Phật pháp tại thế gian

Tập 3



∗ LỜI ĐẦU SÁCH

Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.

Người học Phật ngày nay nếu không muốn là kẻ đếm của báu cho người, phải sớm chuyển mê khai ngộ, tự mình dấn bước làm một hành giả nói ít hành nhiều. Được thế hi vọng có chút phần tương ưng.

Trên tinh thần ấy, vì muốn giúp cho Tăng Ni Phật tử đi đến chỗ rốt ráo viên mãn trong công phu tu hành, Hòa thượng Viện trưởng đã đinh ninh chỉ dạy rõ ràng chỗ thực dụng hằng ngày của một người con Phật. Nhận thấy giá trị quí báu ấy, chúng tôi biên tập lại những bài giảng dạy của Ngài trên những chặng đường hoằng pháp lợi sanh, với mục đích giao hòa cùng tất cả những bạn tu, một hướng sáng trên lối về quê xưa.

Được sự hoan hỉ chấp thuận và chứng nghĩa của Hòa thượng Ân sư, chúng tôi xin được gởi đến độc giả tác phẩm Phật pháp tại thế gian như một niềm đồng cảm, chia sẻ chút kinh nghiệm hành trì của một bậc Thầy dẫn đường, đã để lại cho chúng ta những huấn thị bằng cả cuộc đời tu tập của Ngài.

Vì là văn nói nên tác phẩm không sao tránh khỏi những sai sót tất yếu. Mong các bậc thức giả phủ chánh và lượng thứ cho.

Thường Chiếu, ngày 28-03-2006

BAN VĂN HÓA

THƯỜNG CHIẾU

∗ GIẢI NGHI VỀ NHÂN QUẢ

Úc Châu – 1996

Nhân năm 1994, tôi có sang Pháp, gặp một số Phật tử ở Úc cũng sang Pháp. Khi đó quí Phật tử có nhã ý mời tôi qua Úc để thăm Tăng Ni và Phật tử bên ấy. Tôi đã hoan hỉ nhận lời. Vì vậy năm nay tôi sang đây, trước hết thăm quí Hòa thượng, quí Thượng tọa, quí thầy cô, sau thăm tất cả quí Phật tử.

Người Việt Nam chúng ta dù ở trong nước hay ngoài nước cũng cùng một dân tộc, nên hãy luôn thương yêu giúp đỡ nhau cùng tiến tu. Phật tử Việt Nam có chung một chí hướng tu hành, lấy đạo đức làm nền tảng. Vì vậy những vị đã qui y với chúng tôi hoặc chưa biết chúng tôi, đều nên tạo cơ hội thăm viếng nhau để nhắc nhở tu hành.

Hôm nay là buổi đầu tiên gặp tất cả quí vị, trước hết tôi chúc mừng Tăng Ni cũng như Phật tử được khỏe mạnh an vui, luôn luôn tinh tấn tu hành để làm sáng tỏ Phật pháp nơi xứ người, giữ được nền tảng đạo đức cho người Việt của chúng ta. Kế đến tôi sẽ giảng một thời pháp. Sau thời giảng có những nghi vấn gì quí Phật tử hỏi, chúng tôi theo khả năng của mình, trong phạm vi đạo lý sẽ trả lời cho quí Phật tử hiểu thêm Phật pháp, vững lòng tin tu hành không còn nghi ngờ nữa. Đề tài hôm nay là Giải nghi về nhân quả, chớ không phải giảng về nhân quả.

Một số người đặt câu hỏi thế này: “Người tu Phật có thể thay đổi được quả khổ của đời mình không?” Vì đa số Phật tử nghĩ mình tu thì bao nhiêu tội lỗi trước, những điều mình làm đau khổ cho người, đều do công đức tu hành mà tan biến hết. Nếu thay đổi được thì có trái với câu nhân nào quả nấy không? Trong kinh kể đức Phật tu hành đã thành Phật mà còn bị nạn kim thương, mã mạch, tức là vẫn thọ quả báo như thường. Nạn kim thương là chân Ngài bị mũi kiếm đâm lủng. Nạn mã mạch là Ngài phải ăn lúa ngựa hết ba tháng. Phật nói rõ lý do tại ngày xưa Ngài đã từng gieo nhân khổ cho người nên bây giờ tuy đã thành Phật nhưng cũng vẫn phải trả quả cũ. Đệ tử lớn của Ngài là Mục-kiền-liên nổi tiếng thần thông đệ nhất, khi già đi khất thực bị một số ngoại đạo vây đánh nhừ tử. Lúc bị đánh Ngài không dùng thần thông vì muốn trả hết nợ cũ, sau đó đau nặng rồi tịch luôn. Nếu các ngài tu chứng A-la-hán rồi, lẽ ra quả ngày xưa phải tiêu hết, tại sao vẫn phải trả?

Do đó các thầy Tỳ-kheo thắc mắc hỏi Phật về việc này. Phật giải thích do trước Ngài đã tạo nhân giết hại nên ngày nay phải bị quả như vậy. Qua những câu trả lời đó chúng ta nghĩ sao? Nhân đã tạo phải chịu quả với những người chưa chứng đạo thì được, nhưng với các vị đã chứng đạo thì có người thắc mắc.

Hoặc như trường hợp vua Kế-tân nghe lời ngoại đạo hại Tổ Sư Tử. Ông cầm cây gươm tới trước Tổ hỏi: “Ngài bảo thân năm uẩn đều không, vậy cho tôi cái đầu được không?” Ngài trả lời: “Thân năm uẩn đã không, sá gì cái đầu.” Thế là ông chặt đầu Tổ. Như vậy để nói rằng trước Ngài đã có ân oán với nhà vua trong nhiều đời, nên đến đời này Ngài phải trả. Tới Tổ Huệ Khả ở Trung Hoa, sau khi đắc đạo truyền bá một thời gian, Ngài gặp Tăng Xán truyền y bát rồi nói: “Ta còn một chút nợ phải trả.” Ngài đi tới xứ đó giảng đạo, có người tâu với tri phủ Ngài nói tà thuyết, gây rối loạn quần chúng, tri phủ liền bắt nhốt Ngài cho tới chết luôn.

Chúng ta thấy từ Phật là vị tu hành đã hoàn toàn viên mãn rồi, đến ngài Mục-kiền-liên đã chứng A-la-hán, tới các Tổ cũng phải trả oan khiên đời trước. Vậy nói tu hành có thể thay đổi được nhân quả, đúng không? Đa số nói không được, nếu đổi không được thì người ta đặt nghi vấn, như vậy tu hành để làm gì? Đó là những nghi vấn đối với lý nhân quả thật khó hiểu. Vì vậy hôm nay tôi phải giải những nghi vấn ấy để tất cả quí Phật tử hiểu rõ, không còn ngờ vực thì trên đường tu mới tiến, đạt được lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

Trong đạo Phật nói nhân quả là nói tới sự chuyển biến luôn trôi chảy không dừng. Cho nên từ nhân đến quả có thể thay đổi tùy theo sự chuyển biến ấy. Hoặc thay đổi ở chiều này, hoặc thay đổi ở chiều nọ, chớ không cố định. Nếu ai nghĩ nhân nào quả nấy cố định thì không đúng lẽ thật, phải thấy rằng nhân quả tùy duyên, tùy điều kiện thuận nghịch, nó luôn luôn chuyển biến. Đã là chuyển biến tức nhiên phải đổi thay chớ không thế nào nguyên vẹn trước sau như một được, phải xác nhận nhân quả cho rõ.

Chúng tôi dùng một ví dụ để quí vị thấy dòng chuyển biến của nhân quả. Nhân là hạt hay cái ban đầu, quả là trái hay cái chót. Ví dụ như chúng ta đem gieo một hạt bắp xuống đất, từ hạt bắp đó nếu đủ đất, đủ nước, đủ ánh nắng, nó sẽ chuyển lần lần thành mầm bắp. Từ mầm bắp chuyển lần lần thành cây bắp con, từ cây bắp con chuyển lần lần thành cây bắp lớn. Từ cây bắp lớn dần dần thành trái. Như vậy một dòng chuyển biến từ một hạt nhỏ lần lần thành cây, rồi có quả có trái và cuối cùng rụi mất. Chúng ta thấy nó có dừng ở một chặng nào không? Từ nhân tới quả là một dòng chuyển biến không ngừng. Chúng ta có thể nói hạt bắp nhất định sẽ có trái bắp ăn không? Không hẳn. Có hạt bắp mà không xuống đất, không được nước, ánh nắng, được săn sóc thì nó không thành trái bắp. Có hạt bắp là có nhân, nhân đó có thể thành tựu được quả mà cũng có thể không thành tựu được quả.

Phật pháp có cái nhìn hết sức thật. Nhìn đời, nhìn đạo, nhìn tất cả hành động của chúng ta, đều là một dòng thay đổi từ nhân tới quả. Trong khi thay đổi, nó còn có những nhân phụ trợ là nhân thuận để giúp thành hình hoặc nhân nghịch làm cho tiêu tan. Như có hạt bắp gieo xuống đất rồi, nhưng phải là đất tốt, được nước tưới đều thì hạt bắp mới nảy mầm. Khi nảy mầm rồi chúng ta phải săn sóc, bón phân, xem chừng sâu rầy có phá hay không, ta tạo duyên tốt để cây bắp tăng trưởng đều mới đạt được kết quả tốt. Nếu chúng ta để hạt bắp xuống rồi bỏ luôn, không tưới nước, không bón phân, không chăm sóc kỹ lưỡng thì cây bắp sẽ khô khan rồi chết, chớ không thành trái bắp được. Như vậy có nhân chưa khẳng định được sẽ có quả, còn những điều kiện phụ trợ nữa. Phụ trợ thuận thì tăng trưởng có kết quả. Ngược lại phụ trợ nghịch thì tiêu mòn hư mất. Đó là điều hết sức tế nhị, nếu không hiểu quí vị sẽ dễ thối tâm trên đường tu.

Nhiều Phật tử tin gieo nhân nào được quả nấy, thấy ai nghèo đói ủng hộ giúp đỡ, sẵn sàng giúp đỡ những khó khổ của mọi người. Nhưng lâu lâu quí vị gặp một tai nạn xảy ra thì buồn trách “tôi làm lành, tại sao lại gặp quả xấu”. Điều này cần phải dè dặt, nếu gặp cảnh xấu không làm lành nữa, chúng ta sẽ thối Bồ-đề tâm thì không có cơ hội thành tựu giác ngộ giải thoát.

Ngày xưa tôi có viết một bài đăng báo Từ Quang, tên là “Nhân hoa quả cỏ”. Sở dĩ tôi viết bài này vì lúc tôi bị bệnh phổi phải lên Phương Bối am của thầy Nhất Hạnh ở để trị bệnh và dưỡng bệnh. Lên đó tôi thích trồng một ít hoa chung quanh thất, nên có vài Ni cô trên Đà Lạt tới thăm, mấy cô mua giùm một ít hột hoa xuống cho. Tôi xới một thửa đất theo đúng qui tắc của người làm vườn, rải hạt hoa xuống, mỗi ngày tưới đều đều. Tôi đinh ninh trong bụng chừng nửa tháng hạt hoa lên đầy hết. Đúng vậy, nửa tháng sau tôi thấy lấm tấm thật nhiều, tôi mừng quá. Tới chừng nó lên cao một chút nhìn lại toàn là cỏ không, chẳng có cây hoa nào. Tôi ngạc nhiên, đi quanh luống hoa xem xét kỹ lưỡng, mới phát hiện ra mấy con kiến đi thành lằn giống như đường xe chạy. Chúng lội tứ tung trong mấy luống hoa và ăn hết hạt hoa của tôi. Chừng đó tôi mới vỡ lẽ ra rằng mình ương hạt hoa, tưới tắm đều đặn nhưng quên chăm sóc ngừa kiến, cho nên kiến tha hạt hoa đi hết, chừa lại hạt cỏ thôi. Mình cứ tưới, rốt cuộc hoa đâu không thấy, chỉ thấy toàn là cỏ. Nhân đó tôi viết bài “Nhân hoa quả cỏ”. Đó là sự thật tôi đã chiêm nghiệm.

Sự thật đó đã làm cho tôi nghĩ ngợi nhiều. Ngày xưa đi giảng, Phật tử thắc mắc tại sao con làm lành mà cứ gặp tai nạn. Một Phật tử kể hai vợ chồng nọ có vài đứa con, làm ăn tương đối khá. Khi ông anh chồng vô, không biết tại sao hai ông bà chết hết, chỉ còn lại hai đứa con. Người thím dâu thấy thương đem về nuôi. Đó là nhân tốt. Bà nuôi lớn lên, cho đi học đàng hoàng, nhưng tới khi hai cháu ra trường, nó đối xử với bà rất lạnh nhạt. Bà buồn nên gặp chúng tôi, hỏi tại sao con làm tốt mà quả trả lại xấu. Tôi không trả lời được. Lúc ấy mới kêu mấy đứa nhỏ lại hỏi: “Sao thím tốt với tụi con mà tụi con lại xử sự như vậy?” Chúng trả lời thế này: “Buổi đầu thím thật tốt với chúng con, chúng con mang ơn lắm. Nhưng thưa Thầy, mỗi lần làm việc trong nhà, nặng là phần tụi con, còn nhẹ là phần mấy em. Khi đi coi hát thím cho em con mười ngàn, còn tụi con có năm ngàn.” Chúng kể ra đủ thứ chuyện đối xử không công bằng của người thím dâu. Tôi thấy nhân tốt ban đầu nếu chúng ta không khéo giữ gìn, nó sẽ mất. Đứa nhỏ biết nhưng khi còn yếu thế phải nương nhờ thì nó chịu, khi đủ khả năng tách ra rồi, nó lơ là vì cách đối xử của người thím không trọn vẹn thủy chung. Tốt ở ban đầu mà khoảng giữa không tốt, giống hệt như tôi trồng hoa vậy. Có lý do chớ không phải ngẫu nhiên.

Chúng ta thấy rằng, đối với nhân quả nếu chỉ nhìn sơ qua thì không bao giờ thấy tường tận. Như người thím nếu thấy kỹ hành động của mình chắc không trách cháu. Cũng như tôi không thấy kiến nên khi cỏ lên tôi ngạc nhiên. Nếu tôi thấy kiến bò vô, tôi sẽ không ngạc nhiên. Có nhân mà không khéo bảo vệ, gìn giữ, giúp nó tăng trưởng thì quả sẽ mất, không nhất định thành quả. Nhân chúng ta đã gieo rồi, từ đó nó là một dòng chuyển biến liên tục. Trong dòng chuyển biến liên tục ấy chia ra hai phần: một phần chuyển biến theo sự tăng trưởng, một phần chuyển biến theo sự hư hoại. Cái gì giúp cho nó chuyển biến để tăng trưởng, nhà Phật gọi là thuận nhân hay thuận duyên. Ví dụ như hạt bắp có đủ đất tốt, có nước, có nắng cũng như sự săn sóc sâu bọ v.v… đó là thuận nhân giúp nó tăng trưởng. Nếu thuận nhân đủ thì bảo đảm hạt bắp sẽ tiến triển thành cây bắp, cho ra quả bắp. Ngược lại, nó không có đủ các thuận nhân thì sẽ bị sâu bọ ăn hoặc thiếu nước, thiếu nắng… mà chết. Nên tuy có nhân hạt bắp mà quả bắp không bao giờ có.

Hiểu như vậy quí Phật tử phăng ra, sẽ tìm thấy được ý nghĩa của sự tu hành. Sự tu hành của chúng ta cũng là một dòng chuyển biến. Tại sao? Vì chúng ta tu là tu ba nghiệp của mình, tu ở thân, ở miệng, ở ý. Thân khẩu ý chúng ta luôn luôn khéo tu. Ví dụ Phật tử phát nguyện qui y Tam Bảo, gìn giữ năm giới, đó là gieo nhân tốt rồi. Nhưng từ khi qui y, quí vị cứ nghĩ mình đã qui y Tam Bảo, đã thành người hiền lành, không chịu tu sửa, đinh ninh rằng mình qui y rồi, nhất định Phật đón về Cực Lạc, đó là sai lầm.

Nhiều Phật tử nghĩ rằng qui y là cốt sống được mạnh khỏe an vui, chết được theo Phật. Nhưng trên thực tế, quí vị qui y rồi có mạnh khỏe luôn không, nhắm mắt được theo Phật không? Như vậy qui y chỉ là nhân thôi. Từ đó cho tới ngày trăm tuổi là một dòng chuyển biến. Phật tử qui y là nhân lành, từ đó về sau thân miệng ý luôn luôn nghĩ lành, làm lành, nói lành thì nhân lành mới tăng trưởng. Ngược lại chúng ta được nhân lành mà nói dữ, nghĩ xấu, làm ác, thì nhân lành đó không tồn tại. Như vậy đừng tự mãn mình qui y rồi là mọi việc tốt lành, được như ý. Đừng bao giờ nghĩ như vậy.

Chúng ta mới gieo nhân, còn phải tạo thuận duyên giúp đỡ cho nhân tăng trưởng. Đó là ý nghĩa của sự tu. Người cứ tự mãn qui y là xong việc thì chưa biết tu. Tôi nhắc thêm, nhiều vị có con hai ba tuổi, đem vô chùa qui y để nó mạnh giỏi. Qui y với ý niệm cho con mạnh giỏi, chớ không phải cho con tu. Do đó nên nhiều chùa có tập tục nuôi con nít. Thầy lên bàn Phật nhất là bàn thờ đức Quan Âm, để một miếng vải đỏ đội trên đầu, tụng chú thuật chi đó, kế thầy xé miếng vải nhỏ cột cho thằng bé. Như vậy bảo đảm nó mạnh giỏi. Thành thử ý nghĩa qui y để tu hành không còn nữa.

Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực. Như Phật tử hồi trước làm điều xấu ác, bây giờ tu rồi có thể chuyển đổi được quả xấu do mình làm trước kia không? Tôi khẳng định rằng nếu chúng ta tu chân chánh có thể chuyển đổi được, còn hết hay không thì tùy, chớ có chuyển đổi. Tôi nói như vậy để quí vị hiểu rõ, không phải hồi xưa mình làm cho người khác khổ trăm phần, bây giờ tu suốt đời cũng bị trả quả khổ trăm phần như xưa. Như vậy tu làm gì? Cho nên nhất định phải có thay đổi nhưng thay đổi thế nào, đó là vấn đề khác.

Ở đây để tường tận hơn, chúng tôi chỉ cho quí vị thấy ý nghĩa nhân quả mà lâu nay chúng ta chỉ hiểu một chiều. Ví dụ có người làm được việc lành, cứ nghĩ mình làm lành cho ai đó, mai kia sẽ được quả lành trở lại. Nhưng nếu quả lành không đến, vị ấy đâm ra thối tâm. Như vậy là chưa hiểu hết lý nhân quả.

Trong nhà Phật nói nhân quả có hai trường hợp: một là tạo nhân tốt được quả tốt, hai là tạo nhân tốt nhưng không được quả tốt. Tại sao vậy? Ví dụ hồi xưa mình đã cư xử với người đó rất xấu, bây giờ thấy họ khó khăn mình giúp. Hồi xưa xấu trăm phần trăm, bây giờ giúp mới bốn năm chục phần trăm, mà nghĩ đã có ơn với người ta rồi. Khi thấy họ không thèm biết ơn, lúc đó mình tức tại sao giúp đỡ như vậy mà không biết ơn? Nhưng so với quá khứ mình xấu, cái tội cũ trả chưa đủ mà bây giờ đòi ơn, làm sao chấp nhận được? Cho nên tuy giúp mà người kia vẫn chưa thỏa mãn. Nếu hiểu được nhân quả chúng ta chỉ cười thôi, giận làm chi. Ngược lại có những người mình giúp họ một chút thôi, mà họ rất biết ơn, rất nhớ mình. Vì ta không nợ họ, nên giúp một chút họ cũng thấy mình tốt. Hiểu vậy, khi giúp ai ít mà người đó nhớ ơn, muốn tìm cách đền đáp lại, chúng ta biết mình với người đó chưa có nợ nần cũ. Còn người mình lo thôi là lo mà họ vẫn không thèm biết ơn, cũng không có gì trách, cười thôi. Hiểu được nhân quả như vậy quí Phật tử mới yên lòng tu. Nếu không nắm rõ lý nhân quả, chúng ta nhìn cuộc đời rất bực bội.

Phật tử nào tu hành khá, khi tạo nhân liền được hưởng quả. Như quí thầy quí cô hoặc Phật tử giúp ai, không nghĩ họ phải trả ơn mình. Thấy người khổ cứ giúp, khả năng tới đâu giúp tới đó, miễn họ bớt khổ là mình mừng, họ vui mình vui, như thế đủ rồi, không mong cầu chi hết. Như vậy nhân mình tạo ra là giúp người bớt khổ, được vui. Thấy người vui mình vui theo, đó là gieo nhân gặt quả liền. Nhân quả có ngay hiện đời, không trông đợi xa xôi. Cả ngày mình giúp người này vui, người nọ vui. Họ vui bao nhiêu mình vui bấy nhiêu. Rõ ràng tạo nhân liền có quả. Nếu chúng ta trông chờ đền đáp, nhiều khi người ta đáp không như mình mong muốn thì dễ bực bội, hờn trách. Chỉ cần thấy người ta hết khổ được vui, mình vui theo đó là quả tốt rồi.

Bởi vậy Bồ-tát giúp tất cả chúng sanh mà không chán. Vì chúng sanh hết khổ được vui thì Bồ-tát vui rồi, đâu có chờ đợi. Còn chúng ta giúp chúng sanh dễ chán lắm. Tại sao? Tại mình giúp ai thì muốn người ta biết ơn và đền ơn lại. Nếu họ không biết ơn đền ơn thì mình buồn, không muốn giúp nữa. Bồ-tát thấy chúng sanh đang đói, đưa miếng bánh mì cho họ ăn. Ăn xong họ cười là Bồ-tát vui rồi, khỏi cần nghĩ gì. Như vậy hai thái độ tạo nhân quả khác nhau, một cái mong có sự thù đáp, một cái không mong sự thù đáp dẫn tới hai kết quả khác nhau. Nhân quả không mong sự thù đáp là nhân quả của người biết đạo sâu xa. Tạo nhân quả như thế mới là lẽ chánh của người tu Phật.

Nhân quả cũng có hai cách chuyển biến: thứ nhất là chuyển biến do tác động bên ngoài, thứ hai là chuyển biến do nội tâm. Ví dụ như hồi xưa mình ở địa vị cao, có những người phụ giúp mình ở địa vị thấp. Bấy giờ ta không nghĩ tới cái khổ của người dưới, nên hiếp đáp làm họ khổ. Vì họ ở dưới nên mình làm khổ, họ không dám nói, không dám tỏ thái độ oán hờn, nhưng trong lòng ôm ấp một trăm phần trăm oán hờn. Tới lúc nào đó thay đổi,  họ có địa vị cao hơn mình, bấy giờ họ sẽ khởi niệm trả thù mình. Nhưng rất may, khi đó mình thức tỉnh học đạo và biết tu. Nhờ thế mình hiểu được luật nhân quả nên vui vẻ đón nhận những quả khổ do mình đã tạo ra lúc trước, không than van oán hờn người ta. Đó là một cách chuyển nhân quả.

Quí vị Phật tử tụng kinh Bát-nhã “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” là thấy thân năm uẩn không thật, liền vượt qua tất cả khổ ách. Thân năm uẩn không thật thì lời khinh chê, chửi mắng cũng không thật. Hồi xưa mình khinh bỉ chửi mắng người ta một trăm phần trăm, bây giờ họ tìm tới trả thù, cũng khinh bỉ chửi mắng mình một trăm phần trăm. Nếu hiểu đạo, thấy thân năm uẩn không thật, khi bị chửi mắng mình thù giận hay cười? – Cười. Ngày xưa bị mình hành phạt họ khổ sở, bây giờ họ hành phạt mình cười không khổ, như vậy trả hay không trả? Trả hay không trả, không thể nói khẳng định được. Nếu không trả tại sao họ chửi mắng, hành phạt mình? Họ chửi mắng hành phạt mình là trả thù rồi. Đối với người kia họ thấy trả, nhưng đối với mình không thấy trả gì hết. Khi mê mình nói họ con bò, họ giận quá chừng. Bây giờ mình tỉnh, họ nói mình con bò, mình cười vì biết người ấy nói bậy. Như vậy là trả mà như không trả gì hết.

 Người thế gian chịu mê hay chịu tỉnh? Chịu mê. Bởi vậy Phật nói chúng sanh đáng thương. Tất cả chúng ta đau khổ là vì mê lầm. Từ mê lầm cứ liên miên chịu khổ những chuyện không đáng giận, không đáng buồn, không đáng khổ. Nếu tỉnh nghe người ta nói những lời sai lời bậy mình cười thôi, có gì buồn có gì khổ.

Nhiều Phật tử nói, mình quấy họ chửi nhịn được, mình không quấy họ chửi làm sao nhịn. Tôi sẽ trả lời mình không từng quấy mà họ chửi, mình thương họ tại vì họ điên, không hiểu gì hết mới chửi như thế. Mình làm quấy người ta chửi, mình nhận để sửa. Mình không từng làm quấy, họ chửi mình thương họ. Như vậy có tu chưa? – Tu. Học đạo là học tỉnh giác, chớ đừng mê. Phật tử tuy học Phật mà gặp mấy cảnh trái nghịch chịu mê hơn chịu tỉnh. Đó là điều đáng thương.

Trường hợp thứ hai, nếu ngày xưa mình làm người ta khổ nhiều, lẽ ra bây giờ họ có cơ hội trả thù lại, nghĩa là làm khổ mình, nhưng trong thời gian khổ họ đến với đạo và biết tu, nhờ thế họ thấy nếu trả qua trả lại thì tất cả oán hờn cứ chồng chập không bao giờ hết, hiểu vậy rồi họ liền hỉ xả, bỏ hết. Hồi xưa mình làm họ khổ, bây giờ có đủ cơ hội nhưng họ vẫn không làm mình khổ, đó là do họ biết tu. Tâm của người nhận oán hờn biết tu thì quả cũng bớt cho người gây oán hờn.

Chúng ta biết tu thì ai thù oán, ta tha thứ hỉ xả. Ai tạo nhân khổ cho mình, ta không trả lại. Cũng như mình biết tu dù người khác muốn đến trả quả xấu, mình cũng vẫn an lành tự tại. Như vậy sự tu chuyển biến cả tâm hồn của người tạo quả và người trả quả, hai bên đều chuyển biến tốt. Ngược lại, nếu hai bên không biết tu thì trả đủ, hồi xưa vay một trăm phần trăm, ngày nay trả tới hai trăm, tại vì nó lớn theo thời gian, cũng như cho vay có lãi vậy. Như thế vay vay trả trả không cùng.

Cho nên Phật dạy tu là phải hiểu thấu đáo đạo lý để gỡ bỏ những oán hờn, đau khổ. Chúng ta được an vui, người khác mới an vui. Tu là đem lợi lạc lại cho bản thân và mọi người. Nếu không biết tu, chúng ta cứ gay cấn người này người kia, vay trả trả vay, kiếp kiếp đời đời sống trong oán hờn thù hận, không bao giờ hết khổ đau. Đó là ý nghĩa nhân quả.

Trường hợp khác, nhân quả có thể tiêu giảm mà không do nội tâm của người hoặc của ta. Như ngày xưa mình hung dữ, xử sự với một kẻ khác tàn nhẫn, bây giờ họ có thế lực muốn trả thù lại. Nhưng từ khi chúng ta thức tỉnh biết tu, làm lành, giúp người này người nọ, chung quanh ai cũng thương, cũng quí. Người kia tới trả thù, thì hàng xóm liền khuyên can vì thấy mình hiền tốt. Nhờ nhiều người khuyên can, kẻ kia giận mười cũng giảm còn năm bảy thôi. Đó cũng là nhân quả chuyển biến theo chiều giảm bớt. Nhờ tu quả khổ của chúng ta giảm, cho nên nhân quả luôn đổi thay, không cố định. Có khi đổi thay chiều thuận, có khi đổi thay chiều nghịch. Đứng về mặt nhân quả, chúng ta tin chắc nhân nào dù xấu mấy, nhưng nếu chúng ta cố gắng chuyển đổi nó cũng đổi thay đôi phần.

Như ngài Mục-kiền-liên bị người ta đánh cho tới chết, Ngài nhớ đời trước đã từng hại họ, bây giờ họ trả thù. Ngài chịu đòn để trả hết mối nợ cũ, được giải thoát sanh tử, lúc đó Ngài buồn giận hay vẫn thản nhiên? Vẫn thản nhiên, đau mà không tức, không buồn vì biết đây là chuyến chót trả cho rồi. Như vậy trả nợ đối với Ngài là chuyện vui, trả mà không khổ. Như Tổ Huệ Khả khi bị nhốt trong khám, Ngài nói còn chút nợ phải trả chuyến này cho rồi.

Quí Phật tử vay nợ của ai năm mười năm, tới bây giờ còn chút ít, nếu có tiền nên trả hay để thiếu nợ? Có tiền trả phứt cho rảnh tay. Cho nên đem tiền trả vui chớ không buồn giận. Vì vậy Tổ Sư Tử nói thân năm uẩn này không thật, sá gì cái đầu. Đối với các ngài nợ cứ trả, cười trả chớ không khổ như chúng ta. Càng học đạo quí Phật tử thấy càng vui. Bởi vì tất cả những gì đến, chúng ta thấy tường tận rồi cười, không buồn phiền.

Người chưa hiểu đạo khổ đủ thứ, người ta nói hơn mình một tiếng là chịu không nổi, bị lấn lướt một chút chịu không nổi, bị khinh một chút chịu cũng không nổi. Cái gì cũng chịu không nổi hết, riết cả lồng ngực chứa đầy oán hờn thành ra bệnh tim, gần chết khổ sở vô cùng. Bây giờ hiểu rồi chúng ta nhìn mọi thứ chỉ cười thôi. Quí vị thấy chúng ta giận ai chứa trong lòng, mỗi khi đang ngủ ngon giấc, giật mình thức dậy nhớ lại chuyện oán thù thì ngủ không được nữa. Cứ trằn trọc nhớ sao họ làm như vậy, lăn qua trở lại mất ngủ, rồi mất ăn, đó là nhân của bệnh. Hiểu rồi mình cười thôi, cái gì qua cho qua luôn, hơi đâu phiền giận. Như vậy chúng ta thản nhiên tự tại, sống trong cuộc đời rất vui. Tu là như vậy, chớ không phải qui y để được mạnh giỏi.

Nhiều Phật tử hiểu lầm tu là mọi tai nạn qua hết. Làm sao qua hết được! Tu là tu, còn chuyện hờn oán do mình gây ra từ trước, người ta vẫn hờn oán. Ngày xưa mình làm cho người đó khổ quá, họ giận mình. Bây giờ biết tu thì tâm mình an ổn thanh tịnh, nhưng người kia đâu có hết giận. Mai mốt gặp mình, họ xả ra một lần cho đã giận, nếu chúng ta biết tu thấy những việc ấy không có giá trị, chỉ đáng thương thôi thì mình không khổ. Như vậy mình sẵn sàng trả nợ, nhưng trả một cách nhẹ nhàng thảnh thơi.

Tôi thường nói cuộc đời này đã dành sẵn cho chúng ta rất nhiều điều bất như ý. Muốn được an ổn chúng ta phải khéo tu, chỉ khéo tu mới thoát khỏi những điều đau khổ khi gặp bất như ý, chớ đừng có cầu nguyện. Phật tử hay cầu nguyện quá, cầu nguyện cho con hết phiền não, cho tai qua nạn khỏi. Cầu nguyện như vậy có được không? Nhiều khi tôi xấu hổ vì chỗ này. Phật tử tin tưởng, ai cũng muốn gởi tên cho thầy cầu an, mà thầy bệnh phải đi bác sĩ, không tự làm an cho mình được. Thành ra tôi rất xấu hổ không đủ sức làm cho Phật tử an. Tôi chỉ dạy giáo lý cho Phật tử hiểu, rồi tự quí vị giải cho mình an, mình tỉnh, chớ cầu an chưa chắc được an. Chừng nào suốt ngày suốt tháng suốt năm tôi không bệnh, không bất như ý tôi mới dám cầu an cho Phật tử. Chớ quí thầy còn bệnh, còn gặp những việc bất như ý thì cầu cho quí Phật tử khó quá. Đó là lẽ thật, mà lẽ thật nói ra đôi khi mếch lòng một chút.

Cho nên tôi xin nhắc cho quí Phật tử nhớ, chúng ta đã tu là phải tỉnh giác, thấy được lẽ thật, thấy được chân lý. Hiểu được lẽ thật rồi, mọi khó khăn chúng ta giải quyết một cách hết sức dễ dàng. Ngày xưa người ta hay nói do oan trái mới làm vợ chồng, cha con, mẹ con, anh chị em… oan trái trong thù hận hay thương yêu. Những đứa con trái nghịch cha mẹ lại thương nhiều, còn mấy đứa hiếu thảo lại thương ít. Đó cũng là nhân quả, bởi vì thương mới trả hết nợ, còn ghét trả không hết. Cha mẹ phải thương những đứa con ngỗ nghịch, đuổi không đành để trả, trả chừng nào hết, không đuổi nó cũng đi. Còn những đứa con có hiếu là nợ cha mẹ, nên nó phải trả, nhiều khi cha mẹ không ngó ngàng tới nữa. Bởi vì nếu nó trả mà cha mẹ cứ săn sóc trở lại nhiều quá thì chừng nào hết nợ? Cho nên người nào trả mà cha mẹ không ngó ngàng nên mừng, như vậy mau hết nợ.

Hiểu thế, gặp hoàn cảnh nghịch làm chúng ta đau khổ mình cũng cười, nợ thì phải trả không oán trách ai hết. Người có tâm tu hành là đã có nhân lành, quí Phật tử biết đến chùa, nghe quí thầy giảng là điều hết sức tốt. Bởi có sẵn nhân lành nên ngày nay tìm tới chỗ lành. Như vậy từ đây về sau quí vị phải khéo tạo những trợ nhân tốt để duyên lành của mình mãi mãi liên tục không dứt. Có thế quí Phật tử mới sống cuộc đời an vui tự tại, được nhiều điều tốt đẹp. Cho nên khéo tu là điều hết sức hệ trọng, chúng ta cần phải thực hành triệt để, chớ không thể nói suông. Càng tu càng hết khổ, càng tu càng tăng trưởng niềm vui, tăng trưởng sự an lạc. Ai tu không được như vậy là tu chưa đúng với Phật pháp.

Để kết thúc, tôi nhắc quí Phật tử ráng tạo duyên tốt, làm tăng trưởng nhân lành của mình. Làm sao mỗi năm quí vị mỗi tỉnh giác sáng suốt, để trở thành người Phật tử chân chánh, sống cuộc đời an vui hạnh phúc, tự tại trong thế gian nhiều buồn khổ này.

∗ KHỔ VUI QUA MẮT KẺ MÊ NGƯỜI TỈNH

Ở thế gian có những sự việc xảy ra, người mê lấy làm vui thích, người tỉnh không tán thán. Ngược lại có những việc người mê cho là khổ, người tỉnh lại vui vẻ thực hành. Chúng ta tu Phật cần phải biết rõ vì sao như thế.

Cuộc sống giữa đời này ai cũng sợ khổ cầu vui, thế nên ta phải sống làm sao để lúc nào cũng vui. Trước tiên tôi nói niềm vui của người thế tục. Ví như kẻ mắc bệnh ghiền thuốc hay ghiền rượu, khi không có tiền hút thuốc hoặc uống rượu, có ai cho điếu thuốc hoặc ly rượu, họ vui sướng vô cùng, thấy như có niềm vui lớn đến với mình. Nhờ uống rượu mà được thỏa mãn cơn ghiền nên họ cảm thấy vui sướng. Đó là niềm vui của người ghiền thuốc, ghiền rượu. Song, với người không ghiền rượu thấy gia cảnh người ghiền rượu, ghiền thuốc nghèo thiếu, hoặc thấy những người giàu có họp năm họp bảy chè chén say sưa cả ngày, họ cho đó là khổ. Kẻ ghiền dụ như người mê, kẻ không ghiền dụ như người tỉnh.

Đồng một sự việc mà người mê và người tỉnh thấy khác nhau. Cái vui của người mê, người tỉnh thấy khổ. Tại sao? Vì người mê chỉ biết tham cầu thỏa mãn sở thích nhất thời, mà không thấy nhân đau khổ về sau. Người tỉnh khi thấy một nhóm người tụ năm họp bảy chè chén say sưa, hao tiền tốn của thì cho là nhân gây đau khổ. Chi phí cho tiệc rượu đó, gia đình có thể sống trong năm ba ngày, bây giờ họ phải ra sức làm việc gấp năm ba lần mới đủ cung cấp tiền cho gia đình. Đó là cái khổ vất vả về thân. Còn khổ về tâm, nếu người có gia đình rủ bạn bè ngồi quán rượu chè chén hết tiền, về nhà bị vợ cằn nhằn gây gổ. Đó là chưa nói đến người uống rượu say mèm, đi nghiêng tới ngã lui, về nhà nằm ụa mửa hôi hám, làm dơ bẩn nhà cửa, vợ con chê chán, cha mẹ buồn phiền. Uống rượu lâu ngày sanh ra bệnh hoạn như đau dạ dày, xơ gan, viêm thực quản… đó là nỗi khổ về sau. Vui của người mê là vui trá hình của đau khổ, nên người tỉnh thấy khổ, đó là thấy đúng lẽ thật. Chúng ta biết tu là tỉnh, nhờ tỉnh mới thấy những nỗi khổ mà người thế gian tưởng là vui, từ đó biết tránh. Đó là nói về vui khổ của người tỉnh kẻ mê đối với thuốc và rượu.

