Những cánh hoa đàm

Tập 1



* Lời nói đầu

Trong thời gian theo Hòa thượng học đạo, Tăng Ni và Phật tử chúng tôi, người thì thắc mắc về ý nghĩa Phật Tổ dạy trong Kinh Luận đem ra thưa hỏi, xin Hòa thượng giải nghi. Người thì gặp chướng ngại trên đường tu, trình Hòa thượng xin chỉ dạy để khắc phục vượt qua. Người thì tu tiến được những bước khả quan cũng trình Hòa thượng xin chỉ dạy để tiến xa hơn nữa. Tất cả những câu hỏi của chư Tăng Ni và Phật tử nêu lên đều được Hòa thượng giải đáp tường tận.

Chúng tôi nhận thấy những câu giải đáp của Hòa thượng rất thiết thực giúp cho người học đạo những kinh nghiệm trong lúc dụng công tu hành, thêm sáng tỏ lý đạo và tăng trưởng tín tâm. Thế nên chúng tôi sưu tập thành sách để có tài liệu tu học và nhiều người cùng được lợi ích.

Sau khi ghi xong, chúng tôi trình Hòa thượng xem, được Hòa thượng hoan hỷ cho xuất bản. Mong tập sách này giúp thêm những kinh nghiệm cho các bạn đồng tu học để có được niềm vui lớn. Tuy chúng tôi đã trình Hòa thượng xem qua, nhưng chắc chắn quyển sách không tránh khỏi sai sót, xin độc giả niệm tình bỏ qua cho.

THIỀN THẤT TRÚC LÂM MÙA AN CƯ 1998

Kính ghi

THUẦN GIÁC

* Chương 1

HỎI: Thưa thầy, con làm ruộng, ruộng con bị chuột cắn phá. Nếu không dùng thuốc diệt chuột thì không có lúa ăn, nếu dùng thuốc chuột thì phạm tội sát sanh. Vậy con phải làm thế nào vừa có lúa ăn mà vừa giữ được giới đã thọ?

ĐÁP: Giới sát sanh Phật chế cho cư sĩ tại gia, nhằm hạn chế việc giết người. Giết người có ba trường hợp: Một là thân giết người. Hai là miệng sai bảo kẻ khác giết người. Ba là thấy người giết tâm sanh vui thích. Như thế là phạm tội sát sanh. Ngoài ra, những con vật lớn như trâu, bò, heo, ngựa, chó… không giết bao nhiêu là tốt bấy nhiêu, những loài nhỏ như chuột, dế, kiến, gián… thì Phật chưa xếp vào giới này. Vì chưa hiểu rõ giới sát sanh của cư sĩ tại gia, nên đạo hữu sợ, thấy cuộc sống trở thành khó khăn. Hiểu đúng nghĩa giới không sát sanh là không giết người, thì cư sĩ mới giữ được, như những người sống ở ven biển làm nghề đánh cá, mà họ vẫn giữ được giới không sát sanh. Đó là nghĩa căn bản của giới không sát sanh mà người Phật tử phải giữ. Tế nhị hơn, nếu người Phật tử nghĩ giết sinh vật dù lớn hay nhỏ đều có tội nên không làm, không làm thì mình đói, gia đình cha mẹ, vợ con đói. Nghĩ như thế là quan niệm ích kỷ. Tuy giết chuột, mình có tội với chuột, nhưng gia đình mình cha mẹ vợ con có cơm gạo ăn không đói. Đó là vì lẽ sống của con người mà chịu tội với con vật.

Ở Thiền viện quý thầy không ăn thịt cá, nên quý thầy trồng rau mới có rau ăn. Nếu không trồng cũng phải mua của Phật tử hay của người khác để ăn. Trồng rau thì phải xịt thuốc trừ sâu, trừ sâu là có tội. Song, trong cuộc sống hiện tại, chúng ta chấp nhận phần thiệt hại nhỏ về mình, phần lợi ích lớn cống hiến cho người. Vì muốn cho người được sống, mình phải chịu tội với con vật, giết nó là có tội chứ không phải không tội.

Nếu tất cả mọi người đều sợ tội hết thì ngồi chờ chết đói. Có nhiều Phật tử nói: Tôi ăn mặn, để tránh tội sát sanh, ra chợ mua cá thịt người ta làm sẵn bán, tôi ăn. Nhưng có người khác lại nói: Tại mình mua ăn nên người ta mới làm để bán. Như vậy mình cũng chịu tội chung với họ. Nghe nói bị tội chung với người làm thịt, nên không dám ăn thịt cá, bèn đổi lại ăn rau. Khi ăn rau nghe nói trồng rau cũng xịt thuốc giết sâu rầy, cũng mắc tội sát sanh chung, nên không dám ăn rau. Nghĩ vậy thì đi tới đâu? Chỉ còn bó tay chờ chết.

Phật dạy ăn chay, giữ giới không sát sanh là tránh những tội lớn. Vì con người với con người đồng loại nghiệp cảm thông nhau, mà giết hại lẫn nhau là hành động tàn ác. Giá trị mạng mình và giá trị mạng người ngang nhau, mà giết hại nhau tội rất nặng. Con vật tuổi thọ ít hơn nên mình cố tránh tội lớn cam chịu tội nhỏ. Có người nói quý thầy ăn rau, rau cũng có sự sống mà cắt nó ăn là đoạn sự sống của nó, cũng có tội sát sanh. Song, khi cắt rau, thây cây rau không ra máu, không giãy giụa la lên, nên lòng từ bi không bị tổn thương. Những con vật lớn khi đoạt mạng sống, nó đau đớn giãy giụa la lối. Thấy nghe mình xót xa, lòng từ bi bị tổn thương nên phải tránh bớt.

Sống trong cuộc đời tương đối, mình tránh tội lớn phải chấp nhận tội nhỏ, chớ không thể tránh tội hoàn toàn được. Tránh được tội lớn là tốt lắm rồi. Nếu không thể như thế thì người Phật tử làm ruộng, làm rẫy, đánh cá không dám thọ giới tu theo Phật. Và, nếu không thọ giới không sát sanh không tu theo Phật, hễ oán hận ai cứ giết để trả thù thì rất nguy hiểm. Phật tử nên biết tội trọng phải giữ trước, tội khinh chưa giữ được thì thong thả rồi sẽ giữ sau.

HỎI: Thưa Thầy, đạo Phật cấm sát sanh, nhưng sâu rầy phá lúa mạ hoa màu, nên các nhà hóa học chế biến thuốc sát trùng, người chủ ruộng mua thuốc sát trùng, người làm công xịt thuốc sát trùng. Ba người cùng làm như vậy có phạm tội sát sanh không? Nếu phạm, ai tội nặng hơn? 

ĐÁP: Phật tử quy y thọ năm giới, giới sát sanh là giới đầu. Khi truyền giới, các Thầy thường giảng không sát sanh là không được giết hại từ loài người cho tới loài vật. Giảng như thế, Phật tử thọ Tam quy Ngũ giới, mỗi khi làm điều gì có phương hại đến sinh vật nhỏ như côn trùng lòng rất hoang mang. Điều này tôi nghiên cứu trong Luật thấy không phải như vậy. Luật Phật dạy người Phật tử tại gia không được giết người và không được giết những con vật lớn như trâu, bò, ngựa… Con người là chính yếu, những con vật lớn là thứ yếu, Phật không nói tới côn trùng như sâu, rầy, kiến… Đối với người xuất gia Phật mới đề cập tới các con vật nhỏ. Nhưng nếu có phạm chỉ là tội nhẹ. Hiểu như vậy quý Phật tử mới giữ giới được. Ngày xưa có những người chài lưới thọ Tam quy giữ năm giới. Nếu không sát sanh là không giết hại côn trùng như sâu kiến thì những người chài lưới làm sao tu? Giới không sát sanh chủ yếu là không giết người.

Giết người có ba cách: Một là tự giết, mình giết bằng dao bằng gậy hay bằng thuốc độc… Hai là bảo người khác giết thế cho mình. Ba là thấy người khác giết mình vui mừng theo. Như thế là phạm tội sát sanh đối với loài người, còn những loài nhỏ thì chưa bàn tới. Ngày nay chúng ta giảng quá tổng quát khiến cho Phật tử lúng túng không dám làm gì hết. Nếu không dám giết sâu bọ thì làm sao làm ruộng làm rẫy? Không làm ruộng làm rẫy thì lấy gì ăn và mọi người sẽ ra sao? Người nông dân không dám làm ruộng, làm rẫy thì người nông dân đói, người thành thị cũng đói theo. Người thành thị đói thì mấy người tu cũng đói luôn. Như vậy là cùng chết đói với nhau. Đó là cái lẽ không hợp pháp. Phật nói không sát sanh là không giết người để ngăn chặn tâm ác. Giết người thì phạm tội sát, còn những loài kia thì nhẹ, chớ không phải là chính. Hiểu như vậy thì quý vị quy y giữ giới không lúng túng khi làm việc.

Câu hỏi này đối với người xuất gia mới bị kẹt. Vì người xuất gia Phật cấm không được giết cả côn trùng. Nếu người tại gia mà cấm không được giết những loài nhỏ như côn trùng, thì những người làm thầy thuốc làm sao trị bệnh? Chẳng hạn bệnh nhân mắc bệnh lao, trong người có vô số vi trùng lao, thầy thuốc chích thuốc những vi trùng đó chết hết, bệnh nhân mới lành bệnh. Thấy có tội làm sao cứu cho người hết bệnh?

Ngày xưa khi Phật còn tại thế, có một Tỳ-kheo đi đường qua một bãi sa mạc, trời nóng Ngài khát nước cháy cổ, gặp vũng nước có nhiều vi trùng không dám uống. Ngài đến bạch với đức Phật:

– Bạch Thế Tôn, con rất khác nước, con dùng thiên nhãn thấy vũng nước bên đường có vô số vi trùng nên con không uống được.

Phật bảo:

– Sao ông không dùng nhục nhãn mà nhìn?

Qua câu chuyện, quý vị thấy Phật đặt nặng cái gì? Có phải Phật đặt nặng con người, cứu con người là trên hết không? Những vi trùng vi tế sống thời gian rất ngắn rồi chết, nếu đặt nó nặng để nó phá hại con người thì việc làm nào đúng? Ngay trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hít thở không khí cũng có vô số vi trùng. Như vậy vi trùng ở đầy khắp, mà bảo tránh làm sao tránh? Còn làm ruộng làm rẫy xịt thuốc trừ sâu, tâm niệm mình chỉ nghĩ cho có cơm để mình và mọi người ăn, chớ đâu có oán thù nó. Nghĩ đến mạng sống con người là việc lớn, sâu rầy là cái nhỏ. Vì việc lớn mà chịu tội nhỏ đâu có thiệt thòi bao nhiêu! Vậy giữa cuộc sống tương đối này, phải có cái nhìn cho tường tận, vì việc lớn mà chấp nhận lỗi nhỏ, đòi hoàn hảo tuyệt đối hết thì không thể được. Vì sự sống cho mình, cho gia đình, cho mọi người có bát cơm ăn là cái phước lớn, thì phải chịu tội nhỏ đối với loài sâu bọ.

Giả sử có người này ỷ thế lực giết hại người kia, chúng ta vì thương người bị giết nên ra tay cứu. Khi cứu người kia nên bị người này chửi mắng. Lúc bị chửi mắng chúng ta cam chịu một chút, có sao đâu! Cứu được người khỏi chết là quan trọng. Đó là việc làm tốt cho người, phần mình phải nhận chút thiệt thòi. Nếu đòi hỏi hoàn toàn tốt hết thì khó lắm. Hiểu như vậy thì chúng ta tùy duyên làm lợi ích cho chúng sanh, chúng sanh lớn biết kêu la than khóc thì lo trước, còn chúng sanh nhỏ thì lo sau.

HỎI: Thưa Thầy, con là lính phải chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Khi lâm trận hai bên bắn nhau, nếu con bắn chết quân địch, con có phạm tội sát sanh không? Và, người phải xử tử một kẻ cướp của giết người bị trả quả thế nào về tội giết người?

