Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa

Hội thứ ba 23. Phẩm Xảo Tiện



Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, làm sao tu tập Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện? Làm sao nhập Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện? Làm sao tập bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo? Làm sao tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo? Làm sao tập các pháp Bồ-đề phần khác? Làm sao tu các pháp Bồ-đề phần khác?

Phật bảo:

– Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nên quán sắc uẩn cho đến thức uẩn đều Không.

Nên quán nhãn xứ cho đến ý xứ đều Không.

Nên quán sắc xứ cho đến pháp xứ đều Không.

Nên quán nhãn giới cho đến ý giới đều Không.

Nên quán sắc giới cho đến pháp giới đều Không.

Nên quán nhãn thức giới cho đến ý thức giới đều Không.

Nên quán nhãn xúc cho đến ý xúc đều Không.

Nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đều Không.

Nên quán địa giới cho đến thức giới đều Không.

Nên quán nhân duyên cho đến tăng thượng duyên đều Không.

Nên quán vô minh cho đến lão tử đều Không.

Nên quán bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa đều Không.

Nên quán pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không đều Không.

Nên quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đều Không.

Nên quán Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo đều Không.

Nên quán bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo đều Không.

Nên quán bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc đều Không.

Nên quán tám giải thoát cho đến mười biến xứ đều Không.

Nên quán pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện Không.

Nên quán Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa đều Không.

Nên quán Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa đều Không.

Nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa đều Không.

Nên quán năm loại mắt, sáu phép thần thông đều Không.

Nên quán mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều Không.

Nên quán đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả đều Không.

Nên quán ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp đều Không.

Nên quán pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả đều Không.

Nên quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều Không.

Nên quán quả Dự lưu cho đến Ðộc giác Bồ-đề đều Không.

Nên quán tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật đều không.

Nên quán pháp hữu lậu, vô lậu đều Không.

Nên quán pháp thế gian và xuất thế gian đều Không.

Nên quán pháp hữu vi, vô vi đều Không.

Nên quán pháp quá khứ, vị lai, hiện tại đều Không.

Nên quán pháp thiện, bất thiện, vô ký đều Không.

Nên quán pháp của Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới đều Không.

Thiện Hiện nên biết! Khi Đại Bồ-tát ấy quán như vậy thì tâm không loạn. Nếu tâm không loạn thì không thấy pháp, nếu không thấy pháp thì không tác chứng. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát học một cách rốt ráo tự tướng của các pháp đều Không. Không có pháp nào tăng, không có pháp nào giảm, cho nên đối với các pháp không thấy, không chứng. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế của các pháp, người chứng, pháp được chứng, thời gian chứng, nơi chốn chứng và do đây chứng, chung hoặc riêng đều không thể dắc và không thể thấy.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Như Ngài nói: Các Đại Bồ-tát nên quán pháp Không, nhưng không chứng. Vì sao các Đại Bồ-tát nên quán pháp Không mà không chứng?

Phật bảo:

– Thiện Hiện! Đại Bồ-tát quán pháp Không, trước tiên hãy nghĩ như vầy: Pháp ta nên quán, các tướng của nó đều Không, không nên chứng. Vì học mà ta quán các pháp Không, chứ không phải vì chứng mà quán các pháp Không. Nay là lúc ta học, chẳng phải lúc ta chứng.

Đại Bồ-tát ấy khi chưa nhập định thì buộc tâm vào cảnh chứ chẳng phải nhập định rồi buộc tâm vào cảnh. Lúc này, Đại Bồ-tát ấy không thối lui tất cả pháp phần Bồ-đề, không chứng lậu tận. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thành tựu trí tuệ rộng lớn như vậy, khéo trụ vào pháp Không, và tất cả pháp phần Bồ-đề, luôn nghĩ như vầy: Bây giờ nên học chứ không nên chứng.

Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thường nghĩ:

Đối với bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với tám giải thoát cho đến mười biến xứ, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, bây giờ ta nên học chứ không nên chứng.

Nay vì học trí nhất thiết trí mà ta cần phải học quả Dự lưu cho đến Ðộc giác Bồ-đề, để cho hoàn hảo chứ không chứng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu nên tập Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện. Nên trụ Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện. Nên tu Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện, nhưng đối với thật tế không tác chứng.

Nên tập bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Nên trụ bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Nên tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, nhưng đối với thật tế không tác chứng.

Nên tập các pháp phần Bồ-đề khác. Nên trụ vào các pháp phần Bồ-đề khác. Nên tu các pháp phần Bồ-đề khác, nhưng đối với thật tế không tác chứng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy tuy tập pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng trụ vào pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện và cũng tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, nhưng không chứng quả Dự lưu cho đến không chứng Ðộc giác Bồ-đề.

Tuy tập bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, cũng trụ vào bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo và cũng tu bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, nhưng không chứng quả Dự lưu cho đến không chứng Ðộc giác Bồ-đề.

Tuy tập các pháp phần Bồ-đề khác, cũng trụ vào các pháp phần Bồ-đề khác và cũng tu các pháp phần Bồ-đề khác, nhưng không chứng quả Dự lưu cho đến không chứng Ðộc giác Bồ-đề.

Nhờ đó mà Đại Bồ-tát ấy không rơi vào địa vị Thanh văn và Ðộc giác, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện! Ví như tráng sĩ dung mạo đẹp đẽ, oai hùng, khỏe mạnh, ai thấy cũng hoan hỉ và có đầy đủ quyến thuộc thanh tịnh, viên mãn thù thắng. Ðối với các binh pháp đã học, đạt đến chỗ rốt ráo, cầm khí trượng rất tài giỏi, hiên ngang bất động; có sáu mươi bốn tài năng, mười tám môn học sáng suốt, tất cả các kỹ thuật đều tài giỏi, mọi người ai nấy đều khâm phục, kính ngưỡng. Vì tài giỏi, nên bỏ công ít mà được lợi nhiều. Do đây mà mọi người cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen không lúc nào ngớt. Lúc này, sự vui mừng của tráng sĩ tăng gấp bội, làm cho quyến thuộc cũng vui mừng lây. Vì có việc cần nên tráng sĩ đưa cha mẹ, vợ con, quyến thuộc lên đường đi đến phương khác. Trên đường đi, băng qua vùng hoang vu, hiểm nạn. Trong đó có rất nhiều thú dữ, giặc cướp, oán thù mai phục đáng sợ. Quyến thuộc lớn nhỏ đều kinh hãi. Người tráng sĩ ấy nhờ có nhiều kỹ thuật oai hùng lẫm liệt nên thâm tâm thản nhiên, an ủi cha mẹ và quyến thuộc: Đừng có lo lắng, sợ hãi, không có chuyện gì đâu. Nhờ khả năng tài giỏi, tráng sĩ ấy đưa quyến thuộc đến nơi an ổn, thoát khỏi ách nạn nên mọi người vui mừng, sung sướng. Ở trong vùng hoang vu, tráng sĩ kia không bị thú dữ, oác tặc giết hại là vì sao vậy? Vì tráng sĩ oai phong lẫm liệt, có đủ các kỹ thuật nên không sợ gì hết.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, vì thương xót các hữu tình trong khổ sanh tử mà hướng dẫn họ đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phổ duyên cho hữu tình phát sanh bốn vô lượng tâm. Tâm câu hành an trụ với bốn vô lượng, siêng năng tu tập bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa khiến mau viên mãn. Đại Bồ-tát ấy chưa viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa, vì muốn tu học trí nhất thiết trí, nhưng không chứng lậu tận. Tuy trụ vào pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng không chuyển theo thế lực đó, cũng không bị sự ngăn cản đó lôi kéo. Đối với môn giải thoát cũng không tác chứng. Vì không chứng nên chẳng rơi vào địa vị Thanh văn và Ðộc giác, nhất định đi đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Giống như chim cánh vàng bay lượn trên hư không, bay lượn tự do chẳng bị rơi xuống đất. Mặc dù nương hư không chơi nhưng không chiếm lấy hư không, cũng không bị hư không làm trở ngại.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát cũng vậy, mặc dù luôn luôn tập trụ tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, nhưng trong đó không chứng. Do không chứng nên chẳng rơi vào địa vị Thanh văn và Ðộc giác. Tu mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng v.v… và vô lượng Phật pháp khác. Nếu chưa viên mãn thì không bao giờ nương vào không, vô tướng, vô nguyện để mà chứng lậu tận.

Thiện Hiện! Giống như tráng sĩ có tài bắn cung giỏi, muốn chứng minh tài năng của mình bèn giương cung lên hư không, và mục đích muốn mũi tên bay trong hư không chẳng rơi xuống đất, nên lấy mũi tên sau bắn vào đuôi mũi tên trước. Cứ lần lượt như vậy mãi, từng mũi tên nối tiếp nhau không rơi xuống được. Nếu muốn nó rơi, chỉ có cách là ngưng bắn mũi tên sau, lúc đó các mũi tên mới rơi xuống.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu được phương tiện thiện xảo bảo hộ, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu căn lành chưa thành thục thì đối với trung đạo không bao giờ chứng thật tế. Còn như đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhờ tất cả căn lành được thành thục, thì bấy giờ Bồ-tát mới chứng thật tế và đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đều phải quán sát thật kỹ như vậy. Như trước đã nói về thật tướng của các pháp, tu các hạnh Đại Bồ-tát mà hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thật là hi hữu, có thể làm những việc khó làm. Mặc dù luôn tu học thật tướng của các pháp, luôn tu học chơn như, pháp giới, pháp tánh cho đến cảnh giới bất tư nghì; luôn tu học pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không; luôn tu học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; luôn tu học bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo; luôn tu học ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, nhưng ở trong trung đạo chẳng rơi vào địa vị Thanh văn và Ðộc giác, không thối lui quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật bảo:

– Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát thề chẳng lìa bỏ các hữu tình. Nghĩa là nguyện như vầy: Nếu các hữu tình nào chưa được giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, thì ta quyết không bao giờ bỏ gia hạnh căn lành.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát dùng nguyện lực thù thắng mà nghĩ như vầy: Nếu các hữu tình nào chưa giải thoát, trọn đời ta không lìa bỏ họ. Do phát khởi tâm rộng lớn như vậy nên chắc chắn không bị thối lui, rơi lại giữa đường.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát luôn nghĩ như vầy: Ta không nên lìa bỏ tất cả hữu tình, quyết làm cho họ được giải thoát. Nhưng các hữu tình hành theo pháp bất chánh, nên vì độ họ mà luôn sống trong sự tịch tĩnh của pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Mặc dù luôn sống như vậy nhưng không thủ chứng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, tuy luôn hiện khởi ba môn giải thoát cho đến chứng đắc trí nhất thiết trí, nhưng trong thời gian đó không chứng thật tế.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát thường ưa thích quán sát chỗ sâu xa ấy, nghĩa là thích quán sát pháp nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, đại Không, Không Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, tán Không, bản tính Không, tự tướng Không, nhất thiết pháp Không, vô tính Không, vô tính tự tính Không. Cũng ưa thích quán sát bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, và pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện v.v… tự tướng đều là Không.

Thiện Hiện nên biết! Quán như vậy rồi, Đại Bồ-tát nghĩ: Các loại hữu tình do năng lực của bạn ác mà có tưởng chấp về ngã, nói rộng cho đến tưởng chấp về người thấy. Do tưởng chấp này có sở đắc, cho nên luân hồi trong sanh tử, chịu các khổ. Vì đoạn tưởng chấp của các hữu tình nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các hữu tình mà nói pháp thâm diệu để đoạn trừ tưởng chấp mà lìa khổ sanh tử.

Bấy giờ, tuy các Đại Bồ-tát học ba môn giải thoát nhưng không nương vào đây mà chứng thật tế. Vì không chứng thật tế nên không rơi vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Ðộc giác Bồ-đề. Nhờ suy nghĩ như vậy, Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thành tựu căn lành, không chứng đắc thật tế.