Kế tiếp là vui và khổ của kẻ mê người tỉnh đối với việc ghiền xì ke á phiện. Người nhiều tiền lắm của, hay những chàng trai trẻ bất đắc chí muốn tìm quên trong khoái lạc nên hút á phiện. Lúc đầu hút năm ba điếu thấy sảng khoái lâng lâng như người thoát tục nên rất thích thú, về sau tìm hút hoài. Đó là vui của người hút á phiện. Hút nhiều lần nên ghiền, ngày nào không thuốc hút thì ụa ngáp oằn oại trong cơn nghiền. Lâu ngày hao mòn sức khỏe, thân thể gầy ốm bệnh hoạn, sống dở, chết dở. Đó là chưa nói đến hao tiền tốn của, tán gia bại sản, vô gia cư, vô nghề nghiệp… vô cùng khổ sở. Cách nay vài năm có một chú thanh niên trên hai mươi tuổi, không biết từ đâu đến trước cổng chùa xin ăn, thân thể gầy ốm trơ xương. Hỏi ra mới biết chú ghiền á phiện, phá của, cha mẹ không cho ở nhà, đuổi đi, nên sống lang thang nay đầu đường mai cuối ngõ để xin tiền. Xin được chút ít tiền thì mua á phiện hút hoặc chích cho đỡ ghiền, bữa nào xin không được tiền thì nằm ra đó thật là đau khổ. Kẻ mê lầm tưởng hút á phiện là vui nên lao vào. Khi ghiền rồi bị cha mẹ, vợ con, anh em bỏ, sống dở, chết dở thật đau khổ. Người tỉnh sáng biết á phiện gây cho người hút khoái cảm buổi đầu, nhưng đó chính là nhân đau khổ về sau như thân tàn ma dại, tán gia bại sản, trộm cắp của người, cha mẹ, anh em từ bỏ, bạn bè xa lánh… Vì vậy người tỉnh tránh ngay từ buổi đầu nên không có quả khổ. Đó là khổ vui của kẻ mê người tỉnh đối với á phiện.

Sau đây là vui khổ của việc làm không lương thiện. Mấy đứa trẻ mười ba mười lăm tuổi bắt cá lia thia, bắt dế nhốt chung cho chúng đá lộn với nhau. Con này rượt con kia chạy, chúng vỗ tay reo cười. Hoặc có nhiều người nuôi gà nòi, gà tre, ngày ngày cạo chuốt cựa gà cho bén để đi đá nhau. Khi đá nhau, cựa con gà này chích vào thịt con gà kia chảy máu, con gà kia chạy, con gà này rượt theo… họ vỗ tay vui cười.

Lại nữa, có những chú thanh niên mười lăm, mười bảy tuổi dùng ná hoặc súng nhỏ vào vườn vào rừng tìm thú để bắn. Trên cành cây, chim trống chim mái đang đậu rỉa lông, hoặc kêu hót rất dễ thương, thế mà mấy chú vươn ná hoặc súng nhắm bắn. Một con chim bị thương té nhào xuống đất, các chú xúm lại vỗ tay vui mừng. Đoạn mạng sống của chúng sanh là hành động xấu. Làm việc ác xấu mà lấy làm vui thì thật là nhẫn tâm. Chẳng những người bắn vui mà những người chung quanh cũng vỗ tay vui hùn nữa. Vui trên sự chết chóc của loài vật, thật quá ác! Từ thái độ xem thường mạng sống của loài vật, lần lần sẽ xem thường mạng sống của loài người, sẽ đi đến giết người. Đó là cái vui của tâm tàn nhẫn thiếu đạo đức, lấy nỗi khổ chúng sanh làm niềm vui của mình.

Có những người đi coi đấu võ đài, hai võ sĩ quần thảo với nhau đến hồi quyết liệt, võ sĩ này đánh võ sĩ kia, ở dưới khán giả vỗ tay hoan nghênh. Tôi có quen một vài võ sĩ, có lần tôi hỏi họ: “Tại sao nỡ xuống tay hại người ta ngã đo ván như vậy? Có lợi gì cho mình mà làm như thế?” Vị ấy trả lời: “Thưa Thầy, khán giả độc lắm, lên khán đài mà đánh nhè nhẹ với nhau, họ cho rằng mình đánh cụi nên phản đối. Nếu đánh thẳng tay thì đối phương phải ngã gục. Khi thấy có người bị hạ, họ mới vỗ tay hoan nghênh reo cười.” Chúng ta thấy, người mê vui trên nỗi khổ của loài thú như dế gà và nỗi khổ con người. Võ sĩ biểu diễn tài nghệ qua thuật đánh nhẹ, người ta không thích, họ muốn đấm đá nhau đến gục ngã mới vui.

Lại có nhiều người tham lam thấy người ta đeo vòng vàng liền giựt lấy, đem về nhà vợ chồng con cái vui cười hỉ hả, trong khi người bị mất buồn khổ. Hoặc những kẻ trộm, lén đào ngạch khoét vách lấy trộm của người, đem về nhà cùng vợ con ăn tiêu vui vẻ, không hề nhớ tới cái khổ của người mất của. Khổ chủ khổ nhiều chừng nào thì kẻ trộm vui chừng ấy. Từ chỗ quen tay lén lấy trộm của người, lần đến cướp của giết người không gớm tay, miễn thỏa mãn thú vui của mình là làm. Cái vui đó quá tàn ác, không chút lương tâm… Thế mà ở thế gian này có lắm người làm như vậy!

Đó là những kẻ mê, do mê nên mới đặt cái vui trên nỗi khổ của người khác. Người tỉnh không bao giờ vui trên khổ đau của kẻ khác. Chúng ta là người tu thì phải tỉnh để tránh mọi hành động, mọi vui chơi gây phương hại, đau khổ đến người vật. Là Phật tử chúng ta phải đặt niềm vui của người trên niềm vui của mình, làm cho người vui mình mới vui, không bao giờ làm khổ người. Những cái vui trên là làm khổ vật, khổ người để mua vui cho mình, đó là cái vui phi đạo đức, cái vui của kẻ mê, không phải vui của người tỉnh.

Lại có những người chạy theo sắc dục, lấy đó làm vui. Chẳng hạn một chú thanh niên, cùng một lúc giao tiếp với năm bảy cô gái và được các cô ái mộ, chú lấy làm vui thích, tự hào mình tài hoa được nhiều người yêu thương. Nhưng chú không ngờ cái vui đó là vui trên nỗi khổ. Khổ vì thân xác hao mòn, khổ vì tâm thần rối rắm… Nhiều người đã có gia đình lại còn lôi thôi, nay thay chồng mai đổi vợ, lấy đó làm vui. Họ không ngờ mỗi lần đổi thay là mỗi lần đau khổ, con cái đứa thiếu cha đứa thiếu mẹ, bơ vơ khốn khổ. Niềm vui ích kỷ của cha hoặc mẹ làm cho con cái khổ sở, khốn đốn. Vậy mà người làm cha mẹ không bao giờ nghĩ đến, cứ sống theo thú vui riêng của mình.

Lại có những người có máu cờ bạc, lấy sự đánh bạc làm vui. Khi được thì đem tiền về sắm sửa ăn mặc, thết đãi bà con bạn bè, lúc đó lấy làm vui vẻ thích thú. Nhưng khi thua lại buồn khổ. Khổ vì hết tiền nghèo nàn đói rách, nhà cửa tan hoang, nợ nần bủa vây, nay người này đòi, mai người kia đòi, đòi mà không có tiền trả thì bị mắng chửi nặng lời. Cờ bạc ăn thì ít mà thua thì nhiều, nên khổ nhiều hơn vui, nhà Phật gọi vui trên đau khổ.

Với người biết tu nên tránh xa những thú vui vừa kể, vui với những hạnh nghiệp lương thiện, phù hợp đạo lý, vui mà không làm phiền khổ ai cả. Ví dụ mỗi tháng người Phật tử nguyện ăn chay hai ngày, hoặc sáu ngày, mười ngày… Thoạt nhìn thấy ăn chay là khổ, vì không được ăn uống tự do, phải hạn chế thức ăn, ăn không ngon miệng, mau đói… Song, đối với người biết tu, ăn chay được lấy làm vui, vì không giết hại sanh vật để bồi bổ cho xác thịt của mình. Một ngày không giết hại là một ngày không làm khổ chúng sanh. Một ngày không làm khổ chúng sanh là một ngày an vui. Vui của người ăn chay là vui tránh khổ cho loài vật, nhờ vậy mà lòng từ tăng trưởng. Ăn chay là tránh sát sanh, không làm tổn hại sanh mạng loài vật nên vui. Chớ không phải hôm nay ngày chay, nhiều người cữ ăn thịt cá, nên cá thịt rẻ, quí vị ra chợ mua cá đem về bỏ trong hũ rộng, để mai mốt ăn cho đỡ tốn kém. Nếu tính như vậy là ích kỷ quá, chưa thật vui. Chúng ta phải thấy rằng ăn chay cốt không làm tổn hại sanh mạng chúng sanh, tránh được tội lỗi, làm được điều tốt, tiết dục không ham muốn nhiều. Ít muốn thì an vui.

Kinh A-hàm, Phật dạy người tu “ly dục sanh hỉ lạc” thì chứng Sơ thiền. Do lìa (ly) ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc, hoặc tài, sắc, danh, thực, thùy thì sanh hỉ lạc. Hỉ lạc là vui, do lìa ngũ dục được vui, chớ không phải thọ ngũ dục mà vui. Đó là tôi kể sơ qua những cái vui của người biết tu và cái vui của người không biết tu. Người không biết tu vui trên nỗi khổ của kẻ khác hoặc của loài vật. Người biết tu vui khi tránh được điều ác, không làm tổn hại người vật, làm được việc thiện lợi mình lợi người. Thế nên người tu vui thoát tục, vượt khỏi cái vui tầm thường của kẻ thế gian.

Có những thanh niên trẻ tuổi, sống với niềm vui thoát tục, xa lìa ngũ dục, ăn chay tu tỉnh thì bị những người thọ hưởng ngũ dục phê bình châm biếm cho là ngu dại, không biết thụ hưởng thú vui ở đời. Chúng ta nghiệm xét lại người uống rượu, hút á phiện, cờ bạc… và người không uống rượu, không hút á phiện, không cờ bạc, ai khôn ai ngu? Uống rượu, hút á phiện, cờ bạc sẽ đưa đến nghèo đói, bệnh hoạn, nhà tan cửa nát… Người dùng nó không thấy hậu quả việc làm của mình, cứ chạy theo thị hiếu, thỏa mãn lòng tham muốn, cuối cùng tự chuốc khổ họa vào thân thì không phải người trí. Người trí biết cờ bạc, rượu chè, hút sách… là nhân đưa đến nghèo đói, bệnh hoạn, khổ đau nên tránh, tự thân không bị khổ và không làm phiền lụy người khác, đó mới là người khôn.

Kinh A-hàm, Phật dạy: “Sắc, thanh, hương, vị, xúc, tất cả những pháp này khả lạc, khả hỉ, khả ý. Khi nào chúng hiện hữu, thế giới của chư thiên xem chúng là khả lạc, khi chúng bị hoại diệt mới thấy chúng là khổ. Bậc Thánh thấy là lạc khi có thân đoạn diệt, đây hoàn toàn trái ngược với điều mọi người được thấy. Điều người khác gọi lạc, bậc Thánh gọi là khổ, điều người khác gọi khổ, bậc Thánh biết là lạc.” Ở đây Phật dạy người đời khi được những món ngũ dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc thì cảm thấy vừa ý cho là vui. Chẳng những người đời, mà cả chư thiên cũng thấy như thế. Người trời thấy ngũ dục là vui nhưng khi chúng bị hoại diệt, tức là khi chúng mất đi mới thấy khổ. Còn bậc Thánh vui, khi nơi thân này đoạn diệt tham trước ngũ dục lạc, là cái mầm dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Cái vui khi dứt mầm sanh tử mới là vui chân thật vĩnh viễn.

Vui của bậc Thánh khác với vui của phàm phu. Vui của phàm phu, bậc Thánh cho là khổ; vui của Thánh nhân, phàm phu cho là khổ. Thí dụ một tu sĩ ăn mặc đơn sơ thường tọa thiền dưới cội cây, người nhậu nhẹt ăn chơi cho rằng sống tiết chế kham khổ như thế là ngu, không biết thụ hưởng thú vui ở đời, ngược lại bậc Thánh thấy người đời vui say ngũ dục ăn chơi trà đình tửu điếm, cho đó là mê mờ thiếu trí tuệ nên đem lòng thương xót. Thế nên người đời phải khéo biết cái vui nào là vui chân thật trường cửu để duy trì và gìn giữ, cái vui nào là trá hình của khổ đau để tránh. Thấy như vậy sống như vậy là không bị mê mờ. Nhược bằng cứ chạy theo cái vui trá hình của khổ đau, thì vui trong chốc lát mà khổ lâu dài, sống như vậy là mê mờ thiếu trí tuệ.

Sau đây tôi nêu lên những cái vui của người tỉnh. Người biết tu tỉnh khi tâm hồn bình thản thanh tịnh thì vui. Lúc ngồi dưới gốc cây, bên sườn núi, cảnh vắng vẻ, nhìn trời mây, nhìn cây cỏ hoa lá, tâm hồn thanh thản an định, cảm nhận một niềm vui tràn khắp thân tâm cảnh vật. Người tỉnh tu vui khi tâm thanh tịnh, vui trên sự thanh bình của vạn vật, không làm tổn hại bất cứ loài vật nào, không tổn hại sức khỏe, cũng không hao tiền tốn của. Người đời ở chỗ vắng vẻ thì buồn chán, thường vui ở nơi nhộn nhịp ồn náo. Ngược lại người tỉnh lại thích nơi vắng vẻ, thường vui nơi thanh vắng an nhàn.

Lại nữa, người tỉnh tu vui khi phá được vô minh phiền não. Giả sử có người gièm pha chỉ trích, nói lời nhạo báng Phật pháp, chúng ta mới nghe qua khởi niệm bực bội, muốn nói lại cho đã giận. Liền khi đó tỉnh giác, biết giận là phiền não mê mờ, nói lời xúc chạm gây buồn đau cho người là tội lỗi, ngang đó liền thôi, cơn giận từ từ lắng xuống. Sau đó tâm được bình an, lòng vui sướng thấy mình chiến thắng được phiền não sân giận. Nếu không thắng được cơn giận thì phát ngôn bừa bãi, nói ra những lời đau đầu nhức óc, kẻ nói qua người trả lại. Lúc đầu thì đấu khẩu, sau đó là đấu tay chân… Như vậy chỉ khổ thôi, chẳng lợi ích gì. Giờ đây tự phản tỉnh, thấy rõ từng tâm niệm của mình, niệm sân vừa khởi liền biết, không chạy theo nó. Đó là tự thắng mình, thắng được phiền não sân giận. Thế là mình được an ổn và mối quan hệ giữa mình và người bình thường vui vẻ, không có chuyện buồn ghét xảy ra. Thế nên nói người biết tu, vui khi thắng được phiền não, một cơn giận một niệm buồn khởi lên, liền biết dừng ngay. Cứ thế mà tu tỉnh hằng giờ, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm thì sự an vui cũng hằng hữu trọn giờ, trọn ngày, trọn tháng, trọn năm… Ngược lại, hễ ai động tới là buồn giận, không phản tỉnh, không biết dừng thì buồn khổ hoài. Như vậy, phá được vô minh phiền não là gốc vui chân thật. Ngược lại để cho phiền não vô minh tăng trưởng, không điều phục nó là gốc của đau khổ. Vì vậy mà người tu phải thường xuyên phản tỉnh, chế ngự phiền não để được an vui.

Ở thế gian có nhiều người thật đáng thương, hễ ai nói hay làm điều gì trái ý thì họ nói hoặc làm trả lại bằng hoặc hơn mới vừa lòng. Họ còn hài lòng thích thú cho lời nói và việc làm của mình là hay, là khôn, là đắc thắng. Không ngờ nói làm như thế, khiến người ta buồn giận là mình đã gieo nhân bất thiện, mai kia sẽ thọ nhận quả báo khổ đau.

Lại nữa, người tỉnh tu vui khi làm lợi ích cho người. Ví dụ người làm việc từ thiện xã hội đem được gạo tiền, thuốc men, quần áo… đến tận vùng bão lụt, đưa tận tay cho người mắc nạn, giúp họ được no lòng, ấm thân nên thấy lòng vui sướng, vì đã làm được điều lợi ích cho người. Hoặc một ông thầy giảng dạy hướng dẫn cho học trò học hành thông suốt giáo lý Phật, biết sống đời lương thiện, ít khổ đau thì vui, vì đã giúp cho người sáng suốt tránh được nhân đau khổ. Người tỉnh giác càng làm lợi ích cho người, càng giúp cho người sáng ra thì càng vui. Niềm vui này chân thật lâu dài.

Lại nữa, người tỉnh tu vui khi bỏ bóng nhận đầu, là niềm vui cao siêu bất tuyệt. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật kể cho ngài A-nan nghe một ví dụ: Có anh chàng tên Diễn-nhã-đạt-đa, vào một buổi sáng nọ anh cầm gương soi mặt thấy đầu mặt hiện bóng trong gương rõ ràng. Sau đó anh úp gương lại, thấy đầu mặt trong gương không còn nữa. Anh hoảng kinh chạy cùng làng cùng xóm la: Tôi mất đầu rồi! Tôi mất đầu rồi! Đó là cái điên của người nhận bóng quên đầu. Bóng trong gương mất chớ đầu của anh đâu có mất, vẫn còn sờ sờ đó! Vì mê chấp bóng là đầu nên anh khổ sở điên cuồng. Người tỉnh tu biết quên bóng, nhớ đầu, khi thấy đầu mặt trong gương không còn, chợt tỉnh liền sờ lại đầu, thì đầu hãy còn đấy. Bỏ bóng nhớ đầu là niềm vui chân thật.

Trong kinh Pháp Hoa có nêu ví dụ: Gã cùng tử con ông trưởng giả giàu có, vì khờ dại bỏ nhà bỏ cha đi lang thang phiêu bạt khắp nơi, thân đói rách nghèo nàn, xin ăn hoặc làm thuê làm mướn sống qua ngày. Một hôm anh nhớ cha mẹ, quê hương, anh trở về quê cũ gặp lại cha. Ông trưởng giả nhận anh là con đẻ, ông trao cả gia sản sự nghiệp cho anh. Anh được niềm vui lớn không thể diễn tả, nên nói là niềm vui của kẻ cùng tử gặp cha.

Dụ như thế quí vị có hiểu gì không? Từ xưa đến nay, mỗi người chúng ta ai cũng có sẵn ông Phật nơi mình mà quên đi, cứ chạy theo vọng tưởng rồi tạo nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử, từ đời này đến kiếp nọ khổ đau không cùng tận. Giờ đây biết vọng tưởng là vô thường không thật, nó dẫn mình đi trong luân hồi sanh tử khổ đau, quyết định phải trở lại sống với ông Phật của mình, thì được niềm vui bất diệt. Nên nói gã cùng tử dừng bước lãng du, trở về gặp cha giàu có sung sướng. Đó là niềm vui của gã cùng tử gặp cha.

Quí vị thấy tu là vui hay khổ? Nếu thấy tu là vui thì quí vị hãy nỗ lực cố gắng tu, để trở về cái chân thật hằng hữu, được niềm vui bất tuyệt. Ở thế gian này có ai giàu có thọ hưởng ngũ dục một cách đầy đủ mà khỏi đau bệnh, già yếu, chết chóc không? Từ ngàn xưa đến nay không ai tránh khỏi. Hưởng cái vui giàu sang sung sướng chỉ được mấy mươi năm, con người tưởng là lâu dài, cứ mải mê đuổi bắt nó. Khi nào thoát ra khỏi cái khổ sanh tử chúng ta mới được niềm vui chân thật lâu dài. Nếu còn ở trong sanh tử, dù nhiều tiền lắm của đến đâu cũng tiêu hoại. Chỉ có người biết trở về cái chân thật, tâm hết vô minh phiền não mới thoát khỏi mọi khổ đau, được niềm vui chân thật bất diệt.

Qua những điều vừa nêu, chúng ta thấy người đời không sáng suốt lấy nỗi khổ của người làm niềm vui của mình, vui trên sự đau khổ của vạn vật. Còn người tu hành chân chánh hằng sáng suốt, không bao giờ chấp nhận vui trên sự đau khổ của người vật. Ngược lại lấy niềm vui của người làm niềm vui của mình, đem sự an vui đến cho người vật. Tất cả chúng ta phát tâm tu là nguyện sống đời an vui bất tận, chẳng những trong đời này mà vĩnh viễn về sau. Muốn được như thế chúng ta phải làm sao? Nên nỗ lực tu hành hay lười biếng giải đãi?

Người tu hành thoạt nhìn thấy như thiệt thòi khổ sở vì không thọ hưởng những vui sướng của thế gian, phải khép mình trong giới điều nghiêm ngặt để tinh tấn tu hành. Nhưng sau đó mới thấy an vui vì ít phiền não, không điên đảo rộn ràng như người đời. Người đã phát tâm tu theo đạo Phật suốt đời phải tinh tấn tu hành, chớ không thể tu một thời gian rồi ngừng nghỉ, không tu nữa. Nhất là người già phải nỗ lực tu nhiều hơn, vì cái khổ tử vong gần kề. Nếu không lo tu hành khi chết đến làm sao trở tay kịp? Thế nên người phát tâm tu chẳng những khi còn trẻ lo tu hành mà lúc già lại phải tu nhiều hơn, như thế mới có được nguồn an vui chân thật, dứt mọi khổ đau.

Tóm lại, đạo Phật là đạo diệt khổ, đem vui đến cho chúng sanh. Chính đạo Phật là chỗ nương tựa an vui chân thật, đem đến an bình muôn đời cho tất cả mọi loài.

∗ LỄ PHẬT THÀNH ĐẠO

Thường Chiếu – 1996

Hôm nay nhân ngày Phật thành đạo, tất cả Tăng Ni tụ hội về chánh điện lễ kỷ niệm Phật thành đạo. Chúng tôi nhận thấy người sau đặt nặng ngày Phật đản sanh hơn ngày Phật thành đạo. Ngày Phật đản sanh tất cả chùa chiền đều tổ chức huy hoàng, còn ngày Phật thành đạo thì im lặng đơn sơ.

Lý đáng người tu chúng ta phải thấy ngày Phật thành đạo là ngày tối quan trọng. Vì nếu không thành đạo, đức Phật không thể giảng giải Phật pháp, giáo hóa chúng sanh. Như vậy ngày thành đạo là một bước ngoặc lớn trong cuộc đời tu tập của Ngài, mà cũng là ngày có ý nghĩa đối với muôn loài. Đó là ngày đức Phật từ một con người thế gian trở thành xuất thế gian, từ con người mê thành con người giác. Vì vậy chúng tôi cho rằng ngày này hết sức trọng đại.

Hôm nay tôi lược kể một vài nét đặc biệt trong đời tu của đức Phật, để tất cả chúng ta nhớ và ý thức rõ đường tu của mình. Vấn đề quan trọng chúng ta cần phải nắm vững, Phật thành đạo là thành cái gì? Chúng ta cứ lạy Phật thành đạo mà không biết thành cái gì, như thế là không hiểu gì về ý nghĩa thành đạo cả.

Phật thành đạo là kết quả bắt nguồn từ nguyên nhân ban đầu là Ngài đi xuất gia. Chúng ta thử tìm hiểu nguyên nhân gì đức Phật đi xuất gia, tu hành như thế nào được thành đạo, khi thành đạo là thành cái gì? Đó là ba chặng đường quan trọng mà tất cả Tăng Ni Phật tử cần phải nắm thật vững, rồi tự xét lại mình có những điều kiện đó không. Nếu thiếu điều nào chúng ta ráng bổ túc cho đầy đủ như đức Phật, để cũng có ngày mình thành đạo.

Trước tiên nói về nguyên nhân hay động cơ thúc đẩy Thái tử đi tu. Như chúng ta đã biết, khi dạo bốn cửa thành, thấy cảnh sanh già bệnh chết của chúng sanh, Ngài giác ngộ và quyết tâm đi xuất gia. Gần đây nhiều người cho rằng già bệnh chết là tướng khổ dễ thấy, còn sanh khổ thì khó hiểu quá. Nếu bảo sanh khổ vì ra khỏi lòng mẹ khóc oa oa, thì lúc đó biết gì mà nói khổ? Thật ra cái khổ ở đây không phải chỉ có thế.

Chúng ta nhớ lại có lần đức Phật theo vua cha đi xem lễ hạ điền. Nhìn thấy những luống cày của người nông phu, trùng dế văng lên chim đáp xuống ăn. Nỗi khổ của chúng sanh là sự sống của loài này là sự chết của loài khác. Sự sống của loài này một ngày là sự chết của bao nhiêu loài khác. Như vậy có phải chúng sanh sống trong đau khổ không?

Nhìn lại con người, quí vị thấy lúc chưa đi tu, mỗi ngày có chừng bao nhiêu con vật hi sinh để cho mình được no khỏe. Như đêm hôm ngồi thiền, tôi nghe tiếng lợn la khi bị đâm họng, ngày nay người ta có được những miếng ăn ngon thì đêm hôm có bao nhiêu con lợn phải hi sinh! Rõ ràng sự sống của con này phải thay bằng mạng sống của loài khác. Bởi vậy nên nói sanh khổ là chuyện không chối cãi được.

Sau khi Thái tử nhìn thấy cảnh sanh già bệnh chết rồi, Ngài cảm nhận mạng sống của con người quá tạm bợ quá mỏng manh, lại đầy đau khổ nên Ngài quyết chí đi tu, tìm phương pháp giải quyết nỗi khổ của kiếp người. Như vậy đức Phật đi tu không phải là một sự ngẫu nhiên, mà có động cơ có sức mạnh thúc đẩy Ngài. Động cơ đó chính là nỗi khổ của con người. Chúng ta sống chìm đắm trong nỗi khổ đó mà ít ai ý thức được, cứ loanh quanh lẩn quẩn chờ sanh già bệnh chết để kết thúc một cuộc đời, không có cách nào thoát được.

Đức Phật đi tu, mục đích là tìm ra con đường để giải thoát sự sanh già bệnh chết, khổ đau triền miên của kiếp người. Không phải Ngài đi tu như một sự ngẫu nhiên hay do sự ép ngặt của hoàn cảnh. Bởi mang tâm trạng và ý chí cương quyết tìm cho ra con đường thoát khổ, nên lúc nào Ngài cũng liều chết, cũng sẵn sàng hi sinh, miễn tìm được con đường đó. Khi ra khỏi thành, Ngài tìm những vị tiên nổi tiếng nhờ chỉ dạy đường hướng cứu vớt chúng sanh ra khỏi sanh tử. Nhưng các vị tiên mỗi người dạy mỗi cách, song những cách ấy chưa giải thoát được kiếp sanh tử của con người, nên Ngài không chấp nhận. Ngài từ bỏ họ và cuối cùng tự tìm kiếm con đường giải quyết sanh tử đang ôm ấp trong lòng.

Chúng ta học được nơi đức Phật một điều, đó là mục tiêu của mình nhắm tới chỗ nào mà người dạy không tới chỗ ấy, mình phải từ giã ra đi. Không phải nói đi tu cứ vô chùa, ai dạy gì nghe nấy, rốt cuộc một đời không đi tới đâu. Phật chỉ cho chúng ta thấy con đường quyết tu là con đường cứu khổ chúng sanh ra khỏi kiếp luân hồi. Phương pháp nào dù hay mấy mà không đạt được mục tiêu, Ngài cũng từ giã, điều này hết sức rõ ràng.

Rốt cùng không còn ai chỉ được chỗ cứu kính, nên Ngài tự tu khổ hạnh. Ngài nghĩ trên thế gian những gì các đạo sĩ khác thực hành được, chịu khổ hạnh nổi Ngài đều có thể thực hành, thử coi có thể đưa tới chỗ cứu kính không? Qua mấy năm trời tu khổ hạnh cuối cùng Ngài không đạt được mục đích. Thế là Ngài từ bỏ khổ hạnh, sống một cuộc đời bình dị hơn, vừa tu vừa lấy lại sức khỏe để tìm ra con đường Ngài đã mong mỏi.

Cuối cùng Ngài tới cội bồ-đề tọa thiền, Ngài thấy rõ khi người ta khổ đến cùng cực, thân thể kiệt quệ thì trí tuệ mờ ám, không thể tìm ra lối giải thoát được. Ngài bắt đầu thay đổi, sống cuộc sống vừa phải, không khổ hạnh cũng không buông lung, sống rất điều hòa. Quả nhiên đêm thứ bốn mươi chín ngồi dưới cội bồ-đề, Ngài giác ngộ.

Trình tự giác ngộ trong kinh kể là Tam minh. Trong Tam minh, có chỗ kể Thiên nhãn minh trước, có chỗ kể Túc mạng minh trước. Chúng ta nói Thiên nhãn minh trước tức là đầu tiên Ngài chứng Thiên nhãn minh, kế tới Túc mạng minh, sau cùng là Lậu tận minh. Ba minh này đã đáp ứng được nguyện vọng của Ngài khi quyết tâm tu.

Chứng được Thiên nhãn minh Ngài thấy chúng sanh từ đời này sang đời kia do nghiệp dẫn. Nếu làm lành thì nghiệp lành dẫn đi đường lành, làm ác thì nghiệp ác dẫn đi đường ác, tiếp tục sanh tử. Kinh A-hàm Phật kể, Ngài thấy chúng sanh theo nghiệp luân hồi trong lục đạo giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy người qua kẻ lại một cách rõ ràng, không nghi ngờ. Chứng Thiên nhãn minh, Ngài đã giải quyết được nghi vấn con người sau khi chết không phải hết, mà theo nghiệp dẫn sanh nơi này, nơi nọ. Nghiệp có thiện ác nên chúng sanh có sanh cõi lành, cõi dữ, thấy một cách rõ ràng.

Kế đó Ngài chứng Túc mạng minh, tức là nhớ vô số kiếp về trước. Kinh A-hàm kể, khi tâm yên tịnh trong sáng, Ngài hướng về quá khứ liền nhớ vô số kiếp về trước, từng sanh ở đâu, làm nghề gì, cha mẹ tên gì… nhớ rõ ràng như nhớ việc hôm qua. Hai minh này đã giải đáp được mong mỏi của Ngài, muốn tìm ra nguyên nhân nào khiến con người có mặt ở đây. Sau khi chết còn hay hết, nếu còn thì đi đâu? Tìm ra nguyên nhân rồi mới có thể tiêu diệt nó để đạt kết quả thoát khổ sanh tử.

Những quyển kinh nói về đời trước của Phật gọi là Bản Sanh, nói về đời trước của các đệ tử Ngài gọi là Bản Sự. Phật thấy chúng sanh luân hồi trong lục đạo, thiện thì đi đường lành, ác thì đi đường dữ. Ngài biết rõ sau khi chết con người không mất mà theo nghiệp sanh nơi này nơi kia. Đức Phật giải thích rõ trong lục đạo luân hồi, tùy nghiệp của chúng sanh mà đến các nơi. Để thấy trong vòng sanh tử chúng ta không phải chỉ có một đời này mà có từ vô số đời trước. Khi chúng ta mất thân này không phải hết mà còn tiếp nối vô số kiếp về sau không cùng không tận, nên nhà Phật dùng từ vô thủy vô chung.

Cuối cùng đức Phật chứng được Lậu tận minh. Chữ lậu là rơi rớt, tận là hết, lậu tận là hết sạch những mầm rơi rớt trong Tam giới, tức Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Ngài thấy rõ nếu ta nuôi nhân nào sẽ đi tới chỗ đó, nếu diệt hết các nguyên nhân luân hồi sẽ giải thoát, không còn bị sanh trong Tam giới nữa. Phật chứng Lậu tận minh cũng như hai minh kia là do Ngài ngồi thiền tâm thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt mà được.

Khi chứng Tam minh rồi Ngài tuyên bố thành Phật, tức là giác ngộ hoàn toàn, không còn kẹt trong sanh tử nữa. Sự giác ngộ này không do ai dạy cả mà nhờ công phu thiền định, tâm yên tịnh trong sáng mà ra. Bởi vậy sau khi thành Phật, Ngài tuyên bố ta học đạo không có thầy. Bởi chứng Lậu tận minh, thấy tường tận nguyên nhân dẫn đi trong sanh tử và biết rõ phương pháp dứt trừ nguyên nhân ấy nên Ngài không còn mầm lôi kéo trong sanh tử nữa. Đức Phật đã đạt được sở nguyện viên mãn.

Khi Ngài giác ngộ biết rõ con người từ đâu đến, chết rồi đi đâu và muốn hết sanh tử luân hồi phải tu như thế nào, nên bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở vườn Lộc Uyển với năm anh em Kiều-trần-như là bài Tứ đế. Chữ đế là sự thật. Trong Tứ đế, hai đế đầu là Khổ đế là quả và Tập đế là nhân. Chữ khổ này không phải khổ theo nghĩa thông thường, mà là khổ luân hồi sanh tử. Sở dĩ chúng sanh bị quả luân hồi sanh tử không phải ngẫu nhiên, mà có nguyên nhân. Nguyên nhân là Tập đế; tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v… là tập nhân để đưa tới quả khổ trong luân hồi sanh tử.

Đức Phật biết rõ nhân và quả của sanh tử rồi, Ngài tiến lên một bước nữa là nói nhân và quả thoát ly sanh tử, tức Đạo đế và Diệt đế. Diệt đế là quả, Đạo đế là nhân. Không ai bắt chúng ta sanh tử mà chính tham, sân, si, mạn, nghi… lôi mình tạo nghiệp đi trong sanh tử. Vì vậy muốn hết sanh tử phải tiêu diệt nguyên nhân Tập đế. Muốn tiêu diệt nó phải có phương pháp, có cách thức nên Đạo đế là phương pháp đối trị các nguyên nhân sanh tử. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là ba mươi bảy phương pháp dứt trừ nhân sanh tử. Một khi dứt sạch nhân sanh tử gọi là quả Diệt đế. Diệt đế tức tên khác của Niết-bàn an lạc.

Đêm mùng 8 tháng 12 Ngài thành đạo là thành cái gì? Thành tựu được Tam minh Lục thông, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng pháp… Ở đây tôi chỉ nói đơn giản Tam minh thôi. Sở nguyện của đức Phật là làm sao tìm ra manh mối khiến con người lăn lộn trong luân hồi sanh tử, rồi dứt trừ mầm sanh tử đó. Ngài đã đạt được mục tiêu của mình nên gọi là thành đạo. Thành đạt được những gì Ngài đã ôm ấp, trông đợi, hi sinh cả cuộc đời để tìm kiếm, nên ngày này đức Phật bừng vui, không gì vui bằng.

Ai cũng vậy, cả cuộc đời hi sinh để mong đạt được một điều gì, bỗng dưng điều ấy đến với mình thật tuyệt vời, tự nhiên phải vui mừng. Chẳng những đức Phật vui mừng mà chúng ta cũng thế, bởi vì Ngài thành đạo nên sau này mới chỉ cho chúng ta con đường, phương pháp tiêu diệt mầm sanh tử, giúp chúng ta giải thoát giác ngộ như Ngài. Đó là niềm vui chung, nên hôm nay nhân kỷ niệm ngày đức Phật thành đạo, chúng ta vui mừng và cố gắng thực hiện theo những gì đức Phật đã thực hiện.

Hiện tại chúng ta kiểm lại xem mình có giống đức Phật không? Nếu nói xuất gia thì ai cũng thấy đức Phật cạo bỏ râu tóc, vô rừng tu và thành đạo. Chúng ta ngày nay cũng cạo bỏ râu tóc vô chùa tu, ngoại hình hơi giống nhưng bản nguyện của quí vị trong khi đi xuất gia có giống bản nguyện của Phật không? Chắc có người giống, có người không giống. Mỗi vị mỗi lý do khác nhau khi đi tu, không phải quyết vì tìm cho ra con đường giải thoát sanh tử cho mình, cho người. Hoặc vì nguyên nhân ở đời khổ quá, chán quá vô chùa cho yên. Hoặc giả bao nhiêu người xung quanh xử sự tệ bạc với mình quá, chán vô chùa cho rồi… Tóm lại, chúng ta đi tu không phải đều giống mục đích như đức Phật.

Quí vị vào chùa rồi, nếu chưa có bản nguyện cao siêu thì bây giờ phải lập bản nguyện. Chúng ta đã đi tu thì phải giống đức Phật chứ! Không thể tu ra sao mặc. Muốn giống đức Phật, trước phải có bản nguyện siêu thoát, tu là vì giải thoát đau khổ luân hồi của thân phận mình và chúng sanh, không phải tu để qua ngày qua tháng chờ già chết, được cái tháp tốt hơn người thế gian. Phải luôn luôn nuôi dưỡng bản nguyện trong tâm, không thể lơ là được.

Chính bản nguyện cao siêu đó giúp chúng ta giữ vững lập trường và chí nguyện tu hành. Giả sử có ngoại đạo nào muốn dạy pháp tu hay, kết quả mau chóng trong năm ba tháng, quí vị có thể xuất hồn ngao du trong cõi này cõi kia chơi, nghe vậy mình vẫn không ham. Xuất hồn đi chơi chỗ này chỗ kia, không phải là sở nguyện của người xuất gia cầu thoát ly sanh tử. Chúng ta tu hành phải tìm ra phương pháp nào dứt mầm sanh tử cho mình và dạy cho chúng sanh cùng được thoát ly sanh tử. Đi chơi đây đó, ngoài thế gian làm có tiền mua vé máy bay đi chơi cũng được vậy. Tội gì phải tu cả đời mới đi chơi được. Chẳng lẽ chúng ta vì sự du lịch mà đi tu!

Như vậy những gì không đúng sở nguyện tu hành, chúng ta không màng tới, dù nó hay nó lạ mấy, mình cũng không để ý. Đức Phật có sở nguyện chánh đáng nên gặp các vị tiên dạy tu, Ngài chứng được các tầng thiền cao nhất của họ, song vẫn thấy không hài lòng vì chưa giải quyết được vấn đề sanh tử. Ngài từ giã các thầy ngoại đạo, các vị ấy năn nỉ Ngài ở lại sẽ nhường ngôi vị giáo chủ và đệ tử cho, Phật nhất định không ở, vì nó chưa đúng bản nguyện của Ngài.

