Những cánh hoa đàm

Tập 2



HỎI: Kính bạch Hòa thượng, cách đây khoảng một năm, Hòa thượng tuyên bố nghỉ việc làm người vô sự, may Hòa thượng lo xây dựng Thiền viện Trúc Lâm, trở thành người nhiều việc. Như vậy việc làm sau có trái với tâm nguyện trước của Hòa thượng không?

ĐÁP: Năm trước tôi giao hết trách nhiệm cho Tăng Ni để làm người vô sự. Năm nay tôi lại đa mang công việc xây cất Thiền viện Trúc Lâm trở thành người đa sự. Ở đoạn trước thấy như hay, ở đoạn sau thấy như dở. Như vậy tôi có lỗi không?

Sau đây tôi trình bày cho Tăng Ni và Phật tử rõ phương tiện độ sanh của chúng tôi.

Từ khi tôi giảng dạy hướng dẫn cho Tăng Ni và Phật tử tu thiền, nếu tính đến nay ngót hơn mười năm. Những điều tôi thấy biết đã giảng dạy cho Tăng Ni, Phật tử học hiểu hết rồi. Nếu cứ giảng đi giảng lại hoài bao nhiêu đó thì thừa. Một là Tăng Ni Phật tử ỷ lại, hai là sanh tâm khinh mạn, cho rằng Thầy có bao nhiêu đó lặp tới lặp lui hoài không có gì mới mẻ cả, không phấn chấn tu hành, hóa ra lui sụt. Đây là cái bịnh chúng sanh thường mắc phải. Kinh Pháp Hoa phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phật ví dụ các con ông thầy thuốc giỏi bị bịnh không chịu nghe lời ông uống thuốc cho hết bịnh. Vì ỷ lại cha mình là thầy thuốc và có thuốc bên cạnh. Ông muốn cho con ông uống thuốc cho hết bịnh, nên mới bày phương tiện đi xa và báo tin về cho các con là ông đã chết. Chừng đó các con ông mới chịu lấy thuốc ra uống và được lành bịnh. Đó là phương tiện của ông thầy thuốc. Tôi cũng bắt chước chút chút trong đó. Vì nếu tôi cứ giảng hoài thì Phật tử ỷ lại, nghĩ thầy còn đó lo gì! Bây giờ lo làm ăn để bao giờ rảnh tới học, cho nên tôi báo tin nghỉ không giảng nữa, nhân đó làm người vô sự. Như thế thì Phật tử cố gắng tu. Còn Tăng Ni nghĩ thầy không dạy nữa, những gì mình đã học được ráng ứng dụng tu. Như vậy không khởi tâm ỷ lại khinh lờn, khỏi bị tội. Còn tôi được rảnh rang tu thêm, lợi cả ba, lợi cho tôi, lợi cho Tăng Ni, lợi cho Phật tử. Đó là một phương tiện để cả ba đều được lợi khi tôi nghỉ giảng.

Bây giờ được khu đất cho cất thiền viện Trúc Lâm. Từ lâu tôi có mơ ước khơi dậy Thiền tông Việt Nam. Vì đọc sử tôi thấy Phật giáo Việt Nam đã có Thiền tông truyền từ thế kỷ thứ sáu mãi đến thế kỷ thứ mười ba và sau này, ở thế kỷ thứ mười tám tại Huế có ngài Liễu Quán tu thiền ngộ đạo. Như vậy Thiền tông ảnh hưởng trong Phật giáo Việt Nam rất sâu đậm. Thế mà bây giờ hỏi lại rất ít người biết có đáng buồn không? Ở Nhật Bản ngang với đời Trần nước ta có phái Nhật Liên tông ra đời, chuyên trì kinh Pháp Hoa, số môn đồ trên dưới một ngàn người chỉ chuyên niệm một câu: Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thôi, mà hệ phái đó đến nay số đồ đệ tăng lên trên một triệu nối truyền không mất. Còn Thiền thì phái Lâm Tế, Tào Động cũng được nối truyền không mất. Chỉ riêng Việt Nam là thất truyền! Kế nữa, các phái thiền Nguyên Thủy ở các nước Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan và phái Mật tông ở Tây tạng cũng có các học giả Tây phương tìm tới nghiên cứu học giỏi, chỉ có Việt Nam thì không có ai tìm đến! Vậy chúng ta thử đặt câu hỏi tại sao? Lỗi do đâu? – Theo tôi, cái lỗi duy nhất là hiện giờ hầu hết các chùa đều lấy hai thời khóa tụng làm pháp môn tu. Đầu hôm tụng kinh Di Đà, bắt đầu bằng chú Đại Bi và kết thúc bằng chú Vãng Sanh, khuya thì tụng chú Lăng Nghiêm, toàn là thần chú! Như vậy thiền bị mất gốc, chúng ta tu theo Mật tông hồi nào không hay! Có ai vô chùa hỏi quí thầy tu theo tông phái nào, pháp môn nào thì không trả lời được. Điều này tôi rất đau lòng.

Hai thời khóa tụng xuất phát từ đời nhà Thanh, vua Thuận Trị người ở miền Bắc Trung Quốc gần với Tây Tạng, ảnh hưởng Lạt ma giáo, ông muốn đồng hóa đạo Phật theo Mật giáo nên chiếu chỉ Quốc sư Ngọc Lâm soạn thảo hai thời khóa tụng để tất cả chùa phải tu theo. Việt Nam là một nước nhược tiểu bị Trung Hoa đô hộ nên bị ảnh hưởng làm mất gốc Thiền tông!

Khi biết được cái hay của tổ tiên mà chúng ta bỏ quên, nên tôi nghĩ đến việc làm sống dậy tinh thần Thiền tông Việt Nam. Bây giờ có cơ hội, nếu tôi không làm thì trách nhiệm này giao cho ai? Do đó buộc lòng tôi phải “đa sự”. Trước đây nói tôi làm người vô sự, mà bây giờ tôi lại đa sự cho nên Phật tử thắc mắc là phải.

Tôi đa sự là vì tôi muốn cho Phật giáo Việt Nam ngoi đầu lên với các nước Phật giáo bạn, và cho người nước ngoài thấy ở Việt Nam có cái hay cái quí chớ không phải không có. Đó là chỗ nhắm của tôi. Chỗ nhắm đó đệ tử không ai thế được cho nên bất đắc dĩ tôi phải gánh vác. Vì vậy tôi thành người đa sự.

HỎI: Con có điều thắc mắc kính xin Hòa thượng giảng giải: những người ngoại đạo họ sống với đạo của họ nhưng họ luôn luôn hướng về chân lý, và luôn luôn sống với chân lý. Vậy khi mất họ có được giải thoát không?

ĐÁP: Câu hỏi không được rõ lắm, nhưng tôi tạm nói ý cho quí vị thấy. Phật tử này hỏi: Có những người ngoại đạo họ tin và trung thành với đạo của họ, nhưng lúc nào họ cũng hướng về chân lý, vậy khi chết họ có được giải thoát không?

Điều này sáng sủa lắm, người theo tôn giáo nào đó, họ trung thành ứng dụng điều dạy trong tôn giáo ấy, nếu giáo điều đó hợp với chân lý, đúng với tinh thần giải thoát, họ trung thành thực hành theo thì họ được giải thoát, còn nếu lời dạy và lối hướng dẫn của tôn giáo đó không đúng với tinh thần giải thoát mà họ làm theo thì nhất định họ không giải thoát.

HỎI: Thưa Thầy mới đây con được nghe trong cuộn băng “Nói cho người già bệnh”, Thầy muốn từ giả để làm người “vô sự”. Con nghĩ ngày xưa đức Phật thuyết pháp đến khi Ngài nhập diệt, nay ở thời mạt pháp này được một vị hiểu rộng như Thầy thật hiếm, băng giảng của Thầy phổ biến khắp thế giới, nơi nào có người Việt là có băng giảng của Thầy, nay vì Thầy cần tỉnh tu mà ngưng thuyết pháp trong khi Phật tử chúng con mong đợi băng giảng của Thầy như mong mẹ đi chợ về. Kính xin Thầy vì lợi ích cho chúng con mà thuyết giảng lại như trước.

ĐÁP: Phật tử này cũng thiết tha. Câu này hỏi thẳng về tôi, nên tôi trả lời rõ ràng hơn chút nữa. Thật ra tôi có cân nhắc kỹ chớ không phải tuyên bố bừa bãi, cái cân nhắc của tôi nằm trong ẩn dụ của kinh Pháp Hoa: Đức Phật nói có ông thầy thuốc giỏi, các người con của ông ỷ cha làm thầy thuốc giỏi cho nên có bịnh không chịu uống thuốc, buộc lòng ông phải đi xa và báo tin về là ông đã chết. Chừng đó các con ông hoảng sợ e rằng mai kia bệnh nhiều không ai lo thuốc cho mình, nên cùng nhau đem thuốc ra uống. Khi các con lành bệnh ông báo về là ông vẫn còn sống. Trường hợp này cũng vậy, tôi cứ giảng nói hoài thì quí Phật tử nói: Ôi, thầy giảng hoài mình rảnh thì đi, bận thì thôi, nghe nhiều quá tu không kịp! Do vậy tôi báo tin tôi nghỉ giảng, chừng đó quí vị thấy cần, tôi nói cho quí vị nghe để tu. Lúc đó tôi nói ít quá mà quí vị tu nhiều, hơn là tôi nói nhiều mà quí vị ỷ lại không tinh tấn tu. Đó là tôi vì lợi ích cho Tăng Ni và Phật tử vậy.

HỎI: Trong quyển Pháp Bảo Đàn Kinh của thầy Mãn Giác ở Hoa Kỳ có nêu hai việc là: (1) Đức Lục Tổ là người Việt Nam. (2) Chính ngài Thần Hội đã sáng tạo ra hai mươi tám vị Tổ Tây Trúc. Con kính xin Thầy từ mẫn chỉ dạy cho chúng con được rõ.

ĐÁP: Câu thứ nhất tôi không nói thầy Mãn Giác nói đúng hay sai gì hết, mà tôi chỉ nói đức Lục Tổ là người Việt Nam hay Trung Hoa không quan trọng, mà quan trọng là chúng ta có tu được đúng như lời Lục Tổ dạy hay không? Nếu chúng ta tu được như lời Ngài dạy thì mới xứng đáng, còn ngồi để mà cãi Ngài là người Việt Nam hay Trung Quốc thì có lợi ích gì? Trọng tâm của chúng ta là phải tu được như lời Ngài dạy thì mới quí, còn nói Ngài ở đây, ở kia thì lấy đâu làm bằng chứng, cãi hoài không tới đâu!

Câu thứ hai hỏi có phải ngài Thần Hội sáng tác ra hai mươi tám vị Tổ không? Đây là câu hỏi có tính cách lịch sử, tôi nghiên cứu thấy rõ lối nói này là lối nói của một vài học giả sau này. Chúng ta đọc quyển Đại Chỉ Quán của ngài Thiên Thai Trí Giả Đại Sư thì Trí Giả Đại Sư sanh đời Tùy trước Lục Tổ, tức là lúc Tổ Bồ Đề Đạt Ma chưa sang Trung Hoa, mà trong quyển Đại Bát Nhã gọi là Ma Ha Chỉ Quán phẩm thứ nhất đã có kể hai mươi sáu vị Tổ Ấn Độ rồi. Quí vị chịu khó đọc quyển đó sẽ thấy, trước đã có hai mươi sáu vị thì tới Tổ Bồ Đề Đạt Ma sang là vị thứ hai mươi tám, đối chiếu sẽ thấy hợp lý một trăm phần trăm, sao nói ngài Thần Hội sáng tạo ra được?

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, người tu theo Phật nên nghĩ thế nào về bói toán, tử vi, địa lý?

ĐÁP: Câu hỏi này tuy là không hay nhưng trúng bệnh của quần chúng hiện tại. Tôi xin trả lời cho quí Phật tử hiểu. Nếu Phật tử tin sâu lý nhân quả thì đối với vấn đề bói toán, tử vi… có quan hệ hay không? – Không. Còn nếu mình tin vào bói toán, tử vi, địa lý thì đã tin sâu nhân quả chưa? – Chưa. Vì nhân quả là cội nguồn của khổ đau hoặc an vui. Nếu tạo nhân xấu thì đó là nhân đưa tới khổ đau, tạo nhân tốt là nhân đưa tới an lạc. Nếu Phật tử tin sâu nhân quả, mỗi ngày nhìn lại mình để chừa tránh nhân xấu, phát triển nhân tốt là đủ rồi. Còn bói toán, tử vi là phần phụ bên ngoài, giả sử có nói trúng cũng chỉ là trò chơi thôi.

Thầy coi tay coi tướng hay, nói đúng chuyện lành, dữ xảy ra trong khoảng thời gian từ khi nói đến khi xảy ra chuyện lành, dữ còn tùy thuộc nơi việc làm của mình, ví dụ nói sáu tháng sau mình sẽ gặp việc tốt, nhưng từ đây tới đó mình giết người rồi ở tù thì cái tốt xấu sẽ đổi theo cái nhân tạo tác của mình. Sở dĩ Phật tử hay băn khoăn nghĩ đến năm tới là vì sao quí vị biết không? – Vì lòng tham, muốn năm tới giàu hơn năm này, muốn dọ dẫm coi năm tới có phát tài không. Nếu Phật tử tin sâu nhân quả rồi thì chuyện bói toán tử vi là trò chơi, tốn tiền vô ích. Thay vì đi coi tử vi tốn mười ngàn đồng, đem mười ngàn đồng đó giúp cho người bệnh có phước hơn. Vậy tôi khuyên quí Phật tử nên lo tu tạo phước lành đừng để phí thời giờ, phí tiền của vào những việc làm không chân thực đó.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con là một Phật tử mới vào đạo, kính xin Hòa thượng giải thích giùm con những thắc mắc sau đây:

1. Con thường nghe nói nhất nhân thành đạo cửu huyền thăng, câu này có đúng với Phật pháp không? Vì theo con hiểu ai ăn người ấy no.

2. Trước khi ngồi thiền có nên hay không nên trì chú, nếu trì thì trì chú nào, trì mỗi chú bao nhiêu lần, khi trì chú tay có bắt ấn theo chú đó không? 

3. Trong cuốn Tử Thư Tây Tạng và nhiều sách Phật khác nói người chết phải để ít nhất tám giờ sau mới nên thay đồ tắm rửa, nếu không người chết vẫn còn bị đau đớn và vì đó họ sẽ thác sanh vào cảnh giới xấu, điều này có đúng không? Nếu không đúng thì phải để bao lâu mới được đụng tới, và sau đó có nên coi giờ tẩn liệm chôn cất không? 

ĐÁP: 

1. Hỏi một người thành đạo cửu huyền thăng nó có trái với nhân quả ai ăn nấy no không? – Nó không trái tí nào hết. Tại sao? – Tôi nói cụ thể cho quí Phật tử thấy, tôi chưa thành đạo mà bà con tôi cũng thăng nhiều rồi. Bởi vì không phải mình thành đạo rồi bỗng dưng người đó thành theo, mà nhờ mình tu rồi thân quyến mình phát tâm tu theo. Nhờ vậy cho nên một đời mình tu có năm, mười người bà con tu theo, đời thứ hai có vài ba chục người tu theo, đến khi mình thành Phật thì bà con mình thành Bồ-tát, La Hán khá nhiều. Ý nghĩa một người thành đạo nhiều người thăng là vậy, chớ đừng hiểu theo nghĩa một người tu rồi tất cả quyến thuộc được về Cực Lạc hết.

2. Trước khi ngồi thiền có nên hay không nên trì chú… Điều này tôi xin nói rõ, ngồi thiền thì không trì chú, mà trì chú thì không phải ngồi thiền, Phật tử nhớ như vậy. Bởi vì trì chú là tu theo Mật tông, còn ngồi thiền là tu theo Thiền tông. Lâu nay có một số người nghi ngồi thiền không trì chú thì ma tới phá, điều đó thật là hiểu lầm. Tôi hỏi quí Phật tử đọc lịch sử Phật, lúc Ngài tới cội Bồ đề ngồi thiền, Ngài trì chú gì? Và khi ma tới Ngài trì chú gì để dẹp ma? – Khi ngài sắp thành Phật bọn ma tới hiện hình quấy nhiễu, Ngài dùng thiền định và trí tuệ để phá ma quân, chớ không có thần chú nào hết. Bây giờ chúng ta yếu nghe nhát ma sợ quá muốn trì chú để ngừa. Nhớ, chúng ta tu thiền mục đích là định tâm, tâm định rồi thì ma không phá được.

3. Việc lau rửa làm cho thân người chết đau thì điều này tôi chưa có kinh nghiệm kỹ. Nhưng theo tôi, trước tám tiếng đồng hồ mà tắm rửa thì người chết đau nổi sân bị đọa điều đó không đúng. Vì người chết khi cả cơ thể lạnh hết rồi thì không còn cảm giác, đã không còn cảm giác thì cái gì biết đau? – Nếu nói thần thức thì thần thức lúc đó đã ra khỏi thể xác rồi làm sao đau được? Khi toàn cơ thể lạnh thì liệm được, còn ấm thì khoan, chỉ nói việc đó thôi chứ không nói giờ, vì có nhiều người chết nhiều giờ mà không lạnh, có người vài ba tiếng đã lạnh hết, tùy theo cơ thể của mỗi người. Còn nói đi đường ác, đường dữ là do có nghiệp ác nghiệp dữ, chớ nếu người đó làm toàn việc thiện thì lau chùi một chút mà đọa đường dữ thì không hợp lý, không đúng với tinh thần nhân quả trong đạo Phật.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con có những thắc mắc cúi mong Hòa thượng dẫn giải cho chúng con được rõ:

1. Kinh Địa Tạng và kinh Vu Lan dạy ngày tự tứ cúng dường chư Tăng mười phương thì có thể cứu được cha mẹ ông bà bảy đời được sanh thiên, cha mẹ hiện tiền được phước lực tiêu khiên. Và, nếu có người sắp mạng chung mà thân quyến tu nhân duyên thắng thọ thì tội ác của người mạng chung thảy đều tiêu sạch.

2. Có đoạn kinh Địa Tạng dạy rằng: Trong bốn mươi chín ngày, thân quyến của người chết tu tạo phước lành thì người chết được khỏi chốn ác đạo và thân quyến hiện tại cũng được lợi ích. Trong nhà có người bệnh sắp chết, thân quyến vì người bệnh đó niệm lớn danh hiệu của một đức Phật thấu vào tai người sắp lâm chung thì người đó có thể tiêu trừ năm tội lớn vô gián, các nghiệp báo khác cũng đều tiêu sạch. Kính bạch Hòa thượng, nếu vậy thì có trái với câu: “Ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc” không? Kính xin Hòa thượng giải giùm cho con thoát ra chỗ mê muội lẩn quẩn đó.

ĐÁP: Đây cũng là thắc mắc chung của Phật tử. Kinh Vu Lan, kinh Địa Tạng dạy giúp cho người chết bằng cách tụng kinh, hoặc làm phước, hoặc cầu nguyện thì sẽ bớt được bệnh khổ. Nhưng về mặt nhân quả Phật nói ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc, như vậy hai ý này làm sao dung hợp với nhau, không chống trái nhau?

Tôi xin giải thích rõ cho quí Phật tử hiểu, thật ra kinh Phật lúc nào cũng chỉ dạy cho chúng sanh nhiều điều lợi ích chớ không nói sai đạo lý. Nhưng kinh nói có lý có sự, kinh dạy sự chúng ta đứng về mặt lý mà nói thì nó lại khác. Phật tử cần hiểu cho rõ ràng nhân quả là cội nguồn của Phật pháp, đó là cái gốc, nếu bỏ nhân quả thì không đúng với tinh thần đạo Phật. Theo lý nhân quả thì ai làm nấy được chớ mình làm người khác được thì không thể có. Như vậy có trái với ý kinh dạy mình cầu nguyện cho thân nhân được siêu thoát chăng? Sự thật không trái, bởi vì sự cầu nguyện có kết quả hay không kết quả là còn tùy thuộc vào việc làm của người chết. Ví dụ quý Phật tử có cha hay mẹ chết mà bản thân người đó lúc còn sinh tiền là người hiền, khi chết thần thức chưa vãng sanh. Lúc đó thân nhân thành tâm tha thiết với tâm thanh tịnh hướng về người chết mà cầu thì có một sự cảm thông, tâm người hiền kia được sáng thêm và nhân làm tăng trưởng cái nhân sanh về cõi lành. Lại cũng có trường hợp người chết tâm không được lương thiện, đến khi chết thường thấy những cảnh dữ, nhưng vừa thấy cảnh dữ bỗng dưng nguyện lành của thân nhân hướng về họ thì có khi họ chợt tỉnh buông niệm bất thiện liền được qua cảnh khổ. Quí Phật tử nhớ tâm tưởng của con người có sức mạnh phi thường, sức mạnh đó có thể cảm thông được giữa mình và người khác. Khổ hay vui tùy theo tâm tưởng mê hay tỉnh, nếu mình dùng tưởng hay chánh niệm hướng về họ khiến họ được tỉnh thì khổ liền hết, đó là do họ chuyển tâm chớ không phải mình làm cho họ hết.

Kinh Địa Tạng dạy: Khi người chết hôn mê mình niệm Phật sao cho họ nghe được, họ cảm được, họ nhớ Phật hết mê, bớt khổ, còn nếu họ không nghe được, không cảm được thì họ khổ, chớ không phải cái khổ đó do mình niệm Phật mà nó bay hết. Hiểu như vậy thì không trái với nhân quả.

HỎI: Con xin Hòa thượng giảng cho con hiểu: cứ theo sự sanh tồn thì con vật lớn ăn con vật nhỏ, con vật nhỏ ăn con vật nhỏ nữa, cứ như vậy thì chừng nào trả được quả ấy?

ĐÁP: Phật tử này sợ luân hồi nghiệp quả. Như mình ăn con gà thì phải bị trả quả làm con gà, khi làm gà lại ăn con khác rồi cứ trả quả hoài làm sao tiến hóa được! Cái lo này cũng hợp lý. Thật ra nói ăn con gà phải trả quả làm con gà, câu nói này chưa rõ. Nói giết và ăn một con vật là có tội thì rõ hơn. Bây giờ nói theo luật thế gian, giết một con gà có bị bắt ở tù không? – Không. Còn giết người có bị ở tù không? – Có. Có khi bị tử hình nữa, còn giết loài vật thì không ở tù. Như vậy mạng người đối với mạng người đền bù cho nhau; còn mạng người đối với mạng vật thì khác, đó là luật thế gian. Về mặt nhân quả cũng vậy, có những con vật tuổi thọ ngắn hơn con người, phước ít hơn con người, không thể lấy mạng người mà bù lại được. Nhà Phật nói giết hại chúng sinh là có tội, tội thì có khổ nhỏ hoặc khổ lớn, chớ không phải đền mạng. Hiểu như vậy để tránh bớt chuyện giết hại loài vật để ăn, hoặc giỏi hơn nữa thì đừng giết đừng ăn là tốt nhất.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, thiền viện Trúc Lâm đang được xây dựng để Tăng Ni chuyên tu, đối với những tu sĩ ở am thất quanh đây hoặc ở phương xa muốn được nhập viện chuyên tu cần có những điều kiện gì không?

ĐÁP: Câu này chắc Tăng Ni thắc mắc, tôi xin nói rõ mục đích của tôi xây dựng Thiền viện Trúc Lâm là để cho một số Tăng Ni có đủ điều kiện thì vào đó tu một thời gian bao lâu tùy theo khả năng. Tôi không nói tất cả vì thiền viện quá nhỏ nên chỉ thu khoảng ba chục Tăng, ba chục Ni thôi. Sau này nếu có đủ duyên mở rộng thì lúc đó thâu thêm chớ hiện giờ rất hạn chế. Do đó Tăng Ni nào muốn xin vào không phải đơn giản mà phải có điều kiện, điều kiện này được ghi rõ trong bảng Thanh quy. Sau khi làm lễ khánh thành tôi sẽ đọc cho quí vị nghe, ai đủ điều kiện thì tôi cho vào chớ không hạn chế người ở chỗ nào mà chỉ hạn chế số lượng thôi.

HỎI: Xin Hòa thượng cho phép con hỏi hai câu:

1. Người Phật tử tại gia đã quy y Tam bảo, cố gắng tu hành giữ đúng năm giới có được giải thoát không?

2. Người Phật tử không được thuận duyên để xuất gia, vậy ở tại gia có thể tu hạnh xuất gia được không? Xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy.

ĐÁP:

1. Câu hỏi thứ nhất có hai mặt:

Về giới tướng, giữ một giới là giải thoát một phần, giữ năm giới là được năm phần giải thoát. Giữ giới sát sanh thì được giải thoát về nghiệp sát sanh, giữ giới trộm cắp là được giải thoát về nghiệp trộm cắp, nghĩa là giữ một giới giải thoát được một phần, giữ năm giới đứng về mặt hình thức thì giải thoát được năm phần thôi chứ chưa hoàn toàn giải thoát.

Về giới thể thì tại gia hay xuất gia gì cũng sống được với tâm thể, với lý tánh của mình tức là đều được giải thoát. Vì tâm thể không sanh diệt, sống với cái sanh diệt thì trầm luân, sống với cái không sanh diệt thì hết sanh tử lức là giải thoát.

2. Phật tử không thuận duyên xuất gia, hỏi ở tại gia có tu hạnh xuất gia được không? Tôi xin trả lời là không được, vì người tại gia có cái sinh hoạt của người tại gia, chẳng hạn như cách xưng hô theo thế gian, gặp nhau gọi bằng anh, bằng chị, và khi có đám tiệc mời mọc cũng phải xử sự theo tư cách thế gian, làm sao theo hạnh xuất gia được. Nhưng người ở tại gia mà tu theo tâm người xuất gia thì được, tâm không dính mắc với cảnh để đi lần đến giải thoát, đó là tu theo tâm của người xuất gia.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng con có một điều nghi cúi mong Hòa thượng từ bi giải nghi cho con. Trong đời sống hằng ngày tiếp xúc với mọi người, hoặc khi đến chùa nghe kinh học pháp, có những lúc hiểu lầm nhau, sự hiểu lầm ấy có bị quả báo không?

ĐÁP: Hỏi huynh đệ đi chùa lâu lâu có một hai vấn đề hiểu lầm nhau vậy có bị quả báo không? – Hiểu lầm mà không nói lầm, làm lầm thì không bị quả báo. Vì quả báo phải phát xuất ra từ miệng từ thân, chớ còn nằm trong ý là chưa làm gì cho người khác đau khổ thì không bị quả báo.

HỎI: Người thất tình mà tự tử thì chìm sâu trong địa ngục, còn người bệnh tâm thần mà tự tử thì có bị đọa không?

ĐÁP: Người tự tử do thần kinh bất an họ làm lầm làm sai là do họ không bình tĩnh, nhưng họ không làm khổ cho ai, gây hại cho ai thì điều đó tùy theo nghiệp duyên của người đó trong thời gian còn tỉnh táo làm lành hay dữ. Nếu lúc tỉnh táo mà làm dữ thì chết bị đọa, lúc tỉnh táo làm lành thì khỏi đọa chớ không nhất định.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng giảng giải cho chúng con hiểu, sao các bài chú không diễn giải như kinh cho dễ hiểu.

ĐÁP: Đọc thần chú là đọc nguyên âm chữ Phạn, mà nguyên âm chữ Phạn thì không giải thích để cho người tu mong được sự linh ứng, mà mong được sự linh ứng thì phải có tâm thành. Thần chú để nguyên âm đọc nghe lạ tai, huyền bí làm cho người có tâm thành kính dễ có linh nghiệm. Nếu giảng ra dễ quá thì coi thường, coi thường thì hết linh nghiệm.

Ngày xưa tôi có một người quen học gồng ở bên Lào về, khi gồng ông đọc một câu chú, ông nói là tiếng Chà, đọc xong câu chú ông gồng lên thì lấy dao chặt không đứt, ông ta thắc mắc hoài, ông nói tại sao câu chú đó linh quá, ông đi tìm người Chà hỏi, nhờ dịch nghĩa câu chú thì ông Chà kia dịch ra rằng: “Chặt không đứt, chặt không đứt”. Bấy giờ ông đọc câu chú dịch nghĩa gồng lên thì chặt đứt. Tại sao vậy? Nếu để nguyên tiếng Chà mà đọc thì lấy dao chặt không đứt, còn khi dịch ra tiếng Việt thì chặt đứt là tại sao? Vì đọc nguyên câu chú mình thấy nó linh thiêng, kính trọng, vì quá kính trọng nên lòng tin làm gân cốt mạnh ra nên chặt không đứt, còn dịch ra tiếng Việt “chặt không đứt” coi thường quá, coi thường thì chặt đứt liền. Như vậy quí vị hiểu ý tại sao thần chú không giảng.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con nghe quí thầy thường nói được làm thân nam là người đó có phước đức, nhưng sao có người sanh vào gia đình nghèo, lại xấu xí bệnh tật, lại còn hung dữ. Trái lại người nữ thiếu phước tại sao sanh trong gia đình giàu sang, đẹp đẽ lại đức hạnh thuần hòa. Có thân nữ phải là nghiệp ái nặng không? Ngưỡng mong Hòa thượng giải cho chúng con biết. 

ĐÁP: Câu hỏi này thường mà thực tế. Có nhiều người nói làm thân nam là có phước, đó là nói một cách chủ quan, chắc là quý thầy nói. Nếu gặp quý cô chắc không nói vậy đâu. Nói được thân nam là phước thì lời nói đó chưa đúng sự thật, thân nam thân nữ là nghiệp riêng chớ không phải là phước. Nam cũng có người bị tật nguyền, có người cũng bị bệnh hủi, thọ thân nam hay nữ là do nghiệp duyên riêng. Có chủng tử về phái nam thì sanh nam, chủng tử về phái nữ thì sanh nữ, chớ không phải do phước hay không phước. Người nói đạo lý mà nói vậy là không đúng sự thật, dù thân nam hay nữ, nếu có phước thì được giàu sang, vô phước cũng khổ sở như ai thôi.

HỎI: Bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng từ bi giải thích cho chúng con rõ:

Trong sử có đoạn kể tôn giả Mục Kiền Liên xuống địa ngục để tìm mẹ, xin Hòa thượng cho con biết Tôn giả dùng cách gì để xuống địa ngục được? Xin đội ơn Hòa thượng.

ĐÁP: Nếu trả lời cho đúng sự thật thì tôi phải hỏi ngài Mục Kiền Liên, Ngài dùng cách gì để đi, Ngài cách tôi hơn hai ngàn năm làm sao tôi biết được. Nói vậy thì phụ lòng Phật tử, nên tôi tạm giải thích: căn cứ vào sử chớ không phải căn cứ vào cái thấy của tôi. Sử ghi rằng ngài Mục Kiền Liên đã chứng A-la-hán đầy đủ lục thông, trong đó có thần túc thông, mà thần túc thông thì chỗ nào muốn đi cũng được; vào nước cũng được, vào đất cũng được… cho nên Ngài vận dụng thần thông mà đi chớ không phải đi bộ như chúng ta.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng: Tục lệ mở cửa mả cho người chết nhằm mục đích gì? Khi người chết đem thiêu có ảnh hưởng gì đến thân trung ấm không?

ĐÁP: Tục lệ mở cửa mả tôi xin nói đây là của nhà Nho chớ không phải nhà Phật, nhà Nho ngày xưa giàu tưởng tượng, tưởng rằng người chết rồi còn trở về với gia đình, mình chôn rồi mà không mở cửa sợ họ mắc kẹt về không được, nên tới đó làm lễ mở cửa mả rước về ở với con cháu, rồi bày ra lễ vật cúng tam sên… Bây giờ rất tiếc nhà Nho đã tàn rồi mà tục lệ vẫn còn, nên người đời không biết mời ai nên mời mấy thầy, mấy thầy cũng nể tình làm giùm vậy thôi chớ không phải chuyện của nhà Phật. Quí Phật tử hiểu rồi thì không thắc mắc sao nhà chùa đi cúng mà không giải thích được.

Còn hỏi người chết đem thiêu, thân trung ấm có ảnh hưởng gì không? – Không. Chôn, thiêu đều không ảnh hưởng gì hết, vì chôn, thiêu thân tứ đại, chớ thân trung ấm là phần tinh thần, lửa không cháy, chôn cũng không mất nên không ảnh hưởng gì hết. Nếu có ảnh hưởng thì khi Phật nhập Niết-bàn Ngài đâu có dạy làm lễ trà tỳ cho Ngài.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng giải thắc mắc giùm con: con có cúng dường cho một thầy, sau đó thầy này hoàn tục, như vậy con có mắc tội hay không? 

ĐÁP: Phật tử này lo xa mà hỏi. Trong kinh A-Hàm đức Phật có nói đời mạt pháp có những người hình thức xuất gia mà không tu hành, thọ của đàn na tín thí mà không tu nên sau này họ bị đọa. Có câu chuyện kể ngài A-nan một hôm nằm mộng thấy một cái hố sâu, dưới hố toàn những người mặc y vàng, trên hố có một cây cầu bắc ngang qua, có những người thiện nam tín nữ đi thong thả trên cây cầu. Khi tỉnh giấc Ngài bạch Phật điềm mộng đó và hỏi ý nghĩa gì? Phật dạy sau này trong đời mạt pháp đệ tử của ta tuy là thọ tỳ kheo, hình thức xuất gia nhưng không giữ giới, không tu hành mà thọ của tín thí. Những thí chủ cúng dường được phước, sanh lên cõi trời, đó là những người đi trên cầu. Còn những người thọ mà không tu phải chịu đọa địa ngục đó là những người rớt xuống hố. Như vậy Phật tử cúng mà người thọ nhận không tu thì họ bị tội, còn Phật tử vẫn được phước như thường, Phật tử khỏi lo ngại điều đó.

HỎI: Xin Thầy chỉ dạy: Hiểu được lý nhân quả, đi sâu vào lý nhân quả có phải huệ không?

ĐÁP: Quí Phật tử có nhớ trong nhà Phật nói tam huệ học là văn, tư, tu không? Bây giờ thấy được lý nhân quả tức là nghe hiểu rồi ứng dụng lý nhân quả thì đó là huệ học chớ gì.

HỎI: Đa số người nghĩ: Khi nào tôi khá giả mới có tài vật để cho người, có người lại nghĩ: chỉ khi nào ta có tâm muốn cho người thì mới có tài vật để cho. Thưa Thầy ý nào đúng?

ĐÁP: Câu này quí vị có thể thay tôi trả lời ý nào đúng. Nếu ý nào cũng đúng thì tôi sẽ trả lời ý nào cũng sai. Bởi vì nói đợi khá giả có tài vật nhiều chừng đó mới làm việc bố thí, thì nếu cả đời không khá giả thì không bao giờ bố thí phải không? Như vậy thì cả đời khó làm được việc thiện. Còn nói rằng tâm mình nghĩ bố thí thì liền có tài vật cho mình bố thí thì duy tâm quá phải không? Vậy cả hai phải dung hợp với nhau, vừa nghĩ bố thí, vừa làm cho có tài vật, khi tài vật có dư thì đem ra giúp người. Phải dung hợp hai mặt như thế mới cụ thể.

HỎI: Kính bạch Thầy, kính mong Thầy dạy cho chúng con, chúng con chưa tu chứng A-la-hán, chưa đắc quả vô sanh. Vậy khi thân tứ đại tan rã ông Chủ có đi đầu thai để tái sanh không? Nếu không thì ở đâu? Tánh giác và giác linh khác nhau thế nào?

ĐÁP: Điều này không có gì lạ. Nếu tu chưa chứng quả A-la-hán, chưa đắc vô sanh thì còn tái sanh, điều đó không nghi ngờ gì hết. Tùy theo túc duyên của mình lành nhiều lành ít mà đến chỗ tốt hoặc chỗ xấu, không cố định. Phật tử này đừng lo khi chưa chứng vô sanh, ông Chủ mình có đi tái sanh hay không đi. Bảo đảm là ổng sẽ đi dài dài trong lục đạo!

Tánh giác và giác linh khác nhau thế nào? Đây là từ ngữ thôi. Tánh giác là cái hiểu biết sáng suốt mà ai cũng có. Còn giác linh là người tu khi chết rồi người ta muốn tôn xưng một chút. Nếu nói hương linh, mỗi lần cúng về ăn nghe nó phàm tục quá nên gọi là giác linh, thì đó cũng là một danh từ thôi. Nói gọn lại, tánh giác là cái mất mà tất cả mọi người đều có, còn giác linh là danh từ chỉ cho người chết mà mình tin là người đó sáng suốt hơn người khác nên gọi là giác linh.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, theo luật nhân quả thì có vay có trả, con thấy một ông thầy xuất gia đầu Phật, sau này xả giới hoàn tục trở về có vợ con bình thường như người đời, không phải phá giới mà xả giới. Vậy khi lâm chung có bị đọa địa ngục không?

