Nguồn Thiền Giảng Giải

Cương Yếu Thiền Tông (giảng)



Về phần lịch sử của ngài Khuê Phong, có những điểm đáng lưu ý:

Ðiểm thứ nhất: “Khi tịch, ngài ngồi kiết già yên lặng, mà dáng mạo lại nghiêm trang, vui vẻ hơn ngày thường”. Người đời khi gần tắt thở thì tay co, chân giật, miệng méo, thở hổn hển… còn ngài thì ngồi kiết già yên lặng, vui tươi, điều này cho chúng ta thấy: Ngài tu ngộ đạo làm chủ được thân tâm, nên khi chết tự tại nhẹ nhàng, không bị khổ đau bức bách như người đời.

Ðiểm thứ hai đáng lưu ý hơn nữa là: Chủ trương của ngài Khuê Phong là Thiền Giáo song tu. Thiền là Thiền tông, Giáo là Kinh điển. Tuy dạy tu thiền mà ngài vẫn giảng kinh luận. Vì Thiền và Giáo không hai, nên ngài dùng Thiền và Giáo để giáo hóa môn đồ. Và Thiền viện Chơn Không, chúng tôi cũng chủ trương tương tợ là Thiền Giáo song hành. Bởi muốn sống được với Thiền là phải nương nhờ kinh điển, hiểu được thâm ý của Phật Tổ dạy, rồi mới áp dụng tu hành.

Ngài Khuê Phong sống trong thời phế giáo của Ðường Võ Tôn ở Trung Hoa. Bây giờ Tăng Ni bị hoàn tục, kinh sách bị đốt, chùa bị lấy làm trụ sở chính quyền. Bộ Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập của ngài bị đốt mất, chỉ còn sót lại có bài tựa là tập Thiền Nguyên Chư Thuyên Ðô Tập Tự tức là quyển Nguồn Thiền này. Tuy là bài tựa, nhưng nói lên được ý nghĩa tổng quát toàn bộ sách một trăm quyển. Khi dịch, chúng tôi thấy tên Thiền Nguyên Chư Thiên Ðô Tập Tự quá dài, e người đọc khó nhớ, nên chúng tôi lấy hai chữ đầu Thiền Nguyên dịch là Nguồn Thiền.

Ngài ở đời thứ năm sau Lục Tổ Huệ Năng, thuộc dòng:

1. Thần Hội.

2. Pháp Như.

3. Duy Trung.

4. Ðạo Thuyên.

5. Khuê Phong Tông Mật.

Mười một câu hỏi được ngài trả lời rất quan trọng, nếu không giải thích, e người mới học thiền, đọc rồi cũng như chưa đọc. Vì quyển Nguồn Thiền này ra đời từ năm 1969, tới nay là năm 1971, nó vẫn nằm im trong tủ. Có người thỉnh về để đó, có người đọc ít đoạn không hiểu, cũng để đó. Chính quyển sách này, giúp chúng tôi rất nhiều trong thời gian nhập thất tu tập, được tôi coi là bảo vật. Nên khi ra thất, tôi dịch ngay, vì tôi nghĩ rằng người nào được quyển sách này là được phước lớn. Nhưng không ngờ, từ ngày cuốn sách ra đời đến nay, chẳng mấy người biết được giá trị của nó. Vì vậy, hôm nay chúng tôi phải giảng cho quý vị hiểu, để biết đường lối tu hành.

1. HỎI: Thế nào là đạo? Lấy cái gì để tu? Phải do tu mới thành hay chẳng cần dụng công?

– ÐÁP: Không ngại là đạo, biết vọng là tu, đạo tuy vốn tròn, vọng khởi phiền lụy, vọng niệm hết sạch tức là tu thành công.

Tôi tạm chia câu hỏi và câu trả lời làm ba phần để giải thích cho dễ hiểu:

a. Hỏi: Thế nào là đạo?

– Ðáp: Không ngại là đạo.

Ví dụ: Cái bàn có hình tướng, có kích thước, phải cần có một khoảng trống không gian bằng, hoặc lớn hơn nó mới chứa được nó. Cho nên nói: cáigì có hình tướng đều chướng ngại. Còn đạo thì không hình, không tướng, không có vị trí chỗ nơi, nên không bị ngăn ngại. Không hình, không tướng đây không có nghĩa là hư không, quý vị hiểu cho kỹ chỗ này, không khéo sẽ lầm lẫn rơi vào ngoan không.

Xưa, có một vị khách đến hỏi một thiền sư:

– Thế nào là đạo?

Ngài đáp:

– Vô tâm tức thị đạo

Có nhiều người học Phật nói: Tôi đi cầu Ðạo”. Vậy đạo ở đâu mà cầu? Ðạo là chỉ cho “Cái hằng giác” sáng suốt sẵn có nơi mỗi người, còn được gọi là Phật tánh, pháp thân, chân như… Nghe nói đạo, người ta tưởng cái gì ở bên ngoài nên đi tìm cầu. Nhưng thật ra khi nào chúng ta hết vọng niệm là đạo hiện tiền, nếu còn vọng niệm là còn chướng ngại. Vô tâm là tâm không vọng tưởng, vì khi ý thức vừa khởi thì liền có pháp trần duyên theo, hễ có pháp trần là có hình tướng, cho nên chướng ngại. Như vừa dấy niệm nghĩ về người là có bóng dáng người, vừa dấy niệm về cảnh là có hình ảnh cảnh v.v… Vô tâm là tâm trong suốt như mặt gương, có người thì hiện ảnh người, có cảnh thì hiện ảnh cảnh; không người không cảnh thì mặt gương trong suốt. Vậy, tâm không còn dấy niệm nghĩ tưởng là hết chướng ngại, là vô tâm, là đạo.

b. Hỏi: Lấy cái gì để tu?

– Ðáp: Biết vọng là tu.

Từ lâu, chúng ta quen chấp nhận vọng tưởng là tâm mình, nên vọng tưởng khởi liền theo, theo vọng tưởng tức là theo sáu trần, theo sáu trần là theo chướng ngại sanh diệt. Chạy theo chướng ngại sanh diệt, kinh Lăng Nghiêm nói là nhận giặc làm con. Bây giờ, chúng ta biết vọng tưởng là hư dối, không theo thì vọng tưởng lặng; vọng tưởng lặng thì tâm lặng lẽ trong suốt, là vô tâm, là trở về với đạo, là tu. Vì chúng ta chấp nhận vọng tưởng là tâm mình, nên bị hình ảnh, sắc tướng v.v… làm chướng ngại, mà chướng ngại thì không thấy đạo. Bây giờ, vọng tưởng dấy khởi, chúng ta biết nó là vọng tưởng, không chấp nhận, không theo thì nó lặng, mà vọng tưởng lặng là trở về với vô ngại, tức là tu. Thông thường chúng ta hiểu tu là sửa. Như vậy, sửa đồng hồ, sửa xe máy cũng là tu sao? Hoặc như các cô sửa mắt, sửa mũi cũng là tu nữa à? Hiểu như vậy, không thấy được chủ yếu của sự tu hành mà Phật Tổ đã dạy. Chúng ta xét xem những phương pháp tu trong kinh luận có ngoài chủ yếu Biết vọng là tu của ngài không? Ví dụ tu Tịnh Ðộ niệm Nam Mô A Di Ðà Phật để chi vậy? Niệm Phật tuy không cần biết vọng, nhưng buộc tâm vào câu niệm Phật để những vọng niệm khác không dấy khởi, không dẫn đi xa. Có người dùng phương pháp tụng kinh để tu, vậy tụng kinh gõ mõ để làm chi? Ðể vọng tưởng dấy khởi không theo, chỉ nhớ lời kinh để cho tâm được thanh tịnh. Tu theo Mật tông thì dùng câu thần chú để đàn áp vọng niệm. Như vậy, tụng kinh, niệm Phật, trì chú để đàn áp vọng tưởng. Vì người mới tu, vọng niệm dấy khởi mạnh như dòng bạo lưu khó điều phục. Còn tu thiền thì ngay nơi vọng tưởng biết vọng tưởng, không theo tức là dùng trí tuệ nhìn thẳng vọng tưởng, không dùng phương tiện để đàn áp hay kềm chế, nên gọi là trực chỉ. Tôi xin đơn cử một ví dụ cho dễ hiểu: Có một tên ăm trộm vào nhà mà chủ nhà không biết, nhưng người hàng xóm trông thấy. Vì biết tánh ông chủ nhà nhát, sợ ông ấy hốt hoảng, người hàng xóm không dám nói có ăn trộm vô nhà ông, nên kêu ông chủ nhà thắp đèn lên, người hàng xóm bước vô nhà, tên ăn trộm sơ chạy mất. Lại có trường hợp tương tự, ông chủ nhà dạn dĩ nên người hàng xóm kêu ông chủ nhà nói thẳng; “Này anh, thức dạy mau, có ăn trộm vô nhà anh đó!”. Ông chủ nhà thức dậy, thấy ăn trộm liền đuổi nó chạy mất.