ĐÁP: Là người lính quy y thọ năm giới mà phải ra trận bắn giết người, như thế có tội không? Trong nhà Phật có dạy quy y giữ năm giới, vì hoàn cảnh phải đi lính thì lúc đó chỉ thấy mình là người lính làm việc cho đất nước, đừng nghĩ mình là người Phật tử đã quy y. Tức là dường như mình xả giới cấm sát sanh, để làm bổn phận của người dân đối với đất nước, không phải làm việc của người Phật tử. Trường hợp này vì hoàn cảnh bắt buộc không có ý ác, nên khác với việc làm do tâm cố sát. Tuy thấy như phạm tội nhưng không có quyết tâm. Luật Phật dạy: Phải hội đủ ba điều kiện: thân, khẩu, ý hợp lại tác thành thì gọi là định nghiệp. Tuy thân có làm, nhưng ý không quyết, miệng không nói thì chuyển được, sám hối được, vì không có ác ý.

HỎI: Thưa Thầy, con là dâu mới về nhà chồng và cũng vừa mới quy y xong. Nhà chồng có đám giỗ bảo con giết gà để làm thức ăn cúng. Nếu con không làm thì phải tội bất hiếu, con làm thì phạm tội sát sanh. Vậy con phải làm thế nào để khỏi tội bất hiếu và không phạm tội sát sanh?

ĐÁP: Việc này rất thực tế và xảy ra thường lắm. Song giải quyết rất khó. Việc này những người lớn tuổi hay dạy: Khi cắt cổ gà tụng chú vãng sanh cho nó vãng sanh, thì mình cắt cổ gà không tội. Song tôi thấy làm như vậy không ổn. Giả sử có ai đó tới đưa dao ngang cổ mình tụng chú vãng sanh, rồi cắt cổ cho mình chết, mình có chịu không? Chắc chắn là không bao giờ chịu nhưng chính mình lại làm điều đó, tôi thấy khá tàn nhẫn!

Phật tử này làm dâu muốn tròn chữ hiếu với cha mẹ chồng và cũng muốn giữ giới Phật cấm, nên băn khoăn thắc mắc trước việc gia đình nhà chồng bảo cô giết gà làm thức ăn cúng tổ tiên, cô không biết phải phải làm thế nào cho tròn cả hai bên nên mới thưa hỏi. Sự thật thì ở đời không có cái vẹn toàn. Nếu Phật tử này là cô dâu vì hiếu với cha mẹ chồng mà cắt cổ gà, thì cam chịu tội với con gà để tròn chữ hiếu. Nếu cô vì sinh mạng chúng sinh, không nỡ giết hại, nên dứt khoát không giết thì phải chịu tội bất hiếu với cha mẹ chồng, để giữ tròn giới luật đã thọ. Tùy theo cái nhìn của mỗi người mà chọn lựa; được cái này thì mất cái kia, phải gan dạ chấp nhận. Nếu vì hiếu nghĩa với cha mẹ chồng thì phải chấp nhận phạm tội với con gà. Nếu vì bảo toàn mạng sống con gà thì phải chấp nhận tội bất hiếu với cha mẹ chồng. Phải chọn một bỏ một. Không làm sao vẹn toàn cả hai việc được.

HỎI: Thưa Thầy, con là Phật tử mới tập tu, những ngày ăn chay con thường thèm thức ăn mặn. Đọc sách con thấy nói “chay vốn ở lòng mình”. Song, nếu ngày ăn chay mà lòng cứ thèm thức ăn mặn thì không tốt. Nhưng cứ chiều theo lòng mình hoài thì không có tu sửa gì cả. Vậy con phải làm sao? Cứ ăn mặn như mình thích hay kềm lòng không ăn mặn để tu sửa dần dần?

ĐÁP: Phật tử này nghĩ ăn chay thì lòng phải trong sạch, nhưng ăn chay mà lại thèm thức ăn mặn thì lòng hết trong sạch rồi. Vậy nếu thèm thức ăn mặn thì cứ ăn mặn, khi nào hết thèm thì hãy ăn chay. Theo tôi việc làm tốt nào buổi đầu cũng phải tập. Tôi kể chuyện của Tăng Ni ở chùa cho quý vị nghe. Đa số những người xuất gia trẻ vào chùa khoảng vài ba năm đầu thường mộng thấy chuyện ở nhà ít thấy chuyện ở chùa. Từ năm năm về sau mới thấy chuyện ở chùa. Miệng của Phật tử từ nhỏ tới lớn quen ăn mặn rồi, bây giờ mới bắt đầu tập ăn chay. Vì thói quen ăn mặn nhiều nên mới nhớ thèm ăn mặn. Nếu chiều theo sở thích thì cả đời không ăn chay được ngày nào hết. Vậy ở giai đoạn đầu mỗi lần khởi niệm thèm ăn mặn, thì nên kềm lòng không ăn để giữ miệng được thanh tịnh, còn ý cho nó nhớ một chút cũng được. Dần dần thuần thục thì ý cũng theo đó thanh tịnh luôn. Nếu bây giờ chiều theo thì thân, miệng, ý không thanh tịnh suốt đời. Giai đoạn đầu chấp nhận cho ý không thanh tịnh, giữ cho thân miệng thanh tịnh, lâu dần quen thì ý sẽ thanh tịnh luôn. Đừng cố chấp cái gì cũng tại tâm, tâm thích ăn mặn mà ăn chay cũng vô nghĩa. Chấp như thế thì không bao giờ tu được.

HỎI: Thưa Thầy, gia đình con sống về nghề chăn nuôi gà đẻ trứng. Từ ngày con học hiểu Kinh Luật của Phật qua Thầy giảng dạy, có vài người thân khuyên con, nếu muốn tu cho có kết quả thì phải chuyển nghề. Nhưng con nghĩ thú vật cũng là một sinh linh tuy ngu si hung dữ, song nếu mình nuôi dạy chúng đàng hoàng thì cũng là phương tiện tốt để mình sống và hóa độ chúng dễ dàng hơn, nghĩa là mình không trực tiếp sát sanh. Thưa Thầy con nghĩ thế có đúng không? Xin Thầy từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Nếu nuôi gà vịt để lấy trứng, thì không có lỗi gì hết. Nhưng tới khi nó hết đẻ trứng thì sao? Chỗ này mới khó xử! Phải giải quyết thế nào cho ổn, nếu không thì khó tránh được nghiệp sát sanh. Còn nếu bán cho người ta để sát sanh thì cũng tội nghiệp nó. Như vậy cuộc sống tương đối, không thể nào toàn vẹn, được phước chút ít cũng có tội chút chút rồi ráng tu. Nếu bây giờ tôi bảo bỏ nghề chăn nuôi, làm nghề khác mà nghề khác quý vị chưa đổi được thì làm sao? Thôi thì nghề nào có phước chút ít mà lỡ tạo tội chút chút thì sám hối chớ biết làm sao!

HỎI: Kính thưa Thầy, trong gia đình con, con dạy con của con, nó không nghe nên con quá khổ, con bèn lập bàn hương án khấn nguyện cầu Trời Phật rước con đi cho sớm. Làm như thế con có lỗi gì không? Xin Thầy từ bi chỉ dạy để con tu sửa? 

ĐÁP: Phật tử ngày nay nghĩ rằng dạy con không được thôi thì chết phức cho rồi để cho con nó sợ. Nhưng chết là phải được Phật rước chớ không phải chết đi bậy bạ. Trường hợp dạy con không nghe, phải tự xét nghĩ đức mình còn kém, nên lời dạy của mình nó không nghe và không tin. Nếu đức mình còn kém, giả sử có chết Phật cũng không rước, khi nào đức mình đủ rồi thì Phật mới rước. Thế nên đừng xin. Điều hay nhất là biết đức mình kém nên ráng tu nhiều hơn nữa, tu gấp đôi gấp ba lúc trước. Khi đủ phước đức rồi dạy con nó sẽ nghe và đủ phước đức rồi khi chết Phật sẽ rước. Nếu vì dạy con không nghe, giận nó đòi Phật rước liền thì Phật không rước đâu. Chưa đủ phước đức, do giận con, muốn chết theo Phật, cũng không được đi theo Phật. Làm như thế không đúng mà phải ráng tu nhiều hơn nữa.

HỎI: Thưa Thầy, trước kia con là người chưa hiểu đạo, khi sanh con, nó cứ đau ốm mãi, nên con đem ký bán cho thầy bùa nuôi, họ cho nó đeo niệt vào cổ và bảo: “Lớn phải tới thầy thay niệt”. Nay con đã quy y Tam Bảo, tương đối có hiểu Phật pháp. Vậy dây niệt đeo trên cổ con của con, con phải làm như thế nào? Xin Thầy chỉ dạy.

ĐÁP: Khi chưa hiểu đạo, muốn được an tâm nuôi con khỏe mạnh, nên nhờ thầy bùa làm việc đó. Phải biết dây niệt là phương tiện trấn an, chớ không phải đeo niệt mà khỏe mạnh và sống lâu. Có nhiều người vẫn khỏe mạnh vẫn sống lâu đâu có đeo niệt. Phật tử này vì chưa hiểu đạo nên sợ không nuôi được con, vì vậy mà xin bùa niệt. Bây giờ hiểu đạo muốn bỏ dây niệt, nhưng còn ngại.

Theo lý nhân quả của nhà Phật thì ai cũng có duyên nghiệp riêng, nếu duyên nghiệp dài thì sống lâu, nếu duyên nghiệp ngắn thì sống yểu. Không ai tự đổi mạng mình từ sống lâu thành chết yếu, cũng như không ai có thể đổi mạng chết yểu thành sống lâu được. Sống chết là do duyên nghiệp thì còn sợ cái gì? Trước kia chưa hiểu thì đeo, giờ hiểu rồi thì gỡ ra đốt, có gì mà sợ. Nếu còn sợ thì chưa thật hiểu đạo.

HỎI: Thưa Thầy, xưa nay con thờ ông bà theo phong tục tập quán, thờ rất nhiều bàn. Bây giờ con quy y Tam Bảo học Phật pháp, thấy thờ như vậy là rườm rà, con có thể bớt lại, chỉ thờ Phật, Bồ-tát và Cửu huyền thất tổ có được không?

ĐÁP: Chuyện này rất dễ, hồi chưa biết đạo sống theo tập quán thế tục, ai bày sao làm vậy. Bây giờ biết đạo thì sửa lại, thờ ông bà cha mẹ một bàn ở một bên, để tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Ở giữa nhà thờ Phật để thấy mình là đệ tử Phật, tôn kính Phật, ngày đêm thường nhớ Phật để tu. Như vậy là đủ rồi, thờ nhiều bàn quá phải nhớ bàn này thờ ai, bàn kia thờ ai, khiến cho tâm thêm rối.

HỎI: Thưa Thầy, quy Phật thì không quy y quỷ vật thần linh… Trong nhà con và đình làng có thờ thần, con có lạy được không?

ĐÁP: Theo phong tục của người Việt Nam thì mỗi làng đều có đình thờ thần. Mỗi năm tới ngày lễ thì người trong làng khăn đen áo dài tới đình lễ thần. Đó là tập quán lâu đời. Song, đối với Phật giáo thì vị thần mà mọi người kính lễ trong đình là người có công với đất nước, chết nên được thờ gọi là thần. Những vị này chưa phải là người giải thoát sanh tử, chưa phải là Thánh. Quy y với Phật là bậc đã giác ngộ, giải thoát sanh tử, là bậc Thánh. Đối với bậc giải thoát mình kính trọng, còn đối với những vị chưa giải thoát mình cũng quý, nhưng không kính trọng như bậc giải thoát. Vì thế mà nói quy y Phật không quy y thiên thần quỷ vật. Nếu tập quán của mình lạy ông bà thần Thánh, thì làm theo tập quán không ai bắt buộc. Nhưng phải biết tu theo Phật là vì giải thoát sanh tử, nên nương theo bậc Thánh đã giải thoát sinh tử. Người còn lăn lộn trong sanh tử dù có quyền năng, song cũng chỉ là thần thôi. Vì đã theo Thánh thì chỉ kính thần chớ không phải theo thần. Nếu quý vị là người có chức trong đình làng thì cứ lạy, nếu không có chức thì thôi. Ở trong nhà nếu đã quy y thờ Phật rồi thì bớt thờ thần là tốt, vì còn thờ là còn kính, còn kính là phải lễ.