Khi thực hành khổ hạnh đến chỗ tột cùng Ngài cũng mù mịt, chưa thấy được chân lý. Cuối cùng Ngài từ bỏ khổ hạnh, tới ngồi thiền định dưới cội bồ-đề, chừng đó Ngài khai mở tuệ giác, thành tựu viên mãn đúng sở nguyện của mình. Như vậy nhờ bản nguyện ban đầu vững vàng, trên đường tu không lệch lạc sai lầm. Bây giờ Tăng Ni đi tu không có bản nguyện, vô chùa tu không nghĩ phải giải thoát sanh tử, rồi đem đạo giải thoát đó chỉ dạy cho mọi người cùng giải thoát. Cứ tu lơ mơ, ai rủ rê ở đâu lạ lạ hay hay liền muốn chạy theo. Đó là vì không có bản nguyện, không chọn một con đường đi tới nơi tới chốn. Vì vậy hồi mới vào đạo tinh tấn tu hành, nhưng tu một lúc coi bộ ở chùa dễ kiếm ăn, ai rủ đi đâu được người ta trọng vọng, cúng dường nhiều liền đến, chớ không có mục đích. Vì không có mục đích nên không bao giờ đạt được sở nguyện. Đó là nói về sở nguyện mục đích ban đầu của người tu chúng ta.

Sang chặng thứ hai, muốn thành tựu sở nguyện, phải nỗ lực tinh ròng, siêng năng tinh tấn lắm mới được. Trong kinh thường nói đức Phật đã là một vị Bồ-tát, mà trên đường tu Ngài hết sức cần khổ, năm năm lang thang tầm đạo trong rừng già biết bao cực khổ, sáu năm khổ hạnh cho tới chỉ còn da bọc xương và ngất xỉu v.v… Sau đó Ngài thiền định dưới cội bồ-đề mới được giác ngộ. Đức Phật thành đạo phải trải qua bao nhiêu khó khăn, không phải rời khỏi cung điện đến cội bồ-đề thành đạo liền.

Chúng ta thấy không có kết quả tốt đẹp nào đến ngẫu nhiên cả, tất cả đều nhờ công phu cực khổ mới được. Bây giờ chúng ta kính phục lễ lạy Phật, đó là kết quả Ngài đã từng trả giá rất đắt trên bước đường tầm tu, không phải chuyện dễ dàng. Ngày nay chúng ta tu, ai cũng mơ ước đến ngày thành đạo, mà không muốn cực, sợ cực, làm sao cho sướng mới chịu tu, cực khổ quá thì tu chi. Thử hỏi như vậy đến bao giờ mới thành đạo? Muốn kết quả tốt, kết quả cao siêu mà không chịu cực thì làm sao có!

Ở thế gian một người học trò từ khi cắp sách đến trường cho tới đậu cử nhân hay tiến sĩ, có chịu cực không? Họ ăn no, nằm dài ngủ mà được cử nhân tiến sĩ hay phải quên ăn bỏ ngủ, cắm đầu học mới đạt được kết quả đó? Người đời muốn được kết quả tốt đẹp còn phải trả giá rất đắt, vừa tốn sức khỏe nỗ lực học, vừa tốn tiền bạc của cha mẹ, huống nữa là vào đạo, muốn có kết quả cao siêu thế gian ít người làm được, mà lại trả giá quá rẻ, làm sao được? Ở đây tôi cho sống trong Thiền viện là trả giá rẻ, bởi vì Tăng Ni có khổ hạnh bao giờ đâu? Ngày nào cũng ăn hai ba bữa, tối ngủ ít ra năm tiếng đồng hồ, tổng cộng ngày đêm sáu tiếng, thì đâu có đắt. Như vậy mà có người chịu không nổi muốn chạy, phải không?

Từ gương đức Phật, chúng ta nhìn lại đời mình thấy những thiếu sót, những tâm yếu đuối của mình, từ đó bồi bổ nung nấu lại ý chí, dẹp bỏ tật yếu đuối để trở thành một con người quyết chí chết sống tìm đạo, chớ không phải chuyện đơn sơ. Nếu quyết tâm như vậy tôi tin rằng ai tu cũng có kết quả tốt. Nếu không có bản nguyện, không chịu cực khổ, không quyết tâm thì dù ở chùa mười năm, hai chục năm cho tới năm sáu chục năm, cũng chỉ mang hình thức ông thầy tu, chớ không đi tới đâu hết.

Nhân ngày Phật thành đạo tôi nhắc tất cả Tăng Ni, Phật tử biết con đường của đức Phật đã đi, chúng ta cũng phải đi như thế. Thông thường người đời nay hay nói mình phước mỏng nghiệp dày rồi tu lơ mơ, vì vậy không bao giờ đạt được kết quả tốt đẹp. Ngày xưa đức Phật là Bồ-tát tái thế mà còn cần khổ tu hành mới thành tựu sở nguyện. Nếu Phật khổ chừng năm chục phần trăm mới đạt kết quả, thì chúng ta bây giờ phước mỏng nghiệp dày phải khổ trăm phần trăm mới có kết quả chứ. Bây giờ khổ bằng Phật mình còn không làm nổi huống nữa là hơn, cho nên quả Bồ-đề thật khó với tới.

Nếu chúng ta quyết chí nhất định một đời tìm ra cái cao siêu quí báu, thì phải chấp nhận con đường tu cay đắng, khó khăn, cương quyết vượt qua hết mọi thử thách để đạt được mục đích của mình. Một đời có mặt ở đây là rất quí, chúng ta đừng bỏ mất cơ hội này. Nếu đời này mất đời sau cũng sẽ mất, mất hoài không bao giờ chúng ta tiến được. Đời này nếu chúng ta chưa tìm ra trọn vẹn thì ít ra một phần, hai phần cái cao siêu ấy. Có thế sau này mới hi vọng tiếp tục con đường tu hành như nguyện, còn thả trôi đời này thì đời sau cũng sẽ mất. Mất mãi mãi như vậy làm sao tránh khỏi muôn kiếp luân hồi trong lục đạo.

Mong tất cả Tăng Ni nhớ và gắng thực hành những gì tôi nhắc nhở nhân ngày kỷ niệm đức Phật thành đạo.

∗ MỖI BƯỚC TIẾN TU ĐỀU ĐEM LẠI AN LẠC

Tu viện Hoa Nghiêm – Hoa Kỳ – 2001

Tất cả chúng ta tu Phật, từ hàng tại gia cho tới những vị xuất gia đều muốn đạt được những lợi ích thiết thực trong cuộc sống. Vì vậy hôm nay tôi sẽ nói đề tàiMỗi bước tiến tu đều đem lại an lạc cho mình và mọi người.

Nhiều Phật tử tu năm mười năm, lại than tu càng lâu phiền não càng nhiều. Những lời than đó khiến mọi người ngạc nhiên. Lý đáng tu lâu thì phiền não nhẹ, sao tu lâu phiền não lại nhiều? Âu là tại chúng ta không nắm bắt được nền tảng của sự tu hành. Vì không nắm bắt được nên trên đường tu cứ chạy theo hơn thua, phải quấy, được mất, rốt cuộc tăng trưởng phiền não. Nếu tu đúng với tinh thần Phật dạy thì không như thế, mà mỗi bước tiến tu đều là mỗi bước an lạc cho bản thân và cho mọi người.

Phật tử đến với đạo Phật đều phát nguyện qui y Tam Bảo. Qui y Tam Bảo được sự an lạc, vui vẻ gì mà chúng ta qui y? Đó là bước thứ nhất người vào đạo phải biết. Trong những buổi qui y, quí Hòa thượng thường nhắc: “Qui y Phật rồi khỏi đọa địa ngục. Qui y Pháp rồi khỏi đọa ngạ quỉ. Qui y Tăng rồi khỏi đọa súc sanh.” Như vậy chúng ta bước chân vào đạo là đã tiến lên một bước trên đường thoát khổ. Phật dạy chúng sanh luân hồi trong lục đạo, trong lục đạo có ba đường ác và ba đường lành. Ba đường ác là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Ba đường lành là người, a-tu-la và trời. Khi bước chân vào đạo Phật, qui y Tam Bảo, Phật tử tu tập đúng theo lời Phật dạy sẽ tránh được ba đường ác.

Tại sao qui y Phật rồi khỏi đọa địa ngục? Vì Phật là bậc giác ngộ sáng suốt, khi Phật tử đã phát tâm qui y Phật, nguyện từ đây cho tới cuối đời, đi theo con đường Phật đi là con đường giác ngộ, sáng suốt. Địa ngục là chốn u minh tối tăm, chúng ta qui y Phật thì đang đi trên con đường sáng nên không rơi vào chỗ tối tăm. Người phát tâm qui y Phật có một định hướng tiến lên con đường giác, không tuột xuống chỗ mê lầm tối tăm nữa. Đó là ta chọn được một con đường đem lại sự an lạc cho mình.

Kế đó, qui y Pháp khỏi đọa ngạ quỉ. Ngạ quỉ là loài quỉ đói. Tại sao qui y pháp rồi khỏi đọa vào loài quỉ đói? Vì trong kinh Phật nói, đức Phật từng thấy những loài quỉ lang thang khổ sở nơi này chốn nọ, không có trụ xứ nào an ổn hết. Trong kinh A-hàm kể, một hôm ngài Mục-kiền-liên đang đi, Tôn giả liền dùng thiên nhãn quán sát trong hư không, thấy có những chúng sanh thân hình to lớn mà bị ghẻ lở, côn trùng đục khoét nên họ phải la lên trong hư không. Thấy vậy Ngài về bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, con thấy những chúng sanh khổ đang lang thang ở trong hư không.” Phật nói: “Ta cũng thấy như vậy, nhưng không nói vì nói không ai tin.” Không biết thì không tin. Bởi nhìn thấy như vậy nên sau này tìm mẹ, Ngài thấy mẹ đang đọa vào loài quỉ đói, lang thang khổ sở ghê lắm.

Nhưng tại sao lại sanh làm ngạ quỉ? Trong kinh Phật nói ai có tâm gian tham, bỏn sẻn, hiểm độc là nhân của loài quỉ đói. Chúng ta qui y pháp là pháp từ bi, pháp đưa đến sự giác ngộ. Tiến trên con đường từ bi giác ngộ, nhất định khỏi đọa làm loài quỉ đói lang thang. Đó là kết quả thứ hai khi qui y.

Đến thứ ba, qui y Tăng khỏi đọa làm súc sanh. Súc sanh như trâu, bò, lợn, dê, ngựa v.v… những con đó hiện tại mắt chúng ta thấy biết được. Trong ba đường khổ chúng ta thấy được loài súc sanh, còn quỉ đói và địa ngục mắt phàm phu không thấy.

Khi qui y với Phật, Pháp, Tăng rồi chúng ta tránh được ba đường ác: địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Chỉ bước đầu tiến lên con đường tu, quí vị thấy đã cứu vãn cho mình khỏi rơi vào ba đường khổ, đem lại sự an vui cho bản thân. Nếu lỡ rơi xuống địa ngục khổ biết mấy hay làm loài ngạ quỉ khổ tới bậc nào. Phật tử bước vào đạo, chỉ cần phát nguyện qui y Tam Bảo là đã vươn lên một bước, giảm bớt đau khổ trong những con đường hiểm nguy.

Như vậy qui y Tam Bảo là việc quan trọng hay tầm thường? – Rất quan trọng. Có người nào muốn xuống địa ngục đâu, vì địa ngục là chỗ đáng sợ nhất, đáng ghê gớm nhất. Không muốn tới địa ngục thì chúng ta phải theo Phật, đi đường giác ngộ sáng suốt mới không rơi vào chỗ tối. Điều này rõ ràng, không có gì phải nghi ngờ.

Qui y Pháp là pháp từ bi giác ngộ, tâm không còn bỏn sẻn, hiểm độc thì không rơi vào loài ngạ quỉ. Qui y Tăng, Tăng là những vị tu hành thanh tịnh, Phật tử sẽ được chư Tăng hướng dẫn, chỉ dạy cho biết đạo lý chân thật không còn mê lầm. Quí Phật tử được nghe phân tích rõ cái gì thiện, cái gì ác, cái gì tội, cái gì phước, cái gì tà, cái gì chánh… nên hết si mê, khỏi đọa làm súc sanh.

Bước đầu chúng ta tu là qua được ba con đường hiểm nguy. Nếu không khéo tu, ba con đường đó sẽ làm chúng ta đau khổ chẳng những năm mười năm, hai ba mươi năm, mà cả một kiếp ngạ quỉ. Làm ngạ quỉ tuổi thọ dài hơn con người. Tuổi thọ con người chưa tới một trăm tuổi, tuổi thọ ngạ quỉ cả ngàn tuổi, khổ dài đằng đẵng. Cho nên bước vào đạo, qui y chân chánh, Phật tử đã vượt qua ba ải hiểm nguy rồi. Như vậy có phải chúng ta đang đi trên con đường an lạc không? Đó là một lẽ thật, lâu nay quí vị ít quan tâm.

Sau khi qui y, chư Tăng sẽ dạy Phật tử giữ năm giới. Giới thứ nhất không được sát sanh. Sát sanh đối với cư sĩ là không được giết người trong ba trường hợp: tự tay giết, dùng miệng xúi bảo kẻ khác giết, thấy nghe người ta giết mình vui mừng. Đó là phạm tội sát sanh. Giữ được giới không sát sanh, trong xã hội gặp nhau mọi người đều an ổn, không ai sợ ai cả. Chúng ta giữ giới này, khi lên phi cơ chắc ít bị xét, vì không có gì để sợ. Còn bây giờ khó khăn là tại vì có những người phạm tội sát sanh đáng sợ.

Người tu Phật không bao giờ giết người, chẳng những không giết người mà còn cứu người. Tại sao? Bởi vì người Phật tử đặt sanh mạng chúng sanh lên trên, không nỡ gây đau khổ cho chúng sanh. Tinh thần đạo Phật chú trọng tâm cao thượng, không muốn làm đau khổ ai. Tự mình không làm khổ ai, không gây tang tóc cho người, thì bản thân rất an ổn, người chung quanh cũng an ổn. Chỉ cần giữ giới không sát sanh là thiên hạ thái bình rồi.

Giới thứ hai không trộm cướp. Nếu Phật tử ở gần kẻ trộm cướp có lo không? Chắc đi đâu cũng hồi hộp. Xóm làng có người giữ giới không trộm cướp thì nhà nhà không cần đóng cửa. Bản thân kẻ trộm cướp luôn luôn lo sợ bị bắt, vì khi bị bắt họ bị đánh đập rất khổ sở. Chúng ta giữ giới không trộm cướp thì người nhẹ nhàng, thảnh thơi, hàng xóm láng giềng cũng thảnh thơi. Như vậy từng bước đi của mình đem lại an lạc cho mình, cho mọi người.

Giới thứ ba không tà dâm. Trong gia đình người chồng, người vợ không tà dâm thì vợ chồng tin tưởng, thương mến nhau. Nếu ngược lại thì sao? Gia đình đó bất hạnh, chẳng những bất hạnh cho cha mẹ, mà cả con cái nữa. Người biết giữ giới không tà dâm, bản thân được an ổn, gia đình hòa vui mà mọi người chung quanh không sợ, không lo thói xấu ấy lây tới gia đình họ. Giữ giới thứ ba thì an ổn hạnh phúc cho mình và cho người.

Giới thứ tư không nói dối. Dối gạt mới nghe coi như nhẹ, nhưng sự thật nó là nguyên nhân dẫn tới sự tan vỡ khổ đau. Trong gia đình người vợ nói gạt người chồng, người chồng dối người vợ, con dối cha v.v… thì gia đình đó không có hạnh phúc vì không ai tin ai hết. Không tin mà sống chung còn gì khổ hơn! Sống trong gia đình không tin nhau thì ngoài xã hội có ai tin mình không? Cũng mất hết lòng tin. Như vậy sống giữa muôn triệu người mà như sống ở sa mạc, không ai tin mình. Ta nói không ai thèm nghe, không ai thèm biết, đó là gây khổ cho mình. Khi quen dối gạt, gặp ai họ cũng sợ mình dối gạt, không muốn nghe ta nói, đó là gây khổ cho người. Nên giữ được giới không nói dối, bản thân chúng ta sống hòa vui, tin yêu trong gia đình, kế đến đem lại sự tin yêu cho xóm làng và mọi người một nguồn an lạc chung.

Giới thứ năm không uống rượu. Giới này bên nam sợ lắm. Nói tới giới thứ năm ít có ông nào dám thọ, cứ nói để dành đó. Nhưng sự thật chúng ta có một điều lầm lẫn lớn. Ở thế gian có ai muốn trí tuệ càng ngày càng mờ tối không? Người nào cũng muốn thông minh, sáng suốt. Thế mà khi uống rượu say, lúc đó trí tuệ làm sao? Quí vị thấy những người say đi ngoài đường có hơn gì người điên đâu. Những kẻ ấy tự đánh mất cái cao quí nhất của mình là trí tuệ, có đau lòng không! Cho nên uống rượu mạnh, uống say là làm cho trí tuệ suy sụp, tự mình làm khổ mình. Người tránh uống rượu mạnh, uống say là nuôi dưỡng trí tuệ, càng già càng thông minh sáng suốt.

Đạo Phật là đạo giác ngộ, giác ngộ thì đòi hỏi trí tuệ, mà mình làm lụn bại trí tuệ thì có phải phản bội lại đạo giác ngộ không? Quí vị thấy một người uống rượu say lè nhè nói bậy, mọi người chung quanh rất phiền. Chính bản thân người đó khổ, còn làm phiền những người chung quanh khổ nữa. Ngày nay giới uống rượu phải mở rộng thêm một chút nữa. Đó là không hút á phiện, xì ke, ma túy. Vì rượu còn nhẹ hơn á phiện, xì ke, ma túy. Thời Đức Phật chưa cấm vì không có, nhưng bây giờ có thì phải cấm thêm. Cấm thêm như vậy để đem lại sự an ổn cho cá nhân, gia đình, xã hội và đất nước.

Như vậy chỉ cần mỗi chúng ta giữ năm giới là đem lại hạnh phúc thật sự cho bản thân, cũng như láng giềng, xã hội đều được tốt đẹp. Một điều tốt đẹp lớn lao như thế mà chúng ta không quí trọng, không cố gắng thực hành, đó là một thiệt thòi. Chẳng những tốt đẹp trong hiện tại, mà còn tốt đẹp luôn cả vị lai. Người qui y Tam Bảo, giữ năm giới Phật gọi đó là tu Nhân thừa Phật giáo, tức giáo lý đưa một con người tốt sang một con người tốt hơn. Phật tử từ khi qui y trở về sau giữ tròn năm giới, khi bệnh nặng sắp mất, có người hỏi anh chị chết rồi đi về đâu, quí vị trả lời tôi sẽ trở lại làm người bằng hoặc tốt hơn bây giờ.

Phật dạy giữ giới không sát sanh, đời sau tuổi thọ dài. Giữ giới không trộm cướp, đời sau sanh ra có nhiều của cải. Giữ giới không tà dâm, đời sau sanh ra đẹp đẽ trang nghiêm. Giữ giới không nói dối, đời sau sanh ra nói năng lưu loát, nói ra ai cũng quí, cũng tin. Giữ giới không uống rượu, không hút á phiện, xì ke, ma túy, đời sau sanh ra trí tuệ sáng suốt. Năm điều đó có lợi ích thiết thực cho cuộc sống hiện tại và mai sau. Như vậy chúng ta còn tiếc gì không chịu qui y, không chịu thọ trì Ngũ giới.

Tôi đặt câu hỏi, nếu Phật tử hiện đời được sống lâu, có chút ít của…, quí vị muốn đời sau bằng như vậy hay thua, hay hơn? Ai cũng muốn hơn, đâu muốn thua. Nếu chúng ta giữ giới không sát sanh thì đời sau tuổi thọ dài, nhưng không giữ giới thứ hai là không trộm cắp, thì sống dai mà nghèo, quí vị chịu không? Sống dai mà không gạo ăn thì sống làm gì. Giữ giới thứ nhất, giới thứ hai luôn mới được sống dai và có của. Nhưng giới thứ ba không giữ thì giàu có, sống dai, nhưng sanh ra mặt mày xấu xí, không ai thèm ngó, quí vị chịu không? Chắc chán chết. Như vậy giới thứ ba cũng không thể thiếu được.

Tới thứ tư nếu chúng ta không giữ giới nói dối, đời sau sanh ra câm ngọng, quí vị chịu không? Được sống dai, có của, đẹp đẽ mà nói không được hoặc nói ngọng cũng không thể được. Như vậy giới thứ tư cũng phải giữ cho kỹ, để đời sau ăn nói lưu loát, mọi người tin tưởng, mới có giá trị.

Bây giờ được bốn giới rồi, còn giới chót là giới không uống rượu, không hút á phiện, xì ke, ma túy. Nếu chúng ta không giữ giới này thì sanh ra được sống dai, có của, đẹp đẽ, nói năng lưu loát, nhưng ngu ngốc học bài không thuộc, quí vị chịu không? Cũng không chịu. Cho nên phải giữ giới thứ năm không uống rượu, không hút á phiện, xì ke, ma túy.

Như vậy thiếu một giới là chưa đủ tư cách làm một người tốt. Ngay đời này chúng ta giữ năm giới là giữ tư cách một con người tốt, khi nhắm mắt trở lại chúng ta càng tốt hơn. Cho nên tu là đem lại niềm an vui cho mình, mà còn mang lại lợi ích cho rất nhiều người. Vì vậy, trong đạo Phật bắt buộc Phật tử tu phải giữ năm giới. Nhiều Phật tử bây giờ đi chùa lạy Phật, chớ không chịu giữ giới. Như vậy không thể gọi là tu, không đủ tư cách trở lại làm con người.

Chặng thứ nhất, Phật tử qui y Tam Bảo tránh được ba đường ác. Chặng thứ hai giữ năm giới thì thành con người tốt trong xã hội, một con người xứng đáng ở ngày mai. Phật tử làm tròn bổn phận của mình, lúc sắp nhắm mắt có sợ không? – Không sợ. Bởi vì xe cũ xấu, xe mới tốt hơn thì bỏ xe cũ để được xe mới, ta sẵn sàng bỏ, có gì sợ? Không sợ chết thì có gì đau khổ. Rõ ràng chúng ta tu đem lại sự an lạc trong cuộc sống hiện tại, cho tới giờ nhắm mắt cũng được bình an, không lo, không sợ gì hết. Thân này già yếu bệnh hoạn chưa đầy đủ phước, mình tu đời sau có phước hơn, đẹp đẽ hơn, có gì lo buồn. Bỏ cái xấu được cái tốt, nên vui vẻ. Người tu sống vui và chết cũng vui. Đó là nguồn an lạc thật sự mà ít ai để ý tới. Người ta cứ nghĩ qui y, thọ giới coi bộ ràng buộc quá, nên không muốn thọ. Như bên nam không cữ uống rượu là quí vị chấp nhận đời sau ngu hơn đời này rồi! Có ai muốn điều đó không? Chắc không ai muốn điều đó. Đã không muốn tại sao chúng ta lại làm?

Cuộc sống là cả một chuỗi dài để chúng ta sắp đặt cho cuộc sống mới. Nếu không khéo sắp đặt, bỏ thân này qua thân sau chúng ta càng khổ, càng lụy hơn. Cho nên người biết tu là người thông minh, sáng suốt, biết chọn lựa con đường đi. Ngay đời này, sống chúng ta không hổ thẹn với ai, không lo sợ điều gì, chết lại càng vui tươi hơn. Tu như vậy mới thật là tu.

Nhiều Phật tử than đi chùa lâu năm mà phiền não quá! Tại vì những vị ấy không hiểu lợi ích của sự tu, cứ cố chấp giành hơn, giành thua, người này châm biếm người kia, người kia nói xấu người nọ, như vậy đâu phải tu.

Phật tử qui y Tam Bảo thì tránh ba đường khổ, giữ năm giới thì được làm người tốt. Tới bước thứ ba là tu Thập thiện. Thập thiện là mười điều lành, trong kinh gọi là Thập thiện nghiệp đạo. Mười điều lành là con đường dẫn quí vị đi tới chỗ an vui. Phật tử muốn tiến từ bước thứ hai lên bước thứ ba, quí vị tu nhiều hơn về ba nghiệp. Thân không sát sanh, trộm cướp, tà dâm. Miệng chẳng những không nói dối thôi, mà còn nói những lời đầy đủ ý nghĩa, nói lời an vui cho mình và người. Ý không tham, không sân, không si. Tôi không dám nói không, chỉ bảo quí vị bớt tham, bớt sân, bớt si. Vì chúng ta mới bước đầu, còn tiến lên cõi trời, chớ chưa thành Thánh nên nói bớt.

Như vậy tu ba nghiệp là then chốt của sự an vui hay gốc của đau khổ? Người tham sẽ được vui hay sẽ khổ? Phật dạy tham là gốc của đau khổ. Đau khổ thế nào? Trước khi muốn được việc đó đã khổ, khi được muốn giữ cho còn cũng khổ, mất rồi càng khổ hơn. Ví dụ người tham danh muốn ra ứng cử làm Nghị sĩ. Trước khi vận động ứng cử có lo không? Phải chạy ngược chạy xuôi vận động cho người ta tin mình, lúc đó khổ rồi. Khi bầu cử mình lọt sổ thì khổ. Nếu được phước mình đậu, lúc đó mình vui. Nhưng vui được bao lâu? Nhiều lắm là bốn năm rồi cũng phải đổi. Lúc sửa soạn rớt có buồn không? – Buồn. Đó là tạm nêu một ví dụ thường, ngoài ra bao nhiêu chuyện khác nữa.

Lúc nào lòng tham cũng xúi giục con người được một đòi hai ba. Không khi nào được đầy đủ mà chúng ta cảm thấy ngang đây thỏa mãn, cứ đua đòi hoài. Bởi vậy Phật nói túi tham không đáy, đổ vô bao nhiêu cũng tuột xuống hết. Đã tham thì không lúc nào bình an, vì cứ muốn thêm nên cứ lo nghĩ. Vì vậy kinh Phật dạy: “Người ôm ấp lòng tham chẳng khác nào người khát nước mà uống nước muối.” Khát nước mà uống nước muối thì chừng nào đã khát? Nó không có ngày cùng. Nên biết tham là nhân của đau khổ.

Kế đến là nóng giận. Trong chúng ta có người nào không nóng giận? Không ai dám thừa nhận. Nóng giận tốt hay xấu? Ai cũng biết nóng giận là xấu, mà có chịu bỏ đâu. Người ta còn có những lý lẽ để bênh vực cho sự nóng giận của mình. Ví dụ ai nói hay làm gì trái, mình nổi nóng la hét người ta. Có người thấy vậy nói anh tu chút ít rồi, sao nóng quá vậy, mình liền bào chữa chuyện này đáng giận lắm. Ít ai nói tôi lỡ nóng nên rất hối hận, xin lỗi. Đa số bênh vực sự nóng giận của mình, không dám sám hối, xin lỗi người khác. Không dám xin lỗi tức là chưa thừa nhận cái nóng giận của mình là sai.

Là một con người tỉnh táo sáng suốt, khi nổi nóng lên chúng ta còn sáng suốt không? Những lời trong lúc bình thường không bao giờ mình nói, lúc đó nói. Những hành động trong lúc bình thường không bao giờ mình làm, lúc đó làm. Cho nên nóng giận là một hiện tượng điên cuồng chớ không phải sáng suốt. Điên cuồng ở gia đình thì gia đình khổ, điên cuồng ngoài xã hội thì xã hội khổ. Khi nóng giận là nóng giận với người nào làm trái ý mình. Mình cho điều đó đúng mà làm khác đi thì mình nổi nóng lên. Nhưng quí vị kiểm lại những gì mình nghĩ đều là chân lý chưa? Đã chưa phải chân lý mà bắt người khác phải theo, không theo liền nổi nóng, thật vô lý! Phải chi lời nói, suy nghĩ đó là chân lý không bao giờ thay đổi, người khác không nghe thì giận, cũng còn chấp nhận được. Đằng này nó có thể thay đổi, mà bắt người ta phải nghe, không nghe nổi nóng lên. Như vậy mình tốt hay xấu, hiền lành hay độc tài? Nếu trong gia đình ông độc tài, bà độc tài thì sao? Chắc nhà đó nổi lửa hoài, không thể nào yên ổn mát mẻ được. Cho nên nóng giận là một tai hại lớn cho bản thân, cho gia đình, gây ảnh hưởng không tốt đến xã hội.

Chúng ta tu giảm bớt lòng tham, giảm bớt nóng giận, có lợi cho ai? Bản thân mình có lợi lớn. Bởi vì bớt tham thì bớt khổ, bớt nóng giận thì không có những cái nhìn độc tài. Nhờ thế gia đình và mọi người đều được an vui, hòa thuận, láng giềng cũng vui theo. Đó là mới nói tham, sân.

Kế đến là si. Hiện giờ có ai dám cả gan chỉ mặt ông kia bà này, nói anh hay chị si mê quá không? Không ai dám, vì nói như vậy chắc rằng quí vị sẽ đón nhận những nắm tay cung vào mặt. Nhưng sự thật chúng ta có si mê không? Như có một tờ giấy trắng đưa lên trước mọi người, có người nói đây là giấy đen, quí vị nói người đó si mê, giấy trắng mà nói đen. Tất cả chúng ta ai cũng phản đối người nói sai sự thật là kẻ ngu si.

Thế thì hiện tại chúng ta có thấy đúng sự thật chưa? Như ngày mùng một Tết âm lịch, có người hàng xóm trang trọng lại thăm rồi chúc Tết cho mình: “chúc ông bà hết năm nay chết”, lúc đó quí vị nghĩ sao? Chắc là cung tay đánh đuổi ra khỏi nhà liền. Chúc như vậy cũng còn lương thiện hơn ông Phật. Ông Phật nói mạng người chỉ trong hơi thở, thở khì ra không hít lại là chết. Người nói sống một năm là dài mà mình còn nổi giận. Phật nói chỉ thở ra không hít vào là chết, quí vị nghĩ sao? Có buồn trách Phật không? Rõ ràng chúng ta không dám nhận ra lẽ thật. Lý đáng nghe chúc anh chị cuối năm chết cười vui vẻ. Mình sẽ cảm ơn quí vị chúc như vậy tôi mừng lắm, vì còn sống dai hơn Phật một chút. Đó là một lẽ thật mà lâu nay không ai dám nhận.

Một chuyện nữa. Quí vị thường ngày ăn mặc tương đối tươm tất. Nhưng đi ngang người nào nói chị hôi quá, lúc đó vui không? Chắc nổi tức lên. Người ta ăn mặc như vậy mà chê hôi. Thật tình mình cũng biết mình hôi, bởi hôi nên xức dầu thơm cho bớt hôi. Nếu không biết hôi, sắm những thứ đó làm chi cho tốn tiền. Biết mình hôi mà người ta nói hôi không chịu, có si mê không? Nói hôi là nhẹ lắm, Phật còn nói đãy da thúi nữa kìa, mình có dám giận Phật không?

Chúng ta không dám nhận lẽ thật, như vậy có phải si mê không? Hôi mà muốn người ta khen thơm, thở ra không hít vào là chết mà muốn người ta chúc sống dai. Cho nên rồi con người sống lừa bịp nhau. Như vậy mới thấy gốc si mê của con người rất sâu nặng mà họ không biết. Cứ sống với ảo giác, ảo tưởng rồi gạt nhau mãi. Từ không hiểu lẽ thật chúng ta đâm ra không vui, không bằng lòng những gì người ta nói trái với ảo tưởng của mình. Người không dám nhận lẽ thật, gọi là si mê. Sao chúng ta lại si mê như vậy? Bây giờ có ai nói chị si mê quá, mình chịu không? Nghe thế, quí vị nên nói “phải, tôi còn mê lầm nhiều chuyện lắm”. Nói như vậy thì gan biết mấy. Còn nghe người ta nói si mê, nổi giận lên muốn đánh người ta, đó là càng thêm si mê.

Quí vị kiểm lại cuộc sống của chúng ta hiện giờ si mê nhiều ít? Tu theo đạo Phật, đức Phật không cho si mê. Phật dạy phải tỉnh giác, không được si mê. Nếu tỉnh giác chúng ta mới gỡ được si mê. Gỡ được si mê là thoát mọi đau khổ. Con người vì si mê mà phải chịu đau khổ triền miên. Bây giờ muốn hết si mê phải làm sao sáng suốt, nhìn đúng như thật tất cả những sự vật chung quanh mình.

Trong kinh Phật dạy quán thân này nhơ nhớp bất tịnh. Tại sao phải quán nhơ nhớp bất tịnh? Bởi vì ta tưởng mình đẹp quí, tưởng mình hơn thiên hạ nên sanh tâm ngạo mạn, đắm mê theo hình dáng bên ngoài. Phật bắt chúng ta phải nhìn sâu, nhìn thật kỹ bản thân mình ra sao. Thấy đúng như thật rồi sẽ không còn ngã mạn nữa, ai chê hôi mình không giận. Thấy được lẽ thật, tất nhiên những sai lầm không còn lôi kéo chúng ta được. Vì vậy người tu nên quán thân bất tịnh để thấy đúng như thật từ con người mình cho tới mọi vật bên ngoài. Muốn thấy như vậy chúng ta phải can đảm nhìn thẳng, không nên dùng những tưởng tượng để che đậy. Khi si mê thì bao nhiêu tội lỗi, sai lầm dồn tới. Nếu hết si mê thì hết sai lầm, hết sai lầm thì hết tội lỗi.

Ví dụ biết thân là nhớp nhúa, quí vị có đòi hỏi trang sức cho đẹp, đòi hỏi mọi thứ nhu cầu quan trọng cho nó không? Không đòi hỏi thì đơn giản, nhẹ nhàng, khỏe khoắn. Còn người quá tưởng tượng thân mình đẹp quí nên đòi hỏi đủ thứ, nào việc ăn mặc cho tới trang sức, đều muốn hơn người ta. Rốt cuộc khi nhắm mắt thì sao? Lúc sống ai chê hôi nhớp giận người ta, tới chừng nhắm mắt để trong phòng năm bảy ngày không chôn, thiên hạ bịt mũi sao không giận đi? Nếu thật nó tốt đẹp, thì lúc sống thế nào, chết cũng thế ấy. Chết rồi tồi tệ như vậy, cho nên chúng ta  phải thấy rõ bản chất của nó là bất tịnh.

Chúng ta thấy từng bước tu theo đạo Phật là từng bước vươn lên, tìm đến chỗ an vui, cao cả, chớ không phải tầm thường. Càng tu càng vui, càng thấy chung quanh mình đều là những người đáng thương, đáng giúp đỡ. Tại sao? Vì họ si mê quá nên mình thương, muốn giúp đỡ. Đó là nảy sanh lòng từ bi.

Trên đường tu Phật tử tiến lên từng bước, từ thọ Tam qui, giữ năm giới, tới tu Thập thiện, đó là còn tu trong vòng luân hồi. Nhưng luân hồi trong con đường tốt hơn, sung sướng hơn những người không biết tu. Nếu quí vị muốn tốt hơn nữa, muốn vui đẹp hơn nữa thì phải làm sao? Bước qua chặng này, hơi xa xôi một chút. Quí vị muốn được tốt hơn nữa, nếu tu Tịnh độ thì phải niệm Phật nhất tâm. Nhất tâm rồi sẽ về Cực Lạc đẹp hơn cõi trời, sống lâu hơn cõi trời, tất cả đều hơn.

Nhưng có những người muốn tiến lên mà không niệm Phật thì phải làm gì? Phải tu thiền. Tu thiền mới nhìn có vẻ buồn hơn, về Cực Lạc cảnh đẹp vui, cái gì cũng thích. Tu thiền phải dùng trí tuệ quán chiếu, thấy đúng như thật. Tới được chỗ cứu kính là tới Niết-bàn. Niết-bàn là giải thoát sanh tử. Đó là chỗ của người tu thiền tiến tới.

Nếu nói theo thiền Tổ sư thì người tu nhận và sống được Tự tánh mình gọi là giác ngộ giải thoát. Nói giải thoát là ra khỏi vòng sanh tử trong sáu đường. Ra khỏi đó gọi là vô sanh, là giải thoát, là Niết-bàn. Chúng ta có thể làm được điều đó không? Có thể tu được giải thoát sanh tử không? Điều này hơi khó. Quí vị biết gốc của sanh tử là gì không? Chúng ta cứ ngỡ rằng sanh tử ở đâu đến, mình không biết đầu đuôi gốc ngọn của nó. Nhưng sự thật Phật dạy rõ lắm.

Chúng ta bị sanh tử luân hồi tiếp nối do tâm hơn thua, phải quấy, tốt xấu, thương ghét v.v… những tâm đó là mầm để đi trong luân hồi không dứt. Như mình thương ai có muốn gặp lại không? Thương thì muốn gặp lại. Mà ta thương nhiều người hay ít người? Ít nhất là cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc… thương nhiều quá. Như vậy tất nhiên phải tìm gặp lại nhau, đó là nhân của luân hồi. Ghét cũng là nhân đi trong luân hồi. Sao ghét lại luân hồi? Cứ nhìn trong tâm, chúng ta sẽ thấy rõ. Khi ngồi yên tĩnh, mình nhớ ai nhiều? Nhớ người thương mà cũng nhớ người ghét, chỉ có người không thương không ghét thì không nhớ thôi. Còn thương, còn ghét là còn nhớ. Nhớ tức đã ăn sâu trong tâm rồi, nên nhắm mắt những hình ảnh ấy dẫn mình tìm gặp lại nhau.

Gốc luân hồi sanh tử từ tâm thương ghét mà ra, chớ không có gì lạ. Bây giờ dẹp hết mấy tâm đó thì sao? Thì nhẹ nhàng. Bởi vậy đức Phật rất đầy đủ phương tiện, muốn chúng sanh bớt khổ, Ngài diễn tả cảnh Cực Lạc tuyệt vời, rốt cuộc bảo làm sao? Ráng niệm Phật đi. Niệm Phật chừng nào được nhất tâm bất loạn từ một ngày đến bảy ngày, Phật rước về ở bên ấy sung sướng lắm. Nhưng nhất tâm bất loạn thì còn mầm thương ghét không? Không còn mầm thương ghét, lúc đó giả sử Phật quên rước, mình cũng giải thoát sanh tử rồi. Điểm kỳ đặc trong đạo Phật là thế. Đức Phật khéo tùy trình độ, tùy căn cơ mà giáo hóa chúng sanh, đưa họ cùng đến chỗ an vui vĩnh viễn.