Ðó là hai trường hợp: một là dùng phương tiện, hai là chỉ thẳng, cũng đều đưa được chú ăn trộm ra khỏi nhà. Cũng thế, niệm Phật, tụng kinh, trì chú là dùng phương tiện để đàn áp vọng tưởng. Còn tu thiền chỉ thẳng cái làm cho con người luân hồi sanh tử, đau khổ triền miên, đó là vọng tưởng. Và khi ứng dụng tu, thì vọng tưởng khởi, không theo, quá đơn giản! Nên người nặng về hình thức, thì xem thường, đâu biết rằng những phương pháp tu mà Phật Tổ dạy nhằm đập tan “Con khỉ ý thức”, để trở về với tâm thể thanh tịnh nhất như. Lại cũng có trường hợp: tuy chúng ta tu, nhưng vì bản ngã mà tu, nghe nói tụng kinh có phước thì ham, trì chú linh hiển tiêu tai chướng, được lợi lộc thì thích. Còn tu thiền thì chỉ thẳng không dấu diếm, không dùng phương tiện, quá đơn giản, như lời đáp của ngài Khuê Phong: “Biết vọng là tu” thì thấy thường.

c. Hỏi: Phải do tu mới thành hay chẳng cần dụng công?

– Ðáp: Ðạo tuy vốn tròn, vọng khởi phiền lụy, vọng niệm hết sạch tức là tu thành công.

Ðạo vốn tròn đầy, nhưng vì vọng tưởng làm phiền lụy, lôi chúng ta đi trong luân hổi sanh tử. Nếu vọng tưởng dấy lên không theo thì vọng tưởng hết, khi hoàn toàn sạch vọng tưởng thì Ðạo hiện tiền, nói cách khác là tu thành công. Cũng như đêm rằm có trăng, bầu trời không mây thì trăng sáng rỡ. Nếu biết Ðạo có sẵn mà không chịu dừng vọng tưởng, thì có thấy Ðạo được không? – Không. – Thành thử phải có tu; tu mà không tu, vì Ðạo vốn sẵn có. Cũng như mặt trăng nguyên là sáng, không cần thêm sáng cho nó mà chỉ cần hết mây. Cũng vậy, Ðạo là tâm thanh tịnh trùm khắp, vì vọng tưởng che lấp làm mờ đi, bây giờ chỉ cần buông vọng tưởng, vọng tưởng sạch hết thì tâm thanh tịnh hiện, tạm gọi là thành công, chớ thực ra có gì thành đâu? Như vậy, khi tu chúng ta có cần cầu Phật tới chứng minh hay điểm đạo gì không? Nếu người ngồi thiền mà còn mong Phật tới xoa đầu thọ ký là còn vọng tưởng, mà còn vọng tưởng là còn mê không thấy Ðạo. Chúng ta tu trong bốn oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm. Không còn một vọng niệm và hằng sống được như vậy, dù không muốn thành công, cũng tự thành. Trong kinh A Di Ðà, Phật nói:

– Hoặc một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, thì Phật hiện tiền. Cũng như đi, đứng, ngồi, nằm tâm hằng thanh tịnh, không một chút niệm khởi thì Phật tánh hiện tiền.

Phật tánh tức là tự tánh A Di Ðà. A Di Ðà là vô lượng thọ, vô lượng quang, nghĩa là tuổi thọ vô lượng, ánh sáng vô lượng. Tuổi thọ vô lượng là chỉ cho bất sanh bất diệt, ánh sáng vô lượng là chỉ cho tánh giác hằng sáng. Vì vậy, Phật A Di Ðà là chỉ cho tự tánh thanh tịnh sẵn có nơi mỗi chúng ta.

Ở Nhật Bổn, có hai vị tu sĩ. Một vị tu Thiền và một vị tu Tịnh độ. Một hôm, sư tu Thiền hỏi sư tu Tịnh độ:

– Thầy tu theo pháp nào?

– Dạ, tôi tu theo Tịnh độ.

Sư tu Thiền liền hỏi tiếp:

– Phật A Di Ðà bao nhiêu tuổi?

– Phật A Di Ðà bằng tuổi tôi.

– Thầy năm nay bao nhiêu tuổi?

– Tuổi của tôi bằng tuổi Phật A Di Ðà.

Mới nghe, coi như vị sư ấy ngạo mạn, hỗn láo; vì chúng ta nặng về hình thức, thấy đức Phật A Di Ðà là bậc tôn kính ở ngoài tâm. Phật A Di Ðà ở đây chỉ cho tánh giác sáng suốt bất sanh bất diệt hiện hữu nơi mỗi người, nên hỏi: “Phật A Di Ðà bao nhiêu tuổi?” Trả lời: “Bằng tuổi tôi” tức là bằng tuổi tánh giác của tôi. Hỏi: “Ông bao nhiêu tuổi” Trả lời: “Tuổi tôi bằng tuổi Phật A Di Ðà”. Tánh giác là cái bất sanh bất diệt (Vô lượng thọ), sáng suốt trùm khắp (Vô lượng quang) mà lâu nay chúng ta lầm lẫn cho nó ở ngoài mình, nên mãi dong ruổi tìm cầu. Tu Thiền hay tu Tịnh độ, tới chỗ cứu cánh không khác, chỉ vì chúng sanh mắc kẹt trên hình thức nên thấy có sự sai biệt. Nếu chúng ta hiểu như vị sư tu Tịnh độ thì không bao giờ có sự chống báng lẫn nhau. Chúng ta phải biết rõ, tuy có muôn ngàn kinh Phật dạy, muôn ngàn pháp môn tu, nhưng không ngoài bốn chữ Biết vọng là tu.

2. HỎI: Ðạo nếu nhơn tu mà thành tức là tạo tác, tạo tác thì đồng pháp hư ngụy không thật ở thế gian, thành rồi lại hoại, sao gọi là xuất thế?

ÐÁP: Tạo tác thì kết nghiệp gọi pháp thế gian hư ngụy, không tác (làm) là tu hành tức pháp xuất thế chơn thật.

Ý câu hỏi: Ðạo là cái bất sanh bất diệt nếu nói nhơn tu mới thành, thì có tạo tác, có tạo tác thì có sanh diệt. Như vậy, cũng đồng với cái hư giả, có thành có hoại, đâu thể gọi là xuất thế gian bất sanh bất diệt được!

Ngài trả lời: Tạo tác là kết nghiệp, không tạo tác mới là tu hành, là pháp xuất thế chân thật. Tại sao tạo tác là kết nghiệp? – Ví dụ như xây chùa, đúc tượng Phật, làm việc phước thiện là để hưởng phước hữu lậu ở cõi người, cõi trời, còn sanh tử trong tam giới, vì còn nghiệp thiện, chưa giải thoát. Ngài nói: “Không tạo tác là tu hành”, tức là vọng tưởng dấy lên, biết nó là vọng tưởng không theo là đủ rồi. Không gầy dựng, không tạo lập, nên nói không tạo tác. Như vậy, đâu có gì gọi là tu hành, nên nói : Tu vô tu tu” (Tu mà không tu ấy mới là tu). Tu như vậy gọi là tu vô vi. Nhớ đừng lầm với lối tu vô vi uống nước lạnh mà bây giờ mọi người đang theo. Vô vi đây có nghĩa là vọng tưởng dấy khởi, biết nó là vọng tưởng không theo, không theo vọng tưởng là trở về với cái bất sanh bất diệt sẵn có nơi mình. Ðó là vô vi, mới là Ðạo xuất thế chân thật.

3. HỎI: Kia tu là đốn hay tiệm? Tiệm thì quên trước mất sau, lấy cái gì tập hợp mà thành? Ðốn thì muôn hạnh nhiều môn, đâu thể một thời đầy đủ?

ÐÁP: Chợt ngộ chơn lý là viên đốn, dứt vọng cần phải tiệm tu (tu dần dần) mới hết. Viên đốn ví như trẻ con sơ sanh trong một ngày các cơ thể đầy đủ. Tiệm tu ví như nuôi dưỡng đến thành nhân, phải nhiều năm mới lập chí khí.

“Kia” là chỉ cho người tu Thiền. Pháp môn đốn là pháp tu tắt không thứ lớp, pháp môn tiệm là pháp tu từ từ có thứ bậc. Ví như đi từ Vũng Tàu đến Saigon, nếu đi đường hàng không thì máy bay cất cánh bay thẳng một mạch tới Saigon đáp xuống, không chạy qua một thành phố nào hết, đó là dụ cho pháp tu đốn. Nếu đi đường bộ, xe phải chạy tuần tự qua cầu Cỏ May, Bà Rịa, Long Thành, Biên Hòa, Thủ Ðức, rồi mới tới Saigon, đó là dụ cho pháp tu tiệm.

“Tiệm thì quên trước mất sau, lấy cái gì tập hợp mà thành?”. Ý câu này muốn hỏi: ví như leo thang, bước lên bậc hai thì phải bỏ bậc một, bước lên bậc ba thì phải bỏ bậc hai, đó là quên trước mất sau. Tới bậc này phải bỏ bậc kia, bậc qua rồi thì mất, bậc chưa tới thì chẳng biết. Như vậy làm sao nói chúng hợp mà thành được?

“Ðốn thì muôn hạnh nhiều môn, đâu thể một thời đầy đủ?”. Kinh dạy phải tu lục độ vạn hạnh mới đầy công phu thành Phật, nếu chỉ tu pháp môn đốn, thì chỉ trong thời gian chốc lát làm sao thực hành đầy đủ những công hạnh ấy được.