HỎI: Thưa Thầy, người cư sĩ thọ giới Bồ-tát thì không lạy người chết. Theo con nếu cha mẹ của bạn thân chết, đến dự lễ tang mà không lạy thì thấy vô tình quá. Nếu cô bác trong gia tộc chết mà không lạy thì không cảm hóa được họ hàng, còn cha mẹ mình chết không lạy thì thấy như bất hiếu và bị người chê trách. Xin Thầy chỉ dạy cho con nên lạy hay không lạy trong trường hợp nào?

ĐÁP: Việc lạy thuộc về phần kính lễ. Trong nhà Phật đặt giới luật lên trên. Ví dụ cha mẹ thọ năm giới, con thọ mười giới thì con không được lạy cha mẹ. Vì lạy, cha mẹ sẽ bị tổn phước. Nếu cha mẹ chưa xuất gia mà con đã xuất gia, thì con không lạy cha mẹ lúc sống cũng như chết, nếu lạy cha mẹ sẽ tổn phước. Vì thương cha mẹ không muốn cha mẹ bị tổn phước nên không lạy, chớ không phải thấy mình cao mà không lạy. Thứ nữa, trước khi làm lễ xuất gia thọ giới, quý thầy luôn luôn dạy người con phải đến lạy cha mẹ trước, rồi từ đó về sau không lạy nữa. Nếu Phật tử này đã thọ Bồ-tát giới, cha mẹ Phật tử cũng thọ Bồ-tát giới mà chết, thì cứ lạy không sao cả. Nếu cha mẹ Phật tử không thọ Bồ-tát giới, vì sợ thế gian nói tu vô tình vô nghĩa thì cũng không sao. Việc này không ai bắt buộc. Đó là chuyện tình nghĩa thế gian, trong luật Phật thì dạy rõ như vậy. Nghĩa là người thọ giới lớn không nên lạy người thọ giới nhỏ. Còn nếu mình thọ giới lớn mà không giữ thì không có giá trị, lạy cũng không sao. Người bây giờ đa số thọ giới mà giữ không được bao nhiêu, thế nên cũng đừng chấp.

HỎI: Thưa Thầy, bạn con đã từng đến Thường Chiếu nghe pháp, về nhà bạn con chỉ biết duy nhất có đức Thế Tôn thôi, ngoài ra các vị thần thánh khác như Diêu Trì Kim Mẫu, bạn con xem rất thường, có khi phỉ báng nữa. Bạn con làm như vậy có vấp phải lỗi không? Xin Thầy chỉ dạy. 

ĐÁP: Lúc làm lễ quy y cho Phật tử tôi thường giảng: Con quy y Phật nguyện trọn đời không quy y thiên thần quỷ vật, tức là không quy y trời, thần và những loài quỷ vật. Con quy y Pháp nguyện trọn đời không quy y ngoại đạo tà giáo, tức là không theo những học thuyết ngoại đạo tà giáo. Tại sao chỉ độc tôn một mình đức Phật?

Mỗi tối tụng kinh chúng ta đọc bài tán, có hai câu: “Thiên nhân chi đạo sư, tứ sanh chi từ phụ”. “Thiên nhân chi đạo sư” là vị thầy dẫn đường cho cả trời người. “Tứ sanh chi từ phụ” là cha lành của bốn loài: thai sanh, thấp sanh, noãn sanh, hóa sanh. Phật là cha lành của cả bốn loài chúng sanh, chớ không phải chỉ là cha lành của loài người thôi đâu. Vậy Phật đã là bậc Thế Tôn của chúng sanh, bây giờ chúng ta kính Phật, những vị khác họ cũng kính Phật, chúng ta đã kính thờ Phật rồi, mà kính thờ những vị khác nữa, như vậy là không nhắm thẳng trọng tâm để quy hướng. Quy hướng như thế là lệch lạc không đúng, nhất là quy hướng Diêu Trì Kim Mẫu. Phật đã là thầy của muôn loài rồi thì chúng ta cứ theo Phật, theo pháp Phật hướng dẫn để tu.

Trong kinh có nhiều đoạn ghi, trong pháp hội của Phật có trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, quỷ thần… đến dự để nghe Phật thuyết pháp. Tất cả chư thiên quỷ thần… đều đến nghe Phật thuyết pháp, thế mà bây giờ chúng ta lại kính thờ quỷ thần như Phật, thì có đúng là đệ tử Phật không? Như vậy thì trọng một mình đức Phật có gì sai không? Chúng ta đã biết chư thiên, quỷ thần… đều tới nghe Phật thuyết pháp đều quy y với Phật, chúng ta là đệ tử Phật chỉ tôn thờ đức Phật là quá đủ. Các vị kia chỉ là huynh đệ với chúng ta thôi, tại sao phải tôn thờ như đức Phật? Làm như thế vô tình hạ đức Phật xuống ngang hàng với thiên thần. Vậy có tội hay phước? Giả sử trong thế gian, ông chủ tịch tỉnh và ông chủ tịch xã tới quý vị xử sự ra sao? Xem hai ông như nhau hay nể ông chủ tịch tỉnh hơn ông chủ tịch xã? Nếu mời ngồi thì mời ai ngồi trước? Có phải nể và mời ông chủ tịch tỉnh trước không? Vậy mà có nhiều vị quy y thờ Phật rồi, mà con đem bà Diêu Trì Kim Mẫu thờ ngang với Phật. Đó là việc làm sai không nên bắt chước.

HỎI: Thưa Thầy, hàng ngày con không để tâm theo đuổi người ta, tức là con không có nghiệp với họ. Nhưng họ cứ theo đuổi con. Như vậy trong tương lai con có bị họ đuổi theo nắm áo không?

ĐÁP: Tôi dùng một ví dụ để trả lời câu hỏi này. Giả sử trên đường hai người cùng đi, người đi trước và người đi sau. Người đi trước mặt cứ hướng về phía trước mà đi, đi nhanh không xoay mặt lại phía sau, thì chắc chắn không gặp người đi sau. Nếu người đi trước đi chậm và xoay mặt lại phía sau thì ắt gặp người đi sau. Cũng vậy, Phật tử này không muốn gặp thì phải xoay lưng với họ và nỗ lực tu hành thì bảo đảm không bao giờ gặp, vì nghiệp của họ tạo với Phật tử không đủ duyên để thành. Nếu Phật tử xoay mặt lại đối đầu với họ thì cái nghiệp họ tạo với Phật tử đủ duyên thành, mà nghiệp đã thành rồi ắt sẽ gặp.

HỎI: Thưa Thầy, cha mẹ con, người thì thích danh người thì thích tiền, con phải làm thế nào để giúp cha mẹ con hướng về đạo khi cơ duyên chưa đến?

ĐÁP: Đây là một Phật tử có hiếu, biết danh lợi tiền của là cái không mang theo được ở đời sau. Thấy cha mẹ già mà còn ham thích hai thứ đó, không biết phải làm sao cho cha mẹ thức tỉnh để buông bỏ bớt. Việc này kể ra cũng khó làm, song người con có hiếu muốn đánh thức cha mẹ, thì phải tùy duyên; hoặc khi cha mẹ có bệnh hoặc có chuyện buồn, hoặc lúc thân quyến chết… nhân đó mà nhắc nhở cho cha mẹ thức tỉnh để dừng. Đang khi say mê theo danh lợi mà nói chắc không nghe, chỉ những lúc bệnh hoạn hay thân nhân chết chóc thì dễ đánh thức. Nhân cơ hội đó chỉ cho cha mẹ thấy tuổi già cứ lo tính toán bon chen với đời, thì sức khỏe sớm suy sụp khó duy trì, nên buông bỏ bớt. Hoặc chỉ người đó cùng tuổi với cha mẹ bây giờ thì chết rồi, cha mẹ cứ chạy theo danh lợi thì lúc cha mẹ chết danh lợi có đem theo được đâu? Phải chờ cơ hội đánh thức, chớ bình thường cũng khó nói.

HỎI: Thưa Thầy, con năm nay bốn mươi chín tuổi là năm tuổi sao Thái bạch chiếu. Chẳng biết có phải do hạn hay căn nghiệp nhân quả ở đời trước, khiến con gặp nhiều chuyện rối rắm phiền muộn về tiền tài vật chất, ảnh hưởng đến thể xác lẫn tinh thần con. Con tự xét hiện tại con không tạo những nghiệp ác này sao con phải chịu như thế, xin Thầy chỉ cho con cách giải khổ? 

ĐÁP: Phật tử này đi coi bói, thầy bói nói năm nay sao Thái bạch chiếu, đồng thời cũng có những tai nạn xảy ra, nên lo sợ, không biết do sao hạn làm khổ, hay do nghiệp nhân đời trước làm khổ, nên nhờ chỉ cách giải khổ. Để giải quyết việc này tôi xin đặt câu hỏi: Người đặt tên sao Thái bạch này là căn cứ ngôi sao nào trong vũ trụ mà đặt tên? Nếu các hành tinh trên hư không, mỗi hành tinh là một thế giới như thế giới chúng ta đang ở, hoặc lớn hơn nữa thì những hành tinh đó tác hại gì chúng ta? Nếu có chiếu sáng thì nó chiếu hết cả vùng, nó đâu có chiếu riêng một cá nhân nào! Mỗi cá nhân chúng ta như hạt cát đối với hành tinh, thì sự chiếu riêng một cá nhân nào! Mỗi cá nhân chúng ta như hạt cát đối với hành tinh, thì sự chiếu soi của nó đâu có ảnh hưởng riêng từng người. Chỉ khi nào tia sáng chiếu ngang qua một người thì mới ảnh hưởng một người, đây nó chiếu cả vùng, sao chỉ ảnh hưởng một người? Như vậy cái lý sao Thái bạch chiếu làm cho người ta hoạn nạn khốn khổ, không thể chấp nhận được.

Nếu nói về quả của nghiệp nhân đời trước, thì giải quyết theo tinh thần nhà Phật như thế này: Giáo lý Phật dạy thân của chúng ta hiện tại là quả tổng báo của nhân quá khứ. Lấy thân hiện tại mà xét thì sẽ thấy. Một người sống từ thuở bé đến năm bảy mươi tuổi, cả đời chúng ta đâu có làm việc thiện hết, mà có lúc giúp người với lòng thương như Bồ-tát, nhưng cũng có lúc nổi sân làm khổ người như cọp sói. Tạo đủ thứ nghiệp tốt xấu lẫn lộn, do tạo nghiệp tốt xấu lẫn lộn, nên thọ quả cũng tốt xấu lẫn lộn, chớ không có thuần tốt hoặc thuần xấu. Kiểm lại mấy chục năm qua nghiệp của chúng ta có thiện có ác, như vậy thì thân đời này là tổng báo nghiệp của nhiều đời cũng như thế.

Nghiệp quá khứ chưa trả hết, đời này làm người trong khoảng thời gian nghiệp thiện kết tụ quả báo tốt, thì người đời cho là tốt là may mắn. Còn khoảng thời gian nghiệp ác kết tụ quả báo xấu, thì người đời nói là xui là rủi ro. Sự thực thì nghiệp quá khứ lúc trùng hợp với thời gian tạo nghiệp ác của đời trước, thì nghiệp ác sống dậy làm cho chúng ta gặp những điều không như ý. Nếu trùng hợp với thời gian tạo nghiệp thiện ở đời trước, thì nghiệp thiện sống dậy khiến chúng ta gặp những điều vui muốn ít được nhiều… Như vậy cái khổ cái vui trong cuộc sống hiện tại của con người, không do ai tạo hay không do ai đặt định ra cả, mà chính do mình tạo ra ở đời trước còn thừa lại. Nếu nghiệp thừa xấu thì phải chịu tai nạn, khốn khổ, khi nghiệp xấu hết, nghiệp thiện đến thì được những điều vừa ý vui thích. Thế nên đừng quá lo sợ sanh cuồng loạn còn khổ hơn nữa. Cứ bình tĩnh, nếu nghiệp (nợ) trước đòi thì vui trả, trả hết nghiệp xấu rồi tới nghiệp tốt thì tha hồ mà hưởng. Đừng quá lo sợ rồi sanh bệnh hoạn không nên.


