Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa

16. Tổ La-hầu-la-đa (Đầu thế kỷ thứ VII sau Phật Niết-bàn)



Ngài dòng Phạm-ma ở nước Ca-tỳ-la. Thuở nhỏ, đã có sẵn lòng mộ đạo. Khi lớn, do cơ duyên trong vườn có cây mọc nấm, Tổ Ca-na-đề-bà giải thích nhân do và sau đó, Ngài được xuất gia.

Sau khi được truyền tâm ấn, Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa nhân gian, lần lượt đến phía Nam thành Thất-la-phiệt gặp sông Kim Thủy. Ngài bảo chúng:

– Các ngươi biết chăng? Vừa thấy bóng năm đức Phật hiện dưới dòng sông, ta lấy bát mút nước nếm có mùi vị lạ, ngược dòng sông này chừng 500 dặm sẽ có bực chí nhân ở, hiệu là Tăng-già-nan-đề.

Ngài bèn dẫn chúng theo ven bờ sông trở lên, quả nhiên thấy Tăng-già-nan-đề đang ngồi thiền trong thất đá. Ngài và đồ chúng dừng lại xem, chờ đến 7 ngày Tăng-già-nan-đề mới xuất định.

Ngài hỏi: – Thân ông định hay tâm ông định?

Tăng-già-nan-đề đáp: – Thân tâm đều định.

– Thân tâm đều định sao có xuất nhập?

– Tuy có xuất nhập mà không mất tướng định, như vàng ở trong giếng, vàng ra ngoài giếng, thể vàng vẫn yên lặng.

– Nếu vàng ở trong giếng, vàng ra ngoài giếng, thể vàng không động tịnh, thì vật gì ra vào?

– “Nơi vàng không động tịnh thì vật gì ra vào?” Đã thừa nhận vàng ra vào mà thể vàng không động tịnh.

– Nếu vàng ở trong giếng thì ra là vật gì?

– Vàng nếu ra ngoài thì ở trong giếng không phải vàng. Vàng nếu ở trong giếng thì ra không phải vật.

– Nghĩa này không đúng.

– Lý kia chẳng nhằm.

– Nghĩa này đã ngã.

– Nghĩa kia chẳng thành.

– Nghĩa kia chẳng thành mà nghĩa của ta thành.

– Nghĩa ta tuy thành mà pháp không có ta.

– Nghĩa ta đã thành vì ta mà không ta.

– Ta mà không ta lại thành nghĩa gì?

– Vì ta không ta nên thành nghĩa của ngươi.

– Nhân giả thờ vị Thánh nào mà được “không ta” ấy?

– Thầy ta là Bồ-tát Ca-na-đề-bà chứng được “không ta”.

Tăng-già-nan-đề nói kệ tán thán:

Cúi đầu lễ Đề-bà,

Người tạo thành nhân giả.

Vì nhân giả “không ta”,

Tôi muốn thờ nhân giả.

Ngài bảo: – Vì ta đã “không ta”, ngươi cần thấy ta ta. Ngươi nếu thờ nơi ta, biết ta chẳng ta ta.

Tăng-già-nan-đề tâm được rỗng rang, liền đảnh lễ nói kệ:

Tam giới nhất minh đăng,

Hồi quang nhi chiếu ngã.

Thập phương tất khai lãng,

Như nhật hư không trụ.

Dịch:

Ba cõi một ngọn đèn,

Ánh sáng soi chiếu con.

Mười phương đều xán lạn,

Như mặt trời trong không.

Tăng-già-nan-đề nói kệ xong, lại đảnh lễ cầu xin thế độ.

Ngài bảo: – Tâm ngươi tự tại chẳng lệ thuộc vào ta, cần gì nương nhờ mà cầu giải thoát.

Một hôm, Ngài gọi Tăng-già-nan-đề đến bảo:

– Nay ta đã già, không còn ở đời bao lâu, Đại pháp nhãn tạng của Như Lai trao lại cho ngươi. Nghe ta nói kệ:

Ư pháp thật vô chứng,

Bất thủ diệc bất ly.

Pháp phi hữu vô tướng,

Nội ngoại vân hà khởi.

Dịch:

Nơi pháp thật không chứng,

Chẳng giữ cũng chẳng lìa.

Pháp chẳng tướng có không,

Trong ngoài do đâu khởi.

Tăng-già-nan-đề nghe kệ xong càng thêm cung kính, nói kệ tán thán:

Thiện tai Đại Thánh giả,

Tâm minh du nhật nguyệt.

Nhất quang chiếu thế giới,

Ám ma vô bất diệt.

Dịch:

Lành thay! Bậc Đại Thánh,

Tâm sáng như nhật nguyệt.

Ánh sáng chiếu thế giới,

Ma tối diệt hết sạch.

Ngài ngồi trên tòa lặng lẽ thị tịch. Bốn chúng xây tháp cúng dường.

Trang trước Mục lục Trang sau


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.