Ngài dòng Tỳ-xá-ly ở Nam Ấn. Thuở nhỏ Ngài bẩm tánh thông minh, biện tài vô ngại. Ban sơ, Ngài học phong tục trong nước, ưa làm việc phước thiện. Khi Tổ Long Thọ đến nước này, Ngài tìm đến yết kiến.
Tổ Long Thọ muốn thử Ngài, sai đồ đệ múc một thau nước đầy để ở trước lối vào. Ngài đi qua, lấy cây kim bỏ vào, rồi thẳng đến yết kiến Tổ. Thầy trò gặp nhau vui vẻ lãnh hội.
Khi Tổ Long Thọ thuyết pháp hiện tướng vầng trăng tròn, Ngài thầm ngộ yếu chỉ. Ngài theo Tổ xuất gia và được truyền tâm ấn.
Sau khi đắc pháp, Ngài vân du khắp nơi, lần lượt sang nước Ca-tỳ-la để giáo hóa. Trong nước này có ông trưởng giả tên Tịnh Đức, sanh được hai người con trai, người cả tên La hầu-la-điểm, người thứ tên La-hầu-la-đa. Ông hằng ngày chỉ săn sóc vườn tược. Hôm nọ, một cây trong vườn nảy sanh thứ nấm lạ, ông nhổ về ăn thử, thật ngon lành. Song, chỉ ông và người con thứ nhổ được nấm ăn, ngoài ra không ai nhổ được. Ông bảo con thứ: “Nấm này chỉ ta và ngươi được ăn, ắt là việc phi thường. Ước gì có ai thông hiểu giải thích cho việc này.”
La-hầu-la-đa nói kệ:
Thử mộc sanh kỳ nhĩ,
Ngã thực bất khô khao.
Trí giả giải thử nhân,
Ngã hồi hướng Phật đạo.
Dịch:
Cây này sanh nấm lạ,
Con ăn rất ngon lành.
Người trí giải nhân này,
Con xin theo Phật đạo.
Chợt gặp Bồ-tát Ca-na-đề-bà đến nhà, cha con ông Tịnh Đức vui mừng đem việc này ra hỏi.
Ngài dạy:
– Khi xưa, lúc ông 20 tuổi, thường mời một vị Tỳ-kheo về nhà cúng dường. Vị Tỳ-kheo ấy tuy có chút ít giới hạnh mà con mắt pháp chưa sáng, tâm không thấu lý, luống nhận sự cúng dường của ông. Song, vị Tỳ-kheo ấy có chút ít tu hành nên khỏi sa vào đường ác, vẫn phải làm cây sanh nấm này để trả nợ cho ông. Xưa, khi vị Tỳ-kheo ấy đến nhà ông, trong nhà chỉ có ông và người con thứ này thành kính cúng dường, còn bao nhiêu người đều không vui. Vì thế nên nấm hiện nay chỉ hai cha con ông được hưởng.
Ngài lại bảo: – Ông nay được bao nhiêu tuổi?
Trưởng giả thưa: – Tôi được 79 tuổi.
Ngài nói kệ:
Nhập đạo bất thông lý,
Phục thân hoàn tín thí.
Nhữ niên bát thập nhất,
Thử mộc diệc vô nhĩ.
Dịch:
Vào đạo không thông lý,
Hoàn thân đền tín thí.
Trưởng giả tuổi tám mốt,
Cây này không sanh nấm.
Ông trưởng giả nghe nói xong, biết rõ duyên trước càng thêm thán phục.
Ông thưa:
– Tôi già yếu, tuy muốn xuất gia e không kham theo thầy. Đứa con thứ của tôi hết lòng mộ đạo, tôi xin cho nó theo làm thị giả cho thầy, mong thầy dung nạp.
Ngài hoan hỷ chấp nhận La-hầu-la-đa xuất gia và triệu tập các vị Thánh Tăng đến truyền giới.
Ngài du hóa đến nước Ba-liên-phất, gặp lúc ngoại đạo hưng thịnh, Phật pháp lu mờ. Ngài đem hết khả năng chuyển hóa ngoại đạo trở về quy y Tam Bảo, khiến xứ này Phật pháp hưng thịnh lại.
Khi già yếu, Ngài gọi La-hầu-la-đa đến phó chúc pháp nhãn tạng và dặn dò đừng để đoạn diệt. Kế nói kệ:
Bản đối truyền pháp nhân,
Vị thuyết giải thoát lý.
Ư pháp thật vô chứng,
Vô chung diệc vô thủy.
Dịch:
Xưa đối người truyền pháp,
Vì nói lý giải thoát.
Nơi pháp thật không chứng,
Không chung cũng không thủy.
Dặn dò xong, Ngài nhập định ngồi nghiêm chỉnh thị tịch. La-hầu-la-đa và đồ chúng xây tháp cúng dường.
Ngài là Bồ-tát thứ ba làm nổi bật giáo lý Đại thừa. Những tác phẩm Ngài trước thuật:
1) Bách Luận
2) Bách Tự Luận
3) Đại Trượng Phu Luận
4) Đề-bà Bồ-tát Phá Lăng Già Kinh Trung Ngoại Đạo Tiểu Thừa Tứ Tông Luận
5) Đề-bà Bồ-tát Thích Lăng Già Kinh Trung Ngoại Đạo Tiểu Thừa Niết-bàn Luận…
Những bộ luận trên, nổi tiếng nhất là bộ Bách Luận và Đại Trượng Phu Luận.
Trang trước | Mục lục | Trang sau |