HỎI: 
Thưa Thầy, con rất thích tụng kinh Phổ Môn và kimh Địa Tạng, thường tụng vào chín giờ hoặc mười giờ trưa, chiều vào lúc sáu giờ hoặc bảy giờ. Lắm lúc vì bận sinh kế nên con không giữ đúng giờ, con tụng trễ khoảng vài tiếng đồng hồ. Như vậy có trái phép và có trở ngại gì trong sự tu tập của con không? Xin Thầy chỉ dạy.

ĐÁP: Quý Phật tử siêng tụng kinh, nhưng vì sinh kế tụng không đúng giờ đã định. Tuy tụng kinh trễ nhưng không có lỗi gì. Nếu tới giờ tụng kinh như đã định mà lười biếng nằm dây dưa, tụng trễ thì có tội lười biếng. Nếu vì sinh kế mà tụng kinh trễ thì không sao.


HỎI: 
Thưa Thầy, con đã mang nhiều tật bệnh trải qua chín năm. Tự biết mình nghiệp nặng, nên con phóng sanh, niệm Phật nhiều, cùng lập các hạnh khác. Mặc dù vậy, nhưng thân con vẫn còn nhiều bệnh khổ. Vậy con phải tu hạnh nào để tiêu được bệnh khổ?

ĐÁP: Phật tử này ở trong hoàn cảnh bệnh khổ chín năm rồi, tuy có phóng sanh, có niệm Phật mà vẫn chưa hết bệnh, nên hỏi tu hạnh gì cho hết bệnh. Phật tử này bệnh đã chín năm là bệnh kinh niên, chớ không phải bệnh mới phát. Vậy Phật tử muốn hết khổ phải dùng trí tuệ quán chiếu như trong kinh Bát-nhã dạy: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Thấy năm uẩn không thật thì mọi khổ ách qua hết. Tu hạnh này là dễ nhất. Sở dĩ thấy mình đau khổ vì thấy thân này thật. Bây giờ nhân thân đau bệnh, nên xoay lại quán thân năm uẩn không thật, thân đã không thật thì bệnh từ đâu thật? Bệnh đã không thật thì có bệnh cũng như không bệnh. Tu cách này là hết khổ.

 

HỎI: Thưa Thầy, trong kinh Pháp Bảo Đàn Lục Tổ có nói: Chúng sanh bị ba chướng là nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng. Khi nào tâm thanh tịnh thì ba chướng mới hết. Thân tứ đại này tuy rằng giả tạm nhưng bị bệnh (báo chướng) thì khó tu. Vậy làm sao thân bệnh mà tu vẫn được?

ĐÁP: Với tâm phàm phu yếu đuối, khi thân bệnh là một cái chướng lớn khó tu, thông thường ai cũng vậy. Nhưng với người gan dạ thì chính khi đau là cơ hội dễ tu nhất. Đừng nghĩ ngồi thiền, tụng kinh, niệm Phật mới gọi là tu. Bây giờ quý vị bệnh, không ngồi thiền được, không tụng kinh được, quý vị quán thấy rõ thân này là tướng hư dối sắp bại hoại, không quý trọng nó, đau không sợ hãi đó là tu rồi. Đâu phải đợi ngồi thiền tụng kinh mới tu! Vì quý vị thấy mình ngồi thiền không được, tụng kinh không được, nên cho rằng bệnh làm chướng ngại tu không được, không phải như vậy. Dù tụng kinh hay không tụng kinh, ngồi thiền hay không ngồi thiền, tâm hằng tỉnh hằng giác, nằm mà vẫn thấy rõ thân này là tướng hư dối sắp bại hoại, không ngờ vực không sợ sệt, lúc nào cũng thấy như thế, đó là đang tu. Như vậy đau đâu có gì chướng?

 

HỎI: Thưa Thầy, bệnh từ thân sanh mà thân thì do nghiệp mà có. Phật tử tại gia cũng như xuất gia mỗi người đều có mang nghiệp. Vậy tu phải xoay duyên chuyển nghiệp như thế nào? Khi xoay duyên chuyển nghiệp, nghiệp có hết không hay phải trả y như cũ?

ĐÁP: Câu hỏi hơi dài, phải trả lời tuần tự. Trước hết nói về nghiệp thì Phật tử tại gia hay xuất gia đều có nghiệp, điểm này tôi đồng ý. Song, nghiệp của người xuất gia và tại gia có khác, khác ở chỗ: Cùng có thân là có nghiệp, nhưng người xuất gia có nghiệp mà biết đoạn nghiệp, còn người tại gia không đoạn không bớt. Ví dụ như người xuất gia tuy có nghiệp nhưng tới mười bảy, mười tám tuổi thì đi tu, không lập gia đình, không có vợ chồng con cái, là đã cắt bớt nghiệp rồi nên gọn, khi tu thì dễ không có gì rối rắm. Còn người tại gia có gia đình có con cái, khi muốn tu thì vợ không đồng ý, con khóc la nheo nhóc, không tu được nên chướng. Chẳng những thế, khi con lớn lên phải học hành, rồi có dâu rể, rồi có cháu chắt, nghiệp mọc rễ chằng chịt nên tu khó. Tuy cùng có nghiệp nhưng người xuất gia đoạn nghiệp bớt nên gọn, dễ giải quyết. Còn người tại gia cứ mặc tình để cho nghiệp mọc rễ chằng chịt, nên giải quyết khó. Đó là giai đoạn thứ nhất.

Giai đoạn thứ hai là khi đã lỡ tạo nghiệp tội, biết sám hối làm phước, nghiệp tội có tiêu không? Tôi ví dụ ông A khi có quyền thế đánh đập làm nhục ông B. Ông B oán hận chờ ngày trả thù. Một thời gian sau, ông A mất quyền thế nhưng lại biết tu, nên được nhiều người thương quý. Ông B bấy giờ có thế lực, tâm oán hận ông A vẫn còn, một hôm ông B đến hại ông A để trả thù. Nhưng bà con láng giềng thương quý ông A, ra can gián ông B nên ông A chỉ bị hại sơ sài thôi. Vậy có nghiệp phải trả, mà trả nhẹ vì đã biết tu nên có giảm.

Trong kinh Phật có kể một câu chuyện: Có một gia chủ chăn nuôi một bầy dê, một hôm có người thường dân tới trộm dê, bị gia chủ bắt được đánh đập đưa ra pháp luật bỏ tù. Lần khác, kẻ trộm dê là người của quan lớn, gia chủ chỉ bực tức nói nặng đôi câu, chớ không dám đối xử thậm tệ như người thường dân. Kế tiếp, kẻ trộm dê là lính của vua thì gia chủ không dám nói nặng, mà chỉ van xin năn nỉ đừng bắt dê. Người không biết tu thân, tu giới, tu tâm gây nghiệp bao nhiêu thì trả quả bấy nhiêu. Vì vậy mà nói nhân nào quả nấy, đó là ví dụ người trộm dê không thế lực. Trường hợp người trộm dê là lính của quan thì chỉ bị trách móc nặng nhẹ, đó là ví dụ cho người biết tu thân, tu giới, tu tâm, tuy có tạo nghiệp ác, nhưng thọ quả báo nhẹ hơn. Trường hợp người trộm dê là lính của vua, không bị đánh đập, không bị nói nặng, đó là ví dụ cho người tuy có tạo nghiệp ác, nhưng biết tu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp chuyển được tùy sức tu của mình.

HỎI: Thưa Thầy, bộ kinh Địa Tạng có ba quyển. Ngày đầu con tụng quyển thứ nhứt, rồi hồi hướng. Ngày kế con tụng quyển thứ hai, cứ như thế cho đến hết bộ mười ba phẩm rồi mới hườn kinh. Và, hôm nay con tụng kinh Địa Tạng, ngày mai con tụng kinh Phổ Môn, hoặc nửa tháng con tụng kinh Địa Tạng, nửa tháng con tụng kinh Phổ Môn. Thưa Thầy con tụng kinh như thế có được không?

ĐÁP: Tụng kinh tùy theo sức khỏe, khỏe tới đâu tụng tới đó, một quyển cũng được một phẩm cũng được, khi nào xong hồi hướng, hoặc tụng xong bao nhiêu hồi hướng bấy nhiêu đều tốt không hại gì. Phát tâm rộng rãi hồi hướng cho tất cả chúng sanh đồng được phước chớ không ích kỷ. Không cần đợi tụng hết quyển hoặc hết bộ mới hồi hướng. Còn việc ngày tụng kinh Địa Tạng ngày tụng kinh Phổ Môn, hoặc nửa tháng tụng kinh Địa Tạng, nửa tháng tụng kinh Phổ Môn cũng được. Xong, tháng nào tụng kinh Địa Tạng thì tụng kinh Địa Tạng, tháng nào tụng kinh Phổ Môn thì tụng kinh Phổ Môn, tụng một thứ kinh cho tiện. Có phải quý Phật tử sợ tụng kinh Địa Tạng thì Bồ-tát Địa Tạng vui, không tụng kinh Phổ Môn bỏ quên Bồ-tát Quán Thế Âm ngài buồn, nên phải chia ra tụng cho đều không? Làm như thế e hơi quá đáng.

 

HỎI: Thưa Thầy, thế nào là phước tuệ song tu? Chúng con là Phật tử tại gia có tu được không? Xin Thầy từ bi chỉ dạy.

ĐÁP: Đạo Phật thường dạy phước tuệ song tu và ví phước tuệ như hai cánh chim. Chim bay cao nhờ hai cánh, nếu gãy một cánh thì chim bay không được. Cũng vậy, người tu có phước mà không có tuệ thì chưa ra khỏi luân hồi sanh tử. Còn có tuệ mà không có phước thì chỉ tự lợi, chớ không lợi tha được và chưa tới chỗ giác hạnh viên mãn, thế nên nói thiếu. Vậy phước là gì và tuệ là gì, mà phải song tu mới được viên mãn? Tu phước là khởi lòng từ bi thương người thương vật, bố thí cứu giúp người vật cho hết khổ. Bố thí có ngoại tài thí và nội tài thí. Ngoại tài thí là dùng tiền của giúp người nghèo khó cho họ bớt khổ. Nội tài thí là dùng sức lực giúp người. Ví dụ đi đường thấy người già yếu sẩy chân té đứng dậy không nổi, tới đỡ dìu họ đứng dậy đưa về nhà săn sóc. Đó là nội tài thí. Ngoài nội tài thí còn có vô úy thí. Tức là bố thí khiến người hết lo sợ. Ví dụ người nào đó hay sợ ma quỷ quấy phá, chúng ta đem lý nhân quả giảng giải cho họ có chánh tín, tâm được ổn định họ hết sợ. Đó là vô úy thí mà cũng là pháp thí. Đó là tu phước bằng hạnh bố thí.

Tu tuệ là nương theo lời dạy của Phật để biết các pháp đúng như thật. Tuệ có ba là văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ. Quý Phật tử khi chưa đến chùa, sống theo nếp sống phàm tục, nay đến chùa nghe giảng kinh hiểu đạo, thấy biết thế nào là tà thế nào là chánh, thế nào là nhân thế nào là quả, cái nào là thật cái nào là giả. Do nghe mà có hiểu biết gọi là văn tuệ. Sau khi nghe hiểu biết rồi quý vị về nhà, những phút rỗi rảnh, ngồi suy nghiệm lại cuộc đời, xem những lời Phật dạy mà mình đã học có đúng không? Chẳng hạn như học lý nhân quả, chúng ta nghiệm xét cây đào to lớn như thế này từ đâu mà có? Từ cái hạt là nhân, gieo trồng xuống đất nhờ phân nước, ánh nắng mặt trời, sự chăm sóc mà thành cây có trái. Xét đến những vật khác không có cái gì không có nhân mà có quả, rõ ràng Phật nói các pháp do nhân mà có quả là đúng. Suy nghiệm để hiểu biết một cách thấu đáo không nghi ngờ mới ứng dụng lời Phật dạy vào đời sống của mình để cho bớt khổ, đó là tu huệ.