Khi đọc một câu kinh, hay nghe một câu đạo lý, chợt nhận ra nơi mình có “cái không sanh diệt” đó là ngộ chân lý. Tuy trong một thoáng qua là ngộ được chân lý, nhưng vọng tình lâu đời, đâu phải một lúc đã sạch hết, nên cần phải tiệm tu, nghĩa là hằng giờ hằng phút phải buông bỏ vọng tưởng từ từ, một thời gian lâu sau mới hết sạch. Khi vọng tưởng sạch rồi thì “cái không sanh không diệt” mà chúng ta nhận ra khi trước mới tròn sáng. Vì vậy trong nhà thiền chia ra giải ngộ và chứng ngộ. Như Lục Tổ khi nghe người khách tụng kinh Kim Cang, đến câu “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” thì ngài giải ngộ. Và đến khi nghe Ngũ Tổ giảng cũng đến câu đó, thì ngài liền chứng ngộ, bèn thốt lên; “Nào ngờ tự tánh vốn thanh tịnh. Nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt…”Tôi lấy thêm một thí dụ cho dễ hiểu:

– Ðêm rằm trời có nhiều mây che khuất mặt trăng. Có người muốn chỉ mặt trăng cho đứa bé, phải chờ cho mây bay qua để lộ mặt trăng ra mới chỉ cho đứa bé thấy được. Nhưng đứa bé vừa thấy mặt trăng, thì mây bay tới che khuất mặt trăng trở lại như cũ. Bấy giờ đứa bé đã biết trên bầu trời có mặt trăng tròn sáng đấy, nhưng phải chờ mây tan hết thì mặt trăng mới lộ nguyên hình tròn sáng. Sự tu hành của chúng ta cũng vậy, khi đọc một câu kinh hay nghe một câu đạo lý, chợt nhận ra nơi mình có cái “không sanh không diệt”. Nhưng nhận ra rồi không phải sống được với nó liền, mà phải buông bỏ từ từ các vọng tình chấp trước cho sạch hết, thì “tánh bất sanh bất diệt” mới hiển hiện tròn sáng. Cũng như đứa bé sanh ra chỉ khoảng nửa tiếng đồng hồ, nhưng muốn nó thành người lớn có đầy đủ sự hiểu biết thì ít ra cũng phải vài chục năm.

4. HỎI: Phàm tu phát tâm địa khi ngộ tâm là xong, hay riêng có hạnh môn? Nếu riêng có hạnh môn thì sao gọi là đốn chỉ Nam tông (đốn tu)? Nếu ngộ liền đồng chư Phật, sao không phóng quang hiện thần thông?

Câu này tạm chia ra ba phần để giải thích:

a. Phàm, tu phát tâm địa khi ngộ tâm là xong, hay riêng có hạnh môn khác?

Tâm địa là chỉ cho pháp môn Thiền tông. Khi ở hội Linh Sơn, Phật truyền cho ngài Ca Diếp là truyền pháp môn tâm địa này. Ðịa là đất, tất cả người, vật, nhà cửa, núi sông… đều nương nơi đất mà có. Cũng thế tất cả các pháp từ người đến vạn vật, gốc từ tâm mà ra. Pháp môn tâm địa là pháp môn tu ngộ thẳng bản tâm mình.

b. Nếu riêng có hạnh môn thì sao gọi là đốn chỉ Nam tông (đốn tu)?

Ðốn chỉ Nam tông là chỉ cho thiền đốn giáo của Lục Tổ Huệ Năng, đối lại với Bắc tông của ngài Thần Tú, chủ trương tiệm tu. Khác với Nam tông Phật giáo là chỉ cho hệ Phật giáo Ấn Ðộ được truyền về phương Nam, còn hệ truyền về phương Bắc thì gọi là Bắc tông.

c. Nếu ngộ liền đồng chư Phật, sao không phóng quang hiện thần thông?

Ý câu này muốn hỏi: nếu đốn ngộ thì liền đồng với chư Phật, sao không thấy các ngài phóng quang và hiện thần thông?

ÐÁP: Biết băng trên mặt hồ nguyên là nước, nhờ ánh nắng mặt trời dần dần tan, ngộ phàm phu tức chơn, nhờ sức pháp để tu tập. Băng tiêu thì nước trôi chảy, công phương trình tẩy rửa vọng hết thì tâm linh thông, mới có ứng hiện phát quang. Ngoài việc tu tâm không có hạnh môn riêng.

Tuy biết băng trên mặt hồ, nguyên thể của nó là nước. Nhưng vì đã đóng thành khối (băng) thì không dùng xài được, mà phải nhờ ánh sáng mặt trời chiếu soi thì băng mới tan dần dần. Khi băng đã tan thành nước thì mới đem ra dùng vào việc nấu ăn, uống, giặt rửa, tắm gội… Cũng vậy, nhận ra nơi mình có tánh bất sanh bất diệt, nhưng không phải nhận ra là viên mãn quả Phật, mà phải nhờ tu từ từ mới dứt hết vọng tưởng. Khi vọng tưởng hoàn toàn sạch rồi, mới thể nhập được tâm thể bất sanh bất diệt và khởi ra vô lượng diệu dụng. Tóm lại ngoài việc tu tâm không có hạnh môn riêng khác, và đốn chỉ Nam tông chỉ có một môn là biết vọng tưởng. Khi vọng tưởng hết sạch thì đồng với chư Phật.

5. HỎI: Nếu chỉ tu tâm mà được thành Phật, cớ sao các Kinh lại nói: “Cần phải trang nghiêm Phật độ, giáo hóa chúng sanh mới gọi thành đạo”.

Nếu chỉ tu tâm là được thành Phật, thì tại sao trong kinh dạy phải trang nghiêm Phật độ, giáo hóa chúng sanh mới được thành Phật? Vậy, nếu chúng ta cứ ngồi tu hoài không độ ai hết thì làm sao thành Phật? Câu này đối với người tu niềm tin chưa vững sẽ lúng túng, không biết nên lo tu hay nên đi giáo hóa chúng sanh?

ÐÁP: Gương sáng thì hiện muôn ngàn hình bóng sai khác, tâm tịnh thì ứng hiện muôn ngàn thần thông. Hình bóng ví trang nghiêm Phật độ, thần thông ví giáo hóa chúng sanh, trang nghiêm tức phi trang nghiêm, hình bóng là sắc mà phi sắc.

Ví dụ một tấm gương sáng, tất cả mọi hình bóng sai khác đều hiện rõ trong gương không ảnh nào làm ngăn ngại nhau. Cũng thế, khi tâm thanh tịnh thì cũng một tâm này ứng hiện muôn ngàn thần thông không chướng ngại. Hình bóng hiện rõ ràng trong gương là dụ cho trang nghiêm Phật độ, không bóng nào làm ngại bóng nào là thần thông diệu dụng, dụ cho giáo hóa chúng sanh. Trang nghiêm tức phi trang nghiêm là do tu, mọi vọng niệm lắng xuống thì tâm thể thanh tịnh sáng suốt. Tâm thể vốn tự sáng suốt chỉ vì vọng tưởng che nên nó mờ khuất. Vọng tưởng sạch, tâm thể thanh tịnh sáng suốt hiện bày, tạm gọi là trang nghiêm. Theo thế thường, trang nghiêm là tạo tác, sửa sang, cái gì hư xấu thì sửa chữa trang hoàng lại cho đẹp đẽ khang trang, gọi đó động tác sửa sang có hình tướng, là trang nghiêm. Còn tâm thể thì không có hình tướng, vốn nó đã tự sáng khi hết vọng tưởng là nó hiện rõ ràng, không có sửa chữa trang hoàng chi cả, nên gọi là trang nghiêm tức phi trang nghiêm. “Hình bóng là sắc mà phi sắc”, bóng ở trong gương là bóng người, bóng vật… tức là sắc. Tuy là sắc, nhưng là bóng không thật nên nói là phi sắc.

Người tu thiền buông hết vọng tưởng, tâm được thanh tịnh sáng suốt là trang nghiêm Phật độ. Người tu Tịnh độ niệm Phật nhất tâm bất loạn mới là trang nghiêm cõi Cực lạc.

Vấn đề giáo hóa chúng sanh, có nhiều vị hiểu lầm cho rằng những vị ẩn tu là tiêu cực, yếm thế, không làm lợi ích cho chúng sanh, người nào làm Phật sự này, từ thiện nọ là tích cực hành Lục độ giáo hóa chúng sanh. Chúng ta nên hiểu giáo hóa như thế nào mới đúng với chân tinh thần của đạo Phật? Trong kinh Phật dạy:

– Cái khổ ở trong địa ngục bị thiêu đốt cũng chưa phải là khổ, cái khổ làm ngạ quỷ bị đói khát cũng chưa phải là khổ, cái khổ làm súc sinh kéo cày, bị đánh cũng chưa phải là khổ. Cái khổ Vô minh không biết đường đi mới là khổ.

