-la-hán?

Phật dạy:

– Đây đều là do nguyện lực đời trước của ông ấy, đến đời này đã thành thục. Trong Hiền kiếp này, lúc đức Phật Ca-diếp còn tại thế, tuổi thọ con người đến 20.000 tuổi, có một vị tỳ-kheo khi lâm chung phát nguyện rằng:

– Do công đức xuất gia sống đời tỉnh thức, trọn đời giữ giới thanh tịnh, tu tập giáo pháp giải thoát của Phật-đà, nguyện cho sau này tôi sẽ được sinh trong giáo Phật của đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, khởi tâm hoan hỉ, xuất gia sống đời tỉnh thức, dứt trừ hết phiền não trong Ba cõi, chứng đắc quả vị A-la-hán.

Do nguyện lực ấy, ngày nay ông ấy được xuất gia sống đời tỉnh thức trong giáo pháp giải thoát, trở thành bậc A-la-hán.

Đại chúng tỳ-kheo nghe Phật thuyết dạy nhân duyên đời trước, thảy đều sinh tâm hoan hỷ, tin sâu giáo lý nhân quả, cung kính đảnh lễ lui ra.

CHÚ THÍCH:

1. Lục độ (六度), tức Lục Ba-la-mật (六波羅蜜), nói đủ là Ba-la-mậtđa, phiên âm từ Phạn ngữ pāramitā. Hán văn dịch nghĩa từ này là “độ” (度), có nghĩa là vượt qua, đưa qua; cũng được dịch là “đáo bỉ ngạn”, nghĩa là “sang đến bờ bên kia”. Vì thế, sáu pháp ba-la-mật có nghĩa là sáu pháp môn giúp “đưa sang bờ 

2. Long Hoa tam hội (龍華三會): Ba hội thuyết pháp của đức Phật Di-lặc dưới cội Long Hoa. Sau khi đức Thích-ca Mâu-ni ThếTôn thị hiện nhập Niết-bàn 56 ức 7.000 vạn năm (có thuyết nói 57 ức 6 ngàn vạn năm, 56 ức vạn năm), Bồ-tát Di-lặc từ cõi trời Đâu-suất thị hiện hạ sinh xuống nhân gian, xuất gia học đạo, ngồi dưới cội Long Hoa, trong vườn Hoa Lâm, thành 

3. Tam môn (三門): Ba pháp môn mà Bồ Tát tu hành để hướng về Niết-bàn: 1. Trí tuệ môn: Biết tiến, thoái là trí; biết Không, Vô ngã là tuệ; nương vào trí nên không tìm cầu sự an lạc cho riêng mình, y vào tuệ nên xa lìa tâm tham lam. 2. Từ bi môn: Cứu khổ là từ, ban vui là bi, nương vào từ nên cứu khổ hết thảy chúng sinh, y vào bi nên làm cho chúng sinh xa lìa tâm bất an. 3. Phương tiện môn: Ngay thẳng là phương, ngoài mình là tiện, vì nương vào sự ngay thẳng cho nên tự mình thương xót hết thảy chúng sinh, vì y vào ngoài mình nên xa lìa tâm ưa thích sự cúng dường cung kính của người khác đối với mình. – Trên đây Trí tuệ môn thuộc về tự lợi, Từ bi môn thuộc về lợi tha, Phương tiện môn thuộc tự lợi lẫn lợi tha. Tuy chia làm ba môn, nhưng thật ra không khác biệt. Trí tức bi, bi tức trí, bi trí song hành để nhiếp hóa chúng sinh thành Phương tiện môn. 

4. Kiến giải Tát-ca-da (Tát-ca-da kiến -薩迦耶見), phiên âm từ tiếng Phạn là satkāya-dṛṣṭi, là kiến giải sai lầm cho rằng thật có ngã và ngã sở trong thân do 5 uẩn hòa hợp. Đây là một trong 5 kiến, một trong 10 tùy miên. 

5. Quả Dự lưu (Dự lưu quả -預流果) tiếng Phạn là srotāpanna, là quả vị đầu tiên của Thanh văn thừa, bắt đầu dự vào hàng Thánh vô lậu, là trong bốn quả Thanh văn. Hàng Thanh văn sau khi đoạn kiến hoặc trong ba cõi mới bắt đầu dự vào dòng Thánh và ngược dòng thác sinh tử, nên cũng được gọi là quả Nghịch lưu. Vì là quả Thánh đầu tiên của Thanh văn thừa nên còn gọi là Sơ quả. Quá trình tu tập hướng đến quả vị này gọi là Dự lưu hướng (預流向), Phạn ngữ là srotāpatti-pratipannaka. Dự lưu hướng gọi là Kiến đạo vị, Dự lưu quả gọi là tu đạo vị. 

6. Vào thời đức Phật, những vị tỳ-kheo có đủ nhân duyên được trực tiếp xuất gia với Phật, chỉ cần nghe Phật gọi “Thiện lai tỳ-kheo” thì râu tóc tự nhiên rụng sạch, trên thân hình hiện ra áo cà-sa và bình bát, ngay lúc đó liền được trọn đủ giới thể, không khác gì vị tỳ-kheo được truyền giới nơi giới đàn. 

