Thiền Sư Việt Nam

Thiền sư Chân Không (1045 - 1100) (Đời thứ 16, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)



Sư họ Vương tục danh Hải Thiềm, quê làng Phù Đổng huyện Tiên Du, con nhà sang trọng. Lúc mẹ mang thai Sư, cha mộng thấy vị Tăng trao cho cây tích trượng. Sau đó, sanh ra Sư.

Thuở nhỏ, Sư thích ở riêng một mình, siêng năng đọc sách, chẳng màng những việc vặt vãnh. Năm mười lăm tuổi, Sư đã bác thông sách sử. Đến hai mươi tuổi, Sư xuất gia, rồi dạo khắp tùng lâm tìm nơi khế hợp.

Sư đến pháp hội chùa Tĩnh Lự núi Đông Cứu nghe giảng kinh Pháp Hoa, hoát nhiên tỉnh ngộ. Cơ duyên khế hợp ấy, khác nào con rùa mù gặp bộng cây. Sư ở đây nhập thất sáu năm, sự tham vấn càng ngày càng sâu. Nhân đó, được truyền tâm ấn.

Sau, Sư đến núi Từ Sơn dừng trụ. Tự lấy giới luật giữ mình, trên hai mươi năm không hề xuống núi. Danh tiếng vang dậy xa gần. Vua Lý Nhân Tông nghe danh, xuống chiếu mời vào Đại nội giảng kinh Pháp Hoa. Thính giả nghe giảng ai nấy đều kính phục.

Bấy giờ, Thái úy Lý Thường Kiệt, Thích sử Lạng Châu, Tướng quốc Thân Công rất kính trọng Sư thường xả tài vật cúng dường. Những phần cúng dường Sư đều dùng vào việc sửa chùa xây tháp, đúc hồng chung để lại đời.

Về sau, Sư trụ trì chùa Chúc Thánh trên núi Phả Lại, có vị Tăng đến hỏi:

– Thế nào là diệu đạo?

Sư đáp:

– Sau khi giác rồi mới biết.

– Giáo chỉ từ trước học nhân chưa rõ, lời dạy hôm nay làm sao hội được?

– Nếu đến tiên gia trong động sâu,

Hoàn đan hoán cốt được mang về.

– Thế nào là hoàn đan?

– Nhiều kiếp tối tăm không hiểu thấu,

Hôm nay chợt ngộ được khai minh.

– Thế nào là khai minh?

– Khai minh chiếu khắp cõi Ta-bà,

Tất cả chúng sanh chung một nhà.

Tăng lại thưa:

– Tuy nhiên không biện rõ.

– Chốn chốn đều gặp y.

– Cái gì là y?

Sư đáp:

– Kiếp hỏa cháy tan mảy may sạch,

Núi xanh như cũ, mây trắng bay.

Tăng hỏi:

– Khi sắc thân bại hoại thì thế nào?

– Xuân đến, xuân đi ngỡ xuân hết,

Hoa nở, hoa tàn chỉ là xuân.

Tăng suy nghĩ, Sư quát rằng:

– Đất bằng sau binh lửa,

Thực vật đều ngát thơm.

(Bình nguyên kinh hỏa hậu,

Thực vật các thù phương.)

Tăng lễ bái.

Vãn niên, Sư trở về quận nhà, trùng tu lại ngôi chùa Bảo Cảm. Công việc vừa xong, ngày mùng 1 tháng 11 niên hiệu Hội Phong thứ chín (1100), Sư báo tin sắp tịch nói kệ:

Diệu bản thênh thang rõ tự bày,

Gió hòa thổi dậy khắp Ta-bà.

Người người nhận được vô vi lạc,

Nếu được vô vi mới là nhà.

(Diệu bản hư vô minh tự khoa,

Hòa phong xuy khởi biến Ta-bà.

Nhân nhân tận thức vô vi lạc,

Nhược đắc vô vi thủy thị gia.)

Đến nửa đêm, Sư lại bảo: “Đạo của ta đã thành, ta giáo hóa đã xong, vậy ta tùy ý ra đi.” Bèn ngồi kiết-già mà tịch, thọ năm mươi lăm tuổi, được ba mươi sáu tuổi hạ.

Hoàng thái hậu, Công chúa Thiên Thành, Ni sư Diệu Nhân và đông đảo đệ tử làm lễ cúng dường trai tăng hai ngày. Đại sư Nghĩa Hải ở chùa Đại Minh, được Vua ban tử y. Sa-môn Pháp Thành, toàn thể đồ chúng lo đủ lễ an táng Sư, xây tháp bên ngoài trai đường.

Học sĩ Nguyễn Văn Cử vâng chiếu soạn lời minh ghi trên tháp. Công bộ Thượng thơ Đoàn Văn Khâm làm thơ truy điệu Sư:

Trong triều, ngoài nội kính gia phong,

Chống gậy đường mây quyện bóng rồng.

Cửa từ chợt hoảng rường cột đổ,

Rừng đạo bùi ngùi cội thông long.

Cỏ biếc quanh mồ thêm tháp mới,

Non xanh nước thắm gởi thân trong.

Vắng vẻ cửa thiền ai đến gõ,

Văng vẳng chuông chiều nát cõi lòng.

(Hạnh cao triều dã chấn thanh phong,

Tích trụ như vân mộ tập long.

Nhân vũ hốt kinh băng huệ đống,

Đạo lâm trường thán yển trinh tòng.

Phần oanh bích thảo thiêm tân tháp,

Thủy trám thanh sơn nhận tạ dung.

Tịch tịch thiền quan thùy cánh khấu,

Kinh qua sầu thính mộ thiên chung.)


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.