Nguồn Thiền Giảng Giải

Biện Minh Phương Tiện



– HỎI: Nay biên tập lời nói của các thiền gia đâu quan hệ gì đến kinh luận?

– ÐÁP: Phải biết chỗ quyền thật của kinh, luận mới biện biệt được lẽ phải quấy của thiền gia. Lại phải biết tâm, tánh, tướng của thiền gia mới hiểu được sự lý của kinh, luận. Có mười lý do:

1.- Thầy có gốc ngọn, nương gốc để ấn định ngọn.

2.- Thiền có các tông trái ngược nhau.

3.- Kinh như dây mực để thẩm định tà chánh.

4.- Kinh có quyền, thật phải y liễu nghĩa.

5.- Lượng có ba thứ phải phối hợp cho đúng.

6.- Nghi có nhiều thứ phải giải quyết cho hết.

7.- Pháp nghĩa không đồng phải khéo nhận biết.

8.- Tâm thông cả Tánh, Tướng, tên đồng mà nghĩa khác.

9.- Ngộ tu có đốn tiệm, nói dường như trái nhau mà phù hợp.

10.- Thầy dạy có phương tiện phải biết thuốc biệt bịnh.

Sau đây, ngài giải thích từng lý do một:

1.- Thầy có gốc ngọn, nương gốc để ấn định ngọn: Vị thủy tổ của các tông tức là đức Phật Thích Ca. Kinh là lời dạy của Phật. Thiền là ý của Phật. Chư Phật tâm và miệng ắt không trái nhau. Chư Tổ truyền thừa “Cội gốc” là Phật. Phật phó chúc cho Bồ Tát tạo luận là “Ngọn”.

Tất cả tông phái trong đạo Phật đều nhìn nhận đức Thích Ca Mâu Ni là vị thầy chung. Kinh là từ nơi miệng Phật nói ra, tâm Phật chứng ngộ gọi là thiền. Chúng ta tu y theo kinh là y theo lời Phật nói, y theo thiền là ngộ được tâm Phật. Như vậy, tâm và miệng Phật đâu có khác nhau. Nghĩa là kinh nói để làm sáng tỏ thiền, tu thiền để thấy được ý kinh. Nếu nói ngoài kinh có thiền thì không hợp vậy. Các vị Tổ truyền thiền đều gốc từ Phật. Phật phó chúc rồi Bồ Tát sau này tạo luận ấy là ngọn.

– Huống là từ Tổ Ca Diếp cho đến Tổ Ưu Ba Cúc Ða hoằng truyền đều gồm cả ba tạng. Từ Bồ Ðề Ða Ca về sau nhơn Tăng khởi tranh luận nên có giáo hạnh riêng. Từ nước Kế Tân đến nay, nhân nạn vua nên kinh, luận phân hóa.

Như chúng ta đã biết, vị Tổ đầu tiên được đức Phật truyền thiền là Tổ Ca Diếp, kế đến là ngài A Nan, rồi lần lượt đến các ngài Ưu Ba Cúc Ða, các tổ đều thông cả ba tạng và ngộ thiền. Như vậy, kinh và thiền song song, không truyền thiền ngoài kinh. Nhưng sau đó, do có sự tranh luận của chúng Tăng nên mới chia Thiền tông riêng. Lại thêm nạn vua chúa nên kinh, luận bị phân hóa thất lạc, hoặc bị thiêu đốt v.v…

– Khoảng giữa đó có Tổ Mã Minh, Long Thọ tạo luận giải thích kinh đến vài ngàn bài kệ, xem phong tục mà cải hóa nhân tâm, không nhất định quy tắc. Nhưng chưa có người giảng kinh hủy báng người tu thiền, người tu thiền chê bai người giảng kinh. Tổ Ðạt Ma đắc pháp, thân hành từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa, thấy phương này người học phần nhiều chưa đắc pháp, chỉ dùng danh số làm giải, sự tướng làm hạnh. Ngài muốn chỉ cho biết mặt trăng, không phải ở ngón tay, pháp tâm là tâm của mình, cho nên chỉ dùng “Tâm truyền tâm, không lập văn tự”, hiển bày tông để phá chấp nên có lời dạy, không phải lìa văn tự nói giải thoát. Vì thế có người nhận được ý chỉ, ngài liền khen ngợi kinh Kim Cang, kinh Lăng Già rằng: “Hai kinh này là tâm yếu của ta”.

Hai vị Tổ trong Thiền tông cũng là hai vị Bồ Tát nổi danh trong lịch sử của Ðại thừa Phật giáo, đó là ngài Mã Minh và Long Thọ. Hai vị này y theo kinh Phật làm kệ giải thích có tới ngàn vạn bài. Như vậy, từ Tổ Ca Diếp tới Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma là Tổ thứ hai mươi tám của Thiền tông Ấn Ðộ, đều thông kinh Phật, cho nên chưa từng thấy hai bên chê bai chỉ trích lẫn nhau, kinh và thiền không rời nhau. Nhưng khi Tổ Ðạt Ma sang Trung Hoa thấy người học Phật nhiều, người ngộ đạo ít. Người học Phật cứ lo giải thích danh số và lấy các sự tướng bên ngoài làm hạnh tu, người nào giảng kinh rộng cho là ngộ đạo. Thật ra chỉ giảng trên danh tướng mà không ngộ được tông chỉ, không liễu đạt tự tâm. Tổ Ðạt Ma muốn chỉ cho họ thấy “Mặt trăng không phải ở ngón tay”, vì để phá những lầm chấp văn tự của người phương này nên khi sang Trung Hoa, Tổ dõng dạc tuyên bố:

Giáo ngoại biệt truyền,

Bất lập văn tự.

Trực chỉ nhơn tâm,

Kiến tánh thành Phật.

Nghe nói :Giáo ngoại biệt truyền”, có người cho rằng ngài truyền riêng ngoài kinh điển. Nhưng chủ ý của ngài là muốn phá kiến chấp sai lầm của người, cho rằng thông kinh hiểu nghĩa là ngộ đạo, cũng như người cho ngón tay là mặt trăng. Ngón tay dụ cho giáo là kinh, mặt trăng dụ cho thiền hay là tâm. Muốn thấy mặt trăng thật thì phải nhìn mặt trăng đừng nhìn ngón tay chỉ. Cũng vậy, muốn đạt tự tâm nương nơi kinh Phật để ngộ, kinh giáo không phải là tâm. Như vậy, nói ngoài giáo không có lỗi. Chủ đích của ngài là muốn cho người tu ngộ tự tâm chứ đừng kẹt trên chữ nghĩa.

Nhưng bây giờ người tu phần nhiều kẹt trên chữ nghĩa hơn là ngộ bản tâm thanh tịnh của mình. Thậm chí có người lấy thời khóa tụng làm sự nghiệp tu hành. Khi Phật còn tại thế, ngài và các đệ tử chỉ tọa thiền không có tụng kinh. Sau này chư Tổ bày ra sự tụng kinh là muốn mượn phương tiện cho người sơ cơ dừng vọng tưởng. Trong khi tụng kinh, tay gỏ mõ, tay đánh chuông, ý duyên vào lời kinh thì ba nghiệp được thanh tịnh. Nửa giờ hoặc một giờ ba nghiệp được thanh tịnh ấy là tu được nửa giờ hay một giờ. Nhưng người tu không tụng kinh với chủ ý đó, mà lại lấy sự tụng niệm làm sự nghiệp. Suốt một đời tu cứ sáng một thời công phu, chiều một thời Tịnh độ, còn bày cầu an, cầu siêu, cho kinh này linh, kinh kia không linh, loanh quanh lẩn quẩn bên ngoài sự tướng. Tự mình đã không lợi ích còn hướng dẫn người sai lầm nữa. Thật là đáng thương xót! Tụng kinh đâu có lỗi, lỗi tại không hiểu được ý kinh để áp dụng tu hành. Nương nơi kinh để thấy được bản tâm của mình ấy là người chánh tín, nương nơi kinh để cho ba nghiệp được thanh tịnh, ấy là người sơ cơ tu đạo.

Ở thiền viện, tôi dùng bài kinh Bát Nhã làm khóa lễ tụng mỗi ngày là chủ ý cho thiền sinh nương nơi lời kinh, hằng nhớ quán chiếu năm uẩn tự tánh là không. Khi tâm đã thuần thục rồi, thiền sinh không đến trước bàn thờ tụng kinh nữa mà đi, đứng, ngồi, nằm lúc nào cũng thấy năm uẩn đều không. Nếu không biết nương nơi kinh để tìm ra đường lối tu, cứ một bề lấy sự lễ tụng làm trên khi về già lễ tụng không nổi, thì lấy cái gì để nương? Như vậy, tu suốt cả đời không được lợi ích gì sao?

Nghe nói “Bất lập văn tự”, có người không hiểu cho rằng Thiền tông chủ trương bác bỏ văn tự, là không đúng. Song, đọc trong Tục Tạng chúng ta sẽ thấy có đến hai mươi lăm quyển, mỗi quyển gồm mấy trăm trang nghi, nhưng Ngữ lục của chư Tổ như Lâm Tế ngữ lục, Tào Ðộng ngữ lục, Hoàng Bá ngữ lục… ngài nói “Bất lập văn tự” là để phá chấp cho những người chấp văn tự, và nói “Giáo ngoại biệt truyền” là để chỉ cho người “Mặt trăng không phải là ngón tay”. Khi truyền pháp cho ngài Huệ Khả, Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma trao bốn quyển kinh Lăng Gia để làm tâm ấn. Tổ còn khen ngợi kinh Kim Cang, kinh Lăng Già: “Hai kinh này là tâm yếu của ta”. Như vậy, Tổ không phủ nhận kinh điển.