ĐÁP: Phật tử này lo giùm cho quí vị xuất gia rồi hoàn tục, sợ nợ đàn na tín thí bị đọa địa ngục. Tôi xin giải thích: Theo luật nhân quả thì có vay có trả nhưng hiểu một cách cố định như vậy thì không đúng. Vì luật nhân quả rất tế nhị, nếu hiểu được cái lý của đạo Phật thì nhân nào chưa hẳn là quả ấy, vì nhân quả nó có một chuỗi dài của thời gian. Ví dụ tôi ươm một hột xoài nhất định ba năm sau tôi có trái xoài, nhưng nếu chăm sóc giữ gìn không tốt thì ba năm sau có trái xoài không? – Không. Vậy phải cộng thêm sự chăm sóc giữ gìn giữ đúng mức thì mới có trái xoài. Luật nhân quả cũng không khẳng định vay thứ nào phải trả thứ ấy, mà có thể vay cái này trả bằng cái khác. Tôi thường ví dụ có một ông thầy giáo giỏi tiếng Anh nhưng vì nghèo ông vay tiền của một người khá giả, tới kỳ hẹn ông không có tiền trả. Người chủ nợ nói: thôi tới dạy giùm con tôi học một thời gian, khỏi phải trả tiền. Vậy ông thầy giáo không trả nợ bằng tiền mà trả nợ bằng sự dạy học. Nói vay nợ rồi sau này làm súc vật để trả thì chưa đúng, hồi vay thì vay tiền nhưng người có khả năng giáo dục thì có thể làm thầy để trả. Tôi cũng vậy, tôi thiếu nợ quí Phật tử nhiều, nếu đời này tôi trả bằng pháp chưa đủ thì sau gặp lại trả nữa, nhưng được làm thầy để trả. Ông thầy xuất gia này nếu vì nhân duyên không thể tu được nữa ông xả giới hoàn tục thì chặng xuất gia của ông tốt. Trong thời gian xuất gia ông được Phật tử cúng giúp, ông tu hành đàng hoàng thì lấy phước đức đó mà bù. Bây giờ làm cư sĩ tại gia mà không gây tạo tội lỗi thì chết không bị đọa địa ngục. Còn cái phước thừa xuất gia đời sau ông có thể xuất gia tu trọn vẹn hơn.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng xin giảng cho chúng con hiểu:

1. Người xuất gia là con Phật, vậy ông bà cha mẹ chết hoặc còn sống có được quỳ lạy không?

2. Có người nói cửu huyền lớn hơn Tam bảo, không có cửu huyền thì không có Tam bảo, vậy cái nào đúng cái nào sai?

ĐÁP: 

1. Câu hỏi này chưa xác đáng, phải hỏi lại thế này: Người xuất gia thọ giới Sa di hoặc giới Tỳ kheo rồi thì ông bà cha mẹ hoặc sống hoặc chết mình có lạy hay không? Hỏi như vậy là hợp lý hơn. Tôi giải thích: Người xuất gia trước khi thọ giới Sa di, thì chư Tăng thường dạy phải hướng về cha mẹ đảnh lễ trước, rồi sau đó mới làm lễ xuất gia. Tại sao vậy? – Vì sau khi xuất gia tối thiểu cũng thọ mười giới Sa di, còn cha mẹ nếu biết đạo chỉ thọ năm giới thôi. Cho nên căn cứ trên đạo hạnh giới luật thì người giới cao mà lễ bái người giới thấp làm cho người đó tổn phước. Do đó không lạy, vì sợ lạy làm giảm phước cha mẹ, chớ không phải tự cao, tôi đây xuất gia rồi, cao lắm, không lạy mấy người thế tục. Quý vị phải hiểu cho rõ có lỗi hay không lỗi không thành vấn đề, chẳng qua vì giới luật thôi.

2. Còn nói cửu huyền thất tổ lớn hơn Tam bảo vì có cửu huyền mới có Tam bảo. Câu này thông thường quá nhưng phải nói rõ vì có nhiều người không hiểu. Tam bảo khác với cửu huyền thất tổ, Tam bảo là Phật, Pháp và Tăng. Phật là bậc giác ngộ, Pháp là giáo lý dạy cho người thấy được lẽ thật trong cuộc sống để tu thoát khổ, hai cái đó là của báu vô giá. Còn cửu huyền thất tổ đối với con cháu dù lớn, nhưng lớn tromg phạm vi phàm tục chớ không phải lớn trong giải thoát giác ngộ, cho nên nói cửu huyền thất tổ lớn hơn Tam bảo là nói không đúng chân lý.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng cho con hỏi năm câu:

1. Nhất cử nhất động đều là duyên nghiệp phải thế không? Làm sao phân biệt được duyên và nghiệp.

2. Nếu một đời con niệm Phật mà chưa dứt được tham sân si, thì con sẽ được gì sau khi con mãn phần?

3. Nếu có chúng sanh nào đó phạm năm tội trọng, nhất tâm niệm Phật thì chúng sanh ấy có thoát được cả năm tội trọng ấy không?

4. Con rất mến mộ danh hiệu Phật Thích Ca, kế đến Phật Dược Sư và Địa Tạng Vương Bồ-tát, vậy có phải là ba vị Phật này mới độ được con không, vì con xem kinh sách chỉ bảo như thế.

5. Nếu một đời con niệm Phật Thích Ca thì sau khi mãn phần con ở cõi nào? Niệm Phật Thích Ca thì phải niệm Nam mô Ta bà giáo chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, vậy khi mãn phần con sẽ phải ở cõi Ta bà với Phật Thích Ca sao?

ĐÁP: Câu hỏi này thấy cũng có cái vui. Tôi trả lời thứ tự:

1. Nhất cử nhất động đều là duyên nghiệp phải thế không? – Tôi xin hỏi lại, quý đạo hữu chú ý theo dõi: Phật tử hiểu duyên nghiệp của quá khứ hay của hiện tại? Nếu nói của quá khứ thì chưa thấu đáo. Bởi vì đời sống chúng ta một là trả nợ quá khứ, hai là tạo duyên vị lai. Đành rằng tất cả cử động đều là duyên nghiệp, nhưng nếu thuộc về quá khứ thì đa số người thấy như là một định nghiệp hoặc nói là số mạng. Nghĩa là bắt buộc mình phải như vậy, phải theo cái khuôn nhất định không chuyển đổi được. Nhà Phật thì không chấp nhận như vậy, nếu quá khứ có duyên nghiệp xấu, mà hiện tại mình chuyển tạo duyên nghiệp tốt thì những duyên nghiệp xấu quá khứ được giảm. Ví dụ năm ngoái quý Phật tử làm ăn thua lỗ có vay một số nợ, năm nay ráng làm ăn khá trả hết nợ cũ, như vậy không phải năm ngoái thiếu nợ rồi mình là kẻ nợ suốt đời. Theo Phật giáo thì nghiệp duyên có thể chuyển đổi được, dở thì làm hay để chuyển, xấu thì làm tốt để chuyển. Ví dụ có một Phật tử ít phước sanh ra đời ăn nói không thanh nhã nhẹ nhàng, nên nói chuyện ai cũng ghét. Nếu Phật tử này nghĩ số tôi như vậy đành phải chịu thì không sửa đổi. Còn nếu nghĩ mình phải sửa đổi cho ngôn ngữ thanh nhã nhẹ nhàng, và từ từ sửa được nên người ta thương. Chúng ta phải có sức mạnh vươn lên chớ không ù lì cam chịu. Hiểu như vậy mới đúng với ý nghĩa duyên nghiệp của nhà Phật.

2. Nếu Phật tử niệm Phật mà chưa hết tham sân si, không tội nặng thì khi mãn phần sẽ được trở lại cõi này gặp Phật pháp sớm làm cư sĩ tu tiếp. Vì niệm Phật tưởng nhớ Phật, có duyên với Phật thì được làm người gặp Phật pháp sớm.

3. Phạm năm tội trọng tức là tội ngũ nghịch, nếu người phạm tội ngũ nghịch mà n niệm Phật được nhất tâm bất loạn thì chuyển được tội, còn không được nhất tâm bất loạn thì chưa chuyển được nhưng dù sao cũng nhẹ đôi chút.

4. Niệm Phật Thích Ca hay Phật Di Đà, niệm danh hiệu nào cũng được. Vì kinh Di Đà do Phật Thích Ca nói, Ngài dạy cho chúng sanh nên niệm danh hiệu Phật A Di Đà để hết khổ.

5. Phật tử này lo sợ trở lại cõi Ta bà này nữa. Tôi xin hỏi quý Phật tử, đức Phật Thích Ca bây giờ ở đâu? – Ngài chỉ hiện thân ở cõi Ta bà một lần để giáo hóa, khi mãn duyên Ngài nhập Niết-bàn. Ngài nhập Niết-bàn thì chúng ta niệm danh hiệu Ngài đến nhất tâm bất loạn thì cũng nhập Niết-bàn như Ngài, không trở lại đây, vì Niết-bàn là chỗ cứu cánh, là vô sanh rồi, đâu còn sanh tử nữa.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con có vài thắc mắc mong Hòa thượng từ bi giảng dạy:

1. Chúng sanh sau khi chết, phải qua bốn mươi chín ngày mới đi tái sanh phải không?

2. Thần thức khi tái sanh chuyển vào bụng mẹ trước hay sau khi lọt lòng mẹ?

3. Có người nói rằng ăn chay không được ăn trứng gà trứng vịt, có người lại nói ăn được nhưng phải ăn trứng không trống, vấn đề này thế nào mong Hòa thượng chỉ dạy.

ĐÁP: Bây giờ tôi trả lời từng câu:

1. Việc tái sanh không cố định, có khi nhắm mắt đi tái sanh liền, có khi phải chờ bốn mươi chín ngày. Đây là nói phạm vi con người tùy duyên nghiệp. Ví dụ người đó có duyên phải trở lại làm người trong một gia đình nào đó, thì phải đợi cái duyên cha mẹ thuận tiện họ mới tới được. Nếu họ vừa nhắm mắt gặp cái duyên đó thì họ tới liền, nếu chưa gặp duyên họ phải chờ. Vì vậy điều này không thể trả lời dứt khoát một bên.

2. Trong Kinh nói thần thức vào bụng mẹ trước chớ không tới sau. Nhưng có trường hợp đặc biệt khác mà nhà thiền gọi là “đoạt xá” nghĩa là cướp nhà. Lịch sử thiền ở Việt Nam có thiền sư Từ Đạo Hạnh, khi vợ của Sùng Hiền Hầu mang thai, Ngài bảo chừng nào gần sanh báo tin cho Ngài biết. Khi được tin bà chuyển bụng thì Ngài đập đầu vô đá mà tịch, rồi thác sanh vào đó gọi là đoạt xá, tức là cướp nhà, người ta đang ở mình đuổi đi. Như vậy trước trong bào thai đã có thần thức một vị nào đó, Ngài vì muốn tới đó để làm Phật sự. Thần thức Ngài mạnh hơn thần thức kia nên cướp đoạt chỗ của người ta. Đó là trường hợp đặc biệt khi sanh mới đến, còn thông thường có tinh cha huyết mẹ liền có thần thức đến.

3. Ăn chay có nên ăn trứng hay không? Vấn đề này ai cũng có cái lý riêng, nhưng với cái nhìn của tôi, không bắt buộc ai phải theo vì người tu nhất là tu Phật khác với tu tiên. Tiên thì dùng cái nghĩa thanh và trược, ăn thứ gì có máu thịt là trược, rau cải là thanh. Nhưng với con mắt nhà Phật thì chỉ tránh tội sát sanh là gốc, không ăn thịt chúng sanh vì không muốn giết hại nó, cũng không để cho người vì mình mà giết hại, đó là chủ yếu. Thế nên những vị tu theo Phật giáo Nguyên thủy chẳng những ăn trứng mà ăn thịt công khai, cái gì người ta làm sẵn dâng cúng thì các ngài thọ dụng không ngại gì hết, có nghĩa là các ngài không sát sanh. Như vậy những người nói ăn trứng không trống được đối với nhà Phật thì không có lỗi. Còn theo Đại thừa thì bảo mình không ăn thịt thôi chớ không nói gì đến trứng, mà trứng ngày xưa khác bây giờ khác. Trong luật dạy một Tỳ-kheo không được làm cho những hạt giống chết, tức là cái gì có mầm sống mình không được giết.

HỎI: Con có vài điều thắc mắc như sau, kính xin Hòa thượng từ bi giải thích cho con: Con vì tâm chấp là con đê đắp kín, một dòng sông nước không chảy được nên bị đọng, trí của con phá được một chấp là phá được một phần nhỏ của con đê. Trí con phá được nhiều chấp là phá được bờ đê rộng ra thêm. Cứ thế mà phá hoài phá mãi bờ đê từ từ vỡ, nước đọng nước chảy ra hết thì còn dòng nước trong, thì từ từ tâm con sẽ sạch. Con tu như vậy là đúng hay sai?

ĐÁP: Thí dụ này không đúng lắm, bởi vì nước chảy cạn thì dòng nước sẽ khô chớ đâu còn dòng nước trong. Trong nhà Phật dạy gốc đau khổ của con người từ chấp mà ra, chấp là từ si mê mà có. Ví dụ như mình chấp cái này phải cái kia quấy, mình thấy ai làm theo tâm chấp phải của mình thì mình cho là phải, ai làm theo tâm chấp quấy của mình thì mình cho là quấy. Và cứ thấy như vậy hoài, nhất là thấy người thân của mình cứ làm những chuyện mà mình cho là quấy thì mình khổ dài dài. Như vậy chấp chừng nào là khổ chừng ấy. Càng chấp càng chồng chất phiền não. Vì chấp thì không sáng suốt, nếu sáng suốt thì không chấp. Hết chấp thì hết khổ chớ không thể ví dụ như con đê vỡ sẽ có dòng nước trong được.

HỎI: Bạch Hòa thượng, con nghĩ thiện tri thức thuận hạnh cũng như thiện tri thức nghịch hạnh đều là ân nhân của con. Thiện tri thức mặt nghịch là những bậc thang giúp con nỗ lực leo lên cho bằng được. Con ví họ như dòng thác lũ con sẽ cố gắng bơi qua để cho việc tu hành đừng dừng lại. Kính bạch Hòa thượng con tu như vậy đúng hay sai?

ĐÁP: Phật tử này nghĩ thiện tri thức nghịch hạnh giống như là mình muốn leo lên những bậc thang hay qua những dòng thác, nhờ những nghịch hạnh đó mà mình vượt qua được những cái khó khăn như vậy nghịch hạnh cũng là cái tốt, tu như vậy là hợp lý.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con là Phật tử giữ giới tu ba nghiệp đang trường chay, nếu cha mẹ ăn mặn bắt buộc phải sát sanh thì sao?

ĐÁP: Trường hợp Phật tử này đã ăn chay trường, giả sử như cha mẹ ở quê bảo mình cắt cổ gà hay đập đầu cá thì Phật tử này phải làm sao cho hợp lý?

Tôi đề ra hai cách:

Một là vì thương cha mẹ thì mình làm, mình chấp nhận chịu tội để cho cha mẹ được vui, vì lòng hiếu thảo mình chịu tội để cho cha mẹ được bữa ăn ngon thì tốt. Đừng đòi mình được hiếu mà lại không có tội nữa thì điều đó tham quá! Ngày xưa có vị Hòa thượng ở chùa Từ Hiếu, Ngài có bà mẹ già nên phải đi chợ mua cá về làm cho mẹ ăn, chấp nhận mình có tội để đền công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ. Trường hợp này đừng đòi hỏi làm mà không có tội thì không được.

Hai là nếu Phật tử này có khả năng khuyên cha mẹ lần lần ăn chay luôn để mình khỏi phạm tội sát sanh thì tốt.

HỎI: Kính bạch Thầy, trẻ nít sơ sanh từ năm đến bảy tháng tuổi đã có ba vá là ba chòm tóc trên đầu. Người đời cho là con nhà Phật nhưng bé lại hay bệnh hoạn khó nuôi. Kính lạy Thầy xin Thầy giải thích cho chúng con xác quyết được niềm tin và phải làm thế nào để trẻ ba vá dễ nuôi ít đau? 

ĐÁP: Phật tử này chưa hiểu đạo lý nhiều nếu hiểu nhiều thì không có sợ. Trẻ nít sanh ra có ba vá giống như mấy ông đạo ở chùa. Đó là hiện tượng tốt, coi như mình có duyên với Phật pháp nếu nó khỏe mạnh thì lớn lên nó đi tu tiếp tục con đường của nó đã đi. Còn nếu nó ươn yếu bệnh hoạn khó nuôi, lỡ nó có đi thì cái duyên của nó không phải ở với mình.

Thật ra người có duyên với mình dù cho bỏ lăn bỏ lóc nó cũng không đi. Bấy giờ muốn xác quyết được niềm tin phải làm thế nào để nó dễ nuôi thì tôi xác quyết thế này: Nếu đứa bé đó đối với người mẹ người cha thật là cái duyên cha mẹ của nó thì nó ở với quí vị. Còn nếu không phải duyên lâu dài thì nó có quyền đi đừng tiếc.

HỎI: Xin Thầy giảng cho con hiểu thêm hai danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật và Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, hai danh hiệu này tượng trưng cho hai vị Phật hay một vị. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con hiểu thêm.

ĐÁP: Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật hoặc Nam mô Dược Sư Lưu Ly Phật v.v… bao nhiêu danh hiệu Phật trong Kinh nói, mỗi vị Phật giáo hóa mỗi nơi, mỗi vị có cái nguyện giáo hóa ở cõi đó chớ không phải tượng trưng. Còn chữ Nam mô là chữ Phạn, Trung Hoa dịch là Nẵng mồ, có chỗ dịch là Nạp mồ. Chữ này nguyên chữ Phạn mà Trung Hoa không dịch, nó có nhiều nghĩa như cung kính, kính lễ, thành tâm. Nếu dịch nghĩa này thì thiếu nghĩa kia, cho nên để nguyên chữ Nam mô. Đó là một từ nói lên lòng thành kính và hình thức cung kính của người đệ tử đối với các Ngài. Còn mỗi danh hiệu Phật là chỉ cho mỗi vị Phật truyền bá mỗi cõi chớ không phải tượng trưng.

HỎI: Bạch Sư ông, con nghe nói hội Long Vân, hội Long Hoa đức Phật Di Lặc ra đời, hội đồng Tam giáo xử phân, người tu chân chánh sau này hưởng được hồng ân thế nào, xin Sư ông cho con biết.

ĐÁP: Điều này chỉ liên hệ với đạo Phật có vài từ ngữ là hội Long Hoa và Phật Di Lặc, còn hội Long Vân thì trong kinh Phật không có nói. Nhưng tôi xin nói cho quý Phật tử biết, những người nói hội Long Vân, hội Long Hoa là những người học đạo không chân chánh, họ dùng từ Long Hoa trong đạo Phật để kêu gọi người ta ráng tu gấp, hoặc nói chỗ này có Phật ra đời, chỗ kia có Phật ra đời, đó là lối thúc người ta tu thôi chớ không thật. Trong kinh Phật nói rằng sau khi giáo pháp đức Phật Thích Ca diệt rồi, không còn ai biết đến danh từ Phật, Pháp, Tăng là gì nữa thì đức Phật Di Lặc ra đời ở dưới cây Long Hoa, giống như Phật Thích Ca thành đạo ở dưới cây Bồ-đề vậy. Đó gọi là hội Long Hoa. Phải hiểu rằng khi nào chúng sanh không còn biết danh từ Phật, Pháp, Tăng, nghĩa là giáo pháp của Phật Thích Ca không còn lưu truyền nữa thì mới có Phật Di Lặc, vì không có hai vị Phật cùng một lúc ở một cõi. Tại sao vậy? Vì nếu ông Phật thứ nhất còn thì ông Phật thứ hai nói cái gì? – Nói chi cho dư. Thế nên giáo pháp đức Phật Thích Ca vẫn còn đang lưu truyền, mà ai đó xưng Phật thì không phải là Phật thật, quý Phật tử hiểu cho thật rõ chỗ đó thì khỏi sợ lầm. Xưng Phật, xưng Bồ-tát thì dễ mà thực hành hạnh Phật và Bồ-tát thì khó.

Còn nói hội đồng Tam giáo xử phân thì tôi không tin điều đó, chỉ có nghiệp lành nghiệp dữ xử phân mình thôi chớ không có hội đồng nào xử hết.

HỎI: Kính bạch Thầy, bên Tịnh độ dạy người chết mới tắt hơi thân nhân không nên động tử thi hay lau rửa, phải đợi tám giờ sau. Vì khi tắt hơi thức A-lại-da chưa đi, nếu khóc hay lay động thây sớm thì họ còn cảm giác đau đớn, sân hận. Ở Tây phương đa số chết ở bệnh viện, vừa chết đưa vào nhà xác, thân nhân mướn nhà quàng đến tẩn liệm, quàng thây tại đây đến ngày chôn hoặc thiêu, như vậy không thể áp dụng những điều nói trên, kính bạch Hòa thượng vậy phải làm sao?

Khi sắp chết và khi quàng thây nếu không có chư Tăng hộ niệm hay tụng kinh thì có thể sử dụng băng tụng hay không?

ĐÁP: Phần này tôi chỉ nói đơn giản là khi tắt thở các thức: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý liền lặng mất, chỉ thức A-lại-da thì còn ngầm ở trong từ từ ra sau. Tuy nó ra sau nhưng thân này hoại rồi nó cũng đi chớ không ở lâu lắm. Có nhiều vị nói nó ở tám tiếng đồng hồ đó là một lối nói thôi. Trong kinh A-hàm hoặc Nikaya nói rằng sau khi nhắm mắt thần thức liền theo nghiệp mà đi chớ không nói ở lâu. Thôi thì tùy duyên người ta săn sóc sớm, bỏ vô quan tài sớm cũng không sao!

Khi người nhắm mắt không có Tăng Ni tụng Kinh thì dùng băng điều này cũng tốt thôi. Tụng Kinh không phải tụng cho người chết mà tụng cho người sống, nói điều này quý vị nghe có lạ không? – Tại sao nói tụng Kinh cho người sống? – Có hai lý do:

1. Gia đình có đám ma thì buồn bã, nhờ Tăng Ni tụng Kinh nghe lời Phật dạy mà quên buồn đó là vì ai? – Vì người sống phải không? Người chết đâu ở đó mà buồn!

2. Khi tụng Kinh người sống nghe, thấm nhuần được giáo lý Phật dạy được lợi ích, còn người chết lợi ích không nhiều. Kinh Địa Tạng nói người sống hưởng hai phần ba, người chết chỉ hưởng một phần ba thôi. Thật ra ai cũng muốn cho người chết được hưởng chớ đâu có dành phần cho mình, nhưng thực tế lại khác vì người chết theo nghiệp mà đi, người sống thì được hưởng, lẽ thật nó là như vậy.

HỎI: Kính bạch Thầy, cúi xin Thầy giải thích thế giới của loài rồng có thực không? Nếu có thì rồng là súc sanh, tại sao rồng tu nhanh quá, như Long nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa, mà chúng con là người tu cứ lẩn quẩn trong sanh tử luân hồi? 

ĐÁP: Loài rồng có hoặc không, cái gì mình không thấy mà nói thì không đúng, tôi xin nói theo trong Kinh kể: có loài rồng ở Long cung, mà Long cung ở trong biển cả, đó là theo kinh nói vậy tôi nói theo chớ không dám nói thật có hoặc thật không.

Còn hỏi tại sao Long nữ tu mau thành Phật quý Phật tử bây giờ tu lại lâu? – Điều này chẳng có gì lạ, dù cho Long nữ hay Lộc nữ (con nai) mà ngộ được tánh giác rồi thì tu mau, nếu là người mà chưa ngộ tánh giác thì tu lâu. Ngộ tánh giác theo kinh Pháp Hoa nói là ngộ tri kiến Phật. Long nữ nhờ Bồ-tát Văn Thù giáo hóa ngộ được tánh giác nên tu mau. Còn quý Phật tử bây giờ, rất tiếc là không gặp được ngài Văn Thù, gặp chúng tôi thì phàm tăng quá không ngộ được tánh giác nên tu lâu. Vậy cái sai sót lỗi lầm tại ai? – Chắc tại tôi phải không?

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, theo tinh thần Thiền tông, Hòa thượng dạy chúng con tìm chơn tâm thì phải buông bỏ hết vọng tưởng, tự mình phải tu, không có một tha lực nào giúp cho giải thoát được sanh tử.

Trong kinh Địa Tạng phẩm sáu Phật nói: Người gây ác nghiệp đau nằm liệt trên giường, quyến thuộc của người ấy lấy đồ vật của người ấy cúng dường Tam bảo và đọc kinh Địa Tạng cho người ấy hay biết thì dù từ trước tội có nặng đến năm tội vô gián cũng thường nhớ biết công việc đời trước. Kính bạch Hòa thượng có nhiều tha lực của Bồ-tát Địa Tạng cứu vớt chúng sanh khỏi địa ngục. Như vậy kinh Phật nói có mâu thuẫn không? Theo thiển ý của con thì cầu tha lực của Phật và Bồ-tát Địa Tạng dễ dàng hơn tu thiền để đạt được minh tâm kiến tánh.

ĐÁP: Phải rồi, tha lực lúc nào cũng dễ còn tự lực thì khó, nhưng quý Phật tử nhiều khi nghe mà không chú ý rồi tự hiểu lầm. Kinh Địa Tạng nói thân nhân của người bệnh lấy đồ đạc của người ấy đem ra bố thí cúng dường Tam bảo và đọc kinh Địa Tạng để cho người ấy hay biết. Nghĩa là cái việc làm đó người bệnh biết, biết tức là họ vui, họ chịu thì họ mới được hưởng cái phước đó, còn họ không biết không hay thì không được hưởng. Như vậy họ có biết tức là họ có phát tâm trong đó, mà có phát tâm tức là tự lực. Cho nên tự lực không rời tha lực, hay ngược lại tha lực không rời tự lực. Như kinh Di Đà dạy niệm Phật đến nhất tâm bất loạn sẽ được Phật rước về Cực Lạc, đó là tự lực hay tha lực? – Nếu tha lực thì Phật không nói niệm Phật đến nhất tâm bất loạn làm chi. Mà niệm tới nhất tâm bất loạn rồi thì là tự lực, và sau đó được Phật rước là tha lực. Như vậy tự lực là gốc, nếu trông vào tha lực thì khó mà được.

HỎI: Kính bạch Thầy, xin giảng cho con biết câu: “Tâm ấn đạo truyền đạo”.

ĐÁP: Câu “Đạo truyền đạo” thì tôi không thấy, nhưng “tâm ấn” thì có, quý Phật tử thường nghe nói “truyền tâm ấn”. Chữ ấn là con dấu, con dấu của cơ qian chẳng hạn. Chúng ta xin giấy tờ của cơ quan nào đó, nếu không đóng dấu thì không có giá trị, con dấu để xác minh đúng sự thật cho người tin. Dùng tâm ấn tâm hay truyền tâm ấn là thầy và trò thấy hiểu tương ưng nhau. Cái thấy của người trò như cái thấy của người thầy, ngược lại cái thấy của người thầy như cái thấy của người trò gọi là “ấn”. Tức là con dấu đó ấn vào, in vào cho người ta tin điều đó thật đúng. Như vậy thầy thấy thế nào trò thấy thế đó, gọi là truyền tâm ấn, cho nên nói truyền mà không có truyền gì hết, chỉ là một cái gật đầu, một tiếng hét, hoặc lạy ba lạy vậy thôi. Đó là truyền tâm ấn.

HỎI: Con được nghe Thầy dạy rằng: Sống ở đời con người thường có nhiều vọng tưởng, nhưng nếu thật sự Phật tử nghĩ về đạo cần phải khắc phục hạn chế những vọng tưởng khi nó dấy khởi. Vì vậy theo sự hiểu biết về giáo của con, những suy nghĩ hành động hằng ngày của mình luôn lấy đạo lý chiếu soi để tự sửa chữa, từ đó mới sáng suốt đi theo đường đạo. Nhưng riêng con nghiệp còn quá nặng vì muốn gia đình được no ấm, con cháu học hành thành danh, con phải vọng tưởng kiếm được nhiều tiền cho gia đình, không màng đến bản thân, như vậy có được không hay phải sửa đổi?

ĐÁP: Phật tử này lương thiện quá, nghĩ lo cho cha mẹ anh em con cháu thành danh thành tài thì phải kiếm tiền thật nhiều, phải vọng tưởng suy nghĩ. Hỏi như vậy có lỗi gì không? – Thật ra thì không có lỗi gì nếu vì gia đình mà lo, nhưng lo nhiều thì tâm không an nhiên thanh tịnh, ngồi lại nó lăng xăng, như vậy được phần đời thì hơi kém phần đạo.

HỎI: Làm con đối với cha mẹ, lúc cha hay mẹ hấp hối, lúc ma chay trong vòng bốn mươi chín ngày phải làm gì để có kết quả tốt, đúng với hạnh người Phật tử chơn chánh, kính xin Thầy từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Đa số quý Phật tử hay lo lắng chuyện này. Kinh Phật thường dạy, tôi chỉ tóm lược lại một vài điểm: Lúc cha mẹ hấp hối người sắp chết khổ trăm bề, cơ thể rã rời đau đớn lại thêm lo sợ không biết đi về đâu, tâm hốt hoảng không làm chủ được. Vì vậy mà Kinh thường khuyên lúc đó gia đình nên họp lại tụng Kinh hoặc niệm Phật giúp sức mạnh cho người hấp hối nhớ tỉnh, bớt khổ. Có nhiều nơi quý thầy ở gần rước đến trợ niệm điều đó rất cần. Khi mất rồi lo ma chay thì tùy khả năng có ít cúng ít, có nhiều cúng nhiều không quan trọng. Trong vòng bốn mươi chín ngày nếu Phật tử nghèo thì mỗi đêm tụng Kinh cầu nguyện cho cha mẹ, còn khá giả hơn thì tu phước cúng dường để tăng trưởng phước cho cha mẹ nhờ, đó là thực hành theo Kinh dạy.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, theo kinh điển của Phật, con không thấy Kinh nào dạy cúng sao, mà cứ mỗi năm ngày mồng tám tháng giêng có ai bị sao hạn thì đến chùa xin cúng. Sao hạn từ đâu mà có, cúng sao có phải mê tín không? 

ĐÁP: Phật tử này hỏi rất thực tế, tại sao không thấy Kinh nào dạy mà làm. Điều này tôi có giải nhiều lần, nay tôi nói rõ thêm cho quý Phật tử biết: Cúng sao cúng hạn, kinh Phật không bao giờ dạy điều đó. Quý vị chịu khó đọc kinh Di giáo thì thấy Phật quở những vị Tỳ-kheo coi tướng coi tuổi, coi sao hạn. Phật không cho làm mà bây giờ chùa lại cúng là sao? – Bởi vì ngày xưa đất nước mình ảnh hưởng Nho giáo rất nhiều. Các vị Nho xem lịch rồi cúng cho dân, rất tiếc sau này không ai học Nho nữa, lịch cũng không ai coi, chỉ có mấy thầy đọc Kinh chữ Hán cho nên cuốn lịch được đem vô chùa nhờ quý thầy coi giùm. Khi coi nói tuổi đó bị sao hạn đó, sợ quá nên nhờ thầy cúng giùm. Quý thầy thì từ bi nếu từ chối tội nghiệp, cho nên cúng giùm thành quen. Và nếu cúng từng người thì mất thời giờ của thầy, cho nên mỗi năm họp lại cúng một lần vào ngày mồng tám tháng giêng. Việc này quý thầy làm thế cho mấy ông đồ Nho, không phải chân lý cũng không đúng nghĩa đạo.

Ngày nay khoa học tiến bộ thấy mỗi ngôi sao là một hành tinh. Hành tinh thì đâu có hộ cho ai, có hành ai đâu mà cúng. Nhà Phật dạy nhân quả là đúng lẽ thật, không ai đem cái khổ cái vui đến cho mình mà do tạo nhân đưa đến quả thôi. Tin điều đó là chánh tín, còn tin sao hạn không đúng lẽ thật gọi là mê tín.

HỎI: Một người tham lam lấy tiền của một người khác rồi bố thí cúng chùa… Như vậy quả báo tham lam thì phải nghèo nhưng nhờ bố thí cúng chùa nên được phước bù lại có đúng không? Bố thí cho một người nghèo và cúng dường cho một vị tăng, tuy cùng một việc làm nhưng sao phước báo lại khác nhau? 

ĐÁP: Trong nhà Phật thì quả nào theo nhân nấy, ăn cắp của người nào thì phải đền cho người đó, còn làm phước bố thí thì được phước với người mình giúp, phần nào ra phần nấy chớ cái này không bù qua cái kia được. Nhà Phật cũng thường nói thân này là thân tổng báo, tổng báo là quả báo chung. Trong cuộc sống chúng ta gặp tai nạn dồn dập đó là tổng báo. Nợ thì phải trả, phước thì được hưởng, chớ không có cái này bù qua cái kia.

Bố thí cho người nghèo và cúng dường cho một vị Tăng, hai cái đó cũng một việc làm, tại sao quả báo khác nhau? Điều này tôi có nói một lần, nay giải thích lần nữa cho quí vị hiểu rõ. Bố thí cho người nghèo thì được phước là cái chắc chắn rồi, còn cúng dường cho một vị Tăng cũng có phước, nhưng cúng dường gieo duyên để sau mình được Tăng đó độ. Ví dụ thấy người tật nguyền giúp cho họ bớt khổ nên được phước vui, nhưng không có duyên với Phật pháp. Còn cúng cho một vị Tăng tức là tạo cái duyên để sau này nhờ phước cúng dường mà được Tăng độ. Đó là chỗ sai biệt của việc bố thí cho người nghèo và cúng dường cho các vị Tăng.

HỎI: Bên Mỹ có một cháu bé lúc ba tuổi cha mẹ dạy niệm Phật, đến nay cháu được sáu tuổi. Cháu hỏi cha mẹ: Cha mẹ bảo con niệm Phật, vậy Phật niệm ai? Cha mẹ cháu không đáp được, cầu Hòa thượng giảng giải cho chúng con được hiểu.

ĐÁP: Đứa bé này có chủng duyên phi thường. Cha mẹ dạy bé niệm Phật, niệm nhiều rồi nó hỏi: Ba má dạy con niệm Phật, vậy Phật niệm ai? Cha mẹ bé không có gan trả lời. Nếu hỏi tôi thì tôi trả lời rằng: Phật niệm chúng sanh. Bởi vì niệm là nhớ nghĩ, mình nhớ Phật để được thành Phật, còn Phật thì nhớ chúng sanh để cứu độ. Nếu Ngài không niệm chúng sanh thì Ngài đâu có độ phải không?

HỎI: Chúng con được nghe giảng đại ý như sau: Chư Tăng giảng pháp cho Phật tử, Phật tử cúng dường chư Tăng, một bên bố thí pháp, một bên bố thí tài, xem như huề. Vậy các Phật tử kính lạy chư Tăng ngoài ý nghĩa kính trọng giới đức quý vị, còn có ý nghĩa gì khác, sự lễ lạy này có lợi ích gì cho chư Tăng và Phật tử trong việc tu tiến?

ĐÁP: Người lạy và người bị lạy, hai người đó có lợi ích gì? Tôi nói bị lạy chớ không nói được lạy nghe! Thật ra đúng là người biết tu thì sợ bị lạy lắm, nhưng vì bất khả kháng đó thôi.

Trong kinh Phật dạy Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) là phước điền của người Phật tư, nếu Phật tử không có tâm kính lễ Tam bảo thì phước không tăng trưởng. Vì chúng ta kính trọng ai, tâm chúng ta mới hướng về người đó mong cầu học hỏi và người đó dạy chúng ta mới chịu nghe. Trong kinh Phật dạy người Phật tử cũng như chư Tăng, tu còn thấp thì phải lễ kính vị cao hơn để có phước, tăng trưởng đạo đức. Phật tử có nhiều vị hiểu lầm nói lạy để thầy ban ơn ban phước cho. Không phải vậy! Chúng ta kính trọng là do tâm khát ngưỡng mong mỏi mình giống như người đó. Cung kính lễ lạy để học hỏi noi theo. Khi kính lạy có lợi ích gì đâu! Chẳng qua là thấy người ta quý kính mình. xét thấy mình chưa có đức hạnh thì hổ thẹn, cố gắng tiến tu cho xứng đáng với lòng quý kính của Phật tử, cái lợi của người bị lạy là chỗ đó chớ không có lợi nào khác hết.

