Ngài dòng Thủ-đà-la ở nước Sất-lợi, cha tên Thiện Ý. Trước khi sanh Ngài, thân phụ nằm mộng thấy mặt trời vàng xuất hiện trong nhà. Thuở bé, Ngài mặt mũi khôi ngô, tánh tình thuần hậu, trí huệ minh mẫn.
Khoảng 12 tuổi, Ngài được gặp Tổ Thương-na-hòa-tu đến tận nhà và dạy cho Ngài phương pháp buộc niệm. Nghĩa là mỗi khi khởi nghĩ ác liền bỏ một hòn sỏi đen vào hộp, khi khởi nghĩ lành liền bỏ một hòn sỏi trắng vào hộp. Mỗi tháng đem ra xem xét coi đen nhiều hay trắng nhiều, nếu đen nhiều phải cố gắng sửa đổi.
Ngài vâng làm như vậy, ban đầu sỏi đen nhiều, dần dần bằng nhau và sau này trắng nhiều.
Năm 17 tuổi, Ngài xin Tổ Thương-na-hòa-tu xuất gia. Tổ hỏi: – Ngươi được bao nhiêu tuổi?
Ngài thưa: – Bạch thầy, con được 17 tuổi.
– Thân ngươi 17 tuổi hay tánh ngươi 17 tuổi?
Ngài hỏi lại: – Đầu thầy tóc bạc, vậy tóc thầy bạc hay tâm thầy bạc?
Tổ bảo: – Tóc ta bạc, không phải tâm ta bạc.
– Con cũng thế, thân con được 17 tuổi, không phải tánh con 17 tuổi.
Tổ bèn hoan hỉ nhận cho xuất gia làm thị giả. Đến 20 tuổi, Ngài thọ giới Cụ túc và ngộ đạo.
Tổ bảo: – Xưa Đức Thế Tôn đem Chánh pháp vô thượng truyền cho Tổ Ca-diếp. Tổ Ca-diếp truyền lại cho thầy ta là Đức A-nan, thầy ta truyền cho ta và nay ta truyền lại cho ngươi chánh pháp này. Ngươi cố gắng hộ trì, đừng để đoạn dứt. Hãy nghe bài kệ đây:
Phi pháp diệc phi tâm,
Vô tâm diệc vô pháp.
Thuyết thị tâm pháp thời,
Thị pháp phi tâm pháp.
Dịch:
Phi pháp cũng phi tâm,
Không tâm cũng không pháp,
Khi nói tâm pháp ấy,
Pháp ấy phi tâm pháp.
Khi Ngài đến nước Ma-đột-la, cảm hóa rất đông dân chúng quy hướng Phật pháp, nhiều người đã chứng đạo quả. Có những khi Ngài thuyết pháp, chư Thiên rải hoa, quả đất rúng động, khiến cung ma cũng bị chấn động. Vua ma Ba-tuần sợ e Phật giáo thạnh hành thì bè đảng của chúng bị tiêu diệt, nên quyết dùng hết thần lực phá hoại Phật pháp. Ma bèn hiện các ngọc nữ đến làm nhiễu loạn tâm thính giả. Ngài liền nhập định để quán sát nguyên do. Được cơ hội thuận tiện, ma đem vòng chuỗi anh lạc quàng vào cổ Ngài. Xuất định, Ngài dùng thần lực biến ba thây chết (người, chó, rắn) thành một tràng hoa đẹp. Ngài bảo ma:
– Ngươi sẵn lòng tốt đem chuỗi anh lạc rất quý tặng ta, giờ ta biếu lại ngươi tràng hoa đẹp này, gọi là thù tạc nhau.
Vua ma nghe rất mừng, đưa cổ nhận tràng hoa. Tràng hoa tròng vào cổ giây lát hóa thành thây thối, giòi tửa ghê tởm. Vua ma kinh sợ gớm chán, muốn cởi ra mà cởi không được, dùng hết thần lực cũng không cởi nổi. Túng thế, vua ma chạy lên cõi trời Dục cầu cứu với vua Trời, rốt cuộc không kết quả. Lần lượt vua ma cầu cứu đến các Trời cõi Phạm. Vua các Trời đều bảo:
– Pháp ấy là do đệ tử Phật biến hóa ra, chúng ta còn phàm lậu làm sao trừ được.
Vua ma nghe phán như vậy lại hỏi:
– Thế thì làm thế nào gỡ ra?
Vua trời nói kệ:
Nhược nhân địa đảo,
Hoàn nhân địa khởi.
Ly địa cầu khởi,
Chung vô kỳ lý.
Dịch:
Nếu nhân đất ngã,
Phải nhờ đất dậy.
Lìa đất muốn dậy,
Trọn không lý ấy.
Vua ma nhận lời dạy, rời khỏi cung Trời trở về chỗ Ngài Ưu-ba-cúc-đa, chí thành lễ tạ sám hối. Ngài bảo:
– Thánh trước dạy ta hàng phục ngươi. Tuy vậy, nếu ngươi biết cải thiện là được thờ phụng Phật, khỏi sa vào đường dữ.
Vua ma nghe dạy vui vẻ thưa:
– Tôn giả vì con làm lợi ích lớn, cúi xin Tôn giả cởi vòng thây thối dùm con.
Ngài dạy:
– Vậy ngươi phải quỳ gối chắp tay tự xướng ba lần quy y Tam bảo đi.
Vua ma quỳ gối chắp tay xướng ba lần quy y tam bảo xong thì vòng thây thối biến mất. Vua ma vui mừng nhảy nhót, đảnh lễ Ngài nói kệ:
Khể thủ Tam muội tôn,
Thập lực đại từ túc.
Ngã kim nguyện hồi hướng,
Vật linh hữu liệt nhược.
Dịch:
Cúi lạy chánh định tột,
Đủ mười lực đại từ.
Nay con xin hồi hướng,
Chớ còn tánh yếu hèn.
Sau khi quy y Tam bảo xong, Ngài bảo vua ma:
– Xưa ngươi thường thấy Như Lai, giờ đây hiện thử cho ta xem.
Vua ma thưa:
– Hiện việc xưa không khó, chỉ xin Tôn giả trông thấy đừng lễ.
Vua ma liền vào rừng ẩn mất. Chốc lát bỗng thấy Phật từ mé rừng đi ra, oai nghi nghiêm chỉnh, theo sau đoàn Tỳ-kheo 1250 vị. Ngài vừa trông thấy, bất giác cúi mình đảnh lễ. Ma hoảng kinh biến mất.
Lúc hóa đạo, mỗi khi giáo hóa một người thâm ngộ Phật pháp, Ngài để vào thất đá một thẻ tre. Ngôi thất ấy bề dài 18 thước tay, bề ngang 12 thước tay. Thế mà một thời gian thẻ tre đầy cả thất.
Sau cùng, Ngài độ ông Hương Chúng, con một vị trưởng giả và truyền chánh pháp lại cho ông này. Nhân thân phụ ông Hương Chúng mộng thấy mặt trời vàng xuất hiện trong nhà, nên Ngài đổi hiệu là Đề-đa-ca.
Đã có người kế thế và nhân duyên hóa đạo đã xong, Ngài từ biệt đại chúng, ngồi kiết già thị tịch. Đề-đa-ca và môn đệ mở cửa thất đá, lấy thẻ tre làm vật liệu thiêu Ngài, thiêu xong thu xá-lợi xây tháp cúng dường.
Trang trước | Mục lục | Trang sau |