Người tu thiền phải tu thế nào, cửa vào thiền là cửa gì? Lâu nay chúng ta nghe nói cửa thiền là cửa không. Quí vị tụng Bát-nhã nhớ Phật dạy, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, cho tới pháp Tứ đế, Mười hai nhân duyên cũng không, không có Bồ-đề, Niết-bàn, không cả chứng đắc. Vậy không là gì mà chúng ta phải lấy đó làm cửa bước vào? Lâu nay con người cứ cho thân này thật, muôn sự muôn vật đều thật nên mê chấp khổ đau. Bây giờ nhìn vào thân thấy nó do đất, nước, gió, lửa tụ hợp lại thành, không có chủ thể riêng biệt. Cái nhà cũng thế, tự nó không có, phải tập hợp vật liệu nào cát, xi măng, gỗ, đá… đủ thứ kết hợp lại mới thành cái nhà. Tất cả pháp thế gian bản chất nó là không, đủ duyên hợp mới có. Do đủ duyên hợp mới có, nên có là có trên giả tướng, chớ thật tánh nó vốn không. Vì vậy Phật dạy chiếu kiến ngũ uẩn đều không. Nếu chiếu kiến ngũ uẩn đều không thì qua hết các khổ nạn. Hết sức đơn giản. Tánh không duyên hợp giả có, đã là giả thì còn mất là sự thường, không quan trọng. Như vậy dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu, chúng ta bớt mê lầm nên bớt khổ rất nhiều.

Nhìn bằng con mắt trí tuệ nên không còn chấp thân thật, cảnh thật, nhờ thế tâm yên. Ngày nay chúng ta buồn thương giận ghét là do chấp thật, khen thật nên được khen cười, chê thật nên bị chê quạu. Rõ ràng lời nói không thật, qua rồi như gió qua tai kiếm lại không được. Vậy mà khen thì chịu, chê lại giận buồn. Đó là chúng ta sống với ảo tưởng hư giả.

Ví dụ người mặt mày đen đúa xấu xí, chợt có ai khen chị đẹp quá, thật là dễ thương, khi ấy người được khen dám tát tai kẻ khen không? Bản thân xấu trăm phần trăm, mà nghe khen cũng vui mừng. Nếu người hơi dễ coi một chút, gặp ai nói chị xấu quá, liền nổi giận đùng đùng, có thể tát tai người chê. Như vậy người khen không đúng sự thật mình chịu, người chê trái sự thật mình giận. Có phải chúng ta bị kẹt trong ảo tưởng không?

Các nhà tâm lý học dạy muốn được lòng người, khi bước vô nhà thấy cái bàn cũng khen, cái bàn này đẹp quá, thấy cái tủ cũng khen, cái tủ này quí quá… khen một hồi chủ nhà nở lỗ mũi nên họ ưa thích mình. Ngược lại, bước vô nhà thấy cái gì cũng chê xấu xí, chắc chủ nhà không cho mình uống nước. Rõ ràng con người bị lệ thuộc vào khen chê. Do lệ thuộc như thế nên chúng ta sống trong ảo tưởng, không có lẽ thật thành ra khổ hoài.

Phật chỉ cho chúng ta thấy lẽ thật. Mỗi sự vật không có tự thể, duyên hợp tạm có. Biết nó giả nên không quyến luyến, cũng không bực bội. Từ trí tuệ quán chiếu chúng ta không còn bị khổ lụy trong thương ghét thế gian. Do đó tâm dễ an. Tâm an thì mầm sanh tử theo đó hết, vào Niết-bàn vĩnh viễn an vui.

Phật dạy chúng ta tu là để đi tới hết tâm hơn thua, phải quấy, buồn thương, giận ghét. Vì nó là mầm dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Ai dẹp được mấy tâm đó thì ra khỏi sanh tử. Như vậy gốc đức Phật dạy tất cả đều từ tâm mình. Tu cốt làm sao tâm phải yên, phải lặng. Tâm lặng gọi là định, là nhất tâm. Nhưng tâm lặng còn mình không? Mình ra sao? Đa số chúng ta bị một mê lầm lớn, là bỏ quên cái chân thật, chạy theo cái giả dối hoài. Cho nên kinh Pháp Hoa dụ chàng cùng tử có cha mẹ giàu sang lại không chịu ở, bỏ đi lang thang khổ sở. Khổ đáo để chịu hết nổi quay đầu trở về tìm cha mẹ. Khi tìm được rồi không dám nhận mình là con Trưởng giả, chỉ xin làm kẻ làm thuê. Đức Phật diễn tả tâm trạng si mê của chúng ta cũng thế, quên cái thật đuổi theo cái hư ảo, nên đau khổ vô cùng vô tận.

Cái thật hiện giờ trong chúng ta có người nào thiếu đâu. Khi quí vị ngồi chơi một cách bình tĩnh, trong đầu không có một ý niệm nào, lúc đó có mình không? – Có. Khi khởi nghĩ chuyện này chuyện kia, lúc đó có mình không? Chỗ này mới khó trả lời. Chúng ta thường tưởng lúc đó có mình nhưng thật ra lúc đó lại mất mình.

Tất cả chúng ta đều có lầm lẫn lớn, cứ cho cái suy nghĩ là mình. Suy nghĩ hay dở, tốt xấu gì cũng mình hết. Nếu cái nghĩ đó là mình thì khi hết nghĩ mình cũng hết sao? Không phải vậy. Lúc ngồi lặng lẽ tỉnh táo không suy nghĩ gì hết, mình vẫn hiện tiền, vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn biết. Cái đang thấy, đang nghe, đang biết đó là mình, còn cái suy nghĩ lung tung kia không phải mình. Nhưng chúng ta cứ nhận cái hư dối là mình, trăm người như một. Có phải mê quá không?

Chúng ta nhận những ý niệm hơn thua phải quấy tốt xấu là tâm mình, nên Tâm chân thật bị ẩn khuất. Bây giờ ta buông bỏ hơn thua, phải quấy thì Tâm chân thật hiện ra. Niệm hơn thua, phải quấy là tướng sanh diệt tạm bợ, nhìn lại nó mất mà chấp là tâm mình. Nói chuyện với ai, làm gì cũng nói tâm tôi thế đó, cứ lầm chấp như vậy. Cho nên Phật bảo chúng ta mê muội, đáng thương!

Bây giờ tu là gì? Là đừng lệ thuộc cái hư dối nữa, sống lại với cái chân thật. Trở lại cái chân thật thì hết tạo nghiệp, hết luân hồi. Cái chân thật không hình tướng, làm sao có sanh diệt. Còn tâm lăng xăng là gốc sanh diệt, đang mừng liền buồn, đang thương thành ghét. Cái hằng thấy, hằng biết không buồn thương giận ghét nên không khổ.

Chúng ta tu để đi đến chỗ cứu kính chân thật. Cứu kính chân thật từ bên ngoài đến hay trong nhà ra? Kinh Bát-nhã nói: “Vì không có chỗ được nên Bồ-tát xa rời khủng bố, điên đảo chứng Niết-bàn. Chư Phật cũng nương Bát-nhã đó mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Như vậy bỏ hết tất cả cái được, không có sở đắc, sẽ được Niết-bàn. Quí vị thấy mâu thuẫn không? Nếu không có cái gì được, làm sao được nữa. Nhưng thật ra chúng ta quen thói làm gì cũng muốn được. Tu phải đắc phải chứng, thành ra chẳng được gì cả.

Như chúng ta đi thấy món đồ đẹp rơi dưới đất, lượm bỏ vô túi, nói tôi lượm được món đồ quí. Được món đồ quí vì nó ở ngoài mình. Nếu món đồ quí trong túi mà ta quên, lâu lâu sờ gặp thì không nói được, mà nói nó sẵn đây nè. Chư Phật thấy rõ chúng ta sẵn có cái chân thật mà quên, chạy theo những cái bên ngoài. Bây giờ bỏ hết tất cả cái được ở ngoài, chừng đó chúng ta mới nhận lại cái chân thật của chính mình. Việc tu siêu thoát như vậy chớ không phải thường.

Lục tổ Huệ Năng khi bị các đệ tử của Ngũ Tổ đuổi theo giành y bát lại, Ngài để nó trên tảng đá, rồi chui vào lùm cây. Đến khi Thượng tọa Minh chạy tới lấy lên không nổi, mới gọi Ngài: “Hành giả, hành giả! Tôi đến đây vì pháp chớ không phải vì y bát.” Lục Tổ từ trong bụi chui ra thong thả bảo: “Nếu ông vì pháp thì đứng yên lặng ta sẽ nói cho nghe.” Thượng tọa Minh đứng yên lặng, Ngài nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Ngay câu này Thượng tọa Minh liền ngộ. Nghĩ thiện nghĩ ác là hai bên, tâm không còn hai bên thì cái chân thật hiện ra, đơn giản thật là đơn giản.

Bài pháp này thấy không có gì xa lạ với chúng ta. Rất tiếc tại mình quá mê, không bỏ được cái giả nên đành chôn vùi cái thật. Chúng ta tu từ những bước thấp cho tới bước tuyệt đỉnh, đó là việc làm thực tế hay viển vông? – Quá thực tế. Tu thấp thì có lợi ích thấp, tu cao có lợi ích cao, tuyệt cao thì có lợi ích tuyệt cao. Chúng ta tu để trở về cái chân thật có sẵn của mình, chớ đâu phải chuyện ở trên trời trên mây. Trở về được là người giác ngộ, hết mê. Như vậy trên đường tu chúng ta bước được bước nào cũng đều hữu ích, đều có lợi lạc, càng cao thì lợi lạc càng lớn, càng sâu dày.

Chúng ta có duyên gặp được Phật pháp tu hành, đó là phước lớn nhiều đời chớ không phải chuyện thường. Người nào biết được đạo lý này, hiểu được giá trị của sự tu thì chắc rằng không ai không cố gắng. Việc tu hành không ở đâu xa, không có gì huyền hoặc cả, mà rất cụ thể, chân thật. Nếu chúng ta chịu khó phăng tìm, sẽ bươi ra được hòn ngọc quí của mình.

Mong tất cả quí vị can đảm, cái gì si mê hư giả thì loại ra, đừng nuôi dưỡng. Phải cố gắng trở về được cái chân thật của chính mình, để khỏi uổng đi một đời tu. Đó là mục đích của đức Phật ra đời, cũng là mục tiêu tất cả chúng ta nhắm tới.

∗ BẢN NGÃ LÀ GỐC CỦA KHỔ ĐAU

Thường Chiếu – 1990

Hôm nay nhân ngày rằm tháng giêng tức là ngày lễ Thượng ngươn, Phật tử tụ hội về đây lễ Phật nghe pháp. Chúng tôi sẽ giải thích cho quí Phật tử biết được ý nghĩa tu hành. Đề tài giảng hôm nay Bản ngã là gốc của khổ đau, là bất công.

Tất cả chúng ta dù lớn, dù nhỏ có mặt trên trần gian này, ai cũng thấy bản ngã của mình là quan trọng, cho là cái rún của vũ trụ, nên muốn mọi người đều quí trọng, đều hướng về mình, còn mình lại coi thường mọi người. Đó là một bệnh hết sức lớn. Bởi vậy trong nhà Phật luôn luôn phá chấp ngã. Nếu còn chấp ngã nặng thì chẳng những đối với chân lý, với lẽ thật mình không thấy, không biết mà đối với mọi người chung quanh ta đặt ra nhiều điều bất công, sai lầm khiến cho người, vật sẽ khổ đau vì mình.

Chấp ngã được thể hiện qua nhiều trường hợp. Trước hết là trường hợp đối với thiên nhiên. Con người luôn thấy thiên nhiên lệ thuộc hay hướng về mình. Tôi nhớ cách đây hơn mười năm ở Tu viện Chân Không, một hôm trời mưa mịt mù, chú Thị giả đem cơm lên, tôi hỏi:

– Đố chú mưa để làm gì?

Chú thưa:

– Thưa Thầy mưa để người ta làm ruộng.

Tôi cười nói:

– Ngoài biển có ai làm ruộng đâu mà sao cứ mưa?

Chú bí trả lời không được. Qua câu chuyện nhỏ xíu nhưng rất gần với chúng ta. Con người thường nghĩ trời mưa để mình làm ruộng, trời nắng để mình phơi lúa, tất cả mọi thứ đều để cho mình hết. Vì vậy khi làm ruộng gặp hạn liền kêu trời. Ngược lại khi phơi lúa gặp mưa, mình cũng nổi giận kêu trời nữa, bởi vì ông trời không theo ý mình. Từ chấp ngã nhiều người cuồng dại nói bậy nói càn, cho là trời bất công, trời thế này, thế nọ, vì không chiều theo công ăn việc làm của mình, không chiều theo ý muốn của mình. Được như ý thì chúng ta vui, trái ý thì chúng ta tức giận. Nhiều người ở quê, khi đang phơi lúa bỗng có một cơn mưa ập tới, họ tức quá cự lộn với ông trời. Chúng ta là cái gì mà bắt trời đất vì chúng ta. Thử tưởng tượng cái ngã mình chừng bao lớn? To vô kể. Cho nên bắt cả trời đất thiên nhiên đều phải hướng về mình, muốn cái gì trời đất cũng phải chiều theo mình. Bởi ngã quá to nên không thấy được lẽ thật, đó là tôi nói về thiên nhiên.

Bây giờ nói tới mọi vật. Bởi quen chấp ngã nên con vật nào chúng ta nuôi, cũng đều bắt nó phải làm bổn phận cho mình. Ví dụ có người nuôi chó, hỏi nuôi chó để làm gì? Để giữ nhà. Có người nuôi gà trống, hỏi nuôi gà trống để làm gì? Để nó báo thức. Nói nuôi chó để giữ nhà, nhưng sự thật con chó có ký hợp đồng với mình là mình nuôi nó, lớn lên nó sẽ giữ nhà cho mình đâu. Nó không biết gì hết. Cho ăn thì nó cứ ăn, lớn lên nó có thói quen thấy người lạ là sủa, chớ không nghĩ giữ nhà cho ai hết. Chúng ta nói con chó giữ nhà cho mình, nhưng thưa quí vị, nhà mình thì mình giữ, chớ con chó đâu có bổn phận đó? Vậy mà đêm nào ăn trộm vô lấy đồ, con chó ngủ quên không sủa, sáng ra mình vác cây đập nó. Của mình, mình không chịu giữ, tại sao không đập mình, lại đập con chó. Có vô lý không?

Ở nhà quê không có đồng hồ báo thức, tới bốn năm giờ sáng, mấy con gà không chịu gáy cũng muốn đập nó. Bữa nay tại nó không gáy nên mình ngủ quên. Tại sao mình có quyền ngủ quên, mà con gà không có quyền ngủ quên. Khi đó nên giận mình hay giận con gà? Con người quả thật bất công, chỉ thấy cái ngã của mình là trên hết. Vì bản ngã che khuất nên không có nhận định nào đúng lẽ thật. Đó là nói những con vật chúng ta nuôi.

Bây giờ tới những con vật không do mình nuôi, như cá, tôm, gà, vịt… Những con đó khi bắt để ăn thịt, người ta bảo nó là vật dưỡng nhân, trời sanh ra cho mình ăn. Song thật ra nó có đồng ý nuôi mình không? Điều đó chắc không có. Ví dụ con cá khi bị bắt làm thịt, nó có giãy giụa không? Giãy giụa nhưng không thoát nổi tay mình nên nó phải chịu chết. Tất cả con vật ấy không phải dành cho loài người ăn, vì sao mình ăn nó? Chẳng qua vì nhu cầu, đòi hỏi nên mình làm như vậy, chớ có ai sanh nó ra cho loài người ăn đâu.

Nếu đặt ngược lại với câu “vật dưỡng nhân” là “nhân dưỡng vật” chúng ta chịu không? Không ai chịu. Như con muỗi nhỏ xíu, nó chích mình hút một chút máu để sống, nó cũng nghĩ là “nhân dưỡng vật” được không? Con người đối xử với nó thế nào? Đập một cái nát thây. Nếu “nhân dưỡng vật” thì lẽ ra con người để nó hút máu, chớ tại sao đập nó? Nếu không có chuyện “nhân dưỡng vật”, thì cũng không thể có chuyện “vật dưỡng nhân”. Chỉ vì loài vật nhỏ quá, cự không nổi con người, nên phải đành chịu chết dưới tay con người. Nếu ta vào rừng gặp cọp, xuống biển gặp cá mập, lúc đó chúng nghĩ làm sao? Gặp mồi thì chụp ăn, chớ không nghĩ gì hết. Rõ ràng mạnh được yếu thua, không loài nào chấp nhận dưỡng loài nào cả.

Nếu những loài vật nhỏ hơn con người cãi được, nó sẽ kiện mình ra tới toà án quốc tế, phải không? Vì bất công quá mà, có bao giờ nó chấp nhận sanh ra cho mình ăn đâu. Con người tự đặt chuyện như vậy để ăn thịt chúng sanh. Ăn một cách ngon lành, không chút hối hận. Khi đói mình bắt một con vật khác để ăn, phải hiểu rõ đây là do sức mạnh ta đàn áp nó, chớ không phải nó sẵn sàng nuôi mình. Nghĩ như vậy, nếu thấy không cần thiết, chúng ta không làm việc ấy, hoặc chính khi ăn, mình cũng có tâm thương, quí tiếc sanh mạng của các con vật ấy. Như vậy ý nghĩa “vật dưỡng nhân” không phải là chân lý, không phải là lẽ thật, do con người cưỡng đặt ra mà thôi. Vì bản ngã mà mình đặt ra những điều vô lý. Đó là nói bản ngã đối với thiên nhiên và các con vật.

Kế đến là đối với con người. Vì bản ngã của con người quá to, nên người nào được thế lực sẽ đặt ra nhiều điều kiện bất công đối với những người khác. Như hồi xưa ở Ấn Độ trước thời Phật ra đời, giai cấp Bà-la-môn đặt ra luật Manou. Theo luật này dòng Bà-la-môn tức tu sĩ là trên hết. Kế đến dòng thứ hai là Sát-đế-lợi, tức giai cấp võ sĩ, làm vua làm quan. Dòng thứ ba là Phệ-xá tức giai cấp công nông, làm ruộng, làm thợ thuyền. Cuối cùng là dòng Thủ-đà-la, giai cấp hạ tiện, tức dân nô lệ thấp kém nhất trong xã hội. Giai cấp này đi tới đâu phải rung chuông để cho các giai cấp trên tránh, vì họ sợ nhìn phải dòng Thủ-đà-la sẽ nhớp nhúa tới mắt họ.

Như vậy luật này do ai đặt ra? Có phải do những người khôn ngoan, có thế lực tự đặt ra để họ thụ hưởng không? Họ bắt những giai cấp khác nuôi dưỡng, cung kính, thờ phụng mình. Vì cái gì mà bày ra như vậy? – Vì bản ngã. Họ muốn thụ hưởng và có thế lực trong tay, nên đặt ra những điều bất công như vậy. Rõ ràng mọi bất công đó là vì căn cứ trên bản ngã. Muốn sung sướng, muốn được thụ hưởng lâu dài nên người ta đặt ra những luật lệ để những kẻ yếu thế hơn phục vụ, cung kính họ.

Thời phong kiến quân chủ, mấy ông vua tự xưng là Thiên tử. Thiên tử là gì? Là con trời. Vì trời sanh ra muôn vật nên trời trên hết, nhà vua là con trời, muốn giết ai thì giết, muốn phong ai làm quan thì phong, muốn hạ ai thì hạ, không ai có quyền ngăn cản, không ai có quyền làm trái lại. Tự tôn mình là Thiên tử là vì bản ngã. Ở ngôi vị cao, có quyền lực họ tự đặt ra như vậy rồi bắt mọi người phải tuân phục theo họ. Đó là cái lẽ mà thế gian đặt ra để đánh lừa nhau, tất cả toàn là bản ngã. Luật lệ bất công như vậy làm khổ cho giai cấp thấp, không ai dám kêu rêu, than thở. Đó là tôi nói do chấp ngã mà con người gây ra sự bất công đau khổ cho nhau.

Như vậy quan niệm đó đúng hay sai? Từ chấp ngã con người có những quan niệm sai lầm. Bây giờ muốn phá mê lầm đó, muốn bỏ chấp ngã chúng ta phải làm sao? Đức Phật dạy chúng ta phải ứng dụng theo lý nhân duyên. Vì từ thiên nhiên cho tới muôn vật trên thế gian đều tùy thuộc vào lý nhân duyên. Nếu hiểu thấu được lý nhân duyên, chúng ta sẽ không còn chấp ngã nữa.

Trở lại ví dụ ban đầu. Như nói mưa để làm ruộng thì ở biển đâu có ruộng, tại sao vẫn cứ mưa? Chẳng qua tại nhân duyên đầy đủ, có hơi nước gặp khí lạnh tụ lại thành mây, rơi xuống làm mưa. Bất cứ chỗ nào có đủ nhân duyên như thế thì có mưa, không phải đợi chỗ này làm ruộng mới mưa, chỗ kia không làm ruộng thì không mưa. Rõ ràng đức Phật chỉ cho chúng ta thấy lý nhân duyên là một lẽ thật. Lẽ thật đó công bằng, thực tế, không vì bản ngã cá nhân nào hết. Nếu chúng ta hiểu được lý nhân duyên thì chúng ta nhìn sự vật ở giữa đời này, từ thiên nhiên cho đến con vật, con người đều là nằm trong lý nhân duyên.

Con người luôn thấy mình thật, thấy mình là một nên chấp ngã. Nhưng với lý nhân duyên của đạo Phật, con người không thật, không phải một. Tại sao? Nếu là thật nó không đợi tụ hợp đủ duyên mới thành. Bởi không thật nên khi duyên tụ thì nó thành, duyên tán thì nó hoại. Duyên hợp có ta, duyên ly tán ta mất. Như vậy cái ta này thuộc về duyên, làm sao nói thật được.

Như cái nhà này với con mắt phàm tục thì nói nó thật. Nhưng dùng con mắt Trí tuệ Bát-nhã, phân tích theo lý nhân duyên, chúng ta sẽ thấy nó chẳng qua là một mớ duyên hợp. Từng tấm tôn, từng cục gạch, từng hạt cát, từng miếng xi măng…  kết hợp lại thành. Như vậy cái nhà không tự có mà do duyên hợp, khi phân tích ra tìm cái nhà thật không có. Nhưng vì ta quen nhìn theo con mắt phàm tục nên thấy cái gì cũng thật hết. Nếu dùng con mắt trí tuệ quan sát thì không có cái gì thật.

Trong kinh Trung A-hàm, Phật nói “người thấy được nhân duyên là thấy pháp”, có chỗ khác lại nói “thấy được nhân duyên là thấy đạo”. Đạo là chân lý, thấy được lý nhân duyên là thấy được chánh pháp, thấy được lý nhân duyên là thấy được chân lý. Muôn vật do nhân duyên sanh mà chúng ta không thấy, không biết, đặt nó thế này thế kia, để rồi sống một cách mù quáng, bất công. Giờ đây chúng ta biết tất cả đều là nhân duyên, không có gì cố định hết. Nhiều người thắc mắc, nếu tất cả do duyên sanh không thật, thì sống ở giữa đời này làm sao vui được? Thấy thân không thật chán chết, còn làm gì được nữa. Thôi thì ngồi tréo cẳng nhịp đùi thổi sáo chơi, chờ tới ngày chết. Hoặc cứ buồn dàu dàu hoài. Đó là hiểu nhân duyên một cách nông cạn.

Nhà Phật nói lý nhân duyên là nói lẽ thật. Lẽ thật ấy sẽ đưa chúng ta tới một lợi ích lớn lao. Ví dụ như có một thau nước, nó không mãi mãi là nước mà sẽ đổi thay tùy theo hoàn cảnh, tùy theo nhân duyên. Nếu thau nước để với nhiệt độ trung bình, thì trước sau nó vẫn là nước. Nếu chúng ta muốn nước bốc thành hơi thì phải tạo duyên nóng để nó bay lên, tức phải nổi lửa đốt cho nó bốc hơi. Như vậy từ một thau nước có thể biến thành hơi. Rồi chúng ta muốn nước nó thành khối thì phải làm lạnh, bằng cách để nó vào tủ lạnh, nó sẽ thành khối nước đá. Rõ ràng thau nước ấy không cố định là nước mãi mãi. Nó tùy duyên khi ở thể lỏng, khi ở thể hơi, khi ở thể đặc.

Hiểu được lý nhân duyên rồi, chúng ta là chủ tạo điều kiện cho mọi vật theo ý muốn của mình. Do đó nhà Phật nói chúng ta có thể chuyển nghiệp xấu thành tốt, chính là nhờ lý nhân duyên này. Chúng ta có thể biến mình từ một con người tầm thường trở thành cao thượng. Ngược lại cũng có thể biến mình từ một con người tốt đẹp thành con người sa đọa. Muốn thành người cao thượng, chúng ta phải gần thầy lành, bạn tốt, gần những vị tu hành, có lời nói hiền lành, cuộc sống thanh tịnh. Nếu muốn thành người xấu, thì chơi với mấy người ghiền xì ke ma tuý, những kẻ trộm cắp, người trà đình, tửu điếm. Con người nếu tạo duyên tốt thì tiến lên tốt, tạo duyên xấu thì lùi xuống xấu.

Hiểu được lý nhân duyên ta mới cố gắng vươn lên, không hiểu lý nhân duyên chúng ta sẽ không thể tự cải thiện đời sống của mình, vì nghĩ việc gì cũng do trời Phật sắp đặt. Từ đó chúng ta có bệnh yếu đuối nhu nhược, chỉ biết nương tựa bên ngoài, mà không biết phấn đấu vươn lên. Ngoài ra hiểu được lý nhân duyên, chúng ta không còn chấp ngã cuồng dại. Trái lại chúng ta có quyền lực tạo dựng cuộc sống cho chính mình, tạo dựng theo sở nguyện của mình. Bởi vậy người thấy được lý nhân duyên, ứng dụng vào cuộc sống rất công bằng, rất hợp lý.

Hiện nay các nhà khoa học chế biến được những máy móc tinh vi hay đồ dùng đẹp đẽ, đều ứng dụng lý nhân duyên. Đó là lẽ thật. Vì như tất cả chúng ta đều biết khi phân tích con người, ai cũng hiểu thân này do bốn thứ đất, nước, gió, lửa hợp thành. Nếu nhìn theo y học bây giờ, con người có thể phân tích ra thành rất nhiều chất. Thiếu những chất ấy thân này sẽ sanh bệnh. Vì thế khi biết thân mình thiếu chất gì người ta bồi bổ thêm chất ấy. Phân tích cho tới cuối cùng, con người có trăm ngàn muôn ức tế bào. Những tế bào đó có chức năng riêng, mỗi thứ đều có công việc riêng của nó. Tìm cho thật kỹ, con người có phải là một không? Không phải là một, cũng không phải cố định. Bởi không phải một, không phải cố định nên Phật nói vô ngã. Vô ngã là không có cái Ta chủ, chỉ có duyên hợp, nên cái Ta này luôn chuyển biến.

Như quí Phật tử muốn đời này mình là người tốt, đời sau tốt hơn, được lên thiên đường thì sao? Phải giữ năm giới hoặc tu Thập thiện. Cũng như một người đang yếu, nếu yếu nữa là bệnh, bây giờ người muốn trở thành mạnh, họ phải làm sao? Phải bồi bổ. Nếu đang yếu vừa phải, không bổ dưỡng mà còn sử dụng thân quá sức, tới lúc kiệt quệ, không còn dùng nó được nữa. Rõ ràng, chúng ta thêm duyên tốt thì nó chuyển thành tốt, không thêm duyên tốt mà lại bớt, thì nó trở thành xấu. Cho nên muốn lên thiên đường hay xuống địa ngục, là quyền của ta. Ai bắt mình xuống địa ngục, ai kéo mình lên thiên đường được? Người tạo duyên tốt được lên thiên đường, kẻ tạo duyên ác bị xuống địa ngục. Vậy thôi.

Đạo Phật dạy ai làm mười điều ác là nhân của địa ngục, ai tu mười điều thiện là nhân của thiên đường. Có gì lạ đâu. Do đó nói tới lý nhân duyên này, trong kinh Phật có một câu chuyện rất hay. Kinh A-hàm kể:

Hôm nọ có một số thầy Bà-la-môn tới gặp Phật, họ hỏi:

– Thưa ngài Cù-đàm, nếu đệ tử của Ngài chết, Ngài có thể cầu nguyện cho họ lên thiên đường được không?

Phật im lặng không trả lời. Sau đó, Phật hỏi ngược lại:

– Nếu đệ tử của các ông chết, các ông có thể cầu lên thiên đường được không?

Các vị đó đáp:

– Được.

Phật liền đưa ra ví dụ. Như một cái giếng sâu, có người đem tảng đá lớn liệng xuống giếng. Sau đó họ thỉnh hai ba chục thầy Bà-la-môn đứng chung quanh miệng giếng, yêu cầu các thầy cầu nguyện tảng đá đừng chìm, quí thầy cầu được không, các thầy Bà-la-môn nói không được. Phật hỏi tại sao, các thầy đáp vì đá nặng, rớt xuống nước phải chìm, không làm sao nổi lên được. Phật đưa ra ví dụ thứ hai. Giả sử có người đem một chai dầu tới đổ xuống giếng, rồi yêu cầu các thầy cầu nguyện dầu chìm xuống đáy giếng, các thầy cầu được không, các thầy nói không được. Tại sao? Vì dầu nhẹ nên phải nổi lên trên, có cầu bao nhiêu nó cũng nổi lên, chìm xuống không được.

Phật nói cũng vậy, nếu người tạo tội thập ác, nhất định phải đoạ địa ngục, không làm sao cầu họ lên thiên đường được. Người tu Thập thiện nhiều phước lành, dù các ông ác ý cầu họ xuống địa ngục, họ vẫn lên thiên đường như thường. Như vậy việc cầu nguyện đâu có đưa đến kết quả như ý. Vậy mà bây giờ Phật tử thích cầu nguyện, không chịu tu. Không hành Thập thiện, cứ lo làm ăn danh lợi đã đời, khi gần chết sợ quá thỉnh thầy cô cho đông, cầu nguyện giùm con lên thiên đường hay về Cực Llạc. Như vậy được không?

Điều này Phật nói rất rõ, căn cứ trên lý nhân duyên chúng ta tạo duyên nào, sẽ đưa tới chỗ đó. Tạo duyên nặng mà biểu người ta cầu cho được nổi, nhất định phải chìm thôi. Còn người tạo duyên nhẹ, dù ai ghét muốn chìm xuống cũng không được. Hiểu được lý nhân duyên, chúng ta phải ứng dụng ngay trong cuộc sống, tạo duyên để vươn lên. Quí vị có ai muốn xuống địa ngục không? Chắc không ai muốn. Nếu không ưng xuống địa ngục thì mười điều ác phải chừa. Không tạo duyên ác thì không rơi vào nghiệp ác. Chúng ta muốn người khác mến thương thì phải tạo duyên tốt. Một là xử sự tử tế với mọi người, hai là sẵn sàng giúp đỡ họ, ba là lúc nào gặp họ cũng vui vẻ. Muốn người ta thương mà gặp họ mặt mày quạu đeo, thì ai thương được.

Trời Phật đâu có xui khiến ai thương hay ghét mình. Chính chúng ta tạo ra. Lý nhân duyên rất công bằng. Vì sao? Vì tạo nhân tốt duyên tốt thì quả sẽ tốt. Ví dụ tôi muốn trồng cây, trước hết phải lựa hột giống tốt. Từ hột giống gieo xuống chỗ đất cũng phải tốt. Nếu gặp đất chai dù giống tốt cây vẫn lên không được. Kế đó còn phải có phân phướn, tưới tắm để hột giống mau nảy mầm, rồi còn phải nhổ cỏ… nhiều duyên cộng lại cây mới phát triển tươi tốt. Chúng ta tạo đủ nhân đủ duyên, cây mới ứng hiện quả đúng như mình mong muốn. Nếu chúng ta tạo duyên không đủ thì kết quả không thể nào tốt được.

Lý nhân duyên là một lẽ thật, là chân lý, không chối cãi được. Bởi vậy người nào sống đúng như lý nhân duyên là người sống hợp lý, sống công bằng. Nhìn theo nhân duyên là nhìn đúng với khoa học. Khoa học phân tích sự vật không có cái gì tự có và cũng không có cái gì là một. Tất cả do nhiều yếu tố hợp lại thành. Mọi sự vật ở đời đều do duyên hợp, bởi duyên hợp nên mới phân tích, chia ra từng phần, từng bộ phận hay từng nhóm, từng tế bào được. Khoa học thấy tột được lý nhân duyên, nên mới làm chủ được những điều hồi xưa không bao giờ tin là con người làm được.

Hồi xưa nói bay trên trời phải là mấy ông tiên mới được. Nhưng bây giờ chúng ta có cần làm tiên đâu, mà cũng bay được vậy. Những nhà khoa học biết ứng dụng lý nhân duyên, chế tạo ra phi cơ bay trên không, tàu thủy đi dưới biển, hoặc xe hơi chạy nhanh ngoài đường phố. Rõ ràng sử dụng lý nhân duyên là một bước tiến mạnh, là một sự vươn lên của con người. Nhưng đáng tiếc, con người chỉ ứng dụng lý nhân duyên trong cuộc sống vật chất, mà ít ứng dụng lý nhân duyên trong cuộc sống tinh thần, nên cứ tạo vật chất cho sung mãn, rồi giành giật cấu xé nhau, gây khổ đau với nhau.

Chúng ta là những người học Phật, phải khéo vận dụng lý nhân duyên vào cuộc sống tinh thần, cuộc sống đạo đức. Có vậy lý nhân duyên sẽ đưa chúng ta vươn lên, từ một người phàm thành một người Thánh, từ một người trong lục đạo trầm luân ra khỏi trầm luân, được giải thoát sanh tử. Thành ra tu là khéo sử dụng lý nhân duyên. Quí vị muốn đi lên thì phải tạo điều kiện cho mình được thanh thoát nhẹ nhàng. Nếu chúng ta thiếu nợ mà không chịu trả, ra đường gặp chủ nợ nhất định bị họ lôi lưng kéo áo. Muốn không bị lôi lưng kéo áo thì đừng cho thiếu nợ nữa.

Cũng vậy, muốn giải thoát thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta đừng đuổi theo duyên trần, đừng dính mắc với duyên trần nữa. Mắt thấy sắc đẹp liền mê, tai nghe tiếng hay liền thích, như vậy làm sao thoát khỏi nó được. Không thoát được thì phải trầm luân để gặp gỡ nó nữa. Dính với sáu trần thì phải bị sáu trần lôi kéo.

Như vậy mới thấy tất cả sự trói buộc là do bản thân chúng ta tự nguyện. Duyên chúng ta tạo rồi chúng ta mắc vào đó. Muốn thoát ra khỏi nó cũng tự chúng ta gỡ, chớ không ai gỡ giùm được. Quyền của mình. Người tu hiểu được lý nhân duyên thì sự tu hành cụ thể, dễ dàng, không có gì ngờ vực, cũng không có gì huyền hoặc hết.

Nghiệp quả nhân duyên nói rõ cho chúng ta biết muôn sự muôn vật chẳng phải một, chẳng phải khác. Giống ngọn đèn dầu cháy từ đầu hôm tới khuya, không phải một không phải khác. Ngọn đèn đó rút dầu lên, một hột dầu rút lên thì cháy, hột dầu đó cạn thì hột dầu khác tiếp nối. Cứ thế nó liên tục cháy, cháy mãi. Chúng ta mới nhìn tưởng như là một, nhưng sự thật nó là một dòng liên tục, không phải một. Cũng vậy, tâm thức của chúng ta là một dòng liên tục, tuy không có chủ mà nó liên tục. Bởi liên tục nên nó không mất, hễ tạo nghiệp thì sự liên tục đó dẫn tới thọ quả sau.

Lý vô ngã của đạo Phật là chỉ cho tâm thức cũng như thể xác này là dòng biến chuyển liên tục. Nó chuyển hóa rất nhanh, nên chúng ta không thấy tưởng là một. Chính vì biến chuyển nên chúng ta tạo duyên cho nó thăng hoặc trầm. Nếu nó không biến chuyển, một cái ngã y nguyên thì dù có tạo duyên nó cũng thay đổi. Hiểu như vậy mới thấy ý nghĩa tùy duyên của đạo Phật. Duyên đủ thì hợp, duyên thiếu thì tan, duyên tốt thì thăng, duyên xấu thì trầm. Cho nên chúng ta khéo tạo duyên thì cuộc sống sẽ tiến. Ngược lại ta không khéo tạo duyên tốt mà tạo duyên xấu thì cuộc sống sẽ chìm xuống.

Hiểu được lý nhân duyên, biết thân này từ duyên sanh nên chúng ta không chấp ngã. Nhiều Phật tử hiểu lầm, cho rằng sau khi chết, linh hồn hoặc sanh lên cõi trời, hoặc xuống địa ngục hoặc làm gì gì đó nên mới thỉnh quí thầy cô đến tụng kinh để cầu nguyện linh hồn được thăng lên hay đi đến chỗ vị kia hằng mong muốn. Đạo Phật có thừa nhận linh hồn không? Đó là chỗ hết sức tế nhị. Phật tử cứ nói linh hồn mà đạo Phật không bao giờ chấp nhận linh hồn. Linh hồn là một cái ngã nguyên vẹn còn gọi là hồn thiêng. Nếu thế thì khi người nào chết, linh hồn của người đó cũng trở lại làm người. Chết sống gì linh hồn người mãi mãi làm người, linh hồn thú mãi mãi thành thú. Như vậy tu làm chi vô ích. Cho nên hiểu theo nghĩa linh hồn là sai lầm.

Nhà Phật nói tâm thức, chớ không nói linh hồn. Tâm thức thì luôn chuyển biến, tâm phân biệt là một dòng chuyển biến. Khi nhỏ tâm thức ta hiểu theo trẻ con, khi lớn được học hành, tâm thức ta hiểu theo người lớn. Người được duyên tốt học hành giỏi, thì tâm thức sáng suốt hơn người học hành kém. Tâm thức ấy chuyển luôn luôn, không dừng lại ở mức nào hết. Còn linh hồn thì ở một chỗ vì nó nguyên vẹn, nên học cũng không giỏi, không học cũng không ngu. Do đó chúng ta cũng không thể tu, không thể tiến được.