Vô minh là mờ mịt, tạo tội lỗi, trầm luân vĩnh viễn trong sáu đường không biết lối ra, đó mới là cái khổ lớn của chúng sanh. Cho nên, đạo Phật chủ trương cứu khổ là dạy cho chúng sanh phá được cái ách vô minh mà họ đã đeo từ ngàn muôn kiếp tới nay. Khiến cho họ được tỉnh giác biết đường tu, để thoát vòng sanh tử luân hồi. Ðó mới thực là cứu khổ. Còn dạy cho họ biết ăn ở hiền lành hoặc giúp đỡ cho họ bớt đói lạnh, chỉ là yếu tố cứu khổ nho nhỏ. Cũng như ông thầy thuốc, muốn trị hết bệnh thì phải trị tận gốc, nếu trị nơi ngọn, chỉ làm giảm cơn đau trong cấp thời, chớ không hết bệnh.

Ví như người cờ bạc, rượu chè, nhà nghèo, vợ con đói rách, chúng ta động lòng từ đem cho họ năm ba lít gạo, họ đỡ đói được vài hôm, nhưng cái bệnh cờ bạc, rượu chè không bỏ thì họ vẫn còn đói khổ. Chỉ có cách là chúng ta cho họ một lần, hoặc không cho cũng được, mà phải giảng cho họ hiểu sự tai hại của cờ bạc, rượu chè là gốc làm cho họ và gia đình họ đói khổ. Chỉ ngay cái gốc, nếu họ tỉnh giác bỏ được bịnh ấy thì họ mới hết khổ. Ðó là việc làm cứu khổ lâu dài, cho một vài lít gạo chỉ là việc cứu khổ cấp thời, sau đó họ sẽ khổ nữa. Mục đích của chúng ta là tu là chứng đạo giải thoát, một câu nói, một lời giảng của chúng ta có thể đưa bao nhiêu người thoát ra khỏi biển sanh tử luân hồi. Ðức Phật sau khi thành đạo, với trí huệ sáng suốt, dùng nhiều phương tiện tùy cơ giáo hóa vô số chúng sanh ra khỏi luân hồi sanh tử.

Tuy nhiên, việc giáo hóa cao thấp cũng còn tùy ở trình độ tu học của hành giả, có người vừa tu vừa giáo hóa, có người tu viên mãn rồi mới ra giáo hóa. Việc làm nào cũng tốt. Giống như người học trò đi học, học tới Trung học, thấy dân dốt quá, ra làm thầy, dạy cho dân học đỡ dốt. Lại, cũng có người tuy thấy dân dốt, nhưng cứ chăm chỉ học đến Ðại học mới ra giảng dạy. Như vậy, chúng ta chớ vội cho rằng người thứ hai là ích kỷ, phải hiểu chỗ này cho rõ, để khỏi lầm lẫn.

6. HỎI: Các Kinh đều nói độ thoát chúng sanh, chúng sanh tức phi chúng sanh, tại sao lại nhọc nhằn độ thoát?

Ðây là y cứ theo kinh Kim Cang: tất cả chúng sanh hiện có đây, là do ngũ uẩn tứ đại hòa hợp mà thành, nên huyễn hóa không thật (chúng sanh tức phi chúng sanh), đã là huyễn hóa, thì chúng sanh chẳng phải là chúng sanh, tại sao phải nhọc nhằn độ thoát?

ÐÁP: Chúng sanh nếu thật độ được tức là nhọc nhằn, đã nói “tức phi chúng sanh”, sao không so sánh độ mà không độ?

Nếu còn thấy chúng sanh là thật thì mới độ, vì thật độ nên mới nhọc nhằn. Nếu thấy chúng sanh không thật, sao không thấy độ mà không thật độ? Câu hỏi này có cái lỗi là chúng sanh không thật, mà thấy người độ thật, nên mới thấy độ sanh là nhọc nhằn. Có lắm người học đạo lầm lẫn, thấy tất cả không thật mà thấy mình thật nên khởi niệm thụ hưởng, không lo tu, không chịu làm lợi ích cho người. Nếu thấy mình giả, người giả, họ khổ mình cứu giúp, đem thân giả làm việc giả có gì là nhọc nhằn? Nên ngài nói: “Ðộ mà không độ”. Kinh Kim Cang nói: “Ðộ tất cả chúng sanh mà không thấy mình là người hay độ, chúng sanh là kẻ được độ”. Thấy người giả mà thấy mình thật, là chưa hiểu kinh Kim Cang. Vì mắc kẹt chỗ này nên mới có quan niệm như vậy. Nếu thấy người giả, mình cũng giả thì cứ lăn vô mà làm, cái giả làm cho cái giả cũng giống như trò chơi, có gì là mệt mỏi nhọc nhằn?

7.- HỎI: Các Kinh nói “Phật thường trụ” hoặc nói “Phật diệt độ”. Thường tức không diệt, diệt tức không phải thường, như vậy là mâu thuẫn nhau.

Theo kinh A Hàm nói: Phật nhập Niết bàn lúc tám mươi tuổi, các kinh Ðại thừa thì nói tuổi Phật vô lượng vô biên. Như vậy, có kinh nói Phật diệt độ, có kinh nói Phật thường trụ, nói vậy có mâu thuẫn nhau không? Nếu thường trụ thì không diệt, diệt thì không thường, tại sao kinh nói mâu thuẫn nhau vậy?

ÐÁP: Lìa tất cả tướng gọi là chư Phật thì đâu có thật ra đời hay nhập diệt? Thấy ra đời hay nhập là tại cơ duyên. Cơ duyên ứng hợp thì xuất hiện dưới cội Bồ đề. Cơ duyên hết thì nhập Niết bàn giữa hai cây Sa La. Cũng như nước trong, không tâm không hình tượng, không hiện hình tượng không phải có ngã. Bởi vì tướng ngoại chất có đến đi, không phải thân Phật. Ðâu thể nói Như Lai có xuất nhập.

Nói Phật diệt độ là căn cứ Hóa thân, nói Phật thường trụ là căn cứ Pháp thân. Hóa thân thì tùy duyên ứng hiện, hết duyên thì tan rã nên có sanh diệt. Pháp thân thì không hình tướng, nên không sanh diệt gọi là thường trụ, nên đây nói: “Lìa tất cả tướng gọi là chư Phật”, như vậy đâu có ra đời hay nhập diệt. Pháp thân lìa tất cả tướng nên không sanh không diệt. Thấy có ra đời hay nhập diệt là tại cơ duyên; cơ duyên hợp thì thành đạo dưới cội Bồ đề, cơ duyên hết thì nhập Niết bàn dưới hai cây Sa La, đó là hóa thân Phật. Nếu hiểu rõ chỗ này thì đọc kinh không còn nghi ngờ. Kinh Tiểu thừa thì luôn luôn nói đến Hóa thân Phật, tức là đức Phật Thích Ca, có lịch sử ở Ấn Ðộ; kinh Ðại thừa nói đến Pháp thân Phật. Như kinh Pháp Hoa nói: “Tuổi thọ Phật vô lượng vô biên”, đó là chỉ cho pháp thân bất sanh bất diệt sẵn có nơi mỗi người. Rồi nói: “Chư Bồ tát từ đất vọt lên râu tóc bạc phơ, trò già hơn thầy”. Ðiều này rất khó tin! Nhưng Bồ tát nào không từ pháp thân hiện? Nên mới nói tất cả Bồ tát đều là đệ tử của Phật (Pháp thân). Ngài ví dụ: “Cũng như nước trong không tâm không hình tượng, không hiện hình tượng, không phải có ngã”. Khi chúng ta nhìn xuống hồ nước trong, thấy có bóng chúng ta trong ấy. Nhưng hồ nước có tâm muốn hiện hình bóng chúng ta không? – Không. – Vì sao? Vì nó không có ngã chấp. Nước trong vô tâm, hình tượng đến tùy duyên hiện. Cũng vậy, chúng ta tu khi ngộ đạo, tâm hoàn toàn thanh tịnh (nước trong), lúc đó mới hoàn toàn sống với pháp thân, từ đó mới tùy cơ duyên mà ứng hiện ra hóa thân. Ngài nói thêm: “Bởi vì tướng ngoại chất có đến có đi, không phải thân Phật, đâu thể nói Như Lai có xuất nhập”. Tướng ngoại chất thì có đến có đi không phải thân Phật; thân Phật là pháp thân, mà pháp thân thì không đi không đến, pháp thân dụ cho hồ nước trong, còn sự đến đi là ngoại vật, ngoại vật đến thì bóng hiện, ngoại vật đi thì không bóng. Cũng thế, khi nào có duyên thì từ pháp thân liền ứng hóa thân độ sanh, hết duyên thì trở về pháp thân, thường gọi là bọt tan về biển. Nên không thể nói Như Lai có xuất nhập.

8. HỎI: Thế nào là Phật hóa sanh như chúng sanh kia sanh? Phật đã vô sanh thì là nghĩa gì? Nếu nói tâm sanh pháp sanh, tâm diệt pháp diệt, thì do đâu được Vô sanh pháp nhẫn?

Phật hóa sanh, là Phật cũng sanh ra như những chúng sanh khác, có cha mẹ như Phật Thích Ca ở Ấn Ðộ; đã nói Phật vô sanh tại sao lại sanh? Vô sanh pháp nhẫn là không sanh không diệt, mà nói tâm sanh pháp sanh, tâm diệt pháp diệt thì chừng nào được vô sanh pháp nhẫn.

ÐÁP: Ðã nói như hóa, hóa tức là không, không tức là không sanh, sao lại hỏi nghĩa sanh? Sanh diệt diệt rồi thì tịch diệt là chơn, nhận được pháp vô sanh này gọi là Vô sanh pháp nhẫn.