Mặc dù chưa chứng thật tế nhưng không thối lui làm mất bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng không thối lui làm mất bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Cũng không thối lui làm mất pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Cũng không thối lui làm mất tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Cũng không thối lui làm mất pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Cũng không thối lui làm mất chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Cũng không thối lui làm mất Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Cũng không thối lui làm mất bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Cũng không thối lui làm mất các bậc Bồ-tát. Cũng không thối lui làm mất pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Cũng không thối lui làm mất năm loại mắt, sáu phép thần thông. Cũng không thối lui làm mất mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng không thối lui làm mất đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Cũng không thối lui làm mất pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Cũng không thối lui làm mất trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Cũng không thối lui làm mất vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.

Thiện Hiện nên biết! Bấy giờ, Đại Bồ-tát ấy thành tựu tất cả pháp phần Bồ-đề, cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với các công đức ấy không bao giờ suy giảm. Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo mà nhiếp giữ. Trong từng sát-na, bạch pháp tăng trưởng, các căn nhanh nhẹn, tất cả Thanh văn và Ðộc giác không thể sánh kịp.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát luôn suy nghĩ: Các loài hữu ngày đêm tâm thường hành bốn điên đảo, là: Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về thường. Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về lạc. Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về ngã. Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, thấy điên đảo về tịnh.

Vì các hữu tình ấy mà ta hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hạnh Đại Bồ-tát. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nói pháp không điên đảo cho các hữu tình, nghĩa là nói sanh tử không thường, không lạc, không ngã, không tịnh, chỉ có Niết-bàn vi diệu, tịch tĩnh mới đầy đủ các công đức chơn thật của thường, lạc, ngã, tịnh.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thành tựu niệm này, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo mà nhiếp giữ. Nếu chưa viên mãn mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác, thì cuối cùng không chứng nhập định thù thắng của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Khi ấy, Đại Bồ-tát ấy học ba môn giải thoát ra vào tự tại nhưng chưa chứng thật tế, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nhờ hành công đức nên chưa viên mãn hoàn toàn, không chứng thật tế và các công đức khác. Nếu khi nào đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mới có thể chứng đắc.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy tu tập tuy chưa viên mãn các công đức khác nhưng đã tu viên mãn pháp môn vô nguyện Tam-ma-địa.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát luôn nghĩ như vầy: Các loài hữu tình luôn luôn có các sở đắc. Nghĩa là chấp có ngã cho đến người thấy. Chấp có sắc uẩn cho đến thức uẩn. Chấp có nhãn xứ cho đến ý xứ. Chấp có sắc xứ cho đến pháp xứ. Chấp có nhãn giới cho đến ý giới. Chấp có sắc giới cho đến pháp giới. Chấp có nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Chấp có nhãn xúc cho đến ý xúc. Chấp có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Chấp có địa giới cho đến thức giới. Chấp có nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Chấp có vô minh cho đến lão tử. Chấp có mười thiện nghiệp đạo. Chấp có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chấp có bốn nhiếp pháp. Chấp có các pháp thiện thù thắng khác. Vì các hữu tình, ta nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà tu các hạnh của Đại Bồ-tát. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chỉ dạy các hữu tình đoạn hẳn những kiến chấp của sở đắc ấy.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thành tựu tâm niệm này rồi, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, gìn giữ phương tiện thiện xảo. Nếu chưa viên mãn mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác, thì không bao giờ chứng nhập vào thắng định của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Khi ấy, Đại Bồ-tát mặc dù học ba môn giải thoát, xuất nhập tự tại nhưng chưa có thể chứng được thật tế, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Công đức nhân hành chưa viên mãn hoàn hảo, chưa chứng thật tế và các công đức khác. Nếu đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì mới chứng đắc.

Thiện Hiện nên biết! Bấy giờ, Đại Bồ-tát mặc dù tu tập chưa viên mãn các công đức khác nhưng đối với ba môn giải thoát đã tu tập được viên mãn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát luôn suy nghĩ: Các loài hữu tình luôn luôn hành các tướng. Nghĩa là chấp tướng nam, chấp tướng nữ, chấp tướng sắc, chấp tướng thanh, chấp tướng hương, chấp tướng vị, chấp tướng xúc, chấp tướng pháp, chấp các tướng ngã, tướng pháp khác. Vì các hữu tình này mà ta phải hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu các hạnh của Đại Bồ-tát. Khi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề sẽ giáo hóa các hữu tình đoạn trừ hẳn các chấp tướng như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thành tựu ý niệm đó rồi, hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, gìn giữ phương tiện thiện xảo. Nếu chưa viên mãn mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng, vô biên Phật pháp khác, thì không bao giờ chứng nhập vào thắng định của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Lúc này, Đại Bồ-tát ấy tuy học ba môn giải thoát và xuất nhập tự tại nhưng nhưng chưa chứng thật tế, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Công đức nhân hành chưa được viên mãn thì không chứng thật tế và các công đức khác. Nếu khi nào đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì mới có thể chứng được.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát lúc ấy mặc dù lúc này tu chưa viên mãn các công đức khác, nhưng đối với ba môn giải thoát đã tu tập được viên mãn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát đã tu học hoàn hảo về bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Ðã an trụ hoàn hảo về pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Ðã an trụ hoàn hảo về chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Ðã an trụ hoàn hảo về Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Ðã tu học hoàn hảo về bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Ðã tu học hoàn hảo về pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Ðã tu học hoàn hảo về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Ðã tu học hoàn hảo về tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Ðã tu học hoàn hảo về các bậc Bồ-tát. Ðã tu học hoàn hảo về pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Ðã tu học hoàn hảo về năm loại mắt, sáu phép thần thông. Ðã tu học hoàn hảo về mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Ðã tu học hoàn hảo về đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Ðã tu học hoàn hảo về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, và vô lượng, vô biên Phật pháp khác.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thành tựu trí kiến thù thắng như thế. Nếu đối với sanh tử mà tưởng vui hoặc nói có vui, hoặc chấp an trụ trong ba cõi thì không có việc đó.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát đã tu hành hoàn hảo pháp phần Bồ-đề thì tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và các đệ tử nên hỏi thử: “Nếu Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì làm thế nào để tu hành pháp phần Bồ-đề mà không chứng không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh thật tế? Do không chứng nên chẳng đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Ðộc giác Bồ-đề, nhưng lại siêng năng tu tập và không chấp vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.”

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy khi được hỏi như vậy thì nên trả lời như vầy: “Các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chỉ cần tư duy về không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh thật tế và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, chứ không nên tu học. Đại Bồ-tát ấy chưa được Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thọ ký Bất thối chuyển của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy chưa có thể khai thị thọ ký rõ ràng trụ vào tướng pháp mà Đại Bồ-tát Bất thối chuyển tu học.”

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy khi được hỏi như vậy thì trả lời như vầy: “Các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nên chánh tư duy về không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tác, vô vi, vô tánh thật tế và tất cả pháp phần Bồ-đề khác. Cũng phải phương tiện như trước đã nói, khéo léo tu học nhưng không tác chứng. Đại Bồ-tát ấy đã được Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thọ ký Bất thối chuyển của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đã khai thị thọ ký rõ ràng, trụ vào tướng pháp Đại Bồ-tát Bất thối chuyển tu học.”

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát chưa khai thị thọ ký rõ ràng, trụ vào tướng pháp Đại Bồ-tát ở địa vị Bất thối chuyển tu học thì nên biết Đại Bồ-tát ấy chưa tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, chưa nhập vào Bạc địa, chưa bằng Đại Bồ-tát kia trụ vào địa Bất thối chuyển, khai thị riêng biệt rõ ràng, an trụ vào tướng Bất thối chuyển. Nếu Đại Bồ-tát khai thị riêng biệt rõ ràng, trụ vào tướng các pháp Đại Bồ-tát Bất thối chuyển tu học, thì nên biết Đại Bồ-tát ấy đã tu học hoàn hảo bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và tất cả pháp phần Bồ-đề khác, đã nhập vào Bạc địa, giống như Đại Bồ-tát kia trụ vào địa Bất thối chuyển, khai thị riêng biệt rõ ràng, trụ vào tướng Bất thối chuyển.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Có Đại Bồ-tát nào chưa đắc Bất thối chuyển mà có thể như thật trả lời như thế không?

Phật bảo:

– Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tuy chưa đắc Bất thối chuyển, nhưng ở đây có thể như thật trả lời. Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy mặc dù chưa đắc Bất thối chuyển, nhưng có thể tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và các pháp phần Bồ-đề khác, đã được thành thục, giác tuệ lanh lợi, hoặc nghe hoặc không nghe đều có thể như thật trả lời giống như Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Có nhiều Đại Bồ-tát cầu học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhưng ít người có thể như thật trả lời giống như các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển đã tu hoàn hảo về Trị địa, hoặc chưa hoàn hảo về Trị địa mà vẫn an trụ.

Phật bảo:

– Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Vì sao? Vì ít có Đại Bồ-tát được thọ ký trí tuệ thù thắng của địa Bất thối chuyển. Nếu có người được thọ ký như thế thì đều có thể như thật trả lời như thế.

Này Thiện Hiện! Nếu ai có thể như thật trả lời, thì nên biết đó là Đại Bồ-tát đã gieo trồng căn lành lanh lợi, sáng suốt tuyệt đỉnh, trí tuệ đã tu rất là sâu rộng. Thế gian, trời, người, A-tu-la v.v… không thể nào dẫn dắt tước đoạt được. Ngược lại, chúng bị phá hoại và chắc chắn Đại Bồ-tát ấy đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Cho đến trong mộng, Đại Bồ-tát ấy cũng chẳng ưa thích khen ngợi pháp của địa vị Thanh văn, Ðộc giác. Pháp trong ba cõi cũng chẳng ưa thích khen ngợi, mà thường quán các pháp ấy giống như mộng, như tiếng vang, nói rộng cho đến như thành Tầm hương. Tuy quán sát như vậy, nhưng không chứng thật tế, nên biết Bồ-tát ấy có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu trong mộng, Đại Bồ-tát ấy thấy Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác có vô lượng trăm ngàn triệu ức chúng cung kính vây quanh thuyết pháp. Sau khi nghe pháp rồi, tất cả đều hiểu rõ ý nghĩa. Được hiểu ý nghĩa nên tinh tấn tu hành pháp, tùy pháp hành, nhập vào Tam-ma-địa mà phát sanh tùy pháp hành. Nên biết Bồ-tát ấy có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát trong mộng thấy Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác được trang nghiêm đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, luôn có ánh sáng một tầm, chiếu rực rỡ mọi nơi, cùng vô lượng chúng vọt lên hư không, hiện đại thần thông thuyết pháp giải thoát, hóa ra nhiều thân đi đến vô lượng cõi Phật phương khác để làm Phật sự. Nên biết Bồ-tát ấy có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát trong mộng thấy giặc cuồng loạn phá hoại xóm làng, hoặc thấy lửa nổi lên thiêu đốt làng mạc; hoặc thấy sư tử, hổ lang, thú dữ, rắn độc, mọt v.v… muốn đến hại; hoặc thấy oan gia muốn đến chặt đầu; hoặc thấy cha mẹ, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc sắp qua đời; hoặc thấy bản thân mình bị lạnh nóng, đói khát và các khổ khác hành hạ v.v…. Thấy những việc đáng sợ như vậy nhưng chẳng kinh hãi, cũng chẳng lo buồn. Sau khi thức dậy, liền suy nghĩ: Ba cõi không thật, đều như thấy trong mộng. Khi ta đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, phải nói cho hữu tình biết rằng pháp trong ba cõi đều hư vọng, giống như cảnh trong mộng. Nên biết Bồ-tát ấy có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát ấy cho đến trong mộng thấy có các hữu tình ở địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, liền suy nghĩ: Ta phải siêng năng tinh tấn tu hạnh Bồ-tát, mau hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Trong cõi Phật của ta, không có cõi ác và tên địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Sau khi thức dậy cũng nghĩ như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy khi thành Phật, ở cõi Phật nào nhất định không có cảnh ác. Vì sao? Vì các pháp ở trong mộng hoặc khi thức đều không hai, không hai phần. Nên biết Bồ-tát ấy có tướng Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát trong mộng thấy lửa thiêu đốt các loài hữu tình trong địa ngục v.v…; hoặc thấy thiêu đốt thành ấp xóm làng, liền phát thệ nguyện: “Nếu tôi được thọ ký Bất thối chuyển, sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện lửa lớn này tức thời dập tắt, biến thành mát mẻ.”