– Thời nay, các đệ tử chấp kia đây mà quên gốc, người tu tâm (thiền) thì cho kinh luận là tông riêng. Người giảng kinh thì cho thiền môn là pháp khác. Nghe nói nhơn quả tu chứng bèn đẩy qua thuộc nhà kinh luận, đâu biết tu chứng chính là việc gốc của thiền môn. Nghe nói tức tâm là Phật bèn đẩy qua thuộc Thiền hông ngực (hung khâm), đâu biết tâm Phật chính là bản ý của kinh luận. Nay nếu không lấy chỗ quyền thiệt của kinh, luận để đối chiếu chổ sâu cạn của thiền tông, thì đâu có thể dùng giáo (kinh luận) chiếu tâm (thiền), dùng tâm hiển giáo

Thời ấy người tu không thông cho thiền và kinh khác nhau, nói đến nhơn quả tu chúng thì cho đó thuộc về những vị giảng kinh luận, không biết tu chứng là điểm chính yếu của các vị tu thiền. Vị thủy tổ của chúng ta là đức Thích Ca Mâu Ni do tu thiền định mà đắc đạo. Và trong lịch sử Phật giáo Tiểu thừa cũng như Ðại thừa, các vi A La Hán và Tổ sư đều do tu thiền mà chứng đạo. Nghe nói tức tâm là Phật bèn cho đó thuộc về thiền hông ngực. Thời ấy cũng có nhiều vị tu thiền mà không chịu học kinh, nên không hiểu lý kinh, mở miệng nói thiền thì đặt tuồng bụng, không hợp với kinh điển, do đó những vị Sư thông kinh cho những vị Sư tu thiền dốt, ấy là thiền hông ngực. Cả hai đều có chỗ để chê nhau chứ không chịu dung hội mà bổ khuyết cho nhau. Ðâu biết rằng, chủ yếu của kinh luận là chỉ bày cho chúng ta thấy được bản tâm. Nên ngài Khuê Phong mới chủ trương dùng kinh để hiểu thiền và dùng thiền làm sáng tỏ ý kinh. Hai bên hỗ tương chớ không thể tách rời nhau được.

2.- Thiền có các tông trái ngược nhau: Nay biên lời thuật gần đến trăm nhà, nhưng tông nghĩa riêng biệt vẫn đến mười vị: Giang Tây (Ðạo Nhất), Hà Trạch (Thần Hội), Bắc Tú (Thần Tú), Nam Săn (Trí Săn), Ngưu Ðầu (Pháp Dung), Thạch Ðầu, Bảo Ðường, Tuyên Thập và Châu Na, Thiên Thai…

Tuy sách này biên lời thuật gần đến một trăm nhà, nhưng tông nghĩa riêng biệt. Ngài nêu lên mười vị, có những vị là môn đồ của Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma, có những vị không phải, ngài cũng gom vào tập sách này. Sự lập tông truyền pháp của các ngài có nhiều phương tiện khác nhau. Người học mới nghe qua đường như chống nhau. Nhưng sự thực không hẳn vậy.

– Lập tông truyền pháp trái ngược nhau, có vị lấy “Không” làm gốc, có vị lấy “Tri” (biết) làm nguồn, có vị bảo “Vắng lặng mới là chơn”, có vị nói “Ngồi, đi đều phải”, có vị nói “Hiện nay sớm chiều phân biệt tất cả đều vọng”, có vị bảo “Phân biệt tất cả đều chơn”, có vị nói “Muôn hạnh đều còn”, có vị bảo “Ðến Phật cũng mất”, có vị phóng nhậm chí mình,có vị câu thúc tâm mình, có vị lấy kinh luật làm chỗ y cứ, có vị cho kinh luật là chướng đạo. Không những các vị nói phiếm mà lại bàn chính xác, chính xác hoằng truyền tông của mình, chính xác hủy báng các tông khác, đâu có thể hòa hợp được.

Ngài nêu lên sự lập tông truyền pháp sai biệt của mười vị này:

– Có vị lấy “Không làm gốc: ngài Thạch Ðầu nói tất cả các pháp đều không.

– Có vị lấy “Tri” (biết) làm nguồn: ngài Thần Hội ở Hà Trạch nói: “Tri như nhất tự chúng diệu chi môn”, nghĩa là một chữ biết là cửa muôn hạnh.

– Có vị bảo “Vắng lặng mới là chơn”: đó là đường lối của ngài Thạch Sương Khánh Chư, ngài dạy đồ chúng ngồi thiền cho yên lặng.

– Có vị nói “Ngồi, đi đều phải”: đây là đường lối của ngài Mã Tổ ở Giang Tây.

– Có vị nói “Hiện nay sớm chiều phân biệt tất cả đều vọng”: đó là chủ trương của ngài Thạch Ðầu Hy Thiên…

Ðây, tôi dẫn chứng hai vị thiền sư của hai dòng thiền là huynh đệ cùng phát nguồn từ Lục Tổ, mà chủ trương lại khác nhau:

Ngài Thạch Ðầu nói: “Hiện nay sớm chiều phân biệt tất cả đều vọng”.

Ngài Mã Tổ nói: “Phân biệt tất cả đều chơn”.

Tôi xin giải thích chỗ không khác của hai ngài trong lối nói ngược nhau này:

a.- Chủ trương của Thạch Ðầu là “Loại ra”. Ngài nói: Hiện nay tất cả phân biệt và mọi hành động, đi, đứng, nằm, ngồi của chúng ta đều do vọng tưởng. Biết rõ nó là do vọng nên tâm không chạy theo, không dính mắc ở hai bên, hằng sống với tâm thể lặng lẽ như như.

b.- Chủ trương của Mã Tổ là “Thu vào”. Ngài cho rằng: Tất cả việc đi, đứng, nói năng của chúng ta đều là chơn. Vì do vọng tưởng không có tự tánh, do tâm mê nên nó dấy lên. Cũng như sóng, không có tự tánh, do gió thổi nên mới có sóng dậy. Nhìn trên hình tướng, bao nhiêu lượn sóng chúng ta thấy nó sai biệt, nhưng thể nó đều là nước. Ngay nơi sóng, biết là nước thì có lỗi gì? Cũng vậy, tất cả vọng tưởng nói năng đều từ chơn tâm hiện, ngay nơi vọng biết nó là chơn, đâu có lỗi. Nếu chúng ta thấy người, thấy vật đều biết không ngoài chơn tâm hiện, thì có đem chơn tâm phân biệt hay không? Nếu không khởi phân biệt thì tâm hằng lặng lẽ như như.

Hai lối nói của hai ngài coi như ngược nhau mà lại gặp nhau. Tất cả đều là hư vọng giả dối cũng không khởi tâm chạy theo cảnh. Thấy tất cả đều là chơn tâm hiện cũng không khởi tâm chạy theo cảnh. Cả hai đều gặp nhau ở chỗ tâm nhất như.

Hiểu được chỗ này, đọc lịch sử các thiền sư chúng ta liền biết vị ấy thuộc dòng thiền nào. Như đọc lịch sử Việt Nam, ta thấy ngài Thiền Lão thiền sư mang sắc thái của thiền Mã Tổ.

Một hôm, vua Lý Nhân Tông vào núi gặp ngài, bèn hỏi:

–         Hoà thượng ở đây được bao lâu rồi?

Ngài đáp:

Ðản tri kim nhật nguyệt,

Thùy thức cựu xuân thu?

Tạm dịch:

Chỉ biết ngày tháng này,

Còn xuân thu trước ai hay làm gì?

Vua hỏi tiếp:

–         Hòa thượng ở đây làm gì?

Ngài đáp:

Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh,

Bạch vân minh nguyện lộ toàn chân.

Tạm dịch:

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác,

Trăng trong trong mây trắng hiện toàn chơn.

Qua bốn câu thơ trả lời của ngài, chúng ta thấy ngài sống được với thực tại chứ không bị lệ thuộc vào thời gian, tất cả cảnh vật ở trước mắt ngài đều từ chơn tâm hiển lộ. Ngài cách Mã Tổ bao nhiêu đời, mà cái thấy không khác.

– HỎI: Phải thì nhận, sai thì loại ra đâu cần chiều theo để hòa hội?

– ÐÁP: Hoặc không, hoặc hữu, hoặc tánh, hoặc tướng đều không phải tà quấy, chỉ tại mỗi vị công nhận phe mình là đúng, bài xích nhóm khác là sai, xác định kia đây, nên cần phải hòa hội.

Chư Tổ nói không, nói có, nói tánh, nói tướng đều không phải tà quấy. Do người sau chấp, nhìn một bên nên cho chủ trương của tông mình là đúng, chủ trương của tông khác là sai, rồi bài xích lẫn nhau. Vì vậy, ngài Khuê Phong nói cần phải hòa hội.

Ví dụ cái bàn, nói có, nói không, cả hai bên đều không trật. Tại sao? Nói không, là căn cứ trên mặt thể tánh. Nói có là căn cứ trên hình tướng duyên hợp tạm có. Người không thấu suốt lý đạo, khi nói không, cho là thật không, khi nói có, cho là thật có. Người thông suốt lý đạo thì nói sao cũng được, không chấp trên văn tự ngôn ngữ, nói để phá chấp cho người mà phù hờp với lý chân thật.

Có một cư sĩ mới học thiền, tới hỏi ngài Trí Tạng Tây Ðường:

–         Bạch Hòa Thượng, có Phật không?

Ngài trả lời:

– Có.

– Bạch Hòa Thượng, có pháp không?

– Có.

– Bạch Hòa Thượng, có thiên đường không?

– Có.

– Bạch Hòa Thượng, có địa ngục không?

– Có.

Hỏi cái gì ngài cũng đáp có, ông Cư sĩ thắc mắc, hỏi lại:

–         Hòa Thượng trả lời “Có”, có lầm chăng?

Ngài hỏi:

–         Trước khi đến đây, ông có hỏi ai những câu này không?

Cư sĩ thưa:

–         Dạ, con có hỏi Hòa Thượng Cảnh Sơn.

–         Hòa Thượng đáp thế nào?

–         Câu nào ngài cũng đáp không, còn ở đây câu nào Hòa Thượng cũng đáp có, Vậy ai trật, ai trúng?

Ngài liền hỏi ông cư sĩ:

–         Ông có vợ không?

–          Dạ, có.

–         Hòa Thượng Cảnh Sơn có vợ không?