Huyễn hóa là không thật, đã không thật nên tuy có sanh cũng như không sanh, tại sao nói nghĩa sanh? Hỏi như vậy là chưa thấy “như huyễn như hóa”. Kinh Ðại thừa nói: “Ðức Phật Thích Ca rời cung trời Ðâu Suất vào thai mẹ v.v…” mà lúc nào cũng không rời pháp thân thanh tịnh. Cho nên nói Phật sanh là chỉ cho hóa thân, hóa thân thì không thật, không thật thì sanh cũng như không sanh.

Sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là chơn, câu này trích từ kinh Niết bàn, nghĩa là vọng niệm dấy lên là sanh, vọng niệm lặng xuống là diệt. Vọng niệm cứ sanh diệt, nối tiếp nhau không ngừng. Khi nào cái sanh diệt đó vắng lặng (tịch diệt), lúc đó là chơn tâm hiển hiện, tức là chơn, là Niết bàn.

Vậy, Niết bàn là khi tâm chúng ta sạch hết vọng tưởng, nó không hình tướng mà lặng lẽ thường sáng. Ðừng có hiểu lầm Niết bàn là một cõi an lạc, một cảnh giới rực rỡ ngoài tâm để đi tìm cầu. Ðây là bản chỉ đường đi trở về ngôi nhà pháp thân, quá rõ ràng không còn phải nghi ngờ. Khi nhận được pháp vô sanh này, gọi là: “Vô sanh pháp nhẫn”. Chính cái “Tịch diệt là chơn” là vô sanh pháp nhẫn. Có nhiều cho rằng ở cõi Ta Bà này tu lai rai, chết về Cực lạc tiếp tục tu nữa, khi thành Phật được vô sanh pháp nhẫn, rồi trở lại cõi Ta bà độ sanh. Hiểu như vậy là quá lầm lẫn. Ngài Khuê Phong nói: “Nhận được pháp vô sanh này gọi là vô sanh pháp nhẫn”. Nghĩa là ngay nơi thân tứ đại này mọi vọng niệm dứt sạch, thì “cái vô sanh” hiện tiền, đó là vô sanh pháp nhẫn, lúc ấy tùy duyên độ sanh chớ không đi tìm đâu xa.

9. HỎI: Chư Phật thành đạo thuyết pháp chỉ vì độ chúng sanh giải thoát, chúng sanh thì có lục đạo, tại sao Phật chỉ hóa hiện ở trong nhơn đạo? Lại Phật sắp diệt độ, trao pháp cho Tổ Ca Diếp dùng tâm truyền tâm cho đến phương này (Trung Hoa), bảy vị Tổ mỗi đời chỉ truyền một người, đã nói rằng đối tất cả chúng sanh coi như con một, tại sao truyền dạy không khắp?

Phật nói độ hết tất cả chúng sanh, mà chúng sanh thì gồm cả lục đạo, tại sao Phật chỉ hóa độ ở cõi người (nhơn đạo)? Như vậy làm sao độ khắp, nếu độ không khắp thì đức Phật thiếu từ bi? Chư Tổ cũng vậy, từ Tổ Ca Diếp tới các vị Tổ Trung Hoa, một vị truyền cho một người thì đâu có độ khắp, cũng như đức Phật, chư Tổ cũng thiếu từ bi.

ÐÁP: Mặt trời, mặt trăng lên cao đều soi sáng khắp sáu phương mà người mù không thấy, chậu úp không biết, không phải mặt trời, mặt trăng soi chẳng khắp, tại lỗi che đậy ngăn cách. Ðộ cùng không độ nghĩa giống như vậy, không phải hạn cuộc nơi người trời bỏ các loài quỷ súc. Chỉ vì nhơn đạo hay kiết tập truyền trao không dứt, nên biết Phật hiện trong nhơn đạo. Sắp diệt độ Phật trao pháp cho Tổ Ca Diếp, lần lượt truyền nhau một người, chính vì nhằm vào vị chủ Thiền tông trong một đời. Như trong nước không có hai vua, không phải người được độ chỉ có số dường ấy.

Nghi vấn về đức Phật giáo hóa chúng sanh không khắp hết. Ngài Khuê Phong đáp bằng một ví dụ: như mặt trời mặt trăng khi lên cao thì không chỗ nào là không soi đến. Nhưng dưới chậu úp không có ánh sáng, người mù không thấy sáng, lỗi ấy là tại chậu úp ngăn che, người mù không thấy, chớ không phải mặt trời mặt trăng không chiếu sáng. Cũng vậy, Phật độ tất cả chúng sanh, nhưng ai có duyên thì tương ứng được độ, ai không có duyên thì không tương ứng tự ngăn ngại, chớ Phật đâu có tư vị. Vả lại, chúng ta ở trong cõi người, chỉ thấy biết trong phạm vi loài người, nên thấy Phật chỉ giáo hóa cõi người. Chúng ta đâu có ở trong loài ngạ quỷ, súc sanh… mà biết Phật có hiện hay không hiện. Câu hỏi này cho thấy người hỏi, người nhớ tiền thân đức Phật đã từng làm thân loài này, loài kia để độ chúng.

Về chư Tổ, ngài nói: “Mỗi vị Tổ truyền trao cho một vị” là nhằm vào vị đó để làm chủ Thiền tông, ngoài ra còn nhiều vị khác nữa. Cũng như một nước không có hai vua, chỉ có một vua đứng ra lãnh đạo cả nước, còn những người khác là quần thần phụ với vị vua ấy trị dân. Nghĩa là một vị Tổ dạy rất nhiều đồ đệ, nhưng chỉ chọn một người truyền trao y bát, để giữ gìn giềng mối của tông môn. Như Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma sang Trung quốc, ngài truyền cho Tổ Huệ Khả, nhưng ngoài Tổ Huệ Khả ra còn có ngài Tăng Dục, Ni Tổng Trì… Cũng như Ngũ Tổ, đâu phải chỉ dạy riêng cho Lục Tổ mà còn bao nhiêu vị nữa như ngài Thần Tú…, như vậy không phải chư Tổ truyền trao chỉ có một người, mà các ngài chọn một người nổi bật nhất truyền y bát để người sau tin tưởng và dễ giáo hóa họ.

*

10. HỎI: Hoà Thượng nhơn đâu phải phát tâm? Mộ pháp gì mà xuất gia? Nay tu hành pháp gì? Ðược pháp vị gì? Chỗ tu hành đến địa vị nào? Là trụ tâm tu tâm? Nếu trụ tâm thì ngại tu tâm, nếu tu tâm thì động niệm không an làm sao được gọi là học đạo? Nếu tâm an nhất định thì đâu khác gì môn đồ của định tánh (định tánh Thanh văn)? Cúi mong Ðại Ðức vận dụng đại từ bi theo thứ lớp nói đúng lý như như.

ÐÁP: Biết tứ đại như mộng huyễn, hiểu lục trần như không hoa, ngộ tâm mình là tâm Phật, thấy bản tánh tức pháp tánh là nguyên nhơn phát tâm. Biết tâm không trụ tức là tu hành; không trụ mà “biết” tức là pháp vị. Trụ trước nơi pháp đây là động niệm, như người vào tối thì không thấy vật; nay không có chỗ trụ, không nhiễm không trước, như người có mắt và có ánh sáng mặt trời thấy rõ các vật. Thế thì đâu thể đồng môn đồ của định tánh, đã không có chỗ trụ trước thì đâu luận xứ sở?

– Biết tứ đại như mộng huyễn, hiểu lục trần như không hoa, ngộ tâm mình là tâm Phật, thấy bản tánh tức pháp tánh là nguyên nhơn phát tâm. Ngài phát tâm như thế, trước hết là biết rõ thân tứ đại như mộng huyễn, sáu trần như hoa đốm giữa hư không. Ngay nơi tâm mình nhận ra cái không sanh không diệt, đó là tâm Phật. Biết rõ tất cả pháp tự tánh là không, duyên hợp huyễn có, đólà thấy bản tánh tức pháp tánh. Nguyên nhân phát tâm của ngài là như vậy. Xét lại nếu người tu ai cũng phát tâm như ngài thì tu rất mau ngộ đạo. Nhưng những điều ngài thấy biết để phát tâm, điều nào chúng ta cũng chưa có, nên tu một thời gian rồi cũng kẹt cũng dính, rối thối tâm. Nếu chúng ta thấy thân như mộng huyễn, thấy ngoại cảnh như không hoa, thấy tâm mình là tâm Phật, thấy bản tánh tức pháp tánh thì còn gì nhiễm trước, còn gì thối tâm tu. Ngài trả lời là dạy chúng ta cách phát tâm. Muốn tu hành chơn chánh, không lui sụt, và kết quả thành Phật thì phải thấy được như vậy. Nhưng muốn thấy được như vậy, trước hết phải vận dụng trí Bát nhã thấy thân như mộng huyễn, sáu trần như không hoa. Từ đó mới ngộ tâm mình là tâm Phật và bản tánh tức pháp tánh. Từ cửa Bát nhã là cửa Không, bước vào nhà mới thấy ông chủ (tâm Phật) và hằng sống được với ông chủ, mới mong được giải thoát sanh tử. Vì vậy, trong Thiền tông có câu: “Dĩ tâm vi tông”, lấy tâm làm chủ. “Dĩ vô môn vi pháp môn”, lấy cửa không làm cửa pháp. Ðó là chủ yếu của Thiền tông. Tất cả người tu đều phải thấy và phát tâm như ngài mới khỏi bị lầm lạc và sẽ thành Phật đạo.