Sau khi Bồ-tát phát nguyện, thì trong mộng thấy lửa dập tắt ngay lập tức. Nên biết vị ấy đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu sau khi Bồ-tát này nguyện mà trong mộng thấy lửa chưa dập tắt thì nên biết vị ấy chưa được thọ ký Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi thức dậy, thấy lửa lớn nổi lên đốt cháy các thành ấp, hoặc thiêu cháy xóm làng, liền nghĩ như vầy: Trong mộng, hoặc khi thức, ta từng thấy mình có các tướng trạng của bậc Bất thối chuyển, nhưng chưa rõ hư thật ra sao. Nếu những điều ta thấy là thật có thì nguyện lửa lớn này tức thời dập tắt, biến thành mát mẻ.

Bồ-tát này đã phát nguyện, chí thành thiết tha như vậy thì bấy giờ lửa dữ liền bị dập tắt. Nên biết vị ấy đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nếu Bồ-tát này phát lời nguyện chí thành tha thiết như vậy mà lửa dữ vẫn còn thì nên biết vị ấy chưa được thọ ký Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi thức thấy lửa thiêu đốt các thành ấp, hoặc thiêu đốt xóm làng, liền nghĩ: Ở trong mộng hoặc khi thức, ta từng thấy mình có các hành động tướng trạng của bậc Bất thối chuyển. Nếu những điều ta thấy chắc chắn là thật có, thì nhất định sẽ chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nguyện lửa dữ này tức thời được dập tắt, biến thành mát mẻ.

Đại Bồ-tát ấy phát nguyện chí thành tha thiết như vậy, mà khi ấy lửa dữ không tắt, lại cháy từ nhà này lan qua nhà khác; lại cháy từ xóm này lan qua xóm khác. Cứ lần lượt như vậy, lửa kia mới tắt. Đại Bồ-tát ấy tự mình biết rõ chắc chắn đã được thọ ký Bất thối chuyển. Nhưng nhà, người bị cháy là do hữu tình ấy tạo tác nhiều về nghiệp phá hoại chánh pháp. Do nghiệp ấy nên đầu tiên họ bị đọa vào đường ác, trải qua vô lượng kiếp chịu quả khổ thích đáng, nay sanh vào cõi người bị các tai ương khác. Hoặc do nghiệp này sẽ đọa vào đường ác, trải qua vô lượng kiếp bị quả báo khổ thích đáng mà nay ở cõi người ít bị tai ương.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Căn cứ theo những nhân duyên đã nói ở trên, biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Lại có vị thành tựu tướng trạng khác thì biết đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Vì ông, ta sẽ phân biệt giải nói, ông nên lắng nghe suy nghĩ thật kỹ.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Xin Thế Tôn nói cho.

Phật bảo:

– Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thấy có người nam hay người nữ bị loài phi nhơn làm mê loạn chịu các khổ não, không thể tránh xa được, liền nghĩ: Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Biết biết ta đã được ý vui thanh tịnh, thọ ký cho ta quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển. Nếu ta phát sanh tác ý thanh tịnh lâu dài, cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, lìa bỏ tác ý của Thanh văn, Ðộc giác, không lấy tác ý của Thanh văn, Ðộc giác mà cầu chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì đương lai chắc chắn sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đến tận cùng đời vị lai làm lợi ích an lạc cho các loài hữu tình. Nếu ở mười phương thế giới thật có Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, nói pháp vi diệu làm lợi ích an lạc cho các hữu tình thì chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đó không có điều gì không thấy, không việc gì không biết, không vấn đề nào mà không hiểu rõ và không pháp nào mà không chứng, hiện biết thấy những ý vui khác nhau của tất cả hữu tình. Cúi xin chiếu giám lòng thành tha thiết của ta. Nếu ta thật sự có thể tu Bồ-tát hạnh, nhất định đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cứu giúp hữu tình ra khỏi khổ sanh tử, thì nguyện cho người nam hoặc người nữ kia không bị loài phi nhơn quấy nhiễu. Loài phi nhơn nghe lời của ta sẽ bỏ đi.

Khi Đại Bồ-tát ấy nói lời như vậy mà loài phi nhơn kia không chịu đi, thì nên biết vị ấy chưa được thọ ký Bất thối chuyển. Còn như khi Đại Bồ-tát ấy nói vậy mà loài phi nhơn kia chịu đi thì nên biết vị ấy đã được thọ ký Bất thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát chưa tu học hoàn hảo bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Chưa an trụ hoàn hảo về pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Chưa an trụ hoàn hảo về chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Chưa an trụ hoàn hảo về Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Chưa tu học hoàn hảo về bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Chưa tu học hoàn hảo về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chưa tu học hoàn hảo về tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Chưa tu học hoàn hảo về pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Chưa tu học hoàn hảo về pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Chưa nhập vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Chưa tu hành đầy đủ tất cả Phật pháp, xa lìa phương tiện thiện xảo của Bồ-tát. Chưa thoát khỏi ác ma làm não loạn. Chưa hiểu biết rõ về những việc của ma. Tự mình không lường căn lành của mình dày hay mỏng. Còn khi học theo lời chí thành của Bồ-tát nói thì bị ác ma lừa gạt. Đại Bồ-tát ấy thấy có người nam, người nữ đang bị loài phi nhơn làm mê loạn, chịu nhiều khổ não, không thể tránh xa được, vội vàng nói quyết chắc rằng tôi đã được quá khứ chư Phật thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, nên khiến cho người nam, người nữ kia không bị loài phi nhơn quấy nhiễu. Theo lời tôi nói phi nhơn kia sẽ mau bỏ đi.

Sau khi Đại Bồ-tát ấy nói lời như vậy thì bấy giờ ác ma bị lừa gạt, nên đến đàn áp phi nhơn bỏ đi. Vì sao? Vì oai lực của ác ma vượt trội hơn phi nhơn kia, nên phi nhơn bị ma ra lệnh liền bỏ đi. Nếu sau khi nói như vậy, Đại Bồ-tát vui mừng khôn xiết, suy nghĩ như vầy: Nay phi nhơn bỏ đi là do oai lực của ta. Vì sao? Vì phi nhơn nghe theo lời nguyện của ta, liền thả người nam, người nữ kia ra, chứ không phải vì duyên cớ nào khác.

Đại Bồ-tát ấy không hay biết việc làm của ác ma, nói là do oai lực của chính mình và vui mừng một cách sai lầm, và ỷ vào đó mà khinh khi các Đại Bồ-tát khác: “Ta đã được chư Phật quá khứ thọ ký đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, những lời nguyện của ta phát ra đều không uổng phí. Các ngươi chưa được chư Phật thọ ký, không nên bắt chước ta nói lời chắc chắn như vậy.” Giả sử có cố mong cầu nhưng hoàn toàn rỗng không, không có kết quả. Vì Đại Bồ-tát ấy khinh khi chê bai các Bồ-tát khác, ỷ có chút tài năng sai lầm nên đối với các công đức làm tăng trưởng nhiều tăng thượng mạn mà xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không thể nào chứng đắc trí nhất thiết trí.

Đại Bồ-tát ấy không có sức phương tiện thiện xảo nên sanh trưởng nhiều tăng thượng mạn, và chê bai, khinh khi các Bồ-tát. Vì vậy, mặc dầu siêng năng tinh tấn nhưng lại rơi vào địa vị Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác. Đại Bồ-tát ấy do phước đức mỏng manh, nên làm việc gì hoặc nói lời chắc chắn nào cũng đều là hành động của ma. Đại Bồ-tát ấy không thể gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bậc chơn thiện tri thức, không thể thỉnh hỏi hành tướng của các Bồ-tát Bất thối chuyển, không thể học hỏi các sự nghiệp của quân ác ma làm. Do đó, bị ma trói buộc càng chặt chẽ hơn.

Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy từ lâu không tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến xa lìa phương tiện thiện xảo, nên bị ác ma lừa gạt. Do đó, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nên biết rõ ràng về các việc làm của ác ma.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Vì sao Đại Bồ-tát không tu hành lâu về bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho đến xa lìa phương tiện thiện xảo mà bị ác ma lừa gạt và khuyên các Đại Bồ-tát nên biết rõ ràng? Nghĩa là vì bị ác ma lừa gạt mà dùng phương tiện hóa đủ thứ hình tượng, đến chỗ Bồ-tát nói lời như vầy: “Ôi thiện nam tử! Ông biết không, chư Phật quá khứ đã từng thọ ký đại Bồ-đề cho ông. Với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, ông quyết định sẽ đắc Bất thối chuyển. Tên họ sai khác bảy đời của chính ông, cha mẹ, anh em chị em, thân bằng quyến thuộc của ông, tôi đều biết rõ. Ông sống vào xóm làng nào, thành ấp nào, nước nào, phương nào, ông sanh trong ngôi sao nào, vua nào, giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào v.v…”

Như vậy, nếu ác ma thấy bẩm tánh của Bồ-tát nhu nhược, các căn chậm chạp thì liền lừa gạt mà thọ ký: “Đời trước ông đã từng thọ căn tánh như vậy rồi.”

Nếu thấy Bẩm tánh Bồ-tát cang cường, các căn lanh lợi thì ác ma lừa gạt, thọ ký: “Đời trước ông đã từng thọ căn tánh như vậy.”

Nếu thấy Bồ-tát ở nơi thanh vắng, thường đi khất thực, hoặc nhận một bữa ăn, hoặc ăn một lần, hoặc ăn một bát, hoặc ở nơi gò mả, hoặc ở nơi đất trống, hoặc ở dưới gốc cây, hoặc mặc y phấn tảo, hoặc chỉ có ba y, hoặc thường ngồi không nằm, hoặc dùng phu cụ cũ, hoặc thiểu dục, hoặc hỉ túc, hoặc thích viễn ly, hoặc thích định tịch tịnh, hoặc đủ chánh niệm, hoặc đủ diệu tuệ, hoặc không trọng lợi dưỡng, hoặc không quí tiếng khen, hoặc thích tiết kiệm, chân không thoa dầu, hoặc ít ngủ nghỉ, hoặc lìa bỏ trạo cử, hoặc thích ít nói, hoặc thích lời hòa nhã v.v… Thấy các hạnh của Bồ-tát này rồi, ác ma liền dối gạt mà thọ ký: “Đời trước ông đã từng như vậy. Vì sao? Vì nay ông thành tựu công đức thù thắng như vậy mà thế gian thấy. Như vậy thì nhất định đời trước ông cũng có công đức thù thắng như vậy, nên vui mừng chứ không được khinh mình.”

Đại Bồ-tát ấy nghe ác ma này nói công đức tương lai, quá khứ của mình, và nói tên họ sai khác cùng thân thuộc hiện tại của mình, khi nghe khen ngợi những căn lành thù thắng nên vui mừng khôn xiết mà sanh tăng thượng mạn, khinh miệt, chê bai, hủy nhục các Đại Bồ-tát khác.

Bấy giờ, ác ma biết Bồ-tát kia do ám độn, sanh tăng thượng mạn mà khinh miệt người khác, lại nói: “Ông nhất định thành tựu công đức thù thắng, quá khứ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã thọ ký cho ông với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhất định ông sẽ chứng đắc Bất thối chuyển, nên hiện tại có tướng đẹp đẽ như vậy.”

Khi ấy, ác ma vì muốn quấy loạn Bồ-tát mà dối gạt, hiện làm hình tướng xuất gia, hoặc dối gạt hiện làm hình tướng tại gia, hoặc dối gạt hiện làm những hình tướng của cha mẹ, anh em, chị em, thân hữu, Phạm chí, sư phụ, trời, rồng, Dược-xoa, người chẳng phải người v.v… đến chỗ Bồ-tát ấy nói như vầy: “Quá khứ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã thọ ký đại Bồ-đề cho ông, đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề ông nhất định sẽ đắc Bất thối chuyển. Vì sao? Vì ông đều có đầy đủ tướng trạng công đức của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Hãy tôn trọng mình, chứ đừng nghi ngờ gì cả.” Nghe nói vậy, Bồ-tát này tâm tăng thượng mạn càng kiên cố.