Tóm lại, nghe lời Phật dạy rồi suy nghiệm với thực tế thấy đúng, sau đó thực hành để mình và người được lợi ích, đó là tu tuệ. Còn tu phước là giúp người, vật qua cơn khổ. Hai hạnh này phải tu song song. Giả sử chúng ta học hiểu Phật pháp, suy nghĩ đúng, ứng dụng tu một mình, thấy ai khổ mặc ai không hề giúp đỡ, như vậy chỉ tu tuệ mà không tu phước. Còn thấy người ta nghèo đói, khốn khó cứ lo quyên giúp tiền của, mà không chịu học Phật pháp, không suy gẫm lời Phật dạy đúng hay sai, đó là tu phước mà không tu tuệ. Có phước thì đời sau sinh ra sung sướng, nhưng vì không hiểu Phật pháp, nhiều khi tạo nghiệp phải trầm luân. Còn có tuệ biết tu hành được phần tự lợi, nhưng không có phước, nói không ai nghe hết, rốt cuộc phiền não. Do đó phước tuệ phải song tu là vậy.

 

HỎI: Thưa Thầy, phần đông mọi người đến chùa cúng dường cầu phước. Cúng dường cầu phước là có ẩn lòng tham. Vậy cúng dường như thế nào mới tốt?

ĐÁP: Phật dạy cúng dường có từng bậc. Nếu người sơ cơ cúng dường cầu phước thì tốt. Tại sao? Vì có phước người ta mới làm lành, nếu không có phước họ không làm lành. Người sơ cơ cúng dường như thế cũng tốt. Người khá hơn phải cúng dường không cầu phước mà do tâm muốn được gieo duyên với Tam Bảo, mng đời đời gặp Phật pháp để tu. Trình độ sau cùng người bố thí không thấy có mình bố thí, không thấy có vật bố thí, không thấy có người thọ thí. Đó là bố thí siêu xuất gọi là bố thí Tam luân không tịch.

 

HỎI: Thưa Thầy, cầu siêu cho người mới chết và người chết lâu, người chết có lợi ích gì? Và, phóng sanh loài thú, loài thú nó đi ăn nuốt bao nhiêu con khác. Như vậy có nên phóng sanh không?

ĐÁP: Cầu siêu cho người mới chết thì hợp lý. Còn người chết đã lâu mấy chục năm thì đã sanh nơi khác, đâu còn lẩn quẩn quanh đây mà cầu siêu. Cầu như thế thấy như không có lợi. Tuy nhiên, Phật dạy khởi tâm làm lành thì được hai cái lợi. Cầu siêu cho cha mẹ lợi cho cha mẹ, mà cũng lợi cho chúng ta. Vì nếu cha mẹ sanh trong ngạ quỷ, mà kiếp ngạ quỷ sống cả ngàn năm rất là khổ, nên rất cần sức chú nguyện của người chân chính tu hành, để có chút sức mạnh giúp cho họ dễ tỉnh thức thoát kiếp ngạ quỷ, đó là có lợi. Còn nếu cha mẹ sanh ở cõi trời hay ở cõi người đang hoạt động sinh sống, chúng ta có cầu cũng không tỉnh thức. Nhưng vì lòng hiếu thảo cung kính Tam Bảo chúng ta cầu đó là phước của chúng ta. Như vậy cầu siêu không có thiệt thòi bên nào cũng có lợi.

Còn vấn đề phóng sanh phát nguồn từ lòng từ bi. Ví dụ như chúng ta thấy con cá lớn bị bắt lên cạn, sắp bị đập đầu nó giãy giụa, động lòng thương chúng ta mua nó về thả xuống sông. Được sống lại ở dưới nước, con cá đó ăn những con cá nhỏ để sống. Cứu sống con cá lớn để rồi cá lớn ăn cá nhỏ, như vậy chúng ta có chịu chung tội với nó không? Nếu có tội thì lúc tiền thân Phật hành hạnh Bồ-tát bố thí thân cho cọp đói ăn, cọp nhờ ăn thịt tiền thân Phật mà được sống, sau đó nó bắt heo rừng, bắt nai ăn thì Phật cùng có tội với bó sao? Chúng ta nên hiểu việc phóng sanh là do lòng từ của chúng ta phát khởi, khi thấy con vật sắp chết bị khổ mà làm, chớ không nghĩ mai kia con vật đó nó làm cái gì. Chúng ta cứu nó là vì lòng từ bi là được phước, còn chuyện mai kia nó làm gì là chuyện của nó, chúng ta đừng có lo xa quá. Vì lo xa quá nên không dám làm gì hết, rốt cuộc chẳng làm lợi ích gì cho ai. Chẳng hạn thấy người ăn xin, nghĩ có thể người này xin tiền về cờ bạc ăn chơi xa xí… Nếu cho tiền họ là nuôi dưỡng họ tạo tội thêm, nên không cho. Cứ nghĩ như vậy thì lòng từ của mình dần dần tiêu mất. Thấy cái gì cũng suy lý hết, nên không làm được việc gì có ích. Tu theo đạo Phật thấy người, vật khổ, liền khởi lòng từ bi cứu giúp cho lòng từ được phát triển, còn chuyện về sau là của người, của vật, không phải là chuyện của mình.

 

HỎI: Thưa Thầy, con tu Tịnh độ, vừa niệm Phật, vừa trì chú và tọa thiền hơn ba mươi năm nay. Một hôm lúc mười một giờ khuya, con ngồi niệm Phật thấy lửa cháy khắp mình con. Vì sợ cháy mùng nên con kêu cứu chữa thì thấy lửa tắt. Nhưng con bị mù mắt hơn bốn mươi năm nay sao lại thấy như thế?

ĐÁP: Phật tử này mù mà ham tu, một hôm ngồi niệm Phật trì chú lại thấy lửa cháy mình. Mù mà thấy lửa cháy là do mắt thấy hay cái gì thấy? Do tưởng thấy chứ không phải do mắt thấy. Phật tử này vì chưa học đạo kỹ, nếu học đạo kỹ thì khi ngồi thiền, hay niệm Phật thì thấy có những tướng lạ hiện, liền biết đó là tướng giả dối phóng hiện không thật. Kể cả thấy ma hay thấy Phật cũng đều là giả tướng phóng hiện, nên không sợ không mừng. Đó là an định sáng suốt làm chủ được mình. Nếu giả tướng hiện mà sợ hãi thì dễ phát cuồng điên, vì tâm sợ hãi kích động làm cho loạn trí. Do đó ngồi thiền hay niệm Phật trì chú phải tỉnh táo, thấy tướng lạ xuất hiện, biết nó là tướng hư ảo không thật, nên xem thường không sợ, sợ là bệnh.

HỎI: Thưa Thầy, chúng con tu muốn được thanh tịnh an vui, nhưng cứ bị chứng bệnh ái dục làm cho bất an khốn đốn hoài. Chúng con cũng đã từng quán thân mình bất tịnh và cũng đã lắng tâm quan sát những cảm giác từ sinh lý dấy khởi tác động qua tâm lý, hoặc từ tâm lý tác động qua sinh lý. Tuy có quan sát như thế nhưng cũng chưa dứt được tình dục. Kính mong thầy vì lòng thương xót chỉ dạy cho chúng con phương tiện để đối trị tình dục, để chúng con được an ổn trên con đường tu tiến.

ĐÁP: Ái dục là căn bệnh của tất cả chúng sanh chứ không riêng cá nhân nào. Chúng sanh sanh trong cõi Dục là do ái dục sanh, nên không ai mà không có. Đó là cái nghiệp truyền giống để có người, có vật tiếp tục sống trong cõi Dục này. Nếu ai cũng sợ khổ, đoạn dứt nghiệp này thì loài người không còn sanh trong cõi Dục nữa. Có những chỗ cho ái dục là cái linh thiêng để truyền nối giống nòi. Sự thật nó chỉ là nghiệp chớ không có gì linh thiêng cao cả. Chẳng hạn con bò, con chó… có linh thiêng gì đâu, do nghiệp truyền giống mà sanh sản ra con cái đầy đàn. Vì người ta muốn linh thiêng hóa nói nghe cho đẹp lỗ tai vậy thôi. Sự thật đó là nghiệp truyền giống mà ai cũng có. Nhưng làm sao cho hết để nó đừng làm cho bất an khốn đốn, đó là vấn đề không đơn giản.

Trong kinh A Hàm có ghi lại câu chuyện:

Một hôm tôn giả A-nan và tôn giả Bà-kỳ-xá đi khất thực, dọc đường Bà-kỳ-xá thấy một thiếu nữ tuyệt đẹp, thấy rồi tâm ý rối loạn, mất bình tĩnh, cầu cứu tôn giả A-nan chỉ cho cách điều phục.

Tôn giả A-nan bảo nên dứt trừ tưởng tượng sẽ hết dục.

Tôn giả Bà-kỳ-xá nói ý dục nằm ngủ sẵn nhiều như cỏ héo rối.

Tôn giả A-nan bảo nên nhớ Phật sẽ hết dục như tôn giả Nan Đà.

Tôn giả Bà-kỳ-xá nói: Nên đi khất thực, trở về chỗ Thế Tôn sẽ hay. Nhưng oái oăm, lúc đó cô gái đẹp thấy Bà-kỳ-xá, nàng mỉm cười. Bà-kỳ-xá nổi bực, quán thân thể cô gái đẹp là do da bên ngoài bọc lấy thịt xương bên trong, giống như cái bình có vẻ đẹp bên ngoài, nhưng ở trong chứa toàn đồ nhơ nhớp, mê hoặc người đời có gì đáng tham? Tôn giả Bà-kỳ-xá lại nghĩ: Ta quán thân kẻ khác không bằng tự quán thân mình. Xét thân tứ đại, Ngài tự hỏi: Dục này từ đâu sanh? Xét bốn đại không đại nào có ái dục hết. Vậy ái dục từ đâu sanh? Từ địa đại sanh chăng? Nếu từ địa đại sanh thì không thể được, vì địa đại cứng. Nếu từ thủy đại sanh thì không thể gìn giữ, vì thủy đại mềm yếu. Nếu từ hỏa đại sanh cũng không thể giữ được, vì lửa đốt sạch. Nếu từ phong đại sanh cũng không được vì phong đại vô hình làm sao sanh? Lúc ấy, Ngài dừng, không tưởng ái dục nữa. Ngang đây tâm hữu lậu được diệt tận, giải thoát mọi khổ đau.

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy có tư tưởng về tình dục thì tình dục mới phát khởi làm cho mình cuồng loạn. Nếu không tư tưởng về tình dục, thì người nam và người nữ đứng gần hay ngồi gần, đâu có ái dục bức xúc làm cho bất an. Nên nhớ, ái dục từ tư tưởng sanh, vừa có niệm ái dục dấy khởi là phải buông bỏ liền, ái dục lặng mất thì được an ổn, nếu nuôi dưỡng theo đuổi nó thì nó làm loạn, khốn đốn, tu không tiến. Cứ như thế mà thực hành lâu ngày tâm thuần thục có sức định thì ái dục yếu dần rồi sẽ hết.


HỎI: 
Người Phật tử tại gia khi hành thiền, có nhất thiết phải ly dục trong lãnh vực tình dục vợ chồng không?

ĐÁP: Người tu có hai hạng: Hạng tại gia và hạng xuất gia. Lúc Phật còn tại thế, những cư sĩ tại gia Phật cũng dạy tu Thiền, như vua Ba-tư-nặc, Tần-bà-sa-la… đang làm vua, cung phi mỹ nữ đầy cung mà Phật cũng dạy cho các quân vương tu theo Phật. Dạy cho cư sĩ tại gia tu thì Phật dạy tiết dục, để giữ gìn sức khỏe cho sự tu hành tăng tiến, chớ không bắt phải ly dục. Chỉ có người xuất gia thì Phật mới bắt xa lìa hẳn dục lạc.

HỎI: Thưa Thầy, con ham tu, đang ăn chay tụng kinh niệm Phật, cố bỏ tham, sân, si. Thế mà gặp chuyện con vẫn tham, vẫn sân, nhất là sân. Thưa Thầy, con phải làm sao để bỏ cho được sân hận?