–         Dạ, không?

–         Vì Hòa Thượng Cảnh Sơn không có vợ, nên ngài đáp câu nào cũng không, vì ông có vợ nên câu nào tôi cũng đáp có.

Ngài Cảnh Sơn không có vợ là ý muốn nói ngài không có ái nhiễm, ngài đã ngộ được các pháp tự tánh không, nên ngài mới đáp không. Sở dĩ có danh từ “Phật” là đối với “Chúng sanh” mà nói. Phật là giả danh, chỉ cho những ai đã giác ngộ, pháp cũng là giả danh chỉ cho tất cả sự vật, thiên đường, địa ngục cũng vậy v.v… Ðối với ông cư sĩ mới học đạo, còn đầy ái nhiễm và mê chấp, nên ngài Tây Ðường đáp có để ông ấy sợ mà lo tu hành. Ðó là chỗ khéo giáo hóa của các thiền sư. Vì vậy, nên ngài Khuê Phong nói phải cần hòa hội thì người sau hiểu được không còn bài xích lẫn nhau.

– HỎI: Ðã không phải là tà thì mặc tình họ xác định, cần gì phải hội lại?

– ÐÁP: Chí đạo là một, liễu nghĩa không hai, không nên còn hai. Chí đạo chẳng phải một bên, liễu nghĩa không phải thiên lệch, không nên nhận riêng. Cho nên, cần phải hội lại làm một khiến đều được viên diệu.

Người hỏi: “Nếu không phải là tà thì mặc tình họ xác định, cần gì ngài phải nhọc công dung hội?

Ngài đáp: “Chỗ chí đạo không hai và không nên còn hai”.

Nghĩa là đến chỗ liễu nghĩa thì không còn thiên lệch một bên. Không nên riêng nhận mình là phải và cho người là quấy. Còn phải quấy, hơn thua là còn kẹt hai bên, làm sao đạt được lý trung đạo?

Có một cư sĩ tới hỏi đạo một vị thiền sư (trên tay đang bưng một đĩa quả):

–         Bạch Hòa Thượng thế nào là đạo?

Ngài bảo:

–         Buông tay!

Cư sĩ liền buông một tay. Ngài bảo:

–         Buông nữa!

Cư sĩ buông một tay nữa và đĩa quả rớt luôn. Ngài bảo:

– Buông nữa!

Cư sĩ ngơ ngác! Nếu là người bén nhạy liền ngộ, vì chẳng ngộ nên cũng ngơ ngác như chú cư sĩ này. Thiền sư muốn chỉ cho chú cư sĩ lý trung đạo mà chú chẳng hội. Ngài bảo buông lần thứ nhất, lần thứ hai là buông cái chấp đối đãi hai bên: thiện ác, phải quấy, tốt xấu v.v… Nếu buông hai cái đó rồi tưởng chừng như không còn gì hết. Sợ người rơi vào chấp không nên ngài bảo luông lần thứ ba là buông luôn “Niệm chấp không”, đó mới đạt lý trung đạo. Lối dạy của các thiền sư rất là kỳ đặc, chỉ dùng một hai hành động hoặc lời nói ngắn gọn, cốt khiến cho người nhận ra lý đạo.

– HỎI: Lấy nước để chung với lửa thì không thể lưỡng toàn, đem mâu đâm vào thuẫn thì không thể cả hai đều thắng, chỗ chấp của các tông đã trái nhau, một phải ắt có một quấy thế nào hội lại đều khiến diệu

Người hỏi gạn lại: Thường thấy nước và lửa không ưa nhau, mâu với thuẫn thì chống nhau, một mất một còn, cũng như chỗ chấp của các tông hễ một phải thì một quấy, làm sao hội lại?

– ÐÁP: Ðều còn pháp kia, đều dẹp bệnh kia, tức đều diệu. Nghĩa là đem pháp đến người là khó, đem người đến pháp là dễ, người phần nhiều tùy tình khởi chấp, chấp trước trái nhau, thật như nước lửa chung nhau, mâu thuẫn chống nhau, cho nên khó. Pháp vốn xứng lý lẫn thông, thông tức tự nhiên thuận nhau, dừng chảy đều là nước, hoàn xuyến đều là vàng, cho nên dễ. Nói tóm lại cuộc chấp thì đều quấy, hội thông thì đều phải.

Pháp của Phật là chơn lý, đem chân lý nói theo tình người là khó, vì người phần nhiều sống theo tình thức, nên khởi chấp kia đây, thấy có trái nhau nên chống báng lẫn nhau. Do đó đem pháp của Phật nói cho người dẹp được bịnh chấp trước rất khó, khó làm mà làm được mới hay mới quý. Khi người hết chấp trước, sống được với chân lý (pháp) thì dễ, vì chân lý không lựa chọn cũng không từ chối một người nào. Khi chưa thấu suốt được lẽ thật thì thấy có sự sai biệt giữa các tông, nhưng khi đã thông được lý cứu cánh thì thấy thuận nhau. Ví dụ khi nhìn thấy các vòng xuyến, hoa tai v.v… trên hình tướng chúng ta thấy khác nhau, nhưng tất cả những thứ ấy đều do vàng làm ra. Nước ở trong ly, trong chai, trong hồ, dưới sông tuy thấy hình tướng dừng chảy khác nhau, nhưng chỉ có một thể tánh là ướt. Cũng vậy, khi người đạt được thể tánh thì không còn mắc kẹt trên hình tướng sai khác mà sanh phân biệt chấp trước. Còn chấp trước là còn quấy, thông suốt được ấy là phải.

– Nếu không lấy lời Phật dạy để hiển bày mỗi bên, thâu nhận sở trường của mỗi bên, quy lại làm ba tông đối với ba giáo, thì do đâu hội làm thiện xảo một thời, đều thành pháp môn yếu diệu. Cho nên, nếu mỗi bên quên được tình chấp của mình thì đồng quay về biển trí.

Ngài Khuê Phong lấy lời Phật dạy chứng minh để thừa nhận sở trường của mỗi bên. Ngài gom lại Thiền có ba tông, Kinh có ba giáo, đối chiếu để cho người sau lấy đó làm pháp môn yếu diệu mà tu hành. Nếu tất cả người tu hành đối với pháp môn nào cũng bỏ hết tình chấp thì mau trở về biển trí huệ. Trái lại cứ đeo đẳng tình chấp mà tu, cho pháp này cao, pháp kia thấp, pháp này hay, pháp kia dỡ… ấy là còn si mê, nếu còn si mê thì khó giải thoát!

3.- Kinh như dây mực để thẩm định tà chánh: Dây mực không phải khéo, mà thợ khéo phải lấy dây mực bằng cứ. Kinh luận không phải thiền, mà người truyền thiền phải lấy kinh luận làm tiêu chuẩn.

Kinh luận là lời nói chữ nghĩa ghi chép thành quyển thành pho, không phải là thiền (tâm giác ngộ). Song, người truyền thiền phải lấy kinh luận làm tiêu chuẩn để làm sáng tỏ tâm (thiền). Như thợ mộc khéo lấy dây mực làm bằng cứ để đẽo, bào cho các món đồ được ngay thẳng.

Tôi thường nói: “Kinh điển là chân lý chết, Thiền là chân lý sống”. Tại sao? Vì kinh là lời Phật nói chỉ cho chúng ta biết được chân lý, chân lý đó đang là hình thức của những chữ, mực, giấy là bất động, nương nơi đó để thấy được tâm mình là cái sống động. Người tu thiền nương kinh để trở về bản tâm, ấy là sống với chân lý. Vì vậy, Kinh và Thiền hai bên đều nương nhau không thể rời nhau được.

– Người trung, hạ căn nên y theo thầy. Thầy tự xem căn cơ tùy phần chỉ dạy. Người thượng căn ngộ phải viên thông, nếu chưa nghiên cứu Phật dạy thì đâu đồng chỗ thấy của Phật.

Hàng trung và hạ căn như chúng ta thì phải nhờ thầy chỉ dạy phương pháp tu, mới có lợi ích.Còn hàng thượng căn nghe một câu liền ngộ được lý, khi ngộ phải ngộ cho viên thông, muốn viên thông sau khi ngộ phải nghiên cứu lời Phật dạy. Nếu không nghiên cứu kỹ lời Phật dạy, thì làm sao cái thấy của mình đồng với cái thấy của Phật?

– HỎI: Mỗi nơi đều có kinh Phật mặc tình học giả chuyên đọc khảo cứu để thông hội. Người tập thiền hà tất phải thông kinh?

– ÐÁP: Ý này đoạn văn sau sẽ trả lời:

4.- Kinh có quyền thật phải y liễu nghĩa: Phật nói các kinh có khi tùy ý mình nói, có khi tùy ý người nói, có chỗ xứng lý cứu cánh, có chỗ tùy căn cơ đương thời, có nói tánh, tướng, đốn, tiệm, đại, tiểu, liễu nghĩa, không liễu nghĩa, văn gồm hình thức trái nhau, nghĩa ắt viên thông không ngại, như rồng ẩn biển sâu khó thấy được dấu vết.

Kinh Phật nói có quyền có thật, chúng ta học Phật muốn thấu được chỗ rốt ráo thì phải y nơi kinh liễu nghĩa, tức là y những kinh Phật nới lý cứu cánh không dấu diếm. Vì kinh Phật rầt nhiều, trong đó có khi Phật y nơi tánh, có khi y nơi tướng mà nói, có khi nói đốn, tiệm v.v… Trên văn chương chữ nghĩa chúng ta thấy như trái nhau, nhưng nghĩa lý thì viên thông không chướng ngại. Muốn nắm được chỗ cương yếu để áp dụng tu hành thì phải y nơi kinh liễu nghĩa và phải biết rõ “Quyền” và “Thật”.

Phật nói pháp rất linh động, không nhất định cũng không hạn cuộc.Có lúc tùy ý đức Phật nói ra là “Vô vấn tự thuyết”. Có khi tùy theo lời hỏi của người mà nói, tùy theo căn cơ cao thấp nên có lúc Phật phương tiện nói thấp không đúng chân lý. Ví dụ ở đây, tôi chuyên dạy tu thiền, nhưng có một cư sĩ đến hỏi:

– Thưa thầy, xin thầy dạy cho con phương pháp tu hành để đời sau được sung sướng.

