Thiền Sư Việt Nam

Thiền sư Đạo Huệ (? - 1172) (Đời thứ 9, dòng Vô Ngôn Thông)



Sư họ Âu, quê ở Chân Hộ làng Như Nguyệt, tướng mạo đoan trang, tiếng nói rất trong trẻo.

Năm hai mươi lăm tuổi, Sư theo Ngô Pháp Hoa (Thông Biện) ở chùa Phổ Ninh xuất gia. Ở đây Sư thầm hỏi về huyền môn và thâm đắc đến chỗ uyên áo.

Sau, Sư tìm đến chùa Quang Minh núi Thiên Phúc trong huyện Tiên Du dừng trụ. Sư khép mình trong giới luật, chuyên tu Thiền định, suốt ngày đêm không nằm, ngót sáu năm trường, cảm đến loài khỉ vượn trong núi họp lại nghe pháp. Do đó, tiếng Sư vang dậy đến kinh sư.

Niên hiệu Đại Định thứ hai mươi (1159), Hoàng cô Thụy Minh có bệnh, Vua sai sứ thỉnh Sư vào xem bệnh. Khi Sư xuống núi khỉ vượn đều kêu la bi thảm, như quyến luyến trong sự chia ly. Khi vào cung, Sư vừa đến cửa ngoài thì bệnh Hoàng cô được lành. Vua Lý Anh Tông rất vui mừng, mời Sư ở lại chùa Báo Thiên trong khoảng mười ngày. Các công khanh và bạn đạo khắp nơi nghe danh Sư tìm đến thăm viếng đông đảo không kể xiết. Nhân đó, Sư khai đường giáo hóa, không trở về núi lại.

Đến niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ mười (1172) ngày mùng một tháng tám, Sư có chút bệnh, than rằng: “Loạn ly lan rộng, ái chừ, từ đó mà đến.”

Lại nói kệ:

Đất nước lửa gió thức,

Nguyên lai thảy đều không.

Như mây lại tan hợp,

Phật nhật chiếu không cùng.

Sắc thân cùng diệu thể,

Chẳng hợp chẳng chia lìa.

Nếu người cần phân biệt,

Trong lò một cành hoa.

(Địa thủy hỏa phong thức,

Nguyên lai nhất thiết không.

Như vân hoàn tụ tán,

Phật nhật chiếu vô cùng.

Sắc thân dữ diệu thể,

Bất hiệp bất phân ly.

Nhược nhân yếu chân biệt,

Lô trung hoa nhất chi.)

Đến canh ba, Sư im lặng mà hóa. Môn nhân đưa linh cữu Sư về cố quận làm lễ hỏa táng, xây tháp thờ tại chùa Bảo Khám, núi Tiên Du, lại đưa một phần xá-lợi về an trí.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.