ĐÁP: Đạo hữu sợ tham, sợ sân, vậy si đạo hữu có sợ không? Tham, sân tuy bộc phát mạnh, nhưng không đáng sợ bằng si. Tôi không khuyên quý vị tu nhẫn nhục hay từ bi để trừ sân. mà chỉ cho quý vị thấy tham, sân từ đâu mà có. Đó là điều phải lưu ý. Sở dĩ chúng ta có tham có sân mà chúng ta không bỏ được là tại cái gì? Do chúng ta thấy và chấp thân tâm này là quý là thật. Bởi chấp thân tâm thật quý, nên mới muốn được thụ hưởng đầy đủ, mà thụ hưởng đầy đủ là tham chứ gì? Tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc… để cung phụng cho thân tâm này. Do chấp thân này là ngã nên có tham. Còn sân do đâu mà có? Muốn mà không được nên sân. Ví dụ như mình muốn mua một món đồ, trả gần tới giá bán, chợt có người tới trả giá cao hơn, họ mua. mình không mua được nên nổi sân, có sân là do không thỏa mãn lòng tham. Như vậy, tham, sân có là do mê chấp thân tâm là thật là ngã mà ra.

Gần đây các nhà khoa học phân tách thấy cơ thể con người do nhiều loại tế bào hợp lại mà thành, cơ thể con người không phải là một cố thể hằng hữu. Những loại tế bào biến dạng không dừng. Vậy cái gì là ta thật? Đó là cái chấp theo y học. Còn Phật giáo thì nói thân này có bốn thứ: đất, nước, gió, lửa tạm hòa hợp mà thành. Thông thường nước với lửa thì khắc nhau, lửa gặp nước thì tắt, nước gặp lửa thì biến thái. Gió với đất cũng khác, đất chắn gió, gió cuốn đất. Vậy mà bốn thứ hợp lại thành thân người. Bốn thứ sung khắc nhau mà ở chung một nhà nên cứ bất hòa hoài. Nay cảm thấy người nóng, phải uống nước mát để điều hòa lửa vì lửa phải xoa bóp xoay bấm huyệt, vì gió mạnh đất rung rinh… Sống một ngày là điều hòa tứ đại một ngày, hết điều hòa nước tới điều hòa gió, hết điều hòa gió tới điều hòa lửa… Có điều hòa thân mới tạm yên. Nên điều hòa không được thì bất an đau khổ. Vậy, cả cuộc đời chúng ta sống chỉ làm việc điều hòa bốn đại mà thôi.

Kinh Đại Bát Niết-bàn Phật dụ bốn đại là bốn con rắn thù nghịch, ở chung trong một cái thùng cứ cắn lộn nhau hoài. Chúng ta cứ phải điều hòa can thiệp chúng, đến một lúc nào không can thiệp nữa, thì mỗi con đi mỗi nơi là hết việc. Như gió đi ra không trở lại thì chết, lửa đi ra không trở lại thì chết. Vậy, giá trị của cuộc sống là gì? Nhìn cho thật kỹ, rõ ràng chúng ta đang điều hòa tứ đại, điều hòa tạm ổn thì tạm an vui. Nếu nó âm ỉ bất hòa là bắt đầu đau khổ rồi. Tứ đại của quý vị có hoàn toàn hòa không? Nếu nó không chống đối mạnh mẽ thì cũng chống đối ngấm ngầm, nên lúc nào chúng ta cũng có bệnh, không bệnh nặng cũng bệnh nhẹ. Chúng ta nghiệm cho thấu đáo thì thấy cuộc sống của con người là sự vay trả. Thân này do bốn đại tạm hợp mà thành, thành rồi mà không tự đủ, phải nhờ tứ đại bên ngoài liên tục bồi bổ. Nếu bồi bổ mà gián đoạn thì nó sẽ rã tan. Vì vậy mà con người sống phải làm hai việc, một là điều hòa tứ đại trong thân, hai là tìm tứ đại ở ngoài bồi bổ cho tứ đại ở trong. Nếu là nước, đất, thì mỗi ngày chúng ta bồi chừng hai ba lần là đủ. Còn gió thì phải kiên liên tục, đem vô rồi trả ra… không ngừng. Cuộc sống có lúc nào ngưng mượn trả đâu? Cứ chạy lo kiếm tứ đại để bồi bổ và điều hòa thì có gì là thú vị? Một lát mượn một tách nước, một lát mượn một chén cơm, mũi thì lúc nào cũng khì khịt đó là mượn gió. Mượn trả mượn trả như vậy. Khi chưa mượn không khí ở ngoài là của ai? Không khí thiên nhiên của trời đất, không của riêng ai vậy mà mũi hít vô chưa tới ba giây đồng hồ trả ra nói là hơi của tôi! Nước ở ngoài không là của ai cả, mượn vào ít tiếng đồng hồ trả ra cũng nói là của tôi, mượn ít chén cơm mai trả ra cũng nói là của tôi. Thật chúng ta là kẻ ngang ngược lạ đời, không phải của mình dám nói là của mình. Mượn mà không nhớ mình mượn, của mượn đâu phải của mình, mà dám nói của mình! Như vậy đất, nước, gió, lửa là của mượn, không phải của mình, thân này do đất, nước, gió, lửa hợp lại thành thì đâu phải là mình. Thế mà người ta sợ mất nó! Người như vậy sáng suốt hay mê mờ? Do mê mờ nên chấp nó là mình, rồi lệ thuộc nó nên khởi tham, nếu tham không thỏa mãn thì nổi sân. Như vậy tham sân có phải gốc từ si mê mà ra không? Tứ đại không phải là mình mà chấp là mình, không phải si là gì?

Nếu biết thân này do tứ đại hợp lại mà thành, nó chỉ có trong tạm bợ hư dối, sống bằng sự vay mượn, hết vay mượn thì nó tan hoại, thì không chấp. Nếu không chấp thì không tham, không tham thì đâu có nổi sân. Vậy nếu muốn hết tham, hết sân, trước hết là phải hết si, si hết thì không có tham, sân. Nếu si chưa hết mà đòi hết tham hết sân thì không được. Si là số một, kế là tham, sau cùng là sân. Vậy mà đa số người tu chỉ sợ sân là cái nổi, không sợ cái chìm là si và tham. Muốn bớt sân và làm chủ nó thì phải phá si, si hết thì tham, sân theo đó sẽ hết.


HỎI: 
Thưa Thầy, muốn quay lại sống với Phật tâm, người Phật tử cần phải có những điều kiện gì, những yếu tố gì?

ĐÁP: Muốn quay lại sống với Phật tâm, người Phật tử cần phải biết thế nào là Phật, thế nào là tâm cho thật rõ. Trong nhà Thiền thường nói “tức tâm tức Phật”, nghĩa là tâm mình là Phật. Nói như vậy, có một số người hiểu lầm, cho rằng tâm suy nghĩ phân biệt là tâm Phật của mình, rồi chấp tôi có sẵn ông Phật, ông Phật lúc nào cũng có sẵn nơi tôi, hiểu như vậy là sai lầm. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật sợ chúng sanh lầm lẫn chỗ này, nên phương tiện chia ra hai thứ tâm là tâm chân và tâm vọng. Tại sao phải chia ra như thế? Vì tâm là “Biết”, biết trong trạng thái lăng xăng sanh diệt gọi là vọng tâm. Biết hằng hữu không phân biệt không động gọi là chân tâm. Chân tâm là tâm Phật nên nói “tức tâm tức Phật”. Trở về với tâm Phật là tâm không phân biệt không sanh diệt. Còn tâm phân biệt sanh diệt là tâm hư dối gọi là vọng tưởng, phải xa lìa nó không nên theo. Khi chúng ta đã biết Phật biết tâm rồi thì trên đường tu chúng ta phải phát tâm mạnh mẽ và lâu bền. Vì muốn thành tựu công hạnh tu hành, phải trải qua thời gian lâu dài, nếu muốn tu mau chóng thì không thể được, nên phải có tâm kiên cố, tu lâu dài không nản thì mới thành tựu được bổn nguyện. Đó là những yếu tố cần phải có để quay lại sống với Phật tâm.


HỎI: 
Thưa Thầy, trong sử có dạy: “Biết vọng là giác, mà giác là Phật”. Thầy cũng dạy nếu một triệu lần vọng tưởng khởi thì một triệu lần giác. Tu như vậy là dễ quá! Vậy hễ vọng tưởng khởi là cứ giác hòai?

ĐÁP: À, vọng tưởng khởi thì cứ giác hoài. Có nhiều người than: Sao nhìn lại mình thấy vọng tưởng nhiều quá! Tu mấy năm rồi mà vọng tưởng chưa hết. Tu cốt cho hết vọng tưởng để được định. Nếu vọng tưởng hoài thì làm sao định? Như quý vị đã biết, qua mấy mươi năm rồi, chúng ta sống chạy theo vọng tưởng, nhận nó là mình. Không bao giờ dám nhìn lại nó, bây giờ nhìn lại nó thấy nó là vọng niệm chợt khởi chợt mất, không phải là mình nên không theo. Chúng ta nhìn bằng trí tuệ không lầm không chạy theo nó nữa, đó là sáng rồi. Vọng tưởng còn hết việc đó nói sau. Thấy được nó, không lầm nó, không theo nó là đang sáng, tức là giác. Thay vì không thấy lầm nhận nó là mình rồi chạy theo nó là chúng ta đang mê. Bây giờ thấy, không lầm, không chạy theo nó là làm chủ được mình. Tôi nói xa một chút để quý vị thấy. Chủ yếu của đạo Phật là giác ngộ giải thoát. Muốn giải thoát thì giác ngộ phải đi đầu. Như vậy, trước nhất là thấy được vọng tưởng là cái mà lâu nay chúng ta lầm cho là mình, nó hư dối không thực, đó là giác rồi. Ví dụ, trước kia chúng ta ngồi thiền, vọng tưởng khởi, mê chạy theo nó đến mười lăm hai mươi phút. Bây giờ vọng tưởng vừa khởi liền biết không theo, vọng tưởng tự lặng. Nhưng những vọng tưởng khác khởi lên nữa chúng ta lại biết nữa, cứ biết hoài… Giai đoạn đầu tuy có hơi nhọc, nhưng chúng ta thấy được vọng tưởng, không lầm, không theo là chúng ta đã có sức tự chủ, chúng ta đã làm chủ được mình phần nào rồi. Mà làm chủ được mình tức là có tự do giải thoát. Đa số người tu Phật mơ ước được giải thoát và tưởng giải thoát là bay lên hư không, ngao du chỗ này chỗ kia, hoặc tưởng giải thoát là cái gì lạ lắm. Kỳ thực, giải thoát chẳng có gì lạ cả. Đối trước mọi duyên cảnh, dính mắc chạy theo duyên cảnh đó là hệ phược. Bây giờ cũng duyên cảnh đó, chúng ta cũng tiếp xúc, cũng thấy cũng biết mà không dính mắc, không bị hệ lụy bởi duyên cảnh. Đó là giải thoát. Tóm lại giải thoát là làm chủ sáu căn khi tiếp xúc với sáu trần. Một thiền khác đến hỏi một Thiền sư:

– Thế nào là giải thoát?

– Sáu căn tiếp xúc với sáu trần không dính mắc là giải thoát.