HỎI: Nếu vô thường đến với chúng con như là người thân mất, chúng con phải nguyện làm sao cho đúng lẽ đạo với người đã mất thay vì cầu an cầu siêu.

ĐÁP: Phật tử hiểu chưa rõ việc này, nghĩ mình nguyện thôi chớ khỏi cầu siêu cầu an. Bây giờ tôi giải thích sơ lược cho Phật tử hiểu. Quý Phật tử thường có cái mâu thuẫn là nguyện cho người thân mình về cõi Phật, mà rước thì rước về nhà. Nghĩa là khi tụng Kinh thì nguyện siêu thăng Tịnh độ, nhưng lại nhờ thầy ra mộ rước vong về thờ. Nếu rước về thờ thì cha mẹ có về Tịnh độ được không? Không. Như vậy là mâu thuẫn. Các Phật tử nên biết cầu nguyện cho cha mẹ siêu thăng Tịnh độ hoặc sanh về cõi lành, đó là tâm nguyện của người con, của những vị hộ niệm. Được hay không là chuyện khác. Nếu nguyện được hết chắc khỏi tu, cho nên phải hiểu nguyện đó chẳng qua là khởi tâm lành đối với người chết. Vì vậy mà nguyện cho cha mẹ sanh về cõi lành; nếu chưa được sanh về cõi Phật thì được sanh về cõi người gặp Phật pháp sớm để tiếp tục tu. Đó là cái nguyện của người con đối với cha mẹ khi trăm tuổi.

HỎI: Vào những ngày kỵ giỗ ông bà cha mẹ, chúng con phải nguyện như thế nào cho hợp với lẽ đạo. Kính xin Hòa thượng chỉ dạy cho chúng con được rõ.

ĐÁP: Ngày giỗ, ông bà cha mẹ có về với con cháu không? – Không. Nếu không thì cúng làm chi, cúng ai ăn? Đó là một việc hơi khó xử. Chúng ta tự hiểu ngầm là ông bà cha mẹ không có về, nhưng cúng thì vẫn cúng. Tôi thấy đó chỉ là một phong tục, tập quán tốt của xứ sở mà đạo Phật tùy thuận. Về việc này Phật tử nên làm hai điều: Một là nên làm công đức bố thí hoặc phóng sanh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ được phước lành để sanh vào cõi lành. Hai là tụng Kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ được phước lành sanh về cõi lành. Hai điều đó là cụ thể hơn hết.

Có trường hợp ngược lại, ngày giỗ người ta làm heo, gà, bò, vịt để cúng, nhưng cha mẹ đâu có ăn. Chúng ta cứ kết tội thêm, nói là làm cúng ba má đó, nghe tưởng như con có hiếu, không ngờ con làm khổ chúng sanh để cầu cho cha mẹ được an lạc. Việc làm này có hợp lý không? Cha mẹ được an lạc không? Tôi đề nghị quý vị cúng chay đơn giản được rồi, nếu có phương tiện thì mua vật phóng sanh, hoặc đến những chỗ người ta đang khổ như bệnh viện, trại phong v.v… giúp cho người bớt khổ, lấy công đức hồi hướng cho cha mẹ, đó là điều rất tốt.

HỎI: Mỗi con người có một tánh linh, nhưng khi chết đi dân số trên thế giới mỗi ngày một tăng lên. Vậy dân số đó ở đâu mà phát sinh lên? Con mong Thầy chỉ dạy cho con được biết.

ĐÁP: Phật tử này thắc mắc, người thì có tánh linh, tánh linh sanh lại làm người mà bây giờ dân số cứ tăng lên hoài vậy ở đâu mà có?

Trước đây tôi đã có trả lời câu này, nay chỉ nhắc lại một chút thôi. Kinh Phật nói trong vũ trụ này không phải chỉ có một thế giới chúng ta đang ở, mà có rất nhiều thế giới. Khi một thế giới sắp hoại thì chúng sanh ở thế giới đó qua thế giới khác, đó là lý do thứ nhất có chúng sanh tăng. Thứ hai Phật dạy lục đạo luân hồi là sáu cõi: Trời,  người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh lẫn lộn lên xuống. Như vậy ở cõi súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ khi hết nghiệp chúng sanh cõi đó lại được sanh làm người và ở cõi người tạo nghiệp lại bị sanh vào các loài ấy. Cho nên số tăng ở cõi người là do hai lý do trên.

HỎI: Ngài Mục Kiền Liên là vị A-la-hán rất gần gũi với Phật tử, sao trong các thời khóa lễ rất ít đề cập đến tên Ngài để cho Phật tử lễ lạy và noi theo gương của Ngài?

ĐÁP: Câu hỏi này hợp lý, vì là Phật tử thích có hiếu thảo muốn con cái sau này cũng hiếu thảo, mà ngài Mục Kiền Liên là gương hiếu thảo sao ít đề cập tới?

Giải thích câu hỏi này phải có nhiều thời giờ. Ở đây, tôi chỉ nói đơn giản cho quý Phật tử hiểu. Thường các chùa thờ Đức Phật Thích Ca còn thờ hai vị Bồ-tát phụ tá là ngài Văn Thù và ngài Phổ Hiền. Còn nếu thờ Phật Di Đà thì thờ hai vị phụ tá là Bồ-tát Quán Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí mà không thờ đức Mục Kiền Liên. Khi lạy danh hiệu đức Phật Thích Ca xong thì chung ta lạy danh hiệu Bồ-tát Văn Thù, Bồ-tát Phổ Hiền. Còn khi lạy đức Phật A Di Đà xong chúng ta lạy Bồ-tát Quán Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí. Tại sao lại như vậy? Đây là một vấn đề hết sức cần thiết, lẽ ra phải nói thành một bài giảng, nhưng ở đây thì giờ ít tôi nói đại khái thôi.

Đức Phật Thích Ca là một vị Phật thành đạo ở cõi Ta bà, mà cõi Ta bà là cõi nhiều uế trược. Khi Phật đến cội Bồ-đề, Ngài dùng cỏ (trong sử ghi là cỏ cát tường) làm tòa ngồi. Nhưng bây giờ chúng ta là đệ tử thờ Ngài sao không để Ngài ngồi tòa cỏ cho đúng sự thật mà lại để Ngài ngồi trên tòa sen? – Vì sen mọc dưới đầm, mà đầm thì sình lầy uế trược, từ chỗ uế trược sen vượt lên nở hoa thơm. Cũng vậy Phật từ cõi uế trược khổ đau mà giác ngộ, chứng quả Phật. Thế nên thỉnh Ngài ngồi tòa sen là hình ảnh tượng trưng ở trong cảnh nhớp nhúa mà Ngài thanh tịnh sáng suốt như đóa sen vươn lên trong chốn bùn nhơ.

Hai vị Bồ-tát Văn Thù và Phổ Hiền cũng là hai vị Bồ-tát tượng trưng. Chúng sanh ở cõi Ta bà cang cường nan điều nan phục, dạy nói không hiểu mà hiểu rồi lại quên thành ra dạy hoài mệt mỏi thôi. Cho nên ở trong cõi khổ này muốn tu hành cho sáng được thì phải mở sáng trí tuệ, vì ở trong cảnh khổ mà không mở sáng con mắt tuệ, thì mãi chìm trong đó không bao giờ ra nổi. Ngài Văn Thù cỡi con sư tử, sư tử tượng trưng cho sự dũng mãnh nhất trong các loài thú. Thờ ngài Văn Thù ngồi bên phải đức Phật Thích Ca ý nói trí tuệ đứng hàng đầu, có trí tuệ mới thoát khỏi cảnh khổ luân hồi sanh tử. Ngài Phổ Hiền cỡi con voi ngồi bên trái đức Phật, voi tượng trưng cho sức mạnh kéo chở nặng nề. Ý nói có trí tuệ rồi phải có hạnh nguyện độ sanh đầy đủ mới thành Phật được. Đó là ý nghĩa hai vị Bồ-tát tượng trưng, chúng ta lạy Ngài để nhắc nhở chúng ta tu không thể thiếu hai đức tối yếu là trí tuệ và hạnh nguyện.

Còn Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc an vui, muốn độ chúng sanh ở cõi Ta bà uế trược thì trước hết phải khởi tâm từ bi tượng trưng Bồ-tát Quán Thế Âm. Nhưng khi hành hạnh từ bi giúp người đôi lúc cũng gặp nghịch cảnh cho nên bên cạnh phải có Bồ-tát Đại Thế Chí tượng trưng cho ý chí mãnh liệt. Vì thiếu ý chí thì không thể đến cảnh khổ giúp người được. Đó là hình ảnh hai vị Bồ-tát dạy cho người tu khởi tâm từ bi hành hạnh lợi tha độ đời, phải có ý chí mãnh liệt mới không thối chuyển. Còn ngài Mục Kiền Liên là con người hiếu thảo, không phải là hạnh tu cho nên không lạy, chỉ đến ngày lễ Vu Lan mới có lễ, lạy Ngài để học tấm gương hiếu thảo thôi.

HỎI: Trong bài sám sáu căn có câu: “Lầm nhận hoa giả quên ngắm trăng thật” theo con hiểu qua lời giảng của Thầy là chúng sanh chạy theo sắc trần giả dối bên ngoài mà quên mất cái chân thật sẵn có của mình. Trong câu dùng chữ ngắm, cái chân thật của mình mà nhìn được tức là ngoài mình mất rồi, không biết nhà in có sắp lộn chữ không?

ĐÁP: Phật tử này kỹ quá, thật ra đây là lời văn, văn thì lúc nào cũng có cái đối cho người ta dễ hiểu. Bây giờ nói trăng thật làm sao mà nói cho rõ được, nếu không ngắm thì làm sao thấy để nhận ra nên phải dùng chữ ngắm cho dễ hiểu, đó là một cách cụ thể hóa cho sự nhận ra. Đã thật là mình rồi còn ngắm cái gì nữa! Nhưng trên ngôn ngữ nói như vậy cho người ta dễ hiểu để tu. Đừng bắt chẹt tội nghiệp người xưa.

HỎI: Có người hỏi rằng nếu ai cũng không sát sanh thì những con vật như chuột, rắn, bò, heo v.v… sanh đầy mặt đất thì chỗ đâu cho người ta sống, lương thực đâu để ăn, đó là chưa kể bệnh tật v.v… con biết trả lời sao cho phải, cúi mong Hòa thượng chỉ dạy.

ĐÁP: Chỗ này là chỗ hiểu lầm của Phật tử. Phật tử hiểu giữ giới không sát sanh là tất cả con gì cũng không được động đến đó là hiểu lầm. Giới sát sanh của Phật tử là không được giết người mà tôi thường nhắc có ba trường hợp: Tự tay giết, dùng miệng xúi người khác giết, thấy kẻ khác giết nhau mình vui mừng tùy hỷ. Giới sát của Phật tử căn cứ trên con người chớ không căn cứ trên loài vật. Người xuất gia như quý thầy mới nói tới không giết những loài vật nhỏ, vì quý thầy ăn chay trường thì giết làm gì? Quý Phật tử đối với những con vật lớn nhỏ, con nào mình tránh được thì nên tránh. Hiểu như vậy thì đâu có lỗi.

HỎI: Con thấy có rất nhiều người tàn nhẫn thường hay hành hạ súc vật như bắt bò ngựa kéo xe nặng, nó mệt đi không nổi thì đánh đập. Có người đá gà đá cá, có người săn bắn câu cá… sao những thiên thần, chư thiên hoặc Bồ-tát không làm cho họ thành những con vật đó trong mấy phút thôi để họ thấy sự đau khổ mà thức tỉnh và cũng giúp những con vật khỏi bị hành hạ?

ĐÁP: Phật tử này bênh vực mấy con vật đáo để. Chư thần bất lực việc này, vì chư thần đâu có hóa người thành con này con kia được. Nếu như chư thần có hiện ra đây cũng lắc đầu thôi, còn với tôi thì điều đó tôi làm không nổi! Thôi thì chúng sanh tạo nghiệp thì chúng sanh chịu. Quý Phật tử nên hiểu rằng cái nghiệp của chúng sanh sinh ra làm con vật nào thì theo nghiệp mà chịu quả. Nếu người sử dụng con vật đó vừa phải thì ít tội, nếu sử dụng quá đáng thì họ có tội. Phật tử này lại nghĩ họ tạo ác qua đời khác trả quả họ không biết hoặc có biết cũng đã muộn. Sự thật thì chúng ta có cái mê lầm cứ thấy những cái hiện tại mà không xét lui về quá khứ. Phật thường dạy: “Muốn biết nhân đời trước hãy nhìn ngay quả đời này, muốn biết cái quả đời sau phải nhìn cái nhân mình đang tạo đời này”. Vì vậy ngay trong đời này ráng làm sao cho có phước đức, để cái khổ cũ hết, không còn tiếp tục khổ nữa, sau được vui, đó là tỉnh. Còn nếu nghĩ tới hiện tại mà trách trời trách đất thì đó là không tỉnh.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng từ bi giảng giải cho con ba điều:

1. Vị nào đứng ra thành lập đạo Phật?

2. Tại sao phải ăn tết nửa năm đúng vào ngày mùng năm tháng năm mà không ăn vào ngày khác?

3. Vị nào thành lập Tuệ Tĩnh đường? Con chân thành cảm niệm công đức Hòa thượng.

ĐÁP:

1. Hỏi vị nào thành lập đạo Phật thì dễ quá – Ông Phật chớ vị nào, tức là đức Thích Ca Mâu Ni chớ đâu có vị nào khác. Ngài ngộ đạo dưới cội Bồ đề, sau đó Ngài đến vườn Lộc Uyển giáo hóa năm anh em Kiều Trần Như, từ đó mới có tăng đoàn. Khởi thủy của đạo Phật là do đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

2. Tại sao phải ăn tết nửa năm? Điều này hỏi ngoài đạo Phật một chút. Chuyện ăn tết mồng năm tháng năm là chuyện ở Trung Hoa chớ không phải ở Việt Nam, cho nên câu này hỏi các vị người Trung Hoa chắc rành hơn tôi.

3. Vị nào thành lập Tuệ Tĩnh đường? – Thật ra thành lập Tuệ Tĩnh đường không phải vị nào, mà sau này nhiều chùa muốn có chỗ để giúp đỡ người bệnh theo thuốc dân tộc Việt Nam, nên thành lập cơ sở để trị bệnh bằng thuốc dân tộc. Ngài Tuệ Tĩnh là Tăng sĩ giỏi về thuốc dân tộc ở đời nhà Lê, cho nên khi lập nhà thuốc để trị bệnh cho đồng bào, các chùa lấy tên Ngài, chúng ta thấy có nhiều Tuệ Tĩnh đường là vậy.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, lúc Phật còn tại thế mỗi khi đệ tử đến thưa hỏi việc gì thì bày vai bên hữu và đi nhiễu ba vòng là ý nghĩa thế nào?

ĐÁP: Đây là ý nghĩa theo hình thức nghi lễ, phong tục của Ấn Độ. Mỗi khi muốn thưa hỏi điều gì quan trọng thì các vị Tỳ-kheo trịch vai áo xuống để bày vai mặt ra, quỳ gối chắp tay thưa hỏi xong rồi đi nhiễu ba vòng, đó là tập tục của Ấn Độ. Về ý nghĩa thì trong Kinh giải thích bày vai hữu là để nói lên sự gánh vác của người hỏi đạo. Đức Phật hoặc thầy trả lời, người trò nhận và đảm trách gánh vác. Hành động này chứng tỏ nhận lãnh gánh vác việc lớn. Đi nhiễu ba vòng là tỏ lòng cung kính. Bây giờ chúng ta cũng hay đi nhiễu Phật nhiễu tháp để tỏ lòng cung kính.

HỎI: Những người tu hành đắc đạo sẽ được Phật thọ ký thành Phật, còn những người tu hành đắc đạo mà không được Phật thọ ký thì như thế nào?

ĐÁP: Nghe câu này quý vị có hồi hộp không? E rằng mai kia mình đắc đạo mà Phật không còn ở đây để thọ ký thì sao đây? – Sự thật không có gì phải lo hết, chúng ta sẵn có tánh giác được gọi là Phật tánh. Khi chúng ta dẹp hết phiền não vô minh thì tánh giác hiện ra thành Phật, có Phật thì Phật thọ ký, còn không có Phật thì mình đã thành Phật, Phật thọ ký chớ gì. Bởi vì từ ở trong ra chớ không phải ở ngoài vào, vì ở trong ra nên tới đó mình biết liền khỏi phải lo, chỉ lo phiền não vô minh chưa sạch thôi.

HỎI: Kính bạch Thầy, nếu người xuất gia tu hành gặp phải vị thầy ham mê ngũ dục, không lo dạy dỗ và cũng không biết dạy dỗ đệ tử. Vậy người đệ tử ấy bỏ đi nơi khác thì có lỗi phản thầy không?

ĐÁP: Câu hỏi này rõ lắm, trong hệ A Hàm có một bài kinh Phật dạy thế này: Người đi cầu thầy học đạo đến một nơi thiếu ăn thiếu mặc và ông thầy không dạy đạo lý gì cả thì nên ra đi sớm khỏi phải thưa trình với ông thầy. Và, nếu tới một nơi ăn mặc vật chất đầy đủ mà ông thầy không dạy đạo lý cũng phải ra đi không nên ở. Ngược lại tới nơi thiếu ăn thiếu mặc mà ông thầy đức độ, thường xuyên dạy đạo lý, thì phải ráng ở lại để được học và tu. Và nếu tới nơi đủ ăn đủ mặc vật chất đầy đủ ông thầy thường xuyên dạy tu học, dù có bị đuổi đi, các ông cũng xin ở lại để được học tu. Phật dạy quá rõ, quý vị không sợ phản thầy. Ngày xưa đức Phật đi tu, đầu tiên đến học với mấy vị tiên như A-La-Lam, Uất-Đầu-Lam Phất, nhưng khi thấy không đúng sở nguyện, Ngài ra đi. Vậy Phật bị lỗi phản thầy sao? Đó là lẽ thật, trừ ra mình tu thầy dạy đàng hoàng, đạo lý đầy đủ mà mình cứ mong ngóng chỗ này chỗ kia, kiếm danh kiếm lợi thì đó là phản thầy. Còn vì đạo mà tìm chỗ khác để học thì không có tội phản thầy.

HỎI: Ngài Địa Tạng nguyện chúng sanh trong địa ngục chưa hết thì Ngài chưa thành Phật, vậy thì Ngài cứ làm Bồ-tát hoài biết bao giờ mới được làm Phật? Xin Hòa thượng hoan hỉ giải đáp cho con.

ĐÁP: Phật tử này chưa thấu được lý Kinh. Trong Kinh nói: nếu còn một chúng sanh ở địa ngục thì Bồ-tát Địa tạng chưa thành Phật. Tôi xin hỏi bao giờ mới hết chúng sanh trong địa ngục? Cũng kinh Địa tạng nói: Chúng sanh vào địa ngục, được Bồ-tát độ ra, vừa độ xong ra ít hôm lại rớt xuống nữa. Giống như bắt cóc bỏ dĩa thì biết chừng nào mới hết chúng sanh trong địa ngục? Quý Phật tử đừng lo, thành Phật khi nào chúng sanh nơi tâm mình sạch chớ không nói chúng sanh ở ngoài. Chúng sanh còn mười điều ác đó là chúng sanh ở trong địa ngục. Như vậy xem lại tâm mình còn mười điều ác là lúc đó chúng sanh còn trong địa ngục, tâm mình hết mười điều ác thì chúng sanh ra khỏi địa ngục. Lúc đó mình thành Phật chớ gì! Tại vì quý Phật tử hiểu theo sự nên thấy khó.

HỎI: Bạch Thầy, nhờ Thầy chỉ bảo giùm con, khi linh hồn rời khỏi xác vô cùng đau đớn, lúc đó nếu không làm chủ được bản thân thì đi không đúng đường đã chọn. Sau đó thức tỉnh quay về có được không thưa Thầy?

ĐÁP: Tôi xin nhắc nghiệp có hiệu dụng khi lâm chung là tích lũy nghiệp và cận tử nghiệp. Tích lũy nghiệp là nghiệp chất chứa lâu ngày nên nó rất sâu dày. Thí dụ mỗi ngày tụng một thời Kinh hay ngồi thiền nửa giờ đều đặn hàng ngày như vậy cho đến già gọi là tích lũy nghiệp lành. Hoặc người thế gian không biết tu, mỗi ngày làm điều tội, điều ác cho đến già, nghiệp ác dồn lại nhiều gọi là tích lũy nghiệp ác. Như vậy nghiệp chất chứa từ khi biết tạo tác cho đến già hoặc tốt hoặc xấu, dồn lại thành sức mạnh rất lớn nó sẽ hướng mình đi tái sanh. Phật dạy, hằng ngày chúng ta tạo nghiệp lành hay nghiệp dữ tích lũy nhiều, khi gần chết tâm thức cứ nhớ nghiệp cũ. Vì mắt tai lúc đó không còn duyên với cảnh ngoài, mà chỉ còn tâm thức đang chuẩn bị chuyển thân, cho nên nghiệp nào mạnh nó hướng mình về cõi tương ưng với nghiệp đó.

Còn cận tử nghiệp là cái nghiệp lúc gần chết nó cũng mạnh như vậy. Ví dụ một người bình thường tạo nghiệp ác, nhưng lúc già bệnh gần chết nghe được một hai câu Kinh họ thức tỉnh, biết được lỗi lầm ăn năn sám hối. Hoặc nhờ thiện tri thức dạy dỗ nhắc nhở họ dẹp bỏ thói quen cũ, nhớ được những điều tốt mới thì lúc nhắm mắt những điều tốt mới tác dụng mạnh, họ đi theo cái mới đó là cận tử nghiệp.

Như vậy cả hai đều có tác dụng. Vì vậy người tu nghiệp lành cho đến khi gần nhắm mắt cũng nghĩ lành, lúc đó không nhớ điều ác, không thù, không giận, không oán trách ai, chỉ thuần một tâm lành thì nhất định đi đường lành không nghi ngờ. Còn nếu có giận hờn sống dậy trong lòng thì cái nghiệp đó có thể dẫn đi đường khác; mà dẫn đi đường khác chắc lâu lắm mới tỉnh, khó mà kéo lại. Vì vậy mà người lúc gần lâm chung phải nhờ thầy, nhờ bạn tới nhắc nhở cho hướng thiện, không cho niệm ác khởi, đó là cái cần thiết trong hộ niệm.

HỎI: Bạch Thầy, mỗi người chúng ta sinh ra là đã có tội, hoặc nặng hoặc nhẹ. Nhưng trước phút lâm chung người đó hối hận, tuy hối hận đã muộn màng. Vậy bạch Thầy hãy dạy cho con biết tội lỗi đó có hết không, khi chết tâm hồn có thanh thản không?

ĐÁP: Phật tử này quan niệm rằng ai sinh ra cũng đều có tội, nói như vậy e chưa đúng. Vì có người sanh ra thì có tội, có người sanh ra lại có phước. Thí dụ có người sanh ra mới tập ăn không ăn mặn được nên ăn chay luôn, rồi lớn lên đi tu thì có phước chớ đâu có tội. Hoặc giả có người sanh ra làm con các bậc vua chúa, tổng thống, vật chất đầy đủ đó là phước báo thế gian, đâu gọi là tội được. Có phước thì họ gặp duyên lành tốt, có tội thì gặp những chuyện xấu, chớ đừng nghĩ rằng sanh ra là đã có tội.

Nếu người có tội, giờ biết ăn năn hối hận buông bỏ hết mọi lỗi lầm, không chấp nê, tâm trong sạch thì người đó sẽ thanh thản. Còn chấp nê, còn giận hờn thì chưa thanh thản. Cho nên quý Phật tử khi trong nhà có người sắp lâm chung quý thầy thường dặn thân quyến không nên khóc, không nên tranh cãi nhau e cha mẹ buồn. Đó là sợ người bệnh biết được việc bất bình trong gia đình rồi nổi sân, đó là cận tử nghiệp rất nguy hiểm.

HỎI: Xin Hòa thượng giảng giải cho con hiểu về những danh từ sắc thân, báo thân, pháp thân và hóa thân.

ĐÁP: Trong nhà Phật có những danh từ sắc thân, báo thân, pháp thân và hóa thân. Sắc thân là chỉ cho thân năm uẩn có hình tướng. Báo thân là thân do quả báo đời trước mà có. Người đời trước do tu nhiều phước lành nên sanh ra thân tốt đẹp, trang nghiêm ít bệnh. Đó là báo thân hiện. Người đời trước làm ác, ăn ở hung dữ, đời này thân xấu xí tật nguyền đó là báo thân ác. Còn pháp thân là thân bằng tinh thần, không có hình tướng nhưng hằng hữu không vắng thiếu, chỉ khi nào ngộ mới nhận ra. Hóa thân là thân do các vị tu đắc đạo rồi, muốn giáo hóa người nào đó, các Ngài hiện thân để độ. Nhưng trong kinh Phổ Môn Bồ-tát Quán Thế Âm cần độ người nữ thì hiện thân nữ, cần độ người nam thì hiện thân nam…

HỎI: Kính xin Hòa thượng chỉ dạy cho con cách đặt các tượng Phật cho đúng vị trí. Hiện tại nhà con có một tượng Di Đà ở giữa bàn, bên trái đặt đức Quán Thế Âm, con muốn thờ thêm đức Phật Thích Ca và sẽ định đặt bên phải đức Di Đà. Như vậy về hình thức thì đẹp và trang nghiêm, nhưng theo lời chỉ dạy của Hòa thượng hồi ngày hai mươi chín tháng năm thì con thỉnh tượng Đại Thế Chí thờ nữa mới đúng. Kính bạch Hòa thượng con muốn thờ đức Phật Thích Ca để nhắc nhở con đừng đi lệch con đường mà Ngài đã vạch. Con cũng muốn duy trì đức Phật A-di-đà vì xưa nay ông bà con thờ vị Phật này, con cũng muốn thờ Bồ-tát Quán Thế Âm để có người mẹ hiền bên cạnh. Xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Phật tử này muốn thờ cho trang nghiêm mà muốn Phật Di Đà để lại, Phật Thích Ca thỉnh về, muốn thờ Bồ-tát Quán Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí nữa. Bây giờ tôi giải thích về cách thờ phượng đại khái cho nhớ rồi tùy sở nguyện mà thờ chớ tôi không bắt buộc. Đúng ra ở chùa hay nhà Phật tử chúng ta thờ một đức Phật là đủ, nếu tu căn bản theo Phật Thích Ca thì thờ Phật Thích Ca, nếu tu pháp môn Tịnh Độ cầu sanh cực lạc thì thờ Phật A-di-đà. Còn nếu thấy một vị chưa đủ thì tôi đề nghị theo nguyên tắc thờ, nếu là Phật Thích Ca ở giữa thì bên phải là Bồ-tát Văn Thù, bên trái là Bồ-tát Phổ Hiền, gọi là hai vị trợ hóa giúp cho Phật Thích Ca giáo hóa. Còn nếu thờ Phật A-di-đà ở giữa thì bên phải thờ Bồ-tát Quán Thế Âm, bên trái thờ Bồ-tát Đại Thế Chí cũng là hai vị Bồ-tát trợ hóa. Vậy tùy Phật tử chọn mà thờ.

HỎI: Tụng Sám Hối Sáu Căn có những câu con chưa hiểu: “Chợt mắt dối sanh mờ đường chánh kiến… Lòa mắt chưa sanh bản lai diện mục… Khổ tứ lao thần, đều từ tham nghiệp…”. Xin Hòa thượng từ bi giảng dạy.

ĐÁP: 

1. “Chợt mắt dối sanh mờ đường chánh kiến” nghĩa là khi chúng ta dấy niệm chạy theo cảnh thì lúc đó con mắt của mình giống như mắt bịnh thấy hoa đốm trong hư không, nhưng hoa đốm không có thật. Do thấy hoa đốm mà không thấy được bầu hư không trong lặng. Cũng vậy vừa dấy niệm chạy theo cảnh thì chánh kiến của mình bị lu mờ.

2. “Lòa mắt chưa sanh bản lai diện mục”, bản lai diện mục sẵn có nơi mỗi người nhưng vì mắt lòa không thấy nên gọi là chưa sanh. Vì mắt lòa, vì mê lầm còn nhiều nên chưa nhận ra bản lai diện mục.

3. “Khổ tứ lao thần, đều từ tham nghiệp”, chữ Tứ là nói theo tiếng Việt, chữ Hán là Tư như tâm tư. Khổ tứ là chỉ cho khổ tâm, khổ về những cái suy nghĩ của tâm. Chữ Tứ là Tư, nhưng quen đọc tứ để ăn vận trong câu văn; lao thần là nhọc nhằn. Khổ tứ lao thần là tâm tư nhọc nhằn về những cái lo nghĩ do lòng tham dấy khởi.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, những người bạn lối xóm con có thói quen cúng sao, cúng hạn, giải tam tai, cúng cô hồn, đem muối gạo rãi ra đường cho người khuất mặt và chim chóc ăn. Từ lâu bản thân con đã bỏ hẳn thói quen này. Họ hỏi tại sao? Con nói vì tin vào luật nhân quả, nghiệp tốt xấu đến là do hành động thiện ác của mình đã tạo. Hôm nay các bạn này lần đầu đến Thiền viện Thường Chiếu và thành tâm xin Thầy từ bi chỉ dạy làm như vậy có đúng không?

ĐÁP: Phật tử này hỏi giùm một số bạn mà hôm nay có mặt nên tôi trả lời trước. Có một số Phật tử lâu nay có thói quen là cái gì cũng tin hết mà tin rất sâu.

Bây giờ tôi nói về cúng sao, cúng hạn, cúng tam tai, ba cái đó từ đâu mà có quý vị có biết không? Đạo Phật không dạy mà những tập tục này phát xuất từ lịch sách của người Trung Hoa. Ngày xưa mấy ông Đồ coi lịch rồi cúng giùm cho dân. Ngày nay mấy ông Đồ không còn hoạt động nữa, không ai biết chữ Hán, nên Phật tử muốn cất nhà, muốn định vợ gả chồng, muốn được một năm bình yên, không biết làm sao, nên đem cuốn lịch vô chùa nhờ thầy coi giùm rồi nhờ thầy cúng luôn. Lâu ngày thành thói quen cho nên mỗi năm tới ngày mồng tám tháng giêng thì có cúng sao.

Bây giờ tôi hỏi, quý Phật tử mỗi năm đều cúng sao, vậy năm nào cũng bình yên hết hay là khi thì an, khi thì bất an? – Khi an khi bất an như vậy thì đâu phải cúng mà được an. Tôi thường nói nếu cúng mà bình an suốt năm thì quí Thầy quí Cô sẽ ghi tên mình trước lá sớ để cầu cho mình được an. Nhưng quí Phật tử có thấy quí Thầy quí Cô để tên mình vào lá sớ không? Không, như vậy là quí Phật tử nghiệm lại coi, cái gì người ta không tin mà làm thì có kết quả không? Không có kết quả, vậy thì làm chi cho mất công.

Còn việc cúng gạo muối ngoài đường cũng là thói quen thôi chớ không phải sự thật, nói cúng cho người khuất mặt, mà người khuất mặt là người đã chết rồi. Như vậy mình quăng gạo muối ra đường người ta có ăn được không? Cúng cơm trong nhà đàng hoàng thì còn có thể hưởng được chớ gạo muối làm sao mà ăn. Còn cô hồn là gì? – Cô là lang thang cô độc, hồn là những vong hồn. Cô hồn là những vong hồn lang thang cô độc. Đạo Phật gọi là ngạ quỷ tức là quỷ đói. Thường ở chùa mỗi buổi chiều có cúng thí cô hồn bằng cháo muối, tụng chú để biến thực biến thủy tưởng nó nhiều ra cho cô hồn ăn, đó là lòng từ bi. Còn Phật tử cho gạo muối làm sao họ ăn được, đó là việc làm không hợp lý mà là vì thói quen thôi.

Tôi chủ trương làm việc thì phải có ý nghĩa và thực tế. Trong cuộc sống của chúng ta, xung quanh mình kẻ có phước thì được ấm no sang trọng, kẻ vô phước thì đói thiếu cơ hàn. Với người cơ hàn chúng ta giúp đỡ cho họ được no ấm, việc làm này thực tế hơn và lòng mình an ổn hơn.

HỎI: Kính nhờ Hòa thượng giảng giải cho con vài điều sau đây: Thế gian thường nói ông bà cha mẹ làm lành để đức cho con cháu, hoặc con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ. Theo Phật giáo việc đó như thế nào? Có phải cha mẹ làm điều lành nên được con hiền dâu thảo, và người con này có sẵn nhân lành nên mới vào làm con, hoặc con không có sẵn nhân lành, nhờ ân đức của ông bà cha mẹ nên hưởng được phước lành?

ĐÁP: Kinh sách nhà Phật nói điều này rõ lắm, Phật dạy chúng ta tùy theo nghiệp duyên lành dữ mà có sự cảm ứng khi tái sanh, nhưng cũng có trường hợp cá biệt là nợ nần gặp nhau để trả. Thí dụ người đó dữ nhưng ngày xưa mình thọ ơn họ nên bây giờ gặp để trả… Trường hợp cha mẹ lành sanh con lành người ta tưởng do cái nhân lành của đứa con trước đã có, nên chiêu cảm được cái nhân tốt của cha mẹ, gọi là đồng nghiệp cảm ứng. Chỉ trừ một vài trường hợp ngoại lệ. Trong sách có câu thế này: “Tử tôn tự hữu tử tôn phước, bất vị tử tôn tác mã ngưu”. Con cháu nó có phước riêng của con cháu, đừng vì con cháu mà làm trâu làm ngựa. Câu này quí vị nhớ giùm. Có nhiều người bảy tám mươi tuổi vẫn còn lo cho con cháu, lo chưa tới đã ngã ra chết. Họ không hiểu được ai ra đời cũng có cái phước riêng. Có nhiều người con cha mẹ mất sớm vẫn làm nên sự nghiệp, cho nên đừng vì con cháu mà lo cho nó hoài tới ngày chết không làm được gì cho mình rồi phải bị đọa.

HỎI: Kính thưa Thầy, con thấy đời nay có nhiều người giàu có, nhưng keo kiệt bỏn xẻn, không bố thí cho người nghèo, không đi chùa, không cúng dường. Như vậy quả có lẽ đời trước họ hay cúng dường bố thí nên quả lành đã trổ là được giàu có, sao tập khí lành không có?

ĐÁP: Điều này chắc quý Phật tử có nghe tôi giảng kinh A Hàm mấy năm về trước, đức Phật dạy có bốn hạng người: Người từ tối đến sáng, người từ sáng đến sáng, người từ sáng đến tối, người từ tối đến tối.

1. Người từ tối đến sáng là người sanh ra trong cảnh khổ đau nghèo thiếu (tối) nhưng bây giờ họ lại phát tâm tốt cứu giúp người khổ hơn họ, hoặc người bị tai nạn. Tuy họ ở trong cảnh tối nhưng tâm họ sáng suốt, về sau họ sẽ được quả tốt, đó là từ tối đến sáng.

2. Người từ sáng đến sáng là những người khi sanh ra đời có phước ở trong hoàn cảnh tốt đẹp, từ trong hoàn cảnh tốt đẹp họ lại phát tâm từ thiện giúp đỡ mọi người, đó là hạng người từ sáng đến sáng.

3. Người từ sáng đến tối là họ đang ở trong cảnh sung sướng có phước, song họ lại keo kiệt bỏn xẻn, trong đời này tuy họ sáng nhưng sẽ trở lại tối.

4. Người đang ở trong cảnh xấu xa khổ sở mà lại hung dữ, làm nhiều điều tội ác. Đời nay đã tối, đời sau lại càng tối hơn, đó là từ tối đến tối.

Trường hợp Phật tử hỏi là người đang sung sướng có của mà tâm bỏn xẻn thì đó là từ sáng trở đi vào tối.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, ví như có người chức quyền giàu sang nhưng họ hống hách với dân chúng, chẳng hạn giám đốc đè ép người dưới quyền, nhưng họ lại biết đi chùa, biết cúng dường hoặc làm từ thiện xã hội v.v… Như vậy đời sau họ lại hưởng phước được giàu sang quyền thế, rồi lại quen tánh hách dịch cửa quyền nữa sao? 