Thiện Hiện nên biết! Như ta đã nói về việc thật đắc các hành động tướng trạng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển, thì Đại Bồ-tát ấy thật chẳng có.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy bị ma khống chế, bị ma lừa gạt nên không được tự do. Vì sao? Vì đối với các tướng trạng của hạnh Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thì Đại Bồ-tát này thật chưa có. Chỉ nghe danh tự và công đức v.v… của mình do ác ma dối gạt nói thì sanh tăng thượng mạn, khinh khi chê bai các Bồ-tát khác. Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên giác tri rõ ràng về các việc làm của ác ma.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát bị ma khống chế, bị ma làm mê loạn, chỉ nghe danh tự sanh chấp trước sai lầm. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát trước kia chưa tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và vô lượng, vô biên Phật pháp khác. Do nhân duyên này làm cho ma có cơ hội. Đại Bồ-tát ấy không thể hiểu rõ hành tướng của uẩn ma, hành tướng của tử ma, hành tướng của thiên ma, hành tướng của phiền não ma. Do đó mà làm cho ma tìm được cơ hội. Đại Bồ-tát ấy không thể hiểu rõ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn và vô lượng pháp môn khác. Cũng không hiểu rõ danh tự của các pháp và hữu tình, thật tướng cho là vô tướng. Do đó làm cho ma tìm được cơ hội, dùng phương tiện biến hóa, làm đủ thứ hình tượng nói với Đại Bồ-tát như vầy: “Sự tu hành và hạnh nguyện của ông đã viên mãn, sẽ đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Khi thành Phật, ông sẽ được danh hiệu tôn quý, công đức thù thắng như vậy.” Nghĩa là ác ma kia biết Bồ-tát này ngày đêm cầu nguyện: “Khi ta thành Phật sẽ được danh hiệu công đức như vậy v.v…”, rồi theo sự cầu nguyện ấy mà ác ma thọ ký nói.

Khi ấy, Bồ-tát này lìa bỏ Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo nên nghe ma nói liền suy nghĩ: Người này thật kỳ lạ thay, đã thọ ký nói ta sẽ được danh hiệu công đức và thành Phật, ứng với điều mong cầu ngày đêm của ta. Do đây nên biết quá khứ chư Phật chắc chắn đã thọ ký đại Bồ-đề cho ta. Với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề nhất định ta sẽ đắc Bất thối chuyển. Khi thành Phật, ta nhất định sẽ được danh hiệu tôn quý, công đức như vậy.

Đại Bồ-tát ấy bị ma, quyến thuộc của ma, hoặc ác ma khống chế. Các Sa-môn v.v… được ác ma thọ ký, nói danh hiệu thành Phật vào đương lai thì lòng kiêu mạn lại tăng lên: “Vào đời vị lai ta nhất định sẽ thành Phật, đạt được danh hiệu công đức như vậy. Các Bồ-tát khác không bằng ta.”

Thiện Hiện nên biết! Như Ta đã nói về đắc các hành động tướng trạng của Đại Bồ-tát Bất thối chuyển thì Đại Bồ-tát ấy đều chưa thành tựu, chỉ nghe ma nói hư danh thành Phật mà sanh tâm kiêu mạn, khinh khi chê bai chúng Đại Bồ-tát khác. Do có tâm kiêu mạn, khinh khi chê bai chúng Đại Bồ-tát khác, nên Đại Bồ-tát ấy lìa bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đại Bồ-tát ấy xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo, vì bỏ bạn lành, nên luôn bị ma khống chế, rơi vào địa vị Thanh văn hoặc bậc Ðộc giác.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy khi được thân này, trở lại đắc chánh niệm, chí thành sám hối, bỏ tâm kiêu mạn, luôn luôn gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bậc thiện hữu chơn tịnh. Người ấy mặc dù bị luân hồi sanh tử nhưng sau đó nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu để tu học thì lần lần sẽ được chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nếu được thân này mà không đắc chánh niệm, không sám hối, không bỏ tâm kiêu mạn, không thích gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bậc thiện hữu chơn tịnh thì vị ấy nhất định bị luân hồi trong sanh tử. Sau đó mặc dù có tinh tấn tu các nghiệp nhưng cũng rơi vào địa vị Thanh văn, Ðộc giác.

Ví như Bí-sô cầu Thanh văn, nếu phạm một trong bốn trọng tội thì chẳng phải là Sa-môn, chẳng phải con dòng họ Thích Ca. Hiện tại vị ấy nhất định không thể đắc quả Dự lưu v.v… Bồ-tát vọng chấp hư danh cũng thế, chỉ nghe ma nói hư danh thành Phật, liền sanh tâm ngã mạn, khinh khi, chê bai các Đại Bồ-tát khác, nên biết tội của người này gấp vô lượng lần so với Bí-sô phạm bốn trọng tội kia.

Giả sử Bí-sô kia bị phạm bốn trọng tội thì tội lỗi của Bồ-tát này hơn ngũ vô gián gấp vô lượng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy thật không thành tựu công đức thù thắng, chỉ nghe ác ma nói hư danh thành Phật, rồi tự kiêu mạn, khinh khi Bồ-tát khác, cho nên tội này hơn ngũ vô gián. Do đó nên biết, Đại Bồ-tát nào muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên biết rõ hoàn toàn những việc vi tế của ma đã dùng danh hiệu v.v… hư dối mà thọ ký như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Có Đại Bồ-tát tu hạnh viễn ly, nghĩa là ở ẩn nơi rừng núi, hang trống, đồng trống, ở nơi thanh vắng, ngồi tư duy. Khi ấy, có ác ma đến cung kính khen ngợi công đức về hạnh viễn ly mà nói như vầy: “Lành thay Ðại sĩ! Ngài có thể tu hạnh chơn viễn ly như vậy. Hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều ca ngợi, được trời Ðế Thích, chư thiên, thần, tiên cùng nhau bảo vệ, cúng dường tôn trọng. Ngài cứ ở đây, đừng đi nơi khác.”

Thiện Hiện nên biết! Ta chẳng khen ngợi các Bồ-tát ở nơi thanh vắng, đồng trống, núi rừng, ngồi tư duy, tu hạnh viễn ly.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát phải tu những hạnh viễn ly khác hay sao mà Phật không khen ngợi công đức về hạnh viễn ly của vị ở nơi thanh vắng, đồng trống, núi rừng, không dùng ngọa cụ tốt, ngồi tư duy?

Phật bảo:

– Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát nếu ở nơi thanh vắng, núi rừng, đồng trống, hoặc ở nơi thành ấp xóm làng, vương đô huyên náo v.v… thì chỉ có thể xa lìa phiền não nghiệp ác và các tác ý về Thanh văn, Độc giác. Còn ai hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu và tu các công đức thù thắng khác thì đó mới gọi là hạnh chơn viễn ly của Bồ-tát. Hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khen ngợi, được chư Phật Thế Tôn chỉ dạy, chúng Bồ-tát thường nên tu học. Bất cứ ngày đêm, nên chánh tư duy, tinh tấn tu học pháp viễn ly này. Ðó gọi là Bồ-tát tu hạnh viễn ly. Hạnh viễn ly này không xen lẫn tác ý về Thanh văn, Độc giác, không xen tạp tất cả phiền não nghiệp ác, lìa các ồn ào, hoàn toàn được thanh tịnh, khiến các Bồ-tát mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho các hữu tình không gián đoạn.

Thiện Hiện nên biết! Những người được ác ma khen ngợi ẩn cư nơi núi rừng, đồng trống, thanh vắng, không dùng ngọa cụ tốt, ngồi tư duy. Đó chẳng phải là các Bồ-tát hạnh chơn viễn ly. Vì sao? Vì hạnh viễn ly đó còn có huyên náo. Nghĩa là họ còn xen phiền não nghiệp ác, hoặc xen lẫn tác ý Thanh văn, Ðộc giác. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không tinh cần tin thọ tu học, không thể viên mãn trí nhất thiết trí.

Thiện Hiện nên biết! Có Đại Bồ-tát chỉ thích tu hành pháp hạnh viễn ly mà ma khen ngợi nên có tâm kiêu mạn chẳng thanh tịnh, khinh khi, chê bai các chúng Đại Bồ-tát khác. Nghĩa là có chúng Đại Bồ-tát mặc dù ở thành ấp, xóm làng, vương đô, nhưng tâm thanh tịnh không xen tạp phiền não nghiệp ác và tác ý Thanh văn, Ðộc giác, tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình. Tuy ở nơi ồn náo mà tâm vẫn tịch tĩnh, luôn tinh cần tu tập hạnh chơn viễn ly. Đối với chúng Đại Bồ-tát chơn tịnh như vậy, mà vị kia sanh tâm kiêu mạn khinh khi chê bai, mắng chửi.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy đã xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo, nên tuy ở đồng trống một trăm do-tuần, nhưng nơi ấy tuyệt đối không có cầm thú hung dữ, rắn độc, giặc cướp, chỉ có quỷ thần, la-sát v.v… dạo chơi, cư ngụ trong đó. Người ở nơi thanh vắng kia mặc dù trải qua một năm, năm năm, mười năm, hoặc cho đến trăm ngàn ức năm, hoặc hơn số đó nữa, tu hạnh viễn ly nhưng không biết rõ về hạnh chơn viễn ly. Nghĩa là các chúng Đại Bồ-tát tuy ở chỗ ồn ào mà tâm tịch tĩnh, tránh xa các phiền não nghiệp ác và các tác ý Thanh văn, Ðộc giác, phát tâm hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát tuy ở mãi nơi đồng trống lại xen tạp tác ý địa vị Thanh văn, Ðộc giác, rất ưa thích mà chấp trước vào hai địa ấy, nương theo pháp hai địa ấy mà tu hạnh viễn ly, lại sanh tâm đắm chìm vào hạnh này. Người này mặc dù tu hạnh viễn ly nhưng không thuận theo tâm của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Ta khen ngợi các Đại Bồ-tát chơn hạnh viễn ly nhưng các Bồ-tát đó không thành tựu. Trong hạnh chơn viễn ly, Ta không thấy vị ấy có hành tướng tương tợ như vậy. Vì sao? Vì đối với hạnh chơn viễn ly đó, vị ấy không ưa thích, chỉ thích siêng năng tu hạnh viễn ly của Thanh văn, Ðộc giác.

Thiện Hiện nên biết! Khi Đại Bồ-tát ấy tu hạnh không thanh tịnh thì ma đến trên hư không, vui mừng khen ngợi, nói với Ðại sĩ: “Lành thay! Lành thay! Ông có thể siêng năng tu hạnh chơn viễn ly. Hạnh viễn ly này được tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác khen ngợi. Ông siêng năng tinh tấn tu học hạnh này thì mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.”

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy chấp vào pháp hạnh viễn ly của Nhị thừa, tu tập cho là tối thắng nên khinh khi, chê bai những vị trụ Bồ-tát thừa tuy ở nơi ồn náo nhưng tâm tịch tĩnh, thành tựu thiện pháp. Lại nói với Bí-sô: “Vị ấy không thể tu hạnh viễn ly, thân ở nơi ồn náo, tâm không tịch tĩnh, không thành tựu pháp lành.”

Thiện Hiện nên biết! Đối với Đại Bồ-tát được Phật khen ngợi, trụ vào hạnh chơn viễn ly thì Đại Bồ-tát kia khinh khi, chê bai, nói là ở nơi ồn náo, tâm không tịch tĩnh, không siêng năng tu hạnh chơn viễn ly.