– Biết tâm không trụ tức là tu hành. Ở trước, ngài nói biết vọng không theo tức là tu. Ðây, ngài lại nói biết tâm không trụ tức là tu hành, tâm không trụ tức là tâm hư vọng, chỉ đổi danh từ. Tâm hư vọng là sanh diệt luôn luôn không dừng, biết rõ nó như vậy thì nó lặng dứt. Thay vì nói biết vọng là tu thì nói biết tâm không trụ là tu cũng vậy thôi. Vì tâm không trụ là tâm hư vọng.

– Không trụ mà “biết” tức là pháp vị. Chữ trụ ở trên và chữ trụ trong câu này nghĩa khác nhau. Chữ trụ ở trên là chỉ cho tâm sanh diệt không dừng. Còn chữ trụ ở câu này là dính mắc, nói một cách khác là tâm không dừng là trụ ở một nơi nào. Như Lục Tổ khi nghe câu “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang, ngài liền ngộ đạo. Vì ngài thấy không còn chỗ trụ tâm, nghĩa là đối với sáu trần tâm không dính mắc. Tôi đưa một ví dụ cho dễ hiểu: Như mắt tôi nhìn cái đồng hồ, tức là nhãn căn tiếp xúc với sắc trần. Khi ấy tâm tôi không khởi niệm phân biệt cái đồng hồ đẹp hay xấu, nên không có khởi niệm thủ xả, tôi chỉ biết đây là cái đồng hồ. Như vậy là tâm tôi không dính mắc vào sắc trần. Các trần kia cũng vậy. Nếu sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không chạy theo sáu trần, ấy là tâm không trụ. Không trụ mà biết, chớ không phải không trụ mà loạn, đó là pháp vị. Nếu vị nào tu thiền hơi khá khá là biết điều này. Ngồi thiền chừng năm mười phút, không có một vọng tưởng nào dấy khởi, tâm yên tỉnh, lúc ấy tâm không trụ vào sáu trần. Tuy yên tĩnh mà tâm hằng biết, phải hiểu chỗ này cho kỹ, nếu không thì sẽ lầm lẫn. Khi tâm không có một vọng tưởng dấy lên, tức là không dính mắc vào sáu trần để phân biệt ngoại cảnh, nhưng chúng ta vẫn lặng lẽ thường biết. Nhà thiền còn gọi là “Liễu liễu thường tri” đó là pháp vị. Nhưng có người tu tới chỗ yên lặng, mà không biết rồi hoảng hốt đó là bịnh. Người tu mà tới đó thì an nhiên tự tại lắm, vì đó là pháp vị.

– Trụ trước nơi pháp đây là động niệm, như người vào tối thì không thấy vật; nay không có chỗ trụ, không nhiễm không trước, như người có mắt và có ánh sáng mặt trời thấy rõ các vật. Trụ trước nơi pháp tức là tâm duyên theo sự vật, đó là động niệm. Người trụ trước nơi pháp, chẳng khác nào người đi vào nhà tối không thấy gì hết. Khi tâm không duyên theo cảnh lặng lẽ an nhiên, chẳng khác nào người có mắt lại có ánh sáng mặt trời thấy rõ các vật. Nên biết, người tu khi tâm thanh tịnh thì trí tuệ phát sáng là vậy. Thông thường chúng ta tu là mong được trí tuệ, nhưng tâm đang loạn tưởng lăng xăng, làm sao trí tuệ phát sáng được? Cho nên, khi tâm chưa thanh tịnh thì phải dùng huệ huân, tức là dùng trí Bát nhã chiếu soi để phá mê lầm, khi tâm dứt hết vọng tưởng thì trí tuệ hiên bày. Ðó là cái sáng từ tâm, do định mà phát huệ, điều đó rõ ràng không lầm lẫn.. Giả sử khi tâm chúng ta đang lo lắng, rối rắm, có ai đem một vấn đề gì bàn bạc thì chúng ta không thể nào có được sự nhận xét và góp ý chính xác. Cho nên muốn quyết định điều gì chính xác thì tâm phải yên lặng tĩnh táo. Sự yên tĩnh tạm dụ cho tâm định, do định mới phát sáng. Sự tu hành của đạo Phật không có gì huyền bí mà lại có diêụ dụng. Khi nào tâm chúng ta không còn trụ trước nơi sáu trần, thì lúc đó có đủ thần thông diệu dụng. Nhưng có lắm người tu quen theo lối chất chứa, cả đời cứ lo chất chứa đầy đầu, học cái này, nghiên cứu cái kia. Khi ngồi lại thì tính đủ chuyện, nhớ câu luận này, câu kinh nọ, khi nói thì dẫn chứng danh ngôn, danh cú. Thông minh quá nên coi thiên hạ không ra gì. Ở đây, Phật Tổ dạy khi ngồi thiền chúng ta phải bỏ hết mọi nhớ tưởng từ hồi nào đến giờ, để cho tâm được yên tĩnh. Nhưng có lắm người sợ bỏ hết rồi ngu. Chúng ta đừng sợ ngu, mà chỉ sợ chúng ta không bỏ hết được. Khi buông bỏ hết rồi thì lúc đó tâm chúng ta sẽ sáng suốt. Trong nhà Phật có câu “Bỏ tất cả là được tất cả”. Vì vậy, chúng ta phải biết bỏ vọng tưởng không phải là ngu “Ngu mà không ngu”.

Thuở xưa, Sư cụ pháp chủ chùa Phước Hậu (tôi gọi là sư ông), mỗi lúc rãnh rỗi, ngài hay kể chuyện khi ngài còn ở ngoài Trung. Tại Phú Yên, có một vị hòa thượng, bình thường ngài không để ý gì hết, lâu lâu tới bữa tắm chú thị giả thưa:

– Bạch Hòa thượng bữa nay tắm.

– Ngài hỏi:

– Tắm hả? Ngài gật đầu rồi đi tắm. Ðến bữa cơm, chú thị giả thưa:

– Bạch Hòa thượng dùng cơm.

Ngài gật đầu rồi đi dùng cơm, ngoài ra không còn nhớ gì hết. Một hôm có vị trụ trì ở chùa trên triền núi, thỉnh ngài đến làm Hòa thượng, chứng minh lễ an cư. Ðường đi đến chùa đó phải lội qua nhiều suối. Khi đi ngang qua một dòng suối cạn, nước tới lưng quần. Sợ ướt đồ, hai thầy trò cởi trần người qua suối. Qua suối lên bờ ngài cứ đi thẳng không mặc đồ. Chú thị giả thưa:- Bạch Hòa thượng mặc đồ vô.

Hòa thượng đứng lại mặc đồ vô, rồi đi tới chùa làm lễ an cư. Thầy trụ trì tổ chức rất lớn, đông đảo tín đồ, chư Tăng tụ họp an cư cũng đông. Làm lễ xong, ngài chỉ vùng kiết giới, bảo chư Tăng:

– Các ông phải đắp chung quanh lên cao chừng năm tấc, kẻo ngập nước.

Các thầy nghe không tin, vì ngoài Trung ba tháng an cư chưa có mưa lớn, làm gì có nước ngập. Nhưng vì nể ngài nên chư Tăng cũng dạ, dạ…

Lễ an cư ngày trước thì ngày sau có một số lính (trào Pháp) vô làm tiền, đòi giấy tờ làm khó mấy thầy. Chư Tăng lúng túng không biết làm sao mới trình bạch việc ấy với Hòa thượng. Hòa thượng nói:

– À, thôi để tôi coi.

Ngài vô liêu, xổ mùng ngồi một hồi, trở ra bảo:

– Thôi, không sao đâu, các ông an tâm, một lát có Hộ pháp đuổi nó.

Quả thực, chừng nửa giờ sau có ông Quận trưởng đến, các chú lính hoảng sợ đi mất.

Ở trong hạ, nửa tháng sau có một cơn mưa lũ, nước lên bốn tấc, tràn ngập hết, các thầy kinh ngạc mới biết là Hòa thượng nói không sai.

Chúng ta thấy hiện tại ngài khờ khạo, coi như không biết gì, nhưng cần gì thì biết, biết được chuyện gần chuyện xa. Còn chúng ta lại khôn quá, biết đủ thứ hết, ngồi lại thì nhớ đông nhớ tây, cho nên muốn biết cái cần biết lại không biết được. Thành ra coi như biết nhiều mà thật không biết. Còn ngài, coi như không biết mà biết, đó là điều đặc biệt của nhà thiền. Ở đây tôi thường tuyên bố với chư Tăng ni:

– Chủ trương của tôi là ngu dân. Quí vị có sợ không? Vì bao nhiêu kiến thức, tôi bảo gạt đuổi ra ngoài hết đừng nhớ, đừng tưởng, đó là ngu rồi chứ gì? Nhưng, qua cái ngu đó, chúng ta mới vĩnh viễn hết ngu. Còn nếu chúng ta cứ theo cái khôn vặt đó, thì chúng ta sẽ ngu suốt kiếp.