ĐÁP: Phật tử này hỏi kỹ quá! Quý vị nhớ tôi thường nói rằng sanh làm người là có phước hơn sanh làm con thú. Nhưng có nhiều người mà bần cùng khổ sở, không đủ ăn, không đủ mặc. Ngược lại, những con thú như chó Bẹc-giê mấy ông nhà giàu nuôi thì ăn thịt bò, bệnh thì đi bác sĩ. Như vậy là có phước hơn người nghèo khó phải không? – Đứng về mặt ăn uống thì nó có phước hơn, nhưng cái nghiệp làm thú thì có tội hơn. Như vậy ai làm phước vẫn được phước mà làm tội vẫn bị tội, cho nên Phật dạy thân này là tổng báo, tức là quả báo chung. Nếu người đó hung hăng hách dịch đàn áp người ta thì là tội phải bị đọa, nhưng mà cúng chùa, làm từ thiện thì có phước họ vẫn được hưởng. Như con vật được vào gia đình giàu có no đủ hơn con người. Phần nào có nhân quả riêng của phần đó chớ không mất.

HỎI: Người cha người mẹ kiếp trước thiếu nợ, nên đời này chủ nợ đầu thai làm con để đòi nợ, vì đòi nợ nên người con phá của, chơi bời lêu lổng. Như vậy người con vốn là người đòi nợ có phạm tội bất hiếu không?

ĐÁP: Quý vị trả lời giùm tôi coi có phạm tội không? – Tôi khẳng định là phạm. Vì sao? Biết rằng nợ đời trước gặp lại là trả, nhưng mình có nhớ đâu phải không? Nếu nhớ là mình đã chứng thiên nhãn thông, túc mạng thông. Vì mình không nhớ nên bây giờ mình chỉ biết mình là con; là con mà phá của thì có tội bất hiếu ngay. Chỉ khi nào mình nhớ mà mình đòi thì không có tội bất hiếu.

HỎI: Kính thưa Hòa thượng: Có người cúng dường Phật và các vị Thánh tăng, khi mất người đó được sanh thiên. Có người tu tập thiền khi mất được sanh thiên hưởng phước báo, còn có người tu thiền định đắc từ sơ thiền trở lên khi mất sau cũng được sanh thiên và được phước báo thù thắng hơn?

ĐÁP: Tu thiền có nhiều lối tu, thường thường tu thiền chứng từ sơ thiền đến tứ thiền thì gọi là phàm phu thiền. Vì phàm phu thiền nên kết quả được sanh cõi trời sắc giới. Người làm lành làm phước kết quả cũng được sanh cõi trời dục giới. Cõi sắc giới thì thù thắng hơn, sống lâu hơn vì nhờ sức thiền định nhưng vẫn còn ở trong cõi phàm phu thiền. Còn thiền đi tới giải thoát phải đi qua tới các thiền Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Cho nên chứng sơ thiền, nhị thiền tới tứ thiền phải dùng trí tuệ, quán tứ đế, quán tứ niệm xứ v.v… mới tới giải thoát, nếu dừng ngang đó thì thuộc phàm phu thiền.

HỎI: Ngài Ương Quật Ma La và Mục Kiền Liên do tạo nghiệp sát hại nên sau bị người ném đá và giết chết, nhưng kẻ xúc phạm đến hai vị thánh tăng đó là do nghiệp lực xui khiến họ làm như vậy, thế họ có bị quả báo không?

ĐÁP: Đây là trường hợp quả báo đời này đời nọ liên tục. Tuy các Ngài phải trả quả trước cho hết, nhưng người có ác tâm hại các Ngài thì vẫn phải trả quả. Quả đó không phải do các Ngài đòi mà do ác tâm của người kia đã tạo. Phật dạy chúng ta tu, ân oán nên giải chớ không nên kết. Kết thì ân oán chồng chất muôn đời không hết. Ví dụ ai đó trước làm khổ mình, bây giờ mình có thế lực, muốn trả lại cho đã giận thì đó là kết, vì họ gây nhơn mình trả quả, mà khi trả quả thì tạo nhơn mới, nó không cùng, cho nên ngang đây xả bỏ thì sẽ dứt.

HỎI: Có người tham lam trộm cắp bị bắt bỏ tù. Vậy sau này người đó có còn trả quả nữa không?

ĐÁP: Nếu người tham lam trộm cắp bị tù phạt ba năm, bảy năm, hết tù ra, ngang đó họ hối cải làm lành thì hết trả. Còn nếu tiếp tục thì trả quả liên miên.

HỎI: Người thâm lạm công quỹ (tham nhũng) sau này họ bị quả báo ra sao, nếu như họ trốn khỏi hay qua mặt pháp luật thế gian?

ĐÁP: Người thâm lạm công quỹ thì quả báo không tốt, ra sao thì tới đó biết, bây giờ không thể nói trước, chỉ biết có lòng tham lường gạt của công của tư đều là có tội, mà có tội thì phải trả, hoặc trả trong trường hợp công hoặc trả trong trường hợp tư tùy theo duyên nghiệp của họ.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, tất cả chúng sanh sao người sanh nước này người sanh nước khác? Như người sanh vùng biên địa hạ tiện thì cho rằng đó là thiếu phước, nhưng nếu có dịp nào đó họ được sang nước ngoài sống đầy đủ vật chất như vậy làm sao khẳng định người đó thiếu phước?

ĐÁP: Câu hỏi này quy định không được hợp lý. Hỏi tại sao người sanh nước này người sanh nước khác thì đó là tùy duyên, ai có duyên đâu thì đến đó. Còn nói người ở biên địa có dịp ra nước ngoài họ sống sung sướng như vậy họ có phước hay vô phước? – Chữ biên địa hạ tiện trong Kinh dùng là để chỉ những người ở vùng ranh giới, hoặc ở chỗ bờ biển, hoặc chỗ rừng sâu là chỗ ít gặp thiện hữu tri thức. Như hiện giờ quý Phật tử thấy người ở thành phố học đạo dễ hơn người ở miền quê. Vì ít phước sanh nhằm nơi đó không gặp được thiện hữu tri thức chớ không phải ít phước là nghèo. Trong nhà Phật nói ít phước là khó gặp thiện hữu tri thức, khó có cơ hội gặp đạo, hiểu đạo. Vì vậy ở biên địa có người vẫn giàu, mà nếu ở xứ mình chưa giàu, mà nếu ở xứ mình chưa giàu, họ qua xứ khác để làm giàu, tuy giàu nhưng chưa chắc họ hiểu đạo bao nhiêu.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, tất cả những loài vật nhỏ như con ruồi, con rệp, con chí v.v… cho đến những con vật lớn chúng có Phật tánh không? Và có phải do con người tạo tội mà thành những con vật đó không? Những con vật nhỏ nó có cắn nó chích mình, mình giết nó có tội không? Trong nhà Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, có phải con người đời trước tạo tội rồi thành những con vật không?

ĐÁP: Cái này tùy theo nghiệp duyên, có khi con người tạo tội mà thành con vật, có khi những con vật khác chuyển, tức là trong vòng luân hồi, chỗ này đến chỗ kia. Ví dụ như người tạo tội bị đọa làm con mèo, rồi con mèo suốt đời bắt chuột ăn thì tội chồng chất thêm, con mèo đó lại sanh làm con vật khác thấp kém hơn. Như vậy đâu phải con người biến thành những con vật nhỏ tí ti, mà từ con người tạo tội bị lui sụt dần từ con vật lớn đến con vật nhỏ. Cho nên nói mất thân người kiếm lại khó là chỗ đó, và cũng không nhất định con người sanh làm con vật nhỏ, mà còn do con vật khác tái sanh. Những con vật nhỏ nó cắn, nó chích mình, mình giết nó có tội không? – Tôi thường nói tội là làm khổ cho chúng sanh, bây giờ con vật nhỏ nó cắn nó chích mình, mình ngứa ngáy tức là nó làm khổ mình cho nên mình đập nó tức là mình làm khổ lại nó. Nhưng nó cắn, chích mình để lấy một chút xíu máu thôi, mình không chết, mà mình đập nó thì làm cho nó chết, như vậy cái khổ nào hơn? Cái khổ nào hơn thì hành động tạo ra cái khổ đó sẽ có tội nhiều hơn.

HỎI: Xin Thầy hoan hỷ giải thích giùm con: Con người từ đâu đến và khi chết sẽ đi về đâu?

ĐÁP: Câu hỏi này tôi dùng lý lẽ trong Kinh mà trả lời chớ không phải cái biết riêng tôi. Trong Kinh Phật dạy rõ rằng con người từ lục đạo mà tới, tức là sáu cõi: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, a-tu-la và cõi trời. Nếu người từ cõi trời xuống thì người đó vừa đẹp vừa hiền lành đức hạnh, đó là vì hết phước ở cõi trời nhưng họ còn phước dư làm người. Ở cõi a-tu-la cũng có phước khá nhưng nóng giận nhiều. Còn người nào có tư cách tốt, không có tâm giết hại người cũng không có tâm trộm cướp, tà dâm, nói dối, không thích say sưa thì đó là đời trước làm người bây giờ trở lại làm người. Cho nên rất đứng đắn đàng hoàng. Còn nếu ở cõi súc sanh lên làm người thì còn dư báo của cõi súc sanh là tâm si mê tối tăm, học hoài không thuộc. Tuy hết quả báo ở loài vật được lên làm người, nhưng dư báo si mê còn nên tối tăm. Còn ai ở ngạ quỷ hết tội lên được làm người nhưng tâm bỏn xẻn còn thừa, có tiền không dám xài, không dám làm việc tốt, việc phải. Còn nếu ở địa ngục hết tội lên làm người thì thân bệnh hoạn, xấu xa, tật nguyền.

Đó là sáu chỗ tới cõi người, theo kinh Phật nói, như vậy quý vị tự nghiệm rồi biết chớ tôi không nói riêng ai được.

Và khi chết sẽ về đâu thì cũng vậy, tu thập thiện thì chết về cõi trời. Người giữ năm giới chết sẽ được làm người. Người giữ năm giới hay tu thập thiện mà chỉ bảy, tám phần, sân bỏ không được thì sanh vào a-tu-la, tuy hiền lành biết giúp người nhưng động tới thì sân. Còn người nào làm trọn thập ác thì đọa địa ngục, làm bảy tám điều ác thì làm ngạ quỷ, ba bốn điều ác thì làm súc sanh. Đó là theo kinh Phật dạy chớ không phải theo ý tôi.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, ví như có người giữ giới mà đã lỡ phạm giới thứ ba nhưng người đó biết ăn năn sám hối nguyện không tái phạm nữa. Như vậy người đó dần dần có được hết tội hay phải xả giới thọ lại?

ĐÁP: Thọ giới mà phạm thì phải sám hối, sám hối có hai cách: Người cư sĩ phạm tội sám hối khác, người xuất gia phạm tội sám hối khác. Người cư sĩ phạm tội thì chỉ sám hối với Phật với chư Tăng, còn người xuất gia phạm tội thì phải sám hối với toàn thể đại chúng. Nếu đã phạm giới mà xả giới là xong, rồi thọ lại thì điều đó không hợp lý. Nghĩa là phạm giới rồi xả ra cũng vẫn còn phạm chớ không phải hết, đừng hiểu lầm như vậy. Tức là phạm tội thì phải sám hối, nhưng sám hối hết tội hay không còn tùy. Người xuất gia phạm tội thì sám hối với đại chúng, nếu đại chúng tha thì hết tội, không tha thì bị đuổi ra.

Còn trường hợp người xuất gia thọ giới rồi thấy tu không được thì xả giới hoàn tục, sau muốn tu lại, trở vô thọ giới lại thì tốt, chớ không phải phạm rồi xả giới, mai mốt vô tu thì hết tội.

HỎI: Trong sử ba mươi ba vị Tổ thiền tông có chuyện tổ Bà Tu Bàn Đầu vì sơ ý dựng cây gậy vào mặt tượng Phật vẽ trên vách mà bị sụt quả vị. Vậy trường hợp tổ Đơn hà đốt tượng Phật và chúng sanh đời nay khi thắp nhang hết, bỏ bao đựng nhang có in hình Phật hoặc Bồ-tát Quán Âm, người khác vô ý đạp lên ắt phải mang tội hoặc lui sụt phước điền?

ĐÁP: Thiền sư Đơn Hà đốt tượng Phật, còn tổ Bà Tu Bàn Đầu dựng cây gậy trúng mặt tượng Phật hai việc khác nhau, tội phước khác nhau. Vì sao? – Dựng cây gậy ngay chỗ mặt Phật nói rằng có tội vì có vẻ khinh Phật. Vậy đốt tượng Phật thì tội lại càng nặng hơn phải không? Nhưng ở đây quý vị nên hiểu, chư vị Thiền sư khi làm việc không phải làm cẩu thả bướng bỉnh mà các Ngài làm với tâm từ bi. Thiền sư Đơn Hà khi đốt tượng Phật rồi, thầy trụ trì hỏi tại sao đốt? Ngài đáp: Đốt để tìm xá lợi. Thầy trụ trì nói: Phật gỗ xá lợi đâu mà tìm? Ngài nói: Nếu không có xá lợi thì thỉnh một tượng nữa đốt.

Việc đốt tượng Phật có ý nghĩa gì? – Ngài Đơn Hà đốt là để phá chấp cho thầy trụ trì, vì thầy trụ trì cứ nghĩ Phật trên bàn đó là Phật thật nên không biết quay lại với Phật thật của chính mình, là Phật tánh của thầy. Cho nên Thiền sư Đơn Hà đốt để đánh thức ông rằng: Phật gỗ bên ngoài không có xá lợi là giả, chính Phật nơi tâm mới là Phật thật. Cho nên sử nói: “Đơn Hà thiêu mộc Phật viện chủ lạc mi mao”, tức là “Đơn Hà đốt Phật gỗ, viện chủ rụng hết lông mày”, tức là hết chấp. Đó là vì lòng từ bi mà phá chấp chớ không phải vì vô ý cẩu thả mà làm.

Còn việc dựng cây gậy nhằm chỗ vẽ tượng Phật là việc làm vì cẩu thả nên bị quở, hai cái khác nhau, Phật tử nên hiểu rõ.

Trường hợp bao nhang bỏ ngoài đường nếu vì không nhớ, không thấy mà bỏ thì không sao, còn thấy hình Phật mà bỏ đại cho người ta giẫm đạp thì đó là cẩu thả có tội. Vậy nên khi hết nhang rồi, bao nhang bỏ vào thùng đốt là xong.

HỎI: Có người nói rằng người ăn xin là do nghiệp bỏn xẻn tham lam nên bị đói khổ, nếu mình bố thí giúp đỡ họ tức là làm trái luật nhân quả. Như vậy phải trả lời với người đó thế nào?

ĐÁP: Quý vị nhớ có tội mới chịu cảnh khổ, người đó trước họ tạo tội cho nên bây giờ họ chịu khổ. Nhưng chúng ta là người biết đạo có lòng từ bi thấy họ khổ mình thương mình giúp, chớ thấy người ta khổ nói: mặc kệ, để họ trả dứt cái nghiệp của họ. Như vậy là không có lòng từ bi, tức là thấy khổ mình trơ ra, không chút thương xót, không đúng với tinh thần của người Phật tử có đạo đức.

HỎI: Kính mong Thầy giải thích giúp con vấn đề sau: Thân phụ con vì lý do bệnh hoạn, sức khỏe kém, bác sĩ khuyên không nên trường chay, dù vậy người vẫn tu hành tinh tấn, hằng ngày tham khảo kinh sách, hằng đêm ngồi thiền. Kính bạch Thầy, một người có tâm tu hành tinh tấn nhưng không trường chay có thể đắc đạo được không?

ĐÁP: Tôi trả lời bằng cách dẫn câu chuyện Thiền sư Việt Nam. Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tu thiền. Một hôm em gái Ngài là Hoàng hậu thết tiệc đãi, trong tiệc có phần chay cho Thượng Sĩ dùng. Khi ngồi vào tiệc, chay mặn gì Ngài cũng gắp ăn hết, bà lấy làm lạ hỏi: – Huynh tu thiền mà còn ăn thịt cá rồi có thành Phật không? Ngài đáp: – Phật là Phật – anh là anh – anh không cần thành Phật – Phật không cầu làm anh. Hoàng hậu không nghe người xưa nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?

Bởi vô minh nên hiểu lầm, nói tôi tu để cầu thành Phật, nhưng mà cầu thành Phật là trở thành ông Phật phải không? – Hay là tu để sạch phiền não? – Thường chúng ta hay cầu một cái gì để trở thành mà chúng ta quên dẹp những cái làm cho chúng ta mất ông Phật. Chúng ta đã có sẵn tánh giác, nhưng vì mê muội chạy theo trần cảnh, đắm nhiễm làm chúng sanh, bây giờ dẹp hết cái mê muội đắm nhiễm đó thì ông Phật hiện ra chớ thành cái gì, cầu ở đâu?

Như vậy ăn chay ăn mặn là hình thức bên ngoài, còn cái mê và giác là ở trong. Nếu hết mê thì giác, Phật ở ngay đó chớ không phải tại ăn mặn mà không thành Phật. Nếu nói ăn mặn không thành Phật thì các vị tu theo Phật Giáo Nguyên Thủy rầy mình vì Nguyên Thủy đâu có ăn chay. Nói vậy quý Phật tử nghĩ chắc Thầy tùy hỷ cho ăn mặn? – Tôi xin nói thêm là tôi không tùy hỷ việc ăn mặn mà chỉ nói lẽ chân chính là như vậy. Chúng ta ăn chay khỏe được nhiều việc: Một là khỏi phạm tội sát sanh, hai là khỏi bị những chất độc nhiễm hại thân mình, ba là ăn chay đơn giản hơn, ít đòi món này món nọ. Tôi nghĩ đến những người làm nghề đánh cá, trời lạnh lẽo lặn lội dưới sông thả lưới kéo cá, thay vì trồng vài líp rau, mỗi sáng tưới ít nước tới bữa cắt vô luộc chấm tương ăn khỏe biết mấy, giúp cho mình bao nhiêu cái đỡ khổ đỡ nhọc.

HỎI: Con là Phật tử ở xa, con không hiểu vì sao mỗi lần nghe băng hoặc xem phim Thầy giảng thì tự nhiên con rơi nước mắt. Xin Thầy từ bi giảng giải cho con được rõ là do duyên gì?

ĐÁP: Điều này trong nhà Phật có nói: Khi đến chùa lễ Phật hoặc nghe chư Tăng chư Ni tụng Kinh tự nhiên xúc động rơi nước mắt, đó là do duyên lành lâu đời. Giống như chúng ta có người thân đi xa lâu ngày bất chợt gặp lại mừng mà rơi nước mắt. Trường hợp Phật tử này nghe Kinh rơi nước mắt là duyên lành có sẵn, chớ không tội lỗi gì hết.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con có vài thắc mắc muốn xin Hòa thượng từ bi giải thích cho con hiểu.

1. Tu theo đạo Phật có lợi ích gì cho bản thân, gia đình và xã hội?

2. Tu cốt yếu điều phục thân khẩu ý, ở nhà tu cũng được, sao phải xuất gia? Tu tại gia và xuất gia có ưu khuyết chỗ nào?

ĐÁP:

1. Người tại gia tu theo Phật đầu tiên là phải quy y Tam bảo và thọ trì năm giới. Thường ngày Phật tử giữ năm giới đó là tu, chớ không phải ăn chay nhiều niệm Phật giỏi. Nếu ăn chay niệm Phật mà không giữ năm giới cũng chưa gọi là tu. Giữ năm giới là cái gốc rồi mới ăn chay niệm Phật. Giữ năm giới bản thân mình không sát sanh trộm cắp thì không bị tù tội, không tà dâm thì không bị người khinh vì lỗi ngoại tình, không nói dối thì không bị người chê trách vì xảo trá loạn ngôn v.v… giữ bao nhiêu đó đã trở thành người tốt rồi, đó là lợi ích bản thân

Trong gia đình vợ chồng đều giữ giới thì không nghi ngờ nhau, gia đình êm ấm thuận hòa. Cái gốc gây xào xáo trong gia đình là không tin nhau, bây giờ giữ năm giới không sát hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không say sưa đánh đập thì gia đình an ổn hạnh phúc. Đó là có lợi cho gia đình.

Trong ấp trong xã, ai ai cũng giữ tròn năm giới thì trong ấp trong xã đó không lo sợ bị người giết hại, không lo sợ bị người móc túi, không sợ người lừa gạt, không sợ người chè chén nghiện ngập gây tai họa. Đó là có lợi cho xã hội.

2. Tu cốt điều phục thân khẩu ý, vậy tại sao phải xuất gia, tu tại gia và xuất gia có ưu khuyết chỗ nào? Tôi xin trả lời câu hỏi này. Người tại gia có cái tốt của người tại gia, người xuất gia có cái hay của người xuất gia.

Người tại gia giữ năm giới, biết làm điều lành, giúp người hoạn nạn v.v… đó là cái tốt của người tại gia, nhưng chỉ làm trong phạm vi giới hạn vì còn phải có trách nhiệm với gia đình con cái, với thân thuộc xóm giềng, cho nên công tác có giới hạn. Còn người xuất gia là rời khỏi gia đình, dứt mọi ràng buộc của thân bằng quyến thuộc chỉ còn một việc là bản thân tu cho có đủ bi trí, đủ khả năng khuyên dạy người tu. Như vậy người xuất gia vì ít việc, họ có thì giờ tu khá và truyền bá được Phật pháp, nhờ vậy mà chánh pháp được mở rộng đó là cái ưu của người xuất gia.

HỎI: Xin Thầy từ bi giảng cho con hiểu hai chữ Trung thiên trong câu: Nam mô Trung thiên giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

ĐÁP: Chữ Trung là ở giữa, chữ Thiên là trời. Trong nhà Phật thường nói Phật là vị đạo sư của trời, người là cha lành của bốn loài, quý vị có nghe câu: “Thiên nhân chi đạo sư, tứ sanh chi từ phụ” không? Cõi trời ở trên gọi là thượng giới, cõi người ở dưới gọi là hạ giới. Hai chữ Trung thiên là chỉ cả thượng giới và hạ giới. 

HỎI: Xin Thầy cho biết về nghĩa của “vô thượng sư”. Nếu có người tự xưng là vô thượng sư thì người đó phải như thế nào?

ĐÁP: Từ này có lần tôi đã giải thích rồi. Từ “vô thượng sư” không có trong đạo Phật mà có trong tôn giáo khác ở Ấn Độ. Đức Phật thường nói Ngài là vô thượng y vương tức là vua của các ông thầy thuốc chớ không có xưng vô thượng sư. Người nói từ này không phải là người theo đạo Phật, mà nếu họ nói họ theo đạo Phật tức là họ lợi dụng danh nghĩa đạo Phật chớ không phải đạo Phật.

HỎI: Nếu như người còn sống không biết ăn chay, không biết gì về đạo Phật, sau khi chết gia đình thỉnh quý thầy quý cô về tụng kinh cầu nguyện thì người chết có được giảm tội không? Hay tự mình phải lo tu, không tạo nghiệp ác mới không bị tội.

ĐÁP: Chúng ta tu là để dứt những ác nghiệp do mình tạo. Ví dụ như mình lỡ tập hút thuốc uống rượu thành ghiền, bây giờ biết nó hại thì mình phải bỏ, chớ mời quý thầy quý cô tới nhờ tụng kinh cầu nguyện cho hết ghiền, có ai dám lãnh điều đó không? Nếu tụng cho có phước thì được, chớ tụng cho hết ghiền thì không được đâu, vì ghiền là cái nghiệp, muốn hết nghiệp thì chính mình phải chuyển, còn nhờ người khác làm thì chỉ có một phần nào chớ không có lợi ích nhiều. Kinh Địa Tạng có nói: Mình tụng kinh cho người chết, trong mười phần người chết chỉ hưởng có ba phần thôi mà người sống phát tâm tụng kinh, muốn nghe kinh nên họ có phước nhiều hơn, người chết thì không được bao nhiêu.

HỎI: Kính bạch Sư Ông, con nghe Sư Ông dạy pháp tu từ thấp lên cao, ở hoàn cảnh nào tu cũng được, như vậy sao có nhiều thầy ở Thiền viện vào các chùa ở thành phố để tu và học, con có hỏi thì quý thầy nói ở Thiền viện tu không được mà phải về thành phố tu. Vậy là nghĩa làm sao?

ĐÁP: Điều này rất dễ hiểu, bởi vì tâm chúng sanh không bao giờ có cái hài lòng, ở đây thì trông kia, ở kia thì trông đây. Ở Thiền viện chỉ học chữ Hán và học kinh để ứng dụng tu thôi, không có cấp bằng học vị, cho nên cứ tu hoài không thi cử, không phát cấp bằng. Ở mười năm, hai mươi năm cũng chỉ là ông thiền tăng thôi. Khi tu nếu không thấy được tâm lặng lẽ là quý thầy nản muốn tìm chỗ khác học để bốn năm có cấp bằng, bảy năm có cấp bằng, có cấp có bậc rõ ràng. Lý do là vậy. 

HỎI: Có Thầy nói: Hòa thượng chỉ dạy đại thừa chớ không dạy tiểu thừa, vì trình độ thấp quá không hiểu được, có phải vậy không? Xin Hòa thượng giảng cho con hiểu.

ĐÁP: Thật ra ở đây không dạy Đại thừa, Tiểu thừa gì hết mà chỉ dạy cho mọi người hiểu được lời Phật dạy để ứng dụng tu. Lời Phật dạy có khi nói về nghiệp tướng của chúng sanh thì gọi là kinh Tiểu thừa, còn chỉ thẳng về tâm tánh của chúng sanh thì gọi là kinh Đại thừa. Ở đây mấy năm về trước tôi dạy A hàm, Tứ thập nhị chương, Di giáo. Chúng tôi đối chiếu giữa kinh A hàm và Nikaya đó là Kinh gì? Như vậy chứng tỏ người nói không căn cứ, không hiểu gì hết.

HỎI: Ở giảng đường Phật giáo Nam tông, con thấy đa số Phật tử rất thành kính và cúng dường rất nhiều. Ở giảng đường Bắc tông Phật tử ít thành kính và cúng dường hơn. Vì sao có sự hơn kém như vậy? Kính xin Thầy giải thích cho chúng con được hiểu.

ĐÁP: Thực ra bên Nam tông đặt nặng vấn đề người xuất gia thọ giới lớn thì công đức nhiều, người thọ giới nhỏ thì công đức ít, hai cái đó căn cứ trên hình thức, mà hình thức thì người ta dễ thấy. Còn Bắc tông đa số căn cứ vào nội tâm, các Phật tử thấy quý thầy có khi xá có khi lễ, còn Nam tông thì nhất định phải lễ chớ không chỉ xá thôi. Ở Cao miên, Miến điện, Tích lan một vị Tăng quấn y đi ngoài đường Phật tử thấy thì quỳ mọp dưới đất lạy. Còn ở Việt Nam, Trung Hoa Phật tử gặp quý thầy xá chào, cười là đủ. Vì bên này đặt nặng phần nội tâm, trong tâm quý kính là đủ.

HỎI: Sao Phật giáo Nam tông không thờ những vị Bồ tát, trong khi kinh Nam tông có nói đến chư Bồ tát?

ĐÁP: Điều này tôi xin nhắc lại, bởi vì Nam tông đặt nặng quả vị A-la-hán nên không thờ các vị Bồ tát dù kinh Bổn sanh đức Phật đã từng nói Ngài tu hạnh Bồ tát. Kinh Bổn sanh, Nam tông và Bắc tông đều có. Như vậy, các Ngài thừa nhận mà các Ngài không thờ vì các Ngài đặt quả A-la-hán là cứu kính. Nhưng muốn đến quả Phật thì phải hành hạnh Bồ tát, nên Bắc tông thờ các Bồ tát. Còn Nam tông hành hạnh A-la-hán, không hành hạnh Bồ tát nên không thờ Bồ tát chỉ thờ Phật thôi.

HỎI: Tăng chúng là phước điền của chúng sanh, nếu như một thửa ruộng được gieo gặt nhiều quá thì thửa ruộng đó sẽ cằn cỗi hết mầu mỡ. Vậy nhà sư thọ cúng dường của Phật tử quá nhiều, nhà sư đó có bị suy giảm công đức hoặc phước đức không?

ĐÁP: Câu hỏi này cũng hay. Ví dụ như miếng ruộng một năm mình làm tới ba bốn vụ thì đất cằn cỗi hết mầu mỡ, còn làm một hai vụ thì đất còn mầu mỡ hơn. Cũng vậy một nhà sư được Phật tử cúng dường nhiều quá thì phước điền càng ngày càng mỏng, có phải vậy không? – Có hai trường hợp: Nếu người tu chưa có ra gì mà nhận của cúng dường nhiều để thụ hưởng thì tổn phước. Còn nếu người tu hiểu đạo lý thông suốt và những gì Phật tử cúng đem làm Phật sự lợi ích cho chúng sanh thì không tổn phước. Mình là người giúp đỡ cho Phật tử làm phước thôi chớ không phải mình thụ hưởng. Mình không hưởng thì làm gì tổn.

HỎI: Con có vài điều không hiểu kính xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy. Có Kinh nói đức Phật Thích Ca và đức Phật A Di Đà là hai người bạn chí thân, Bảo Hải và Bảo Tạng đều bằng tuổi nhau, sau bỏ ngôi vua đi tu thành Phật. Sao có Kinh lại nói đức A Di Đà là Phật quá khứ, đức Thích Ca là Phật hiện tại?

ĐÁP: Chẳng những Phật Thích Ca và Phật Di Đà là bạn chí thân mà đức Phật nào cũng chí thân hết. Tại sao vậy? Vì không có phiền não thì có gì ngăn ngại mà không thân, chỉ có phàm phu mới có thân có sơ, vì có người mình thương có người mình ghét, Phật không còn thương ghét nên Phật nào cũng thân hết.

Sở dĩ gọi đức Phật Thích Ca là Phật hiện tại là vì Ngài giáng sanh ở cõi Ta bà của chúng ta, ở ngay trong thế gian này nên gọi Ngài là hiện tại. Còn đức Phật A Di Đà là ở cõi cực lạc, ở xa tít mà mình chưa tới lần nào, vì quá xa nên nói là Phật quá khứ, nghĩa là Ngài thành Phật từ thuở nào rồi. 

HỎI: Lục Tổ Huệ Năng rất có hiếu với mẹ, sau khi nghe kinh Kim Cang Ngài nhờ người nuôi hộ mẹ để đi tu. Sau khi ngộ đạo sao Ngài không về độ mẹ tu, như tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên?

ĐÁP: Ngài Huệ Năng sau khi nghe kinh Kim Cang nhờ người khác nuôi mẹ mình để mình đi tu, như vậy có phải bất hiếu với mẹ không? Đó là một vấn đề. – Khi người tu ngộ đạo rồi mới thấy thân người có đây dài lắm là tám chín mươi năm rồi cũng hoại, nhưng khi ngộ được Phật tánh nơi mình thì Phật tánh không bao giờ hoại, không bị thời gian chi phối. Như vậy khi ngộ đạo rồi thì việc cứu độ chúng sanh là trên hết. Lục tổ sau khi thành đạo rồi Ngài trở về quê ở Lãnh Nam tức về chùa Nam Hoa Tào Khê giáo hóa. Trong sử không thấy nhắc tới mẹ Ngài chắc là mẹ Ngài đã tịch rồi. Sử ghi là ghi những việc làm của Ngài đối với mẹ, nhưng khi Ngài về mà mẹ mất thì có gì mà ghi. Cho nên không nhắc đến thì biết mẹ Ngài đã tịch rồi, Ngài chỉ lo giáo hóa chúng sanh để đền ơn mẹ thôi. Trường hợp này không có bất hiếu. 

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, nếu một người con sau cái chết của cha mẹ mà hướng về Phật pháp, phát nguyện tu hành đạt đạo để cha mẹ được lên cõi trời. Trong trường hợp này phải mấy chục năm sau hoặc một vài kiếp sau bổn nguyện này mới thực hiện được, và cha mẹ lúc đó đang luân hồi ở một cõi nào thì bổn nguyện này có còn tác dụng nữa hay không?

ĐÁP: Câu hỏi này cũng có ý nghĩa, tôi lặp lại cho rõ. Nếu ngay đời này tu mà ngộ đạo đắc quả thì cha mẹ được sanh lên cõi trời. Nhưng nếu đời này tu không ngộ, đời sau cũng không ngộ, mà đời thứ ba hay đời thứ tư mới ngộ, thì cha mẹ đời này luân hồi ở cõi nào và cha mẹ được sanh cõi trời là cha mẹ đời nào? Nếu cha mẹ đời thứ ba hay thứ tư được sanh thì cha mẹ đời này có được ảnh hưởng gì không? – Tôi trả lời là có. Cha mẹ đời này luân hồi nơi nào đó, chừng mình ngộ đạo rồi mình theo duyên tìm kiếm để giáo hóa cho cha mẹ được lên cõi trời, không phải trực tiếp lên cõi trời mà nhờ sự giáo hóa, cha mẹ tu được sanh cõi trời. Còn cha mẹ sanh thân này trực tiếp thì được kết quả sanh cõi trời. Như vậy cũng hữu ích chớ không vô ích đâu, đừng có lo. Quý Phật tử hiếu thảo với cha mẹ ráng tu đi, đời này chưa độ được thì đời sau, hoặc đời sau nữa, chỉ sợ cha mẹ thiếu phước phải luân hồi sanh tử, và mình không chịu tu nên cũng luân hồi theo thì không ai cứu ai được.

HỎI: Màu vàng trong Phật giáo có ý nghĩa gì?

ĐÁP: Theo Kinh, Luật Phật dạy thì tu sĩ phải mặc y phục khác màu với thế tục, nên phải nhuộm màu hoại sắc để khác người thế tục. Nhưng sau này có một phái rất thạnh trong Phật giáo Nam tông là Đàm Vô Đức lấy màu vàng làm màu y phục, vì màu vàng có vẻ chói chang, dân chúng ít ai chịu mặc. Cái gì thế gian chê thì các Ngài dùng để tránh không lẫn lộn.

HỎI: Con nghe nói tu là có thể chuyển được nghiệp. Vậy hàng xuất gia thì dễ còn hàng Phật tử tại gia có chuyển được hay không?

ĐÁP: Quý Phật tử có nhớ nghiệp xuất phát từ đâu không? – Từ thân, miệng, ý. Bây giờ tôi chỉ nói nghiệp miệng thôi, giả sử bên nam cái miệng thích hút thuốc, bên nữ miệng thích ăn trầu, mà hút thuốc quen, ăn trầu quen thành nghiệp chưa? – Thành nghiệp rồi. Nhưng hút thuốc ăn trầu có bỏ được không? – Hút thuốc bỏ được, ăn trầu bỏ được thì nghiệp người thế gian cũng bỏ được, phải không? Ví dụ người thế gian mỗi khi giận hay mắng chửi con, mắng chửi cháu, bây giờ biết tu rồi thì khi giận không mắng chửi nữa mà làm thinh. Như vậy có chuyển được không? – Được. Như vậy người xuất gia hay tại gia nếu khéo tu đều chuyển được nghiệp.

HỎI: Quả hiện tại là do mình gieo nhân ở quá khứ, nhưng tại sao người ta thường nói con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ. Vậy hành động của cha mẹ có ảnh hưởng đến con cái hay không. Có trường hợp người cha hoặc người mẹ làm việc bất thiện, sau đó sanh con ra không được bình thường thì mọi người nói tại cha nó làm ác nên mới thế. Vậy đó là do trùng hợp hay sự thật có ảnh hưởng?

ĐÁP: Câu hỏi này rất gần với quý Phật tử. Thường ở thế gian người ta nói con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ. Vậy việc tu của mình với cha với mẹ ảnh hưởng nhiều ít? – Tôi xin giải thích cho quý Phật tử hiểu. Việc tu của mình là gốc, nhưng trong nhà Phật nói: Chúng ta sanh ra đời còn có cái đồng nghiệp với cha mẹ, tức là cha mẹ thiện thì con cái thiện tới với cha mẹ, cha mẹ ác thì con cái ác tới với cha mẹ đó gọi là đồng nghiệp cảm. Nhưng có trường hợp ngoại lệ, có khi cha mẹ thiện mà con lại ác, đó cũng là nghiệp cảm, thì nghiệp cảm có hai nghĩa: Nghiệp cảm do lòng thương quý, nghiệp cảm do lòng thù hận.

Tôi thường khuyên quý Phật tử lúc sắp lâm chung đừng giận ai, cũng đừng thương ai để tránh nghiệp cảm. Vì thương hay ghét đều chứa trong lòng, mà chứa trong lòng là có cảm. Thương ai hay ghét ai đều nằm trong ký ức, khi sắp chết, những cái hiện tại mình bỏ qua hết rồi, chỉ còn trong ký ức. Người mình thương nhớ nhiều hay oán ghét nhiều khi tái sanh thì gặp lại. Nếu oán ghét nhiều thì gặp lại để trả nợ, cho nên có những gia đình cha con không thuận, rầy rà khổ sở. Họ đổ thừa tại tuổi không hợp, nhưng không ngờ rằng cái tâm thù hằn nó cảm với nhau tới để mà trả nợ. Bởi vậy biết tu rồi thì phải giữ tâm đừng khởi niệm oán thù ai.