Người biết đạo nhận ra chúng ta có tâm thức hiểu biết phân biệt, nó là một dòng chuyển biến. Cho nên chúng ta muốn chuyển biến nó theo chiều sáng suốt thì tạo điều kiện cho nó sáng suốt, muốn chuyển biến theo chiều tối tăm thì tạo điều kiện cho nó tối tăm. Có vậy mới tu được chứ! Bởi tu là chuyển tâm thức từ xấu thành tốt, từ dở thành hay, từ trầm luân thành giải thoát.

Căn bản của đạo Phật là dạy chúng ta đi thẳng tới lẽ thật nơi con người, nơi muôn vật. Lẽ thật đó nói chung là lý nhân duyên. Hiểu được lý nhân duyên là phá được mê lầm, chấp ngã. Vì chấp ngã là gốc của bất công, của đau khổ. Phá được chấp ngã thì mọi bất công sẽ hết, mọi đau khổ không còn. Đó là chúng ta biết ứng dụng đạo Phật trong cuộc đời, đem lại một sức mạnh tích cực, chuyển biến đời mình và chuyển biến mọi vật xung quanh theo tinh thần lý nhân duyên.

Mong rằng tất cả quí Phật tử nghe chúng tôi nói, xét nghiệm lại nếu thấy đúng thì cố gắng thực hành để chuyển biến đời mình, từ con người dở thành con người hay, từ con người phàm thành con người Thánh. Đó là sức mạnh của người học đạo. Nếu chúng ta không biết được lẽ này, cứ ỷ lại vào Phật, vào Tăng Ni, không chịu sửa mình, không chịu tu thì trọn đời chẳng đi tới đâu. Rốt cuộc chỉ làm việc uổng công mà lại còn bị chìm trong mê tối nữa.

∗ TÌM TĨNH LẶNG TRONG MÂU THUẪN CỦA CUỘC ĐỜI

Cuộc đời là những mâu thuẫn, ở đây tôi không nói những gì cao siêu mà nói về những kinh nghiệm sống của người Phật tử. Chúng ta sống như thế nào để cuộc đời được an lành tự tại, không bị đau khổ làm ray rứt. Đó là chủ yếu.

Người Phật tử tại gia cũng như hàng xuất gia luôn luôn có những buồn phiền. Gia đình không thống nhất ý chí với nhau, hoặc trong chùa không đồng tâm hiệp lực. Tập thể nào cũng có những chuyện như vậy hết. Lý do gì xảy ra những buồn phiền đó? Chúng ta thử kiểm tra lại bản thân từ thể xác cho đến tinh thần, đi xa hơn là quan niệm, tổ chức… làm sao thoát khỏi những mâu thuẫn.

Con người cứ ngỡ rằng có sự mâu thuẫn là do người này chống đối người kia, chớ không nghĩ cái mâu thuẫn ở sẵn nơi bản thân mình. Tôi nói theo Phật học, nhưng quí vị trong y học có thể nghiên cứu ứng dụng điều này. Phật dạy thân này do tứ đại hòa hợp gồm: đất, nước, gió, lửa. Đất với gió không thuận, nước với lửa không thuận. Nơi nào có giông lớn thì đất bụi bay tứ tung. Trong thân người, khi lạnh chúng ta phải uống nước nóng cho ấm lại. Khi nóng phải uống nước mát cho dịu lại. Vì nóng là lửa nhiều nước ít, còn lạnh là nước nhiều lửa ít, cho nên phải dung hòa nó. Cái gì yếu nâng lên, cái gì mạnh kéo xuống. Đây là chuyện nghề nghiệp của các bác sĩ.

Trong sự sống, chúng ta phải làm sao trung hòa các yếu tố có tánh chất trái ngược nhau. Quá bên nào cũng sanh bệnh hết. Cụ thể người nào trúng gió thì là đau rêm cả người, vì gió mạnh đất rung rinh, nên chúng ta phải đánh gió. Đánh một hồi bớt gió, người nghe khỏe nhẹ lại. Ở lỗ mũi, cổ họng đất nhiều nó mọc nhánh, phải đi cắt bỏ, nếu không sẽ bị nghẹt. Rõ ràng đất với gió luôn luôn đối chọi với nhau, cái này trội thì cái kia bị ngăn trở. Vì vậy chúng ta phải tìm cách điều hòa làm cho nó quân bình. Cho nên mang thân này là mang một tổ hợp mâu thuẫn.

Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa, đừng để nó cắn mổ nhau. Nhưng điều hòa tới mức nào, kết quả ra sao? Cố gắng điều hòa tới mức tối đa, đến lúc nào cái giỏ lủng thì mạnh con nào con ấy chạy. Điều hòa giỏi như bác sĩ cũng có ngày cái giỏ sẽ thủng, mấy con rắn bỏ chạy hết. Nước chạy theo nước, gió theo gió, lửa theo lửa, đất về đất. Không ai có thể điều hòa được suốt năm này tháng kia cho tới năm bảy trăm năm được. Chỉ một giới hạn nào thôi.

Phần thân đã mâu thuẫn như thế, còn phần tâm có mâu thuẫn không? Theo Duy thức học, nội tâm chia ra các nhóm: nhóm Thiện tâm sở và nhóm Ác tâm sở. Thiện và ác lẫn trong tâm ta. Khi sự việc gì xảy ra chúng ta bực tức có những lời nói và hành động quá đáng, lát sau, thiện tâm sở rầy, nó nói mình làm như vậy không đúng nên ta bị ray rứt. Tự mình thấy khó, tự mình thấy khổ, tức là tự mình trừng trị mình rồi. Cái thiện răn cái ác, nhưng cũng có khi cái ác thắng cái thiện. Như lẽ ra chúng ta không nói tiếng nặng với ai, không làm cho người đau khổ, đó là tâm niệm của người tu, nhưng khi có điều gì làm mình nổi tức lên, ác tâm sở mạnh quá, nó lấn lướt làm cho tâm thiện trốn đâu mất. Chú ác la lối một hồi, chú thiện mới trồi đầu ra thì chuyện đã rồi. Nội tâm chúng ta lúc nào cũng có hai thứ đó giằng co với nhau, khiến mình bất an hoài.

Thân chống đối, tâm chống đối đều là mâu thuẫn. Mâu thuẫn là gì? Thuẫn còn gọi là cây khiên, mâu còn gọi là cây giáo. Giáo đâm thì khiên đỡ, chỏi lại. Tâm chúng ta sẵn sàng mâu thuẫn, thân chúng ta cũng sẵn sàng mâu thuẫn. Tự mình đã mâu thuẫn thì sống với mọi người có mâu thuẫn không? Đó là điều không ai muốn, nhưng làm sao tránh khỏi được! Thân tâm mình mâu thuẫn thì người khác cũng vậy. Cho nên có hòa hợp là có chống đối, điều đó là chuyện hẳn nhiên thôi.

Nói rộng hơn, cả thế gian này có mâu thuẫn không? Người ta thường nhắc đến khí âm, khí dương. Âm với dương có chịu nhường nhau đâu. Dương nhiều thì nắng hạn khô, âm nhiều thì mưa dầm dề. Âm dương lúc nào cũng chống chọi nhau, cái nào tăng nhiều cũng nguy hiểm. Như vậy âm dương ở thế gian cũng luôn luôn chống đối, chớ không phải hoàn toàn hòa hết. Có sự bất thường tức là có sự chống đối. Vì khí ở thế gian đối chọi nhau, luôn thay đổi cho nên ảnh hưởng tới con người, ít bữa cảm, sổ mũi nhức đầu v.v… Rõ ràng con người, không gian bên ngoài, sự sống trên mặt đất đều có sự chống đối, mâu thuẫn với nhau, chớ không phải lúc nào cũng hoàn toàn an ổn.

Cuộc sống ngoài thế gian làm cho chúng ta phải đau khổ, khi mưa dầm lúc nắng hạn do âm dương không điều hòa. Rồi tới con người với con người. Ở đây tôi nói giữa người nam với người nữ. Thường người ta bảo nam cương, nữ nhu. Cương là cang cường, nhu là nhu hòa nên cũng chỏi. Vì vậy khi lập gia đình có chồng, có vợ cũng là sự chống chỏi, bên cương bên nhu làm sao giống được. Cho nên vợ chồng thường hay cãi vã nhau cũng vì lý do đó. Những gì người nam đề nghị người nữ không chịu, người nữ đề nghị người nam không chịu. Vậy cuộc sống gia đình giữa nam nữ muốn được hạnh phúc dễ hay khó? Đã là hai tánh chất không giống nhau thì làm sao dễ được. Quí vị mới thấy cuộc sống luôn mâu thuẫn, không có lĩnh vực nào không mâu thuẫn. Người muốn cuộc sống trong gia đình điều hòa thì phải hết sức khôn khéo. Đó là tôi nói chuyện cá nhân giữa nam nữ, bây giờ nói tới tập thể.

Tập thể nào cũng có một lập trường riêng, sanh hoạt riêng, chánh kiến riêng không giống nhau. Không giống nhau tức là có chống nhau. Nhìn chung, từ bản thân con người, gia đình, xã hội… tất cả đều mâu thuẫn. Như vậy con người sống trên thế gian không thể có an vui hạnh phúc tuyệt đối. Vậy mà người ta cứ đòi hạnh phúc. Nếu gia đình giống nhau thì phải là nam hết, chớ một bên cương, một bên nhu làm sao giống nhau được.

Vì vậy đối với cuộc sống này phải khéo léo, khôn ngoan, không thể tưởng tượng như ý mình. Ai nghĩ rằng những gì mình đề nghị ra mọi người đều nghe, đều tuân theo đó là ảo tưởng. Chỉ có mình đề nghị ra người ta phản đối nhiều hay ít thôi, chớ không bao giờ mọi người chấp thuận hết. Hiểu như vậy rồi, chúng ta phải sống sao cho ôn hòa, vui vẻ. Nói điều này, tôi nhớ những năm trước có người hỏi tôi: “Thưa Thầy, nếu có hai tập thể thù địch nhau thì theo quan niệm của Thầy, phải làm sao cho hai tập thể đó được hòa hợp?” Tôi trả lời: “Có nước, có lửa thì có cơm ăn.” Đơn giản vậy thôi.

Quí Phật tử thử xét, thật ra người ta cứ sợ mâu thuẫn, nhưng không ngờ chính mâu thuẫn là điều kiện để con người trong vũ trụ này có sự sinh hóa. Nam không cũng không sanh được, nữ không cũng không sanh được. Muốn sự sinh hóa được liên tục tốt đẹp thì con người phải khéo điều hòa. Chúng ta có nước mà không có lửa, hay ngược lại có lửa mà không có nước thì có cơm ăn không? – Không. Phải có nước, có lửa, người khéo dùng nước, dùng lửa để nấu thì có cơm ăn. Chớ dùng nước để dập tắt lửa, hay dùng lửa đun cho cạn nước thì không có cơm ăn. Cho nên cuộc sống phải khéo điều hòa, nặng bên nào cũng thất bại cả. Vợ chồng trái nhau, không giống nhau, nhưng đừng để bên nào thiệt thòi mà nên điều chỉnh có cuộc sống vừa phải, không nên vì được phần mình mà mất lòng người thì gia đình tan nát. Do đó chúng ta phải có cuộc sống hết sức khéo léo và đừng bao giờ chủ quan. Nhất là bên nam hay chủ quan ta là phái mạnh, cái gì cũng bắt phái yếu tuân theo, đó là điều không tốt, không khéo điều hòa. Đã không khéo điều hòa thì mầm đau khổ sẽ nảy sanh, nên đừng để bên nào bị thiệt thòi thì cuộc sống mới đi tới chỗ tốt đẹp, an vui, hạnh phúc.

Tuy nhiên, hạnh phúc trong cuộc đời chỉ là hạnh phúc gượng gạo, chớ không phải hạnh phúc thật. Vì hạnh phúc ấy được kết hợp bởi hai thứ không giống nhau, làm sao trường cửu được. Chẳng qua gắng gượng điều hòa nên cuộc sống tạm an ổn, tạm vui, chớ không có hạnh phúc nào hoàn toàn như ý. Kể cả ông vua cũng không như ý, bởi vì vua cũng có người chống, người phản chớ đâu phải ai cũng nghe theo. Vì vậy chúng ta phải điều hòa để cuộc sống được tốt đẹp. Như vì nồi cơm chúng ta phải điều hòa lửa, nước. Nhờ có điều hòa nước, lửa nên chúng ta có cơm ăn ngon.

Cũng vậy, trong cuộc sống khéo điều hòa thì gia đình hạnh phúc, vợ chồng vui, con cái tốt. Đừng bao giờ nghĩ tưởng dùng thế mạnh đàn áp người ta phải theo mình. Bởi vì khi người bị đàn áp họ phải tuân theo, nhưng trong lòng không phục, thế nào có lúc cũng phản ứng lại. Khéo điều hòa quân bình mới tốt, mới là người khôn ngoan. Còn mình giỏi, mình khôn bắt người ta phải theo đó là chưa thật khôn ngoan. Đây là chuyện mâu thuẫn và điều hòa giữa con người, gia đình, xã hội.

Bây giờ phải điều hòa bằng cách nào? Phật dạy, muốn điều hòa phải tập hai đức tánh nhẫn nhục và hỉ xả. Thế gian nói nhẫn nhịn và tha thứ. Muốn nhẫn nhịn và tha thứ, trước tiên chúng ta phải có cái nhìn thật đạo lý. Có lần tôi được hỏi: Thầy làm Phật sự có gặp những trở ngại do người khác tạo ra không? Tôi đáp: Có! Hỏi: Như vậy Thầy nghĩ sao về người gây trở ngại cho Thầy? Tôi đáp: Trước mắt tôi không có kẻ thù, chỉ có những người bạn đã thông cảm và chưa thông cảm thôi.

Nhìn cuộc đời phải như vậy. Những người đã thông cảm thì tốt với mình, còn những người tuy chưa thông cảm nhưng họ cũng là bạn, chớ không có thù. Như vậy trong gia đình, vợ chồng chẳng lẽ coi nhau như kẻ thù. Nếu có chuyện vui buồn xảy ra thì cũng nghĩ rằng đây là người bạn chưa được thông cảm, rồi sẽ tìm cách thông cảm, đừng bao giờ coi như kẻ thù. Chẳng những trong gia đình mà kể cả mọi người bên ngoài, chúng ta phải có cái nhìn cởi mở, thương yêu. Có thế mới giải quyết được nỗi khổ của con người.

Trên thế gian này tràn trề đau khổ bởi vì người mạnh cứ nghĩ mình hơn, rốt cuộc gây đau khổ hoài. Chúng ta tu hành nên sống đem lại an vui cho mình, cho người. Muốn được như vậy mình đừng xem ai là kẻ thù hết. Đó là chúng ta biết sống, biết tu. Làm sao trong cuộc sống gia đình chồng vợ biết nhịn nhau, đã là bạn đời nên hòa vui, đừng bao giờ thù hận. Nếu thấy là kẻ thù thì dễ đi đến đổ vỡ tan nát. Cuộc sống từ cá nhân, gia đình cho tới tập thể, không bao giờ hoàn toàn đúng theo ý mình, được chừng sáu mươi, bảy mươi phần trăm là tốt lắm rồi, đừng đòi hỏi như ý một trăm phần trăm. Những người đòi hỏi như vậy là hiểu sai lầm, không đúng lẽ thật.

Bây giờ làm sao để chúng ta thấy mọi người xung quanh là bạn? Phải tập nhẫn nhịn. Bởi vì con người ai cũng có sẵn “ác tâm sở” là nóng giận, nam nữ chi cũng biết giận. Khi mình nổi giận nói lời không phải thì người khác cũng nổi giận nói lời không phải. Vậy làm sao? Cái phải về mình hết hay mỗi bên nhường một chút? Chúng ta có tật hay cãi lý. Cãi cho ra lý mà lý không có thật, thường thường lẽ phải ở kẻ mạnh chớ không có thật lý. Cho nên đừng đòi hỏi lẽ thật, chỉ có ai mạnh, ai được nhiều người bênh vực thì người đó phải. Còn ai yếu, ít người bênh vực thì không phải. Ở đời là như vậy thôi.

Thời nay người ta dùng lá thăm, dù người không hay lắm nhưng được lòng thiên hạ thì cũng được thăm, còn người dù cho hay mà thiên hạ không hiểu cũng không được thăm như thường. Đừng cho rằng những gì hay, những gì phải thì mọi người sẽ hưởng ứng. Chỉ khéo được nhiều người mến, được nhiều người ủng hộ hoặc đưa ra những gì đúng với sở nguyện của họ thì họ hưởng ứng, họ theo mình. Ngược lại dù có đưa ý kiến đúng mà họ không muốn thì cũng không theo như thường. Như vậy không hẳn nhiều người khen là lẽ phải. Lâu nay chúng ta cứ ngỡ rằng được nhiều người chấp nhận, đó là lẽ phải. Không phải như vậy.

Chỉ chúng ta tùy thuận, nhường nhịn nhau để mà sống. Đừng nói việc này phải, ai làm khác thì sát phạt họ, nghĩ như vậy là không được. Người chồng thấy mình phải, người vợ cũng thấy mình phải rồi đòi sát phạt nhau, như vậy là có hai quan tài rồi. Trong cuộc sống, chúng ta phải một phần, người kia phải một phần, thôi thì nhường nhịn nhau cho tốt đẹp, đó là hạnh nhẫn nhục của đạo Phật.

Nhưng nếu nhịn nhau mà không tha thứ, cứ nhớ lỗi người ta hoài thì điều hòa được chưa? Bữa nay nhịn chớ mai mốt gặp việc cũng bùng nổ nữa. Đó là căn bệnh người ta hay chứa trong lòng. Ai làm phật lòng lần đầu ráng nhịn, mai mốt gặp nữa thì nói tôi nhịn lần thứ hai rồi nghen. Như vậy không phải điều hòa thật. Chúng ta nhịn thì phải bỏ qua luôn, đừng nhắc tới nhắc lui. Nhịn mà không chịu quên cứ nhắc hoài. Nhắc hoài người kia cũng sân lên, rốt cuộc không ai nhịn ai cả.

Vì vậy mong quí Phật tử khéo nhẫn nhịn với nhau. Qua sự nhẫn nhịn đó chúng ta còn phải hỉ xả, nghĩa là vui mà bỏ chớ đừng gượng bỏ. Bởi vì chẳng qua tất cả chúng ta đều do khờ dại mới cãi vã với nhau. Biết rồi thì bỏ hết đừng thèm giận hờn gì nữa. Chớ còn nghĩ mình phải, kia quấy rồi ôm ấp, mai mốt gặp việc cãi lại nữa, rốt cuộc không hết khổ đau.

Phương pháp nhẫn nhịn sẽ đưa chúng ta tới chỗ an ổn. Nhẫn nhịn là khéo léo điều hòa ngọn lửa, đừng để nước dập tắt lửa, cũng đừng để lửa đốt cạn nước. Ở gia đình, vì con cái nên vợ chồng nhường nhịn nhau. Ngoài xã hội, vì một lý tưởng nào đó mà người ta phải nhịn nhau. Trong đạo thì vì đạo đức cao thượng nên nhường nhịn nhau, tha thứ nhau. Nhờ thế mà gia đình, tập thể mới thật có an ổn, thật có vui tươi. Nếu không như vậy chẳng bao giờ chúng ta có niềm vui. Chồng với vợ gặp nhau gượng nói chuyện chớ trong bụng không ai ưa ai, thì đó là nỗi khổ lớn nhất trong gia đình. Ngoài xã hội cũng thế.

Do biết cuộc đời là mâu thuẫn nên chúng ta phải điều hòa bằng hai hạnh: hạnh nhẫn nhục và hạnh hỉ xả. Muốn được nhẫn nhục, hỉ xả, trước phải có tâm từ bi, thấy tất cả là bạn, không có ai thù. Ba điều đó từ bi là trước, rồi nhịn sau, tha thứ nhau. Không có từ bi thì không thể nhẫn nhịn và tha thứ được. Cứ cho người làm trái ý mình là kẻ thù thì không bao giờ chúng ta nhường nhịn. Cho nên đừng thấy ai là kẻ thù cả, chỉ có bạn đã thông cảm và chưa thông cảm. Đó là tâm từ bi. Chính do tâm từ bi nên chúng ta mới nhường nhịn, tha thứ nhau được. Chúng ta ứng dụng giáo lý của Phật trong cuộc sống thì cuộc sống vừa có đạo đức, vừa được an vui.

Đó là ba điều kiện để chúng ta điều hòa sự mâu thuẫn. Tuy khó nhưng phải ráng ứng dụng trong cuộc sống, nếu không ắt sẽ chịu khổ thôi. Hiểu được vậy chúng ta mới biết sống và sống có hạnh phúc, còn tranh phải quấy hơn thua thì không bao giờ hạnh phúc. Đó là lẽ thật.

Tóm lại, muốn cho sự sống tốt đẹp bình yên phải hội đủ ba điều kiện: từ bi, nhẫn nhục và hỉ xả. Nói theo thế gian là tình thương, nhẫn nhịn và tha thứ. Điều cấm kỵ nhất là đừng bao giờ ôm ấp ảo tưởng rằng ai cũng tùng phục ta, chiều theo ý muốn của ta hết. Đó là lầm to. Kinh nghiệm trong cuộc sống đã cho thấy, tôi sống chung quanh năm sáu trăm Tăng Ni, không bao giờ tôi dám ảo tưởng rằng ai cũng giống hệt tôi và tôi nói ai cũng nghe. Có những điều họ nói không vừa ý tôi, nhưng rồi tôi cũng bỏ qua, không buồn. Nếu mỗi chút mỗi buồn thì chắc tôi chết sớm rồi. Thôi thì việc gì cũng bỏ qua, miễn họ tu được là tốt.

Vì vậy quí Phật tử nhớ, vợ chồng có gì trái ý nhau nên bỏ qua, miễn gia đình bình yên, con cái học hành đàng hoàng, khôn lớn nên người là được rồi, những gì riêng tư bỏ qua hết. Vì việc chung nên bỏ cái riêng thì sẽ được an ổn. Ở trong gia đình chẳng những vợ chồng không giống nhau mà cha mẹ, con cái cũng không giống nhau. Muốn được bình yên vui vẻ thì trên dưới cũng phải điều hòa. Cái khổ là cha mẹ không bao giờ nhịn con. Con có chịu nhịn hay không chịu nhịn cha mẹ thôi chớ cha mẹ không bao giờ nhịn con; mà chắc gì cha mẹ đã trúng trăm phần trăm. Bởi vì người ta cứ cho rằng cha mẹ sanh ra con cái nên cha mẹ là bề trên, con cái không có quyền cãi. Nhưng thật ra cha mẹ sanh là sanh thân thể thôi, chớ đâu có sanh được tâm hồn. Tâm hồn con cũng có cái hay riêng của con nên cha mẹ cũng phải nhịn. Như tôi là thầy, đâu thể nhịn trò, nhưng có khi thầy cũng bỏ qua. Bỏ qua tức là nhịn rồi. Nhờ vậy tôi điều hòa được mấy trăm người, nếu bắt như mình mà người ta không được như mình, rồi đuổi đi hết thì thôi, chắc tôi cũng sống một mình tôi. Hiểu được như vậy mới thấy nhờ chúng ta khéo điều hòa nên mọi việc được tốt đẹp. Đây là phương pháp thứ nhất, phương pháp tương đối.

Bây giờ tới phương pháp thứ hai là phương pháp tuyệt đối, phương pháp này ít người thực hiện được. Đó là khi nào chúng ta dẹp được tâm đối đãi của mình, tâm sở thiện, tâm sở ác hết chừng đó hoàn toàn khỏi nhẫn nhịn, khỏi tha thứ gì cả. Nên nói tuyệt đối là vậy. Cũng như Lục tổ Huệ Năng bảo Thượng tọa Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Ngay câu nói này Huệ Minh liền nhận ra Bản lai diện mục của mình. Bản lai diện mục đó không có hai bên, mà không có hai bên thì đâu còn mâu thuẫn. Không còn mâu thuẫn mới là vĩnh viễn an lành. Đây chính là mục đích Phật nhắm đến để dạy chúng ta tu đạt được giải thoát viên mãn.

Cũng như trong Tín Tâm Minh, Tổ Tăng Xán nói: “Tín tâm bất nhị, bất nhị tín tâm.” Tin mình có Tâm chân thật thì không còn hai. Không còn hai mới tin được Tâm chân thật của mình. Còn thiện tâm sở và ác tâm sở không phải thật tâm của mình. Một nhóm tham lam và một nhóm hiền lành, hai nhóm đó lặng xuống mới hiển bày Tâm chân thật của mình. Được Tâm chân thật rồi thì cười hoài, không cần nhẫn nhịn, không cần tha thứ gì nữa. Nhưng nếu hai thứ đó còn thì phải từ bi, nhẫn nhịn, hỉ xả cuộc sống mới yên. Chừng nào chúng ta thoát ra hai thứ đó thì được an ổn vĩnh viễn. Quí vị thấy Tổ thứ ba, Tổ thứ sáu đều dạy chúng ta bỏ hai thứ đó. Bây giờ gần nhất là Tổ Trúc Lâm, Ngài có bài kệ “Hữu cú vô cú”, tức là “Câu có câu không”. Người còn thấy có, thấy không là còn thấy hai. Tôi tạm dẫn vài câu trong bài kệ ấy:

Hữu cú, vô cú
Tự cổ, tự kim
Chấp chỉ vong nguyệt
Bình địa lục trầm…

Nghĩa là thấy có thấy không, từ xưa đến nay, như người chấp ngón tay quên mặt trăng. Ngón tay chỉ mặt trăng mà cứ cho là mặt trăng chính tại đầu ngón tay. Đó là kẻ ngu xuẩn. Phải bỏ ngón tay mới thấy mặt trăng ở trên kia. “Bình địa lục trầm”, tức là trên đất bằng mà chết chìm, đây là chỉ cho những kẻ quá ngu xuẩn. Còn hai bên là còn đau khổ, còn ngu xuẩn. Chừng nào hết hai bên mới được tự tại, an lành. Nên phải hiểu quí thầy dạy Phật tử tu, ngồi thiền để làm gì? Để bỏ tâm chạy theo hai bên. Ngồi thiền thì nghĩ ác, nghĩ lành gì cũng bỏ hết để đi tới chỗ không còn hai, khi đó mới hoàn toàn giải thoát. Còn có hai thì không bao giờ giải thoát được.

Do đó chúng ta mới hiểu ý nghĩa tại sao mình phải ngồi thiền, tại sao mình bỏ hết tất cả vọng tưởng thiện, ác. Bởi vì còn thiện tức là còn ác đối đãi, phải buông cả hai tâm mới yên. Tâm yên mới là Tâm chân thật, còn tâm nghĩ thiện nghĩ ác v.v… chưa phải tâm thật. Lâu nay chúng ta cứ tưởng nó thật, giống như cho đầu ngón tay là mặt trăng. Không ngờ bỏ đầu ngón tay, nhìn tận chân trời mới thấy mặt trăng, người tu phải khôn ngoan ở chỗ này. Bởi vì tu là siêu thoát. Siêu thoát nghĩa là không kẹt trong đối đãi. Không đối đãi mới qua được các thứ mâu thuẫn khổ đau, hoàn toàn an lành tự tại, nên mục đích cuối cùng của người tu Phật là không còn thấy hai. Được vậy tự nhiên hết mâu thuẫn, không còn gì chống đối.

Song nếu người chưa qua khỏi hai bên thì phải tập tu từ bi, nhẫn nhục và hỉ xả, cuộc sống mới yên lành. Bước đầu quí Phật tử nên tập từ bi, nhẫn nhục và hỉ xả trước cho sự mâu thuẫn trong mình được điều hòa, cuộc sống bình an. Lấy đây làm bài học thì có thể nói kêu một chút là có một triết lý sống. Vì lâu nay Phật tử sống mà không biết sống làm sao, cho nên ai cũng nuôi cực đoan trong mình, rồi mang lấy đau khổ, kêu trời trách đất hoài. Nếu biết được lẽ sống như vậy cuộc sống rất bình an. Giỏi hơn nữa, vượt qua luôn sự đối đãi thì thành Thánh, không nói Thánh cũng là Thánh, có việc gì phải buồn. Bây giờ chúng ta còn thương người làm lành ghét người làm ác, nên còn hai tức còn đối chọi. Chỉ khi nào qua được hai bên mới hết mâu thuẫn. Ý nghĩa của đạo Phật cao siêu là vậy.

Phật tử ứng dụng được đạo lý này trong cuộc sống thì thật là hay, bằng ngược lại thì học Phật bao nhiêu cũng chẳng có ích lợi gì cả. Quí vị hãy nhớ câu này: “trước mặt không có kẻ thù” thì cuộc sống được nhiều an lạc. Đạo lý thật hay nhưng đôi khi tôi thấy rất buồn vì kể cả người tu cũng không thực hành nổi, cứ thù người này, giận người kia. Người tu mà nói giận người này, thù người kia thì chưa phải người tu. Người hiểu thấu đáo cuộc sống rồi thì chỉ cười thôi, không có gì quan trọng hết. Khi đặt vấn đề quan trọng, có người hưởng ứng với mình là bạn, không hưởng ứng trở thành thù, như vậy mãi thì phải chịu đau khổ thôi.

Có nhiều người hỏi tôi: “Thầy có thuật gì mà điều hòa mấy trăm Tăng Ni và nhất là bên Ni?” Tôi nói: “Ai đến thưa kiện người này sai, người kia trái, tôi đâu có xử. Tôi bảo ‘thấy người ta quấy thì mình cũng đã quấy rồi’.” Nhờ vậy không ai dám đến thưa kiện nữa. Quí Phật tử thấy có phải thế không? Vì chưa bao giờ hai người cãi nhau mà có người chịu mình quấy, nhưng làm sao cả hai đều phải được, cho nên thấy người quấy là mình đã quấy trước. Không quấy thì không cãi, đã cãi thì có quấy. Từ kinh nghiệm sống cho đến việc tu tập Phật dạy rất nhiều, nhưng trọng tâm đều nằm ở những điểm đó.

Điểm ưu việt của Phật giáo đời Trần chính là chủ trương Tam giáo đồng nguyên. Thiền tông dung hợp chớ không thấy đây khác kia để rồi đi đến chống chọi nhau. Do đó người trong nước theo đạo Lão, đạo Khổng không chống với đạo Phật. Nhờ ba tôn giáo hòa nhau nên dân mạnh, đó là điểm rất hay.

Tóm lại, mục đích buổi nói chuyện hôm nay hết sức rõ ràng, tôi mong rằng quí Phật tử nghe rồi áp dụng những điều tôi nói vào cuộc sống cho khéo, cho đầy đủ ý nghĩa, mới thấy niềm vui hiện tại – sống là vui.

∗ TRỞ VỀ VỚI NGUỒN GỐC

Buổi nói chuyện hôm nay có đề tài là Trở về với nguồn gốc. Chúng ta tu theo đạo Phật thì phải phăng tìm tận nguồn gốc của đạo Phật. Nắm vững gốc rồi thì tìm kiếm thân thể ngọn ngành không khó.

Nếu không nắm được gốc, tu dễ lệch lạc trái với đường hướng Phật Tổ đã dạy. Khi mới xuất gia tu học Phật pháp, tôi tự đặt câu hỏi lý do gì đức Phật đi tu, Ngài thành đạo chứng quả là thành cái gì, chứng cái gì. Đó là những thăc mắc về đức Phật. Trong chùa, thấy phía sau thờ Tổ, tôi cũng muốn biết tại sao các ngài thành Tổ, tu pháp gì và chứng cái gì mà thành Tổ. Đó là hai thắc mắc về Phật và Tổ.

Tôi muốn mình tu phải có căn bản về giáo lý thật vững chắc. Nếu không phăng ra manh mối, chúng ta tu theo Phật mà không biết Phật tu pháp gì, tu theo Tổ cũng không biết tại sao các ngài thành Tổ thì tu làm chi. Vì vậy khi tra tìm trong lịch sử đức Phật, tôi thấy rõ những điều này. Ai đọc lịch sử Phật cũng đều biết, khi Thái tử Tất-đạt-đa dạo bốn cửa thành, Ngài gặp người già thân thể gầy còm rất đau khổ ở cửa thành thứ nhất, người bệnh đang rên rỉ trên đường ở cửa thành thứ hai, người chết ruồi bu kiến đậu rất ghê sợ ở cửa thành thứ ba. Cuối cùng đến cửa thành thứ tư, Ngài thấy một vị Sa-môn đang đi rất thanh thản thong dong.

Qua bốn hình ảnh đó Ngài suy gẫm tường tận về kiếp sống của con người, ai rồi cũng già bệnh chết. Tất cả chúng ta có mặt trên thế gian này trong mấy mươi năm, hoặc ít hoặc nhiều, người nào cũng đi đến kết thúc bằng già, bệnh và chết. Như vậy đời sống của con người trong cảnh thuận, mới nhìn dường như vui vẻ, trong cảnh nghịch lại thấy đau khổ. Vậy mà hầu hết họ đều ôm ấp tưởng tượng mình hạnh phúc, thật sự không tìm đâu ra hạnh phúc, chỉ là một chuỗi dài nhiều bất mãn, đau buồn hơn là niềm vui.

Khi quán sát như thế, đức Phật biết đã làm người thì đau khổ dồn dập tới bằng ba hình tướng già bệnh chết. Đó là một bản án không ai chạy khỏi. Chính Ngài tự thấy những gì gọi là hạnh phúc, an vui, sang trọng, giàu có v.v… ở thế gian chỉ là tạm bợ, tất cả sẽ đưa tới kết thúc bằng già bệnh và chết. Thế nên Ngài không yên lòng và tìm đường đi để giải quyết ba vấn đề nghiêm trọng già bệnh chết.

Ngài tự đặt nghi vấn, câu hỏi thứ nhất: “Con người trước khi ra đời ở đâu, là gì?” Câu hỏi thứ hai: “Sau khi nhắm mắt con người sẽ đi về đâu, còn hay là mất?” Câu hỏi thứ ba: “Có phương pháp nào để giải quyết sanh già bệnh chết hay không?” Ba câu hỏi này là một vấn đề to lớn của kiếp người. Bấy giờ trong lòng Ngài bất an, không thể nào ngồi yên hưởng cảnh giàu sang tạm bợ, cũng không thể nào ngồi yên trông thấy người trước già chết, người kế già chết, tới mình già chết. Phải làm sao giải quyết vấn đề này.

Như vậy trọng tâm đức Phật đi tu là giải quyết thân phận con người. Ngài xuất gia hoàn toàn vì con người, vì nhân loại chớ không phải vì một cá nhân riêng tư, vì một hoàn cảnh xã hội, đất nước nào. Trên đường tầm đạo, Ngài gặp những vị thầy dạy tu thiền nhưng chưa giải quyết được ba nghi vấn trên. Vì vậy Ngài từ giã họ đi nơi khác. Sau Ngài ứng dụng phương pháp khổ hạnh chịu khổ cực triệt để nhưng vẫn không giải quyết được ba vấn đề Ngài ôm ấp. Cuối cùng từ bỏ khổ hạnh, Ngài đến cội bồ-đề thiền định bốn mươi chín ngày đêm. Đến đêm thứ bốn mươi chín, trong sử kể lại rất rõ từ canh một tới canh hai, Ngài chứng Túc mạng minh. Ngài thấu suốt tất cả vô số kiếp về trước mình đã sanh ở đâu, tên họ gì, cha mẹ là ai, xứ sở nào… Ngài thấy tường tận không một chút hồ nghi. Chứng Túc mạng minh, Ngài giải quyết được nghi vấn thứ nhất, trước khi có mặt ở đây ta là ai, những sự việc này Ngài kể lại và được biên tập thành kinh Bản Sanh.

Kế đến từ canh ba tới canh tư, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, Ngài biết rõ sau khi chết con người còn hay mất, nếu còn thì đi đâu. Ngài thấy rõ sau khi thân này hoại, chúng sanh theo nghiệp lành hay dữ mà đi nơi này nơi nọ, nên Phật nói chúng ta chết rồi không phải hết mà theo nghiệp luân hồi trong lục đạo. Lục đạo tức sáu đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la, người, trời. Ngài thấy chúng sanh chết đây sanh kia như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ qua người lại một cách rõ ràng, không nghi ngờ. Vì vậy Ngài mới dạy chúng ta muốn đời sau sanh cõi lành phải tu các điều thiện, còn tạo các điều ác phải đọa các cõi dữ, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Đó là do chúng ta gây nghiệp nên phải chịu, không phải ai làm cũng không ai thưởng phạt mình. Chứng được Thiên nhãn minh, đức Phật giải quyết được nghi vấn thứ hai.

Từ canh tư mãi đến canh năm, khi sao Mai vừa mọc Ngài chứng được Lậu tận minh. Chữ lậu là lọt, tận là sạch, minh là sáng. Lậu tận minh là dứt sạch mầm sanh tử, không còn trở lại thế gian này nữa. Ngài thấy rõ con người do nguyên nhân nào tiếp tục trong vòng sanh tử và muốn dứt vòng sanh tử phải làm sao. Sau khi chứng được Lậu tận minh, Ngài tuyên bố đã thành Phật, là bậc đại giác. Nếu đức Phật không ôm ấp tâm niệm nghĩ về thân phận con người, làm sao Ngài có được ba minh đặc biệt đó.

Khi đã thành Phật, Ngài nhớ tới những người bạn đồng tu khổ hạnh, đó là nhóm anh em ngài Kiều-trần-như nên tìm tới vườn Lộc Uyển. Gặp nhau, các vị đó nhận ra Ngài rất đặc biệt nên mời thuyết pháp. Bài pháp đầu tiên Phật nói là pháp Tứ đế. Tứ đế là gì? Là Khổ đế, Tập đế, Đạo đế và Diệt đế. Khổ đế là quả đau khổ do sanh già bệnh chết của kiếp người. Nhân loại không ai tránh được nên gọi Khổ đế, đế là khẳng định không sai chạy. Quả khổ đó không phải ngẫu nhiên mà có, nó từ nhân. Nhân là Tập đế, tức sự nhóm họp lại thành. Nhân nhóm họp lại thành quả. Nhân đó gồm những gì? Trong kinh kể có nhiều thứ, tựu trung có hai thứ chánh là căn bản phiền não và tùy phiền não.