7. Thiền duyệt (禪悅): niềm vui thiền định. Người nhập thiền định, tâm được an vui tự tại không thể dùng lời để diễn tả. 

8. Nhiễu quanh về bên phải (hữu nhiễu): là phong tục Ấn Độ ngày xưa để bày tỏ lòng tôn kính. Vì vậy, mỗi khi viếng thăm các tháp thờ tượng Phật, người hành hương cũng thường đi quanh tháp nhiều vòng theo chiều về bên phải. 

9. Hiền kiếp (賢劫) tiếng Phạn là Bhadra-kalpa): tên kiếp trụ hiện nay chúng ta đang sống. Trong kiếp này có 1.000 vị Phật ra đời nên gọi là Hiền kiếp. Trong Hiền kiếp có 1.000 Đức Phật lần lượt thị hiện giáo hóa chúng sinh, trong đó có các đức Phật Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm Mâu-ni, Ca-diếp, Thích-ca Mâu-ni, Di-lặc… cho đến đức Phật cuối cùng là Lâu-chí. 

10. Địa ngục Bát nhiệt (Bát nhiệt địa ngục -八熱地獄): là tám địa ngục mà tội nhân ở đó chịu khổ vì khí nóng. Tám địa ngục đó là: 1. Tưởng địa ngục (想地獄), Phạn ngữ là Saṃjīva, cũng 

11. Bích-chi Phật (辟支佛, phiên âm từ Phạn ngữ là Pratyeka-buddha, đọc trọn âm là Bích-chi-ca Phật-đà, theo Cựu dịch là Duyên 

12. Hội đại thí: vị thí chủ phát tâm bố thí không phân biệt trong suốt một thời gian, bất cứ ai cũng có thể đến đó để nhận sự bố thí các phẩm vật, gọi là hội đại thí. 

13. Phạm hạnh: hạnh thanh tịnh dứt hẳn sự dâm dục. 

14. Thọ ký: lời báo trước của Phật đối với một vị đệ tử về sự chứng quả giác ngộ của vị ấy trong tương lai. Đức Phật thường chỉ thọ ký với những trường hợp đầy đủ nhân duyên. 

15. Độc giác, hay Độc giác Phật, cũng tức là Duyên giác Phật, Bíchchi Phật, đã có chú giải ở trước. Vì các vị này ra đời không gặp Phật, tự mình tu hành giác ngộ nên gọi là Độc giác. 

16. Phi nhân: hạng chúng sinh không phải người, không phải chư thiên; tuy có thần thông nhưng phước lực kém hơn chư thiên. 

17. Ba ngôi báu: tức Tam bảo, gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. 

18. Đà bối (佗背) có nghĩa là người gù lưng, lưng lúc nào cũng cong xuống như đang cõng vật nặng. 

19. Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề (摩訶波闍波提), tên Phạn ngữ là Mahāprajāpati, dịch nghĩa là Đại Ái Đạo (大愛道), là di mẫu của thái tử Tất-đạt-đa, người đã thay thế hoàng hậu Ma-da nuôi nấng thái tử cho đến khi khôn lớn, vì hoàng hậu từ trần chỉ 7 ngày sau khi thái tử ra đời. Bà là người đầu tiên đề xuất và khẩn thỉnh đức Thế Tôn cho phép thành lập ni chúng. Mặc dù ban đầu đức Thế Tôn không chuẩn thuận, nhưng sau nhờ tâm chí thành của bà và nhiều vị phu nhân khác trong hoàng tộc, cùng với sự khẩn cầu của ngài A-nan nên Phật mới đồng ý cho thành lập ni chúng, giao cho bà đứng đầu. 

20. Quả Bất hồn (Bất hồn quả -不還果), Phạn ngữ là Anāgāmin, dịch âm là A-na-hàm (阿那含), tức thánh quả thứ ba trong bốn thánh quả của Thanh văn thừa, chỉ dưới quả A-la-hán. 

21. Nghi quỹ (儀軌), Phạn ngữ là kalpa, chỉ chung các nghi thức, phép tắc được quy định khi thực hiện một việc gì. Ở đây là các phép tắc, nghi thức của việc thọ giới. 

22. Gia hạnh đạo (加行道) , Phạn ngữ là prayoga-mārga, Còn gọi là Phương tiện đạo (方便道). Giai đoạn tu gia hạnh để đoạn trừ phiền não, pháp tu gia hạnh này giống với gia hạnh vị trong ngũ vị của Duy thức, là Tứ thiện căn (Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế đệ nhất pháp) trước giai đoạn Kiến đạo. 

23.Vô học (無學tiếng Phạn aśaikṣa): chỉ bậc hành giả đã đạt đến chỗ cùng cực của chân lí, tức thánh quả A-la-hán. Người tuy đã thấy biết chân lí nhưng chưa đoạn trừ được mê lầm, còn có điều phải tu học thì gọi là Hữu học. Trái lại, Vô học chỉ người đã đạt được chân lí cùng cực, không còn mê lầm nào để đoạn, cũng không còn điều gì để tu học. 

24. Chấp sự (執事 – tiếng Phạn vaiyāvṛtyakara): chỉ người có phận sự trông nom công việc trong tự viện, thường do các vị tăng thuận theo nguyện vọng của đại chúng, nghiêm trì giới luật, có tâm công bằng chính trực đảm nhiệm.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.