Tóm lại nghiệp thiện ác mà chúng ta huân tập trong ký ức đủ duyên chiêu cảm thành nghiệp hiện hành, chớ nói theo thế gian con gái nhờ đức cha, con trai nhờ đức mẹ là không đúng, đó không phải là chân lý.

HỎI: Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi khi chưa xuất gia học đạo, tại sao khi mới gặp tổ Tăng Xán tổ lại bảo Ngài qua phương Nam giáo hóa. Như vậy, Ngài chưa học chưa biết gì thì làm sao giáo hóa độ sanh?

ĐÁP: Câu hỏi này là lầm. Ngài đã xuất gia ở Ấn Độ mà vì chư tổ đã mang y bát về Trung Quốc, nên Ngài tìm qua Trung Quốc, đến núi Tư Không gặp tổ Tăng Xán, được tổ khai thị Ngài liền ngộ, tổ mới dạy qua phương Nam, chứ không phải chưa xuất gia.

HỎI: Tu pháp nhẫn nhục nếu có bị oan ức gì thì không nên biện bạch. Vậy không biện bạch thì có ai biết mình oan ức đâu, lúc đó mình sẽ bị tống đi chỗ khác như thế phải làm sao?

ĐÁP: Tất cả cái oan ức mà người ta gieo cho mình có hai trường hợp. Nếu cái oan ức đó họ bảo mình giải thích cho phân minh thì mình giải thích, còn không ai bảo thì thôi mình làm thinh bỏ qua. Nhưng mà chúng ta đâu chịu bỏ qua, cứ nói với người này, người khác để giải cái oan ức của mình, mà khi giải oan ức của mình thì người gieo oan ức cho mình là xấu hay tốt? – Khi biện bạch rằng tôi không có mà người đó làm như vậy… là như kết tội người ta rồi, khiến người ta thêm giận mình nữa.

HỎI: Kính xin Hòa thượng giản trạch cho con rõ: Theo kinh văn thì Ngũ tổ là thân sau của Tài Tòng Đạo Giả, nhưng theo lý nhân duyên muốn có thai sanh thì phải hội đủ hai giới tính âm dương, nhưng ở đây cô gái nhà họ Châu chỉ được gặp Tài Tòng Đạo Giả một lần và hứa cho Ngài được ở trọ lại gia đình nếu được cha mẹ của nàng ưng thuận, ngang đó đạo giả liền đi ngay không có tá túc lại gia đình cô gái họ Châu. Vậy nhân duyên gì khiến cô gái họ Châu có thai để sinh ra hài nhi trai và bảy tuổi gặp Tứ tổ nhận làm đệ tử?

ĐÁP: Cái nghi này rất có lý, tôi ngày xưa cũng không bằng lòng chỗ này. Nhưng tôi nói phân hai cho quý vị hiểu, câu chuyện thì như vậy nhưng chúng ta phải xác định là bà không có chồng mà có con phải không? Chuyện hơi khó tin nhưng gần đây các nhà khoa học lại có cái nhìn khác, người ta nói năm nào tôi không nhớ ở Pháp có phát minh ra con ếch không có bố, tức là không có ếch cha mà có ếch con. Gần đây có thông tin về một nước toàn là phụ nữ không có nam nhân mà dòng giống không mất. Thông tin nói rằng có một cái giếng, ai muốn sanh con tới đó múc nước lên uống sau đó có thai sinh con. Như vậy có những trường hợp ngoại lệ, cô gái họ Châu sinh con cũng là một ngoại lệ. Bây giờ chúng ta thấy vậy hay vậy lạm bàn chưa chắc đã đúng. Thôi thì Phật tử chỉ nên biết Ngài ngộ đạo giảng kinh chúng ta nghe được rồi, chuyện đúng sai không cần thiết.

HỎI: Xin Thầy giảng cho con hiểu tại sao Phật Thích Ca và Phật Quán Thế Âm xuất gia rồi còn để tóc.

ĐÁP: Điều này cần nói cho Phật tử hiểu. Đức Phật Thích Ca có ba mươi hai tướng tốt, trong đó có tướng tóc xoáy ốc vòng phải, là một trong những tướng tốt. Khi Ngài vượt thành tầm đạo, ra khỏi thành thì Ngài đã cắt tóc và sau khi chứng đạo dưới cội Bồ Đề thành Phật, Ngài dạy tất cả Tỳ-kheo phải cạo bỏ râu tóc. Dạy đệ tử cạo bỏ râu tóc thì Ngài đâu có để. Nhưng bây giờ đắp tượng người ta muốn là đủ các tướng tốt thì phải để tóc xoáy ốc trên đầu cho đủ ba mươi hai tướng tốt.

Còn nói ngài Quán Thế Âm không phải Phật mà là Bồ tát. Vì tu hạnh bồ tát không nhất thiết cạo đầu, có thể là cư sĩ là quan tước đủ hạn… Kinh Phổ Môn nói: Ưng hiện Tỳ-kheo thân đắc độ giả tức hiện Tỳ-kheo, ưng hiện đồng nam đồng nữ v.v… tùy hạng chúng sanh nào muốn cứu khổ Ngài liền hiện tướng đó để giáo hóa. Ngài tùy sở nguyện của chúng sanh mà hiện thân không cố định, song phần nhiều hiện tướng cư sĩ để hành hạnh Bồ Tát theo sở nguyện của chúng sanh. Còn Tăng Ni phải cạo bỏ râu tóc theo luật Phật dạy để dễ tu. 

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, trong chúng của ngài Bàn-Khuê (Bankei) có một đệ tử hay lấy cắp đồ của huynh đệ, chúng đề nghị ngài Bàn-Khuê đuổi người ấy đi, nếu không mọi người sẽ bỏ đi hết. Ngài Bàn-Khuê nói: Dù mọi người có bỏ ta đi hết nhưng ta không thể đuổi đệ tử này. Xin Hòa thượng giải thích cho con hiểu vì sao một người phạm giới trộm cắp mà ngài Bàn-Khuê không đuổi?

ĐÁP: Trong câu chuyện này ngài Bàn-Khuê còn nói thêm một câu nữa, Ngài nói rằng: Các ông khôn ngoan đi đâu ở đâu cũng được, còn chú này ngu xuẩn nếu ta đuổi thì chú đi đâu? – Cho nên Ngài không đuổi là vì lòng từ bi thương người đệ tử ngu dại, đi ra bơ vơ không nơi nương náu, không dạy dỗ, chớ không phải là Ngài dung dưỡng thói hư trộm cắp.

HỎI: Bạch Sư Ông, con nghe trong Kinh nói rằng người mới chết mà nóng ở đỉnh đầu thì được sanh lên cõi trời, nóng ở ngực thì sanh làm người, nóng ở bụng thì sanh làm súc sanh, nóng ở chân thì làm ngạ quỷ. Vậy người tu thoát khỏi tam giới khi chết nóng ở đâu xin Sư ông hoan hỷ chỉ dạy.

ĐÁP: Vì còn sinh trong lục đạo thì còn có chỗ trụ, hết sinh trong lục đạo thì toàn thân đều mát không còn nóng chỗ nào cả.

HỎI: Phái nữ tu không chứng đạt, vậy tu có ích gì và tu thế nào để chứng đạt như các ông? Kính mong Sư ông giảng giải cho chúng con rõ.

ĐÁP: Đây là Phật tử hiểu lầm, bên nữ tu hay lắm chứ đâu có dở. Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề là người nữ xuất gia đầu tiên lãnh đạo năm trăm ni chúng. Khi Phật sắp nhập Niết-bàn Ngài dẫn ni chúng đến đảnh lễ xin Phật cho bà và ni chúng nhập diệt trước vì không đành lòng thấy Thế Tôn nhập diệt. Thế tôn hứa khả, bà về trú xứ cùng năm trăm ni chúng ngồi yên nhắm mắt tịch diệt. Như vậy chứng tỏ bà cùng ni chúng đã chứng A-la-hán mới tự tại như vậy, chưa chắc các ông tịch được một lúc như vậy. Phật tử này chưa hiểu điều đó nên thắc mắc.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, cho phép con hỏi: Tổ sư Đạt Ma vác một cành cây trên vai và quảy một chiếc giày là nghĩa gì?

ĐÁP: Tổ sư Đạt Ma vác gậy tre trên vai và cuối đầu gậy có một chiếc dép. Hình ảnh này tôi thường giảng. Công dụng cái vai là gánh vác, mục đích của Tổ từ Ấn Độ sang Trung Hoa là gánh vác một sự nghiệp thoát ngoài cái đối đãi. Đi dép thì đi một đôi, một đôi là hai bên, nếu bỏ một chiếc thì chiếc kia vô dụng, nhưng Ngài lại quảy một chiếc để nói lên ý nghĩa mục tiêu của Ngài đến Trung Hoa truyền đạo thoát ngoài đối đãi. Cho nên có nhiều người hỏi rằng tu đạo giải thoát hết đối đãi rồi thì còn cái gì? – Hình ảnh Ngài bẻ cành lau quăng xuống biển và cỡi cành lau đi qua biển để nói lên ý nghĩa khi qua hết đối đãi thì có diệu dụng không thể nghĩ bàn.

HỎI: Tại sao các chùa mỗi chiều cúng thí cô hồn tại bàn hộ pháp. Vậy hộ pháp có phải là cô hồn không?

ĐÁP: Các vị hộ pháp tượng trưng cho các vị Bồ Tát thường ủng hộ ngôi già lam, mà cô hồn là quỷ đói mỗi lần cho ăn nó giành giựt mất trật tự, cho nên nhờ các vị hộ pháp giữ trật tự cho cô hồn khỏi ồn ào chớ không phải hộ pháp là cô hồn.

HỎI: Thờ ông Tiêu Diện có ý nghĩa gì?

ĐÁP: Ông Tiêu Diện là vị hộ pháp mặt mày dữ dằn, trong miệng có lửa đỏ để trừng trị mấy đứa quỷ hung dữ, ngỗ nghịch. Trong đạo Phật có nhiều ý nghĩa rất là thâm trầm. Từ bi của đạo Phật có từ bi thuận hạnh và từ bi nghịch hạnh.

Từ bi thuận hạnh là thấy người ta khổ mình an ủi, giúp đỡ, còn từ bi nghịch hạnh gặp mấy chú côn đồ hung dữ vỗ về nó có nghe đâu, cho nên phải hóa ba đầu sáu tay dữ dằn hét ra lửa cho nó hoảng sợ và nhờ đó nó phục thiện, nói nó mới nghe. Hiểu như vậy quý vị mới thấy từ bi trong đạo Phật rộng lắm.

HỎI: Hòa thượng cho phép con hỏi mấy câu: Cha mẹ có con xuất gia, khi cha mẹ đã già muốn quy y Tam Bảo thì quy y với người con được không hay phải quy y với vị thầy khác? Nếu quy y với người con thì phải đúng như pháp mà cung kính hầu hạ thầy thì người con có lỗi bất hiếu với cha mẹ không? 

ĐÁP: Tôi xin thưa rằng người có phước mới có con đi tu, nhưng muốn quy y thì nên quy y với người khác cho dễ. Vì nếu nghĩ thầy cho mình quy y là con thì không có tâm kính tăng như đệ tử trọng thầy, còn nếu trọng tăng như đệ tử trọng thầy thì vị tăng đó sẽ khó mà xử sự. Bởi vì nếu coi cha mẹ như cha mẹ thì trái với pháp quy y, vì vậy nên chọn thầy khác mà quy y tốt hơn.

HỎI: Ở chùa mỗi tối và sáng dộng đại hồng chung để chi?

ĐÁP: Đánh chuông để cảnh tỉnh hay đánh thức. Nghe tiếng chuông dễ thức tỉnh lắm, vì tiếng chuông âm thanh thâm trầm nghe như có cái gì nao nao trong lòng, cho nên có câu: “Cảnh tỉnh ái hà danh lợi khác”. Là người khách đang mê trong biển ái, nhờ tiếng chuông mà họ thức tỉnh. Vào buổi khuya đánh chuông Phật tử nghe chuông thức dậy tụng kinh ngồi thiền, đó là cảnh tỉnh. Vì lợi ích đó nên các chùa gióng chuông vào buổi tối buổi khuya.

HỎI: Đại ngộ với tiểu ngộ khác nhau thế nào?

ĐÁP: Ví dụ chúng ta đọc Kinh có vấn đề không hiểu, hôm nào đó ngồi thiền tâm yên bất chợt hiểu, đó là tiểu ngộ, tức là hiểu một vấn đề hay một câu trong Kinh mà trước đây đọc qua không hiểu, nay nhờ tu tâm thanh tịnh bất chợt hiểu. Còn đại ngộ là thấu triệt toàn bộ, đó gọi là đại ngộ hay triệt ngộ. Đại ngộ và tiểu ngộ sâu cạn khác nhau.

HỎI: Kính thưa Thầy, vừa qua Thầy giảng về Phật thiệt Phật giả, chúng con là Phật thiệt chưa thành mà kính nể đức Phật xưa kia nên nay hằng đêm đều lấy Phật thiệt chưa thành này mà lạy Phật giả trên bàn, vậy là sao? Nên làm sao? Còn việc đốt nhang cúng nước Phật tượng Phật giả là sao? Xin Thầy giải cho chúng con được biết.

ĐÁP: Chúng ta có hai cách tu: Một là dùng trí tuệ quán chiếu, hai là dùng lòng thành tín mà qui hướng về Phật. Lòng thành tín là thờ đức Phật trên bàn tuy biết đó là Phật gỗ, Phật thạch cao, nhưng vẫn tin Phật ngự trong nhà mình, trong chùa mình, tin như vậy mà cung kính lễ Phật, cung kính cúng hương hoa. Do niềm tin mạnh và lòng cung kính chân thành mà tâm mình thanh tịnh, tâm thanh tịnh là có kết quả tốt. Còn cách dùng trí quán biết rõ thân này không thiệt, chùa không thiệt, Phật ngồi trên bàn cũng không thiệt, quán thấy tường tận như vậy, nên không chấp vào thân, không chấp vào cảnh, không chấp tất cả, đó là tu. Nhưng nếu chưa được như vậy thì nên kính Phật có phước hơn, có lợi hơn. Nếu chưa được, mà lại chấp là Phật giả không thèm cúng lễ Phật thì thành ra ngạo mạn, phóng túng không có lợi gì cả. Vì vậy tôi khuyên quý Phật tử khi mình chưa đạt được cái thể, thấy thân cảnh, ngã, pháp đều có thật thì phải thờ kính Phật, kính Pháp, kính Tăng, kính tất cả những vị tiền bối để cho tâm mình thuần thục.

HỎI: Kính xin Hòa thượng từ bi dạy cho con pháp môn tu thiền để điều trị bệnh mãn tính của thân. Tu thiền có thể trị liệu bệnh trừ tuyệt bệnh được không?

ĐÁP: Phật tử này nghĩ tu để trị bệnh thân chớ không phải trị bệnh tâm. Tu thiền nặng về bệnh tâm chớ không chú trọng về bệnh thân, nếu bệnh thân có bớt đó là phần phụ. Trọng tâm của thiền là trị bệnh tâm, bệnh tâm là bệnh loạn tưởng, bệnh phóng ngoại v.v… Bệnh thân nhất là bệnh mãn tính thì tôi không dạy được. Các thầy đau cũng phải đi bệnh viện nhờ bác sĩ điều trị. Còn dạy tu để tuyệt hết bệnh thân tôi cũng không dạy được, bệnh là cái mà Phật cũng phải chịu, thì làm sao tôi dạy tu cho tuyệt bệnh được. Tuy nhiên, người tu thiền có khác với người không tu là thấy rõ thân này có tụ có tán, có hợp thì phải có tan, không giữ nó hoài được. Bệnh là cái có sẵn của cơ thể, khi có một bộ phận nào hư thì có bệnh, vì bệnh là lẽ thường nên không lo không sợ, nên ít khổ. Còn người không tu, thấy thân này thật khi bệnh thì lo lắng sợ sệt nên có hai cái khổ, khổ của thân và khổ của tâm, khổ dồn dập. Tu và không tu khác nhau ở chỗ ít và khổ nhiều, chớ không có pháp dạy cho tuyệt hết bệnh thân.

HỎI: Bạch Hòa thượng chỗ “kiến không” nhỏ nhiệm khó biết, văn tự tuy có đọc qua nhưng không thực nhận khó bàn. Tuy nhiên trong một lúc lắng tâm đệ tử nhận thấy giữa hai niệm tương tục thường chuyển có một khoảng dừng, trước kia chỉ thấy liên tục mà thôi. Kính xin hỏi khoảng dừng đó có phải chỗ kinh nói là “kiến không” chăng?

ĐÁP: Phật tử này nói rằng: Do được một vị Hòa thượng dạy rằng: “Quên được “thân không” nhưng còn cái “kiến không”, “pháp không”, ráng tiến lên”. Phật tử này hỏi khi ngồi thiền giữa niệm trước và niệm sau có lặng một khoảng, chỗ đó có phải là “kiến không” chăng?

Tôi xin nói rõ là không phải. Chữ kiến đây chỉ cho kiến chấp, thấy thân này mà không chấp thì gọi là thân không, nhưng còn chấp về cái biết, cái hiểu của mình thì gọi là kiến, nên nói tư kiến, thành kiến, tức là cái chấp về cái biết riêng của mình. Như vậy “kiến không” là chỉ kiên chấp chưa dứt sạch, phá chấp thân mà chấp tâm chưa phá được.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng từ bi chỉ dạy cho con, có một cô Phật tử năm nay tám mươi hai tuổi, mấy chục năm nay tu hạnh Bồ tát tại gia, giữ giới và tu hành rất tinh tấn. Nhưng mấy năm nay cô bệnh nặng, chừng một tháng nay cô nằm mê man không biết gì hết. Chúng con rất đau lòng nhìn người bạn đạo này. Kính xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy cho chúng con được biết vì nghiệp gì mà cô bị hành hạ lâu như vậy?

ĐÁP: Trường hợp thứ nhất là do nghiệp đời trước. Có nhiều thầy tu rất tốt nhưng gần tịch cũng bị những cái khổ bức ngặt. Đó là nghiệp quá khứ còn thừa phải chịu, phải trả cho hết.

Trường hợp thứ hai là trong đời hiện tại sống bảy tám mươi tuổi nhưng ba bốn mươi năm sau này tu tốt, còn mấy chục năm trước chưa biết tu có khi cũng làm đau khổ cho người cho vật nhiều. Bây giờ biết tu rồi nghiệp hiện tại không tạo nữa nhưng nghiệp của thời gian trước cũng phải trả.

HỎI: Kính xin Thầy giảng cho con được biết: Ngữ lục của các vị Thiền sư, Thiền sư nào thuộc tông phái nào?

ĐÁP: Về ngữ lục thì Phật tử chịu khó coi lại trong các bài lục vì lục rất nhiều, những bài lục của các vị Thiền sư những hạng lớn như tông Lâm Tế thì có Lâm Tế ngữ lục; tông Tào Động có Động Sơn ngữ lục, Tào Sơn ngữ lục; tông Qui Ngưỡng thì có Quy Sơn ngữ lục, Ngưỡng Sơn ngữ lục; tông Pháp Nhãn, tông Vân Môn có ngữ lục của những vị tông chủ là những ngữ lục lớn, ngoài ra còn rất nhiều ngữ lục khác có giá trị.

HỎI: Mười hai phần giáo là mười hai bộ kinh nào?

ĐÁP: Trong kinh, một bộ kinh đức Phật chia ra mười hai thể loại như: Trường hàng, Trùng tụng, Cô khởi, Luận nghị, Ví dụ… chứ không phải có mười hai bộ kinh.

HỎI: Kính bạch Sư ông con có mấy điều thắc mắc xin Sư ông từ bi chỉ dạy:

Khi Phật nhập diệt dưới cây Sa la song thọ, Ngài dạy tôn giả A Nan sửa đầu Ngài hướng về Bắc, mặt hướng về Nam có ý nghĩa như thế nào?

ĐÁP: Sử ghi khi sắp nhập diệt Phật bảo ngài A Nan trải y và để cho Ngài nằm xoay đầu về hướng Bắc, mặt về hướng Nam, đó là một thói quen theo tục lệ Ấn Độ. Các nhà tu hành ngày xưa khi tịch nằm như thế, Phật cũng tùy theo cho hợp với phong tục tập quán địa phương, chớ không có ý nghĩa sâu xa trong giáo lý.

HỎI: Con nghe có một vị thầy lớn dạy rằng vật cúng thí cho cô hồn, người xuất gia thọ mười giới trở lên không được dùng, nếu dùng thì nó sẽ phá làm chướng ngại.

ĐÁP: Người xuất gia là tu hạnh giải thoát, còn đồ cúng cô hồn là những món cho ngạ quỷ hoặc quỷ đói, nó là hạng ít phước mà người xuất gia thọ giới cao dùng những món cúng đó e rằng các loài quỷ coi thường. Vì cho rằng mình tu giới hạnh cao mà còn thích ăn đồ tầm thường của nó, chớ không phải nó ở trong bụng mình nó phá. Cho nên đồ cúng cô hồn thường để cho trẻ nhỏ dành giựt ăn chơi thôi chớ người tu không dùng.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng từ bi chỉ dạy, người tu tập Tổ sư thiền có nhất thiết phải nhập thất độc cư không? Nếu có thì chưa đủ niềm tin vào tự tánh và còn sợ nghiệp cũ, nếu không thì biết bao giờ mới kiến tánh viên mãn?

ĐÁP: Câu hỏi này ở phần trên chưa rõ ràng. Nếu nói chưa đủ niềm tin vào tự tánh mới nhập thất thì không phải. Bởi vì nhập thất là một cơ hội tốt, là thắng duyên để người tu dồn hết khả năng nghị lực của mình dụng công miên mật trong khoảng thời gian một, hai hoặc ba tháng. Nhờ đó có thêm kinh nghiệm và sức mạnh, khi ra ngoài làm việc mới đủ sức hóa giải chướng ngại của ngoại duyên. Như vậy không phải là chưa đủ niềm tin. Dù đủ niềm tin mà thiếu sức mạnh, nhưng có cơ hội nhập thất để tăng trưởng sức mạnh, khi gặp ngoại duyên trở ngại làm chủ mình dễ hơn, chớ không phải sợ nghiệp cũ, cũng không phải không tin tự tánh mới nhập thất.

Và, không phải nhập thất mới kiến tánh viên mãn mà kiến tánh tùy theo mỗi người. Có người đang đi ngoài đường bất chợt ngộ, có người đang ngồi trong thất bất chợt ngộ, có người đang tụng kinh ngộ, nó không nhất thiết nhập thất mới ngộ. Vì vậy cho nên đừng nghĩ rằng phải nhập thất mới ngộ viên mãn.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng giải giùm con những nghi vấn sau: Trong kinh Lăng Nghiêm có câu “dù dứt hết những cái thấy nghe hay biết mà giữ cái nhàn tịnh tối kín ở trong cũng là việc của bóng dáng pháp trần phân biệt”.

ĐÁP: Quý vị đừng hiểu lầm, dứt cái thấy nghe hiểu biết phân biệt là dứt cái dính mắc với sáu trần, chớ không phải dứt cái thấy nghe hiểu biết là làm cho mắt mình mù, tai mình điếc, hiểu rõ ràng như vậy. Sáu căn tiếp xúc với sáu trần không khởi niệm phân biệt là không dính mắc, đó là dứt, còn nếu dứt mà mình giữ cái tối âm u để cho nó yên là sai, vì tánh giác lúc nào cũng sáng mà mình lấy cái tốt cho là giác thì sai rồi.

HỎI: Hành động của ngài Đơn Hà, Nam Tuyền, Qui Tông có rơi vào nhân quả không? Nếu có, sao các Ngài vẫn phạm? Biết rằng đó chỉ là phương tiện dạy chúng, chẳng lẽ không còn phương tiện nào khác hơn sát sanh chăng? Nếu không chẳng lẽ đã là Thiền sư các Ngài cứ gieo nhân thế nào cũng được, vậy làm sao giải thích hết ý câu: Bồ tát sợ nhân chúng sanh sợ quả?

ĐÁP: Phật tử này thắc mắc ngài Đơn Hà thiêu tượng Phật, ngài Nam Tuyền chặt con mèo, ngài Qui Tông chặt con rắn, như vậy có rơi vào nhân quả không?

Trong Kinh nói rất rõ, nếu thành nghiệp cố định thì việc làm đó phải hội đủ ba yếu tố: Thân, miệng và ý gọi là định nghiệp thì nhất định phải trả. Còn nếu chỉ thân mà không có miệng không có ý thì đó là bất định nghiệp, mà bất định thì chuyển được. Vậy hỏi có rơi vào nhân quả không thì xin trả lời rằng những hành động đó thuộc về bất định, tùy duyên mà chuyển chớ không cố định là làm như vậy phải chịu như vậy. Đó là ý nghĩa trong kinh Phật đã dạy.

Thường chư vị Thiền sư đối cơ cảnh tỉnh đồ chúng, mà khi đối cơ gặp cảnh nào thích ứng thì các Ngài làm ngay chớ không chờ cơ hội khác.

Và, khi đối cơ các Ngài phải theo cái sức mạnh hoặc là hoàn cảnh ngay trong hiện tại mà giải quyết, không chờ đợi cơ hội khác. Vì mục đích lợi ích cho chúng sanh, cho mọi người giác ngộ mà các Ngài làm, nên trong nhà Phật thường nói: Vì lợi ích chúng sanh mà Bồ-tát có khi phải phạm tội. Bản thân các Ngài có thể phạm tội nhưng vì lợi ích chúng sanh mà các Ngài làm.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con có vài điều thắc mắc, kính xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy: Tứ diệu đế có hai tầng nhân quả, Khổ đế và Tập đế nói về nhân quả thế gian, Diệt đế và Đạo đế nói về nhân quả xuất thế gian. Con không hiểu hai tầng nhân quả này như thế nào?

ĐÁP: Pháp Tứ đế là pháp do đức Phật sau khi chứng ngộ nói ra. Ngài nói Ngài chứng lậu tận minh không còn rơi trong luân hồi sanh tử nữa. Ngài thấy rõ manh mối của động lực đưa con người vào sanh tử và cách tháo gỡ manh mối đó, giúp người được giải thoát sanh tử.

Cái mầm hay cái nhân dẫn con người đi trong luân hồi sanh tử là Tập đế, cái khổ đau của con người là Khổ đế. Đó là nhân quả thế gian.

Tập đế là nghiệp nhân xấu được tích lũy đưa con người đến quả đau khổ, như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… nó dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Cứ bỏ thân trước nhận thân sau, nối tiếp mãi mãi. Tích lũy nghiệp nhân gọi là Tập đế và quả của nghiệp nhân là khổ. Có thân là có khổ, khổ đủ thứ, nào sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, thương yêu xa lìa khổ, oán thù gặp gỡ khổ, mong muốn mà không được cũng khổ. Mang thân này là mang cái lụy, cái khổ có sung sướng gì đâu nên gọi là Khổ đế.

Tập đế là nhân, Khổ đế là quả. Nhân quả dẫn đi trong sanh tử luân hồi, gọi là nhân quả thế gian.

Cái thứ hai là Diệt đế và Đạo đế. Biết cái nhân khổ đưa mình vào sanh tử luân hồi, mình diệt cho sạch những cái đó đi gọi là Diệt đế, nhân diệt thì quả không còn, nếu diệt hết nhân rồi gọi là an lạc Niết-bàn. Đức Phật dạy phương pháp diệt tập nhân gây đau khổ gọi là Đạo đế. Những nghiệp xấu nơi tâm hoàn toàn dứt sạch, mầm nhân của sanh tử luân hồi không còn nữa, giải thoát hoàn toàn gọi là nhân quả xuất thế gian.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con năm nay sáu mươi tuổi, hồi năm ba, bốn tuổi mỗi ngày mẹ con cho con ăn một con chim bồ câu. Vậy con có mắc tội sát sanh không? Khi lớn gia đình con chuyên nấu rượu nuôi heo, con phải làm việc đó từ năm mười lăm đến mười tám tuổi rồi lập gia đình. Khi vào Nam con không làm việc đó nữa, ở nhà buôn bán nuôi cha mẹ. Đến năm mươi bảy tuổi con thọ giới Bồ tát. Mỗi tháng đi thọ bát quan trai giới bốn lần. Vậy khi con chết được về cõi nào? Xin Hòa thượng chỉ dạy cho con được biết. 

ĐÁP: Trường hợp Phật tử này tôi xin trả lời: Trong kinh Phật dạy có hai thứ nghiệp là tích lũy nghiệp và cận tử nghiệp, đó là tôi nói đơn giản. Tích lũy nghiệp là nghiệp dồn chứa nhiều năm, nhiều tháng, nhiều đời. Còn cận tử nghiệp là khi gần chết mà nghĩ nói làm thiện hay nghĩ nói làm ác. Như vậy cận tử nghiệp là dồn chứa rất nhiều đời. Nếu hồi nhỏ mình làm những điều không tốt đó là tạo nghiệp ác, khi lớn lên biết tu tạo nghiệp thiện, nếu nghiệp thiện được tiếp tục mãi cho đến khi nhắm mắt thì chắc chắn được đi đường lành, vì sức mạnh của cận tử nghiệp dẫn đi chỗ tốt. Nói vậy không có nghĩa là hết tích lũy nghiệp. Tuy tái sanh chỗ tốt được làm người, nhưng vì hồi xưa đã ăn thịt giết hại sinh vật nhiều, nay làm người cứ bệnh hoạn hoài. Đó là do nghiệp tích lũy không tốt. Nghĩa là tuy được đến cõi lành mà nợ trước vẫn phải trả, trả cách nhẹ hơn là hay đau yếu thay vì bị giết hại. Hiểu như vậy rồi phải ráng tu, làm phước, phóng sanh cho nghiệp được tiêu mòn.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, đạo Bà la môn và giai cấp Bà la môn là hai hay một, nếu hai thì đạo Bà la môn nghĩa như thế nào?

ĐÁP: Ở đây tôi xin giải thích đạo Bà la môn và giai cấp Bà la môn không phải hai mà cũng không phải một.

Đạo Bà la môn thờ Phạm Thiên, dạy tu để trở về với Phạm Thiên. Người Ấn Độ thời bấy giờ chia làm bốn giai cấp mà giai cấp đầu là giai cấp Bà la môn, người trong giai cấp này được quyền cúng tế các buổi lễ lớn, là cúng tế Phạm Thiên. Như vậy đạo Bà la môn và giai cấp Bà la môn không phải hai. Giai cấp Bà la môn là giai cấp đứng đầu trong xã hội do chủ trương của bộ kinh Ma Nu. Kinh này cho rằng giai cấp Bà la môn sanh từ đảnh của Phạm Thiên, những giai cấp khác sanh từ miệng, bụng, chân rồi chia thành bốn giai cấp. Do đó giai cấp Bà la môn trên hết, là thượng đẳng của xã hội Ấn Độ. Nếu đứng về mặt giai cấp mà nói thì giai cấp Bà la môn là giai cấp cao trong xã hội Ấn Độ, còn đạo Bà la môn là đạo chung của toàn dân Ấn Độ. Lúc chưa có đạo Phật thì đạo Bà la môn là quốc giáo nên thấy đạo Bà la môn và giai cấp Bà la môn dường như là hai.

HỎI: Tạp báo nghiệp, tạp sanh, tạp thọ là nghĩa thế nào, kính mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Thế nào là tạp nghiệp? Vừa rồi có một Phật tử kể thuở nhỏ ăn chim bồ câu, về già biết tu, thọ giới Bồ tát tại gia, nghiệp của Phật tử này trước ác, sau thiện, hoặc có người trước thiện sau ác lẫn lộn không nhất định. Cho nên được thân tổng báo cũng không nhất định. Có người hồi trẻ sung sướng, tiền dư bạc thừa, đến già thì nghèo đói khốn khổ. Ngược lại có người hồi nhỏ nghèo cháy da tới lớn khá giả giàu có. Đó là tạp báo tức là quả báo lẫn lộn có tốt có xấu không nhất định.

Tạp sanh tức là sanh lẫn lộn trong lục đạo, khi sanh chỗ này, khi sanh chỗ kia, khi làm người, khi làm thú v.v… không cố định chỗ nào gọi là tạp sanh.

Sao gọi là tạp thọ? Trong cuộc sống có khi cảm thọ vui, có khi cảm thọ khổ, lẫn lộn không nhất định nên gọi là tạp thọ. Đó là nói nghiệp báo đời trước đời sau liên hệ lẫn lộn nhau.

HỎI: Trong kinh A hàm ghi có những cư sĩ sau khi nghe Phật thuyết pháp liền chứng quả Tu đà hoàn, A na hàm v.v… Trường hợp chứng quả này có đồng với đốn ngộ của Thiền tông không?

ĐÁP: Trong trường hợp chứng quả Tu đà hoàn, A na hàm… sau khi nghe Phật thuyết pháp và đốn ngộ của Thiền tông có khác nhau. Vì chứng Tu đà hoàn là còn sanh trở lại bảy lần. Tuy sanh trở lại nhưng tâm không thối chuyển vẫn tiến trên Thánh đạo, Thánh quả Thanh văn. Còn đốn ngộ của Thiền tông không phải ngộ để đủ lòng tin tu chứng quả Thanh văn, mà ngộ ngay nơi mình có tâm Phật tức là Phật nhân, nếu tu tới chỗ viên mãn sẽ thành Phật quả chứ không qua tứ quả Thanh văn, nên có khác nhau.

HỎI: Kính bạch Thầy, xin Thầy giảng giải cho con hiểu về ý nghĩa hai câu sau đây của Ngô Thời Nhiệm con trích từ quyển “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh” trang 135:

1. Khổng Tử là chủ của tính mạng. Phật Thích Ca là khách của tính mạng, đó là lời của ông Ngô Thời Nhiệm.

2. Khổng Tử và Thích Ca là chủ và khách của tính mạng cho nên cái đạo dạy người nhất trí như nhau.

ĐÁP: Ông Ngô Thời Nhiệm có lần tự xưng là con cháu của hệ phái Trúc Lâm, ông có viết quyển sách tựa là “Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh”. Nhưng đọc tiểu sử và nghiên cứu về tinh thần của Ngô Thời Nhiệm thì thấy ông nặng nề về Nho hơn Phật mà chủ đích của ông là muốn dung hợp Nho Phật, hay nói cách khác là tam giáo đồng nguyên (Nho, Phật và Lão cùng một nguồn). Ông nói Khổng Tử là chủ của tính mạng, Phật Thích Ca là khách của tính mạng, theo quan niệm của ông thì tính mạng là cái mà mọi nơi, mọi người ở trong nước phải sống phải theo. Bởi vì nhà Nho dạy dân có một nếp sống trật tự đàng hoàng thích ứng với thời đại. Còn nhà Phật dạy người tu cái lý cao siêu giải thoát sanh tử, nhưng cũng liên hệ tới kiếp sống con người, cho nên ông nói Khổng Tử là chủ của tính mạng tức là cái gốc để dạy dân, còn Phật là khách. Ý nói cũng dạy dân nhưng mà là cái ngọn, bởi vì nhà Phật nói chuyện giải thoát xa quá, còn đạo Nho nói thực tế ngay đời sống của con người. Đó là ý thứ nhất. Còn ý thứ hai thì Khổng Tử nhắm vào cái tinh thần giáo dục tâm lý của người dân, phải sống đúng với nghĩa Quân – Sư – Phụ, nghĩa là từ quốc gia, xã hội, gia đình phải có trật tự trên dưới như vậy. Đó là cái tính mạng. Còn Phật dạy người đời thì chỉ có tam quy ngũ giới và cách tương giao với nhau, chớ không có tôn quân nên nói khách.

Đoạn sau nói Khổng Tử và Thích Ca là chủ và khách của tính mạng cho nên cái đạo dạy người nhất trí với nhau. Ông lấy cớ đó để đưa tới chỗ dạy dân trong cuộc sống chủ khách hòa nhau đều có lợi, đều tốt. Về đạo Phật ông không nói sâu về tâm tánh con người mà chỉ nói cái sinh mạng của một nước, của tập thể nhiều hơn.

HỎI: Theo lời Phật thì người chứng A-la-hán thuần thục tứ thần túc, nếu muốn thì có thể kéo dài thọ mạng. Tại sao Phật có đủ tứ thần túc chỉ sống có tám mươi tuổi.