Đơn giản như vậy, nhưng với người đời thì khó thực hiện. Vì cái bệnh chung của con người là mắt thấy sắc liền phân biệt đẹp xấu, tai nghe tiếng liền phân biệt hay dở… rồi chê khen thủ xả khó mà dừng lại được, người dừng được không phải là người thường. Vì vậy mà gọi Phật là đấng Đại hùng đại lực. Có người nghi vấn Phật không cầm binh ra trận, không đánh ai sao nói ngài là Đại hùng đại lực, có nói suông không? Chúng ta nghiệm lại sẽ thấy đúng, vì có nhiều tướng lãnh cầm quân ra trận đánh giặc, thắng giặc, nhưng về nhà bị danh vọng, tiền tài, sắc đẹp lôi cuốn, tướng sĩ đó mới chỉ thắng người mà chưa thắng mình. Còn Phật thì thắng mình một cách vẻ vang, nên mới nói Đại hùng đại lực, hay nói: “Thắng một ngàn quân địch không bằng thắng mình, thắng được mình mới là chiến công oanh liệt nhất”. Phật dạy tu chủ yếu là thắng mình làm chủ mình. Chúng ta thấy quá tầm thường, không có chuyện gì lạ, cũng ăn, cũng mặc, cũng ngủ nghỉ như mọi người, không có gì huyền bí khác thường cả! Người đời thường nghĩ tu là phải biết quá khứ vị lai, có thần thông, có hào quang mới cao mới tuyệt. Còn tu mà cũng ăn, cũng mặc, cũng ngủ thì thường quá! Nhưng chính cái thường đó không phải thường, vì biết đúng cái nào chân cái nào giả không lầm, làm chủ được mình, không bị động bất cứ hoàn cảnh nào. Thường tình người đời không làm chủ được mình, bạn rượu rủ uống rượu cũng uống, rủ xem hát cũng xem, rủ hút thuốc cũng hút… không tự chủ. Như vậy, mới thấy chủ yếu của đạo Phật là giải thoát. Muốn giải thoát thì ngay bây giờ phải tập làm chủ mình, trước làm chủ thân, sau làm chủ tâm. Trước không để cho những thói quen như ghiền trà, ghiền thuốc… chi phối, sau đó là thắng được lòng tham lam, sân giận, si mê… Làm chủ được tâm rồi thì giải thoát hiện tiền.


HỎI: 
Thưa Thầy, người sơ cơ muốn tu Thiền, thực hành thẳng pháp tri vọng hay phải tu sổ tức, tùy tức cho thuần rồi mới tu pháp tri vọng?

ĐÁP: Người sơ cơ tu Thiền thực hành thẳng pháp tri vọng, hay phải tu sổ tức, tùy tức trước là tùy theo căn cơ của mỗi người. Nếu người mới tu mà nắm vững pháp tri vọng và thấy vọng tưởng khởi, buông không khó khăn lắm thì tu thẳng pháp tri vọng. Còn người chưa nắm vững pháp tri vọng, hoặc nắm vững mà vọng tưởng khởi buông không được thì chịu khó tu sổ tức, rồi tùy tức, để có chỗ tựa trong giai đoạn đầu, tâm thuần thục rồi ứng dụng pháp tri vọng.


HỎI: 
Thưa Thầy, ngồi thiền đến lúc đau quá chịu không nổi có nên ráng ngồi tiếp tục không?

ĐÁP: Chỗ này có người nói khi đau quá chịu không nổi thì đừng ráng, đừng kềm, không tốt. Nhưng qua kinh nghiệm bản thân tôi mới tập tu Thiền là lúc tôi lớn tuổi, vì lúc vô chùa tôi tu Tịnh độ, chỉ tụng kinh niệm Phật chớ không ngồi thiền. Khi phát nguyện tu Thiền, lúc đó tôi trên ba mươi tuổi, chân cứng lắm, mỗi lần tréo chân ngồi kiết già là đau điếng. Ban đầu tôi chỉ ngồi được mười lăm phút trong mười lăm phút đó cũng cay đắng lắm chứ không phải dễ. Từ mười lăm phút tôi cố gắng tăng lên hai mươi phút, rồi dần dần đến một giờ, một giờ rưỡi, ngang đây tôi cảm thấy khó mà vươn lên được nữa. Tôi tự nghĩ: Tại sao chư Tổ ngồi cả ngày được, bây giờ mình ngồi có bao nhiêu đây mà chịu không nổi? Cò lần tôi ngồi từ một giờ nhảy bật lên một giờ rưỡi xem nó ra sao? Lúc bấy giờ tôi bị nhức và tê từ chân lên tới bụng không còn cảm giác, coi như chết nửa thân người. Tôi tự nhủ: “Thà chết trên bồ đoàn” và tôi nói: “Tao chấp nhận cho mầy chết”. Nhưng sau đó tôi xả ra bóp một hồi thì bình thường trở lại không chết. Bấy giờ tôi có chút tự tin, tôi cố gắng ngồi nữa và tăng dần cho tới hai giờ, cơn tê nhức không còn nữa. Bấy giờ tôi ngồi hơn hai giờ, chỉ nghe nóng thôi, chớ không đau không tê. Như vậy, chúng ta mới thấy sức chịu đựng có khả năng vươn lên, nếu cảm thấy đau thì xả không nên ráng thì chừng đó thôi không tiến được.


HỎI: 
Thưa Thầy, có người nói “pháp tu biết vọng bị cột vào cái vọng không thoát ra được”. Xin Thầy dạy rõ pháp tu này, đồng thời cho biết tu “biết vọng” có bị cột vào cái vọng hay không cột vào cái vọng để hạng mới tập tu như chúng con thực hành không bị hoang mang.

ĐÁP: Pháp tu biết vọng là đường lối chủ trương của thiền viện. Chúng tôi dạy biết vọng là chặng thứ nhất. Chặng thứ hai thấy vọng tưởng không theo. Tại sao chặng đầu lại biết vọng? Vì tất cả chúng ta, từ người ít học cho đến hàng học giả trí thức, đều nhận cái suy nghĩ hiểu biết phân biệt là tâm mình, nên vừa khởi suy nghĩ là theo nó, cả ngày cứ sống trong vọng tưởng điên đảo không dừng được. Bây giờ muốn dừng không theo nó nữa, Phật dạy có nhiều cách tu để dừng, nhưng ở đây chúng tôi ứng dụng cách nhìn thẳng nó để dừng.

Từ thuở nào, vọng tưởng dấy chúng ta cho rằng tâm tôi nghĩ thế này, tâm tôi nghĩ thế kia. Bây giờ chúng ta tu để dừng nó, bước đầu phải biết cái nghĩ suy là vọng tưởng, không phải tâm mình để phá cái lầm từ bấy lâu nay. Đó là bước thứ nhất tỉnh giác. Tuy biết nó là vọng tưởng, nhưng chúng ta vẫn còn vọng động chạy theo. Muốn đối trị cái bệnh muôn đời này phải làm sao? Trong mười mục Tranh Chăn Trâu. Bước đầu tìm thấy được trâu, tuy đã thấy trâu, nhưng trâu vẫn hung hăng chạy ngược chạy xuôi. Mục đồng phải xỏ mũi, phải cầm roi, một tay lôi, một tay đánh, khả dĩ trâu mới bớt chạy ngược chạy xuôi. Trâu còn hung hăng chạy ngược chạy xuôi, mà nhìn nó cười làm sao nắm được cổ nó? Chừng nào mới lôi đầu nó được? Cũng vậy, vọng tưởng cứ khởi hoài chúng ta phải la rầy, lâu dần nó mới thuần từ từ. Khi vọng tưởng dấy lên chúng ta biết nó không theo, chẳng khác nào con trâu bị xỏ mũi dẫn đi. Khi nó chịu theo mình rồi, mình chỉ cần nắm dây mũi, mình đi đâu là nó theo đó. Và khi đã thuần thục rồi mình nhìn thấy rõ ràng không có niệm khởi, nhưng mình vẫn còn nhìn. Đó là bức tranh trâu mất mục đồng còn. Khi đã hoàn toàn thuần thục không còn một vọng niệm thì không cần nhìn nữa. Bấy giờ con trâu và người chăn không còn. Đó là những bước tiến của mỗi giai đoạn.

Thiền là đốn ngộ, nhưng vì chúng ta còn mê quá làm sao đốn ngộ được? Đốn ngộ không được chẳng lẽ không tu. Vì vậy mà chúng ta phải ứng dụng tu từ từ, khi đã thuần thục rồi thì năng sở không còn. Tuy nhiên, chưa phải là xong việc. Pháp tu biết vọng ở giai đoạn đầu còn dùng trí để nhìn, thấy vọng tưởng là hư dối không thật mà từ lâu lầm chấp cho là tâm mình. Đó là mình đã tỉnh, sống với trí tuệ. Còn quán là còn động, nhưng động của trí quán chớ không phải vọng động của mê tình.

Tôi ví dụ có một người khách xa lạ tới nhìn bà con, xin ở chung nhà và xin vô hộ khẩu với mình. Mình thật thà nhận người ấy là bà con cho vô hộ khẩu và cho ở chung nhà. Một thời gian sống chung người đó ăn cắp phá hoại của cải của mình. Mình khổ sở quá, bây giờ phải làm sao đây? Nếu cứ nghĩ người đó là người thân thì của cải tiếp tục mất và mình thì khổ dài dài. Thế nên giai đoạn thứ nhất phải biết người này là người khách xa lạ, không phải quyến thuộc của mình, là một kẻ trộm cắp. Mọi hành động của anh ta mình phải xem chừng. Vì nhìn chừng anh ta hoài, anh ta không lấy được nên mình không bị mất đồ. Tuy nhiên, chưa gạt hộ khẩu, anh ta vẫn còn ở trong nhà nên mình vẫn chưa yên. Chờ một thời gian, bắt được quả tang anh ta lấy trộm đồ, chừng đó đưa anh ta ra làng xã cắt hộ khẩu và đuổi anh ta ra khỏi nhà. Lúc đó mình mới yên ổn.

Giai đoạn đầu của pháp biết vọng là phải tỉnh. Như tôi đã nói, trước phải biết những ý niệm nghĩ suy tính toán là vọng tưởng, khi quở khi rầy để nó nhẹ nhàng và thưa dần. Đây là giai đoạn tâm còn động, song cái động này là động của trí, chớ không phải động của mê chấp, tuy động mà không phải lỗi. Khi vọng tưởng hết, cái quan sát vọng tưởng cũng buông luôn thì đâu có muộn. Tất cả pháp môn tu của Phật, giai đoạn đầu đều phải dùng phương tiện đối trí tương đối, sau đó tâm thuần thục rồi mới buông bỏ pháp đối trị tương đối. Nếu nói dùng pháp tu còn đối đãi tu không được thì không đúng. Vì tất cả tập khí si mê muôn đời mà không có pháp đối trị để trừ thì làm sao nó tiêu mòn? Thế nên bước đầu phải dùng phương tiện đối trị để tu. Pháp tu “biết vọng” xuất xứ từ bài kinh “Có Pháp Môn Nào” trong Tương Ưng bộ, Phật đã nói từ lúc Ngài còn tại thế, đến Tổ Bồ-đề-đạt-ma và Huệ Khả triển khai rộng ra. Câu chuyện này tôi thường kể có lẽ quý vị đã thuộc lòng. Một hôm, ngài Huệ Khả tự thấy tâm mình bất an, mới thưa rõ với Tổ Bồ-đề-đạt-ma:

– Bạc Hòa thượng, tâm con bất an. Xin hòa thượng dạy con pháp an tâm.

– Ngươi đem tâm ra đây ta an cho.

Huệ Khả xoay lại tìm tâm, tìm mãi mà không thấy tâm ở đâu. Ngài mới thưa:

– Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.

– Ta đã an tâm cho ngươi rồi.

Tại sao Huệ Khả tìm tâm không được mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma nói “Ta đã an tâm cho ngươi rồi”? Vì bấy lâu nay ai cũng cho vọng tưởng là tâm mình, nên nó làm nhiễu loạn bất an. Bây giờ tìm lại, nó lặng mất không còn một dấu vết, vậy là đã an rồi. Hằng ngày, chúng ta tu thấy vọng tưởng, biết vọng tưởng không thật không theo, nó tự lặng thì tâm không động yên ổn. Hoặc không quán nó là vọng tưởng mà nhìn coi nó xuất phát từ đâu, nó cũng tự lặng mất. Tu miên mật như thế một thời gian sẽ thuần thục, bấy giờ khỏi quở, khỏi rầy, khỏi tìm chỗ xuất phát của vọng tưởng, mà tâm vẫn an nhiên lặng lẽ. Vọng tưởng là khách, tánh hằng biết là chủ. Tu tuần tự như thế không sai không trái với tinh thần Thiền tông, lại hợp với kinh điển Phật dạy. Quý vị đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Lăng Già hay những kinh khác đều thấy tinh thần này Phật dạy rõ ràng.


HỎI: 
Thưa Thầy, trong quyển Thiền Căn Bản có đoạn dạy “thở qua lỗ chân lông”. Vậy chúng con có nên áp dụng không?