Ðối với các Bồ-tát sống trong huyên náo mà chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác không khen ngợi, lại tôn trọng khen ngợi bảo chẳng ồn ào, phức tạp, nơi tâm tịch tĩnh, có thể chơn chánh tu hành được hạnh chơn viễn ly.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy đáng lẽ phải gần gũi cúng dường, cung kính như Thế Tôn, nhưng lại không gần gũi cúng dường, cung kính, mà ngược lại còn sanh tâm khinh miệt. Ðối với kẻ ấy nên xa lìa, không nên gần gũi cúng dường, cung kính bạn ác, ngược lại nên gần gũi cúng dường, cung kính như thờ Thế Tôn.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy đã xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì không có phương tiện thiện xảo, nên vọng sanh các chấp trước riêng biệt. Vì sao? Vì người kia nghĩ như vầy: Điều ta tu học là chơn viễn ly, cho nên được loài phi nhơn khen ngợi hộ niệm. Người ở thành ấp thân tâm tán loạn thì ai sẽ hộ niệm, cung kính khen ngợi. Do đó Đại Bồ-tát ấy tâm nhiều kiêu mạn, khinh miệt các chúng Đại Bồ-tát khác, nên phiền não nghiệp ác luôn luôn tăng trưởng.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát này đối với chúng Đại Bồ-tát khác là Chiên-đồ-la ô uế. Mặc dù tướng giống Đại Bồ-tát nhưng đó là đại giặc lớn trong trời, người, dối gạt người, trời, A-tu-la v.v… Thân vị ấy mặc pháp y của Sa-môn nhưng tâm luôn luôn thích làm việc trộm cướp. Những người nào có tâm hướng đến Bồ-tát thừa thì không nên gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen người ác đó. Vì sao? Vì bọn người này có tâm thượng mạn, bên ngoài giống Bồ-tát nhưng bên trong nhiều phiền não.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát thật sự không xả bỏ trí nhất thiết trí, không bỏ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thâm tâm muốn cầu trí nhất thiết trí, muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì lợi ích an lạc các hữu tình thì không nên gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen người ác như thế.

Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát nên luôn tinh tấn tu sự nghiệp của mình, nhàm chán xa lìa sanh tử, không chấp vào ba cõi. Ðối với bọn người giặc ác Chiên-đồ-la ấy phải luôn luôn phát sanh từ, bi, hỷ, xả với họ mà nghĩ như vầy: Ta không nên gây ra những tội lỗi như người ác kia. Giả sử gặp phải thất niệm như hắn thì nên biết rõ để mau trừ diệt.

Cho nên, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì phải biết rõ ràng về các việc của ác ma, nên siêng năng tinh tấn tránh xa, diệt trừ những tội lỗi như Bồ-tát kia đã tạo, nên cần cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát ý lạc tăng thượng, muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì thường phải gần gũi cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen bạn lành chơn tịnh.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Những ai gọi là bạn lành chơn tịnh của Đại Bồ-tát?

Phật bảo:

– Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác là bạn lành của Đại Bồ-tát. Tất cả chúng Đại Bồ-tát cũng là bạn lành chơn tịnh của các Đại Bồ-tát. Các Thanh văn và thiện sĩ khác có thể vì chúng Đại Bồ-tát tuyên thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng những pháp môn tương ưng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa để dễ hiểu thì cũng là bạn lành chơn tịnh của Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa là những bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Tám giải thoát cho đến mười biến xứ là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Pháp môn Ðà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Năm loại mắt, sáu phép thần thông là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Ðại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là bạn lành chơn tịnh các Bồ-tát.

Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Chấm dứt tất cả tập khí tương tục là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Tất cả hạnh Đại Bồ-tát là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Các pháp duyên tánh là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Các chi duyên khởi là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là bạn lành chơn tịnh của Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu rõ, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Bốn niệm trụ cho đến trí nhất thiết tướng là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu rõ, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát đoạn hẳn tất cả tập khí tương tục.

Tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Các pháp duyên tánh và chi duyên khởi cũng là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.

Vì sao? Vì tất cả chư Phật Thế Tôn ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều lấy bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng từ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là bậc thầy, là người dẫn đường, là ánh sáng, là ngọn đèn, là ngọn đuốc, là nguồn chiếu sáng, là sự hiểu biết, là sự giác ngộ, là trí, là tuệ, là người cứu giúp, là người bảo hộ, là phòng, là nhà, là hòn đảo, là chỗ quay về, là hướng đi, là cha, là mẹ. Vì sao? Vì tất cả chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, vị lai và hiện tại đều sanh trưởng từ bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng từ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát ý lạc tăng thượng, muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thì nên học bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, nói rộng từ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Đại Bồ-tát ấy đã học bố thí Ba-la-mật-đa, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Lại phải dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp hóa các hữu tình.

Thế nào là bốn? Một là bố thí; hai là ái ngữ; ba là lợi hành; bốn là đồng sự. Do Ta quán nghĩa này nên nói: “Tất cả bố thí Ba-la-mật-đa nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì là bậc thầy, là người dẫn đường nói rộng cho đến là cha, là mẹ của chúng Đại Bồ-tát.”

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu các Đại Bồ-tát muốn đạt sự tu hành không lệ thuộc vào người khác, muốn sống không lệ thuộc vào người khác chỉ dạy, muốn đoạn trừ tất cả sự nghi ngờ của hữu tình, muốn làm viên mãn tất cả hữu tình, muốn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, muốn thành thục hữu tình, thì nên học Bát-nhã ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì ở trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, nói rộng cho đến pháp mà Đại Bồ-tát nên học, tất cả chúng Đại Bồ-tát đều phải siêng năng tinh tấn tu học.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy gì làm tướng?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy Không làm tướng, lấy vô trước làm tướng, lấy vô tướng làm tướng, lấy tịch tĩnh làm tướng, lấy viễn ly làm tướng. Vì sao? Vì tướng trong Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các tướng của các pháp đều bất khả đắc, vô sở hữu.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Có nhân duyên nên có thể nói tất cả tướng vi diệu của Bát-nhã ba-la-mật-đa, còn tất cả pháp khác cũng có tướng vi diệu như vậy hay sao?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Có nhân duyên thì có thể nói Bát-nhã ba-la-mật-đa có tướng vi diệu và các pháp khác cũng có tướng vi diệu như thế. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy tánh Không làm tướng, pháp khác cũng lấy tánh Không làm tướng. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy vô trước làm tướng, pháp khác cũng lấy vô trước làm tướng. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy vô tướng làm tướng, pháp khác cũng lấy vô tướng làm tướng. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy tịch tĩnh làm tướng, pháp khác cũng lấy tịch tĩnh làm tướng. Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lấy viễn ly làm tướng, pháp khác cũng lấy viễn ly làm tướng. Do nhân duyên này mà có thể nói như vầy: “Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có tướng vi diệu, các pháp khác cũng có tướng vi diệu như thế. Vì tất cả pháp đều tự tánh Không, tự tánh lìa.”

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều là tự tánh Không, tự tánh lìa, tức là tất cả pháp Không của tất cả pháp, cũng là tất cả pháp lìa tất cả pháp, thì làm sao hữu tình có thể tạo ra có nhiễm, có tịnh? Chẳng phải trong pháp tánh Không có nhiễm, có tịnh; cũng chẳng phải pháp ly có nhiễm, có tịnh. Chẳng phải pháp tánh Không có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng chẳng phải trong pháp ly có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Chẳng phải trong tánh Không có pháp để đắc, cũng chẳng phải trong tánh ly cũng có pháp để đắc. Chẳng phải trong tánh Không có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng chẳng phải trong tánh ly có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề? Làm sao con hiểu những ý nghĩa sâu xa mà Thế Tôn đã nói?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Hữu tình luôn luôn có tâm ngã, ngã sở, chấp ngã, ngã sở không?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch thiện Thệ! Đúng vậy! Hữu tình luôn có tâm ngã, ngã sở và chấp trước ngã, ngã sở.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Hữu tình có chấp ngã và ngã sở đều là Không, là viễn ly không?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Hữu tình chấp trước ngã và ngã sở đều là Không, là viễn ly.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Há chẳng phải các hữu tình do chấp ngã, ngã sở mà bị luân hồi trong sanh tử sao?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Các loài hữu tình do chấp ngã, ngã sở mà bị luân hồi trong sanh tử.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Như vậy, các loài hữu tình luân hồi trong sanh tử là do có tạp nhiễm, cho nên hữu tình tạo ra có tạp nhiễm. Nếu các hữu tình không có tâm chấp trước vào ngã và ngã sở, thì họ không có tạp nhiễm. Nếu không có tạp nhiễm thì không bị luân hồi trong sanh tử. Vì luân hồi sanh tử bất khả đắc nên biết hữu tình đó xa lìa tạp nhiễm. Do không tạp nhiễm nên tạo ra có tịnh.

Cho nên, này Thiện Hiện! Mặc dù tự tánh của tất cả pháp đều Không, tự tánh đều lìa nhưng các hữu tình cũng có thể tạo ra có nhiễm, có tịnh.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát có thể tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy và hành tánh của tất cả pháp đều là Không, đều là lìa thì Bồ-tát ấy không hành sắc uẩn cho đến thức uẩn. Cũng không hành nhãn xứ cho đến ý xứ. Không hành sắc xứ cho đến pháp xứ. Không hành nhãn giới cho đến ý giới. Không hành sắc giới cho đến pháp giới. Không hành nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Không hành nhãn xúc cho đến ý xúc. Không hành các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Không hành địa giới cho đến thức giới. Không hành nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Không hành vô minh cho đến lão tử. Không hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa. Không hành pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Không hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Không hành Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo.

Không hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Không hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Không hành lìa sát hại sanh mạng cho đến lìa tà kiến. Không hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Không hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ.

Không hành Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Không hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Không hành pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Không hành năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Không hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Không hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Không hành ba mươi hai tướng Ðại sĩ, tám mươi vẻ đẹp. Không hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Không hành quả Dự lưu cho đến Ðộc giác Bồ-đề. Không hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Không hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Vì sao? Vì các pháp ấy đều không thể đắc, người hành, pháp được hành, thời gian hành, nơi chốn hành và do đây hành đều vô sở hữu.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát có thể hành như vậy thì không bị tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v… chinh phục mà ngược lại có thể chiến thắng họ.

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát có thể hành như vậy thì không bị Thanh văn, Độc giác chinh phục, ngược lại có thể chinh phục được họ. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đã được an trụ vào địa vị không có thể chinh phục, đó là địa vị ly sanh của Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy thường trụ trong tác ý của trí nhất thiết trí nên không bị ai chinh phục.