Tôi trả lời:

– Muốn đời sau sung sướng thì bây giờ phải tập tu bố thí, trì giới, sau làm người được sung sướng.

Như vậy, tôi tùy căn cơ của người tới hỏi mà đáp. Nhưng có người không hiểu cho rằng tôi chủ trương dạy người tu bố thí, trì giới. Như vậy có sai không? – Sai. – Lại có người muốn tu thiền, đến thưa với tôi: “Xin thầy nói một câu thật ngắn gọn để con được thấy đạo”. Rồi hỏi tiếp:

– Thế nào là đạo.

Giả sử tôi đáp:

– Gạo ở Vũng Tàu hai trăm đồng một ký.

Người ấy không hội mà đồn rằng:

– Ông thầy ở tu viện Chơn Không dạy tu, nói cái gì lạ quá!

Như vậy người nghe không nhận ra ý chỉ của người dạy. Cũng vậy, đức Phật có khi nói cao, có khi nói thấp, khi nới quyền, lúc nói thật. Người đọc kinh phải thông suốt, nếu không thì chẳng hiểu đức Phật muốn dạy gì.

– Nay chỉ dùng hơn mười tờ giấy trình bày để chọn lựa đó, khiến một thời thấy rõ ý Phật. Sau khi thấy ý Phật thì tìm đủ trong một tạng, tức là mỗi câu đều biết được tông chỉ.

Sau khi chúng ta đọc qua những lời tóm gọn của ngài Khuê Phong, nếu nhận ra được ý Phật rồi thì đọc Tam Tạng giáo điển chúng ta đều hiểu không còn ngờ vực nữa.

*

5.- Lượng có ba thứ phải phối hợp cho đúng: Ở Ấn Ðộ các vị Hiền thánh hiển pháp nghĩa đều lấy ba lượng làm quy định. Một là tỷ lượng, hai là hiện lượng, ba là Phật ngôn lượng (thánh giáo lượng). Lượng là độ lượng như thăng đấu lường vật để biết chắc chắn.

Thuở xưa, ở Ấn Ðộ luận lý thường dùng ba lượng làm căn bản. Do đó, các vị Hiền thánh muốn hiển bày pháp nghĩa cũng lấy ba lượng này làm quy định. Lượng là đo lường, như muốn đong lúa chúng ta phải dùng thăng hoặc đấu để lường mới biết chắc chắn nó là bao nhiêu.

a.- Tỷ lượng: dùng nhơn do thí dụ so sánh. Như ở xa thấy khói ắt biết tại đó có lửa, tuy không có lửa nhưng không phải hư dối.

Tỷ lượng là so sánh để lượng biết. Ví dụ, ở đây nhìn ra lộ, chúng ta thấy có khói liền so sánh: ngoài kia có khói ắt có lửa.

b.- Hiện lượng: chính mình nhìn thấy, không nhờ sự suy xét, tự nhiên quyết định.

Ví dụ có người đốt lửa trước mắt, chúng ta nhìn thấy rõ ràng, biết chắc là lửa không cần phải so sánh.

c.- Phật ngôn lượng: lấy kinh Phật làm quyết định.

Tức là căn cứ vào lời Phật dạy trong kinh làm quyết định.

Phối hợp cho đúng, nếu chỉ y cứ lời Phật nói, không tự so sánh, chứng ngộ tự tâm chỉ là tin suông, nơi mình chưa có lợi ích gì.

Trong nhà Phật luôn luôn lấy ba huệ làm gốc đó là: Văn huệ, Tư huệ, Tu huệ. Nghe kinh là Văn huệ, suy xét lời Phật dạy có đúng chân lý hay không là Tư huệ, áp dụng lời Phật dạy để tu chứng là Tu huệ.

Không riêng gì học Phật, học thế gian cũng phải áp dụng đủ ba môn huệ ấy. Khi học, trước phải học lý thuyết, rồi phê bình lý thuyết, cuối cùng là thí nghiệm, thí nghiệm xong mới xác định đúng hay sai. Nếu chưa qua giai đoạn thí nghiệm thì chưa chắc đúng.

Chúng ta học Phật cũng vậy, trong kinh Phật nói các pháp là vô thường. Nghe như vậy liền tin là chưa được, mà phải dùng trí huệ suy xét sự vật có vô thường hay không? Ví dụ cái nhà lúc mới cất thì mới, đẹp đẽ, một thời gian sau nói cũng hư mục… Xét rộng ra, tất cả mọi vật cũng vậy, kể cả thân người cũng không khỏi bị định luật vô thường chi phối. Quán xét xong rồi ứng dụng tu, nhờ tu mà được lợi ích, thấy rõ lời Phật nói là chân lý. Và chư Tổ dạy hết vọng tưởng thì chơn tánh hiển bày, cũng như hết mây thì trăng sáng. Nghe như vậy, tin suông chưa được mà phải nhìn lại coi có vọng tưởng hay không, nếu thấy có vọng tưởng rõ ràng, khi vọng tưởng lặng, biết đó là chơn tánh hiển bày. Khi biết mình có vọng tưởng và cũng có chơn tánh, nên cố gắng tu gạn lọc cho hết vọng tưởng, để chơn tánh hoàn toàn hiển lộ. Ấy mới chứng nghiệm lời Tổ nói là đúng. Nếu nghe lời Tổ nói mà tin suông, không chịu Tư và Tu huệ thì lâu ngày biến thành mê tín, do dó ở đây ngài Khuê Phong khuyên tu áp dụng cho đủ ba lượng, hay nói khác hơn, chúng ta tu phải lấy ba huệ làm gốc.

– Nếu chỉ nhận hiện lượng, tự thấy làm quyết định, không phối hợp lời Phật nói thì làm sao biết là tà chánh. Như ngoại đạo Lục sư tự thấy lý rồi chấp vào đó để tu hành, cũng đưọc công dụng, tự cho là chánh, đâu biết là tà.

Có người nỗ lực dụng công tu hành được chút ít kết quả, họ không chỉ đem kinh Phật ra so sánh, cứ hài lòng với kết qua của mình. Kết quả ấy có đáng tin không? Biết đâu lại rơi vào đường tà mà không hay! Ví dụ có người ngồi thiền một hôm bỗng thấy mình xuất hồn đi ngao du xứ này xứ kia, họ cảm thấy thích thú rồi hài lòng, tưởng như vậy là “đắc thiền”. Nhưng thiền ấy là thiền của ngoại đạo. Nếu họ chịu đem kinh Phật ra so sánh, thì thấy thiền này trong kinh Phật không dạy, hay Phật nói thiền này là tà. Biết rõ, liền thay đổi pháp tu để phù hợp với chánh pháp. Khi Phật còn tại thế, có bọn Lục sư ngoại đạo tự chấp vào một pháp tu nào đó như nhịn đói hoặc thoa tro đất vào mình hoặc lõa thể v.v… tự cho là chánh, nhưng họ đâu biết đó là tà.

– Nếu chỉ dùng tỷ lượng không có thánh giáo và chính mình thấy thì nương vào đâu để so sánh, so sánh với pháp gì? Cho nên, phải đủ ba lượng phối hợp cho đúng mới là quyết định. Thiền tông đã có hiện lượng và tỷ lượng nhiều, nay lại lấy kinh luận ấn chứng thì ba lượng đầy đủ.

Nếu trong ba lượng mà thiếu một, cũng không thể nào quyết định được, Cho nên phải luôn luôn phối hợp ba lượng. Như ở đây chúng tôi chủ trương “Thiền Giáo song hành”, là đầy đủ ba lượng không nghi. Trước hết chúng ta nghe kinh là Phật ngôn lượng, nghe rồi dùng trí suy xét để hiểu là tỷ lượng, nhận hiểu rồi tu là hiện lượng. Và khi ứng dụng tu, đem sự tu của mình đối chiếu lại với kinh Phật đó là tỷ lượng. Từ Phật ngôn lượng tới tỷ lượng, hiện lượng, rồi đem tỷ lượng hòa lại với Phật ngôn lượng, ba lượng phối hợp luôn luôn thì sự tu hành không sợ lầm lạc.

6.- Nghi có nhiều thứ phải giải quyết cho hết: Khoảng vài mươi năm nay thường có chư vị đại đức thông kinh giảng luận đến hỏi tôi:

a.- Tứ thiền Bát định đều ở cõi trên, cõi này không có thiền, phàm phu tu thiền phải y kinh luận dẫn dạy thiền định cõi trên, nhưng ở tại cõi này tu tập. Người tu tập thành tựu đều là những thứ thiền ấy, trong các kinh luận chỉ dạy đầy đủ không ngoài các thứ thiền này. Tại sao rời các thiền này riêng nói thiền môn, đã không y kinh tức là đạo tà.

Ý người hỏi nêu lên: trong kinh luận dạy tu Tứ thiền Bát định, các thứ thiền này đều ở cõi trên (cõi trời Sắc giới và Vô Sắc giới). Nghĩa là ở cõi này tu tập, kết quả sanh lên cõi trời. Thiền tông dạy không giống với Tứ Thiền Bát định, mà dạy tu đến chỗ vô sanh. Như vậy là trái với kinh luận, có phải là đạo tà chăng?

b.- Kinh dạy: “Tu dần dần trải qua ba vô số kiếp mới chứng Bồ đề”, Thiền môn bảo: “Ðốn ngộ thì trong sát na liền thành Chánh Giác”. Kinh là lời Phật nói, thiền là Tăng nói, bỏ Phật theo Tăng thầm nghĩ không nên.

Trong kinh Phật nói phải tu ba vô số kiếp mới thành Phật, các vị thiền sư nói đốn ngộ liền thành Chánh giác coi như trái ngược, e không đúng với ý chỉ của Phật nên đáng nghi.

c.- Yếu chỉ của thiền môn là “Không phải không quấy, dẹp bỏ oán thân, không sân không mừng”, tại sao lại có Nam Năng, Bắc Tú hiềm nhau như nước với lửa; Hà Trạch, Hồng Châu công kích lẫn nhau?