ĐÁP: Chỗ này quý Phật tử nên hiểu thật rõ. Đọc sử chúng ta thấy có đoạn nói đức Phật tuyên bố Ngài xả thọ mạng để nhập Niết-bàn. Tại sao Ngài có thể sống lâu hơn nữa mà lại xả bỏ mạng? – Trong kinh có nhiều chỗ Phật nói rất rõ là cái gì cần nói Ngài đã nói, đã dạy hết rồi. Ngài có mặt lâu là thừa, chúng sanh có cái bệnh cái gì dư quá thì xem thường. Giả sử Phật còn tại thế cho đến bây giờ chắc chúng ta xem thường lắm, chúng ta nghĩ Phật còn đó lo gì, để sắp đặt việc nhà xong xuôi rồi hãy tu. Nhưng biết chừng nào xong, tới già tới chết cũng chưa xong. Phật nhập diệt rồi ngày nay còn kinh điển, có quý thầy nhắc nhở quý Phật tử ráng học ráng tu. Nếu không quý thầy đi nữa không ai hướng dẫn, do đó nên mọi người cố gắng tu.

Đó là tôi nói nghĩa thường, còn nghĩa sâu xa hơn là đức Phật lúc nào cũng thương chúng sanh, vì chúng sanh mê muội, thấy thân này thật nên quý nó, đến lúc gần chết mới sợ, tìm đủ mọi cách để sống thêm. Giả sử có Phật tử đã quy y thọ giới rồi mà khi bệnh, có ông thầy lang nào đưa cho lá bùa bảo uống cho qua khỏi bệnh mới sống được thì Phật tử đó nghĩ sao? – Mạng sống là trên hết, thôi ráng sống rồi sẽ tu sau phải không?

Chuyện ông Trưởng Giả Uất Già ngày xưa có tám điều chưa từng có, trong đó có một điều là ông bạch Phật: Giả sử như con đau nặng sắp chết, có người đem tới một lá bùa của ngoại đạo nói rằng con uống lá bùa này sẽ sống, con thà chấp nhận chết chứ không uống bùa ngoại đạo. Đó là điều chưa từng có của ông Uất Già, ông quý chánh pháp chớ không quý thân mạng.

Đức Phật xả bỏ thọ mạng sớm cũng là một tấm gương dạy chúng ta thấy rõ thân này không quan trọng, khi cần dùng nó để làm chuyện đạo đức thì Ngài làm, khi làm xong rồi nó hoại thì cho nó hoại không tiếc nuối giữ gìn chi nữa.

HỎI: Kính bạch Thầy, trong kinh Pháp cú Phật dạy được thân người khó như rùa mù chui bọng cây. Ngược lại, kinh Lăng Nghiêm Thầy giảng thân tứ đại cha mẹ sanh như hạt bụi trong hư không, như hòn bọt trong bể cả. Ý này thế nào xin Thầy giảng cho chúng con được hiểu.

ĐÁP: Kinh Pháp Cú Phật dạy được thân người là khó như con rùa mù tìm bọng cây. Rùa mù một trăm năm mới trồi lên một lần, còn bọng cây nổi trên mặt biển theo sống gió trôi giạt sang đông sang tây chẳng biết chừng nào rùa mù mới tìm được bọng cây. Khó vô cùng!

Cũng vậy, đối với thân này người học đạo phải hiểu cho thật kỹ, nó không quí mà nó cũng rất quí. Ví dụ như chúng ta đi biển, bị gió bão dập chìm thuyền, bất chợt chúng ta vớ được một khúc cây mục, nhờ bám vào khúc cây mục mà chúng ta vào bờ. Lúc đó gốc cây mục rất quí đối với chúng ta. Còn khi đã vào đến bờ rồi thì có ai vác gốc cây mục lên vai mà đi không? – Không. Như vậy nó quí ở giai đoạn nào và không quí ở giai đoạn nào?

Lúc đang tu, chúng ta vừa mới tỉnh mới hiểu đạo mà thân này hoại thì tu không kịp cho nên lúc đó phải quí nó để mượn phương tiện tu hành. Nhưng khi đã đạt đạo rồi thì thân này không còn quí nữa. Cho nên trong kinh Lăng Nghiêm nói thân này như hòn bọt trong biển cả, như hạt bụi trong hư không, đó là vì đã ngộ đạo rồi nên thấy nó không ra gì. Đó là hai trường hợp đối với thân quí và không quí.

HỎI: Người tu theo Phật nghĩ thế nào về bói toán, tử vi, địa lý?

ĐÁP: Câu hỏi này trúng bệnh của người tu hiện nay cũng nhiều. Nếu Phật tử tin sâu nhân quả thì vấn đề bói toán, tử vi, địa lý không quan trọng. Vì nhân quả là cội nguồn của khổ đau an lạc; nếu chúng ta tạo nhân xấu thì chừa tránh và có làm điều gì tốt thì cố gắng làm thêm. Bấy nhiêu quá đủ rồi, bói toán, tử vi nếu nói đúng cũng chỉ là trò chơi, quan trọng là ở hành vi tạo tác của chúng ta. Ví dụ tử vi nói hai năm hay ba năm nữa chúng ta sẽ có điềm lành, nhưng từ đây tới đó chúng ta lại giết người thì ở tù, lúc đó có tốt không? – Không. Việc tốt xấu sắp tới đổi theo cái nhân tạo tác của chúng ta. Vậy nên tin nhân quả hay tin bói toán?

Người Phật tử chân chính tin sâu lý nhân quả thì không tốn tiền vô ích trong việc bói toán, thay vì đi xem tử vi tốn một ngàn đồng, chúng ta đem số tiền ấy giúp cho người nghèo, người bệnh được phước hơn, lại không phí thì giờ vào những việc làm vô ích ấy nữa.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con nghe nói đạo không có hiển, mật nhưng pháp hành lại có hiển mật, kính xin Hòa thượng giải cho con hiểu thế nào là hiển thế nào là mật?

ĐÁP: Chữ “hiển” là hiện bày ra, “mật” là ẩn kín. Phật dạy không có gì là mật hết, nhưng lời dạy nào chúng ta nghe hiểu được thì gọi là hiển, lời nào nghe không hiểu thì nói là mật. Ví dụ người ta nói điều gì mình nghe hiểu liền thì nói điều đó rõ ràng, còn người ta nói mình nghe không hiểu thì nói bí mật quá không thể hiểu.

Phật giảng dạy không giấu điều gì cả, tại trình độ chúng ta chưa tới nên chưa hiểu rồi nói là mật, mà Phật nói là nói về đạo cho nên nói đạo có hiển có mật. Phật dạy cốt cho chúng ta hiểu để tu, nhưng khi thực hành, những điều không hiểu chúng ta cho là mật. Tu một thời gian, chúng ta thông suốt thì hết mật thành hiển, nên đạo thì không cố định hiển hay cố định mật. Còn danh từ mật giáo, hiển giáo trong nhà Phật quí Phật tử cũng nên hiểu rõ. Mật giáo là chỉ cho những người chuyên trì chú, tu theo Mật tông. Vì câu chú không giải thích được nên gọi là mật. Còn giáo lý là kinh Phật dạy quí thầy giảng rõ cho chúng ta hiểu để ứng dụng tu, đó là hiển giáo.

HỎI: Con nghe nói Phật Tỳ Lô Giá Na, nhưng xem Kinh không thấy nói đến, xin Thầy từ bi giảng dạy.

ĐÁP: Phật Tỳ Lô Giá Na là Phật mà quí vị thường đọc tụng danh hiệu. Trong nhà Phật có chia ra Phật pháp thân, Phật báo thân và Phật hóa thân. Phật pháp thân gọi là Tỳ Lô Giá Na, Phật báo thân là Lô Xá Na. Tỳ Lô Giá Na là danh từ chữ Phạn chỉ cho Phật pháp thân mà ai cũng có, chớ không phải như ông Phật Thích Ca hay Phật Di Đà. Phật pháp thân này không hình, không tướng nên không chỉ được, chỉ ai nhận ra nơi mình có Phật pháp thân thì đó gọi là Phật Tỳ Lô Giá Na.

HỎI: Kính xin Hòa thượng giảng cho con được rõ: Chơn pháp, ngã pháp, tất cả các pháp đều là Phật pháp, chữ “pháp” quá bao gồm nên con chưa hiểu đúng nghĩa.

ĐÁP: Chữ pháp có hai phần: Sự và lý.

Sự: Chữ pháp là vật này vật nọ, vật kia hay cái này, cái nọ, cái kia có tên gọi đều là pháp. Ví dụ cái bàn là một pháp cho tới cái tâm cũng là một pháp, đó là nghĩa chữ pháp về phần sự.

Lý: Chữ pháp chỉ cho thể tánh trùm khắp không giới hạn, cho nên nói tất cả pháp đều là Phật pháp. Đó là chỉ cái thể trùm khắp nên thuộc phần lý tánh.

HỎI: Người tu làm phước thì sẽ được phước giàu sang sung sướng, nhưng vật chất sung túc có khi trở ngại sự tu. Còn nếu không làm phước thì không có phước, nghèo cực quá cũng khó tu. Vậy làm sao cho quân bình, xin Thầy dạy con bố thí như thế nào mà không trở ngại.

ĐÁP: Chỗ này trong nhà Phật có nói rất rõ mà các Thầy cũng thường nhắc quí Phật tử, đó là câu: “Phước huệ lưỡng toàn phương tác Phật”. Phước là tất cả phước báu, huệ là trí huệ, cả hai đầy đủ mới làm Phật sự được và làm không bị lệch một bên. Có một số Phật tử mắc cái bệnh là làm từ thiện xã hội, bố thí cúng dường, cứ ham làm hoài, tâm cứ tính toán lo toan, không có thì giờ để ngồi thiền, tụng kinh, thậm chí không nghĩ đến nữa. Vì thấy làm được việc lợi ích cho nhiều người, nên say sưa làm. Tổ Bá Trượng có dạy: Nếu phước nhiều huệ kém thì cái phước nó chở cái huệ đi hưởng cảnh sang giàu, không tiến được trên đường giác ngộ.

Lại cũng có người tu huệ rồi chấp vào đó chê tu phước là pháp hữu vi, không giải thoát, nên dồn hết tâm lực vào việc tu huệ, không làm gì lợi ích cho ai cả. Nhờ vậy mà huệ được tăng trưởng, phước thì thiếu. Hồi Phật còn tại thế, có một thầy Tỳ-kheo đệ tử của tôn giả Xá Lợi Phất chứng A-la-hán rồi, mà đi khất thực không ai cúng dường cả, mỗi ngày đều ôm bình bát không về thường bị đói khát. Cho nên phước và huệ phải song hành thì đường tu mới được hanh thông.

Song, làm phước phải làm như thế nào? – Thường người làm phước hay có quan niệm: Bố thí, cúng dường để đời sau hưởng phước lành, vì nghĩ “mình được” cho nên dễ đưa tới chỗ thụ hưởng. Nếu bố thí cúng dường mà nguyện cho sau này đủ duyên để tiến tu trên đường giác ngộ, viên mãn đạo quả Bồ đề tu phước với tâm nguyện như thế thì không trở ngại trên đường tu.

HỎI: Con đọc trong Thiền Luận của Suzuki, có đoạn con thắc mắc, con xin trích nguyên văn như sau, xin Thầy giảng giải cho con hiểu: Phật A Di Đà nguyện rằng khi tất cả chúng sanh chưa thành Chánh giác thì Ngài cũng chưa thành Chánh giác. Tuy nhiên cho đến ngày nay tất cả chúng sanh chưa thành Phật hết mà đức A Di Đà đã thành Phật tự thuở nào rồi. Vậy lời nguyện trên có phi lý chăng? – Đáp: Bí mật.

Theo con biết đức A Di Đà là một vị Phật ra đời trước đức Thích Ca mà sao ở đây lại nói Ngài là Bồ tát. Vậy có phải nói về tiền thân của Ngài chăng? Rồi sao lại có câu trả lời là: không biết. Như vậy câu này là của Suzuki hay là của Trúc Thiên?

ĐÁP: Theo lời hỏi của đạo hữu, nếu ông Suzuki trả lời “bí mật” thì tôi cũng không có quyền nói, vì đã là bí mật mà còn nói thì bật mí rồi. Nhưng mà đây tôi giải thích như vầy:

Không phải chỉ đức A Di Đà mà Bồ tát Địa tạng cũng từng nguyện: “Địa ngục mà chưa trống không thì Ngài chưa thành Phật, chừng nào độ hết chúng sanh, Ngài mới chứng bồ đề”, nhưng hiện tại chúng sanh vẫn còn quá nhiều thì sao?

– Đa số Tăng Ni Phật tử hoang mang về lời nguyện của chư Bồ tát hoặc chư Phật, vì các Ngài nguyện độ tất cả chúng sanh thành Phật rồi các Ngài mới thành Phật. Vậy hiện giờ chúng sanh còn đây mà các Ngài đã thành Phật mất rồi. Như vậy là sao?

Điều này không có gì lạ, tâm nguyện của chư Phật, Bồ tát lúc nào cũng độ tất cả chúng sanh, đó là tâm từ bi rộng lớn, lúc nào cũng nghĩ đến chúng sanh, vì chúng sanh mà tế độ. Đức Phật Thích Ca cũng nguyện độ tất cả chúng sanh được giác ngộ thì Ngài mới an lòng. Nhưng bây giờ chúng sanh còn mê muội quá nhiều mà Ngài đã nhập diệt rồi, như vậy là sao? – Tôi xin hỏi, theo quí Phật tử thì đức Phật Thích Ca còn tế độ, còn giáo hóa không? – Dạ còn. Còn ở đâu? – Khi đức Phật còn tại thế, Ngài giáo hóa đệ tử tu hành, có dạy phải cứu độ chúng sanh để đền ơn chư Phật. Rồi từ đó đến giờ biết bao nhiêu vị Tổ tiếp nối bổn nguyện của Ngài độ chúng sanh. Ngày nay chúng tôi là hàng đệ tử Phật, hàng thứ mấy trăm mấy ngàn cũng tiếp tục hướng dẫn Phật tử tu hành, tức là chúng tôi cũng tiếp nối hạnh nguyện độ chúng sanh của Ngài. Và Phật tử cũng vâng lời Phật, dạy lại huynh đệ khác. Tuy Phật đã nhập Niết-bàn rồi mà giáo pháp của Ngài vẫn tiếp tục giáo hóa chúng sanh không dứt.

Nói “độ tận” hoặc “độ hết” là một lối nói, ngầm nói lên tinh thần rộng độ cùng tột, chứ không phải độ hết không còn một người nào. Trong kinh Phật thường nói Phật hóa hữu duyên nhân, có người Phật hóa được, có người Phật hóa cũng không được. Chúng ta nên biết Ngài nguyện độ tất cả chúng sanh là Ngài đã độ hết tâm chúng sanh của Ngài nên Ngài mới thành Phật.

Nếu không giác thì không có nguyện độ, mà đã giác tức là đã thành Phật. Ý nghĩa đó là như vậy chớ không phải đợi độ cho hết chúng sanh ở ngoài mới thành Phật thì không đúng với chánh pháp.

HỎI: Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Thầy giảng chỗ “quán Phật tam muội”, nhìn tượng Phật lâu đến lúc thấy như tượng Phật đó sống và nói pháp. Quán như vậy có phải là dùng tưởng mà thấy không? Nếu dùng tưởng thì tâm đâu có thanh tịnh. Như vậy là ngược với Thiền tông nói “gặp ma giết ma, gặp Phật giết Phật”. Hai pháp tu đều do Phật nói mà thấy như ngược nhau. Xin Thầy giảng giải cho con được hiểu. 

ĐÁP: Phật nói pháp là tùy cơ, cơ thấp thì Phật nói thấp, cơ cao thì Phật nói cao, tuy hai pháp thấp cao nghe khác nhau, nhưng Phật thì không có hai. Nói về pháp tu hoặc là đi thẳng vào tâm tánh hoặc là dùng tưởng để dẹp vọng tưởng tức dẹp cái tâm viên ý mã của mình, như quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ v.v… quán cũng thuộc về tưởng. Quán Phật Tam Muội là mượn hình ảnh Phật tưởng tượng ra cho tâm không còn động, và tưởng lâu thành định, mà định là tam muội. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật có nói nếu tình nhiều tưởng ít là đi xuống, tưởng nhiều tình ít là đi lên. Còn tưởng là còn lên, mà còn lên là còn sanh tử, cho nên tu về tưởng kết quả sanh lên các cõi trời sắc giới, vô sắc giới. Nếu muốn giải thoát khỏi sanh tử thì tình tưởng phải buông hết. Nhưng nhờ ứng dụng pháp thấp cho tâm được định, để đến chỗ vô niệm không nghĩ thiện không nghĩ ác.

Mới nghe thấy như chống trái nhau nhưng hiểu rồi thì không trái nhau.

HỎI: Khi mới ra đây con xin qui y Tam bảo, Thầy dạy con tu ngũ giới, con chấp theo ngũ giới để tu thân. Sau này con xem kinh, con thấy Phật dạy hạnh Bồ tát con chấp hạnh Bồ tát để tu thân. Sau đó con thấy Phật có dạy người tu hành phải hỷ xả và thầy cũng có dạy: Chấp là nguồn gốc của khổ đau. Vậy xin Thầy từ bi giảng cho con được sáng tỏ chỗ này để con ứng dụng tu hành cho đúng.

ĐÁP: Đây là câu hỏi của người tập tu và đang tu, tôi xin giải thích: Chấp và giữ khác nhau, giữ giới không có nghĩa là chấp, chúng ta giữ giới là ngừa tội lỗi mà mình có thể vấp phải. Thí dụ giữ giới không nói dối để ngừa cái lỗi nói dối. Có khi vì danh vì lợi mà mình nói dối, đó là bảo tồn tính chơn thật của người Phật tử. Như vậy giữ không có nghĩa là chấp mà là bảo vệ đạo đức của người tu hành. Cao hơn là giới Bồ tát, đó là tư cách của người tiến tới chỗ quên mình để giúp đỡ chúng sanh, đó cũng không phải là chấp.

Còn chỗ tôi nói: “Chấp là gốc khổ đau”, đó là chấp thân này thật của mình, rồi chấp ngôn ngữ là thật, chấp hành động là thật. Cho nên một lời nói trái tai là nổi giận, một hành động không vừa ý là tức lên, bất cứ cái gì xảy ra không hợp với tâm niệm riêng tư của mình là mình bất mãn phiền não, chúng ta xả tất cả những cái chấp đó thì không còn phiền não.

Còn giữ giới là tốt, càng giữ giới nghiêm mật chừng nào đạo đức càng tăng trưởng chừng ấy, giữ giới không có nghĩa là chấp, đạo hữu nên hiểu rõ chỗ này.

HỎI: Kính bạch Thầy, trong câu niệm: “Nam mô Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn”. Con chỉ hiểu chữ Phật Thế tôn còn những chữ trước con không hiểu, xin thầy từ bi giảng giải.

ĐÁP: Đó là mười danh hiệu của đức Phật, mỗi đức Phật thường có đủ mười hiệu.

Như lai: Như là chân như, được đạo chân như mà thành tựu chánh giác nên gọi Như Lai. Ứng cúng là Phật, một đấng đáng cho nhân thiên cúng dường. Chánh biến tri: Chánh là chơn chánh, biến là cùng khắp, tri là hiểu biết đúng đắn mà trùm khắp không giới hạn, nên nói là Chánh biến tri. Minh hạnh túc: Minh là tam minh tức là thiên nhãn minh, túc mạng minh và lậu tận minh, hạnh tam minh được đầy đủ gọi là Minh hạnh túc. Thiện thệ là người khéo vượt qua khỏi các cõi ở thế gian và cõi trời (thệ là qua, thiện là khéo). Thế gian giải: Ngài là người hiểu thấu tất cả các pháp ở thế gian. Điều ngự trượng phu là một đấng điều phục, chinh phục được những người trí thức và những kẻ ngoại đạo nên gọi là Điều ngự trượng phu. Thiên nhơn sư: Phật là thầy của trời và người. Phật: Ngài là đấng giác ngộ. Thế tôn là cả trời người đều cung kính tôn trọng.

Đó là mười hiệu của Phật. Chúng ta đọc câu đó là tán thán đức Phật có đầy đủ mười công đức, mà mỗi công đức là một tên một hiệu gọi là mười hiệu.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, trong cuốn Thiền sư Pháp Sơn con có đọc thấy ba định nghĩa về thiền học mà con không hiểu gì hết.

Thứ nhất: Thiền là gì? – Thiền là con khỉ leo trên cây quơ cái đuôi.

Thứ hai: Thiền là gì? – Thiền là lửa cháy đổ thêm dầu.

Thứ ba: Thiền là gì? – Thiền là cục gạch.

Con nghe quí Thầy dạy nghi là vọng niệm, tâm không an làm mình điên đảo. Nhưng trong cuốn Thiền sư Pháp Sơn lại nói tu thiền cần phải cho nghi tình phát khởi, điều này con chưa hiểu kính xin Thầy chỉ dạy.

ĐÁP: Quí Phật tử nên biết các vị Thiền sư này tu theo thoại đầu và các Ngài ngộ ở thoại đầu, mà thoại đầu thì cấm lý giải, lý giải là bệnh không thể làm cho nghi tình phát khởi được. Cho nên được hỏi các Ngài trả lời một cách phi lý để cho ý thức của thiền khách không có chỗ vin theo. Đã không cho vin theo mà tôi giải để quí vị hiểu, quí vị vin theo là có lỗi.

Câu hỏi kế nói rằng trong nhà thiền nói đại nghi đại ngộ, còn quí thầy giảng thì nói nghi là chướng đạo. Bởi vì thiền thoại đầu dùng câu thoại đầu để tạo cho hành giả điều kiện nghi, mà nghi thì tâm đuổi theo cái nghi đó không chạy theo vọng tưởng, lâu ngày cái nghi tu lại thành khối gọi là nghi tình, rồi đủ duyên nó tan vỡ ra gọi là ngộ.

Còn quí thầy giảng theo Kinh, trong Kinh nói phiền não căn bản có tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… nghi là một trong những thứ phiền não làm chướng đạo. Thí dụ bây giờ chúng tôi khuyên Phật tử nên phát tâm làm điều thiện sau khi chết sẽ được sanh cõi lành. Nhưng Phật tử lại nghi không biết sau khi chết còn hay hết, nếu hết rồi thì làm thiện để chi? Vì nghi như vậy nên hết muốn làm thiện. Chính cái nghi đó làm chướng ngại điều thiện của mình, mà chướng ngại thì không tu được. Cho nên hai cái nghi này là hai lãnh vực khác nhau.

HỎI: Thưa Thầy, ở hội Linh Sơn, khi đức Phật đưa cành hoa sen, ngài Ca Diếp mỉm cười, sau đó Phật ấn chứng, còn trong kinh A-hàm Phật có dạy: Tỳ-kheo nào thấy lý duyên sinh là thấy pháp. Như vậy cái thấy của tổ Ca Diếp và cái thấy của Tỳ-kheo về lý duyên sinh, hai cái thấy có khác nhau không? Nếu khác, khác ở chỗ nào?

ĐÁP: Tổ Ca Diếp ngộ là ngộ được chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, tức là cái thể chân thật có sẵn nơi con người mình. Còn thấy lý duyên sinh là thấy được lẽ thật của muôn sự muôn vật ở bên ngoài, nên hai cái thấy khác nhau.

HỎI: Thưa Thầy, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật dạy ngài A-nan cách mở gút như thế này: Sáu gút mở hết thì một cũng không còn. Tại sao tổ Bồ Đề Đạt Ma khi sang Trung Hoa với nhiệm vụ phá kiến chấp đối đãi hai bên của chúng sanh mà Ngài lại quảy một chiếc giày. Như vậy Ngài vẫn còn mang một cái, mà còn một thì còn đối lại với hai. Xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con hiểu.

ĐÁP: Câu này nghe cũng lý thú. Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy mình mở sáu gút mà mở chỗ nào? – Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm mà chấp đó là gút, còn nếu không chấp thì mở. Cho nên kinh Lăng Nghiêm nói sáu căn là gốc của sinh tử luân hồi, mà sáu căn cũng là nhân giải thoát luân hồi. Chính nó làm cho mình đi trong sanh tử, cũng chính nó là chỗ giải thoát sanh tử chớ không đâu xa hết, cho nên nói sáu gút mở thì một cũng không còn.

Hình ảnh Tổ Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc dép là hình ảnh tượng trưng để nói lên cái ý chí vươn lên mạnh mẽ của người tu, đó chỉ là phương tiện chớ không phải chỗ cứu cánh như lời Phật dạy trong kinh. Tổ muốn dạy chúng ta còn chấp hai bên là khổ, không chấp hai bên là hết khổ.

Chỗ này tôi nói thêm để quí Phật tử hiểu thế nào là chấp hai bên. Quí Phật tử có để ý khi người ta khen mình hay thì mình vui, khi người ta chê dở thì mình buồn. Nhưng trên thế gian này có ai được khen hết đâu, nếu hợp nhau, giống nhau thì họ khen; không hợp, không giống thì họ chê. Như mấy chú uống rượu thì khen người uống rượu giỏi, mấy chú ăn trộm thì khen người ăn trộm hay lấy tiền của người ta được nhiều. Ngược lại, thấy người không uống rượu hoặc thầy tu thì chê bai, kiêu ngạo. Như vậy có cái khen nào là thật, cái chê nào là thật đâu? Nhưng thông thường ai khen thì mình chịu, dù cho lời khen giả dối mình cũng vui, mà còn vui là còn khổ, cho nên thế gian này không bao giờ hết khổ. Vì vậy, chúng ta phải sống với cái thật, tâm an nhiên bình thản trước những lời khen chê, buông được hai bên là hết khổ.

Chúng ta sở dĩ khổ là vì không an phận với cái hiện có của mình. Thí dụ mình nghèo thấy người ta giàu mình có khổ không? Mình muốn giàu mà lỡ nghèo nên mình khổ; nếu mình an phận chấp nhận cảnh nghèo, tiền nhiều xài nhiều tiền ít xài ít, có ngon ăn ngon, có dở ăn dở, chấp nhận nếp sống thanh bạch thì hết khổ. Một thí dụ khác, giả sử mình được chút phước báu, sinh ra có dáng dấp đẹp đẽ, mình hãnh diện với cái đẹp đó. Mai kia tuổi già suy yếu, da nhăn má hóp, thân hình mình xấu xí thì buồn. Vì trước mình chấp mình đẹp nên vui, bây giờ thấy mình xấu nên khổ. Còn nếu mình không được phước báu, sanh ra thân hình xấu ngay từ đầu thì khổ dài dài, khổ không có ngày ra! Cho nên càng chấp đẹp chấp xấu càng khổ, không chấp hai bên là hết khổ. Chư Tổ dạy chúng ta đừng dính hai bên là hết khổ. Đây là lẽ thực, mà lẽ thực này giúp chúng ta thoát khỏi vòng trần lụy khổ đau.

HỎI: Thưa Thầy:

1. Niệm khởi là sanh diệt, sao Thiền sư Huyền Giác lại nói “phân biệt không phải ý” hoặc “cũng biết vui buồn nhưng đừng để cái nọc độc vui buồn thấm vào chân tâm” như vậy có mâu thuẫn không?

2. Biết vọng không theo đã đầy đủ giới định huệ tự tánh, xin Thầy từ bi giảng cho con được rõ.

3. Sáu cửa vào động Thiếu Thất có nói: Đừng vác Phật đi tìm Phật, chúng con chưa được rõ xin Thầy từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: 

1. Phật tử này hiểu lầm cái phân biệt của ý và phân biệt tốt xấu, hơn thua, phải quấy đó là phân biệt của ý. Còn phân biệt không phải ý, tôi thường lấy ví dụ có một tấm gương soi, như bây giờ quí Phật tử nhìn lên đây, bàn tay tôi là tấm gương, thì quí Phật tử sẽ thấy hình bóng của quí vị, mà hình bóng ấy là một khối hỗn độn hay là người nào ra người đó? Nếu bóng của người nào ra người nấy thì đó là phân biệt hay không phân biệt? Thấy rõ trắng ra trắng, đen ra đen mà không phân biệt cho nên Thiền sư Huyền Giác nói phân biệt mà không phải ý.

2. Nếu đầy đủ giới định huệ tự tánh như đức Lục Tổ thì khỏi cần biết vọng không theo. Còn nếu giới định huệ chỉ ở ngoài miệng thì đừng theo vọng tưởng.

3. Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất nói: Đừng vác Phật đi tìm Phật là thế này. Vì bấy lâu nay chúng ta thường nghĩ rằng Phật là những vị Phật ở thế giới Cực lạc hoặc ở những thế giới khác, cho nên khởi niệm mong mỏi tìm cho gặp Phật. Nhưng với tinh thần của “Sáu cửa vào động Thiếu Thất” của tổ Bồ Đề Đạt Ma thì “tức tâm tức Phật”, ngay nơi tâm mình đã là Phật, mình phải xoay lại sống với tâm bất động của mình. Tâm mình đã là Phật rồi mà đi tìm Phật ở ngoài nữa là vác Phật đi tìm Phật. Vậy phải xoay lại, nhận rõ tự tâm mình tức Phật là đủ rồi chứ đừng đi tìm đâu khác.

HỎI: Thưa Thầy, con đọc kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ dạy vô niệm, vô là không có hai tướng, không có các tâm trần lao, niệm là niệm chân như bản tánh. Còn từ vô niệm của pháp môn Tịnh độ theo con hiểu là không còn niệm. Vậy cùng là một danh từ nhà Phật mà khi dùng khác nhau thì làm sao giảng trạch cho đúng để người hành một cách phổ thông?

ĐÁP: Đức Lục Tổ nói vô niệm là không có hai tướng đối đãi, không có các tâm trần lao, vì hai tướng không thật nên người tu không nên kẹt trong hai tướng. Tâm trần lao là tâm phiền não, hơn thua, phải quấy v.v… Tất cả những cái đó không có thì gọi là vô. Còn niệm là niệm chân như bản tánh. Chữ niệm thường được hiểu là niệm khởi, phàm những ý nghĩ dấy lên nơi tâm gọi là niệm khởi, còn chân như Phật tánh có dấy lên không? – Không. Vậy niệm chân như Phật tánh là niệm làm sao? Chữ niệm có nghĩa là dấy lên mà cũng có nghĩa là nhớ. Bây giờ chúng ta hằng nhớ chân như Phật tánh của mình thì đó là niệm chân như Phật tánh, nghĩa là không chạy theo vọng tưởng mà nhớ mình đang tỉnh đang sáng, đó là niệm chân như Phật tánh. Như vậy, niệm chân như với vô niệm bên Tịnh độ hơi khác một chút, hai bên tùy chỗ ứng dụng chớ không phổ thông được. Học chỗ nào hiểu đúng chỗ ấy chớ không có cái chung cho tất cả.

HỎI: Kính xin Thầy hoan hỷ giảng giải cho chúng con được rõ:

1. Ngài A-nan tu thế nào mà chỉ một đêm ngộ đạo?

2. Thế nào là kinh vô tự, là pháp vô vi?

3. Thiền chuyển luân xa có phải là kinh vô tự, kinh bạch tự, là pháp vô vi không?

ĐÁP: 

1. Sau khi Phật nhập diệt, ngài Ca Diếp triệu tập chư Tỳ-kheo trùng tụng lại lời Phật dạy gọi là kiết tập lời Phật dạy, vị nào chứng A-la-hán mới được vào hội, vì người chưa chứng quả có thể lầm lộn làm mất giá trị của kinh. Lúc đó, ngài A-nan chưa chứng A-la-hán nên không được vào, Ngài buồn nên ra ngoài ngồi thiền suốt đêm, đến gần sáng Ngài chứng quả A-la-hán.

Chỗ này tôi cho một ví dụ để quý vị hiểu. Có một trái xoài chín đang lơ lửng trên cây, một ngọn gió thổi qua trái xoài rụng xuống. Vậy trái xoài mới chín rụng hay đã chín từ trước rồi? Từ khi thành hình trái xoài nhỏ xíu, rồi lần lần lớn đến già đến chín và chỉ cần luồng gió thổi qua là trái xoài rụng. Cũng vậy, ngài A-nan theo Phật hai mươi lăm năm làm thị giả, Ngài tu đã thuần thục nên đêm sau cùng Ngài dốc toàn lực tu liền chứng A-la-hán, đây là đêm sau cùng của một giai đoạn chớ không phải mới bắt đầu.

2. Nói kinh vô tự là pháp vô vi là một lối nói. Cũng như nói Bát-nhã tâm kinh. Vậy tâm kinh là kinh nào? Tâm kinh là chỉ cho tất cả lời Phật dạy đều hướng về tâm của mình mà tu, cho nên tu là tu ở tự tâm, ngộ cũng ngộ ở tự tâm, mà tâm mình có chữ có lời không? – Không chữ không lời, nên nói kinh vô tự tức là tâm.

3. Còn pháp vô vi, ở đây quí vị đừng hiểu lầm chữ vô vi trong nhà Phật. Phật nói: Phàm cái gì có tướng sanh, trụ, dị, diệt gọi là pháp hữu vi, tức là có sinh ra, tồn tại một thời gian hoại đi. Cái nào không sanh, ko trụ, không diệt gọi là vô vi. Như thân chúng ta có sinh, có già, có bệnh, có chết là hữu vi. Tánh giác chúng ta không già, không chết là vô vi. Vô vi là chỉ cho tánh giác, chớ không phải chuyển luân xa là vô vi.

HỎI: Thưa Thầy, trong kinh Kim Cang có câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” con chưa hiểu rõ ràng, kính xin Thầy chỉ dạy.

ĐÁP: Kinh Kim Cang ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật: “Làm sao an trụ tâm, làm sao hàng phục tâm để đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?”. Đức Phật dạy: Muốn hàng phục tâm, muốn an trụ tâm thì không nên có chỗ trụ. Kinh nói rõ: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Nghĩa là muốn hàng phục tâm để được đạo Bồ-đề thì đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không nên dính mắc. Sáu căn không dính mắc với sáu trần thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì giác ngộ giải thoát.

HỎI: Thưa Thầy, trong kinh Kim Cang có câu: “Tu-bồ-đề, Bồ-tát ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí, sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp bố thí”. Vậy “bất ưng trụ pháp bố thí” nghĩa là gì? Kính xin Thầy giảng giải cho con được rõ.

ĐÁP: Chữ pháp đây thuộc về pháp trần, tức là bóng dáng khởi nghĩ ở tâm mình, nghĩ về người thì bóng người hiện ra, nghĩ về vật thì bóng vật hiện ra, nghĩ thành phố thì thành phố hiện ra. Pháp trần đó có tên hoặc người, hoặc vật, hoặc thành phố v.v… thuộc về sự.

Trong kinh Phật dạy: Bồ-tát không trụ pháp nghĩa là không dính với tất cả những cái có danh tự hình tướng bên ngoài, tức không dính với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì tâm không loạn động, mà không động tức là không trụ, không trụ mà trụ. Cho nên hỏi làm sao an trụ tâm thì trả lời không dính với sáu trần là an trụ.

Nói sáu trần hơi nhiều, chỉ không dính với sắc và thanh thôi; thấy sắc đẹp không đắm mê, thấy sắc xấu không chán ghét, nghe tiếng khen không mừng, nghe tiếng chê không giận, không dính mắc thì tâm không rối. Tu như vậy rất thực tế, rất dễ không có gì huyền bí, mà hết khổ ngay trong hiện tại.

HỎI: Cùng cây gậy, phàm phu cho các cây gậy là thật, khởi tâm phân biệt tốt xấu, to nhỏ; Nhị thừa cho cây gậy là không, vô thường sẽ mục nát hư hoại; Duyên giác cho đó là huyễn có do nhân duyên sanh; Bồ-tát cho nó đương thể nên nói không; Thiền gia thấy cây gậy là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến, không để khái niệm chen vào tức là trực diện đối cảnh không tâm, không khởi niệm. Kính xin Hòa thượng khai thị thêm giữa cái nhìn của Thiền sư và Bồ-tát.

ĐÁP: Trong cuốn “Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ 20” tôi có dẫn câu chuyện này, cái nhìn của Thiền sư và cái nhìn của Bồ-tát khác nhau chỗ nào? Bồ-tát thì thấy đương thể tức không, còn Thiền gia thấy cây gậy là cây gậy. Đây là căn cứ trên giáo lý. Trong giáo lý Phật có chia làm ngũ thừa mà thừa cuối là Bồ-tát thừa. Phật chia từng bậc tu và từng pháp riêng của mỗi bậc, như ngũ giới cho người tại gia, Sa-di giới cho người xuất gia, rồi đến hàng Thanh văn quán tứ đế, Duyên giác quán nhân duyên. Có pháp tu, có pháp quán là còn mượn phương tiện. Thiền Tông thì không mượn phương tiện, mà trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật. Không mượn phương tiện thì không dùng pháp quán. Bồ-tát quán sâu lý Bát-nhã nên vừa thấy sự vật là biết đương thể tức không, nó không có thật, thấy rõ khỏi cần quán xét, thấy người biết không thật, thấy vật biết không thật, nghe tiếng biết không thật thì đâu có nhiễm cái gì, không nhiễm thì tâm không động. Như vậy, thấy các pháp đương thể tức không thì tâm bình an, tâm bất động phải không? Bây giờ Thiền gia thấy cây gậy là cây gậy, không khởi một niệm thì tâm cũng an, cũng bất động. Nhưng một bên dùng giáo lý Phật để quán, khi quán thuần thục thì mới tới chỗ bất động, còn nhà Thiền đi thẳng, các niệm khởi đều là bệnh, đều là mê, cho nên không chạy theo niệm khởi, không niệm khởi thì tâm như như, tâm như như thì thấy cây gậy là cây gậy, khỏi cần quán gì hết.