Vì vậy, nên ở đây tôi nói rằng:

– Khi tâm không trụ nơi các pháp, không nhiễm không trước, cũng như người có mắt mà thêm ánh sáng thấy rõ hết mọi vật không có nghi ngờ.

Do đó, nên ngài xác định:

– Thế thì đâu thể đồng môn đồ của định tánh, đã không có chỗ trụ trước thì đâu luận xứ sở? Ý này là đáp lại câu hỏi:”Nếu tâm an nhất định thì đâu khác gì môn đồ của định tánh (định tánh Thanh văn)?”

Chỗ này, tôi sẽ giải thích cho quý vị hiểu sự sai biệt giữa định của Thiền tông và định của Thinh văn. Các vị Thinh văn, khi tu tới Diệt tận định hay Diệt thọ tưởng định thì chứng quả A La Hán, trong kinh A Hàm có kể một câu chuyện:

Một hôm, có vị Tỳ kheo đi khất thực về, thọ thực xong, ngài vào rừng ngồi nhập định. Khi ấy có mấy người tiều phu đi ngang qua thấy ngài ngồi bất động, đến rờ lỗ mũi ngài, thấy không còn thở nữa. Họ cho là ngài đã chết, nên động lòng thương bèn đi kiếm củi dồn lại và đốt lửa lên thiêu, rồi họ tiếp tục đi kiếm củi. Hôm sau, họ gặp vị Tỳ kheo ấy đi khất thực, thấy y ngài mặc cháy khá nhiều chỉ còn cái viền là không cháy. Họ lấy làm lạ, hỏi ra mới biết lúc đó ngài đang nhập Diệt tận định. Nhập Diệt tận định thì không còn hơi thở, chỉ còn hơi ấm trong người. Lúc đó thân thể như đá, như cây, ai làm gì cũng không hay biết, chừng nào muốn xả thì xả. Nhập Diệt tận định có khi cả mấy chục năm hoặc mấy trăm năm.

Cũng trong kinh A Hàm, có câu chuyện:

Tối hôm nọ, ngài Xá Lợi Phất mới cạo tóc, ngài ngồi thiền trên tảng đá lớn, đối diện với ngài là Mục Kiền Liên. Khi ngài Xá Lợi Phất đang nhập định, ngài Mục Kiền Liên thấy một con quỷ ở xa đi lại, nó lấy tay đấm vô đầu ngài Xá Lợi Phất một cái. Ngài Mục Kiền Liên thấy như vậy mới kêu:

– Sư huynh, nãy giờ thấy trên đầu có sao không?

Ngài Xá Lợi Phất xả thiền đáp:

– Nghe trên đầu hơi ê ê.

Ngài Mục Kiền Liên nói:

– Cái sức đấm của con quỷ ấy rất nặng, nó đấm quả núi nầy cũng nát, mà sư huynh chỉ thấy trên đầu hơi ê ê, như vậy là sức định của sư huynh cao lắm.

Ðức Phật nghe câu chuyện này, Ngài cũng kể lại câu chuyện như sau:

Một hôm vào mùa hạ, ngài tọa thiền trong lều của những người làm ruộng, khi ấy có một cơn mưa giông rất lớn, sét đánh chết người và trâu. Ngài không hay gì hết, khi xả thiền thấy người ta xôn xao kéo trâu ra mổ. Ngài mới hỏi lý do. Họ trả lời:

– Lúc nãy mưa to, sét đánh chết người và trâu. Khi ấy Ngài ngồi ở đâu?
Ðức Phật trả lời:

– Như Lai ngồi trong lều cỏ nầy.

– Ngài ngủ hay thức?

– Như Lai không ngủ.

– Không ngủ sao Ngài không nghe?

Thì ra lúc đó Ngài đang nhập định.

Qua ba câu chuyện trên, cho chúng ta biết: khi nhập Diệt tận định là quên hết mọi chuyện bên ngoài. Nhưng ngược lại, Thiền tông chủ trương định trong bốn oai nghi đứng, đi, nằm, ngồi. Gặp việc thì nói, không có việc thì nín mà an nhiên tự tại, đó là đại định của Ðại thừa. Cho nên, các Bồ tát luôn luôn làm lợi ịch cho chúng sanh mà các ngài vẫn ở trong chánh định. Với người tu tập định này, khi ngồi thiền không cần không biết gì hết của Diệt tận định Thinh văn và chỉ cần không theo vọng tưởng, không theo vọng tưởng là Biết tất cả. Vọng tưởng dấy lên biết, vọng tưởng lặng xuống cũng biết, biết như thế từ từ vọng tưởng hết, vọng tưởng hết tâm nhất như. Rồi thì lúc đó đi nhổ cỏ, hái rau, bẻ củi, trong tất cả trường hợp làm gì cũng ở trong định cả. Người tu theo Thiền tông. ngồi thiền mà quên hết chuyện bên ngoài là bị ăn gậy. Như ở Nhật, người ngồi thiền mà đến giờ đánh kẻng xả thiền, tất cả mọi người đều xả, nếu có vị nào quên xả là bị giám thiền lôi ra đánh đòn. Tại sao vậy? Vì thiền của Ðại thừa là chủ trương sống trong thực tại, nếu quên thực tại chìm trong cái không tịch là bị ăn đòn. Lục Tổ ngày xưa, thấy chư Tăng ngồi thiền là ngài quở. Ngài bảo phải thiền trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Ðó là chỗ sai biệt giữa định Tiểu thừa và định Ðại thừa.

– Khi tâm không trụ mà biết thì đâu thể đồng với định tánh Thinh văn, mà nếu không có chỗ trụ thì đâu luận xứ sở. Khi tâm chúng ta không trụ mà biết, tức là tâm yên lặng mà biết chứ không phải mê. Như vậy làm sao đồng với Thinh văn là quên hết tất cả? Biết nhưng không trụ trước, nên nói không có xứ sở. Như vậy, người tập tu theo định này không còn sợ ngồi thiền mà biết tất cả. Có một số thiền sinh tu trong thiền viện, khi ngồi thiền tâm lặng lẽ, cái gì xảy ra chung quanh cũng biết, rồi phát sợ rằng tu như vậy không tiến. Cái gì xảy ra chung quanh đều phải biết, biết mà không để tâm phân biệt, ấy mới là sống với cái hiện hữu. Quý vị phải hiểu kỹ sự sai biệt giữa định Thinh văn và định Ðại thừa để khỏi lầm lẫn trong khi tu.

11. HỎI: Người ngộ lý dứt vọng thì không kết nghiệp, sau khi mạng chung linh tánh sẽ nương vào đâu?

Câu này là cái nghi chung của đại đa số người. Có người hỏi chúng tôi:

– Người tu Tịnh độ, chết về Cực Lạc, quý thầy tu thiền chết về đâu?

Chúng ta nghe ngài Khuê Phong đáp:

ÐÁP: Tất cả chúng sanh đều có tánh giác linh minh không tịch, không khác với Phật, chỉ do từ vô thủy kiếp đến nay chưa từng liễu ngộ, vọng chấp thân là tướng của ta, cho nên sanh tình yêu ghét. Theo tình tạo nghiệp, theo nghiệp thọ báo sanh, già, bệnh, chết luân hồi nhiều kiếp. Nhưng, giác tánh trong thân chưa từng sanh tử. Như mộng thấy bị xua đuổi mà thân vẫn nằm yên trên giường. Vốn tự vô sanh thì đâu có chỗ nương gá.

Tánh giác là cái vô sanh mà hỏi chỗ nương gởi thì làm sao trả lời? Nó là:

– Tinh lanh không mờ mịt, rõ ràng thường biết, không từ đâu đến cũng không đi đâu.

Nếu chúng ta ngộ được chân tánh, thì không nói đi đâu và đến đâu, vì chân tánh trùm khắp, nói đi đâu là có chỗ nơi nhất định. Chúng ta tu là mong được Niết bàn vô sanh mà còn nghĩ đến có chỗ để sanh, thật là mâu thuẫn. Mâu thuẫn tại chỗ dốt của chúng ta, hễ tu là mong đời sau giàu sang để hưởng sung sướng. Tu mà không nói sanh về cõi nào thì buồn lắm. Chủ yếu của đạo Phật, tu là để dứt sanh tử, mà nếu còn mong có đời sau, có chỗ sanh, tức là còn tiếp nối dòng sanh tử. Người đặt câu hỏi này chứng tỏ họ chưa hiểu gì về thiền.

Lại có người thắc mắc:

– Người tu Tịnh độ, nếu chưa hết nghiệp thì đới nghiệp vãng sanh. Tức là mang nghiệp về Cực lạc tu tiếp. Còn người tu thiền, nghiệp chưa hết, khi chết phải làm sao?

Ðây, ngài trả lời:

– Song, vọng chấp nhiều đời huân tập thành tánh mừng, giận, vui, buồn, trôi chảy nhỏ nhiệm, tuy đã đốn ngộ chơn lý mà tình này không thể dứt liền, cần phải hằng xét nét dần dần tổn giảm. Như gió dừng thì sóng dần dần lặng. Ðâu thể tu hành một đời mà đồng lực dụng của chư Phật, chỉ nên lấy không tịch làm thể của mình, chớ nhận sắc thân này, lấy linh tri là thân của mình, đừng nhận vọng niệm, vọng niệm nếu khởi không nên theo nó, tức là khi sắp mạng chung tự nhiên nghiệp không thể ràng buộc. Tuy có thân trung ấm mà đi đâu tự do, tùy ý đến cõi người, cõi trời thọ sanh.