Căn bản phiền não có sáu thứ: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Tùy phiền não có hai mươi mấy thứ, như phẫn, hận, phú, não, tật, san, cuống, xiểm, hại, kiêu… nhiều lắm. Chữ Hán giải hơi lâu, tôi chỉ kể đại khái thôi. Như vậy thân này không phải ngẫu nhiên có mà do nhân căn bản phiền não, cô đọng lại là tham sân si. Do tham, sân, si tạo thành thân. Như quí vị thấy thân mình già bệnh sắp chết thì có niệm gì? – Sợ chết. Vì sao? – Vì sợ mất thân. Sợ mất thân tức là muốn sống. Muốn sống gọi là tham sanh. Bởi tham sanh nên mất thân này muốn kiếm thân khác tốt xấu khổ vui gì cũng được, phải có thân kế mới được. Đó là nhân tạo thành nghiệp dẫn chúng ta thọ sanh đời sau. Thân kế tiếp hay thân hiện tại này do nhân của quá khứ hoặc nhân hiện tại tạo thành. Cứ thế tiếp tục sanh tử liên miên không bao giờ dứt, nên Phật gọi là luân hồi sanh tử. Cứ quanh vòng chết đi sống lại, chết đi sống lại mãi không cùng, chịu đau khổ triền miên. Đã có nhân sanh tử thì quả sanh tử không tránh được. Đó là nhân và quả đi trong luân hồi sanh tử.

Bây giờ muốn hết luân hồi sanh tử phải làm sao? Phải dẹp hết nhân sanh tử nên Phật dạy Đạo đế. Đạo đế là phương pháp diệt trừ nhân gây sanh tử. Trong Đạo đế có Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, như Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo… Ba mươi bảy phẩm này là phương pháp tiêu diệt mầm tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… nói đủ là tất cả các thứ phiền não. Phiền não dẹp hết sẽ đi tới quả an vui là Diệt đế. Diệt đế còn gọi Niết-bàn.

Như vậy trong pháp Tứ đế có hai cặp: cặp thứ nhất là nhân quả của sanh tử, cặp thứ hai là nhân quả của Niết-bàn hay thoát ly sanh tử. Ai ôm ấp tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… là nuôi dưỡng nhân sanh tử đời sau. Ai muốn diệt hết những nhân này thì dùng phương pháp Đạo đế để đi tới quả Niết-bàn. Niết-bàn có nhiều nghĩa nhưng nghĩa chánh là vô sanh, tức không còn sanh tử nữa.

Nếu đức Phật không chứng được Lậu tận minh, làm sao Ngài biết từ nhân nào tạo ra sanh tử và phương pháp diệt sanh tử để đi tới Niết-bàn an lạc. Từ đầu Ngài ôm ấp những nghi vấn, rồi từ từ giải quyết được những nghi vấn đó. Ngài thấy tường tận số kiếp của con người vì sao đi trong sanh tử, làm sao để giải thoát sanh tử. Thấy tường tận như thế Ngài giác ngộ thành Phật, thỏa mãn được những gì từ buổi đầu ôm ấp. Nếu không có ba nghi vấn đó Ngài không bỏ các vị tiên nhân để tìm tu cho tới giác ngộ. Nếu không có ba nghi vấn đó Ngài cũng sẽ không chứng ba minh đặc biệt trên.

Trong pháp Tứ đế, Phật dạy người tu diệt hết nhân sanh tử thì được giải thoát. Nhưng Ngài không nói giải thoát sanh tử, nên nhiều người đặt câu hỏi, diệt hết nhân sanh tử được giải thoát là giải thoát cái gì, giải thoát rồi đi đâu? Nếu chúng ta không khéo, không biết tu cũng hơi hoang mang với nghi vấn này. Nói giải thoát là giải thoát cái gì đây. Bởi thuyết của Phật là vô ngã, không có cái ta, bây giờ nói giải thoát thì ai giải thoát. Đó là một nghi vấn lớn.

Quí Phật tử thử nghĩ nếu tâm mình được định, thì tham sân si mạn nghi ác kiến có khởi không? Nhất định là không. Tâm an định thì không dấy niệm, làm gì có tham, sân, si v.v… Như vậy tất cả phiền não gốc từ niệm mà khởi. Dấy niệm lên nghĩ cái đó tốt mình tham, cái kia xấu mình chê… Niệm khởi là gốc ban đầu để tạo nghiệp. Nghiệp xấu tốt gì cũng từ đó mà ra cho nên có niệm thiện niệm ác. Niệm thiện thì tạo nhân tốt, niệm ác tạo nhân xấu. Do niệm khởi tạo nhân thì quả sanh cõi lành cõi dữ, chớ không thể giải thoát sanh tử, vì còn niệm là còn tạo nghiệp. Nếu không còn niệm nào lúc đó nhân gì đưa tới sanh tử? Không còn niệm thì đâu có tạo nghiệp, không tạo nghiệp làm sao bị sanh tử dẫn đi được.

Chúng ta thấy đức Phật do tu thiền định mà sạch hết nghiệp, mới chứng quả giải thoát sanh tử. Bây giờ lúc ngồi thiền hoặc ngồi chơi bình thường, tâm quí vị không dấy niệm thì có phiền não không? – Không. Lúc đó có mình không? Tâm không dấy niệm nhưng nghe, thấy vẫn tự nhiên, rõ ràng. Biết nghe, biết thấy, biết xúc chạm là có mình. Cái mình khi không niệm khởi có chấp ngã, chấp nhân không? Không niệm nên không chấp chi cả. Chỗ này hết sức quan trọng.

Lâu nay chúng ta lầm chấp thân tướng luôn biến chuyển sanh diệt là mình. Nếu thế khi nó hoại đi, mình ở đâu? Đó là điều không ổn. Kế nữa ta cho những ý nghĩ tốt xấu hơn thua v.v… là tâm mình. Ý nghĩ đó khi có khi không, như vậy chẳng lẽ mình cũng lúc có lúc không? Ý niệm là những bóng dáng gặp duyên thì phát, hết duyên liền mất. Vậy mà hiện giờ chúng ta bị nó chi phối trọn vẹn. Ai nghĩ hợp với mình, mình thương. Ai nghĩ khác mình, mình ghét. Buồn thương giận ghét cả ngày vì chấp những ý niệm là thật mình.

Người nào thấy thân này không thật, tâm niệm nghĩ suy không thật là thấy được một phần lẽ thật, một phần giác ngộ. Còn giác ngộ sâu thẳm là khi không có tất cả ý niệm, cái biết vẫn hiện tiền, không tướng không động. Do không tướng không động nên không vô thường sanh diệt. Đó là cái giải thoát sẵn nơi mình mà ta bỏ quên. Thời đức Phật, Ngài không nói tới cái đó mà chỉ nói giải thoát sanh tử. Tại sao Ngài không nói? Vì thời đó đức Phật đang bị áp lực của đạo Bà-la-môn. Đạo Bà-la-môn cho rằng có linh hồn bất biến, Ngài sợ nếu nói có cái mình thật, người ta tưởng lầm đó là linh hồn hoặc thần ngã của Ba-la-môn. Phật chỉ nói dứt hết nhân sanh tử được giải thoát.

Tới thời các Tổ, các ngài gọi đó là Bản lai diện mục, tức mặt thật xưa nay sẵn có của mỗi người. Nói theo kinh đó là Phật tánh, Chân tâm, giải thoát sanh tử. Như vậy giải thoát sanh tử là nhận ra cái chân thật của chính mình, cái đó không còn bị nghiệp dẫn đi trong sanh tử nữa. Khi nào quí vị ngồi yên chừng năm phút không một niệm nghĩ suy, lúc đó có biết mình đang ngồi không? Biết rõ ràng nhưng không diễn tả được cái biết ấy, vì nó không có tướng mạo, không chỗ nơi. Một cái hằng hữu như vậy mà lâu nay chúng ta bỏ quên, nên cứ chịu trôi lăn trong sanh tử. Phật nói chúng sanh rất đáng thương.

Từ đức Phật đến chư Tổ dạy không khác nhau. Các kinh A-hàm lấy Tứ diệu đế làm gốc, giải thoát là dứt hết mầm sanh tử. Mầm sanh tử từ ý niệm mà có. Như vậy niệm hết thì không tạo nghiệp, không tạo nghiệp thì hết sanh tử, hết sanh tử là giải thoát. Chư Tổ cũng thế. Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa chưa đủ duyên, Ngài tới chùa Thiếu Lâm chín năm xoay mặt vào vách không nói gì cả. Đến lúc Thần Quang tới cầu đạo, đứng dưới tuyết cả đêm, gương mặt không thay đổi. Tổ nhìn ra thấy, hỏi:

– Ông đến đây cầu gì mà khổ hạnh như vậy?

Thần Quang trả lời:

– Bạch Hòa thượng, con đến đây cầu Ngài dạy cho pháp giải thoát.

Tổ quở:

– Chư Phật và Bồ-tát thuở quá khứ tu hành có khi phải bỏ cả thân mạng để cầu đạo sau này mới được. Ông dùng chút ít khổ hạnh thế ấy làm sao cầu đạo được?

Ngài liền chặt cánh tay dâng lên nói:

– Con xin dâng cánh tay này để cầu đạo.

Bấy giờ Tổ Bồ-đề-đạt-ma mới khen và nhận làm đệ tử, đổi hiệu là Huệ Khả tức có trí tuệ khá đó.

Câu chuyện mới nghe có vẻ thần thoại, nhưng thật tình hình ảnh ngài Huệ Khả chặt tay cầu đạo để nói lên tinh thần người muốn đạt đạo phải quên mình, không thể trọng thân mà đạt đạo được. Thân vô thường bại hoại mà chúng ta quí nó thì làm sao có được thân thật, nên trước phải xem thường thân hư giả. Phật tử ngồi thiền đau chân quá có rên không? – Có. Đau nhưng chết không? – Không. Không chết thì chưa sao, phải tập gan dạ coi thường thân. Nếu mình nuông chiều thân này thì không bao giờ tìm được cái cao siêu hơn.

Khi được Tổ Đạt-ma nhận làm đồ đệ, một hôm ngài Huệ Khả thưa:

– Bạch Hòa thượng, tâm con không an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.

Tổ Đạt-ma bảo:

– Đem tâm ra ta an cho.

Câu nói nghe như đùa, nhưng ngài Huệ Khả không dám xem thường Tổ, vì vậy xoay tìm cái tâm ở đâu để đem ra. Tìm một hồi không được, Ngài thưa:

– Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.

Tổ bảo:

– Ta đã an tâm cho ngươi rồi.

Ngay đây ngài Huệ Khả liền nhận được pháp tu, thấy đường vào nên sụp xuống lạy Tổ. Tổ dạy đơn giản như vậy có hợp với lời dạy của Phật trong pháp Tứ đế không? Lâu nay chúng ta cho tâm là cái suy nghĩ của mình. Nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ hay, nghĩ dở, tất cả cái nghĩ đó gọi là tâm. Nhớ chuyện này, tính chuyện kia, chạy tứ tung thành ra tâm bất an. Lẽ ra Tổ phải dạy cách nào để an tâm, nhưng ở đây Ngài không dạy, chỉ bảo “đem tâm ra an cho”, ngài Huệ Khả liền biết đường vào.

Bình thường chúng ta nghĩ đủ thứ, bây giờ tìm xem nó ở đâu lại không thấy. Không thấy là tan mất nên Tổ nói an tâm cho rồi. Tổ chỉ cách an tâm, mới nghe thấy như không chỉ gì hết. Rõ ràng quay lại tìm, nó không còn hình bóng tức là an. Để thấy tâm lăng xăng chỉ là bóng dáng chạy đuổi theo ngoại cảnh, không thật mà lâu nay chúng ta chấp nó là tâm thật của mình. Tâm lăng xăng ấy mất mới hiện bày Tâm chân thật hiện tiền. Đó là chỗ thiết yếu của sự tu.

Như vậy muốn thấy được Bản lai diện mục, chúng ta phải dẹp hết tâm lăng xăng. Hiện giờ ta đang sống với cái thật hay cái giả? – Cái giả. Nhận thân giả, tâm giả là mình đó là tỉnh hay mê? – Mê. Biết được cái giả không còn lệ thuộc vào nó nữa, sống với cái thật, đó là giác. Thế thì tìm giác ngộ ở đâu? Quay lại mình tìm, chớ không ở đâu xa hết. Không còn những niệm sanh diệt là định. Do định trí tuệ phát sáng, Tâm chân thật hiện tiền. Ngay đây là Niết-bàn, là không sanh tử. Cái không sanh tử luôn luôn có sẵn nơi chúng ta, không lúc nào rời mình mà mình bỏ quên. Vì vậy Phật gọi là mê, bởi mê nên chấp giả làm thật, cái thật lại không biết.

Bây giờ biết được cái giả, không lệ thuộc nó nữa mà trở về cái thật, nhà thiền gọi là trở về cố hương. Nhận lại tâm không dấy động, yên tịnh đó có hợp với pháp Tứ đế Phật dạy không? Trong Bát chánh đạo, cuối cùng là chánh định, tức tâm không loạn nên giải thoát sanh tử. Hoặc trong năm căn, tức năm cội gốc căn bản: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Thứ tư là định, thứ năm là tuệ, có định rồi tuệ. Tuệ là cái thật của mình hiện ra, chớ không gì lạ.

Như vậy giáo lý Nguyên thủy là Tứ đế do Phật dạy với lời Tổ dạy không khác nhau. Không hiểu thế, chúng ta tưởng Tổ dạy lạ đời không giống trong kinh Phật dạy. Phật dạy tùy căn cơ chúng sanh mà nói đủ các pháp. Còn Tổ chỉ thẳng trọng tâm cái gì là nhân sanh tử, ngay đó mình biết khỏi đi quanh co gì hết. Bởi vậy Tổ dạy gọi là “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, tức chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Tâm hư dối đừng theo, cái chân thật hiện ra là tánh. Nhận được tánh đó thì nhân thành Phật không nghi ngờ nữa.

Tới Tổ Huệ Năng, Ngài ngộ từ kinh Kim Cang. Tu-bồ-đề hỏi Phật: Người phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao hàng phục tâm, làm sao an trụ tâm? Phật dạy muốn hàng phục tâm thì tất cả chúng sanh hữu sắc vô sắc, hữu tưởng vô tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng v.v… đều đưa vào Vô dư Niết-bàn. Khi nghĩ về hình tướng gọi là chúng sanh có sắc, nghĩ về tâm tưởng gọi là chúng sanh hữu tưởng, nghĩ về cái không phải tưởng gọi là phi phi tưởng… Tất cả niệm nghĩ của mình là chúng sanh, đưa chúng vào Vô dư Niết-bàn là chỗ không sanh. Nó chạy ra mình đưa vào chỗ yên lặng là vô sanh. Đó là hàng phục tâm.

Đến an trụ tâm, Phật dạy “bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Nghĩa là không nên để tâm dính mắc với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trụ tâm như vậy là không chạy theo sáu trần. Thấy cảnh tâm không chạy theo cảnh, nghe tiếng tâm không chạy theo tiếng. Cứ nghe, cứ thấy mà không dính với nó là không trụ. Đó là an trụ tâm.

Lâu nay chúng ta cứ nghĩ phân biệt sắc thanh là tâm mình, vừa có tiếng liền chạy theo tiếng, vừa có sắc liền chạy theo sắc nên bị dính hoài. Bây giờ biết nó không thật mình không chạy theo, thấy sắc nghe tiếng v.v… đều an nhiên, đó là tâm an trụ. Tổ Huệ Năng ngộ được chỗ này nên thốt lên: “Không ngờ tâm mình xưa nay thanh tịnh, không ngờ tâm mình xưa nay trùm khắp, không ngờ tâm mình xưa nay bất sanh bất diệt…” Ngài thấy tường tận nếu không để niệm chạy theo sáu trần, đó là Tâm chân thật hằng thanh tịnh.

Khi chúng ta không dấy niệm, cái biết luôn thanh tịnh trùm khắp, không giới hạn. Biết mà không dấy niệm nên không sanh diệt. Khi thấy tường tận tâm đó, Ngũ Tổ mới ấn chứng cho Lục Tổ và trao y bát. Lãnh được ấn chứng Ngài ôm y bát về phương Nam. Có một nhóm đuổi theo giật lại. Trong đó, Thượng tọa Minh đuổi kịp. Lục Tổ để y bát trên bàn đá, không thấy quan trọng vì Ngài không có tâm tranh giành. Huệ Minh tới bưng lên không nổi nên đổi ý kêu: “Hành giả, hành giả! Tôi tới đây vì pháp, chớ không vì y bát.” Nghe vậy Ngài từ trong bụi chui ra nói: “Nếu ngươi cầu pháp thì hãy bình tĩnh để tâm yên lặng nghe ta nói.” Huệ Minh yên lặng giây lâu, Tổ bảo: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Ngay đó, Huệ Minh có tỉnh.

Qua câu hỏi này, chúng ta cứ tìm câu trả lời, nhưng không ngờ không nghĩ thiện, không nghĩ ác chính là Bản lai diện mục rồi. Không nghĩ thiện không nghĩ ác thì tâm không dấy động. Lúc đó mặt thật xưa nay hiện ra, không có gì lạ hết. Như vậy ngộ đạo là nhận được Tâm chân thật của mình. Rõ ràng như vậy, đó là gốc của sự tu, là gốc của giải thoát sanh tử.

Ngài Trúc Lâm Đại Đầu-đà trong bài Cư trần lạc đạo, kết thúc bằng bốn câu kệ:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc san hề khốn tắc miên,
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

Dịch:

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên, là ở giữa bụi trần như quí Phật tử mà vui với đạo. Muốn thế phải khéo tùy duyên. Tùy duyên bằng cách nào?

Cơ tắc san hề khốn tắc miên, nghĩa là đói đến thì ăn mệt ngủ liền, thấy như không tu vì thảnh thơi quá. Nhưng thật ra người tu ăn ngủ không giống như người thế gian. Người thế gian ăn đòi món này món nọ, người biết tu cho gì ăn nấy, không khởi niệm đòi ngon, chê dở. Đó là khéo tùy duyên. Người thế gian nằm xuống trằn trọc không chịu ngủ, người biết tu nằm xuống ngủ khò. Đó là khéo tùy duyên. Dù hình thức cư sĩ mà đói ăn mệt ngủ, không đòi hỏi kén chọn vẫn là người khéo tùy duyên.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, tức là ngay trong nhà sẵn có châu báu, không nên tìm kiếm ở đâu. Châu báu ví dụ cho Bản lai diện mục hay Chân tâm sẵn có của mình. Cái đó quí hơn tất cả mọi thứ trên thế gian này. Vì tất cả mọi thứ trên thế gian thuộc về tướng vô thường sanh diệt, Chân tâm không phải vô thường sanh diệt nên quí hơn tất cả. Chúng ta có sẵn rồi đừng tìm ở đâu hết, mà hãy xoay lại chính mình để nhận ra.

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền, nghĩa là đối với sáu trần chúng ta không dính mắc, đó là vô tâm, là thiền. Như vậy Ngài dạy đúng như Lục Tổ đã dạy. Tâm không dính mắc là tâm an định, tâm an định thì trở về hòn ngọc báu trong nhà, chớ không đâu hết.

Từ đức Phật tới chư Tổ đều chỉ cho chúng ta cái gốc này. Bao nhiêu công phu của mình nằm hết trong mọi sanh hoạt đi đứng nằm ngồi đều tu, không phải chỉ ngồi mới tu. Trong nhà Phật thường nói tu cả bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi, lúc nào cũng là lúc tu. Nhưng ngồi là ưu hơn hết, thù thắng hơn hết. Tại sao? Bởi vì khi chúng ta đi, mắt ngó cái này cái kia thành ra hơi xao lãng, có những niệm lăn tăn dấy lên mình không thấy. Tuy tu nhưng chỉ thấy được niệm thô, còn niệm tế không thấy nên yếu. Đứng cũng vậy, thấy cảnh thấy người tâm duyên theo nên khó thấy rõ tâm mình, tu được nhưng không mạnh. Đến nằm lại càng yếu hơn nữa, nằm một chút thì ngủ nên không nhớ tu. Chỉ có ngồi là thù thắng hơn hết. Nhất là ngồi thiền tư thế vững vàng nên có sức mạnh tinh thần, nhìn thấy tường tận những dấy niệm lăng xăng, chúng ta dễ dẹp hơn mấy trường hợp kia. Cho nên giai đoạn đầu của công phu, ngồi là thiết yếu vì đủ sức mạnh dẹp phá vọng tưởng. Nếu nghe nói đi đứng nằm ngồi cũng tu rồi quí vị tha hồ thì tu lâu lắm. Từ sức mạnh của ngồi tu thuần thục, sau đó đi đứng mới có khả năng kềm chế.

Như vậy tu là dẹp hết những tâm vọng tưởng điên đảo. Dẹp hết vọng tưởng điên đảo rồi thì không còn phiền não. Nhất là khi chúng ta nhận được mình có cái chân thật, thấy ai mình cũng thương, không ghét. Đó là tâm từ bi. Không phải họ sống vừa ý mình thương, không phải họ khổ sở mình thương, mà thương vì họ có cái thật như mình nhưng họ quên, rồi sống trong lao đao lận đận khổ sở. Thương là thương như vậy, tổng thống cũng thương, người bần cùng cũng thương, không phân biệt người nghèo mới thương, người giàu không thương. Vì thương là thương cái mê của chúng sanh, có cái thật mà quên không biết nên khổ. Tình thương này chính là lòng từ bi bình đẳng trong nhà Phật. Chỉ khi nào giác chúng ta mới có được thứ tình thương ấy, còn mê đừng nói từ bi. Mê thì chỉ thương ai vừa ý, ai đẹp mắt mình thôi, không bao giờ thương tất cả được.

Bây giờ chúng ta tu để nhận ra của báu, coi thường tất cả những thứ tạm bợ giả dối ở thế gian. Thân không quan trọng, ý niệm không quan trọng thì còn tranh hơn thua với ai, phải không? Chỉ người nào cho nó thật nên mới chấp, mới giành giật hơn thua đủ thứ. Chúng ta tu để thành Phật thì phải phăng tìm gốc của Phật tu, ứng dụng đúng tinh thần Phật dạy, tu như thế mới có kết quả chứ. Cứ lăng xăng bao nhiêu chuyện bên ngoài, làm sao thấy được Tâm chân thật không sanh diệt. Phải có những giờ phút lặng lẽ yên tĩnh, nhìn lại mình mới nhận ra được cái chân thật ấy. Tất cả những thứ bên ngoài là phương tiện, không phải gốc, quay lại tìm tường tận cái chân thật của chính mình mới là mục đích tối thượng trong đời tu.

Trọng tâm tu của đạo Phật mới thấy như bình thường, nhưng nó tối quan trọng. Con người biết được mình thì không còn ai hơn thua giành giật nữa, tất cả đều thương nhau như ruột rà, vì có cái gì để hơn thua! Tâm lăng xăng lộn xộn là tâm điên đảo, đã là điên đảo thì có gì đâu quí giá. Bởi vậy nên tu là trở về cái chân thật, trở về chính mình. Ngộ đạo là ngộ được cái thật nơi chính mình, không có gì lạ hết.

∗ Ý NGHĨA CỦA LỄ TRUNG THU

Thường Chiếu – 1996

Nhân ngày lễ Trung Thu, chư Tăng tại Thiền viện Thường Chiếu tổ chức đêm tiệc trà Trung Thu và mời tôi chứng minh. Vì vậy tôi có mấy điều nhắc nhở chư Tăng Ni và Phật tử tu hành.

Điểm thứ nhất tôi nhắc về sự liên hệ giữa người tu chúng ta với ngày lễ Trung Thu. Chúng ta lợi dụng Tết Trung Thu của nhi đồng, tổ chức lễ Trung Thu trong Thiền viện. Điều đó không thể tránh khỏi một số người phê bình quí thầy cũng vui chơi như trẻ con. Đây là điểm tôi cần giải thích rõ.

Đức Phật đã từng chỉ dạy cho người tu, nhất là người tu thiền. Muốn tu đến nơi đến chốn thì phải tập tâm mình không dính, không kẹt với sáu trần, giống như những đứa anh nhi. Anh nhi tức là trẻ nhi đồng. Đối với sáu trần nó không tham, không sân, không si. Thấy thì thấy, nghe thì nghe, biết thì biết, nó không đắm mê hay dính kẹt như người lớn.

Cho nên khi Quốc sư Huệ Trung ở núi, có người hỏi: “Hòa thượng ở núi bốn mươi năm làm những gì?” Ngài kêu một đứa bé lại, vò đầu nó nói: “Tỉnh, tỉnh, đừng để người lừa.” Đó là ý nghĩa gì? Người tu đến giai đoạn buông xả hết tâm điên đảo vọng tưởng rồi, luôn luôn hằng tỉnh hằng giác, không bị sáu trần làm mê hoặc, lôi kéo. Do đó khi chúng ta ngồi yên tu, mọi công hạnh nằm ở chỗ phải luôn luôn tỉnh, luôn luôn giác, không chạy theo, không dính mắc với sáu trần. Đó là hạnh của anh nhi, tất cả người tu thiền cuối cùng cũng phải đến đó.

Người tu thiền khi tâm đã trong sáng, thanh tịnh rồi, lúc nào cũng vui vẻ, tươi cười, không ưu phiền, bực bội, tức tối. Nếu là một Thiền sư mà cứ bực bội việc này, tức tối việc kia, phiền não dồn dập thì chưa phải Thiền sư. Thiền sư tâm ý luôn luôn vui hòa, có những cử chỉ thái độ hồn nhiên cũng như trẻ con. Tại sao được như vậy? Không phải vì các ngài hạn chế, bắt buộc hay là dằn ép, mà vì nơi các ngài tâm hồn đã trong lặng, không dính mắc cái gì bên ngoài, nên mới an ổn, vui tươi, hồn nhiên như bé thơ. Tâm hồn ấy nhà Phật gọi là hạnh anh nhi.

Thiền sư nhìn trẻ con ngây thơ, khờ dại, không buồn, không khổ, không lo. Chính những điểm ấy gần với người tu chúng ta, vì vậy ta muốn hòa vui với cái vui của trẻ nhi đồng. Đó là tinh thần tổ chức lễ Trung Thu của chư Tăng ở đây. Không phải vì ham vui mà vì muốn nhắc nhở nhau sống với tâm hạnh hồn nhiên, tươi đẹp của trẻ thơ. Đừng ai thắc mắc, đừng ai than phiền, đừng ai bực dọc, mới là hạnh chân thật của Thiền tăng.

Ý nghĩa thứ hai, ban tổ chức nói rằng đêm Trung Thu trăng tròn sáng rực. Chúng ta tu hành cũng muốn làm sao đi đến chỗ giác ngộ sáng suốt như trăng rằm đêm Trung Thu. Nói là nói theo văn chương vậy thôi, chớ thực tế trăng hôm nay sáng không? Trăng hôm nay tối, vì bị mây che. Tôi thường nhắc tất cả Tăng Ni, chúng ta tu không phải tìm Tánh giác từ phương trời nào, mà cốt làm sao dẹp bỏ những vọng tưởng điên đảo nơi mình. Tánh giác nơi chúng ta, ai cũng có sẵn, nên Phật mới tuyên bố: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành.” Nếu chúng ta không có tánh Phật thì Phật không bao giờ tuyên bố câu ấy.

Nơi chúng ta có sẵn Tánh giác, tại sao mình không thấy? Tại vì vọng tưởng cứ liên miên, hết cái này tới cái kia, nó che lấp mãi nên cả ngày chúng ta không thấy được Tánh giác. Giống như đêm nay, mặt trăng không phải không hiện hữu, nó sẵn sàng trên hư không, nhưng vì mấy đám mây đen cứ liên tục kéo tới che lấp, thành thử chúng ta nhìn thấy như bầu trời tối. Bầu trời tối không có nghĩa là không trăng. Trăng vẫn rất sáng, nhưng chúng ta không thấy là vì mây che. Nơi nào không có mây che, thì mới thấy trăng sáng.

Đức Phật và các vị Bồ-tát thấy rõ nơi mình có Tánh giác hiện tiền, còn chúng ta không thấy là tại sao? Tại chúng ta bị những đám mây đen phiền não che phủ. Tuy không thấy nhưng nghe Phật, Bồ-tát nói chúng ta có Tánh giác, mình tin chắc và cố gắng dẹp tan vô minh, phiền não, chừng đó chúng ta sẽ thấy như đức Phật. Đó là lẽ thật mà tất cả chư Tăng Ni cũng như Phật tử đang ứng dụng tu hành. Chúng ta dẹp phiền não, dẹp vọng tưởng vì muốn cho ánh trăng giác ngộ hiện ra, chớ không phải tìm sự giác ngộ từ đâu đến. Sự giác ngộ đã sẵn nơi mình, giống như mặt trăng đã sẵn trong bầu hư không, chỉ bao giờ mây tan thì trăng hiện, khỏi cần tìm kiếm ở đâu xa. Chúng ta đừng mong thành Phật, đừng mong giác ngộ, mà chỉ làm sao dẹp bỏ tất cả vọng tưởng, tất cả điên đảo đang phủ che tánh Phật của mình, tự nhiên không cầu cũng sẽ thành Phật. Đó là điều tối thiết yếu của sự tu hành.

Ý thứ ba, tôi muốn nhắc nhở chư Tăng Ni phải chuyên sâu vào phần thực hành. Vừa rồi, tôi đọc lại kinh Pháp Cú của Hòa thượng Thiện Siêu dịch. Trong đó Phật nói thế này: Người tụng kinh giỏi mà không khéo tu, gọi là thầy tụng, người thuyết pháp giỏi mà không khéo tu, gọi là thầy thuyết. Đọc tới đây tôi thấy có chỗ thấm. Vừa rồi lại có một người khách tương đối quan trọng tới thăm, hỏi tôi:

– Thiền viện của quí thầy nuôi Tăng Ni, như vậy những vị Tăng Ni ở Thiền viện chừng bao lâu mới mãn khóa ra làm Phật sự?

Tôi trả lời:

– Nếu là học thì bốn đến sáu năm mãn một khóa, còn tu thì không định năm. Bởi không định năm nên tôi không thể nói mấy năm mãn khóa.

Vị ấy hỏi tiếp:

– Như vậy những vị ở đây, chừng nào có thể ra làm Phật sự?

Tôi trả lời:

– Chừng nào tôi thấy những vị đó đầy đủ đức hạnh, thông hiểu Phật pháp sâu, đáng tin cậy thì tôi sẽ cho ra.

Ông ta liền bẻ lại:

– Làm sao Thầy biết người đó đáng tin cậy?

Tôi đáp:

– Người nào khi học lời Phật Tổ dạy, ứng dụng tu được, sống được với điều đó, thì tôi tin tưởng.

Ông bẻ thêm một câu nữa:

– Như vậy chúng của Thầy ở đây hoài, không cho đi đâu hết, làm sao biết người đó đủ sức thắng những việc trở ngại, đủ sức thắng sự nóng giận?

Tôi trả lời tiếp:

– Tuy chúng ở đây không đi đâu, nhưng Thiền viện cả trăm người, ở chung với nhau mỗi người mỗi ý, chắc rằng cũng sẽ có những bất đồng xảy ra. Nếu những bất đồng xảy ra mà người nào vẫn thản nhiên tự tại, không buồn không hờn không trách, thì tôi thấy người đó được. Còn nếu có bất đồng rồi đâm ra bực bội, sân si, hờn trách nhau, tôi thấy người đó chưa được. Vì vậy tôi nghĩ ở trong chúng cả trăm người, ai đã sống được với tinh thần tha thứ hòa nhã, biết mến thương huynh đệ, không thù địch, không chống đối, không những hiểm độc để làm phiền nhau, tôi tin rằng những người đó sẽ làm được Phật sự. Mai kia, khi ra ngoài dù gặp cảnh khó hơn, họ có thể thắng được không khó.

Nói đến đây vị khách mới bằng lòng. Tôi giải thích thêm:

– Giả sử Tăng Ni ở trong Thiền viện chúng tôi, có người tới hỏi: “thưa thầy (hoặc thưa cô) thế nào là tam độc”, quí thầy cô sẽ giảng rõ tam độc là gì, tại sao nói nó độc. Nghe giảng như vậy quí vị có tin người đó chưa? Chắc rằng chưa tin. Chừng nào cảnh trái nghịch đến với họ, họ không nổi sân, lúc đó quí vị mới tin họ đã biết sân là độc. Gặp cảnh đáng ham muốn mà họ vẫn thản nhiên không ham muốn, quí vị mới tin họ đã dứt được lòng tham. Gặp những việc khó xử, họ vẫn thản nhiên tự tại, giải quyết một cách nhẹ nhàng, không phiền hà, không bực bội ai hết, quí vị mới tin họ có trí tuệ. Qua cách đối xử khi gặp những cảnh trái thuận, Tăng Ni vẫn tự tại giải quyết, vị đó là người đáng tin.

Giảng như vậy rồi, tôi mới sực nhớ câu kinh Pháp Cú, Phật dạy nếu mình tụng kinh giỏi mà không khéo tu thì gọi là thầy tụng, thuyết pháp giỏi mà không khéo tu thì gọi là thầy thuyết. Chúng ta nói tam độc rành quá, mà ai chọc tức nổi sân ầm ầm lên, như vậy mình chỉ biết thuyết, chớ đâu biết tu! Nghiệm qua điều này, tôi thấy lời Phật dạy quá thống thiết.

Chúng ta học thuộc lòng kinh, tụng bài này qua bài nọ, mà không khéo ứng dụng lời Phật dạy để tu sửa nội tâm của mình cho được sáng suốt, trong sạch thì việc tụng ấy chỉ là biết tụng chớ chưa phải biết tu. Biết tu là biết ứng dụng, biết điều phục ngay nơi bản thân mình, nội tâm mình, những điều xấu dở mình hàng phục thành hay tốt. Đó mới thật là người biết tu. Cũng vậy, dù mình thông thuộc được nhiều giáo điển, thuyết thao thao bất tuyệt, nhưng những gì mình nói ra cho người ta nghe, khi nó đến với mình, mình không thắng nổi, đầu hàng nó, như vậy cái thuyết của mình chỉ là thuyết suông, chớ không phải tu.

Tôi nói thế để tất cả Tăng Ni nhớ rõ, chúng ta là thầy tu chớ không phải thầy tụng hay thầy thuyết. Chúng ta học kinh, hiểu kinh để ứng dụng tu, đã ứng dụng tu thì phải sống đúng như thật lời Phật dạy. Biết cái đó xấu thì phải chừa bỏ, biết cái đó là tội lỗi thì phải tránh, biết cái đó tai họa trầm luân sanh tử thì phải vượt qua, đừng để mắc kẹt. Được như vậy mới là người biết tu. Học nhiều, đọc tụng nhiều mà không biết ứng dụng thì chưa phải là người khéo tu. Nên nói tới người tu, đòi hỏi có sự ứng dụng cho đến nơi đến chốn.

Tôi nhớ lời Tổ Đạt-ma trả lời với một học nhân:

– Thế nào gọi là Tổ?

– Hạnh giải tương ưng gọi là Tổ.

Giải là hiểu, hạnh là thực hành. Hai điều này thích hợp với nhau, cùng tương ứng với nhau mới thật là Tổ. Còn hiểu một đàng làm một ngả, thì không xứng gì hết, không hợp với ý Phật Tổ dạy.

Hôm nay nhân ngày Trung Thu, tôi đem ba ý này để nhắc nhở Tăng Ni và Phật tử, nên hiểu rõ chúng ta là người tu thì phải hành. Thực hành lời Phật dạy để sống đúng với đạo lý, như vậy mới thật là người tu. Chúng ta đừng nói đạo lý ở ngoài môi mép mà trong thâm tâm không làm gì hết. Người như thế chưa phải thật tu. Tôi mong tất cả quí vị cố gắng thực hiện cho được những điều tôi nhắc nhở. Có thế mới xứng đáng với bổn phận và trọng trách của một người tu chúng ta.

∗ TÌM NGỌC NHƯ Ý

Trúc Lâm – 2002

Hôm nay là buổi giảng tại Thiền viện Trúc Lâm – Đà Lạt. Lần giảng này, tôi rút ruột ra nói chớ không phải giảng theo kinh sách. Rút ruột tức là ở trong lòng có gì thì lôi ra nói, không nói những thứ từ bên ngoài. Cho nên Tâm Kinh thường được gọi là kinh ruột vậy.

Ở đây có hai điểm rất quan trọng, tôi nhắc cho Tăng Ni, Phật tử nhớ. Chúng ta chủ trương tu thiền theo Thiền tông, vậy chủ trương đó tu theo hệ thống nào? Hệ thống đó duy nhất hay có sai biệt? Đó là những vấn đề thiết yếu.

Người ta thường đặt câu hỏi: Thời này là thời đại khoa học, con người tiếc từng giờ, từng khắc để làm ra tiền bạc, nhưng những vị tu thiền nhất là chư Tăng Ni ở Thiền viện, ngày đêm ba thời, sáu tiếng đồng hồ ngồi ngó xuống lim dim, không làm ra xu con nào hết, không lợi ích cho ai, như vậy có phải là phí phạm thời gian quí báu của mình hay không? Nói cách khác có phải tiêu cực đối với xã hội hay không? Đó là vấn đề mà những người thích hoạt động, thích làm việc thường đặt ra.