Thiền tông chủ trương dẹp cái thấy hai bên, không còn phải quấy, không còn mừng giận, tại sao lại có sự kích bác lẫn nhau? Sở dĩ có hiềm nhau là vì đồ đệ sau này còn tâm phàm rồi sanh đố kỵ lẫn nhau. Chư Tổ đã chứng đạo không có hiềm nhau. Kinh Pháp Bảo Ðàn phẩm Ðốn Tiệm có đoạn nói:

– Một hôm, ngài Thần Tú nói với môn nhơn: “Ngài Lục Tổ không học với thầy nào mà được Phật trí, hiểu sâu xa pháp tối thượng, ta không bì kịp. Vả lại, thầy ta là Ngũ Tổ đã bổn thân truyền trao y bát và Phật pháp cho ngài, há không có ý hay sao? Ta hận không thể đi xa được để đến gần thân thiết với ngài,, cư y đây thọ hưởng lộc vua. Các ngươi không nên câu nệ, hãy qua Tào Khê, cầu ngài chỉ dạy cho”. Ngài Thần Tú còn bảo sư Chí Thành qua Tào Khê nghe pháp, nghe bao nhiêu phải hết lòng ghi nhớ, về nói lại cho ngài nghe. Chúng ta thấy tâm lượng của các ngài thật là rộng rãi chớ đâu có hẹp hòi câu chấp như bọn phàm phu.

d.- Thiền tông sáu đời thầy trò truyền trao pháp đều nói rằng: “Trong trao lời mật, ngoài truyền y để làm tin, y và pháp giúp nhau lấy làm phù ấn”. Từ Tào Khê về sau không nghe việc này, không biết thời nay dạy người có nói “lời mật” chăng? Không nói thì người truyền không phải là pháp của Tổ Ðạt Ma, bằng có nói thì người nghe trọn phải được y.

Khi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma mới sang Trung Hoa, ngài chủ trương Thiền chỉ thẳng tâm tánh. Lúc đó đối với người Trung Hoa rất là mới mẻ, nên ngài phải truyền y để làm tin. Trong trao lời mật, tức là lấy tâm ấn tâm (ấn chứng vị đệ tử đó đã ngộ đạo). Sau Lục Tổ, người ngộ đạo rất nhiều, thiền tông bám rễ sâu trên đất Trung Hoa, do đó không cần truyền y nữa. Nhưng nếu không có y thì lấy gì làm chứng, không có bằng chứng làm sao tin đó là pháp thiền của Tổ Ðạt Ma.

e.- Lại có thiền đức hỏi: “Tổ Ðạt Ma truyền tâm không lập văn tự, ông tại sao trái với tiên Tổ giảng luận truyền kinh?”

Tổ Ðạt Ma chủ trương không lập văn tự, ngài dạy tu theo thiền của Tổ, nay lại giảng luận truyền kinh. Vậy có trái với tông chỉ của Tổ chăng?

f.- Tịnh Danh (Duy Ma Cật) đã quở ngồi yên, Hà Trạch (Thần Hội) bài xích ngưng tâm, Tào Khê (Huệ Năng) thấy người ngồi kiết già từng cầm gậy đánh cho đứng dậy. Nơi đây mỗi khi dạy bảo đều khuyên tọa thiền, thiền am la liệt đầy các núi rừng, trái tông ngược với Tổ thật là đáng nghi vậy?

Tôi tùy thời mỗi câu hỏi đối đáp, song người nghi có ngàn vạn, thương những người chưa nghe, huống là người nạn vấn lòng đầy cố chấp, mỗi người cố chấp khác nhau, kia đây lẫn trái, nhơn giải nghi Giáp lại thêm bệnh Ất, cho nên phải mở ba cửa nghi, bình luận một tạng kinh đáp chung cho những nghi trước đều thông suốt.

Kinh Duy Ma Cật, ngài Tịnh Danh quở ngồi yên là chết khô, ngài Thần Hội cho rằng người nào đề tâm cho lặng xuống ấy là bịnh, Lục Tổ Huệ Năng, lúc đó ở Tào Khê thấy Tăng ngồi thiền lim dim, ngài lấy gậy đập. Tại sao Tổ dạy thiền mà không cho người ngồi thiền? Còn nay tu thiền lại khuyên người tọa thiền. Thiền am la liệt, như vậy có trái tông Tổ chăng? Lục Tổ là nhục thân Bồ Tát, lúc còn là một cư sĩ, nhân đi gánh củi bán để mua gạo nuôi mẹ già, nghe người khách tụng kinh Kim Cang, ngài liền ngộ đạo (giải ngộ). Khi đến Huỳnh Mai, ngài giã gạo ròng rã tám tháng, nhân đi làm kệ để đối lại với bài kệ của ngài Thần Tú, Tổ biết được sở đắc của ngài nên kêu vào thất, giảng kinh Kim Cang đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, ngài triệt ngộ. Ngài dụng tâm tu trong mọi sinh hoạt hàng ngày mà chứng đạo, nên cũng muốn dạy đệ tử tu như vậy. Còn người sau này căn cơ thấp kém, ngồi lại tâm còn chạy lung tung huống là ra làm việc. Vì vậy, nên phải ngồi. Ngồi hay không ngồi tùy theo căn cơ cao thấp. Chúng ta ở đây, hễ ai ngồi ngủ gục là bị ăn gậy.

7.- Pháp nghĩa không đồng phải khéo nhận biết: Phàm muốn hiễu rỏ tánh tướng của các pháp, trước phải biện biệt pháp nghĩa. Y pháp giải nghĩa thì nghĩa ắt rõ ràng, dùng nghĩa nói pháp thì pháp phải bày biện. Nay dùng vật thế gian để rõ đó, như vàng ròng tùy duyên của người thợ bạc làm hoàn, xuyến, chung, tách… các thứ đồ vật tánh vàng ắt không đổi thành đồng, sắt. Vàng tức là pháp, không đổi mà tùy duyên là nghĩa. Giả sử có người hỏi: “Nói vật gì không đổi, vật gì tùy duyên”. Chỉ nên đáp: “Vàng vậy”.

Muốn hiểu tánh tướng của các pháp thìphải rành về nghĩa của pháp. Như một chất vàng, người ta làm ra các thứ vòng, xuyến v.v… tuy làm ra các món đồ, nhưng tánh vàng không đổi thành đồng sắt. Vàng là pháp chỉ cho thể, Nghĩa chỉ cho tùy duyên. Thể thì không đổi, tướng dụng thì tùy duyên. Vàng (thể) không đổi, tùy duyên (tướng dụng) ông thợ bạc muốn làm ra cả trăm thứ vẫn là vàng. Trong nhà Phật thường nói : “Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”.

– Dù cho nghĩa lý của một tạng kinh luận chỉ cốt nói “Tâm”, tâm tức là “Pháp”, tất cả là nghĩa. Cho nên kinh nói: “Vô lượng nghĩa từ một pháp sanh”.

Ba tạng kinh đều chỉ cho chúng ta ngộ được tâm, ngộ được tâm tức là ngộ được pháp. Nên nói thấy tánh tức là thấy được chơn tâm. Tâm là pháp, tất cả công dụng của tâm là nghĩa. “Vô lượng nghĩa từ một pháp sanh” hay tất cả pháp đều từ chơn tâm lưu xuất.

– Nhưng vô lượng nghĩa tổng kết chỉ có hai thứ: một là Không đổi, hai là Tùy duyên. Các kinh chỉ nói tâm này tùy duyên mê ngộ thành ra có cấu tịnh, phàm thánh, phiền não Bồ đề, hữu lậu vô lậu… cũng chỉ nói tâm này khi cấu tịnh v.v… xưa nay không đổi thường tự vắng lặng chơn thật như như v.v… Giả sử có người hỏi: “Nói pháp gì không đổi? Pháp gì tùy duyên?”. Chỉ nên đáp: “Tâm vậy”. Không đổi là tánh, tùy duyên là tướng. Nên biết tánh tướng đều là nghĩa trên một tâm.

Ðứng về mặt tùy duyên, thì có mê ngộ khác nhau, duyên cấu tâm cấu, duyên tịnh tâm tịnh, duyên phàm thành phàm, duyên Thánh thành Thánh v.v… Ðứng về mặt bất biến thì dù có trôi lăn trong ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tâm ấy không đổi cũng không mất, xưa nay vắng lặng, chơn thật, nên nói không tu không chứng.

Một hôm có quan đại phu họ Mã, đến hỏi ngài Triệu Châu:

– Hòa Thượng gần đây có tu hành gì không?

– Nếu nói tu hành là họa.

– Nếu ngài nói tu hành là họa, tại sao ngài dạy chúng tu?

Ngài cười.

Ngài nói vậy là đứng về mặt bất biến. Vì thể tánh vốn nhất như nên không còn tu. Khởi tu tức là động, động là còn sanh diệt, không phải tai họa sao? Song, đúng về mặt tùy duyên thì phải tu, có tu mới có giải thoát. Vì tùy duyên, nếu duyên phàm thì thành phàm, duyên Thánh trở thành Thánh, nên nói có tu, không tu mà tu là vậy. Chúng ta hiểu chỗ này rồi đọc kinh không còn nghi ngờ nữa. Vì kinh có chỗ nói tu, có chỗ nói không tu, hoặc nói “Tu tu vô tu”, nói gì chúng ta cũng không nghi. Nếu học Phật mà không thông tánh, tướng và hiểu một chiều thì tai hại lắm.

Tâm không đổi là thể, tâm tùy duyên là tướng dụng. Thể thì bất sanh diệt, bất cấu tịnh v.v… tướng dụng thì có nhiễm có tịnh, có phàm thánh… Nói đến thể tánh hay tướng dụng đều là nghĩa trên một tâm. Như cái bàn, nói “Không” là thể tánh nó không, nói “Có” là duyên hợp tạm có. Nói có nói không gì cũng được và cũng chỉ là cái bàn.

