Ngài dòng Sát-đế-lợi, ở Nam Ấn, con vua Đức Thắng. Lúc bé, Ngài đã sùng mộ Phật giáo, tánh tình thuần lương, thông minh xuất chúng. Vì can thiệp với vua cha về việc hại Tổ Bà-xá-tư-đa, Ngài bị hạ ngục. Sau khi được thả, Ngài lấy cớ bệnh, từ ngôi Thái tử, xin xuất gia với Tổ Bà-xá-tư-đa. Sau đó, Ngài được Tổ truyền tâm ấn, đi giáo hóa các nơi.
Ngài sang Đông Ấn hoằng hóa. Vua nước này hiệu Kiên Cố đang tin trọng các thầy Phạm chí. Hay tin Ngài vào nước này, chúng Phạm chí họp nhau bàn mưu hãm hại. Thầy bọn Phạm chí xin theo vua lên chỗ cao, ông chỉ xa hỏi vua:
– Bệ hạ thấy gì không? Phương Tây có yêu khí, ắt ma vào nước.
Vua đáp: – Không thấy, song có gì đáng ngại?
Phạm chí thưa:
– Ma này đến thì quốc gia suy vong. Xin dâng kế với bệ hạ, chi bằng mình tiêu diệt trước đi.
Vua đáp:
– Chưa thấy họ có tội gì? Đâu thể nhẫn tâm hại được.
Phạm chí lại tiến cử một đồ chúng giỏi chú thuật để theo vua trị ma. Ngài dự biết trước việc xảy đến nên dặn đồ chúng:
– Ta đến thành này ắt có nạn nhỏ, các ngươi chớ sợ.
Đến thành, Ngài xin vào yết kiến nhà vua. Vừa gặp, vua liền hỏi: – Thầy đến đây làm gì?
Ngài đáp: – Tôi đến đây vì độ chúng sanh.
Vua hỏi: – Sẽ lấy pháp gì? Độ những loài chúng sanh nào?
Ngài đáp: – Tùy mỗi loài kia dùng pháp độ họ.
Vua hỏi:
– Nếu có người pháp thuật giỏi, thầy dám chống chăng?
Ngài đáp:
– Phật pháp rất chân chánh, dù thiên ma cũng hàng phục được, huống là yêu thuật mà chẳng dám chống sao?
Ngoại đạo nghe nói nổi nóng, liền dùng pháp thuật hóa quả núi lớn, hiện trên không ngay đầu Ngài, như chực sắp đè. Ngài lấy tay chỉ, quả núi bay lại trên đầu bọn Phạm chí, chúng hoảng sợ cầu Ngài cứu mạng. Ngài lấy tay chỉ, quả núi tan mất. Vua và chúng Phạm chí đều kính phục, xin Ngài từ bi tha lỗi.
Nhân đó, Ngài đem yếu lý Phật pháp giảng giải cho vua nghe. Vua hiểu rõ, thêm lòng quý kính, thỉnh Ngài lưu lại trong hoàng cung. Ngài cũng cho nhà vua biết rằng trong nước nhà vua có một vị Thánh nhân sẽ nối tiếp Ngài truyền đạo.
Nguyên trong nước này có một đồng tử con dòng Bà-la-môn. Cha mẹ mất sớm, đồng tử ấy phải ăn xin để sống qua ngày. Đồng tử này tánh tình phóng khoáng lạ thường, không ai biết tên họ gì. Có khi đồng tử tự xưng là Anh Lạc, nên dân chúng gọi là đồng tử Anh Lạc. Gặp lúc đồng tử đi nhanh, có người hỏi: – Sao anh đi nhanh vậy?
Đồng tử đáp: – Sao các người đi chậm quá.
Có người hỏi: – Anh họ gì?
Đồng tử đáp: – Tôi với các người đồng họ.
Một hôm, vua Kiên Cố cùng Ngài Bất-như-mật-đa ngồi chung xe đi sang thành Đông. Anh Lạc ra đón, đứng trước xe làm lễ. Ngài nói với nhà vua:
– Người này là Thánh nhân ở trong nước Đại vương vậy.
Ngài lại hỏi Anh Lạc: – Ngươi nhớ việc xưa chăng?
Anh Lạc thưa:
– Tôi nhớ xưa đồng trong pháp hội, Tôn giả giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tôi giảng Tu-đa-la thậm thâm. Duyên xưa lại gặp, nên mới đón nhau đây.
Ngài nói với vua:
– Đồng tử này là hóa thân của Bồ-tát Đại Thế Chí, ra đời để nối dòng pháp cho tôi. Sau tôi sẽ có hai vị Đại sĩ ra đời, vị trước giáo hóa ở Nam Ấn, vị sau có duyên với nước Trung Hoa, nhưng ở bên ấy 9 năm rồi trở về bản quốc.
Ngài bảo Anh Lạc:
– Do xưa ta giảng Bát-nhã, ông thuyết Tu-đa-la, nay lại gặp đây, nên lấy Bát-nhã-đa-la đặt tên ngươi.
Bát-nhã-đa-la lễ tạ, theo thầy xuất gia.
Ngài ở Đông Ấn ngót 60 năm hoằng truyền chánh pháp.
Thấy cơ duyên sắp mãn, Ngài gọi Bát-nhã-đa-la đến dặn dò:
– Xưa Như Lai trao Đại pháp nhãn tạng, lần lượt truyền đến ta, nay ta đem truyền lại cho ngươi, ngươi nên lưu truyền, chớ để dứt mất. Nghe ta nói kệ:
Chân tánh tâm địa tàng,
Vô đầu diệc vô vĩ.
Ứng duyên nhi hóa vật,
Phương tiện hô vi trí.
Dịch:
Kho tâm địa chân tánh,
Không đầu cũng không đuôi.
Hợp duyên tùy hóa vật,
Phương tiện gọi là trí.
Ngài từ giã vua Kiên Cố rằng:
– Đại vương gánh vác việc nước, ủng hộ Tam Bảo đều được an ổn. Vì tôi hóa duyên đã hết, không vì quyến luyến ân đức Đại vương mà ở lâu, nay tôi sắp đi, Đại vương khéo bảo hộ Phật pháp.
Ngài nói xong, trở lại chỗ ngồi, thị hiện các thứ thần biến, rồi thị tịch.
Vua và môn đồ xây tháp thờ xá-lợi cúng dường.
Trang trước | Mục lục | Trang sau |