Bạch Thế Tôn! Khi Đại Bồ-tát ấy hành như vậy thì được gần gũi với trí nhất thiết trí, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, độ các loài hữu tình.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nếu Đại Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu và tướng của tất cả pháp là Không, là viễn ly thì Đại Bồ-tát ấy không hành sắc uẩn, nói rộng cho đến trí nhất thiết tướng. Như vậy, cho đến được gần gũi trí nhất thiết trí, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, độ các loài hữu tình.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Giả sử các loài hữu tình trong châu Nam Thiệm-bộ đều được làm người, được làm người rồi phát tâm tu học hạnh của các Bồ-tát, đều chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Các thiện nam, thiện nữ v.v… suốt đời lấy những vật ưa thích của thế gian để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác này. Rồi đem căn lành đã tu tập này bình đẳng cho các hữu tình và cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nhờ nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ v.v… ấy được phước nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… nào ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này, bày ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để mọi người dễ hiểu và trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy. Do nhân duyên ấy mà các thiện nam, thiện nữ v.v… này được công đức nhiều hơn người trước vô lượng, vô số, không thể tính được.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Như vậy, cho đến giả sử các loài hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đều được làm người. Sau khi được làm người lại phát tâm tu học hạnh Bồ-tát. Tất cả đều chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Có thiện nam, thiện nữ v.v… suốt đời đem những thứ ưa thích trong thế gian để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Lại đem căn lành đã được tu tập bình đẳng cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Do nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ v.v… này được phước nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, bày ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để mọi người dễ hiểu và trụ trong tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy thì công đức đạt được nhiều hơn người kia vô lượng, vô số, không thể tính lường được.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Giả sử các loài hữu tình trong châu Nam Thiệm-bộ này đồng một lúc đều được làm người. Có thiện nam, thiện nữ v.v… dùng phương tiện giáo hóa hướng dẫn để họ trụ vào mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, hoặc bốn định vô sắc, hoặc năm thần thông, hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc Ðộc giác Bồ-đề, hoặc trụ vào quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Lại đem căn lành đã giáo hóa ấy bình đẳng cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… ấy được phước nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Thiện nam, thiện nữ v.v… nào ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, rồi đưa ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để họ dễ hiểu và an trụ vào tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… ấy được công đức nhiều hơn người kia vô lượng, vô số, không thể nào lường tính được.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Như vậy, cho đến giả sử các loài hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đồng một lúc đều được làm người. Có thiện nam, thiện nữ v.v… dùng phương tiện giáo hóa, dẫn dắt để họ an trụ vào mười thiện nghiệp đạo, hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán, Ðộc giác Bồ-đề, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, hoặc đem căn lành đã giáo hóa, bình đẳng cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… kia được công đức có nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… ở giữa đại chúng tuyên thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế, đưa ra, kiến lập, phân biệt, khai thị để mọi người dễ hiểu và an trụ vào tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, thì nhờ nhân duyên này, thiện nam, thiện nữ v.v… ấy đạt được công đức nhiều hơn người kia vô lượng, vô số, không thể tính lường được.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy nhờ oai lực tinh tấn tăng thượng này mà đạt đến bờ kia, làm phước điền cho hữu tình. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đối với pháp đã được oai lực tinh tấn tăng thượng, làm cho tất cả hữu tình không ai sánh kịp, trừ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thấy các hữu tình người nào không lợi ích an lạc thì sanh tâm đại từ. Thấy hữu tình đau khổ thì sanh tâm đại bi. Thấy các hữu tình được lợi ích an lạc thì sanh tâm đại hỷ. Thấy hữu tình lìa tánh lìa tướng thì sanh tâm đại xả. Còn các Thanh văn, Độc giác thì không thể có được như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy đối với hữu tình thì phát sanh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả một cách bình đẳng nhưng tất cả đều không chấp trước, không giống với dị sanh, Thanh văn, Độc giác theo sở đắc mà sanh tâm chấp trước.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đạt được ánh sáng lớn. Nghĩa là được ánh sáng của bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy mặc dù chưa chứng đắc trí nhất thiết trí, nhưng đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề được Bất thối chuyển, đạt đến bờ bên kia làm phước điền cho hữu tình, đáng nhận tất cả y phục, ăn uống, giường chiếu, thuốc thang và các vật dụng sanh sống.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy thường trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, cho nên báo ơn thí chủ một cách rốt ráo, cũng có thể gần gũi trí nhất thiết trí. Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát không muốn thọ tất cả vật tín thí của quốc vương, đại thần và các hữu tình khác một cách uổng phí, muốn chỉ cho hữu tình con đường chơn tịnh, muốn làm nguồn ánh sáng cho các hữu tình, muốn giải thoát địa ngục ba cõi cho các hữu tình, muốn ban pháp nhãn thanh tịnh cho các hữu tình thì phải thường trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát thường trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, trong lúc ấy không cho các tác ý khác khởi lên.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy luôn luôn tinh tấn trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa không bao giờ lìa bỏ. Ví như có người trước đây chưa từng có ngọc châu mạc-ni quí. Khi có được, ông ta rất vui mừng sung sướng, sau do gặp duyên cố chẳng may lại mất, nên rất khổ não, luôn luôn than thở, tiếc nuối, không lúc nào quên và luôn suy nghĩ phải tìm cách gì để lấy lại viên ngọc châu ấy. Người kia cứ nghĩ đến viên ngọc châu ấy cho nên không sao quên được. Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, phải thường an trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu. Nếu không trụ vào tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thì bị đánh mất tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, Thiện Hiện liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tự tánh của tất cả tác ý đều Không, tự tánh của tất cả tác ý đều lìa. Các pháp cũng vậy, trong tự tánh Không, tự tánh lìa của tất cả các pháp, hoặc Đại Bồ-tát, hoặc Bát-nhã ba-la-mật-đa, hoặc trí nhất thiết trí, hoặc các tác ý khác đều bất khả đắc. Vì sao Đại Bồ-tát không lìa tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng không lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát biết tất cả pháp, tất cả tác ý đều là tự tánh Không, tự tánh lìa như vậy, Không và lìa chẳng phải Thanh văn tạo ra, chẳng phải Ðộc giác tạo ra, chẳng phải Bồ-tát tạo ra, chẳng phải Như Lai tạo ra, cũng chẳng phải các hữu tình khác tạo ra, nhưng tất cả pháp, pháp định, pháp trụ, pháp tánh, pháp giới, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, chơn như, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, pháp thường trụ như vậy, nên Đại Bồ-tát ấy không lìa bỏ tác ý tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật-đa, cũng lại không lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, trí nhất thiết trí và các tác ý tự tánh đều Không, tự tánh đều lìa. Như vậy, Không và lìa đều không tăng không giảm. Nếu thông đạt một cách đúng đắn như vậy thì gọi là bất ly.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu là tự tánh đều Không và tự tánh đều lìa, thì vì sao sau khi Đại Bồ-tát tu chứng tánh bình đẳng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thì liền đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát khi tu chứng tánh bình đẳng của Bát-nhã ba-la-mật-đa, chẳng phải Phật pháp có tăng, có giảm, cũng chẳng phải các pháp, pháp định, pháp trụ, pháp tánh, pháp giới, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, chơn như, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có tăng hay giảm. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu chẳng phải một, chẳng phải hai, cũng chẳng phải nhiều.

Thiện Hiện nên biết! Nếu Đại Bồ-tát nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như vậy, mà tâm không kinh, không sợ, không thối lui, cũng không nghi ngờ thì Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đã đạt đến chỗ cứu cánh, an trụ vào địa vị Bồ-tát Bất thối chuyển, và mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy thì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu là hư không, không có, tánh không tự tại, tánh không chắc thật, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu được không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu hư không chẳng có, tánh không tự tại, tánh không chắc thật thì có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tánh Không có thể hành tánh Không được không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa tánh Không có pháp nào có thể đắc, có thể hành về Không đó được không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy thì sắc uẩn cho đến thức uẩn có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy thì nhãn xứ cho đến ý xứ có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Lìa nhãn xứ cho đến ý xứ có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy thì sắc xứ cho đến pháp xứ có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Lìa sắc xứ cho đến pháp xứ có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy thì nhãn giới cho đến ý giới có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Lìa nhãn giới cho đến ý giới có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sắc giới cho đến pháp giới có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa sắc giới cho đến pháp giới có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nhãn thức giới cho đến ý thức giới có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa nhãn thức giới cho đến ý thức giới có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nhãn xúc cho đến ý xúc có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa nhãn xúc cho đến ý xúc có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Địa giới cho đến thức giới có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa địa giới cho đến thức giới có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa nhân duyên cho đến tăng thượng duyên có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vô minh cho đến lão tử có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa vô minh cho đến lão tử có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát cho đến mười biến xứ có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa tám giải thoát cho đến mười biến xứ có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt, sáu phép thần thông có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Ðại sĩ có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Ðại sĩ có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Quả Dự lưu cho đến Ðộc giác Bồ-đề có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa quả Dự lưu cho đến Ðộc giác Bồ-đề có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tất cả hạnh Đại Bồ-tát có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sắc uẩn cho đến thức uẩn, hư không, phi hữu, tánh không tự tại, tánh không chắc thật có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn, hư không, phi hữu, tánh không tự tại, tánh không chắc thật có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hư không, phi hữu, tánh không tự tại, tánh không chắc thật có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hư không, phi hữu, tánh không tự tại, tánh không chắc thật có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Sắc uẩn cho đến thức uẩn, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa sắc uẩn cho đến thức uẩn, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tuớng, trí nhất thiết tướng, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có pháp nào có thể đắc, có thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Nếu các pháp như vậy đều là không thể hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, thì các Đại Bồ-tát làm sao để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ông thấy có pháp nào để hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ông thấy Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu là hành xứ của Đại Bồ-tát phải không?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Pháp mà ông không thấy là pháp có thể đắc không?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Pháp không thể đắc là có sanh không?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Thật tánh của các pháp mà ông thấy là Vô sanh pháp nhẫn của Bồ-tát. Nếu Đại Bồ-tát thành tựu Vô sanh pháp nhẫn ấy thì được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ-tát ấy đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng v.v… vô lượng, vô biên công đức thù thắng, thì gọi là người hành giả tinh tấn như thật. Nếu có thể tu hành tinh tấn như thế mà chẳng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, trí nhất thiết tướng, đại trí, diệu trí thì không có việc ấy. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát ấy đã chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn cho đến chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đối với pháp sở đắc không thối lui, không giảm.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có lấy vô sanh tánh của tất cả pháp để được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có lấy sanh tánh của tất cả pháp để được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có lấy sanh, vô sanh tánh của tất cả pháp để được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát có lấy tánh chẳng phải sanh, chẳng phải vô sanh của tất cả các pháp để được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Không.

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Như vậy thì làm sao các Đại Bồ-tát được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật?

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Ông thấy có pháp nào được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không?

Thiện Hiện bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Không. Con không thấy pháp nào được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, cũng không thấy pháp nào đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật có người chứng, pháp được chứng, thời gian chứng, nơi chốn chứng và do đây chứng, vì tất cả đều bất khả đắc.

Phật dạy:

– Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Thiện Hiện nên biết! Khi các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp vô sở đắc, không nghĩ: Ta có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Dùng pháp ấy đối với thời gian như vậy, nơi chốn như vậy, ta chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không còn có những phân biệt. Vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu lìa các sự phân biệt. Nếu có phân biệt thì chẳng phải hành Bát-nhã ba-la-mật-đa .

Bấy giờ, trời Ðế Thích bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát-nhã ba-la-mật-đa rất là sâu xa, khó thấy, khó hiểu, không thể suy nghĩ, vượt qua cảnh giới của suy nghĩ, vì những sở chứng của bậc trí tuệ thông minh đối với sự phân biệt về các tướng thì hoàn toàn xa lìa. Nếu các hữu tình đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này thường thích nghe, thọ trì, đọc tụng, thông đạt hoàn toàn, tư duy đúng lý, y theo lời dạy mà tu hành, dạy đúng cho người khác, cho đến chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không xen tạp tâm và tâm sở khác, thì nên biết các loài hữu tình ấy nhất định thành tựu vô lượng căn lành, có thể ở trong đây hoàn tất việc ấy.

Phật dạy trời Ðế Thích:

– Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Kiều-thi-ca! Đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này, các loài hữu tình thường thích nghe, thọ trì, đọc tụng, hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, y theo lời dạy mà tu hành, dạy đúng cho người khác, cho đến chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không xen tạp các tâm và tâm sở khác, thì nên biết các loài hữu tình như thế quyết định thành tựu vô lượng căn lành, cho đến ở trong đây sẽ hoàn tất việc ấy.

Kiều-thi-ca! Giả sử các loài hữu tình trong châu Nam Thiệm-bộ này, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới đều thành tựu vô lượng công đức của mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, nếu có thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này thường ưa thích nghe, thọ trì, đọc tụng, hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, y theo lời dạy mà tu hành, dạy đúng cho người khác thì thiện nam tử, thiện nữ v.v… đó đạt được công đức so với phước đức trước hơn trăm lần, ngàn lần, cho đến phần nhỏ nhất.

Khi ấy, trong hội có một Bí-sô nói với trời Ðế Thích:

– Này Kiều-thi-ca! Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… nào đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này nhiếp tâm không tán loạn, thường thích nghe, thọ trì, đọc tụng cho cực thông hiểu, tư duy đúng lý, y theo lời dạy mà tu hành, dạy đúng cho người khác, cho đến chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không xen tạp các tâm và tâm sở khác, thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này đạt được công đức hơn tất cả hữu tình trong châu Thiệm-bộ, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới đã thành tựu vô lượng công đức về mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông v.v…

Khi ấy, trời Ðế Thích nói với Bí-sô:

– Thiện nam, thiện nữ v.v… ấy khi mới phát tâm thì nhất niệm tương ưng với trí nhất thiết tướng, công đức đạt được hơn tất cả hữu tình trong châu Nam Thiệm-bộ, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới đều thành tựu vô lượng công đức về mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông v.v… gấp trăm ngàn lần, huống gì đối với kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm này mà nhiếp tâm không tán loạn, thường thích lắng nghe, thọ trì, đọc tụng thông suốt hoàn toàn, tư duy đúng lý, y theo lời dạy mà tu hành, dạy đúng cho người khác, cho đến chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, không xen tạp các tâm và tâm sở khác, công đức đạt được không thể nào so sánh được.