Vậy, đứng về mặt phương tiện thì có khác, khác ở chỗ: Bên dùng pháp quán và bên không theo vọng tưởng, không khởi niệm. Bên dùng pháp quán thì tâm không dính trần cảnh, bên không theo vọng tưởng, không khởi niệm cũng không dính với cảnh. Như vậy, đứng về mặt tâm như như thì không khác nhau.

HỎI: Kính bạch Thầy, xin Thầy từ bi giải cho con những nghi vấn sau đây:

1. Phật tánh, giác tánh, linh hồn, tâm hồn, tâm thức khác nhau như thế nào? 

2. Phật giáo có phủ nhận linh hồn không?

3. Nếu Phật giáo phủ nhận linh hồn thì cái gì tái sanh luân hồi khi thân tứ đại này tan rã?

4. Nếu không có linh hồn thì có giác linh không?

ĐÁP:

1. Phật tánh và giác tánh không khác nhau. Tại sao? Vì Phật và giác gốc từ chữ Buddha của Ấn Độ, đọc âm là Phật đà, Trung Hoa dịch nghĩa là giác giả. Nói giác tánh hay Phật tánh cũng cùng một nghĩa, một bên đọc theo âm Ấn Độ, một bên đọc theo nghĩa Trung Hoa.

Linh hồn, tâm hồn, tâm thức có khác nhau không? – Tâm hồn chỉ là một lối nói thôi, còn linh hồn và tâm thức thì có khác nhau. Linh hồn là từ ngữ mà xưa nay các nhà Nho và tổ tiên chúng ta thường dùng. Linh là sáng, hồn là thực thể của tinh thần, linh hồn là ý nói cái hồn sáng suốt không mất, không đổi thay. A là A mãi mãi chớ không thể đổi cái linh hồn đó thành cái gì khác.

Còn tâm thức là tâm phân biệt, hiểu biết. Linh hồn và tâm thức khác nhau ở chỗ linh hồn sáng suốt mà không thay đổi, còn thức thì phân biệt đổi thay, do vậy mà Phật không chấp nhận chữ linh hồn. Bây giờ quí vị tự kiểm nghiệm lại tâm mình xem, những cái mình hiểu biết đổi thay hay là thủy chung như nhứt? – Hồi nhỏ cái hiểu của mình khác, lớn lên hiểu khác, có đi học hiểu khác, không học hiểu khác, tâm thức mình trăm ngàn thứ đổi thay, có tâm thức ác, có tâm thức thiện, có tâm thức mê muội, có tâm thức sáng suốt. Nếu gặp duyên tốt khéo sửa đổi thì dần dần nó tốt, gặp duyên xấu lôi kéo theo chiều hướng xấu dần thì dần dần xấu. Như vậy nó là cái dòng chuyển biến nên mình muốn cho nó chuyển biến theo chiều tốt mình mới tu. Còn linh hồn là cái nguyên vẹn thì không tu được. Cho nên chấp linh hồn là một điều sai lầm, do cái chấp đó mà người không có ý niệm tu hành để chuyển biến. Quí vị đã thấy cái khác biệt nguy hiểm đó chưa?

2. Nhà Phật không thừa nhận linh hồn bởi những lý do nêu trên.

3. Sự tái sanh luân hồi khi thân tứ đại tan rã là sự việc mà lâu nay ai cũng thắc mắc, thường người ta nghĩ rằng linh hồn đi đầu thai, mà nếu linh hồn đầu thai thì con người khi ra đời sẽ hoàn toàn sung sướng hết, bởi vì người có cái linh là sáng suốt thì phải lựa chỗ tốt để đến, nhưng thực tế có người sướng người khổ thì không có linh. Đạo Phật không thừa nhận linh hồn thì cái gì đi tái sanh? – Nhà Phật nói nghiệp thức dẫn đi tái sanh, chớ không nói linh hồn. Tại sao vậy? – Nghiệp là thói quen, thức là cái biết phân biệt; cái biết phân biệt theo thói quen nó dẫn mình đi tái sanh. Nếu huân tập thói quen tốt thì nó dẫn mình đến chỗ tốt, huân tập thói quen xấu thì nó dẫn mình đến chỗ xấu. Ví dụ người có thói quen uống rượu thì tìm tới quán rượu, người có thói quen đánh bạc thì tìm sòng bạc. Như vậy, sự huân tập nó thành một sức mạnh, cho nên Phật dạy muốn dứt sanh tử thì phải sạch vọng niệm. Vì còn khởi niệm thì còn theo nghiệp để tái sanh. Chính cái nghiệp thức này dẫn đi tái sanh chớ không phải linh hồn, nếu sạch vọng niệm (hết nghiệp) thì hết sanh tử.

4. Nếu không có linh hồn thì có giác linh không? – Trước tôi đã nói hết nghiệp thức thì hết tái sanh, hết tái sanh thì còn cái gì? – Còn hòn ngọc ma ni mà tôi đã nói, bởi vì hết mê thì giác, tất cả cái mê đều hết sạch thì lúc đó toàn giác.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, Niết-bàn và vô sanh là đồng nghĩa hay khác? Xin Hòa thượng chỉ dạy cho con.

Tất cả kinh luật từ kim khẩu của Phật nói ra do ngài A-nan trùng tuyên lại, mà sao trong kinh Pháp Hoa nói Phật nhờ Đề-bà-đạt-đa Ngài mới được ngộ kinh Pháp Hoa?

ĐÁP: – Niết-bàn và vô sanh không hai, bởi vì vô sanh là không còn tái sanh nữa. Niết-bàn nguyên tiếng Phạn là Nirvana đọc âm là Niết-bàn, có nghĩa là không còn sanh tử nữa, Trung Hoa dịch là vô sanh, cho nên hai từ này đồng nghĩa.

– Tất cả kinh luật từ kim khẩu Phật nói ra, tại sao kinh Pháp Hoa nói Phật nhờ Đề-bà-đạt-đa mà ngộ được kinh Pháp Hoa?

Phật tử này hỏi thì phải hỏi thêm câu: Trong kinh Kim Cang nói: Kinh này là mẹ ba đời của chư Phật, vậy Phật nói hay ai nói? Trong kinh A-hàm thì Đề-bà-đạt-đa là người phá hòa hợp tăng, làm thân Phật ra máu, phạm tội ngũ nghịch phải đọa không thể cứu. Nhưng kinh Pháp Hoa nói Đề-bà-đạt-đa là người ân của Phật, là thiện hữu tri thức cỡ lớn. Nhờ “thiện hữu tri thức” này mà Ngài được kết quả là ngộ kinh Pháp Hoa. Chính chỗ này tôi nói kinh Đại thừa là một sức mạnh phi thường.

Thường chúng ta tu hay sợ bị phá, nên phải học một câu chú hay thỉnh một lá bùa để ếm quỉ trừ ma. Người tu như vậy quá nhát, không hiểu đạo lý. Quí vị nhớ, lúc Phật ngồi Thiền dưới cội bồ đề, khi bị ma vương phá Ngài có dùng câu chú, là bùa nào không? – Trong kinh thường nói Ngài dùng kiếm trí tuệ, cung Thiền định để trị ma quân. Ngày nay chúng ta tu, không chịu dùng trí tuệ, cứ kiếm bùa chú để trị là trái với Phật rồi. Ở đây đức Phật thành đạo, ngoài những ân nhân thí chủ giúp đỡ Ngài, mà còn nhờ Đề-bà-đạt-đa gây đau khổ cho Ngài, ngai đây Ngài vươn lên nên sớm thành đạo. Nhờ Đề-bà-đạt-đa mà Ngài sớm thành đạo mới ngộ được Pháp Hoa. Nói Đề-bà-đạt-đa dạy kinh thì không phải, mà do tạo điều kiện cho Phật vươn lên để vượt qua thử thách mà thành đạo. Hiểu như vậy quí Phật tử mới thấy an ổn. Giả sử có ai tìm cách này cách kia phá, quí Phật tử đừng buồn đừng giận mà phải thấy người đó là ân nhân số một của mình. Nghĩ được như vậy thì trên đời này người giúp đỡ mình là ân nhân, người phá mình cũng là ân nhân, thì cả thế gian này ai cũng là ân nhân. Mọi người chung quanh đều là Bồ-tát, Bồ-tát cỡ nhỏ thì giúp đỡ mình, Bồ-tát cỡ lớn thì làm khổ mình. Hiểu vậy thì không bao giờ buồn phiền ai cả. Quí vị thấy chỗ đạo đức rất là thâm sâu, rất là tế nhị. Cho nên thấu được lý kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy quá hay, quá cao siêu, tinh thần của kinh Đại thừa là một sức mạnh để mình vươn lên chớ không phải để trốn tránh cầu xin.

HỎI: Kính xin Hòa thượng giải thích câu: “Nhị đế dung thông tam muội ấn. Nhị đế là gì? Tam muội ấn là gì? Sử dụng tam muội ấn để làm gì?

ĐÁP: Trong kinh chúng ta thường ngày có câu: Nhị đế dung thông tam muội ấn. Nhị đế trong nhà Phật là chân đế và tục đế, hay nói đủ là thế tục đế và chân đế.

Thế tục đế là chỉ cho những lẽ thực mà người thế gian chấp nhận. Chân đế là lẽ thực đúng chân lý chỉ có người giác ngộ mới thấy. Chúng ta tu thường hay bị kẹt đây là thế tục đế, kia là chân đế. Chân và tục có hai lãnh vực riêng. Thí dụ tôi xuất gia, quý đạo hữu tại gia, thì tại gia là thế tục, xuất gia là tu hạnh giải thoát. Nhưng nói như vậy chỉ trúng một phần nào thôi chớ không phải chân lý. Nếu quý đạo hữu ở thế tục mà tâm quí vị hằng ngày sống thanh tịnh, còn xuất gia như chúng tôi mà nghĩ chuyện lợi, chuyện danh v.v… thì sao? Ai là giải thoát?

Vậy thế tục có hẳn là thế tục suốt kiếp không? Xuất gia có hẳn là xuất thế thật không? – Chỉ là ngôn từ thôi chớ chưa đúng lẽ thật. Cho nên người hiểu đạo không dính hai bên, không kẹt thế tục cũng không kẹt chân đế, hai bên đều dùng hợp nhau thì đó là “nhị đế dung thông tam muội ấn”. Cái ấn chánh định là hai đế hợp nhau chớ không có tách rời.

Tam muội ấn là thế nào? – Ấn là con dấu như dấu ấn, dấu tam muội. Trong nhà Thiền thường hay nói truyền tâm ấn, tức là tâm của thầy và tâm của đệ tử khế hợp nhau gọi là truyền tâm ấn, tức là tâm người thầy tâm người trò in nhau, không sai biệt. Tam muội ấn tức là ấn chánh định, mà muốn chánh định viên mãn thì phải dung thông hai đế.

Câu chót hỏi sử dụng tam muội ấn để làm gì? Xin trả lời: Sử dụng tam muội ấn để thành Phật.

HỎI: Ngài Huệ Năng nghe giảng kinh Kim Cang, Ngài thốt lên: Đâu ngờ! Đâu ngờ!v.v… Đệ tử chẳng dám nghi ý Tổ, nhưng vẫn còn mờ mịt, xin Thầy cho vài ví dụ để con được sáng thêm.

ĐÁP: Cái chuyện: Đâu ngờ v.v… của Lục Tổ, đọc tới đó Phật tử này thấy mờ mịt là vì Ngài ngộ mới thốt lên “Đâu ngờ v.v…”, Phật tử này đâu có ngộ nên mờ mịt là lẽ đương nhiên. Ví dụ, trong nhà có một món đồ quý, chủ nhà cất mà không nhớ chỗ, bây giờ muốn lấy ra xài, nhưng không biết ở đâu để lấy, cứ loay hoay tìm hoài, bất thần tìm được, họ la lên: A! Đây rồi. Khi họ la lên, người ngoài cuộc lúc đó có biết họ mừng cái gì không? – Đâu biết, vì đó là chuyện họ tìm, gặp được họ mừng, còn mình không tìm không gặp làm sao mình mừng như họ. Tôi tạm thí dụ cho Phật tử này hiểu. Chúng ta tu mà không nghĩ phải tìm cho ra cái chân thật của mình, cứ tu cho có phước, tụng kinh cho có phước v.v… cứ làm mấy việc đó thôi, đâu có thắc mắc thì đâu có tìm, đâu có tìm thì đâu có “Đâu ngờ!”.

HỎI: Trong kinh Kim Cang, Phật nói: “Nếu nói Như Lai nói pháp tức là phỉ báng Phật, không thể hiểu nghĩa ta đã nói”. Thầy giảng đức Phật có ngũ nhãn, dùng thiên nhãn thấy trong bát nước có vô số vi trùng, nhìn những ngôi sao biết đó là những thế giới nên Ngài nói hằng hà sa thế giới. Phật nói là thấy từ lẽ thật mới nói ra, muôn đời là thực, không ai chối cãi được. Luận cũng nói lời Phật nói cả ba thời đều chân thật không hư dối. Con chưa hiểu rõ hai ý này. Xin Hòa thượng chỉ dạy. 

ĐÁP: Lời Phật nói là lời chân thật. Tại sao dám xác định đó là lời chân thật? – Vì Phật tu tâm thanh tịnh, trí tuệ sáng thấy sự việc rõ ràng, không nghi ngờ Ngài mới nói ra. Nghe lời Phật dạy, hằng ngày chúng ta tư duy nghiệm lại mọi sự việc chung quanh, chúng ta thấy nó diễn biến đúng như lời Phật dạy. Thí dụ Phật nói các pháp là vô thường. Nhìn sự vật chúng ta thấy nó sanh diệt đổi thay không dừng, không có vật nào cố định hằng hữu, trước sau như một. Rõ ràng các pháp là vô thường. Phật nói các pháp do duyên sanh. Nhìn cái nhà đang xây cất, chúng ta thấy thợ dùng đá, cát, xi măng, sắt, gạch v.v… xây thành cái nhà. Rõ ràng cái nhà do các duyên vừa kể mà thành, chớ không tự có. Đó là lẽ thật do Phật thấy biết nói ra được ghi thành tạng kinh. Nhưng kinh Kim Cang lại nói: Nếu nói Phật nói pháp là phỉ báng Phật. Vì vậy mà Phật tử này thắc mắc. Đây tôi giảng trạch cho quí vị hiểu. Tinh thần kinh Kim Cang là tinh thần phá chấp, nghĩa là Phật dạy tu mà không dính mắc một pháp nào. Phá chấp mà Phật nói lời nói của ta là chân lý, thì đó là dạy người ta chấp rồi, cho nên Phật dạy tất cả tướng từ thân tứ đại cho đến tất cả các pháp, không có một pháp nào thật kể cả lời nói của Phật cũng không thật luôn. Vì nếu chấp lời nói của Phật là kẹt trên ngôn ngữ rồi. Còn nếu nghe Phật nói những lời đó không thật, mình tin có được không? Chỗ này phải hiểu cho rõ! Ví dụ, như đêm mồng ba mồng bốn có trăng non lưỡi liềm, người mắt tỏ nhìn thấy, người mắt mờ nhìn không thấy. Người mắt tỏ lấy tay chỉ về hướng có trăng lưỡi liềm, người mắt mờ nhìn theo ngón tay, cố nhướng mắt lên và thấy được trăng. Vậy ngón tay chỉ đó có phải mặt trăng không? – Không. Nếu không có ngón tay chỉ thì có thấy mặt trăng không? – Không. Nếu chưa thấy mặt trăng mà bỏ ngón tay chỉ được không? Thấy mặt trăng rồi mà chấp ngón tay là mặt trăng được không? – Không. Lời Phật nói dụ cho ngón tay chỉ mặt trăng chớ không phải mặt trăng. Cũng vậy, chân lý không phải nhờ ngôn ngữ mới thấy chân lý.

HỎI: Chính đức Phật Thích Ca giới thiệu Cực lạc quốc của Phật A-di-đà ở Tây phương trang nghiêm bằng bảy báu, có chim nói pháp, người ở cõi này ăn cơm ngọc, mặc áo châu. Nhưng Lục Tổ lại nói: Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu về phương Tây, còn người phương Tây tạo tội niệm Phật cầu sanh về cõi nào? Lời Phật Tổ không trái nhưng con chưa hiểu thấu đáo hai ý này. Xin Hòa thượng giảng dạy.

ĐÁP: Câu hỏi này rất hợp lý, bởi vì hai chỗ dạy:

Phàm phu không rõ tự tánh, không biết tự tâm tịnh độ, nguyện đông nguyện tây, người ở chỗ nào cũng vậy. Kinh Di Đà dạy niệm Phật về Cực lạc có cõi thanh tịnh, còn Lục Tổ thì nói tánh mình thanh tịnh, trở về tự tánh thì đủ hết, khỏi nguyện đi đâu xa. Hai ý đó mới nghe dường như mâu thuẫn, vì chúng ta không thông phương tiện của Phật, Tổ. Phật, Tổ khi giảng kinh thuyết pháp là tùy theo căn cơ của chúng sanh. Đối với những người không có khả năng ngộ được tự tánh thì đức Phật dạy niệm Phật, Ngài diễn tả cảnh Cực lạc đẹp lắm, về đó tất cả đều như ý cho mình ham thích mà cố gắng niệm. Nhưng cái trọng tâm Phật dạy là niệm đến chỗ nhất tâm bất loạn ít nhất là một ngày mà nhất tâm bất loạn là trở về tự tánh rồi. Phật diễn tả cõi Tây phương Cực lạc là phương tiện dẫn dụ người căn cơ yếu cho họ tiến tu.

Còn Tổ nói tâm mình tịnh thì cõi nước đó tịnh, mà tâm mình thanh tịnh thì sanh đâu cũng thanh tịnh, đó là Cực lạc rồi. Như vậy hai bên trọng tâm không khác, nhưng phương tiện có khác.

HỎI: Trong Kinh có câu: Một cơn sân nổi lên đốt cháy cả rừng công đức, xin Thầy cho thí dụ như thế nào mà đốt tiêu cả rừng công đức?

ĐÁP: Tôi lấy ví dụ trong chùa cho dễ hiểu. Thí dụ, có ông thầy tu ở Thường Chiếu, tu được năm mười năm tích công bồi đức cũng khá, nhưng hôm nào đó, thầy trụ trì hay thầy tri sự rầy la ổng một trận, ổng nổi sân lên, bỏ chùa hoàn tục, trả y áo lại trở về nhà thì công đức còn không? Bao nhiêu công đức bồi đắp lâu nay tiêu tan hết. Và một thí dụ ngoài đời. Có một Phật tử làm việc từ thiện được nhiều người mến thương. Một hôm, trong ban tổ chức từ thiện có người làm phật ý, Phật tử này nổi sân nói năng thô lỗ làm mích lòng mọi người rồi bỏ không đi làm từ thiện nữa. Bao nhiêu công đức vun bồi lâu nay tiêu tan hết. Sân giận là tai họa lớn làm tan hoang hết mọi công đức lành, nên Phật dạy tu phải dè dặt đừng để sân giận nổi lên.

HỎI: Tổ Lâm Tế nói sáu thời hành đạo vẫn là nghiệp, hoặc đem đầu mặt tủy não, vợ con đất nước, voi ngựa bảy báu hoàn toàn thí xả, hành động như thế đều làm khổ thân tâm, lại chuốc quả khổ. Tổ nói điều này có mâu thuẫn với việc thái tử Tu-đại-noa trong tiền kiếp của Phật bố thí vợ con voi ngựa không? Kính xin Thầy giảng cho con được rõ.

ĐÁP: Chỗ này tôi xin giải thích rõ. Quí vị có biết chư Tổ hướng về cái gì để dạy chúng ta không? – Hướng về tâm. Tâm là cái thân thiết nhất, cụ thể nhất mà mình quên, tất cả những việc bố thí làm lợi ích cho mọi người, về mặt hình thức thì được phước, bảo đảm được phước một trăm phần trăm, nhưng mà phước đó nằm trong sanh diệt. Vì hình tướng sanh diệt nên nó không quý, không quan trọng bằng cái tâm chân thật bất sanh bất diệt có sẵn nơi mình. Tất cả những hành động bên ngoài như tu khổ hạnh, bố thí của cải v.v… cũng chỉ là cái phước, mà phước là cái tùy theo thời biến đổi vô thường, còn cái tâm chân thật thì không vô thường, không biến đổi. Cho nên Tổ nhắm vào cái chân thật mà nói, hướng chúng ta trở về cái chân thật. Còn Phật tu hạnh Bồ-tát đủ tất cả công đức để viên mãn đạo hạnh và Ngài thành Phật. Vì vậy nên Tổ ngộ được tâm chớ chưa thành Phật, còn Phật thì vừa ngộ được tâm, vừa làm được lợi ích cho tất cả nên gọi Ngài là tự giác giác tha viên mãn. Chỗ khác nhau giữa Phật và Tổ là một bên thì đủ hết các hạnh rộng rãi để cho mọi người hành theo, còn một bên là thuộc về chuyên môn.

HỎI: Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch nói với một vị tăng: Ngươi hiểu còn ở cảnh – Tín vị là phải, nhân vị thì chẳng phải. Kính xin Thầy từ bi giảng dạy cho con hiểu tín vị và nhân vị. Phần đoạn sanh tử là do vọng tâm của phàm phu, như vậy phần đoạn của hàng Nhị thừa và Bồ-tát khác nhau ra sao? Và Bồ-tát tu chứng đến quả thứ mấy mới đoạn được biến dịch sanh tử.

ĐÁP: Tín là tin, vị trí đó chỉ có ở lòng tin chớ chưa đạt đến trí tuệ viên mãn, cho nên gọi là tín vị. Còn nhân vị là chỉ chỗ mình đạt được, mình đến được nên gọi là nhân vị.

Tín vị là mới đủ lòng tin đối với cảnh thấy được, mà cảnh là còn ở bên ngoài, vì còn bên ngoài nên thuộc lòng tin. Khi nào đến cái thực là cái của chính mình thì gọi là nhân vị.

Phần đoạn sanh tử là chết từng phần từng đoạn, vì nó sanh từng phần từng đoạn nên nó chết từng phần từng đoạn. Trong kinh nói nếu hàng Nhị thừa chưa chứng quả A-la-hán thì còn tái sanh tức còn phần đoạn sanh tử, còn Bồ-tát đang hành đạo thì Bồ-tát vẫn mang thân phần đoạn sanh tử để làm đủ công hạnh Bồ-tát của mình cho đến khi nào chứng Phật quả mới hết phần đoạn sanh tử.

Còn hai bên phàm phu và Thanh văn, Bồ-tát thân phần đoạn sanh tử khác nhau chỗ nào? – Khác nhau ở chỗ phàm phu mang thân này do nghiệp dẫn, Bồ-tát cũng mang thân nhưng Bồ-tát do nguyện lực dẫn, còn Thanh văn nhờ đã đủ lòng tin nên sanh ra để tiến tu thêm. Tức là tu từ Tu-đà-hoàn đến quả A-la-hán. Trong thời gian tu chưa viên mãn thì tái sanh để tiếp tục tu thêm chớ không thối chuyển nên không phải do nghiệp dẫn như chúng ta.

HỎI:

1. Y bát từ Tổ A-nan truyền trao đến sau này có phải là y bát của tổ Ca Diếp không? Sau khi truyền y bát cho ngài A-nan thì tổ Ca Diếp vào núi Kê Túc nhập định chờ đến khi đức Phật Di Lặc ra đời mới xả định để giao y bát của đức Phật Thích Ca. Bạch Thầy có phải vậy chăng? Nếu tổ Ca Diếp tịch thì sao không thấy đệ tử thờ nhục thân Ngài như Lục Tổ Huệ Năng?

2. Trong thời Tổ thứ mười lăm là ngài Ca-na-đề-bà, có một vị Tỳ-kheo luân hồi thành cây nấm để trả nợ cho một vị thí chủ. Con chỉ hiểu luân hồi trong lục đạo là hữu tình chúng sanh có Phật tánh. Vậy vô tình chúng sanh cũng có Phật tánh nữa sao?

ĐÁP: 

1. Đây là cái nghi của người nghiên cứu kinh, hỏi y bát sau này chư Tổ truyền trao từ ngài A-nan có phải của tổ Ca Diếp chăng? – Chỗ này cũng có nhiều người nghi, bởi vì tổ Ca Diếp được Phật dạy giữ y bát đợi đức Di Lặc ra đời truyền lại, như vậy y bát ngài A-nan nhận đó có phải của tổ Ca Diếp không?

Trong kinh có lời di chúc của Phật nhưng có chỗ nói ngài Ca Diếp tịch chớ không nói Ngài nhập định ở núi Kê Túc chờ. Hiện tại, chúng ta không có bằng chứng nào cụ thể để khẳng định tổ Ca Diếp đang ngồi chờ đức Phật Di Lặc ra đời để trao y bát. Trong sử chư Tổ thì nói tổ Ca Diếp truyền y bát lại cho tổ A-nan.

Phật tử này lại còn nghi nếu tổ Ca Diếp tịch thì được người sau thờ nhục thân như nhục thân của tổ Huệ Năng, tại sao không thấy? Điều này chúng ta chỉ thấy ghi trong kinh thôi, chớ các Tổ ở Ấn Độ tịch rồi phần nhiều thiêu chớ không để xác, cho nên nhục thân để thờ không có.

2. Trong đời Tổ thứ mười lăm ngài Ca-na-đề-bà, có một Tỳ-kheo luân hồi tái sanh thành cây nấm để trả nợ cho thí chủ. Vị Tỳ-kheo này tu hành tương đối cũng tốt nhưng ông thọ của thí chủ nhiều mà tu không sáng đạo, đến chừng ông tịch, ông mọc thành cây nấm cho vị thí chủ kia ăn, đến khi vị thí chủ đó chết thì nấm không mọc nữa vì đã trả hết nợ rồi. Vị Tỳ-kheo này nợ thí chủ nhưng có tu hành đàng hoàng, trong nhà Phật gọi đó là hoa báo chớ không phải quả báo. Hoa báo là quả báo tạm trong thời gian ngắn chớ không phải làm loài này loài kia cho tới mãn kiếp.

Trong kinh cũng thường nói tất cả chúng sanh hữu tình thì có Phật tánh nhưng có chỗ nói “tình dữ vô tình tề thành Phật đạo”. Tức là hữu tình vô tình đều có Phật tánh hết. Phật tánh tức là cái biết. Vậy chúng ta thấy cây cỏ nó có biết không? – Có chứ, nếu không thì làm sao nó kiếm chỗ có phân có nước nó hút, chỗ nào rập che nó tránh và kiếm chỗ qua. chứng tỏ loài vô tình có biết nhưng cái biết rất sơ sài, cái biết đó là hình ảnh chúng ta thấy nó cũng có tâm tánh chớ chẳng phải không? Nhưng vì quá sơ sài nên tưởng như không biết.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con có một thắc mắc là các bậc tu hành đều có trí sáng suốt, nếu đem trí sáng suốt đó chiếu phá sạch vô minh thì gốc vô minh còn hay mất. Kính xin Thầy từ bi giải đáp cho con.

ĐÁP: Nếu chiếu tận gốc thì vô minh hết, chưa tận gốc thì còn, cũng như đốn cây chặt phần trên của cây thì tàng cây ngã mà gốc chưa sạch. Vô minh cũng vậy, gốc vô minh là vi tế vô minh, phải cho sạch chỗ đó mới hết được.

HỎI: Phật tử tại gia tu hành có đạt đạo như người xuất gia không? Là Phật tử tại gia có phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không? Xin Thầy cho chúng con lời khuyên để chúng con lớn thêm niềm tin.

ĐÁP: Câu hỏi này có ba ý:

Ý thứ nhất: Phật tử tại gia tu hành có đạt đạo như người xuất gia không? Đây tôi trả lời hai mặt: Đứng về mặt giáo lý nguyên thủy mà nói thì người tại gia tu hành không chứng A-la-hán, chỉ chứng được đến quả A-na-hàm thôi. Còn đứng về mặt giáo lý Đại thừa hay Thiền tông thì tại gia hay xuất gia, nếu kiến tánh thì đạt đạo chứ không nhất thiết phải là người xuất gia.

Ý thứ hai: Phật tử tại gia hay xuất gia đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì là con Phật, phải nguyện thành Phật chớ không nguyện thành cái gì khác. Còn cư sĩ cũng phát nguyện thành Phật, nhưng tu chậm, muộn hơn người xuất gia. Hướng về Phật là đích nhắm cuối cùng của người xuất gia lẫn cư sĩ.

Ý thứ ba: Xin cho lời khuyên để vững niềm tin đầy nghị lực mà hành trì theo bản tâm. Tôi chưa biết bệnh thì làm sao cho thuốc, cho thuốc phỏng chừng e không trúng bệnh, nên tôi khuyên chung thôi. Tôi nghĩ quí Phật tử cũng có duyên lành khá sâu rồi, nên sớm thức tỉnh về nương Phật pháp mà tu hành. Biết thân này là cái không thể giữ được, tức là phải chết, mà chết rồi có hết hay không? –  Lúc đó theo nghiệp dẫn mà sinh nơi này nơi nọ. Đời người chỉ có mấy mươi năm thôi, còn thời gian chuyển kiếp dài lê thê không biết bao lâu. Nếu chúng ta chỉ biết lo cho mấy chục năm sống mà không lo cho thời gian dài kia là không sáng suốt. Tôi khuyên quí Phật tử biết tu nên nghĩ tới ngày mai mình phải tiến như thế nào chớ không dừng lại tại đây. Sống thì lo đã đành rồi, nhưng phải nhớ cái sống ngắn ngủi lắm, còn chuỗi thời gian dài kia chúng ta phải lo làm sao cho được sáng sủa. Tu là tạo cho mình điều kiện tốt để tâm hồn thanh thản, trí huệ sáng suốt. Biết rõ con đường đi của mình, đó là cái thiết yếu mà quí Phật tử phải thực hiện.

HỎI: Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói ngược bài kệ của Ngọa Luân, hai câu cuối của Ngọa Luân: “Đối cảnh tâm không khởi, Bồ-đề càng tăng trưởng”. Lục Tổ đổi lại: “Đối cảnh tâm thường khởi, Bồ-đề không tăng trưởng”. Như vậy ai tu hơn ai?

ĐÁP: Ông Ngọa Luân nói: ” Đối cảnh tâm không khởi, Bồ-đề càng tăng trưởng” hay quá mà sao Lục Tổ lại nói: “Đối cảnh tâm thường khởi, Bồ-đề không tăng trưởng”? – Nếu chúng ta không hiểu ý Tổ thì cho rằng Lục Tổ thua ông Ngọa Luân. Nếu hiểu ý Tổ thì không chê! Quí vị còn nhớ Tổ dạy ba mươi sáu pháp đối không? Ngài dạy: Người ta nói sáng thì lấy tối mà đáp, người ta hỏi trắng thì lấy đen mà đáp v.v… Cho người thấy tất cả pháp đối đãi là không thật, lấy cái này đáp cái kia để biết cả hai đều không thật. Ở đây Tổ lấy cái “thường khởi” đáp lại cái “không khởi” để chỉ cho ông Ngọa Luân thấy cái “không khởi” cũng là cái không thiệt. Còn thấy có thấy không đều là chưa đạt được lý đạo, cho nên lấy cái có mà đáp cái không để phá cái chấp “có, không”. Ông Ngọa Luân nói Bồ-đề thường tăng trưởng thì Ngài nói Bồ-đề không tăng trưởng, đó cũng là một vấn đề đối đãi để phá chấp. Vì thường tăng trưởng là có tăng trưởng, Tổ nói không tăng trưởng để phá cái có tăng trưởng, nhưng chỗ này sâu hơn. Tăng Ni và Phật tử thường chúc nhau: Bồ-đề tâm tăng trưởng. Nhưng Lục Tổ thì nói: Bồ-đề không tăng trưởng. Nếu Bồ-đề tăng trưởng thì Bồ-đề sanh diệt, mà sanh diệt thì chưa thật sự giác. Mới nghe qua thấy như đúng, nhưng mà sai! Vì chúng ta nói theo đối đãi. Tâm thể thanh tịnh sáng suốt là Bồ-đề, mà Bồ-đề thì bất sanh bất diệt. Bất sanh bất diệt thì làm gì có tăng trưởng? Chẳng qua chúng ta chúc tụng nhau là chúc trên ngôn ngữ do trí hữu sư hằng ngày học được từ thầy bạn sách vở mà tăng trưởng dần. Còn vô sư trí thì sẵn có, không tăng không giảm, Tổ chỉ thẳng trí vô sư là thể bất sanh bất diệt, cho nên Ngài nói không tăng trưởng. Ngọa Luân thấy chưa tới nguồn gốc nên nói tăng trưởng. Cũng như chúng ta chưa thấu suốt nguồn gốc cho nên chúc nhau Bồ-đề tâm tăng trưởng hoài!

HỎI: Bạch Hòa thượng trong kinh sách và quí thầy giảng, khuyên chúng con đừng có chấp ngã, nhưng con thấy khi tiếp xúc với người, cảnh thì cái bản ngã hiện hành ngay. Lúc ấy ai thấy, ai biết, ai nghe, ai cảm giác nóng lạnh? Chỉ có chính ta biết, ta thấy, ta nghe, ta cảm giác. Vậy cái ta lúc nào cũng hiện diện làm sao quên nó không chấp được. Kính xin Thầy từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Phật tử này quên ý nghĩa chữ ngã trong đạo Phật. Nó không phải là cái biết mà chúng ta thường biết. Theo Phật tử này không chấp ngã là không thấy, không biết, không nghe v.v… vì có thấy, biết… là có ta hiện diện. Phật tử này hiểu vô ngã sai rồi. Vô ngã là chỉ cho thân tâm này do tứ đại, ngũ uẩn hợp thành, nó không có chủ thể chỉ do duyên kết hợp tạm có. Vì do duyên kết hợp nên gọi là vô ngã, chớ không phải không có cái biết. Cái biết đó nó không phải là ta như mọi người tưởng. Người đời hay nghĩ nơi mình có cái linh hồn làm chủ, khi chết rồi cái linh hồn đó tiếp tục làm chủ đời sau v.v… Như vậy gọi là chấp ngã. Nếu quan niệm linh hồn cố định đời này thế nào đời sau thế ấy, không đổi thay thì tu làm chi? Sở dĩ tu là biết cái đó nó đổi thay nên tu để chuyển xấu thành tốt. Cái tâm xấu tốt, thiện ác, phải quấy v.v… đó trong nhà Phật gọi là tâm thức, cho nên tu để gạn lọc cái nào nên giữ, cái nào nên bỏ để hoàn thành tốt. Phật tử này hiểu cái Ta là thân này, tâm này không có chủ thể đó là đứng về mặt tương đối. Khi tu tới chỗ cứu kính tuyệt đối thì bản thể hằng hiện hữu không có hình tướng. Thân này có hình tướng, tâm dấy khởi cũng có hình tướng, hai cái đó đều là vô ngã tức là không có chủ thể, vì nó do nhiều thứ hợp lại. Thân này nói đơn giản là do đất, nước, gió, lửa hợp lại. Vậy cái nào là chủ? Còn tâm dấy khởi cũng cả trăm ngàn thứ buồn vui thương ghét v.v… cái nào là chủ? Không cái nào là chủ nên gọi là vô ngã. Chúng ta tu, không chấp ngã về thân, không chấp ngã về tâm, buông xả không dính mắc tất cả, chừng đó chủ thể chân thật hiện ra. Không chấp ngã là không chấp thân tứ đại này, không chấp cái tâm buồn vui giận ghét v.v… là ngã. Chớ không phải không chấp ngã là không có cái thấy, cái nghe, cái biết.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng tại sao Bát-nhã là mẹ của chư Phật. Kính xin Hòa thượng vì lòng từ bi chỉ dạy cho con tiến tu.