– Nay hai tông Tánh và Tướng chỉ trích lẫn nhau bởi do không biết chơn tâm, mỗi khi nghe chữ tâm sẽ bảo chỉ là tám thức, không biết tám thức chỉ là nghĩa tùy duyên trên chơn tâm. Cho nên Bồ Tát Mã Minh lấy một tâm làm pháp, dùng hai môn chơn như, sanh diệt làm nghĩa. Luận rằng: Y nơi tâm này hiển bày nghĩa Ðại thừa (Luận Ðại Thừa Khởi Tín). Tâm chơn như là thể, tâm sanh diệt là tướng dụng, tâm này không hư vọng nên gọi là “Chơn”, không biến đổi nên gọi là “Như”. Thế nên trong luận mỗi mỗi nói: “Tâm chơn như tâm sanh diệt”.

Hai tông Tánh và Tuớng chỉ trích lẫn nhau, do vì không hiểu được chơn tâm. Tánh tông thì gọi là tâm, Tướng tông thì nói tám thức, mà tám thức là nghĩa tùy duyên trên chơn tâm. Vì A Lại Da hay Tạng thức chứa cả chủng tử nhiễm tịnh, nhiễm là tùy duyên, tịnh là bất biến, đều là trên một tâm.

Bồ Tát Mã Minh là vị Tổ ở Ấn Ðộ, ngài ra đời xiển dương Phật giáo Ðại thừa, ngài có làm ra bộ Ðại Thừa Khởi Tín Luận, trong đó ngài chia ra hai môn Chơn Như và Sanh diệt. Tâm chơn như là thể thì bất biến, tâm sanh diệt là tướng dụng thì tùy duyên. Chúng ta tu là tu trên tâm sanh diệt. Có hai cách:

– Một là bỏ cấu (xấu) giữ tịnh (tốt), như nổi sân là xấu nên bỏ, lòng từ bi là tốt nên giữ, lựa cái xấu loại ra cái tốt giữ lại. Ðó là tu tâm, tu như vậy là còn luân hồi sanh tử. Còn lựa chọn là còn tạo nghiệp, dù là nghiệp lành; nghiệp lành thì luân hồi đến chỗ tốt.

– Hai là cấu tịnh gì cũng buông, nghĩa là không còn làm ác cũng không chấp thiện. Khởi nghĩ ác là vọng tưởng, khởi nghĩ thiện cũng là vọng tưởng. Niệm thiện ác đều không theo thì tâm mới nhất như. Trong nhà thiền có câu: “Phùng Phật sát Phật, phùng ma sát ma” (gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma) là chỉ cho ý này. Có buông được cái chấp hai bên thì mới thể nhập được cái bất sanh diệt và không còn sanh tử luân hồi. Không còn lựa chọn thì không tạo nghiệp, không tạo nghiệp thì không bị nghiệp dẫn và tùy ý muốn đi đâu cũng được, ấy là giải thoát.

Ở đây chúng tôi hướng dẫn quý vị tu theo cách thứ hai, nhưng tôi nêu lên cả hai cách tùy ý quý vị lựa chọn. Nên nhớ là cả hai cách tu đều trên tâm sanh diệt, nhưng một là còn luân hồi, hai là được giải thoát.

– Thời nay người tu thiền phần nhiều không hiểu nghĩa, nên chỉ gọi “Tâm” là thiền, người giảng kinh luận đa số không biết pháp, nên chỉ nương nơi danh nói nghĩa, theo danh sanh chấp, khó hội thông được, nghe nói Tâm cho là cạn, nghe nói Tánh cho là sâu, hoặc lấy Tánh làm pháp, lấy Tâm là nghĩa. Thế nên, phải nương ba tông, kinh, luận đối chiếu nhau thì pháp nghĩa rõ ràng.

Do người thời ấy không hiểu nghĩa, không biết pháp, nên hai bên cứ tranh cãi lẫn nhau khó hội thông được. Vì vậy, ngài Khuê Phong mới lấy kinh luận và ba tông của thiền ra đối chiếu để thấy cái nào pháp, cái nào nghĩa.

8.- Tâm thông cả Tánh, Tướng, tên đồng mà nghĩa khác: Các kinh hoặc chê Tâm là giặc dạy phải đoạn trừ, hoặc khen tâm là Phật khuyên nên tu tập. Hoặc nói tâm thiện ác, tâm tịnh cấu, tâm tham sân, tâm từ bi; hoặc nói giả cảnh tâm sanh, hoặc nói tâm sanh ra cảnh; hoặc nói tịch diệt là tâm, hoặc nói duyên lự là tâm; cho đến nhiều thứ trái nhau. Nếu không dùng các tông để đối chiếu hiển bày thì người xem kinh nương đâu biện biệt được, là có nhiều thứ tâm hay chỉ một thứ tâm?

Vì tâm thông cả tánh tướng, nên đồng mà nghĩa khác, cho nên chúng ta đọc kinh thấy nói đủ thứ tâm: tâm thiện ác, tâm tà, chơn thật v.v… đều là nói tánh và tướng của tâm. Khi nói tâm là giặc là nói về tướng của tâm, tướng vọng, tướng điên đảo nên dạy phải đoạn trừ. Khi khen tâm là Phật là chỉ cho tánh của tâm, tánh chơn như thanh tịnh nên gọi là Phật. Hoặc nói “Gá cảnh tâm sanh” ấy là tâm vọng tưởng phân biệt. Như khi mắt thấy cái đồng hồ liền khởi tâm phân biệt tốt xấu, thủ xả v.v… Khởi tâm phân biệt cái đồng hồ là nương nơi cái đồng hồ mà có phân biệt, nên nói là gá cảnh tâm sanh… Hoặc nói “Tâm sanh ra cảnh” tức là chỉ cho thể tánh chơn như bao trùm tất cả vạn vật. Khi mê thì thể tánh ấy hiện bày ra muôn ngàn cảnh. Trong Duy Thức có câu: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”, thức này là chỉ cho tánh của tâm. Hoặc nói “Tịch diệt là tâm” là chỉ cho thể của tâm. Hoặc nói “Duyên lự là tâm” là chỉ cho tướng dụng của tâm. Vì vậy, ở đây ngài Khuê Phong dùng các tông đối chiếu để chúng ta thấy rõ tánh tướng của tâm và khi đọc kinh luận của Phật Tổ chúng ta không còn thắc mắc là có một tâm hay nhiều thứ tâm?

– Nay lược bày danh thể, phàm nói tâm tóm có bốn thứ, tiếng Phạn mỗi thứ có tên riêng, phiên dịch cũng khác

Sau đây, ngài lược bày danh thể của tâm để chúng ta thấy rõ ràng hơn.

a.- Ðoàn nhục tâm dịch từ tên Hột lợi đà ca, đây là trái tim ở trong thân.

Tâm thứ nhất chỉ cho trái tim bằng thịt ở trong lồng ngực của chúng ta.

Duyên lự tâm, đây là tám thức, vì hay duyên lự cảnh tự phần (xem Duy Thức học), tám thức này mỗi cái có tâm sở thiện các khác nhau, trong các kinh gọi chung các tâm sở này là tâm. Nghĩa là tâm thiện, tâm ác…

Ví dụ mắt tôi nhìn cái đồng hồ, đồng hồ phản ảnh vào gương của mắt, phần nhãn thức biến ra tướng tương tự cái đồng hồ, cho nên gọi là tướng tự phần. Tự nó biến ra chớ không phải tướng đồng hồ chạy vào con mắt. Khi ấy thức duyên vào tướng đó rồi phân biệt đồng hồ tốt xấu v.v… Tốt thì nó khởi ra ưa thích gọi là tâm sở tham, xấu thì khởi ra chê ghét gọi là tâm sở sân, đó là tâm ác. Như vậy, tự mắt duyên với tướng phần của nó rồi sanh ra thương ghét, giận hờn, tốt xấu…, xấu thì gọi là ác tâm sở, tốt thì gọi thiện tâm sở (Muốn biết rõ xin đọc lại Duy Thức). Do đó, căn cứ vào tâm duyên có các thứ tâm thiện ác lẫn lộn, gọi chung là tâm duyên lự. Tâm duyên lự này có chỗ gọi là thức, có chỗ gọi chung là vọng tưởng.

c.- Tập khởi tâm dịch từ tên Chất đa da. Theo Duy thức nó là thức thứ tám chứa nhóm chủng tủ sanh khởi hiện hành.

Tâm này rất khó thấy. Tập là chứa nhóm, khởi là dấy lên. Theo Duy Thức tâm này chứa cả chủng tử thiện ác, lâu ngày dấy khởi lên, tức là chủng tử có sẵn phát ra hiện hành. Ví dụ khi nghe kinh, Phật dạy tu là phải có lòng từ bi, phải hành hạnh nhẫn nhục v.v… Quý vị huân các chủng tử thiện ấy vào Tàng thực (A Lại Da). Khi ra đường gặp người khổ thì khởi lòng thương, gặp người lấn lướt mắng chửi thì nhịn nhục. Chủng tử chứa nhóm sẵn, gặp cảnh là khởi lên, gọi là chủng tử dấy khởi hiện hành, như quý vị huân tập chủng tử Bát nhã, khi gặp cảnh thuận nghịch liền khởi nghĩ đó là huyễn, tự tánh không… Chủng tử Bát nhã khởi ra hiện hành Bát nhã.

d.- Kiên thật tâm dịch từ tên Càn lật đà da, cũng gọi là trinh thật tâm. Ðây là chơn tâm.

Kinh Lăng nghiêm gọi Kiên thật tâm là chơn tâm.

– Nhưng thức thứ tám không có tự thể riêng, chỉ vì chơn tâm bất giác chung cùng các vọng tưởng nên có nghĩa hòa hợp và không hòa hợp. Nghĩa hòa hợp là hay chứa đựng chủng tử nhiễm và tịnh, gọi là Tàng thức. Nghĩa không hòa hợp là thể nó thường không biến đổi gọi là chơn như. Chung gọi là Như Lai Tàng, Kinh Lăng Già nói: “Tịch diệt gọi là nhất tâm”. Nhất tâm tức là Như Lai Tàng. Như Lai Tàng cũng là pháp thân tại triền (trong vòng ràng buộc).