Trí tuệ công đức của thiện nam, thiện nữ v.v… này không những hơn tất cả loài hữu tình trong châu Nam Thiệm-bộ, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới đã thành tựu vô lượng công đức về mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự v.v… mà còn vượt hơn tất cả công đức của tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v… Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ v.v… ấy mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho hữu tình vô cùng tận.

Bí-sô nên biết! Công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ v.v… đó không những vượt hơn tất cả công đức của tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v… mà còn vượt hơn tất cả công đức của Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Ðộc giác. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ v.v… đó mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho hữu tình vô cùng tận.

Bí-sô nên biết! Công đức trí tuệ của thiện nam, thiện nữ v.v… đó không những vượt hơn tất cả công đức của tất cả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Ðộc giác, mà còn vượt hơn tất cả công đức của Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa, tu hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tịnh lự Ba-la-mật-đa. An trụ vào pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. An trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ vào Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo.

Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa. Tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Tu hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Tu hành quán thuận nghịch mười hai nhân duyên. Thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, tu các hạnh của Đại Bồ-tát và tất cả công đức của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật.

Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ v.v… đó mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho hữu tình vô cùng tận.

Bí-sô nên biết! Các thiện nam, thiện nữ v.v… đó công đức trí tuệ vượt hơn tất cả công đức tất cả Đại Bồ-tát xa lìa phương tiện thiện xảo tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa ấy. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ v.v… ấy mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc cho hữu tình vô cùng tận.

Lại nữa, này Bí-sô! Nên biết thiện nam, thiện nữ v.v… đó tức là Đại Bồ-tát. Đại Bồ-tát theo lời nói mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, vì có phương tiện thiện xảo, nên không bị tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v… và Bồ-tát, Ðộc giác, Thanh văn khác chinh phục. Vị này có thể kế thừa hạt giống trí nhất thiết trí, không bao giờ đoạn tuyệt, không xa lìa chư Phật, Bồ-tát, bạn lành chơn tịnh, không bao lâu sẽ ngồi tòa Bồ-đề, chiến thắng tất cả quyến thuộc ác ma, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, cứu vớt các loài hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử, để đạt được Niết-bàn rốt ráo thường lạc.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát theo lời nói mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, vì có phương tiện thiện xảo, thường học pháp mà chúng Đại Bồ-tát nên học, không học pháp của Thanh văn và Ðộc giác.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, vì có phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của Đại Bồ-tát.

Bấy giờ, trời Tứ đại thiên vương thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị Bồ-tát ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và cùng nói như vầy:

– Lành thay, Ðại sĩ! Ông nên siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, đừng học theo pháp nên học của Thanh văn và Ðộc giác. Nếu học như vậy, sẽ mau an tọa nơi tòa Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, giống như trước đây Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã nhận bốn bình bát do Tứ thiên vương cúng dường, thì bấy giờ ông cũng sẽ nhận. Như xưa kia Tứ đại thiên vương hộ đời đã dâng cúng bốn bình bát, nay tôi cũng dâng cúng.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát. Thiên Ðế chúng tôi đều thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị Bồ-tát ấy để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen và cùng nhau nói như vầy:

– Lành thay, Ðại sĩ! Ông nên siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, đừng học theo pháp nên học của Thanh văn và Ðộc giác. Nếu học như vậy, ông sẽ mau an tọa tòa Bồ-đề, có thể chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, độ chúng hữu tình.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát.

Diệu Thời Phận Thiên tử, Diệu Biến Hóa Thiên tử, Diệu Tự Tại Thiên tử đều thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị Bồ-tát ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, tất cả đều nói:

– Lành thay, Ðại sĩ! Ông nên siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, đừng học theo pháp nên học của Thanh văn và Ðộc giác. Nếu học như vậy, ông sẽ mau ngồi tòa Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, độ chúng hữu tình.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát.

Ðại phạm thiên vương chủ cõi Kham Nhẫn thống lãnh chúng Phạm thiên đến chỗ vị ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, nói như vầy:

– Lành thay, Ðại sĩ! Ông hãy siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, đừng học theo pháp nên học của Thanh văn và Ðộc giác. Nếu học như vậy, ông sẽ mau ngồi tòa Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Tôi sẽ đi đến dưới cội Bồ-đề ân cần khuyến thỉnh ông chuyển diệu pháp luân, làm lợi lạc cho vô số loài hữu tình.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát.

Trời Cực quang tịnh cho đến trời Sắc cứu cánh thống lãnh chúng trời của mình đến chỗ vị ấy cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, nói như vầy:

– Lành thay, Ðại sĩ! Ông hãy siêng năng tinh tấn học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát, đừng học theo pháp nên học của Thanh văn và Ðộc giác. Nếu học như vậy, ông sẽ mau ngồi tòa Bồ-đề, mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, độ chúng hữu tình.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, thường học pháp nên học của chúng Đại Bồ-tát. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, các chúng Đại Bồ-tát và các trời, rồng, A-tu-la v.v… thường theo hộ niệm. Nhờ nhân duyên này mà các Đại Bồ-tát ấy không bị hiểm nạn ở thế gian, nguy ách về thân, buồn khổ về tâm làm xâm tổn tai hại. Tất cả các bệnh phát sanh do bốn đại chống trái nhau, nghĩa là bệnh về mắt, bệnh về tai, bệnh về mũi, bệnh về lưỡi, bệnh về thân, các bệnh chi tiết khác. Như vậy tổng cộng là bốn trăm lẻ bốn chứng bệnh ở trong thân vĩnh viễn không phát sanh, chỉ trừ nghiệp nặng thì sẽ chuyển nhận quả báo nhẹ.

Bí-sô nên biết! Đại Bồ-tát theo lời nói mà tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, dùng phương tiện thiện xảo, đạt được những công đức đời hiện tại như vậy, đời sau công đức càng tăng vô lượng, vô biên.

Bấy giờ, A-nan-đà thầm nghĩ: Nay trời Ðế Thích dùng biện tài của mình mà khen ngợi nói công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế, đó là nhờ sức oai thần của Như Lai. Biết tâm niệm của A-nan-đà, trời Ðế Thích thưa:

– Thưa Ðại đức! Tôi khen ngợi công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu đều nhờ sức oai thần của Như Lai.

Khi ấy, Phật bảo A-nan-đà:

– Đúng vậy! Đúng vậy! Trời Ðế Thích khen ngợi công đức lợi ích thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, ông nên biết đều nhờ thần lực của Như Lai chứ chẳng phải biện tài của vị ấy. Vì sao? Vì công đức thù thắng của Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu nhất định chẳng phải công đức mà tất cả thế gian, trời, người, A-tu-la v.v… khen ngợi.

Khánh Hỷ nên biết! Khi Đại Bồ-tát siêng năng học tư duy, tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa như thế, thì tất cả ác ma trong ba ngàn đại thiên đều sanh nghi ngờ, và nghĩ như vầy: Đại Bồ-tát này đã chứng thật tế, trụ vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Ðộc giác Bồ-đề, hay là hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, cứu độ các hữu tình?

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Khi Đại Bồ-tát không lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế, thì các ác ma rất lo sợ, thân tâm run rẩy, đau đớn như trúng mũi tên độc.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Khi Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, các ác ma đến chỗ vị ấy hóa hiện ra nhiều việc sợ hãi, nào là dao, kiếm, thú dữ, rắn độc, lửa dữ hừng hực phát lên bốn phía, muốn cho Bồ-tát ấy kinh hãi thối tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sanh tâm thối lui sự tu hành cho đến loạn tâm, ngăn cản quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề thì thâm tâm của ác ma ấy mới thỏa mãn.

Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Khi các Đại Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, đều bị ác ma quấy loạn, hay là có vị bị quấy nhiễu, hoặc có vị không bị quấy nhiễu.

Phật dạy:

– Khánh Hỷ! Chẳng phải các Bồ-tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, cũng đều bị ác ma quấy loạn, là có vị bị quấy nhiễu, có vị không bị quấy nhiễu.

Cụ thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Những Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu bị các ác ma quấy nhiễu? Những vị Đại Bồ-tát nào khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu?

Phật dạy:

– Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát đời trước nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này tâm không tin lại chê bai, hủy báng thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu bị ác ma quấy nhiễu. Nếu Đại Bồ-tát đời trước nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà tin hiểu, ca ngợi, không phỉ báng thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát đời trước nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà nghi ngờ, do dự là hữu hay vô, là thật hay không thật thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu. Nếu Đại Bồ-tát đời trước nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này mà tâm hoàn toàn không nghi ngờ, do dự, tin chắc chắn thật có thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này không bị ác ma quấy nhiễu

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa bạn lành, bị các bạn ác khống chế, nên không nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu này. Vì do không nghe nên không hiểu rõ, không hiểu rõ nên không thể tu tập, không thể tu tập nên không thể thỉnh hỏi, không thỉnh hỏi nên không thực hành theo lời nói, không thực hành theo lời nói nên không thể chứng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát gần gũi bạn lành, không lệ thuộc vào bạn ác, được nghe Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu như thế, nhờ được nghe nên liền hiểu rõ. Do hiểu rõ nên có thể tu tập. Nhờ tu tập nên có thể thỉnh hỏi. Nhờ thỉnh hỏi nên làm đúng như lời dạy. Nhờ làm đúng như lời dạy nên có thể chứng đắc Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, thọ trì khen ngợi pháp không chơn chánh vi diệu thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu. Nếu Đại Bồ-tát gần gũi Bát-nhã ba-la-mật-đa, không hộ trì, không khen ngợi pháp không chơn chánh vi diệu thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát xa lìa Bát-nhã ba-la-mật-đa, hủy báng chê bai chơn diệu pháp. Khi ấy, ác ma liền nghĩ: Bồ-tát này là bạn của ta. Do vị ấy hủy báng chê bai chơn diệu pháp, liền có các thiện nam tử v.v… trụ vào Bồ-tát thừa hủy báng chê bai chơn diệu pháp. Nhờ vậy mà lời nguyện của ta sẽ viên mãn, dù các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… đó giả sử siêng năng tinh tấn tu các pháp lành nhưng cũng rơi vào địa vị Thanh văn, Ðộc giác và cũng làm cho người khác bị rơi như vậy, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát gần gũi Bát-nhã ba-la-mật-đa, khen ngợi tin thọ chơn diệu pháp, cũng làm cho vô lượng thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa khen ngợi tin thọ chơn diệu pháp. Do đó mà ác ma sầu khổ lo sợ. Các thiện nam tử Bồ-tát thừa v.v… này, giả sử không tinh tấn siêng năng tu các pháp lành, nhất định cũng không làm cho người khác rơi vào địa vị Thanh văn hoặc Ðộc giác, mà chắc chắn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, nói như vầy: Ý nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó giác ngộ, thì làm sao giảng nói, nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu học, biên chép, lưu bố kinh điển này được. Ta còn không thể đắc cội nguồn của nó, huống chi những người trí cạn phước mỏng? Lúc ấy có vô lượng thiện nam tử v.v… trụ vào Bồ-tát thừa nghe lời nói của người kia như vậy nên tâm sợ hãi, liền thối lui tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên rơi vào địa vị Thanh văn hoặc bậc Độc giác, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát nào khi nghe thuyết kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, liền nói như vầy: “Bát-nhã ba-la-mật-đa này ý nghĩa thâm sâu, khó thấy, khó giác ngộ, nếu không giảng nói, lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tinh tấn tu học, ghi chép, lưu bố mà có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì chắc chắn không có điều đó. Khi ấy có vô lượng thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa nghe lời nói của vị ấy như vậy, vui mừng khôn xiết, liền thích nghe, thọ trì, đọc tụng kinh điển Bát-nhã ba-la-mật-đa thậm thâm, hoàn toàn thông hiểu, tư duy đúng lý, tinh tấn tu hành, giảng nói cho người khác, ghi chép, lưu bố, cầu đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát ỷ mình có công đức căn lành, khinh thường chúng Đại Bồ-tát khác, nói như vầy:

“Ta có thể tu hành bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa, còn các người không thể.