Vì thế chúng ta phải thấy sâu, thấy rõ việc mình đang làm. Muốn tất cả chúng ta thấy sâu thấy rõ về vấn đề này, nên hôm nay tôi nói đề tài “Tìm ngọc như ý”. Ngọc như ý chữ Phạn gọi là “Ma-ni bửu châu”.  Người thế gian thì tìm vàng tìm bạc, chúng ta tu thì tìm hòn ngọc như ý. Người đời thích làm ra tiền của nhiều để nuôi dưỡng thân xác thịt cho được sung mãn. Họ cho thân xác thịt là thật, là quí, nên tìm mọi phương tiện tạo nhiều vật chất để nuôi dưỡng nó được sung mãn. Nhưng giả sử nuôi thân này lên được một trăm ký, thì khỏe hay mệt? – Mệt. Như vậy càng sung mãn thì càng hiểm nguy, cuối cùng nó thế nào? Nó trở thành một thây thúi. Như vậy, suốt mấy mươi năm từ khi chúng ta có mặt ở trần gian cho tới ngày nhắm mắt, lo cho thân, bảo vệ thân, cuối cùng nó cũng phải tan rã. Thế thì sự nuôi dưỡng ấy có quí, có giá trị gì đâu. Vậy mà ngàn người muôn người như một, đều chỉ biết lo cho nó thôi. Đây là những người tầm thường, chỉ biết có thân.

Qua người khá hơn, lý tưởng hơn thì họ còn biết gì nữa? Biết đến cái tâm, tức phần tinh thần. Những gì họ suy gẫm theo cái nhìn, cái hiểu, cái học của mình và cho là đúng, là chân lý rồi thì bảo vệ, truyền bá suy nghĩ của mình đến cùng. Người khác cũng thế, mọi người trên thế gian, ai có lý tưởng cũng đều muốn truyền bá lý tưởng của mình. Nhưng lý tưởng ông A khác lý tưởng ông B, thì hai người sẽ đi đến tranh cãi nhau. Nếu có thêm lý tưởng ông C nữa, sự việc sẽ dẫn tới đâu?

Có hai điều làm nhân loại đau khổ. Điều khổ thứ nhất là giành nhau vật chất để nuôi thân. Bởi giành nhau vật chất nên kẻ được người mất. Kẻ được thì vui cười hớn hở, người mất thì nổi giận oán thù. Cứ như vậy mà sát phạt nhau không có ngày cùng. Nhỏ thì giành giựt nhau ở trong gia đình, anh em chia của nhiều ít sanh ra chuyện cãi vã. Còn lớn chút nữa thì tập thể này với tập thể kia, xí nghiệp này với xí nghiệp nọ. Lớn nữa thì nước này giành nước kia. Cứ như vậy mà gây đau khổ, con người không biết làm sao dừng được nỗi khổ? Điều khổ thứ hai là chấp phần tâm. Ai cũng cho tâm mình nghĩ, tâm mình tưởng là chân lý. Người này cho nghĩ tưởng của mình là chân lý, người khác cũng cho nghĩ tưởng của mình là chân lý. Thế là năm ba cái chân lý gặp nhau. Chân lý số một cãi với chân lý số hai, chân lý số ba cãi với chân lý số bốn, rồi cả thế gian đều nhào lộn trong cái sát phạt, tàn hại nhau. Cái đau khổ của nhân loại là ở chỗ đó.

Đạo Phật thì khác hẳn. Đức Phật dạy cho chúng ta biết, đứng về vật chất thì thấy thân này hư giả. Song tiếc thay, thời nay người tu chưa thấy giả, hoặc có thấy chỉ thấy phần nào thôi, nên không can đảm nói thân này là giả. Đúng tinh thần, người học Phật luôn luôn thấy thân này là giả. Tại sao? Bởi vì nó có rồi mất, mà cái gì có rồi mất, thì cái đó không phải thật. Cái thật thì không mất. Cái tạm bợ qua thời gian rồi mất thì làm sao thật được. Thế nhưng chúng ta không dám nói mạnh thân này giả, chỉ nói một cách hơi nhè nhẹ thôi, “ờ giả”. Tại sao? Vì sợ nói giả một hồi, người ta chọc mình, mình chịu không nổi thành thua người ta. Người tu mà chưa can đảm nói thân này giả, thì hàng cư sĩ làm sao dám nói giả! Do không dám nói giả, thành ra cái giả ấy chỉ hơi ỡm ờ, chưa rõ ràng gì hết. Vì vậy chúng ta tu chậm tiến, tu mà thiếu lòng từ bi.

Nếu chúng ta biết thân này là giả thì tất cả cái gì mình được, huynh đệ chung quanh không được, mình dư huynh đệ chung quanh thiếu, chúng ta chia sớt. Huynh đệ chia sớt với nhau để tạm sống, giữ nhiều làm gì? Như vậy có phải lòng từ bi tràn trề không? Đằng này chúng ta chưa dám nói thân giả, nên để dành. Bởi vì còn thật, còn sống lâu mà, nên để dành kha khá một chút. Người khác thiếu kệ họ, mình cũng không cần quan tâm. Hoặc mình đang ấm no, thấy người khác thiếu thốn, mình cũng không can đảm chia sớt cho họ. Đó là tại vì chưa thật thấy thân giả. Nếu thật thấy thân này hư giả thì mọi nhu cầu của thân mình, chúng ta đều không quan trọng. Thấy ai thiếu thốn, mình giúp bằng cách này, cách nọ, như vậy mới thật là người thấy thân giả.

Người thế gian nói thấy thân giả là chán đời, yếm thế, nhưng không phải vậy. Nhờ thấy giả nên mình không tham, không tham nên dễ chia sớt cho người khác. Chính nhờ thấy thân giả, chúng ta mới mở rộng lòng từ bi, chan rải chia sớt với mọi người những ấm no, đói thiếu. Thấy giả mới làm được việc đó, còn thấy thật thì khó làm. Cho nên biết thân giả không có nghĩa là tiêu cực yếm thế. Biết thân giả không có nghĩa là người trốn đời hay chán ngán thế sự.

Biết thân giả thì ai cần chúng ta giúp, bởi vì giữ nó cũng không còn. Bây giờ cần giúp người ta bớt khổ, mình sẵn sàng giúp, như vậy mới có tinh thần hi sinh. Nếu thấy thân này thật thì đâu nỡ hi sinh. Vì vậy người thấy thân giả vừa sẵn sàng chia sớt vật chất cho mọi người, vừa sẵn sàng hi sinh thân mình để giúp người. Vậy thấy thân giả là lợi hay hại? – Lợi. Hiểu như vậy chúng ta mới hiểu ý nghĩa chữ “giả” của đạo Phật. Những người nói đạo Phật cho rằng thân này và muôn sự muôn vật đều giả thì chán chết, không muốn làm gì hết, nên theo đạo Phật là bi quan yếm thế. Đó là tại họ không hiểu ý nghĩa giả của đạo Phật. Là người học Phật chúng ta phải hiểu cho sâu, nắm cho vững chỗ này, để tránh những hiểu lầm của người khác, mà cũng tránh hiểu lầm cho bản thân mình.

Nhiều người tu nói thân này giả, thôi mình lên núi nằm queo đó chờ chết cho rồi, cho thảnh thơi. Giả mà lại muốn cho nó thảnh thơi! Nếu giả thì sẵn sàng lăn xả vào làm việc, lợi ích cho mọi người, chớ sao lại muốn thảnh thơi? Muốn thảnh thơi là cưng dưỡng thân, mà cưng dưỡng là không thấy thân giả rồi. Người tu phải hiểu rõ thân này hư giả, để tránh nạn cưng dưỡng thân. Nếu thấy thân giả, tạm bợ, hư dối thì chúng ta chiến thắng được lòng tham vật chất. Dùng trí tuệ nhìn thấy đúng thân giả, nên phá tan lòng tham thụ hưởng, muốn bảo vệ thân. Như vậy nhờ trí tuệ phá si mê nên lòng tham mất. Chúng ta không còn giành giựt về vật chất, thì sự được mất vật chất không thấy quan trọng. Không thấy quan trọng thì còn gì đâu giành giựt nhau, còn gì đâu sát phạt nhau, để giành phần hơn về mình. Như vậy là chúng ta khỏi tranh đua, giành giựt hay cướp bóc lẫn nhau. Nếu ai cũng thấy như vậy thì trên thế gian này không có sự giành hơn về mình cho thật nhiều, để những kẻ khác thua thiệt, mọi người sẵn sàng chia sớt lẫn nhau. Đó là tâm bình đẳng thương yêu, nhà Phật gọi là lòng từ bi.

Bước qua phần tâm. Người đời cho những suy gẫm, lý tưởng của mình là chân lý, là thật. Nghĩ nó là thật nên khi mình suy gẫm được một vấn đề gì cho là rất hay rất đúng, đem ra phổ biến. Có người khác suy nghĩ ngược lại với mình, họ thấy cũng rất hay rất đúng, nên họ cũng phổ biến. Hai cái đúng gặp nhau thì nảy sanh ra sự sát phạt lẫn nhau. Nhiều khi chúng ta tu mà vẫn mắc kẹt vào những sai lầm này.

Trong Phật giáo, chia ra nhiều giáo phái, nhiều pháp môn. Tại sao như thế? Vì đức Phật thấy rõ trình độ, căn cơ của chúng sanh sai biệt, không ai giống ai. Kẻ sống bằng tình cảm thì Ngài dạy lấy lòng tin để hướng dẫn họ tu. Người sống bằng trí tuệ thì Ngài dạy lấy trí tuệ làm hướng tu cho họ. Người thích linh thiêng Phật dạy thần chú v.v… đủ cách để độ hết mọi người. Mỗi pháp môn Phật dạy, nếu chúng ta tu đúng thì kết thúc cũng gặp nhau. Nhưng ngược lại khi bước vào mỗi pháp môn, tuy biết đó là Phật dạy, mà bên này chọi bên kia. Người khác tu không giống mình là không ưa rồi, có khổ chưa? Mình với mình một thầy mà không ưa nhau, tại sao vậy? Vì ý tưởng không rập khuôn theo mình. Không rập khuôn theo mình thì mình không ưa. Như vậy có phải chúng ta mang bệnh độc tài không?

Phật đã biết chúng sanh có nhiều trình độ, nhiều căn cơ nên mới dạy nhiều pháp môn. Trong kinh thường dụ pháp của Phật như những phương thuốc trị tâm bệnh cho chúng sanh. Chúng sanh có trăm ngàn căn bệnh hay trăm ngàn tâm bệnh thì Phật có trăm ngàn pháp môn để chỉ dạy họ tu, đạt được lợi ích. Tại sao chúng ta là con cháu Phật mà không có tâm rộng rãi? Lẽ ra chúng ta nên khuyến khích, ai tu pháp môn nào cũng phải tu đến nơi đến chốn, đừng nói ai hay ai dở. Đằng này ngược lại, chung trong đạo Phật với nhau, mà người này chỉ trích kẻ nọ, luôn luôn tìm cách kích bác lẫn nhau. Vậy nói sao đây? Người tu mà không thông cảm, không hiểu được nhau, có đáng buồn không? Ai tu pháp môn nào cứ bám vào pháp môn ấy cho là chân lý, là chánh; người khác tu không phải chân lý, là tà. Rồi cho mình tu hay, người kia tu dở, sanh ra chống đối nhau.

Những năm tôi còn học ở trường, thấy nhiều vị đến hỏi các thầy Trụ trì: “Thưa thầy con nghe nói tu thiền hay lắm. Như vậy tu thiền là sao, xin thầy chỉ dạy cho?” Có thầy nói: “Đừng! Đừng! Tu thiền là điên nghen.” Cứ nói tu thiền điên, nhưng không biết tu làm sao mà điên. Cứ một bề nói tu thiền điên. Trong khi đó các nước như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Nhật Bản v.v… người ta tu thiền, thiên hạ đổ xô tới học, còn ở Việt Nam các thầy lại nói tu thiền điên, coi phải khổ không? Từ cái nhìn hẹp hòi đó, đâm ra chúng ta tự đóng khung mình trong phạm vi quá chật hẹp.

Ngày xưa Phật tu thiền, Tổ tu thiền, mà ngày nay con cháu nói tu thiền điên. Như vậy là một sự phản bội không thể tưởng tượng nổi. Nếu điên thì đức Phật đã điên rồi, các Tổ đã điên rồi, đâu truyền tới bây giờ. Cho nên nói như vậy có phải là quá thiển cận không? Từ sự thiển cận đó đi đến chống đối nhau, không tới đâu hết. Cho nên chúng ta học phải học cho tới nơi, thấy cho tường tận. Tu Thiền, tu Tịnh… đều tốt cả, nhưng phải tu đúng theo tinh thần Phật dạy.

Có nhiều người thắc mắc hỏi tôi, người tu Tịnh độ niệm Phật, sau này chết sanh về Cực Lạc, thầy tu Thiền chết về đâu. Hết chỗ về! Nghe nói vậy, ta tưởng như mình đã lạc lõng rồi. Nhưng sự thật, tại sao chúng ta không nhớ gốc của đạo Phật là cứu kính Niết-bàn. Niết bàn là chỗ cứu kính, là vô sanh, không còn sanh thì lấy gì có tử? Người tu Thiền, nếu theo thiền Nguyên thủy thì tới Diệt tận định, không còn thọ tưởng hành thức gì nữa, tới chỗ đó mới gọi là vô sanh, chứng A-la-hán, nhập Niết-bàn. Còn người tu thiền theo Thiền tông, tới chỗ không còn niệm đối đãi sanh diệt nữa là vô sanh, vô sanh là Niết-bàn. Kẻ không biết, cứ nói về Cực Lạc mới cứu kính, còn nhập Niết-bàn chưa phải. Như vậy không biết đức Phật phải dạy sao bây giờ? Đó là cái thấy nông cạn của người học Phật, họ không biết chỗ nào là gốc, chỗ nào ngọn, cứ bị kẹt trong phương tiện, rồi trở lại chống đối người khác. Vì lẽ đó, chấp cái hiểu, cái tưởng, cái nhận định của mình là đúng, đó là bệnh rất lớn.

Trong kinh A-hàm, Phật nói câu tuyệt vời làm sao: “khi chúng ta nghĩ tưởng điều gì, thì nói lên rằng đây là cái tưởng của tôi” thôi. Không nói cái nghĩ tưởng của mình đúng. Tại sao? Vì nghĩ tưởng hay suy tưởng là tướng sanh diệt, nó không phải chân lý, không phải chân lý thì không có cái nào đúng tuyệt đối hết. Nó chỉ đúng một phần, một góc cạnh mà chúng ta lại tưởng là tuyệt đối. Từ đó bám vào suy tưởng hạn hẹp của mình mà sát phạt nhau.

Người tu Phật phải dẹp hết tất cả những suy tưởng, còn kẹt hai bên là còn sanh tử. Bởi thấy còn đúng còn sai là sanh tử, thấy mình phải người quấy là sanh tử. Tới chỗ cứu kính Tâm chân thật là tâm không còn hai, còn hai là chưa phải chân thật. Cái cao siêu của đạo Phật là như vậy. Nghĩa là không cho chúng ta có cái nhìn đối đãi, so sánh đây hơn kia thua, có trọng có khinh. Vì thấy hay sanh ra ngạo mạn, thấy dở sanh ra khinh miệt, như vậy là tâm không tốt, phải bỏ tâm đó. Còn đối đãi là còn sanh diệt, còn sanh diệt thì chưa phải chân lý. Chân lý là không còn hai.

Quí vị thấy chấp thân, chấp tâm nguy hiểm như thế nào rồi. Nếu ai nhìn cũng như Phật dạy hết, thì thế gian này còn tranh đua giết hại nhau nữa hay không? Không giành nhau về vật chất, không giành nhau về lý tưởng, thì cuộc đời bình đẳng. Mọi người có mặt đều biết chúng ta có tạm đây nên thương nhau không hết, đâu có gì phải giành giựt hơn thua. Hiểu như vậy, biết như vậy thì cả thế gian này là Cực Lạc rồi. Ngược lại, ai cũng cho mình là Tổ sư của một triết lý nào đó, rồi phe này chống phe kia, không ai cảm thông nhau, dẫn tới đấu tranh và đau khổ không có ngày cùng. Cho nên sự sát phạt nhau về vật chất có khi còn nhẹ hơn sự sát phạt nhau về tinh thần.

Như vậy trên hai phần tinh thần và vật chất, nếu không có tâm cởi mở, thấy đúng như thật, chúng ta sẽ sống rất đau khổ. Đạo Phật dạy chúng ta thoát ra ngoài hai cái vòng đó. Đối với thân thì biết nó là tạm bợ. Thân tạm bợ nên tất cả vật chất cung ứng cho thân cũng tạm bợ, có gì quan trọng mà phải giành giựt, do đó chúng ta sẵn sàng chia sớt với nhau. Biết tâm suy nghĩ của mình là tâm sanh diệt không thật, không phải chân lý, thì người nghĩ khác mình cũng không thật, thôi bỏ qua hết sống vui với nhau là được. Đừng giành hơn giành thua với nhau làm chi, đừng cho đúng cho sai làm gì, thì cuộc đời có gì là khổ nữa?

Chúng ta thấy cái cao siêu của đạo Phật cao vót nên người đời với không tới. Bởi với không tới nên họ gác qua một bên, cho đó là cái gì siêu hình, không thực tế. Thực tế là giành ăn, giành mặc với nhau đây. Sự thật điều Phật dạy rất đúng, rất thực tế. Ai không biết thân này tạm bợ, giả dối. Nhưng biết mà không dám biết. Khi nào đi đám ma thấy người ta chết, biết mai mốt mình cũng chết, nhưng đâu dám nói mình chết. Cứ nghĩ mình còn sống dài hơn nữa kìa, chớ không phải nay mai sẽ chết. Chúng ta thấy chết là sợ, vì không có cái nhìn bằng trí tuệ, mà chỉ nhìn theo tình cảm. Bám vào thân này làm chỗ tựa duy nhất nên rồi quí chuộng nó, bảo vệ nó. Do quí chuộng và luôn tìm cách bảo vệ nó nên việc đụng chạm với người khác không thể tránh khỏi.

Đó là hai điều mà người tu Phật phải hiểu cho thấu, cho tường tận để mai kia khi ra làm Phật sự, chúng ta mới không lầm lẫn, nếu không sẽ dễ bị kẹt lắm.

Ví dụ như chúng ta tu thiền, Phật dạy phải được định. Định là gì? Nếu định của Tiểu thừa thì được Diệt tận định, nếu Đại định thì không còn niệm thứ hai, đi đứng nằm ngồi đều vô niệm. Đại định thì không còn niệm sanh diệt, cho nên không còn tạo nghiệp đi trong luân hồi, gọi đó là giải thoát. Đức Phật dạy tu thiền là như vậy.

Đến Tịnh độ thì sao? Niệm Phật là dùng câu niệm Phật để đập chết ý niệm lăng xăng. Nhớ Phật thì không nghĩ, không tưởng đến những chuyện khác. Nhờ câu niệm Phật chí quyết, cho tới nhất tâm rồi thì mọi nghĩ tưởng đều tan biến không còn. Niệm Phật cũng tới nhất tâm bất loạn. Bất loạn là hết nghĩ tưởng, hết nghĩ tưởng sẽ được vô tâm, mà vô tâm là được đại định rồi. Vô tâm thì đâu còn tạo nghiệp cho nên hết sanh tử. Như vậy tới chỗ cuối cùng cũng gặp nhau, nhưng phương tiện Phật dạy tùy theo trình độ, căn cơ. Những pháp môn khác cũng vậy, đến chỗ cuối cùng đều tụ hội nhau hết, chớ không có sai biệt. Rất tiếc người đời, cũng như một số người trong đạo không thấy đến chỗ này, cứ nắm trên phương tiện sai biệt rồi cãi nhau, đi tới chỗ bất lợi, chống đối nhau. Đó là điều sai lầm lâu nay chúng ta mắc kẹt.

Người tu thiền cũng vậy. Như chúng ta biết vọng niệm vừa khởi biết nó là dối, không thật. Biết rồi chúng ta buông, cứ thế buông hết tất cả niệm, tới lúc nào đó không còn vọng nữa thì cũng như niệm Phật tới nhất tâm. Vậy chỗ cứu kính không hai đó mới là chân thật, mới cao siêu vượt ra ngoài. Bên Tịnh độ đến chỗ nhất tâm là chỉ còn một tâm. Một tâm ấy không còn niệm nào nên cũng gọi vô tâm. Bên tu thiền được an định, an định rồi thì thể nhập Phật tánh là Tánh giác. Như vậy không phải hết tất cả niệm chúng ta không còn gì, mà chúng ta còn cái chân thật. Niệm Phật tới chỗ vô niệm là nhất tâm thì thấy Phật. Như vậy trên đường tu rất rõ ràng, không có gì phải nghi ngờ nữa.

Nếu ai tu cho thật tới chỗ tột cùng cũng đều gặp nhau hết. Lẽ thật như vậy. Như bên Công giáo người ta niệm Chúa, để làm gì? Niệm Chúa là để nhập được với thánh thể của Chúa. Khi niệm đến chỗ không còn niệm lăng xăng nữa thì nhập thánh thể Chúa, cũng như niệm Phật thấy Phật Di-đà vậy thôi. Vậy chỗ cứu kính không khác, nhưng phương tiện lại khác. Nhưng người ta thường đi trong phương tiện, chớ không tới chỗ cứu kính. Nếu đến chỗ cứu kính thì gặp nhau, cười với nhau thôi, có gì đâu. Đức Phật Di-đà hay đức Chúa gặp nhau cũng cười thôi. Cho nên trên chỗ cứu kính, không có gì chống đối nhau, nhưng trong phương tiện mà chấp phương tiện là cứu kính thì sẽ dẫn đến chống đối nhau.

Như người tu ăn chay thấy người tu ăn mặn liền sanh khó chịu. Nhưng tu đâu phải ở ăn chay, ăn mặn. Chay mặn là phương tiện thôi, còn cứu kính cần phải đạt được giác ngộ giải thoát, chớ không phải ăn chay ăn mặn. Chúng ta chỉ trên chay mặn đã cãi nhau rồi, thành ra hẹp hòi quá, thấy theo chỗ cạn cợt nông nổi của mình, chớ không thấy được chỗ tột cùng của đạo. Nhìn lại trên thế gian này, bao nhiêu đau khổ trút lên đầu con người, đều vì những cái nhìn không tột cùng mà sát phạt nhau.

Chúng ta hiểu thấu rồi, chỉ thương con người sao hẹp hòi, nông nổi quá. Chỗ tột cùng không chịu đi, mà đi trên những đoạn đường chưa phải chân lý, mới là phương tiện nhưng lại hài lòng. Cái khổ của chúng ta là cho những suy lý của mình đúng, không can đảm vượt ra ngoài những suy lý đó. Cho nên nhà thiền bắt chúng ta phải buông, phải dẹp hết những suy lý đó, để đi tới chỗ không còn hai. Không còn hai thì suy lý cái gì?

Chúng ta thấy các Tổ nhà thiền dường như tàn nhẫn. Như hỏi thế nào là Phật, các ngài đập cho một cái, không biết nói gì. Vì không cho suy nghĩ, vừa suy nghĩ là mất Phật rồi. Ông vừa khởi nghĩ để hỏi thì đã mất Phật rồi, nên đánh đòn chớ không nói gì hết. Hiểu thế mới thấy các ngài đi tắt quá. Do tắt quá nên người ta không thể hiểu được, đâm ra nghĩ mình tàn nhẫn. Chớ thật ra đó là cái trực chỉ.

Sau này hệ thiền Lâm Tế, tức sau đời Tống tới đời Minh mới dùng câu thoại đầu. Câu thoại đầu cũng giống như câu niệm Phật thôi, nhưng khác nhau ở chỗ nghi và tin. Bên niệm Phật thì phải tin khẳng định, mình niệm sẽ được Phật đón. Bên thoại đầu thì khởi một câu thoại đầu rồi nhắc tới, nhắc lui hoài để khởi nghi như: “Trước khi cha mẹ chưa sanh, ta là cái gì?” Đặt cái gì hay ai đó để thành cái nghi. Hai bên khác nhau ở chỗ tin và nghi. Nghi thì đi bằng trí tuệ, tin thì đi bằng tình cảm, thâm tín, tin sâu. Nếu ai tin sâu, niệm Phật sẽ được kết quả, hoặc ai nghi nhiều cũng được ngộ. Cho nên Thiền tông nói “đa nghi, đa ngộ” là vậy. Người tu Tịnh độ lấy câu niệm Phật làm phương tiện, người tu thoại đầu cũng lấy câu thoại đầu làm phương tiện.

Chúng ta tu nhiều khi không hiểu nhau. Đôi khi không hiểu nhau không phải ở lời nói hay cách dạy khác, mà tại vì cố chấp riêng. Chớ còn đi sâu, đi tới nơi chúng ta sẽ hiểu rõ, không có gì lạ. Cho nên từ tông Lâm Tế chuyển thành Tịnh độ rất gần, thay vì nghi đổi qua tin niệm Phật thôi. Vì vậy sau này các chùa thiền theo Tổ Lâm Tế chuyển thành Tịnh độ hết, là do như vậy. Nếu truy nguyên nắm cho tột gốc thì chúng ta hiểu rõ ràng, chớ không có gì lạ.

Còn chúng ta tu biết vọng. Thiền biết vọng này xuất phát từ đâu? Đó là câu hỏi mà hiện nay nhiều người đang đặt nghi vấn. Vì họ không thấy các Tổ nói biết vọng, tại sao chúng ta tu thiền biết vọng? Ở đây, tôi sẽ nói rõ về vấn đề này. Bởi vì chỗ y cứ của tôi trước hết là kinh Hoa Nghiêm. Khi đọc kinh Hoa Nghiêm, tôi thấy trong đó có một đoạn Phật nói rằng: “Tất cả chúng sanh đều đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai, bởi do vọng tưởng mà nó bị che phủ.” Như vậy đức Phật thừa nhận tất cả chúng ta đều có đầy đủ trí tuệ đức tướng Như Lai. Trí tuệ đức tướng Như Lai có sẵn rồi mà tại vọng tưởng che phủ nên nó mờ đi. Bây giờ vọng tưởng dấy lên, mình thấy và bỏ thì nó hết che phủ, đúng theo lời Phật dạy trong kinh, không có gì khác.

Kế đó, chúng ta thấy Tổ Bồ-đề-đạt-ma chỉ tâm cho Tổ Huệ Khả. Ngài Huệ Khả hỏi: “Tâm con không an, nhờ Hòa thượng dạy pháp an tâm.” Tổ Đạt-ma bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Câu nói đó có tác dụng mạnh mẽ, bắt ngài Huệ Khả phải quay lại tìm coi cái tâm không an đó ở đâu. Khi quay lại tìm đáo để không thấy, ngài Huệ Khả thật thà thưa: “Con tìm tâm không được.” Tổ Đạt-ma bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.” Đó là pháp an tâm. Ngài Huệ Khả thấy được con đường vào là từ chỗ ấy. An tâm bằng cách xoay lại tìm, nó mất. Đó là an. Chúng ta bây giờ phản quan nhìn lại tâm niệm dấy khởi, nó dấy khởi mình biết là vọng tưởng liền bỏ thì được an. Đó là pháp an tâm.

Sau khi nhập thất tôi đọc cuốn “Thiền nguyên chư thuyên tập đô tự” của ngài Khuê Phong – Tông Mật. Ngài cũng nói thẳng “biết vọng tức là tu”. Còn đệ tử của Mã Tổ là Thiền sư Vô Nghiệp, ai tới hỏi gì Ngài cũng nói “chớ vọng tưởng”, đây cũng là đừng theo vọng tưởng thôi. Như vậy chúng ta mới thấy pháp mình tu có chỗ y cứ đàng hoàng. Từ kinh Phật cho tới các Tổ, từ ngài Huệ Khả mãi về sau đều như vậy, chúng ta có chỗ y cứ.

Vậy chúng ta tu y cứ theo đường lối của chư Tổ là phản quan nhìn lại chính mình. Nhìn lại chính mình, tôi chia ra hai chặng. Chặng thứ nhất nhìn lại vọng tưởng của mình. Vọng tưởng là cái bị thấy, nên có cái hay thấy. Cái hay thấy, thấy được vọng tưởng. Vọng tưởng là cái bị thấy, vậy cái hay thấy là gì? Có phải vọng tưởng không? Nếu cái bị thấy là vọng tưởng thì cái hay thấy là gì? Tôi nói đó là Trí tuệ Bát-nhã. Nhờ trí tuệ thấy biết đó là vọng là dối, thì cái bị thấy là con trâu, mà cái hay thấy là thằng chăn. Thằng chăn khôn hơn con trâu, cho nên thằng chăn thuộc về trí tuệ, con trâu thuộc về vọng tưởng. Trí tuệ Bát-nhã phá dẹp vọng tưởng, nên vọng tưởng dấy lên nó liền phá dẹp. Từ từ cho tới chừng nào vọng tưởng lặng, cũng như thằng chăn điều khiển con trâu tới khi thuần rồi, nó nằm yên đó. Tuy nhiên lúc này thằng chăn cũng còn đứng coi chừng. Bao giờ trâu mất thì thằng chăn cũng mất luôn. Đến chặng thứ hai: Chúng ta dùng Trí tuệ Bát-nhã để phá vô minh, phá vọng tưởng. Khi vọng tưởng, vô minh hết thì trí tuệ cũng phải buông, mới thể nhập được Pháp thân. Rõ ràng như vậy, chớ không phải chúng ta tu với tánh cách tưởng tượng mà có bằng cứ, người xưa đã minh họa rõ ràng hình ảnh cho mình thấy.

Người nào tu mà nói rằng, không cần biết vọng tu cũng được, như vậy cứ để vọng hoài, thử coi chừng nào nó hết? Chúng ta biết, ruồng bỏ như vậy mà lâu lơ lâu lắc, còn chưa sạch thay, huống nữa là để mặc thì biết chừng nào hết? Chúng ta tu chỉ chuyên phản quan lại mình, phá dẹp vọng tưởng trong nội tâm. Chừng nào vọng tưởng hết thì trí tuệ dẹp phá vọng tưởng cũng lặng luôn. Vì không trâu thì chăn cái gì? Chăn ai? Nên tới đây thì cả hai đều lặng, Thập mục ngưu đồ diễn tả như một vòng tròn rỗng lặng. Nhà thiền thường dùng từ “đầu sào trăm trượng” để nói chỗ này. Khi có cây sào thì có người trèo, người trèo từ dưới lên đến điểm chót, nhảy qua được không phải dễ. Từ có trâu và thằng chăn, lần lần trâu hết và thằng chăn cũng mất luôn, chớ thằng chăn còn đeo cây sào cũng không được. Thành ra phải nhảy qua khỏi đầu sào trăm trượng, nghĩa là không còn năng không còn sở. Có sở thì phải còn năng. Hai cái đối đãi rõ ràng. Nhảy qua khỏi đầu sào trăm trượng mới thể nhập Pháp thân. Nên bức tranh kế tiếp, không còn chăn giữ nhưng cái biết trùm khắp hiện tiền, đó là thể nhập Pháp thân.

Khi nhảy qua khỏi đầu sào, có người bảo tu như vậy chỉ lo cho mình thôi, không lo cho ai hết. Phật dạy tu nhập Niết-bàn là vô sanh, vô sanh thì đâu có tái sanh lại. Như vậy thí chủ nuôi chúng ta đã đời, mình nhập Niết-bàn êm ru trong đó, ở ngoài này ai khổ mặc ai, ai chết mặc ai, ai trầm luân mặc ai. Đành không? Đạo Phật không phải như thế, mà nó mang tinh thần vị tha đầy đủ, khi nhập được Pháp thân rồi, thì ứng dụng bản nguyện của mình, hiện ra Báo thân, Ứng thân. Chỗ nào cần Báo thân thì hiện Báo thân như trường hợp đức Phật Di-đà ở cõi Cực Lạc. Người có chánh báo thế nào thì y báo ứng hợp thế ấy, để độ những chúng sanh hữu duyên với mình. Chỗ nào cần hiện Ứng thân thì hiện Ứng thân. Như vùng nào, xứ nào hồi trước có công có duyên với mình, thì Ứng thân hiện ra đó trong thời gian ngắn để giáo hóa họ. Cho nên nhiều vị Bồ-tát hiện ra nơi này, nơi kia giáo hóa một thời gian rồi các ngài ẩn. Đó là dùng Ứng thân và Báo thân giáo hóa chúng sanh. Cho nên mục thứ mười là bức tranh vẽ ông già bụng phệ, quảy bầu rượu xách cá chép đi vô xóm làng. Trong Tứ nhiếp pháp, Phật gọi là đồng sự nhiếp để giáo hóa chúng sanh. Hiểu cho rõ đầu đuôi gốc ngọn thì chúng ta không sợ mắc kẹt gì cả.

Khi thể nhập Pháp thân rồi, không còn sanh tử nữa. Nhưng người tu theo tinh thần này, luôn luôn có bản nguyện cứu độ chúng sanh. Vì cứu độ chúng sanh nên tùy duyên mà hiện Ứng thân, Báo thân để độ người, chớ không phải ngang đó là hết. Vô sanh mà vẫn sanh tùy nguyện, không phải cố định không còn sanh nữa. Vì vậy Phật chê nếu người nhập Niết-bàn, không trở lại độ sanh là tiêu cực, yếm thế. Trên tinh thần ở đây là không sợ sanh tử, cho nên các vị Thiền sư xưa nay hay nói sanh tử như trò đùa, không có giá trị thật. Thấy như vậy mới lăn vào trong đó cứu độ chúng sanh. Còn người thấy nó thật thì không bao giờ dám vào.

Vậy chúng ta tu đường lối rất rõ ràng cụ thể. Đó là phần thứ nhất.

Đến phần thứ hai. Lâu nay tôi thắc mắc tại sao Ngũ Tổ lại đem kinh Kim Cang dạy Lục Tổ. Bây giờ tôi mới thấy rõ ràng, con đường Thiền tông có hai lối. Lối như trên tôi đã nói là lối phản quan tự kỷ. Lối thứ hai là dùng Trí tuệ Bát-nhã quét sạch hết ngoại cảnh, thân và cảnh đều quét sạch. Thân và cảnh đều quét sạch thì còn gì nghĩ, không còn gì nghĩ, lúc đó làm sao? Đây là chỗ kỳ đặc, các vị Tổ tu theo lối này thường không chú trọng ngồi thiền.

Lục Tổ lấy kinh Kim Cang làm chỗ tựa. Trong kinh Kim Cang, Phật dạy trước phải phá chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả tức chấp thân. Đừng thấy thân thật, đó là bước đầu để tâm an. Không thấy thân thật nên không giành giựt, không hơn thua gì về vật chất. Khi thấy thân mình không thật, người không thật, chúng sanh, thọ mạng cũng đều không thật hết, thì còn gì cố chấp. Nếu thấy thân mình và người đều không thật, nhưng còn thấy cảnh thật cũng chưa được. Cho nên phải thấy sáu trần không thật. Hai câu hỏi của ngài Tu-bồ-đề nêu lên đầy đủ ý nghĩa đó. Ngài hỏi làm sao hàng phục tâm, làm sao an trụ tâm? Phật nói đừng thấy bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả là hàng phục tâm. Tại sao?

Tất cả mọi thứ suy nghĩ đều nghĩ hoặc cho mình, hoặc cho người, hoặc cho nhóm này nhóm nọ, hoặc nghĩ về cuộc sống. Những suy nghĩ ấy, chúng ta đều thấy không thật thì mình còn nghĩ làm gì. Nhưng như vậy chỉ mới phá được cái nhân, còn pháp ở ngoài chưa phá, phải thấy tất cả cảnh bên ngoài không thật nữa. Cho nên Phật dạy đối với sáu trần đừng vướng mắc, đó là an trụ tâm.

Như vậy thấy thân không thật, cảnh không thật thì chúng ta còn nghĩ cái gì? Quí vị thử nghĩ cho tôi một cái xem? Không còn gì để nghĩ nữa. Thấy thân không thật, cảnh không thật thì ngồi cười thôi. Tu theo tinh thần này, không có chăn tâm mà phá cái chấp thân và chấp cảnh. Phá chấp thân chấp cảnh là dùng Trí tuệ Bát-nhã, cho nên nói Kim cang Bát-nhã. Vì Trí tuệ Bát-nhã giống như kim cương, không gì rắn chắc bằng. Người nào sử dụng cách tu này thấu đáo tột cùng thì sẽ đạt đến Niết-bàn vô sanh. Bởi vì không còn gì để nghĩ, thì chúng ta nương vào đối tượng nào để nghĩ. Khi khởi nghĩ, chúng ta thường nghĩ về mình, về người, về cảnh… Bây giờ thấy tất cả đều giả dối thì có gì đâu mà nghĩ, chỉ ngồi cười chơi vậy thôi. Nên cách tu này không theo dõi ở trong, chỉ phá bên ngoài, mà các vọng tưởng bên trong cũng tự hết. Còn cách tu ở trên là đi thẳng vô trong, khi ở trong lặng thì bên ngoài cũng yên theo.

Câu chuyện của ngài Hương Nghiêm tới với ngài Trung Ấp mang tinh thần tu theo cách phản quan tự kỷ. Ngài Hương Nghiêm hỏi:

– Thế nào là Phật tánh?

Ngài Trung Ấp bảo:

– Ta nói cho ngươi nghe một thí dụ. Như người nuôi một con khỉ ở trong lồng có sáu cửa, bên ngoài con khỉ khác tới kêu chéo chéo nơi cửa này, con khỉ bên trong chạy ra đáp chéo chéo trả lại. Các cửa kia cũng vậy.

Ngài Hương Nghiêm nói:

– Nếu con khỉ ở trong ngủ thì sao?

Ngài Trung Ấp nói:

– Ta với người thấy nhau rồi.

Bởi vì con khỉ ngủ là cái tâm chạy theo cảnh lặng rồi, nên cảnh bên ngoài mặc nó, không cần phá. Tu theo cách phản quan không cần phá cảnh bên ngoài, mà chỉ cần phá nội tâm của mình. Bên trong đã lặng yên thì tất cả mọi thứ bên ngoài đều vô nghĩa.

Tu theo cách dùng Trí tuệ Bát-nhã, thấy tất cả thân, cảnh đều hư giả, thì sẽ đạt đến chỗ vô tâm. Như Thiền sư Duy Tín đời Tống nói: “Trước ba mươi năm tôi thấy núi sông là núi sông. Sau gặp thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải là núi sông. Bây giờ tôi lại thấy núi sông là núi sông.” Nghĩa là trước Ngài thấy với phàm tình sông này đẹp, núi kia dài v.v… nên nói núi sông là núi sông có thật. Nhưng sau khi được thiện hữu tri thức chỉ dạy, biết thân không thật, cảnh không thật, mọi việc đều không thật, thì núi sông không phải núi sông nữa. Phải ba mươi năm thấy nhuần nhuyễn như vậy, bây giờ tâm hết nghĩ tưởng rồi thì núi sông là núi sông. Trên cách tu, mỗi vị đi sâu vào một con đường. Tổ Huệ Khả đi sâu vào phản quan, Tổ Duy Tín đi sâu vào Trí tuệ Bát-nhã, phá dẹp các thứ kiến chấp.