Tâm thứ ba là đứng về mặt mê chơn như nên biến thành dụng hòa hợp với chủng tử nhiễm tịnh, chứa nhóm cả hai thứ chủng tử đó gọi là Tàng thức hay A Lại Da thức. Còn tâm thứ tư là đứng về mặt thể nên không đổi thường còn gọi là chơn như.

Như trước nói, tu trên mặt dụng, khi quên chơn thì nó hòa hợp với chủng tử thiện ác của ngoại cảnh. Tu là không cho nó hòa hợp nữa và khi phá được sự hòa hợp thì trở về với chơn như. Khi chưa biết tu, mắt thấy cảnh liền duyên theo cảnh và phân biệt tốt xấu, rồi căn mang chủng tử dồn qua A Lại Da, dồn vô thật nhiều, khi nào ngồi không, những chủng tử ấy trồi ra. Nhưng khi chúng ta biết tu thì căn duyên với cảnh không cho ý thức phân biệt, thì chủng tử nhiễm tịnh không vào Tàng thức. Ngoài không đem vô, trong loại ra, lâu ngày thành cái kho trống, gọi là Như Lai Tàng, Duy Thức gọi là Bạch Tịnh thức, Kinh Lăng nghiêm gọi là gọi là chơn tâm, ở đây ngài Khuê Phong nói chung là “Như Lai Tàng”. Tịch diệt là lặng lẽ, kinh Lăng Già gọi là nhất tâm. Nhất tâm là tâm không còn dấy một niệm, lặng lẽ trong sánh như mặt gương, cảnh đến hiện cảnh, cảnh đi thì gương không cảnh. Nhất tâm khác với nhất niệm. Ví dụ niệm Nam Mô A Di Ðà Phật, niệm đến lúc không còn một tạp niệm nào xen lẫn ấy gọi là nhất niệm, vì còn niệm là còn động nên không gọi là tịch diệt. Nhất tâm này còn gọi là Như Lai Tàng, hay gọi là pháp thân tại triền (Như là chơn như, Tàng là Tàng thức). Pháp thân gọi Như lai Tàng là muốn chỉ cả hai mặt thể và dụng. Như quý vị đã biết nơi mỗi người chúng ta đều có thể tánh bất sanh bất diệt, đó là chơn như hay Phật tánh. Nhưng nó bị chủng tử nhiễm tịnh che lấp,vọng tưởng dấy khởi liên miên… chưa phá được sự hòa hợp của Tàng thức nên pháp thân không hiển lộ, gọi là pháp thân tại triền. Khi nào (vẫn còn mang thân tứ đại này) phá được sự hòa hợp của chủng tử nhiễm tịnh tức là pháp thân ra khỏi vòng ràng buộc nên gọi là pháp thân xuất triền. Gọi là pháp thân vì nó là nguồn sanh ra muôn pháp.

– Trong kinh Thắng Man nói: “Cho nên biết, bốn thứ tâm vốn đồng một thể”. Kinh Mật Nghiêm chép: “Phật nói Như Lai Tàng ấy là A Lại Da thức; Như Lai Thanh Tịnh Tàng, thế gian A Lại Da, như vàng cùng nhẫn (cà rá) các thứ không sai biệt”.

Kinh nói có bốn thứ tâm: Ðoàn nhục tâm, Duyên lự tâm, Tập khởi tâm, Kiên thật tâm, tuy tên gọi bốn thứ nhưng không ngoài một tâm. Tức là đồng một thể khi khởi dụng thì chia ra nhiều. Như cùng một thể vàng mà làm ra nhiều thứ vòng, xuyến, cà rá v.v… Như Lai Thanh Tịnh Tàng là thể, A Lại Da thức là tướng dụng, muốn trở thành Như Lai Thanh Tịnh thì phải dẹp hết mọi chủng tử nhiễm tịnh, cũng như muốn thành một khối vàng thì ông thợ bạc bỏ hết các thứ vòng xuyến, cà rá vô nấu chảy thành một khối vàng, hết các tướng sai biệt.

– Song, thể tuy đồng mà nghĩa chơn vọng có khác, gốc và ngọn cũng sai thù. Ba tâm trước là tướng, một tâm sau là tánh. Y tánh khởi tướng bởi có nhơn do, hội tướng về tánh ắt có manh mối. Tánh tướng không ngại đều là một tâm. Mê đó gặp việc xoay mặt vào vách, ngộ đó tức muôn pháp rọi vào trong.

Tuy bốn thứ tâm nói trên đều đồng một thể, nhưng nghĩa chơn vọng có khác và gốc ngọn cũng khác. Ba tâm trước là tướng, một tâm sau là tánh. Vì quên tánh chạy theo tướng đó là do nhơn mê lầm. Hội tướng trở về tánh ắt có mối manh giác ngộ. Nhưng tánh tướng cũng đều một tâm. Mê là quên bản thể chơn tâm nên khi gặp việc mù mịt như xoay mặt vào vách, nếu ngộ được bản thể chơn tâm thì như gương sáng ngời mọi vật đều hiện rõ.

– Nếu người tìm văn cú suông, hoặc chỉ tin vào hung khâm (hông ngực) thì đối với một tâm này làm sao liễu hội được tánh tướng?

Học Phật pháp là để ứng dụng tu, nếu không tu mà cứ chuyên tìm trên văn cú suông hay chỉ tin vào ức thuyết (hung khâm) thì đối với một tâm này không làm sao hiểu rõ được tánh tướng. Như chúng ta nghe kinh nói có chơn tâm, có vọng tâm, chúng ta phải ngồi lại tu mới thấy vọng tưởng dấy lên biết đó là vọng tưởng, vọng tưởng lặng xuống biết đó là tánh thanh tịnh. Nhưng tu mà không chịu học thì cũng không làm sao biết được tánh tướng của tâm, nghe nói nhiều tên sanh rối. Cho nên học để biết danh nghĩa của nó, tu để thấy mặt thật của nó. Thiếu học hoặc thiếu tu cả hai đều có lỗi.

9.- Ngộ tu có đốn tiệm, nói dường như trái nhau mà phù hợp: nghĩa là các kinh luận và chư thiền môn hoặc nói: “Trước nhơn tiệm tu (tu dần dần) thành công bỗng nhiên đốn ngộ”. Hoặc nói: “Trước phải đốn ngộ sau mới có thể tiệm tu”. Hoặc nói: “Do đốn tu nên tiệm ngộ”. Hoặc nói: “Ðều đốn”. Hoặc nói: “Pháp không có đốn tiệm, đốn tiệm tại căn cơ”. Như những thuyết ở trên, mỗi thuyết đều có ý nghĩa.

Hai trường hợp Tiệm tu đốn ngộ hoặc Ðốn ngộ tiệm tu có khác:

a.- Tiệm tu đốn ngộ: là trường hợp đức Phật, lịch sử ghi: Trước ngài tìm học thiền với các vị thầy ngoại đạo, ngài tu chứng hết các thiền này, nhưng thấy chưa phải là chỗ giải thoát nên ngài tự tìm đến dưới cội Bồ đề ngồi tu. Sau bốn mươi chín ngày tư duy, một hôm sao Mai vừa mọc, ngài bỗng nhiên giác ngộ hoàn toàn, chỉ trong một giờ mà ngài có đầy đủ cả Tam minh và Lục thông v.v… Giây phút giác ngộ thật là mau lẹ nên gọi là Ðốn, còn thời gian tu năm sáu năm thì lâu nên gọi là Tiệm. Trường hợp đức Phật gọi là Chứng ngộ.

b.- Ðốn ngộ tiệm tu: là trường hợp của các thiền sư, nghe một cậu đạo lý, hay câu kinh liền ngộ đó là giải ngộ, ngộ nhưng còn vọng tưởng, phải tu dần dần mới sạch vọng tưởng và triệt ngộ như Lục Tổ. Như vậy, ngộ thì nhanh nhưng tu phải dần dần.

c.- Ngộ tu đều tiệm, hoặc ngộ tu đều đốn: Ngộ thì không có Tiệm, nhưng tu lâu rồi mới ngộ, nên coi như tiệm. Ví dụ có người chưa thấy biển, nhưng biết hướng đi đến biển và nhắm hướng đó đi từ từ rồi đến biển và thấy biển. Thời gian đi từ từ đó là tiệm tu, qua giai đoạn đó mới thấy biển nên gọi là tiệm ngộ. Còn người đúng trên núi thấy biển rồi mới đi gọi là đốn ngộ, trong khi đi mà tâm biết rõ biển như thế nào nên coi như tiệm mà cũng gọi là đốn. Tóm lại, trước ngộ sau tu gọi là đốn ngộ đốn tu. Người không thấy gì hết, cố gắng tu rồi sau mới ngộ, gọi là tiệm tu tiệm ngộ. Tuy chia ra có bốn nhưng chỉ có hai. Tức Ðốn ngộ tiệm tu hay Tiệm tu đốn ngộ.

– Gạn lại: “Ðã ngộ tức thành Phật vốn không có phiền não, gọi là Ðốn ngộ tức không nên tu để đoạn, sao lại nói Tiệm tu?”. Tiệm tu tức là phiền não chưa hết, nhơn hạnh chưa tròn, quả đức chưa đầy, sao gọi là Ðốn. Ðốn tức là không phải Tiệm. Tiệm tức không phải Ðốn. Cho nên nói trái nhau. Như ở sau đối chiếu để hội thông tức là Ðốn Tiệm không những không trái nhau, mà trái lại giúp đở lẩn nhau.

Người nêu lên câu hỏi này chưa thông nghĩa “Ðốn ngộ tiệm tu, tiệm tu đốn ngộ”. Phần đối chiếu sau sẽ nói rõ.

10.- Thầy dạy có phương tiện phải biết thuốc biệt bịnh: Nghĩa là nương phương tiện bậc thượng truyền trao, đều trước mở bày bản tánh, mới khiến y tánh tu thiền.