Ta có thể an trụ pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, còn các người không thể.

Ta có thể an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, còn các người không thể.

Ta có thể an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Ðại sĩ, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành thiền quán và chỉ pháp, còn các người không thể.

Ta có thể quán thuận nghịch duyên khởi, còn các người không thể.

Ta có thể quán sát các pháp tự tướng cộng tướng, còn các người không thể.

Ta có thể thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, còn các người không thể.

Ta có thể tu hành tất cả hạnh Đại Bồ-tát, còn các người không thể.

Ta có thể tu học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật, còn các người không thể.”

Bấy giờ, ác ma vui mừng nói: “Bồ-tát này là bạn bè của ta, luân hồi trong sanh tử không biết khi nào ra khỏi”, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát chẳng ỷ mình có công đức căn lành khinh khi các Đại Bồ-tát khác, tuy thường tinh tấn tu các pháp lành nhưng không chấp trước vào tướng của các pháp lành ấy, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát nào tự ỷ tên họ nổi tiếng của mình nên khinh miệt các Đại Bồ-tát khác, thường khen đức của mình, chê bai lỗi của người, thật sự không có các hành trạng của tướng Đại Bồ-tát Bất thối chuyển mà nói rằng thật có, nên sanh các phiền não, tự khen mình chê bai người khác: “Các người không có tên họ nổi tiếng của một Bồ-tát, chỉ riêng ta là Bồ-tát nổi tiếng.” Do tăng thượng mạn mà khinh miệt chê bai các Đại Bồ-tát khác.

Khi ấy, ác ma liền nghĩ: Đại Bồ-tát này làm cho quốc độ, cung điện của ta đông đảo, càng làm tăng trưởng cho địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ. Khi ấy, ác ma giúp đỡ thần lực cho vị ấy, khiến vị ấy oai thế biện tài càng tăng trưởng. Do đó có nhiều người tin theo lời nói của vị ấy. Vì nhờ sự giúp đỡ ấy nên giống với bọn ác kiến ấy. Ðồng với bọn ác kiến rồi, theo họ học tà đạo. Học tà đạo rồi, phiền não bừng cháy. Vì tâm điên đảo nên tạo ra thân, khẩu, ý nghiệp, tất cả đều chịu lấy quả khổ suy tổn không thể vui sướng. Do nguyên nhân này mà làm cho địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ càng tăng trưởng, làm cho quốc độ, cung điện của ma sung mãn. Do đó ác ma vui mừng khôn xiết, tự do làm theo ý của mình, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát không ỷ mình có tên tuổi hư dối của mình, không khinh miệt các Đại Bồ-tát khác tu thiện. Đối với các công đức lìa tăng thượng mạn, thường không khen mình cũng không chê người, có thể biết rõ ràng về các việc ác ma, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát cùng với người cầu Thanh văn, Ðộc giác thừa, hủy báng, khinh khi, chê bai nhau. Khi thấy việc này, ác ma liền suy nghĩ: Bồ-tát này đã xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, gần gũi địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Vì sao? Vì khinh khi, đấu tranh, phỉ báng nhau thì chẳng phải là đạo Bồ-đề, chỉ là đường hiểm ác của địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Sau khi suy nghĩ, ác ma vui mừng làm cho oai thế Bồ-tát này lớn mạnh, khiến cho vô lượng người tăng trưởng thêm nghiệp ác, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát cùng với người cầu Thanh văn, Ðộc giác thừa không khinh khi, đấu tranh, phỉ báng nhau, còn dùng phương tiện giáo hóa dẫn dắt họ hướng đến Ðại thừa, hoặc khuyên họ tu theo pháp lành của mình, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát cùng thiện nam tử v.v… cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, khinh khi, đấu tranh, phỉ báng với nhau. Bấy giờ, thấy việc này rồi, ác ma liền nghĩ: Hai Bồ-tát này đều xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, gần gũi với địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Vì sao? Vì khinh khi, đấu tranh phỉ báng nhau đó chẳng phải là đạo Bồ-đề, chỉ là đường hiểm nạn của địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ. Sau khi nghĩ như vậy, ác ma vui mừng khôn xiết, làm cho hai vị ấy tăng thêm oai thế, khiến cả hai đấu tranh không ngừng, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu liền bị ác ma quấy nhiễu.

Nếu Đại Bồ-tát cùng với thiện nam tử v.v… cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không khinh khi, đấu tranh, phỉ báng nhau, mà lại dạy bảo cho nhau tu các pháp lành để mau chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì Đại Bồ-tát ấy khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu không bị ác ma quấy nhiễu.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Nếu Đại Bồ-tát chưa được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, mà đối với Bồ-tát đã được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển có tâm tổn hại, khinh miệt, mắng chửi, hủy báng. Đại Bồ-tát ấy dù phát sanh bao nhiêu tâm niệm như vậy cũng không được lợi ích, ngược lại bị mất đi bao nhiêu hạnh thù thắng đã từng tu tập. Trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy tránh xa bạn lành, trở lại chịu bao nhiêu sự trói buộc trong sanh tử. Nếu không xả tâm đại Bồ-đề, trải qua bao nhiêu kiếp số đội mặc áo giáp thệ nguyện, siêng năng tu thắng hạnh, không bao giờ gián đoạn, thì sau đó mới bù đắp lại công đức đã bị thối lui.

Khi ấy, Khánh Hỷ liền bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Tâm mà Đại Bồ-tát ấy đã tạo ra nên bị tội khổ trong sanh tử, phải trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy. Nhưng trong thời gian đó cũng có người được ra khỏi? Thắng hạnh mà Đại Bồ-tát ấy đã bị thối lui, cần phải trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy, đội mặc áo giáp thệ nguyện, siêng năng tinh tấn không bao giờ gián đoạn, sau đó mới bù đắp lại công đức đã bị thối lui. Trong thời gian đó cũng có người được lợi ích như cũ.

Phật dạy:

– Khánh Hỷ! Vì Bồ-tát, Ðộc giác, Thanh văn mà Ta nói có người hết tội thì được trở lại đầy đủ pháp thiện.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát chưa được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, đối với các Bồ-tát đã được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển có tâm làm tổn hại, đấu tranh, khinh khi, mắng nhiếc, phỉ báng, sau đó không thấy xấu hổ, cứ nghĩ điều ác mãi trong lòng, không như pháp phát lồ sám hối tội lỗi. Thì Ta nói những hạng người ấy ở trong thời gian ấy không được hết tội lỗi để bù đắp lợi ích lại như cũ, phải bị luân hồi trong sanh tử, trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy xa lìa bạn lành, bị các khổ trói buộc. Nếu không xả bỏ tâm đại Bồ-đề, trải qua bao nhiêu kiếp số như vậy mang đội áo giáp thệ nguyện, siêng năng tinh tấn tu thắng hạnh không bao giờ gián đoạn, sau đó mới bù đắp lại công đức đã bị thối lui.

Nếu Đại Bồ-tát chưa được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, đối với các Đại Bồ-tát đã được thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề Bất thối chuyển, mà có lòng sát hại, đấu tranh, khinh miệt, mắng chửi, phỉ báng. Về sau thấy xấu hổ nên không còn trói buộc vào việc ác, liền có thể như pháp phát lồ sám hối, nghĩ như vầy: Ta nay đã được thân người khó được này, sao lại tạo ra những tội lỗi như vậy để làm mất đi thiện lợi lớn. Ta nên làm lợi ích cho tất cả hữu tình. Tại sao trong đó lại làm những việc suy tổn. Ta nên cung kính tất cả hữu tình như nô tỳ thờ chủ, tại sao lại sanh tâm kiêu mạn, hủy nhục, khinh khi.

Ta nên nhẫn nhục chịu tất cả hữu tình đánh đập quở trách, sao lại dùng thân ngữ bạo ác để trả thù lại.

Ta nên hòa giải với tất cả hữu tình để kính yêu nhau, sao lại buông ra lời nói ác tranh cãi nhau.

Ta nên nhẫn nhục chịu sự dẫm đạp của tất cả hữu tình, giống như đường đi, cũng như cầu cống, vì sao ta lại nhục mạ họ.

Ta cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì cứu vớt hữu tình ra khỏi khổ lớn sanh tử, để học được Niết-bàn hoàn toàn an lạc, sao ta muốn họ phải khổ.

Ta nay cho đến tận đời vị lai nên như câm, như ngọng, như đui, như điếc đối với các hữu tình không phân biệt. Dẫu có bị xử trảm, chặt đầu, chân, tay, móc mắt, cắt tai, xẻo mũi, cắt lưỡi, cưa thân thể ra từng phần cũng không bao giờ có niệm ác với họ. Nếu ta nghĩ ác về họ thì đã phá hoại làm mất đi tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm chướng ngại sở cầu trí nhất thiết trí, không thể nào làm lợi ích an lạc cho các hữu tình.

Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ-tát ấy, trong lúc Ta nói cũng được hết tội trở lại lợi ích như cũ, không cần trải qua kiếp số luân hồi trong sanh tử. Ác ma không thể nào quấy nhiễu người ấy được, vị ấy mau chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.

Lại nữa, này Khánh Hỷ! Các Đại Bồ-tát không nên giao thiệp với người cầu Thanh văn, Ðộc giác thừa. Giả sử có giao thiệp thì không nên sống chung. Nếu sống chung thì không nên bàn luận nghĩa lý với họ. Vì sao? Vì nếu cùng họ bàn luận nghĩa lý thì sẽ sanh tâm sân giận v.v… hoặc lại phát ra lời hung ác. Nhưng các Đại Bồ-tát đối với loài hữu tình không nên có tâm sân giận v.v… cũng không nên phát ra lời hung ác. Giả sử bị chặt đầu, tay chân, thân thể cũng không nên sân giận, ác ngôn. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát nên nghĩ như vầy: Ta cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì cứu vớt hữu tình bị các khổ trong sanh tử để được hoàn toàn lợi ích an lạc. Vì sao ta lại làm việc ác với họ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đối với các loài hữu tình, Đại Bồ-tát sanh tâm sân giận, phát lời hung ác thì làm chướng ngại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, cũng là làm hư hoại vô biên pháp hành của Bồ-tát. Cho nên, chúng Đại Bồ-tát muốn đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, thì không nên sân giận đối với các hữu tình, cũng không nên phát lời hung ác với họ.

Bấy giờ, Khánh Hỷ bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm thế nào ở chung với Đại Bồ-tát?

Phật dạy:

– Này Khánh Hỷ! Các Đại Bồ-tát cùng Đại Bồ-tát sống chung, hãy xem nhau như Thế Tôn. Vì sao? Nếu Đại Bồ-tát cùng Đại Bồ-tát trên dưới xem nhau nghĩ như vầy: Họ là chơn thiện tri thức của chúng ta, là bạn của ta cùng nhau đi chung một thuyền. Chúng ta và họ, thời gian học, học xứ và pháp được học đều không khác nhau.

Nếu người kia học bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học tám giải thoát cho đến mười biến xứ thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học năm loại mắt, sáu phép thần thông thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học nhân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Ðại sĩ thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả thì ta cũng phải học.

Nếu người kia thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật thì ta cũng phải học.

Nếu người kia học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì ta cũng phải học.

Lại nghĩ như vầy: Vì ta mà Đại Bồ-tát kia nói đạo đại Bồ-đề tức là bạn lành của ta, cũng là bậc đạo sư của ta. Nếu Đại Bồ-tát kia trụ vào tác ý tạp loạn, xa lìa tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, thì ta sẽ không cùng họ học. Nếu Đại Bồ-tát kia lìa tác ý tạp loạn, không lìa bỏ tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, thì ta sẽ cùng học với họ.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu Đại Bồ-tát có thể học như vậy, thì sẽ mau được viên mãn tư lương Bồ-đề. Khi Đại Bồ-tát học như vậy gọi là học bình đẳng với các Đại Bồ-tát.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.