Vậy Thiền tông của chúng ta đi đường nào? Thiền của Sơ tổ Trúc Lâm dạy tu đường nào? Cả hai: vừa phản quan, vừa quán các pháp như huyễn. Có lúc nào Ngài nói các pháp thật đâu. Đọc hết các lời giảng dạy của Tổ, chúng ta thấy Ngài ứng dụng cả hai, vừa thấy các pháp không thật, vừa phản quan lại mình. Rảnh thì ngồi thiền để phản quan, đi ra ngoài thì thấy cảnh không thật. Người xưa đi thẳng một đường thì được, còn chúng ta bây giờ hơi yếu, nhìn vô trong thấy không thật, bước ra ngoài thấy cái gì cũng thật. Hoặc ngược lại thấy cảnh bên ngoài không thật, nhưng tâm chưa chịu dừng chạy theo vọng tưởng, cho nên phải dùng cả hai cách.

Chư Tổ hồi xưa khi thấy được lẽ thật rồi, các ngài không cần ngồi thiền. Còn chúng ta bây giờ ngồi thiền mà đi ra ngoài cũng phải quán chiếu, cả hai hỗ tương nhau. Ngồi thiền để buông hết niệm vọng tưởng, khi ra ngoài thì phải thấy cảnh hư giả để không chạy theo nó. Ví dụ vừa thấy người liền duyên theo người, ta phải tự quán chiếu “người giả dối”; thấy cảnh duyên theo cảnh, liền tự nhắc “cảnh giả dối” thì chận được tâm vọng động. Nếu đạo lực yếu, mà ta không quán chiếu như vậy thì sẽ dễ mắc kẹt. Cho nên phải ứng dụng cả hai.

Tóm lại, đường lối tu thiền của chúng ta bây giờ là hợp tác cả hai ngành đó. Nắm vững được điều này, chúng ta mới không nghi ngờ nếu người ta hỏi mình tu theo Tổ Huệ Khả hay theo Tổ Huệ Năng? Tổ Huệ Năng đâu có phản quan, chúng ta vẫn không mắc kẹt. Vì mình còn yếu nên cần hợp tác hướng đi này với hướng đi kia của chư Tổ, song chỗ cứu kính không khác. Hiểu như vậy chúng ta mới không lúng túng khi bị người khác chất vấn về cách tu của mình.

Như trên tôi đã nói tìm ngọc ma-ni, song quí vị thấy chúng ta có tìm chưa? Thân này là xác thịt, là tướng vô thường bại hoại mà người ta cứ chạy ngược, chạy xuôi lo cho nó chu đáo, thỏa mãn, đó là tìm bạc tìm vàng. Còn ngay thân giả dối này chúng ta biết nó giả dối, tâm sanh diệt biết nó sanh diệt, để phăng tìm ra cái chân thật bất sanh bất diệt của chính mình là tìm ngọc ma-ni. Ở trong cõi vô thường tạm bợ này, mà ngồi phăng tìm cái chân thường, chuyện đó có phải là siêu xuất thế gian không? Đó là điều mà tất cả người tu chúng ta phải thấy.

Người thế gian chỉ biết có thân tạm bợ và tâm sanh diệt thôi, bỏ đi cái chân thật. Trong ba cái, chỉ biết có hai, bỏ quên một cái. Cho nên kinh Đại thừa luôn luôn nói chúng ta quên mình là chỗ đó. Cái thật của mình mà lại bỏ quên, chạy theo hai thứ kia: một thứ vô thường sanh diệt, một thứ tạm bợ như bọt bóng. Họ cho hai cái đó là mình, còn cái thật bỏ quên. Chúng ta phăng tìm lại cái chân thật không sanh không diệt của chính mình, không phải hòn ngọc ma-ni vô giá sao! Người tìm vàng tìm bạc với người tìm ngọc, ai quí hơn ai? Ngồi thiền là tiêu cực phải không? Đó là một vấn đề, có đi sâu mới thấy giá trị thật của nó.

Tất cả những gì thế gian đuổi theo giành giựt cho nhiều, đối với con mắt người tu chỉ là giả dối tạm bợ. Trong khi cái chân thật họ bỏ quên, không nhớ không biết, có đáng thương không? Đáng thương hay là đáng giận? Thường thường mấy đứa trẻ ngu ngốc làm gì sai bậy, cha mẹ giận nói đồ ngu, cốc trên đầu nó một cái. Lẽ ra cha mẹ từ bi thì phải thương, tội nghiệp nó ngu quá, thương nó không hết hơi đâu mà giận. Cũng vậy thế gian đang say mê theo cái tạm bợ giả dối, say mê theo những bóng dáng không thật. Bây giờ chúng ta thấy được cái thật, không nỡ bỏ họ. Đó là lòng từ bi của người tu.

Nhiều người hiểu chữ từ bi là cho cơm áo chút chút vậy thôi, hiểu như vậy thì hạn chế quá đi. Từ bi của đạo Phật là làm sao giúp cho người ta giác ngộ, biết được cái giả là giả, cái thật là thật, bỏ giả quay về thật. Đó mới là từ bi cứu muôn người. Đạo Phật dạy từ bi không chỉ cứu chúng sanh một đời này, mà cứu vô số kiếp luân hồi. Nếu chạy theo ôm giữ cái thân giả dối, cái tâm bóng dáng thì muôn kiếp luân hồi không có ngày cùng, sanh đi tử lại, sanh đi tử lại mãi.

Người đời sanh ra hoặc giàu hoặc nghèo, hoặc khổ hoặc vui, nhưng ít chục năm rồi cũng mất. Mất rồi tiếp tục sanh trở lại, cứ như vậy lên xuống, lên xuống. Thế thì những cái được đó có gì thật đâu, được rồi mất được rồi mất. Như vậy tất cả là trò đùa, không có gì giá trị hết. Còn cái chân thật luôn luôn có bên mình nhưng họ không biết. Vì vậy đạo Phật tìm đủ mọi phương tiện để chỉ cho chúng sanh biết họ có cái chân thật. Nhưng trước khi muốn chỉ cho người biết, mình phải biết trước, phải sống được với nó thì chỉ người ta mới tin. Nếu mình không biết, không sống được, mà chỉ dạy cho người, đó là nói lý thuyết suông chơi thôi, không đi tới đâu hết.

Cho nên người học Phật là phải tu. Chúng ta phải tìm đủ cách ngăn chận để đừng kẹt đừng dính với trần cảnh, phá hết tất cả cố chấp về thân, về tâm. Phá tan những thứ chấp đó rồi mới thoát ra được vòng sanh tử luân hồi. Nếu không phá được chúng thì muôn đời đi trong sanh tử. Đời này được gặp thầy gặp bạn, đời sau trở lại chưa chắc được gặp. Thế nên được làm người, được tu hành, được gặp thầy bạn nhắc nhở là chuyện phi thường hiếm có, chớ không phải thường.

Mấy huynh đệ vào chùa tu, mà chỉ lo đi cúng đi bái thôi, thì chừng nào biết được lẽ thật này? Không biết được lẽ thật này làm sao tìm được con đường giải thoát sanh tử. Việc giải thoát hết sức giản đơn, còn niệm còn nghĩ là còn tạo nghiệp, còn tạo nghiệp là còn luân hồi sanh tử. Lặng hết ý niệm, chỉ còn một tâm thanh tịnh hằng giác hằng tri, không có tạo nghiệp thì không đi trong sanh tử. Tâm hằng giác hằng tri không người nào thiếu, tại sao chúng ta quên nó đi? Biết không thiếu mà không thèm nhớ. Ví dụ quí vị ngồi chơi thảnh thơi nhìn trăng trong gió mát mà không nghĩ gì hết, thì chúng ta đang hiện tiền, đâu đợi suy nghĩ mới biết trăng trong gió mát. Tự nó thấy, tự nó biết, tự biết là tâm đang hiện tiền. Tâm có sẵn nhưng vì bóng này, bóng kia cứ hiện ra che khuất hoài nên chúng ta không nhận ra được.

Mượn cái gương làm ví dụ sẽ thấy điều này rất rõ ràng. Chúng ta có bệnh theo bóng quên gương. Khởi nghĩ là bóng, tâm hằng tri hằng giác là gương. Gương là thể của bóng, nhưng ta chỉ nhớ bóng mà quên thể gương. Bao giờ lặng hết những niệm lăng xăng thì cái Thể chân thật hiện tiền. Muốn lặng hết niệm lăng xăng thì hoặc chúng ta chuyên phản quan lại nó, hoặc phá hết các thứ chấp bên ngoài, hoặc bao gồm cả hai cách: nhìn vào trong để buông, nhìn ra ngoài để thấy tất cả hư giả, thì chúng ta sẽ dẹp được nó không nghi ngờ gì hết. Con đường tu của đạo Phật là con đường siêu thoát phi thường, phi thường nhưng rất bình thường. Kinh nói “bình thường tâm thị đạo”. Vì rất bình thường nên nói người ta không tin.

Chỗ thâm yếu này hiểu rồi, chúng ta mới thấy cái kỳ đặc của đức Phật. Ngài ngộ đạo nên thấu suốt rõ bản tánh muôn pháp nhưng không muốn nói, vì nói thẳng chỗ mình biết người ta không hiểu. Đợi tới khi chư thiên năn nỉ dùng phương tiện, chừng đó Ngài mới lập bày phương tiện giáo hóa chúng sanh. Cho nên pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên v.v… đức Phật giảng trong mấy chục năm đều là phương tiện. Sau trong hội Linh Sơn, Ngài chỉ đưa cành hoa sen lên rồi nhìn xem ai hiểu được mình. Khi nhìn tới ngài Ca-diếp thấy Tôn giả mỉm cười, đức Phật thọ ký cho ngài Ca-diếp ngay.

Thật ra sự việc đưa cành hoa lên, không có giá trị bằng con mắt nhìn. Ngài nhìn từ

∗ NHẮC NHỠ TU HỌC

Dạy chư Tăng Thường Chiếu nhân ngày về thăm Hòa thượng tại Thiền viện Trúc Lâm.

Hôm nay tôi có ít lời nhắc nhở tất cả quí vị những điều cần thiết trên đường tu hành. Trước hết tôi nói về tinh thần xây dựng Thiền viện Trúc Lâm và ý hướng của tôi mai sau cho chư Tăng hiểu. Ngày xưa ở Thường Chiếu tôi cũng đem hết khả năng, tâm lực để hướng dẫn dạy dỗ chư Tăng tu hành, giúp quí vị có đạo lực mạnh mẽ. Nhưng vì tôi không hợp khí hậu ở Long Thành nên cứ đau hoài, việc dạy dỗ bị ngưng trệ, không được viên mãn. Sau khi nghỉ dưỡng bệnh ở Đà Lạt, tôi thấy khí hậu thích hợp với tôi. Có thể tôi là Sơn tăng, ông thầy ở núi quen rồi nên xuống đồng bằng không chịu, cứ bệnh hoài. Lên Đà Lạt tôi thấy cảnh và khí hậu trên đây thích hợp với người tu thiền nên tiến hành xin đất cất Thiền viện.

Khí hậu ở đây mát mẻ. Mấy chú thấy đó, đôi ba hôm nay ngồi thiền ít đổ mồ hôi như ở Thường Chiếu, đó là điều thứ nhất tôi thích. Điều thứ hai, trong khung cảnh rừng núi vắng vẻ rất tiện lợi cho người tu thiền. Điều thứ ba, trên này xa thành phố, ít ồn nên những tiếng động bên ngoài không làm mình xao xuyến, nhờ vậy sự tu hành dễ tiến bộ. Do đó tôi cho đây là nơi lý tưởng, muốn tạo một cái duyên cho chư Tăng Ni dễ tu. Tuy nhiên vì còn mới mẻ, việc sắp đặt chỗ ăn chỗ ở giới hạn, cũng như giấy tờ của mấy chú chỉ được chừng mực thôi, không như ở Thường Chiếu. Vì vậy tôi chỉ nhận trên bốn mươi vị Tăng, bốn mươi vị Ni tập tu trong giai đoạn đầu.

Nói thế không có nghĩa tôi dồn hết tâm lực ở đây mà bỏ quên Thường Chiếu. Tôi nghĩ rằng ở Thường Chiếu hiện giờ đa số những huynh đệ mới nhiều hơn huynh đệ cũ. Các vị ấy được tu học tại Thường Chiếu trước, sau nếu đủ duyên sẽ lên đây chuyên tu. Còn những vị ở đây khoảng thời gian chừng năm năm bảy năm, nếu sự tu hành tiến triển có khả năng đáng tin cậy, quí vị cũng phải gánh vác những Phật sự nơi này nơi khác. Lúc đó những huynh đệ ở Thường Chiếu có chí quyết tu muốn được yên tĩnh thì tôi sẽ chọn lên đây, không phải nơi này chỉ dành cho những người ở đây mãi mãi, hoặc những vị ở Thường Chiếu thì ở đó mãi mãi.

Tôi nghĩ đợt đầu những người đi trước phải chịu nhiều cực khổ nên cần sắp đặt ổn định. Tu một thời gian đâu đó đàng hoàng đáng tin cậy, khi nào Phật pháp cần tôi sẽ cho quí vị đi nơi này nơi kia để mở mang hoặc về phụ giúp Thường Chiếu. Đồng thời tôi cũng nói cho huynh đệ biết, tôi chọn Thường Chiếu là trung tâm giữa Chân Không và Trúc Lâm. Vì Thường Chiếu ở giữa, nơi đó dễ tụ hội chư Tăng Ni và Phật tử. Trên này quá xa, còn ở Vũng Tàu cũng nhỏ. Chỉ có Thường Chiếu là đủ điều kiện hơn hết. Cho nên dù muốn dù không Thường Chiếu cũng là trung tâm quan trọng của các Thiền viện, nhất là các Thiền viện thuộc hệ thống của chúng ta hiện giờ. Như vậy mấy huynh đệ đừng nghĩ rằng ở dưới đó thua thiệt, mà chính là quí vị đang ở một trung tâm quan trọng của các Thiền viện. Những vị cũ tôi đã từng có những buổi giảng giải hoặc nói chuyện, còn những vị mới lâu lắm tôi mới có cơ hội gặp nên ít nói chuyện.

Hôm nay gặp quí vị ở đây tôi nhắc hai điều. Trước kia tôi đã từng nói trong nhà Phật, nhất là trong nhà thiền, thường dạy chúng ta khi phát tâm tu hành phải phát tâm mãnh liệt, kiên cố, vững chắc. Huynh đệ bỏ cả sự nghiệp thế gian để vào đạo tu hành, nếu chỉ vì buồn chán hoàn cảnh ở ngoài mà vào chùa tu, thì phát tâm không kiên cố. Chúng ta phải hiểu rõ ràng, sở dĩ mình bỏ hết sự nghiệp thế gian vào đạo tu, là vì thấy biết rõ Phật pháp là con đường cứu khổ cho mình và chúng sanh. Cho nên chúng ta khẳng định phải tiến tu để thực hiện cho được hai điều cao quí ấy. Không phải mình đi tu vì những lý do tầm thường yếu ớt, mà đi tu vì lý do cao thượng. Đã là cao thượng thì phải khẳng định cuộc đời của mình không bao giờ lay chuyển. Dù gặp cảnh vui cảnh buồn, gặp khó gặp dễ, nhất định phải vượt qua hết. Đừng để những tầm thường vui buồn thương ghét làm trở ngại sự tu của mình.

Nếu quí vị bị những vui buồn thương ghét làm trở ngại, đó là tâm không kiên cố không vững chắc. Vì vậy mấy huynh đệ phải nhớ luôn luôn phát tâm vững chắc. Chính tâm vững chắc giúp chúng ta an ổn tu hành. Người thật tu không mong cầu điều gì, chỉ làm sao tu từ ngày mới phát tâm vào đạo cho tới ngày mình nhắm mắt, không bao giờ bị ngoại duyên làm xao động, không bao giờ bị ngoại duyên lôi cuốn chạy theo nó. Đó là tâm kiên cố.

Huynh đệ xuất gia ở đây cũng có nhiều vị trung niên lớn tuổi, có kinh nghiệm cuộc đời nên những khổ vui của thế gian đã thấy biết rồi, không còn lạ lùng nữa. Vì vậy khi bước vào đạo phải lập chí thật vững, không để vui buồn thế gian lôi kéo trở lùi, không bao giờ có niệm quay về hưởng thụ. Thật ra không có cái gọi là hưởng thụ, mà chỉ lao vào đau khổ thôi. Biết rõ như vậy nên sự tu hành của mình chỉ có một con đường tiến, không nghĩ gì khác, không có lối thứ hai, thứ ba. Không lùi không dừng lại mà luôn luôn phải tiến, tiến cho tới phút cuối cùng. Dù đời này chúng ta tu chưa viên mãn, nhưng cứ nỗ lực tinh tấn mãi mai kia nhất định sẽ được kết quả. Nếu không đủ một trăm phần trăm, ít ra cũng được sáu bảy mươi phần trăm. Đó là sự thật.

Mấy huynh đệ mới tu thời gian ngắn mà đòi kết quả thế này thế kia, không được liền nản, thối tâm. Đó là chuyện không hay. Ở thế gian người đời muốn học tới cử nhân tiến sĩ, không thể năm ba năm đạt được kết quả, ít nhất cũng phải mười năm trở lên. Cả một cuộc đời chuyên cần việc học mới đến nơi đến chốn. Cấp bằng thế gian còn phải như thế, huống là chúng ta tu chuyển hóa cả một cuộc đời phàm phu thành Thánh nhân. Chuyện đó không đơn giản, không dễ dàng mà chúng ta cứ muốn mau là điều không đúng. Bởi vậy chúng ta phải đi từng bước từng bước thật vững. Luôn luôn bước không được dừng, dù bước chậm cũng bước, đừng bao giờ dừng lại. Đó là người quyết tâm tiến tu cầu thoát khổ cho mình và cứu khổ chúng sanh. Đây là điểm thứ nhất.

Điểm thứ hai phải luôn luôn nhớ mình tu cả đời, chớ không phải tu có năm bảy năm. Chúng ta không bao giờ thấy lười thấy mỏi, không phải chỉ siêng năng những năm đầu thôi. Các chùa thường nói “nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên”, tam niên Phật đi đâu? Phật về Cực Lạc mất rồi, bỏ mình lại bơ vơ. Ý nói người mới vào chùa năm đầu tinh tấn trăm phần trăm nên Phật tại tiền. Qua năm thứ hai giảm xuống tám chục phần trăm nên nói Phật thăng thiên. Qua năm thứ ba, thứ tư lùi lại chỗ cũ nên Phật về Cực Lạc mất tiêu, không còn ở gần mình nữa. Đó là nói người tu không có tâm bền bỉ lâu dài. Thế gian thường ví những người như thế là đầu voi đuôi chuột. Trước coi hùng hổ lắm, nhưng rốt sau không ra gì.

Người tu làm sao trước sau như một. Vì vậy trong kinh Phật thường dạy chúng ta, mỗi sáng phải rờ đầu một lần để tự nhắc mình là người xuất gia, không có quyền lui sụt. Quyết tâm tu cả đời, tự nhiên mình đi từng bước rất vững, không vội vàng, vì vội vàng sẽ vấp ngã. Chúng ta cứ đi mãi dù đường xa mấy rồi cũng phải tới. Nếu đường xa mà ta chạy gấp, chạy một đỗi mệt quá, sưng chân sưng cẳng lúc đó muốn dừng muốn chán. Cho nên cần đi vững và bền, dù đời này chưa xong chúng ta cũng tiến gần tới mục đích đã nhắm. Đó là điều hết sức thiết yếu trên đường tu hành.

Quí vị đã quyết tâm tu phải hiểu tường tận lời Phật dạy. Nếu quyết tâm tu mà không hiểu lời Phật dạy thì quyết tâm đó trở thành rỗng. Vì vậy chúng ta phải hiểu Phật pháp cho thấu đáo. Chúng ta tu theo Phật thì những gì Phật dạy phải nghe, phải học và phải hiểu rõ ràng thấu đáo. Đừng nói tôi tu thôi không cần học, hoặc nói học để hiểu không bằng cố gắng hành. Nói như vậy là lầm. Không học làm sao hiểu, không hiểu làm sao hành? Cho nên Phật thường ví dụ người tu giống như người đi đường. Trước hết họ phải có đôi chân mạnh, kế đó có cặp mắt sáng. Nếu đôi chân mạnh mà mắt mù họ sẽ đi lạc. Nếu đôi mắt sáng mà đôi chân què thì đi không được. Cho nên cả hai phải hỗ tương nhau.

Đôi chân mạnh là sự quyết chí tu hành, đôi mắt sáng là đạo lý cần phải hiểu thấu đáo. Nhờ hiểu thấu đáo chúng ta biết đường nào chánh, đường nào tà, đường nào ngay, đường nào cong. Biết rõ ràng như thế thì không đi đường tà, luôn luôn đi đường chánh. Không vào những nẻo cong queo nguy hiểm mà luôn đi đường thẳng để tiến tới mục đích đã nhắm. Người có chí tu cương quyết, vững mạnh, kiên cố, lâu bền là cặp chân rất mạnh. Nhưng nếu không nắm vững đạo lý là con mắt chưa sáng.

Cho nên thời gian ở Thiền viện, mấy huynh đệ ráng học kinh Phật dạy hoặc lời Tổ nhắc nhở. Chỗ nào chưa hiểu nghiền ngẫm tới lui cho kỹ, một ngày nào đó nó sáng ra. Như vậy đường tu mới yên ổn, vững chắc. Nếu thiếu hiểu biết, không thấu đáo kinh điển là trở ngại lớn trên đường tu. Vì vậy ở Thiền viện lúc nào cũng nhắc nhở mấy huynh đệ phải học. Nhưng người ta thường có bệnh ham tu hoặc ham học. Người ham tu không cần học, người ham học lại biếng tu. Đó là hai cực đoan.

Chúng ta làm sao quân bình được việc học và tu hỗ tương nhau. Học để biết tu, tu để tin hiểu hơn những điều đã học. Ví dụ mấy huynh đệ làm vườn, muốn trồng cây trước phải biết cây đó thuộc giống gì, tốt hay xấu, kết quả ra sao. Khi hiểu biết rồi, nhưng hiểu để mà hiểu, chớ không chịu trồng thì có kết quả không? – Không có. Hiểu rồi phải ứng dụng trồng. Vì vậy Thiền viện bắt buộc mấy huynh đệ mỗi ngày đều học và mỗi ngày đều tu.

Chính tôi đã kinh nghiệm rất kỹ về điều này qua những năm tôi ở Phật học viện. Chúng tôi cắm đầu học mười năm trời, từ Sơ đẳng lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng. Mười năm học đó thời gian tu hết sức ít, nhiều lắm chỉ được hai thời công phu tối và khuya. Có khi không công phu luôn, nhất là gần thi thì bỏ hết, cứ cắm đầu học. Học rồi đâu có thì giờ tu, phải đi giảng đi dạy lại cho người sau. Thành ra học hiểu giảng dạy cho ai tu, chớ bản thân mình không tu. Thật là đau!

Bởi không có thì giờ tu nên học giáo lý, hiểu mà phần ứng dụng không có kinh nghiệm. Do đó có tình trạng nhiều Giảng sư nói rất hay nhưng lâu lâu bị một con cọp cõng đi. Đó là kết quả học hiểu và nói suông mà không thực hành. Bởi thiếu hành nên không có đạo lực, bị duyên quyến rũ liền rớt. Việc học rất hay rất cần, nhưng phần hành không thể thiếu. Do đó ở Thiền viện tôi không đặt việc học như ở học viện. Ở học viện học để thi cử, để ra giảng dạy, còn ở Thiền viện học để tu.

Huynh đệ nhớ lại thời đức Phật, Ngài có dạy cho chư Tăng học để lấy cấp bằng không? – Không có. Phật dạy cho chư Tăng hiểu giáo lý rồi tu. Chư Tăng tụ họp lại gặp Phật, Phật giảng cho hiểu, hiểu rồi tu. Cứ như vậy lần lần nuôi dưỡng học tu, học tu cho tới ngày đạt kết quả tốt đẹp. Do vậy các đệ tử của Phật hiện đời chứng quả A-la-hán hay thành Bồ-tát chẳng hạn, đó là nhờ học và tu cân phân.

Nếu chúng ta nghiêng một bên, nói ham tu rồi cắm đầu tu mà không hiểu gì hết, khi tu gặp những chướng ngại đâm ra hoảng hốt, thối tâm. Hoặc giả khi tu thấy những hiện tượng lạ lùng đâm ra mừng, cho mình thành Thánh, nói bậy nói bạ, đó là trái với đạo lý. Bởi vậy ham tu mà không chịu học hoặc ham học mà không chịu tu đều là bệnh lớn. Hai bệnh này làm cho người tu bị trở ngại rất nhiều.

Huynh đệ mới xuất gia một hai năm, ráng học và tu cho quân bình. Càng lâu càng dài sự tu càng mạnh. Tuy nhiên lúc đầu việc tu còn khó khăn, ngồi thiền đau nhức, thức khuya buồn ngủ. Đó là những trở ngại của sự tu nhưng cố gắng chúng ta sẽ vượt qua hết. Mấy huynh đệ bây giờ phước lớn lắm, trên có thầy, có các vị lãnh chúng hướng dẫn kềm chế cho tu, dưới có huynh đệ cùng nhắc nhở nhau. Thành ra tu có thầy có bạn đàng hoàng. Những năm tôi ngưng giảng dạy, lên núi tu một mình ở Pháp Lạc thất tại Vũng Tàu. Thời gian trước đi học cũng giảng dạy nên ít tu, vì vậy ngồi thiền không quen. Tới chừng bắt đầu hạ thủ công phu tu thiền, cái chân nó đã cứng ngắc rồi, kéo lên đau gần chết. Lại không có ai kềm, không ai theo dõi mình, thành ra tôi phải ngồi thiền trước cái tủ kiếng. Tôi nhìn vô coi mình ngồi ngay không, chớ có ai sửa giùm đâu. Vậy mà tôi cũng ráng tập. Ban đầu ngồi được nửa giờ, lần lần tăng ba mươi lăm phút, rồi tới bốn mươi phút, một giờ. Mỗi lần thêm năm phút là mỗi lần đau, đau thấu ruột gan chớ không phải vừa. Nhưng tôi ráng, ráng tới được một giờ. Có lần tôi ráng tới một giờ rưỡi, lúc đó cái chân tê cứng tới bụng, tôi tưởng như nó chết. Tôi chấp nhận chết tại bồ đoàn không xuống, thử cho mày chết một chuyến. Mà khá sao nó không chết, tôi xả ra xoa bóp kỹ càng, sau ngồi nữa.

Tôi thắc mắc tại sao người xưa ngồi hai ba tiếng, có khi cả một hai ngày không sao, mình ngồi có một giờ rưỡi mà như gần chết vậy, không biết tại sao? Tôi nghĩ mình phải cố gắng tiến nữa thử coi có chết không. Thế là tôi tiến lần lần từ một giờ rưỡi tới một giờ ba mươi lăm, bốn mươi rồi tới hai giờ. Bỗng dưng lúc ấy hết tê, tôi mới giựt mình. À, rõ ràng qua cái chặng đó thì khỏe lại, khi hết tê lần lần tôi ngồi khỏe hơn. Sau này có mấy chú mấy cô ngồi tám tiếng, mười tiếng, mười mấy tiếng. Rõ ràng chúng ta cố gắng nó sẽ qua, không như mình tưởng chắc chết, chịu không nổi. Hồi xưa tôi hay lặp đi lặp lại câu “nếu chịu nổi thì chưa chết, nếu chết thì chịu hết nổi, cho mày chết trên bồ đoàn luôn, không xấu hổ”. Tu không ra gì thì xấu hổ lắm, cho nên chấp nhận chết trên bồ đoàn, nhưng nghĩ vậy lại không chết.

Ngày xưa tôi tu một mình không thầy, không bạn, chỉ có những bộ kinh gối đầu nằm, như cuốn Pháp Yếu Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Quán của Trí Khải đại sư, Tọa Thiền Tam-muội, Lục Diệu Pháp Môn, Tham Thiền Yếu Chỉ… tôi đã dịch sang tiếng Việt. Tôi y cứ mấy bộ đó như bản đồ để theo dõi việc tu của mình. Khi công phu gặp trục trặc, tôi giở ra coi. Về kinh, nhất là bộ Lăng Nghiêm, tôi lấy đó làm chuẩn, để biết cái nào ma mình tránh, cái nào không phải ma mình tu. Cứ thế tôi tự mày mò, ráng tìm ra con đường tu thiền rõ ràng như hôm nay. Đã bao nhiêu ngày tôi phải khóc, vì thấy mình tu mù mù mịt mịt, chỉ biết lạy Phật mà khóc thôi, không biết làm sao hơn.

Huynh đệ bây giờ tu khỏe hơn tôi ngày trước rất nhiều. Thầy bạn không thiếu, kinh sách có đủ, vừa trục trặc khó khăn liền có người nhắc nhở, ngồi thiền đúng hay sai có người sửa, gục có người đánh cho tỉnh. Như vậy quá tốt mà tu không được là lỗi tại quí vị. Trên đường tu chúng ta không nên xem thường, phải thấy là việc tối quan trọng của cuộc đời mình. Phải quyết tiến, quyết làm cho được mới mong đạt kết quả. Người xưa bảo “muốn là được, quyết là thành”. Tôi lấy câu đó làm căn bản, việc gì quyết định tiến tới thì nhất định sẽ thành công. Nếu chúng ta làm trong ngờ vực, hoặc làm lưng chừng thì khó thành công.

Nói cho mấy chú biết rõ như thế để khéo ứng dụng tu. Chúng ta có khả năng vươn lên chớ không phải không, nhưng vì ý chí không mạnh, quyết tâm không cao nên bị trở ngại vươn lên không nổi. Nếu ý chí mạnh, quyết tâm cao nhất định chúng ta sẽ vươn lên không nghi ngờ. Việc tu không phải khó, mà khó vì chúng ta không quyết tâm, không bền chí. Nếu quyết tâm bền chí, con đường tu sẽ có kết quả. Người xưa cũng khóc lên khóc xuống như mình chớ đâu phải các ngài thảnh thơi. Có những vị ngồi thiền ngủ gục quá, các ngài tự trị bằng cách trèo lên cháng ba cây ngồi. Ngồi đó nếu ngủ gục, cắm đầu xuống hố chết luôn. Nhờ vậy sợ quá mãnh tỉnh, không dám gục. Các ngài liều tới mức đó mới qua được những chướng duyên, đâu phải người xưa làm gì cũng dễ, mình làm khó. Người xưa gặp rất nhiều khó khăn, như Trưởng lão Mục-kiền-liên khi ngồi thiền cũng bị ngủ gục giống hệt chúng ta ngày nay. Vì vậy mấy huynh đệ đừng hiểu lầm riêng cá nhân mình tu khó, người khác tu dễ. Người xưa tu đạt kết quả là do các ngài đã vượt qua bao nhiêu khó khăn, khổ nhọc. Ngày nay chúng ta tu cũng phải chấp nhận mọi khó khăn, đau khổ để vươn lên.

Đức Phật từ một vị Hoàng tử trở thành người xuất gia sống hết sức đơn giản. Chỉ có ba y, một bình bát đi khất thực, không có gì là sự nghiệp hết. Trước đó Ngài đã tìm chỗ này chỗ kia học, không thỏa mãn nên tự tu tập khổ hạnh, cho tới chỉ còn da bọc xương. Cuối cùng Ngài thấy phương pháp này chưa phải cứu kính, nên sống bình thường lại. Sau đó Ngài tọa thiền dưới cội bồ-đề trải qua bốn mươi chín ngày đêm, tuệ giác phát sanh mới đạt đạo. Như vậy Ngài trải qua bao nhiêu khó khổ mới được kết quả thành Phật mỹ mãn. Nếu Ngài nói mình gốc Bồ-tát, ngồi đạo tràng năm bảy ngày ngộ đạo, thì chúng ta ngày nay tu không được là phải. Ngài khổ như vậy chớ đâu phải đơn giản. Năm năm tầm đạo, sáu năm khổ hạnh mới thành tựu đạo quả.

Chúng ta sánh với Ngài khổ chừng bao nhiêu phần trăm? Chẳng được bao nhiêu phần trăm, mà còn than “tu coi bộ phiền quá, khổ quá”. Yếu đuối như vậy làm sao đạt được kết quả cao quí. Cho nên huynh đệ phải lập ý chí, sẵn sàng chấp nhận mọi khó khổ để vươn lên. Nhờ khó khổ tôi luyện mình mới cứng cáp mạnh mẽ. Có cứng cáp mạnh mẽ cộng thêm ý chí hỗ trợ mới dễ đạt đạo. Nếu chúng ta lơ là lôi thôi thì khó có thể đạt đạo. Người nào vào đạo với tinh thần tu cầm chừng thì không bao giờ tiến được. Có tiến chăng cũng chỉ ở chùa quét lá đa, chờ già nhắm mắt được vô nghĩa địa nào đó. Vậy thôi.

Người tu phải gan dạ, cương quyết. Nhờ gan dạ cương quyết mình vượt qua hết khó khăn. Hết khó khăn mới được an lạc. Tôi khẳng định với mấy huynh đệ, tu là một nguồn an lạc, không phải khổ đau. Nhưng muốn hưởng an lạc trước phải trải qua những khó khăn, gian khổ. Chính ngài Hoàng Bá đã nói muốn ngửi được mùi thơm của hoa mai phải chịu qua một mùa đông lạnh lẽo. Có chịu lạnh thấu xương mới ngửi được mùi thơm hoa mai. Con đường chúng ta đi là con đường tươi sáng tốt đẹp, nhưng muốn tiến tới chỗ tươi sáng tốt đẹp, phải qua những khúc quanh co chông gai lầy lội.

Mấy huynh đệ nhìn từ đức Phật, tới các Tổ, rồi tới quí thầy gần mình, vị nào làm được chút ít Phật sự, được nhiều người quí mến, đều phải chịu cực khổ, gian lao. Chúng ta tu là chọn con đường cao quí tốt đẹp, không phải chọn con đường đau khổ. Nhưng vì cao quí tốt đẹp nên phải chịu khó chịu cực, vượt qua những khó khăn ban đầu mới đến chỗ cao quí an lạc.

Ở thế gian nếu tuổi thanh niên thì chỗ nhắm là có gia đình, phải không? Mà có gia đình là tiến lên con đường hạnh phúc hay con đường đau khổ? Có gia đình rồi thì có con, bắt đầu nuôi con. Một đứa nuôi chưa xong, lại thêm đứa nữa. Chừng ba bốn đứa thì đầu tắt mặt tối. Lo cho đứa này chưa hết tới đứa kia, muốn con được khỏe mạnh, ăn học tới nơi tới chốn với người ta, đủ thứ lo. Con lớn lo cho có đôi bạn. Chừng đó mình già khằn sắp chết. Như vậy đó là con đường tối hay sáng? Con đường tối tăm mà tất cả người đời đều phải chấp nhận.

Chúng ta ở đây đi trên con đường rất tươi sáng, sẽ tiến vào được cảnh tự do tự tại. Bước vào đạo là tự do tự tại rồi, vì có gì ràng buộc đâu. Trong chùa chỉ ràng buộc theo nội qui của Thiền viện. Ràng buộc cho mình yên tu, chớ không phải ràng buộc để làm khổ mình. Ở ngoài con đau cha mẹ có ngồi yên không? – Không. Còn trong Thiền viện, giả sử huynh đệ đau thì đưa xuống bệnh xá có người chăm sóc. Chăm sóc chu đáo mà không phải lo rầu như cha mẹ. Anh em huynh đệ hay mình bệnh cũng vậy, đều được chăm sóc như nhau, khỏi vay nợ, khỏi lo chuyện gì cả. Thảnh thơi.

Nhiều khi ở thế gian, cha mẹ hi sinh trọn đời cho con, tới con lớn lên chắc gì nó hiếu thảo. Có đứa không thèm nuôi cha mẹ mà còn nói nặng nhẹ nữa. Trong đạo, chúng ta tu hành có đức hạnh, đệ tử xuất gia đối với Thầy Tổ rất quí kính, đệ tử tại gia cũng thương. Khi cần gì họ sẵn sàng giúp đỡ mình. Như vậy con đường nào sáng hơn? Ở thế gian càng ngày càng lún sâu trong nghiệp ác, còn chúng ta đi tu càng ngày càng gỡ bỏ những điều xấu xa, càng ngày càng tốt. Đứng về nghiệp ác nghiệp thiện, người tu đã chọn con đường lành. Giả sử chúng ta tu chưa giải thoát sanh tử, khi trở lại cũng bảo đảm đi đường lành. Nếu ở thế gian tới già chưa chắc mình không tạo nghiệp ác. Đã tạo nghiệp ác thì nhắm mắt dễ gì trở lại làm người.

Hơn thế nữa, nếu chúng ta cố gắng vươn lên, từ một con người phàm phu thường tình, gội rửa sạch hết những thói phàm tình, lần lần tiến lên thành Thánh, đẹp đẽ biết chừng nào. Cả thế gian đều quí đều kính. Nên biết con đường chúng ta đã chọn là con đường lý tưởng cao siêu, còn con đường thế gian là con đường đen tối đau khổ, nên tránh xa. Quí vị nào tu hành để tâm lui sụt, lâu lâu lùi bước, đó là muốn trở lại con đường tối tăm đầy hiểm họa. Như vậy rất uổng công mình đã chọn lựa một con đường tốt, mà không đầy đủ ý chí nghị lực để đi suốt con đường ấy. Cho nên muốn thoát khỏi hầm lửa hay muốn vào hầm lửa đều do chúng ta quyết định cả thôi.

Mong chư Tăng tự lo liệu lấy đời tu của mình!


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.