Làm thầy dạy người tu không phải dễ, cũng như vị lương y chữa bịnh, nếu hốt thuốc trúng là cứu được bịnh, hốt thuốc lầm là hại bịnh nhân. Làm thầy dạy học trò tu, phải biết học trò bịnh gì, căn cơ bậc thượng hay hạ. Nếu người căn cơ bén hạy thì dùng phương tiện bậc thượng, khiến cho họ thấy được bản tánh rồi ý nơi tánh khởi tu thiền.

– Tánh không phải dễ ngộ,vì phần nhiều đều chấp tướng. Cho nên, muốn hiển tánh trước phải phá chấp. Phương tiện phá chấp cần phải dẹp hết: phàm thánh, công phu…

Ngộ được bản tánh không phải dễ, vì phần nhiều người tu hay chấp tướng. Muốn chỉ cho họ thấy tánh trước phải phá chấp. Như ở đây, tôi dạy quý vị tu thiền, trước tôi giảng kinh Bát Nhã phá hết các tướng chấp, nào là Ngũ uẩn, Thập nhị xứ, Thập bát giới, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên cũng đều không, không chứng đắc… Như vậy dẹp hết tướng phàm thánh, công phu.

– Giới tức không phạm không tu, thiền tức không định không loạn, ba mươi hai tướng đều là hoa đốm trong hư không, ba mươi bảy phẩm trợ đạo đều là huyễn hóa… cốt ý khiến tâm không còn chấp trước mới có thể tu thiền.

Ðây, dẫn kinh Bát Nhã: “Tu giới không phạm, không trì, thiền thì không định, không loạn”. Tu giới mà thấy có trì phạm, tức là giữ giới chưa rốt ráo, tu thiền mà còn thấy có định loạn là tu thiền chưa xong. Ðây là đứng về mặt thể tánh mà nói để phá tướng, người trở về với thể tánh nhất như thì đâu còn phạm giới mà bảo trì giới. Thiền cũng vậy, nếu còn thấy định loạn là còn thấy hai, nên phải buông cả hai bên để trở về với thể tánh nhất như mới thật là tu thiền.

“Ba mươi hai tướng của Phật như hoa đốm trong hư không” là đứng về mặt pháp thân mà nhìn nên thấy hóa thân Phật như huyễn hóa. Vì chưa ngộ được pháp thân nên thấy ba mươi hai tướng tốt của đức Phật chúng ta chấp, rồi quên mất pháp thân bất sanh bất diệt. Nếu ngộ được pháp thân rồi, chúng ta sẽ thấy ba mươi hai tướng ấy như hoa đốm trong hư không, vì nó chỉ là duyên hợp tạm có, do tứ đại tạo thành.

Ví dụ mạng sống con người là bảy, tám mươi tuổi, những con phù du sớm còn tối mất, dù hình sắc có đẹp bao nhiêu, chúng ta thấy đều là huyễn hóa. Cũng vậy, khi sống được với pháp thân bất sanh bất diệt, thấy hóa thân tạm có do tứ đại tạo thành như hòn bọt, mỏng manh dễ vỡ, nên các ngài nói như huyễn hóa.

“Ba mươi phẩm trợ đạo” là giáo lý cốt yếu của Phật dạy cũng thấy như huyễn hóa. Vì ba mươi bảy phẩm trợ đạo là thuốc trị bịnh mê lầm cho chúng sanh. Pháp thân thì đâu có mê lầm nên thuốc đó như huyễn hóa.

Kinh nói như vậy để chúng ta không còn kẹt những giả tướng, giả danh bên ngoài, phá được các chấp tướng rồi chúng ta mới y tánh tu thiền, thấy tánh tu thiền gọi là xứng tánh khởi tu.

– Kẻ hậu học hiểu cạn, bèn chấp lời này cho là đạo cứu cánh, lại cho môn đệ phần nhiều tu tập hay buông lung, nên dạy rộng: “Ưa nơi kia, chán nơi này, quở trách tham, sân, si, khen ngợi siêng năng thúc liễm, điều thân, điều hơi thở thứ lớp thô tế”. Người sau nghe những điều này lại mê cái dụng của bản giác, bèn một bề chấp tướng.

Người sau nghe nói “Giới không phạm không tu” bèn chấp đó là lời cứu cánh nên không chịu tu hành, tha hồ buông lung, thật là tai họa, rơi vào bịnh chấp không. Vì vậy, sau này các vị thầy biết môn đệ phần nhiều hay buông lung nên phải dạy rộng ra: Ưa Niết bàn, chán sanh tử, ưa Cực Lạc chán Ta bà, tùy bịnh của môn đệ cho thuốc đối trị, lại dạy phương tiện ngồi thiền, điều thân, điều hơi thở v.v… Những người nghe dạy như vậy, lại rơi vào chấp tướng. Hễ tu là phải làm như vậy, nếu thấy ai làm khác cho là chẳng tu. Ðây gọi là “Mê cái dụng của bản giác”. Vì bản giác hay chơn như vốn tự đầy đủ tròn sáng, vì chúng ta quên nó, chạy theo trần cảnh nên phóng túng buông lung. Thầy Tổ dạy phương tiện khép mình vào khuôn khổ như : giữ Giới, Thiền định…, cốt là giúp cho chúng ta nương nơi dụng ngộ bản thể, tức là nương tướng ngộ tánh. Nhưng lại chấp vào cái dụng cho là cứu cánh, rốt cuộc rơi vào bệnh chấp tướng (chấp có). Chấp không chấp có đều là bịnh, dẹp được chấp hai bên ấy mới là đạt đạo.

– Chỉ những người lợi căn chí vững, trước sau theo thầy mới ngộ được ý chỉ để tu. Còn những kẻ có tánh nông nổi, vừa nghe một ý liền cho đã đủ, cố ỷ cái huệ nhỏ bèn vì người làm thầy, chưa tột gốc ngọn, hầu hết thành thiên chấp.

Chỉ người nào lợi căn, tức là có cái biết tinh lanh, chí cho vững chắc, bám sát theo thầy mới ngộ được ý chỉ. Tôi thường nói:

– Người nào muốn học thiền phải học đủ ba năm, khả dĩ vốn để tu. Còn người nào chỉ nghe giảng một hai lần cho là đủ, về tu một lúc gặp chướng ngại không ai khai thông cho. Người lanh lợi nghe một hai lần, tuy có thể nhận ra ý chỉ để tu, nhưng chỉ biết trên lý thuyết, làm sao bảo đảm khi tu không gặp trục trặc? Cũng như người biết đường về nhà, nhưng trên đường đi biết bao ngảu ba, ngã tư, khúc quanh khúc quẹo, nên phải cần người hướng dẫn.

Vì tôi có thói quen là cẩn thận, nên bảo các thiền sinh phải học đủ ba năm, thiếu một tháng cũng không được, và ai muốn ra làm thầy dạy người cũng phải ở thiền viện tối thiểu là ba năm, và có phương tiện nhập thất tối thiểu cũng ba năm, khả dĩ mới có chút đỉnh vốn liếng để làm lợí người. Khóa đầu tiên tôi dạy thiền ở đây có mười người, sau ba tháng nghe giảng, họ rút đi bốn người, sau ba tháng nghe giảng, họ rút đi bốn người nữa, vì bốn người ấy cho là đủ nên xin đi. Tôi bảo phải ở lại ba năm họ không tin tôi, xin đi tôi cho đi. Nhưng sau đó, những vị ấy ân hận vì không được gì.

Làm việc gì cũng vậy, muốn thành công phải có kinh nghiệm chín chắn, nhất là việc tu hành cần phải cẩn thận nhiều hơn. Ðừng chợt nghe, chợt thấy cho là đủ, rồi ham làm thầy thiên hạ ra dạy người, tu một lúc cả thầy lẫn trò đều mang bịnh, nhất là bịnh ái kiến. Phải dè dặt, thời nay có nhiều người làm thầy sớm lắm, tự thân mình chưa tới đâu làm sao dạy người được lợi ích?

– Cho nên, kẻ môn hạ của hai phái Ðốn và Tiệm coi nhau như cừu thù, trong tông Nam Bắc đối địch nhau như nước Sở nước Hán, lời dạy rửa chân, dụ rờ voi nghiệm đúng như vậy.

Trong kinh A Hàm, dụ rửa chân là Phật dạy ngài La Hầu La. Dụ người mù rờ voi, Phật dạy các Tỳ kheo khi nói chuyện về những người ngoại đạo thiên chấp:

Có một bọn mù rờ voi, người rờ trúng cái đuôi nói con voi như cái chổi chà. Người rờ trúng cái chân nói con voi như cây cột nhà… Mỗi người đều nói đúng, nhưng chỉ đúng một phần của con voi chứ không đúng toàn thể hình dáng của con voi. Nếu chỉ biết một bộ phận của con voi mà cho đó là toàn vẹn con voi thì sai. Người rờ cái chân nghe người rờ cái đuôi nói con voi như cây chổi chà, không chịu cãi lại, người kia cũng vậy. Hai bên đều không chấp nhận nhau, ai cũng cho cái biết của mình về con voi là đúng. Nhưng người sáng mắt thấy được toàn thể con voi thì thương xót cho những người mù vì tối tăm mà cãi nhau. Chúng ta là người học Phật, phải học cho thật kỹ, biết cho chính xác, đừng có cái biết mập mờ, biết mập mờ thì hay nghiêng về một bên, dễ rơi vào sự tranh chấp, không lợi mình lợi người.

Tôi thường nói: Thiền, Tịnh Ðộ, Mật Tông… những pháp tu trong Phật giáo đều là những phương tiện để cho hành giả trở về với thể tánh bất sanh bất diệt, Nếu ai hợp với pháp nào thu theo pháp nấy, đừng cho pháp này hay, pháp kia dỡ rồi chê bai hiềm khích lẫn nhau. Tất cả phương tiện đều đưa chúng ta đến một cứu cánh, đó là giác ngộ và giải thoát.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.