Vì vọng chấp nhiều đời huân tập thành tánh, nào là mừng, giận, thương, ghét, vui, buồn v.v… Không thể một đời dứt hết, cần phải xét nét để cái nghiệp chúng ta huân lâu đời dần dần tổn giảm. Và, chỉ nên nhận tánh không của tứ đại làm thể của mình, chớ đừng nhận sắc thân tứ đại này là của mình. Lấy cái linh tri làm tâm mình, chớ đừng nhận vọng niệm làm tâm mình. Hàng ngày chúng ta hằng sống với cái linh tri, vọng tưởng dấy lên không theo nó, thì khi sắp mạng chung, tự nhiên nghiệp không thể ràng buộc được. Như vậy, tuy chưa dứt nghiệp mà chúng ta vẫn tự do, tùy ý đến cõi trời, cõi người thọ sanh. Lúc ấy, chúng ta muốn về Cực Lạc cũng không ai ngăn cản.

Có người lại thắc mắc:

– Người niệm Phật, lúc sắp mạng chung họ có câu niệm Phật buộc tâm nên tâm không loạn. Còn chúng ta tu thiền khi thân thể khỏe mạnh, dùng trí Bát nhã quán chiếu thấy tánh không của tứ đại là thể của mình, và vọng niệm dấy lên không theo, thì có thể tu được. Nhưng khi hấp hối, sợ chết quá, luýnh quýnh, làm sao quán nổi?

– Chính vì vậy, nên Phật Tổ dạy hàng ngày người tu thiền phải dùng trí Bát nhã quán chiếu để thấy thân tứ đại này là giả. Hằng quán như vậy, thì chết đến chúng ta vẫn tỉnh táo, mạnh dạn đón tiếp cái chết một cách bình thản, chớ không sợ hãi khủng khiếp như người không tu. Cho nên các thiền sư khi chết, ngồi an nhiên mà tịch, không phải co tay, giật chân, miệng méo như người thường. Chúng ta thấy cũng đồng thời đau, như đau bụng chẳng hạn, với người trí huệ kém, nuông chiều thân này, khi đau nhào lộn khóc lóc, kêu người này réo người nọ. Người trí huệ mạnh, coi thường cái thân, khi đau họ gan dạ chịu đựng, nên họ không rên la. Ðó là trí huệ mạnh, làm chủ được thân nên tâm tịnh, còn trí huệ yếu tình cảm nhiều, không làm chủ được thân nên tâm loạn. Vì vậy, tôi thường nhắc quý vị hàng ngày phải dùng trí Bát nhã chiếu soi luôn, để thấy thân này là tạm bợ, sự mất còn của nó như trò chơi, chẳng có gì quan trọng, thì không lo sau khi mạng chung không biết chỗ đi. Chừng đó tùy ý, chỗ nào đủ duyên thì đến làm lợi ích cho chúng sanh. Còn nếu bình thường nuông chiều thân này quá, đau chút ít không chịu nổi, khổ một chút thì kêu than. Tâm không buông xả vọng tình, còn đầy ấp buồn, vui, thương, ghét… thì chắc chắn khi mạng chung tâm sẽ loạn, và theo nghiệp thọ sanh, nặng đâu sa đó.

– Nếu niệm yêu ghét đã hết, tức không thọ nhận thân phần đoạn (thân còn ăn uống thô) tự hay đổi dở thành hay, đổi thô thành diệu.

Trường hợp này, nếu niệm yêu ghét hết tức là tình chấp hết, thì không còn thọ thân thô tháo ăn uống như chúng ta nữa. Khi bỏ thân này rồi, muốn thân nào cũng được, từ cái thân thô biến thành thân đẹp, chừng đó tùy ý đến các cõi lành để tu tiến thêm.

– Nếu phần trôi chảy nhỏ nhiệm lắng sạch tất cả, chỉ riêng còn Viên giác Ðại trí sáng suốt, tùy cơ ứng hiện trăm ngàn ức thân độ chúng sanh hữu duyên, gọi đó là Phật.

Nếu người trong tâm không còn một niệm vi tế nào hết chỉ còn tánh Viên giác Ðại trí sáng suốt tức là chứng được pháp thân. Lúc ấy, tùy duyên ứng hiện trăm ngàn hóa thân để độ chúng sanh, gọi đó là Phật.

Ngài đã giải rõ như vậy, chúng ta tùy sức mà tu hành, đừng thắc mắc lo sợ. Nếu tu viên mãn thì thành Phật, nếu chưa viên mãn thì thành Bồ tát hạnh, vì nguyện lực mà ra đời độ sanah, còn thấp hơn nữa thì cố gắng hàng ngày thường tỉnh giác, để lúc chết tỉnh táo thì chẳng bị nghiệp lôi, đi đâu tùy ý. Chúng ta cũng đừng sợ cõi Ta Bà này, cho là ô nhiễm mà phải lựa cõi khác để tái sanh, ô nhiễm hay thanh tịnh gốc cũng tại tâm, chuyển được nghiệp thì ô nhiễm biến thành thanh tịnh, ngài có làm tám câu kệ diễn bày ý này:

Tác hữu nghĩa sự,

Thị tỉnh ngộ tâm.

Tác vô nghĩa sự,

Thị cuồng loạn tâm.

Cuồng loạn tùy tình niệm,

Lâm chung bị nghiệp khiên.

Tỉnh ngộ bất do tình,

Lâm chung năng chuyển nghiệp.

Dịch:

Làm việc có nghĩa,

Là tâm tỉnh ngộ.

Làm việc vô nghĩa,

Là tâm cuồng loạn.

Cuồng loạn theo tình niệm,

Lâm chung bị nghiệp lôi.

Tỉnh ngộ không theo tình,

Lâm chung hay chuyển nghiệp.

Qua tám câu kệ này, chúng ta thấy ai giải thoát, ai trầm luân rõ ràng:

Tác hữu nghĩa sự,

Thị tỉnh ngộ tâm.

Tác vô nghĩa sự,

Thị cuồng loạn tâm.

Chữ nghĩa này không phải là chữ nghĩa theo thế gian. Ở thế gian, người có nghĩa là người biết phải quấy, biết ăn ở hiếu nghĩa với cha mẹ, anh em quyến thuộc, biết thương yêu người nghèo khổ láng giềng v.v… Chữ nghĩa ngài Khuê Phong dùng trong bài kệ này ý khác. Làm việc có nghĩa là làm việc phù hợp với lý chân thật, mà làm việc phù hợp với lý chân thật thì tâm tỉnh ngộ. Vậy, thế nào là làm việc phù hợp với lý chân thật? Như người tu tại gia thọ tam quy, ngũ giới, hoặc bát quan trai giới thì phải giữ đúng theo đó mà tu; còn người xuất gia giữ đúng giới luật của người xuất gia mà tu. Người tu theo Thinh văn thì giữ đúng theo tinh thần của Tứ đế, hằng quán lý vô thường, khổ, không,vô ngã; người tu theo Bồ tát hạnh thì tu hạnh Lục độ Ba la mật… Như vậy, hợp với lý chân thật thì tâm tỉnh ngộ, còn nếu ngược lại, làm việc vô nghĩa thì tâm cuồng loạn. Mà tâm cuồng loạn thì:

Cuồng loạn tùy tình niệm,

Lâm chung bị nghiệp khiên.

Nếu tâm cuồng loạn thì chết bị nghiệp lôi, mà bị nghiệp lôi là còn luân hồi. Nếu:

Tỉnh ngộ bất do tình,

Lâm chung năng chuyển nghiệp.

Tức là tỉnh ngộ không theo tình niệm, thì khi lâm chung chuyển được nghiệp, chuyển được nghiệp thì giải thoát, rõ ràng như vậy không sai. Nhưng không theo tình niệm là sao? Mục đích ngồi thiền là để tỉnh ngộ, tức là tập sống với cái chân thật của mình. Ngồi thiền nếu trọn giờ không theo vọng niệm là trọn giờ tỉnh giác và giải thoát. Biết như vậy, chúng ta cố gắng làm chủ đừng chạy theo tình niệm, uổng một đời tu! Ban đầu tập làm chủ trong giờ tọa thiền, sau tập làm chủ trong mọi oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm và trong lúc làm việc. Quen dần chúng ta làm chủ mình trong hai mươi bốn giờ trong một ngày, rồi suốt tuần, suốt tháng, suốt năm. Làm chủ được tâm không chạy theo tình niệm, thì chắc chắn chuyển được nghiệp, sau khi chết không bị nghiệp lôi. Và tùy ý, thấy chỗ nào có duyên thì ứng thân đến đó để giáo hóa, cha mẹ, quyến thuộc, thí chủ ở nơi nào cũng hóa độ được. Biết rõ như vậy, khi tu chúng ta mới an lòng. Bằng không biết giá trị của sự tu hành, khi đang tu bị chê là tiêu cực, ích kỷ thì lúng túng, muốn ra làm Phật sự. Nhưng khi ra làm việc, mà còn đầy ắp tình niệm thì vẫn còn luân hồi, vì nhơn luân hồi là tình niệm thì quả cũng là luân hồi.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.