ĐÁP: Phật tử này đọc kinh Bát-nhã, kinh Kim Cang thấy nói kinh này là mẹ của chư Phật không hiểu nên hỏi. Quí vị có biết ai nói kinh Bát-nhã không? – Dạ Phật nói. Phật nói kinh Bát-nhã sao lại nói Bát-nhã là mẹ của chư Phật? – Quí vị chú ý trả lời câu tôi hỏi: Đức Phật dạy các pháp là vô thường. Vậy khi đức Phật nói kinh rồi các pháp mới vô thường hay trước khi Phật nói kinh các pháp vẫn vô thường? – Các pháp đã có từ thủy chí chung. Thái tử Tất-đạt-đa ra đời tu giác ngộ thành Phật thấy rõ các pháp là vô thường, cho nên Ngài nói các pháp là vô thường. Mà các pháp vô thường đã có trước Phật, Phật nhờ giác ngộ mà thấy rõ được lý vô thường. Như vậy có phải pháp vô thường có trước (là mẹ) Phật không? – Dạ phải. Cũng vậy, Bát-nhã là trí tuệ, trí tuệ thấy các pháp duyên hợp không thật, mà các pháp duyên hợp không thật đó đã có trước khi Phật nói, chớ đâu phải đợi Phật nói các pháp mới thành duyên hợp nên nói Bát-nhã là mẹ ba đời chư Phật là vậy. Từ trí đó mà Phật giác ngộ cho nên nói là mẹ Phật, cũng như nhờ mẹ mình mà có mình vậy.

HỎI: Xin Hòa thượng giải thích giùm con. Cổ đức dạy: “Thực tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp”.

ĐÁP: Câu này do ngài Quy Sơn Linh Hựu dẫn. Thực tế lý địa là cái chỗ chân thật, lý chân thật đó không dính một mảy bụi. Đó là chỗ mà Lục Tổ nói: “Bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai” (Xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi bặm). Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp là trong muôn hạnh không bỏ một cái gì hết. Nghĩa là chỗ cứu kính thì không dính một mảy bụi, nhưng trên phương tiện tùy duyên ứng dụng giáo hóa chúng sanh không bỏ một pháp nào cả. Tôi nói thí dụ trên cái thể chân thật thì không nói thiện ác, không có khổ không có vui, nhưng trên phương tiện có thiện có ác không, có khổ có vui không? – Có. Trên phương tiện đối đãi thì có khổ có vui, do đó thấy ai khổ mình giúp. Có tốt có xấu, xấu thì bỏ, tốt thì phát huy thêm. Cho nên đừng chấp lý mà bỏ sự (“thực tế lý địa” là lý, “vạn hạnh môn trung” là sự). Có nhiều người tu nghe lý đạo cao siêu hay quá, nghĩ thiện ác đều không có, không thật rồi cứ ăn chơi không làm gì hết. Hiểu như thế là sai. Quí Phật tử phải hiểu rõ ý câu này là dạy chúng ta đừng chấp lý bỏ sự và cũng đừng chấp sự bỏ lý, lý sự phải viên dung, hiểu lý mà hành sự.

HỎI: Đức Phật và các Thầy thường dạy: Chúng ta phải tự thắp đuốc lên để tự tu tập trên con đường giải thoát. Tự lực là chính mình, tha lực là phụ, nhưng sao bà Thanh Đề nhờ chú nguyện của chư tăng mà thoát khổ ngạ quỷ? Và trong Lương Hoàng Sám pháp sư tụng đến quyển thứ năm thì bà Hy Thị liền hóa kiếp mãng xà sanh về cõi trời? Như vậy sao là tự lực và tha lực?

ĐÁP: Câu hỏi này đa số Phật tử thắc mắc, tôi xin giải thích cho quí vị hiểu. Tha lực nó tùy thuộc vào tự lực chớ không có tha lực trọn vẹn. Ví dụ quí Phật tử tới nghe giảng rồi hiểu đạo, như vậy là tôi cho quí Phật tử hiểu hay là quí Phật tử tự hiểu? – Hòa thượng cho không được. Ở đây hai trăm người mà có người hiểu cạn, có người hiểu sâu? Vậy sự hiểu biết là do quí Phật tử. Nếu vị nào chú ý nghe thì hiểu rõ, không chú ý thì không hiểu, tôi không cho quí vị được. Hiểu biết là tự lực, nhưng nhờ tha lực mà hiểu. Cho nên Phật dạy thắp đuốc lên mà đi, nhưng phải thắp lên bằng chánh pháp. Chánh pháp là ngọn đuốc của Phật còn truyền lại, bây giờ phải phát huy trí tuệ của mình để mồi cho cây đuốc của mình sáng, nhờ mồi đuốc Phật mà sáng. Như vậy tự lực không rời tha lực.

Trường hợp bà Thanh Đề, quí vị phải hiểu: Khởi niệm ác thì hiện cảnh khổ, khởi niệm thiện thì sanh cõi lành. Bà đói, nhận được bát cơm mà không dùng được, thấy bát cơm bốc lửa cháy là vì bà khởi niệm tham lam bỏn xẻn lấy tay che sợ quỷ đói khác cướp lấy bát cơm của bà.

Quí vị nhớ, chư tăng mà ngài Mục Kiền Liên thỉnh tụng kinh cầu nguyện là những vị đã chứng A-la-hán, đức hạnh đạo lực cao. Các Ngài tụng bà nghe cảm được và nhận ra cái tâm xấu ác của mình là tội lỗi, bà phát tâm lành liền sanh cõi lành. Như vậy tự lực là do bà chuyển tâm, nhưng nhờ ở tha lực của chư tăng mà chuyển, hiểu được chỗ này quí Phật tử mới hết thắc mắc.

HỎI: Về Bồ-tát thị hiện. Có một số thầy tu, chúng con thấy dường như phạm giới nhưng chúng con không dám nói vì sợ khẩu nghiệp. Xin thầy giảng trạch rõ chỗ này cho chúng con được vững lòng tin với tăng bảo.

ĐÁP: Điều này thì thật là khó, bởi vì Bồ-tát thị hiện thì không ai biết mà khi biết thì Bồ-tát đi mất. Do đó các Ngài thị hiện mình không biết là Bồ-tát, mình chưa có tha tâm thông, thiên nhãn thông làm sao biết người đó là phàm hay Thánh, thôi mình kính các Ngài cho khỏi tội. Tôi thường hay kể ngài Hàn Sơn, Thập Đắc. Khi người đời phát giác các Ngài là Bồ-tát thì các Ngài chạy mất. Các Ngài không cho biết mình là Bồ-tát, vì các Ngài muốn đi trong cõi trần tục để thử tâm niệm của chúng sanh, lòng thiện lòng ác của họ thế nào để tùy cách cứu độ. Nếu biết các Ngài là Bồ-tát ai ai cũng bái lạy thì sao thấy bệnh của họ mà cứu. Cho nên ai mà tự xưng là Bồ-tát thì chưa phải Bồ-tát, quí Phật tử phải kinh nghiệm kỹ. Một vị tăng, một cư sĩ nào tự nhận là Bồ-tát thì xá mà tránh xa, đó là giả hiệu. Còn ai tu hành mà phá trai phạm giới, đó là việc của người ta, chúng ta không phê phán chỉ trích mà phải lo phần mình, cứ lo bàn việc thiên hạ, lỗi của mình y nguyên, không sửa đổi không tiến chút nào lại thêm tội lỗi.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng giảng giải cho chúng con được hiểu: Trên đường từ cổng chùa vào chánh điện có tấm bảng ghi “Bảo Sở”, vậy từ này có nghĩa thế nào?

ĐÁP: Quí vị nào có tụng kinh Pháp Hoa thì biết Bảo Sở là gì? – Bảo Sở là đối với Hóa Thành. Theo kinh Pháp Hoa người tu chứng A-la-hán, Phật nói chứng Niết-bàn nhưng Niết-bàn đó là Hóa Thành, chớ chưa phải là Bảo Sở, phải khởi nguyện lợi tha tu hạnh Bồ-tát đến thành Phật, Niết-bàn của Phật mới là Bảo Sở. Vì tôi muốn tất cả Tăng Ni và Phật tử tu thành Phật chớ không muốn dừng ở quả A-la-hán (Hóa Thành) nên tôi để đường vào chánh điện là “Bảo Sở”.

HỎI:

1. Kính bạch Thầy, với cái nhìn khoa học không làm sao giải thích rốt ráo được vấn đề sanh tử, con người từ đâu có và khi chết còn hay mất? Kính mong Thầy từ bi giảng dạy. 

2. Làm sao biết được vấn đề luân hồi để giải thích hiện tượng bất công trong xã hội?

ĐÁP: 

1. Câu hỏi này rất khó trả lời, nhưng chúng tôi cũng dùng phương tiện tạm trả lời cho quí Phật tử hiểu. Con người từ đâu có, nếu trả lời theo thực tế thì dễ lắm! – Từ cha mẹ mà có mình phải không? Còn hỏi con người nguyên thủy từ đâu có? Nghĩa là từ đâu có con người ban đầu thì hơi khó một chút. Vì trong nhà Phật không trả lời đơn giản từ cái nào có, mà nhà Phật luôn luôn nói con người từ nhân duyên mà có. Đối với cái nhìn của Phật giáo không có cái gì từ một nhân mà thành, nó không tự có cái đầu tiên, mà do nhiều nhân duyên hợp lại. Cho nên hỏi từ đâu mà có con người thì nhà Phật nói: Từ nhân duyên mà có con người. Nói như vậy nhiều người không thỏa mãn, họ muốn có ai đó sanh ra con người, như nói tạo hóa sanh ra con người chẳng hạn, nhưng nhà Phật không chấp nhận lý đó. Theo Phật thì không có cái gì từ một nhân mà thành, mà phải đủ nhân đủ duyên mới được sanh ra. Hiện giờ khoa học cũng thừa nhận muôn sự muôn vật ở thế gian không đơn thuần từ một nhân được thành, mà phải có nhiều nhân duyên hợp lại mới thành. Tinh thần khoa học và Phật học cũng đồng như vậy.

Hỏi người chết rồi còn hay mất? Nếu nói tổng quát là mất, nhưng mất cái tứ đại tạm bợ giả hợp chớ bản chất của tứ đại thì không mất. Cũng vậy, về phần tinh thần tạm mất cái giả tướng tụ hợp tạm gá nơi cơ thể này (vì thân mất không còn gá được nữa) chớ không phải là mất hẳn.

2. Làm sao biết được vấn đề luân hồi để có thể giải thích được hiện tượng bất công trong xã hội? – Nếu chúng ta biết phần tinh thần không mất hẳn cũng không phải còn hẳn, bây giờ làm sao biết được vấn đề luân hồi là có thật để rồi giải thích những hiện tượng bất công trong xã hội. Cái bất công này tôi không nói về tổ chức của xã hội mà bất công ngay nơi con người với con người, như sanh ra có người đẹp, người xấu, người tật nguyền, người lành lặn v.v… Cái bất công đó không phải do người ta áp đặt cho mình, mà khi sanh ra mình đã mang sẵn tính chất bất công trong đó. Vậy làm sao giải thích được để chúng ta thừa nhận cái bất công đó là do mình tạo trải qua những kiếp luân hồi. Bây giờ tôi nói giản đơn từ kinh nghiệm gần cho tới kinh nghiệm xa để quí vị thấy về lý luân hồi. Ngày xưa thì khó tin thật nhưng bây giờ rất dễ tin, tất cả muôn sự muôn vật ở thế gian này nó là sự chuyển biến chớ không có gì mất hẳn. Gần nhất là quả đất mình đang sống, nó xoay vòng vòng hoài tức là luân  hồi chớ gì? Còn thời tiết thì cứ xuân, hạ, thu, đông trở đi trở lại hoài cũng là luân hồi. Cho đến trong người mình máu huyết lưu thông từ tim ra mạch, từ mạch trở về tim, cứ như vậy mà chuyển biến luôn luôn. Xa hơn nữa là từ đời này sang đời khác, cái khoảng cách đó không có hiện tượng gì để chứng minh được, nhưng mà nó có mang cái bản chất cụ thể của nó. Như có những đứa bé sanh ra chưa ai dạy nó tu mà nó không chịu ăn mặn lại ăn chay. Lại có những đứa bé bảy, tám tuổi học ít mà biết nhiều, nó học vượt bực gọi là thần đồng. Tại sao lại có những hiện tượng lạ đó? Chẳng hạn ngay nơi bản thân tôi lúc nhỏ tôi có biết gì về đạo Phật đâu mà tôi lại thương đạo Phật, mỗi lần tôi nghe tiếng chuông chùa là tôi buồn ghê lắm, như là nhớ ông nhớ bà, nhớ cái gì xa xôi ở quá khứ vậy. Nếu trước tôi không có chủng tử tu theo đạo Phật thì cái gì thúc đẩy khi tôi chưa được ai giáo hóa, chưa được đọc sách Phật, tôi lại thương đạo Phật, nghe tiếng chuông mà buồn, mà nhớ cái gì xa xôi ở quá khứ! Tôi quyết chắc rằng nhờ chủng tử từ đời trước thúc bách, nếu không, chắc tôi chưa đi được vì hoàn cảnh chưa cho phép. Nhờ chủng tử đạo Phật ở đời trước có rồi, nên khi ra đời dù ở hoàn cảnh nào cũng trở về với Phật. Thế nên trên thế gian này mỗi người sanh ra đã mang sẵn chủng tử đời trước, gặp duyên gợi lại nó liền trồi lên, đó là luân hồi. Nếu hiểu như vậy thì biết được sự bất công trong xã hội này là do phước nghiệp lành dữ của mình đã tạo, chớ không phải ngẫu nhiên mà có. Do đó mình không oán trách ai mà lo tu sửa bản thân mình.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, là Phật tử chúng con được biết mình có thể phát tâm vô thượng Bồ-đề, lòng thấy vui mừng, tín tâm thêm lớn, tin Phật, tin Pháp, kính Tăng. Vậy chúng con phải làm sao để nuôi dưỡng tín tâm và trở về cội nguồn?

ĐÁP: Nuôi dưỡng tín tâm làm cho tín tâm tăng trưởng không có gì khó, phải thực hành những điều cần thiết như sau:

1. Phải thường đọc đi đọc lại lời Phật Tổ dạy để nung đúc tín tâm thêm lớn mạnh.

2. Những gì đã học hiểu rồi phải ráng thực hành cho đúng. Nếu học hiểu suông lâu dần nó nguội rồi mất nên phải ráng thực hành cái mình đã học hiểu.

3. Thường tới lui gần gũi những bậc thầy để được nhắc nhở thêm.

Đủ ba điều kiện đó thì tín tâm sẽ được tăng trưởng không lui sụt.

HỎI: Thầy khuyên Phật tử an nhiên với cái chết, vì các pháp đều ở trong sanh trụ dị diệt. Vậy đối với cuộc sống chúng con phải làm sao để được an nhiên?

ĐÁP: Muốn an nhiên với cái chết thì trước phải an nhiên với cái sống. Nếu biết cuộc đời là vô thường, thân này do bốn đại hợp, khi bốn đại tan thì thân này hư hoại. Như vậy hợp đó chỉ là giả hợp. Cuộc đời là vô thường thì mọi việc tới thấy không quan trọng, không quan trọng nó thì mình an nhiên. Sở dĩ không an nhiên được là tại chúng ta quan trọng, cho nên cái gì đến là lo âu sợ sệt. Cái tốt đến thì mừng, mừng quá thì khó ngủ. Cái xấu đến thì lo, lo quá cũng mất ngủ. Đó là tại mình quan trọng nó quá. Bây giờ coi nó không có gì quan trọng, được cũng tốt mà mất cũng không sao. Trên thế gian này có cái gì giữ được đâu? Thường người ta cứ giữ những cái gì bên ngoài quên giữ mình, đến khi thân bại hoại thì lo sợ. Vì vậy mà không được an nhiên. Nếu biết nó tạm bợ không quan trọng thì được an ổn. Không quan trọng không có nghĩa chúng ta không làm gì hết, chúng ta làm tất cả nhưng mà thành hay bại là tùy duyên thôi, không đặt nó phải thế này thế kia, được cũng tốt, không được cũng không sao. Như vậy là được an nhiên.

HỎI: Bạch Hòa thượng, Phật tử phát tín tâm rồi cần nghiên cứu kinh điển nào? Có cần theo thứ tự hay không? Nếu cần tại sao Lục Tổ không biết chữ mà tu chứng làm Tổ?

ĐÁP: Nếu quí vị nghe một câu kinh Kim Cang liền ngộ thì không cần theo thứ tự, còn bây giờ nghe giảng mãi mà chưa ngộ thì nên theo thứ tự giùm. Bởi vì mình so sánh với người ngang mình chớ không thể so sánh với người quá hơn mình. Như vậy nên chọn pháp vừa với căn cơ mình để tu cho dễ.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng giải thích cho chúng con hiểu câu: “Thà chấp có như núi Tu Di còn hơn chấp không như hạt cải”.

ĐÁP: Trong kinh thường nói: “Thà chấp có như núi Tu Di, không nên chấp không bằng hạt cải. Vì chấp không bằng hạt cải còn hại hơn chấp có bằng núi Tu Di. Chấp có tội, có phước, có thiện, có ác, có địa ngục, có ngạ quỷ, có súc sanh, có thiên đường, có Cực lạc v.v… nên sợ tội, sợ làm ác đọa địa ngục, nên tránh ác làm lành để sanh lên cõi trời. Như vậy vì chấp có mà ráng tu. Còn chấp không thì cái gì cũng không ngơ hết, chỉ cần nói không tội không phước là mình đã bị đọa rồi. Bởi vì chấp không như vậy là cái nhân để không tu hành.

Vậy chư Tổ nói không tối, không sáng, không có hai bên có phải là chấp không không? – Tổ không chấp không. Người thế gian không biết các pháp tương đối, tùy duyên mà có, không thật, có nhân nơi không mà có, không nhân nơi có mà có. Người đời không biết nên chấp không tuyệt đối là không, có tuyệt đối là có. Đối với nhà Thiền thì có không thật có, không không thật không, tối không thật, sáng không thật. Không thật chớ không phải là không có cái giả, có mà không cố định. Người thế gian chấp có chấp không là cố định có, cố định không. Phật quở không cho chấp là như vậy.

HỎI: Đọc trong sách con thấy cư sĩ họ Bàng là một học giả Khổng Giáo và là người giàu có ở đời Đường. Ông tự dự những pháp hội với nhiều Thiền sư danh tiếng, ông đem tài sản của mình đổ xuống sông để cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Chúng con thắc mắc tại sao ông đem vàng bạc bỏ phí đi mà không bố thí cho kẻ khốn cùng nghèo khổ?

ĐÁP: Tôi xin giải thích điều này để quí vị khỏi thắc mắc. Ông Bàng Uẩn là một nhà khá giả, sau khi ngộ đạo rồi, những tiền của còn lại ông chở đem đổ xuống sông hết. Từ đó về sau ông sống một cuộc đời thanh bạch, ông bện sáo để con gái đem ra chợ bán, bà Bàng ở nhà với đứa con trai đi làm ruộng. Lý ra của cải dư ông đem bố thí thì tốt hơn, tại sao lại đem đổ xuống sông? Điều này làm cho nhiều người thắc mắc. Đây tôi giải thích cho quí vị hiểu. Chúng ta nghĩ tới người nghèo kẻ thiếu đem tiền của dư giúp họ là do lòng từ bi, song việc làm đó có khi là tâm muốn được phước nữa. Ở đây ông Bàng Uẩn khi ngộ đạo rồi, ông thấy tất cả thế gian không có cái gì quan trọng, tiền của danh lợi đối với ông là một trò chơi không đáng gì hết. Cho nên ông không cần, ông đem đổ cái mình không cần, để dứt hẳn lòng tham luyến của cải thế gian. Mình biết cái đó là nhân của tham lam, nếu đem cho người khác là tăng thêm lòng tham lam cho người ta. Cái mình thấy nó không nghĩa lý gì chỉ tăng trưởng lòng tham, mà đem cho người khác là vô tình nuôi dưỡng tham lam cho người. Lẽ phải của ông là ông không muốn tham cũng không muốn cho người khác tham, đó là lý của ông. Còn việc giúp người nghèo khổ, người bệnh tật thì ở thế gian này không cùng. Đem tiền của làm việc phước thiện để giúp kẻ nghèo đói thì đó là tâm từ thiện, còn nhân khác nhau: Cái nhân từ bi giúp đỡ để có phước và cái nhân dứt sạch tham lam ở mình ở người, hai cái nhân này hoàn toàn không giống nhau. Cái phải của người này chưa phải là cái phải của người kia. Chúng ta có quyền phê bình nhưng chưa chắc chúng ta phê bình đã đúng.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con có một thắc mắc kính xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy: Một ly nước để kín không có gió thì ly nước không động. Cũng vậy người tu hành ở nơi hẻo lánh như núi non am cốc, cảnh thanh tịnh lâu dần tâm cũng thanh tịnh và trở nên thuần thục. Như vậy đến khi chết người đó sẽ sanh nơi Cực lạc thanh tịnh có đúng như vậy không?

ĐÁP: Tôi xin giải thích rõ, nếu tu ở nơi vắng vẻ, không có người, không có chuyện bận rộn xảy thì dễ yên. Nhưng cũng có nhiều người ở chỗ vắng mà ồn hơn chỗ động. Chẳng hạn quí Phật tử ban ngày làm ăn lo sinh kế gia đình mà tâm ít chạy nhảy, tối ngồi một mình nó chạy tứ tung. Cho nên an hay không an chưa hẳn là ở chỗ vắng hoặc chỗ đông người. Đó là phương tiện chớ không phải cứu kính. Người xưa hay khuyên: “Độc thiên kỳ thân” là khi ở riêng một mình phải dè dặt pháp ác phát sanh. Đừng tưởng ở riêng là tốt hết, trừ khi ở riêng mà biết tu, ở chỗ vắng mà biết tu thì có lợi lớn. Nếu không biết tu chưa chắc đã có lợi. Vì tâm mình không phải đợi có cảnh nó mới chạy nhảy, mà có cảnh hay không có cảnh nó cứ chạy nhảy. Hiện tại không có cảnh thì nó lôi cảnh quá khứ ra. Do đó dù ở chỗ vắng hay ở chỗ động mà tâm thanh tịnh thì được sanh cõi tịnh chắc chắn, chớ nói ở chỗ vắng tâm thanh tịnh sanh cõi Phật thì chưa chắc.

HỎI: Bạch Thầy, trong Kinh có nói cõi trời phi tưởng, phi phi tưởng, chư thiên ở cõi trời này nếu hết phước vẫn bị đọa. Tại sao không có tưởng mà chưa giải thoát?

ĐÁP: Phật tử này hiểu lầm. Chỗ phi tưởng, phi phi tưởng là không có cái tưởng thô mà còn cái tưởng tế cho nên vẫn còn đi trong luân hồi.

HỎI: Bạch Thầy, nhập diệt tận định là sao? Có khác gì với vô tưởng không?

ĐÁP: Câu hỏi này đúng ra thì tôi không trả lời vì tôi chưa nhập diệt tận định, nói cái chưa làm thì nói không đúng. Nhưng mà theo kinh nói nhập diệt tận định là dứt sạch mọi tư tưởng từ thô đến tế, nên nói là diệt tận. Còn phi tưởng, phi phi tưởng là hết cái thô mà còn cái tế. Vì vậy diệt tận định không phải là cõi trời vô tưởng thiên, diệt tận đây là diệt tất cả các tưởng, sạch hết phiền não, còn vô tưởng thiên chỉ là cõi trời dứt các tưởng nhưng các nghiệp lâu đời như tham sân si chưa sạch, gặp duyên nó sống dậy cho nên khác với diệt tận định.

HỎI: Kính bạch Thầy, xin Thầy từ bi giảng giải cho Phật tử chúng con hiểu thế nào là Như Lai tại triền, đức Tỳ-lô-giá-na Phật có phải là một vị cổ Phật không?

ĐÁP: Trong kinh Đại thừa thường hay nói Như Lai tại triền và Như Lai xuất triền. Như Lai tại triền là Như Lai còn ở trong trói buộc (triền là phược). Như Lai xuất triền là Như Lai ra khỏi mọi trói buộc.

Bây giờ Như Lai tại triền Ngài ở đâu? – Ngay nơi thân này và còn trói buộc, nhưng đã có Như Lai ở đó rồi. Khi dứt hết mọi trói buộc thì thành Phật gọi là Như Lai xuất triền.

Phật Tỳ-lô-giá-na là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là pháp thân. Pháp thân là thân không hình tướng. Trong kinh Pháp Hoa tôi có giảng ở phẩm Hiện Bảo Tháp, đức Đa Bảo biểu trưng cho pháp thân, Phật Thích Ca là báo thân. Ở đây Phật Tỳ-lô-giá-na cũng chỉ cho pháp thân, mà pháp thân thì không có nói xưa nói nay, không có cổ có kim.

HỎI: Bạch Thầy, chân tâm, chân như, Phật tánh, pháp tánh, trí huệ-viên giác có đồng nghĩa hay không?

ĐÁP: Chân tâm, chân như, Phật tánh, pháp tánh, trí huệ-viên giác nghĩa thì khác. Bởi vì nói chân tâm mà giải nghĩa ra thì phải khác với chân như. Nói chân như mà giải nghĩa ra thì khác với chân tâm, nói Phật tánh giải nghĩa ra cũng khác với pháp tánh. Nói pháp tánh giải nghĩa ra khác với Phật tánh v.v… Nghĩa thì khác nhưng thể không khác.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, Bát-nhã tâm kinh nói: “Soi thấy năm uẩn đều không”. Vậy “không” bằng cách nào? Chúng con chưa hiểu, kính xin Hòa thượng giảng cho chúng con được hiểu.

ĐÁP: “Không” đây là không tự tánh, mà không tự tánh tức là không có cái thực thể. Năm uẩn nó không có thực thể. Ví dụ đây là một bàn tay, khi tôi co năm ngón lại thì gọi là nắm tay. Vậy cái gì là thực thể của nắm tay? Nếu năm ngón tay tôi buông ra thì không có nắm tay, tức là duyên tan, rõ ràng nắm tay không có thực thể. Tất cả muôn sự muôn vật đều như thế, tức là đều do duyên hợp mà thành chớ không có thực thể. Bởi duyên hợp tạm có, duyên ly tán thành không. Như vậy có trong thể tánh không cho nên nói nó là tánh không, mà tánh không trong kinh có chỗ cũng nói là chơn không. Bởi vì tánh không không dời đổi, ở sự vật nào cũng là tánh không, bởi không dời đổi nên gọi là chơn không.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con có vài điều thắc mắc kính mong Hòa thượng giảng giải: Một người cùng một lúc không thể làm hai công việc được, thí dụ như vừa đọc sách vừa nghe radio. Kinh Lăng Nghiêm và kinh Địa Tạng nói Phật Thích Ca và Bồ-tát Địa Tạng phân thân đi mười phương để hóa độ chúng sanh. Vậy có thật là Phật và Bồ-tát phân thân không? Và nghĩa bóng việc đó có ý dạy gì? 

ĐÁP: Phật tử này hiểu như vậy là lấy cái lượng phàm mà lường cái tâm Thánh. Rất tiếc là tôi chưa được làm Bồ-tát nên tôi chưa phân thân được, tôi chưa biết phân thân ra sao. Việc Phật và Bồ-tát phân thân đi giáo hóa thì việc đó chắc phải đợi khi nào chúng ta chứng tới đó mới biết, bây giờ khó so sánh được. Vì khả năng của phàm phu và khả năng của bậc Thánh khác nhau. Ở đây tôi chỉ nói: Không phải Phật, Bồ-tát giống phàm phu mà làm hai việc cùng một lúc không được. Chúng ta đừng lấy đó so sánh e không đúng.

HỎI: Bạch Hòa thượng, cõi trời là cõi của những người có phước báo tốt thường làm việc thiện, nhưng sao ma Ba-tuần thường hay phá Phật mà cũng ở cõi trời?

ĐÁP: Câu hỏi này có lý. Nghĩa là đã ở cõi trời thì không phải là ma, tại sao ma lại được ở cõi trời? Quí vị nên hiểu rõ thế này, ở thế gian có nhiều người tu mà tu không đúng với chánh pháp, nhưng họ làm lành mong cầu hưởng cái gì đó. Vì có niệm mong cầu nên họ được phước sanh ở cõi tốt là cõi trời, nhưng tà niệm chưa hết nên gọi là ma. Họ cũng cố gắng tu, cũng nhập định nhưng không phải chánh định mà là tà định. Do làm lành nhưng theo hướng tà, thành ra sanh cõi lành mà thuộc về ma, gọi là ma Ba-tuần.

HỎI: Kính bạch Thầy, xin Thầy giảng giải cho chúng con hiểu câu nói của đức Phật dẫn trong kinh A-hàm: “Này, A-nan! Nếu không có phụ nữ xuất gia trong giáo pháp của Như Lai thì chánh pháp sẽ tồn tại ở thế gian một ngàn năm, nhưng có phụ nữ xuất gia thì chánh pháp chỉ tồn tại năm trăm năm”.

ĐÁP: Phật tử này đọc trong giáo lý A-hàm thấy ngài A-nan xin cho bà Di Mẫu là Ma Ha Ba Xà Ba Đề được xuất gia thì đức Phật than với ngài A-nan rằng: Nếu cho người nữ xuất gia thì chánh pháp của Như Lai sẽ giảm bớt năm trăm năm nên Phật tử thắc mắc tại sao.

Chỗ này tôi xin nói rõ: Ngày xưa, khi Phật còn tại thế không có chùa cũng không có tịnh xá, người nữ xuất gia rồi sống lang thang trong rừng, miếu, đền, không có chỗ an trú là một vấn đề không giản đơn, lại còn nhiều việc khó khăn, bị người ta phá phách nữa. Cho nên Phật dạy chư Tăng an cư ở đâu thì chư Ni cũng phải ở gần đó để được bảo vệ, mà quí vị thấy nam nữ ở gần thì hay có bệnh ái xảy ra, do đó làm cho tăng đoàn không thanh tịnh. Còn nếu tách rời ở xa thì sợ chư Ni bị tai nạn không ai bảo vệ, đây là vấn đề nan giải. Cho nên Phật không muốn độ phái nữ, chỉ có Tăng không thì dễ hơn. Vì điểm đó cho nên Ngài nói nếu cho phái nữ xuất gia thì chánh pháp mất đi năm trăm năm là vậy.

HỎI: Bạch Hòa thượng, xin Hòa thượng giải cho chúng con rõ hai câu:

– Bất sanh nộ sân

– Ái hà thiên xích lãng, khổ hải vạn trùng ba.

ĐÁP:

1. Bất sanh nộ sân: Chữ nộ và chữ sân đi theo nhau cũng như chữ nóng giận chúng ta thường dùng. Nóng là trạng thái phừng lên, giận là trạng thái ngầm ngầm, là bực bội, là tức tối.

“Bất sanh nộ sân” là không sanh nóng giận, dù nghe những lời trái tai, thấy những việc làm bất như ý v.v… mà không nóng giận.

2. Ái hà thiên xích lãng, khổ hải vạn trùng ba: Ái hà thiên xích lãng là dòng sông ái sóng cao tới ngàn thước. Trong nhà Phật thường ví tình thương giống như dòng nước cuốn, cái gì rơi xuống cũng bị nước cuốn trôi hết. Con người cũng vậy, do ái mà lôi cuốn nhau chết chìm chết ngộp. Cha mẹ sanh con ra thì thương con, con lớn lên có gia đình sanh ra cháu thì thương cháu, nếu còn sống đến tám mươi, chín mươi tuổi, cháu sanh chắt cũng thương luôn. Tình thương cuốn trong dòng ái nghiệp không ngày nào ra khỏi, giống như rớt xuống dòng nước chảy bị nó cuốn trôi. Tình ái nó cột trói cho tới già không lúc nào rảnh để tu, cho nên nói dòng sông ái cao tới ngàn thước, nó cuốn người đắm chìm trong đó.

“Khổ hải vạn trùng ba” là biển khổ, có muôn ngàn lượn sóng. Trong cõi đời này có muôn ngàn chuyện làm cho con người buồn khổ. Giống như người đang ở trong biển một lượn sóng dập bị ngất ngư, vừa mới tỉnh tỉnh, cố bơi thì lượn sóng tiếp lại dập tới nữa. Cứ như vậy liên tục hết khổ này tới khổ khác dồn dập nên nói khổ hải vạn trùng ba.

Phật tử này không hỏi thêm câu sau là: “Dục thoát luân hồi khổ, tảo cấp niệm Di Đà” tức là muốn ra khỏi luân hồi phải sớm niệm danh hiệu Phật Di Đà. Nói theo ở đây là muốn thoát khổ phải sớm tỉnh giác, vì tỉnh giác mới ra khỏi đường khổ, nếu còn mê thì không ra khỏi được. Đa số chúng sanh chấp nhận cho dòng sông ái cuốn đi để lặn hụp trong buồn khổ. Thế mới thấy cuộc đời này đau khổ không từ đâu đến, mà do nơi chính mình chấp nhận. Thật đáng thương thay!

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, lý nhân duyên và như huyễn giống nhau và khác nhau như thế nào? Kính xin Hòa thượng giảng dạy.

ĐÁP: Trong kinh Phật nói nhân duyên rồi nói như huyễn, có chỗ nói các pháp duyên sinh, có chỗ nói các pháp như huyễn. Như vậy hai cái đó là một hay khác? Để giảng trạch tôi lấy bàn tay làm ví dụ cụ thể để quí vị thấy các pháp do duyên sinh. Bàn tay tôi năm ngón co lại gọi là nắm tay. Nắm tay này không tự có, do năm ngón co lại mới có. Nếu năm ngón buông ra thì không có nắm tay. Như vậy nắm tay là thật hay giả? Đang nắm như vậy là thật có hay không? – Nắm tay tự thể là không, do năm ngón co lại tạm có, năm ngón rời ra thì không. Như vậy cái có này là không thật có, năm ngón tay co lại là duyên hợp, năm ngón tay buông ra là duyên tan. Duyên hợp duyên tan là nhân duyên. Nắm tay tuy có mà không thật có nên gọi là như huyễn. Cái gì duyên hợp mới có đều như huyễn. Hiểu được cái nhân của sự vật đều do nhân duyên hợp thì biết cái thể của nó là như huyễn, tự nó không có cái thể thật.

HỎI: Kính bạch Hòa thượng, con thường được nghe quý thầy giảng: “Nhất thiết duy tâm tạo”, trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục Tổ nói: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Xin Thầy từ bi giảng giải hai tâm này đồng dị như thế nào?

ĐÁP: Câu này hỏi hơi cao, tôi chỉ giảng sơ một vài nét chắc quí vị có thể lãnh hội được.

“Nhất thiết duy tâm tạo” là tất cả pháp do tâm tạo nên. Hiểu theo ý này, bây giờ có người nói: Tôi muốn có một thoi vàng xin thầy lấy tâm tạo giùm con. Tâm tôi tạo được thoi vàng không? – Không. Tâm tôi không tạo được sao nói tất cả pháp do tâm tạo? – Tất cả pháp do tâm tạo với ý nghĩa này: Vật để trên bàn trước mặt tôi tại sao quí vị biết là cái đồng hồ? – Tại người ta đặt tên là đồng hồ. Sở dĩ nó có tên là đồng hồ là do người dùng tâm suy nghĩ mà đặt tên. Như vậy tất cả vật hiện có tên này tên nọ đều là từ tâm đặt ra. Nếu không có tâm đặt thì mọi người cũng không có tên. Gặp nhau nhìn thôi chớ không nói gì được, tên A tên B đều do tâm suy nghĩ mà đặt ra. Tất cả cái gì có hình tướng có danh tự đều từ tâm suy nghĩ đặt tên, mà do suy nghĩ đặt thì đó là tâm tạo.

Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tôi có giảng trong Pháp Bảo Đàn, chắc Phật tử này không nhớ. Trong kinh Kim Cang ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật hai câu: Làm thế nào để hàng phục tâm? Làm thế nào để an trụ tâm? Phật dạy rằng: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Nghĩa là muốn an trụ tâm thì đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đừng mắc là an trụ tâm. Bây giờ quý Phật tử đi, đứng, nằm, ngồi, đối duyên xúc cảnh thấy cứ thấy, nghe cứ nghe, không dính với trần nào hết thì tâm không động. Sở dĩ tâm động lung tung là vì mắt thấy sắc dính sắc, tai nghe tiếng dính tiếng v.v… cho nên dao động liên miên. Nằm xuống là nhớ hết chuyện này tới chuyện kia rồi than thở sao đầu óc rối như tơ vò! Rối là tại mình dính, nếu không dính thì không có gì để nhớ hết. Vậy thì muốn an trụ tâm đừng để tâm dính với sáu trần, không dính với sáu trần là tâm an trụ rồi. Hết sức là đơn giản nhưng mà tu khó phải không?


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.