ĐÁP: Trong quyển Thiền Căn Bản, phần Lục Diệu Pháp Môn dạy: Sổ tức, tùy tức, chỉ, quán, hoàn, tịnh, có nói lúc điều tức hơi thở còn thô thì còn nghe tiếng động, ngồi yên hơi thở tế dần dần dường như không còn thở nữa. Lúc đó thì các lỗ chân lông đều thở. Đó là nói trong trường hợp tu sử dụng pháp Lục Diệu Pháp Môn, hơi thở đi từ thô đến tế, chớ không phải tập thở bằng lỗ chân lông. Nếu tập thở như vậy hóa ra luyện khí công hoặc luyện Yoga chớ không phải tu Thiền. Phật dạy chúng ta tu Thiền cốt để định tâm, ban đầu mượn hơi thở để định tâm, hơi thở từ từ êm nhẹ, dường như có dường như không. Lúc đó thấy như không có hơi thở, vì hơi thở quá nhẹ quá tế, nên có thể theo lỗ chân lông ra vào, chớ không phải nín thở cho hơi thở ra vào lỗ chân lông. Thở như vậy là lối luyện tập cơ thể chớ không phải thiền định.


HỎI: 
Thưa Thầy, chư Tăng Ni ở Thiền Viện lao động cực nhọc, ăn uống đạm bạc, mà tinh thần thanh thản sắc diện vui tươi. Chúng con cư sĩ cũng học giáo lý Phật, cũng tập tu, phương tiện vật chất thì đầy đủ. Chẳng biết các con tu có khuyết điểm gì, mà không được như các thầy các cô? 

ĐÁP: Như tôi đã nói, người xuất gia đoạn bớt các duyên, còn cư sĩ thì có nhiều duyên chưa cắt, nên tâm phân tán không an. Các thầy các cô khi đi làm cỏ cuốc đất, thể xác tuy có nhọc nhằn nhưng tâm hồn thì nhẹ nhàng thảnh thơi. Còn quý Phật tử thân đi làm, mà tâm thì lo ra, nhớ đứa con nhỏ sợ nó trốn học đi chơi, nhớ đứa con kế sợ nó theo bạn bè tập nhiễm những thói hư tật xấu, lo cho đứa con lớn làm ăn thất bại… Con cháu đông, thân ngồi ở đây, mà tâm lo ở kia, vì tâm bị chi phối quá nhiều nên bất an, khí huyết sức khỏe cũng theo đó mà suy giảm. Các thầy các cô ngay khi đi tu, thấy đúng với nghĩa tu là coi như mình đã chết với gia đình, nên cuộc sống gia đình không trói buộc họ nữa, đã không trói buộc thì quá thảnh thơi. Còn chuyện chùa là chuyện chung, được cắt đặt việc gì thì làm việc đó, làm xong là nghĩ nên tâm an. Tâm an thì thảnh thơi, tuy ăn đạm bạc mà khỏe.


HỎI: 
Thưa Thầy, con đang sống trong phiền muộn, nếu xuất gia để quên phiền muộn thì con không đủ can đảm để làm. Vậy thực tại con phải sống như thế nào để bớt ưu phiền?

ĐÁP: Phật tử này rất thực tế, tâm có sao nói vậy. Đạo hữu đang phiền muộn, nếu có xuất gia cũng không chắc hết phiền muộn. Ở ngoài đời thì bất mãn phiền muộn chuyện ngoài đời, xuất gia vào chùa cũng có chuyện trong chùa khiến cho đạo hữu bất mãn phiền muộn. Đừng hiểu lầm xuất gia là hết phiền muộn, mà phải ngay bây giờ buông hết phiền muộn, đó mới thật tu. Như người ghiền rượu, biết uống rượu là tốn tiền, sanh bệnh, mất trí tuệ, thiếu nhân cách. Bây giờ muốn hết ghiền rượu, người khác có làm thế mình được không? Chắc chắn là không được, mà chính bản thân người ghiền rượu phải gan dạ không uống rượu. Cũng như đạo hữu đang phiền muộn, đạo hữu phải gan dạ vất cái phiền muộn đó đi, bằng cách nhìn người, vật bên ngoài cũng như trong bản thân mình, thấy tất cả đều là tướng duyên hợp không thật, đã không thật thì có gì để phiền muộn? Cái gì xảy đến đều thấy nó không thật, cười chơi với nó. Mai kia mình mất nó cũng hoại có gì mà phiền muộn? Cứ như vậy mà quán rồi khéo xả bỏ thì hết phiền muộn.

HỎI: Thưa Thầy, con người phải hội đủ những yếu tố nào mới tu được?

ĐÁP: Người tu nào cũng có những yếu tố để mà tu, song, biết sử dụng hay không biết sử dụng những yếu tố mình có mới là việc đáng nói. Chúng ta thường nghe các thầy nói, người thiếu căn thì không được thọ giới cụ túc, tức là hoặc mắt mù, hoặc tai điếc, hoặc lưỡi câm, hoặc ý đần độn… thì không được thọ giới cụ túc. Nhưng chúng ta thấy trong sử ghi ngài A Na Luật mắt mù tu chứng quả A-la-hán, ngài Bàn Đặc Ca quá dốt học kinh kệ không nhớ một câu, tu chứng được quả A-la-hán. Như vậy là do không biết sử dụng các căn sẵn có hay là do thiếu căn? Đa số chúng ta ai cũng mắt sáng, tai thính, ý thông minh… có đủ sáu căn là hội đủ điều kiện để tu rồi. Có điều là chúng ta có chịu học hiểu đúng chánh pháp của Phật hay không, có gan dạ buông bỏ những thói hư tật xấu hay không mà thôi.


HỎI: 
Thưa Thầy, theo pháp tu Thiền, nếu tu ba nghiệp: thân, khẩu, ý thì tu như thế nào? Và, đạo Phật lấy giác ngộ giải thoát làm gốc. Vậy mỗi ngày hai mươi bốn giờ làm sao ứng dụng trí Bát-nhã để tu?

ĐÁP: Thông thường tu là chuyển ba nghiệp ác thành ba nghiệp thiện, đó là giai đoạn một gọi là giai đoạn chuyển nghiệp. Qua giai đoạn hai thì không còn chuyển nghiệp nữa, mà tu cốt làm chủ ba nghiệp, mỗi tác động của ý của miệng của thân phải làm chủ trọn vẹn. Ví dụ: Đi thì biết mình đi, ngồi thì biết mình ngồi, nằm thì biết mình nằm. Tất cả mọi động tác luôn luôn được trí tuệ soi suốt, thấy biết rõ ràng không lẫn lộn, không quên lãng. Đối với người không tu, làm mà không biết mình làm, nói không biết mình nói, cứ nói làm càng bướng, sau rồi ăn năn hối hận. Với người tu Thiền thì mọi hành động, mọi ngôn ngữ, mọi ý niệm phát khởi đều biết rõ ràng và làm chủ được nó. Đó là dùng trí để thấy rõ từng động tác của ba nghiệp.

Ứng dụng trí Bát-nhã trong lãnh vực tu Thiền thì như tôi đã nói: “Tất cả các pháp không thọ”. Bởi tất cả các pháp đối đãi ở thế gian này tạm đặt ra để mà dùng với nhau, nó không thật. Vì nó tạm không thật nên không chấp, không chấp thì không tranh cãi, không tranh cãi thì không khổ đau. Ví dụ có người khỏe mạnh, tay chân còn đủ mà đi xin ăn. Ông A nghĩ họ nghèo khổ nên cho tiền cho gạo giúp đỡ họ. Ông B thấy vậy, cho rằng ông A tốt, chẳng những đối với người cùi đui xin, ông A giúp, mà người còn chân tay nếu nghèo thiếu xin, ông A cũng giúp. Nhưng ông C cho rằng người khỏe mạnh tay chân còn đủ mà đi xin, ông C cho là ông A bị lừa gạt, vô tình ông A giúp cho người lười biếng ăn không ngồi rồi ăn bám xã hội, không tốt. Hai người cùng nhìn một đối tượng, mà thấy khác nhau, người thì khen là tốt, người thì chê là không tốt. Vậy chúng ta xét xem hai cái thấy đó cái thấy của ai là chân lý và cái thấy của ai phi chân lý? Quý vị thử đánh giá xem đúng ở chỗ nào sai ở chỗ nào? Xét kỹ, cái nhìn đúng sai không có tiêu chuẩn nhất định, mà tùy theo quan niệm của mỗi người, ai cũng có lý riêng của mình. Lý luận của ông B cũng có lý, lý luận của ông C cũng có lý, có lý theo quan niệm của mỗi người. Nếu chúng ta chấp chặt một bên là chân lý thì sẽ tranh cãi mãi. Mà tranh cãi thì sanh thù oán đánh đập lẫn nhau gây đau khổ cho nhau. Đó là một sự việc trong nhiều sự việc ở trên đời này, không có tiêu chuẩn chung để thẩm định tốt xấu, mà do quan niệm riêng của mỗi người. Người khởi ý niệm thì cố chấp vào ý niệm của mình và cho là đúng. Đó là một sai lầm lớn cho nên Phật dạy: “Phải biết tôn trọng chân lý”. Tôn trọng chân lý là cùng thấy một sự việc, mà mỗi người có quyền thấy biết theo quan niệm của mình, không bắt buộc người khác thấy như mình thấy. Đa số người đời mắc phải bệnh chấp “Cái thấy của tôi là đúng, là chân lý, ai thấy khác tôi là người đó thấy sai”. Thế nên từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, người ta cãi nhau đánh nhau không dừng nghỉ, bởi chấp cái thấy của mình là chân lý, rồi bắt kẻ khác phải thấy như mình thấy. Mình thấy như thế nào thì nói tôi thấy như thế ấy, đó là cái thấy của mình. Nếu người kia thấy khác cũng là cái thấy của người kia. Mỗi người có quyền thấy theo nhãn quan của mình, không ai có quyền bắt thấy như thế này là đúng, thấy khác đi là sai. Như vậy là biết tôn trọng chân lý. Trong cuộc sống giữa đời này quý vị thấy có cần tôn trọng chân lý không? Nếu không tôn trọng chân lý thì sẽ cãi nhau hoài. Tất cả khổ đau của kiếp người không phải chỉ đói cơm, rách áo mới là khổ. Có nhiều người giàu sang vương giả, sống với ai cũng bất đồng quan niệm, gây xung đột gây phiền hận đánh giết lẫn nhau, đó là tại không biết tôn trọng chân lý. Ai cũng muốn bắt người khác nhìn theo cái nhìn của mình, nhưng làm sao thấy giống nhau được? Một việc hết sức nhỏ và gần là việc ăn uống. Cái lưỡi của người này thì thích món này, cái lưỡi của người kia thì thích món kia, kẻ ưa ăn mặn người ưa ăn lạt… Nếu mình thích món nào, cho món đó là ngon và bắt người khác ăn theo mình; làm như vậy không được, vì người khác cũng có quyền thích món khác. Nếu mọi người ai cũng đều bắt kẻ khác theo ý mình trong khi người ta không thích, thì sống có đau khổ không? Thế nên, hiểu tới nơi rồi thấy Phật dạy chí lý vô cùng. Những cái thấy tốt xấu khác nhau đó là tùy theo nghiệp duyên của mỗi người. Nếu biết rõ như vậy thì không có chuyện gì xảy ra cả. Còn ai cũng cho cái thấy của mình là chân lý, người khác thấy không giống mình là sai là bậy, thì bao nhiêu chuyện tranh cãi rắc rối xảy ra.

Theo tinh thần Bát-nhã thì đối với tất cả pháp, thấy nó do duyên hợp mà có giả tướng không có thật thể cố định, nên không chấp nó là thế này thế nọ. Nếu không chấp là không thọ, thì nội tâm tịch diệt được Niết-bàn. Đó là ứng dụng trí Bát-nhã để tu hằng ngày. Vậy Niết-bàn là giải thoát. Người mà thấy các pháp đúng như thật, không chấp là người trí, người đó giác ngộ giải thoát không nghi ngờ, đó là tu Thiền. Đạo Phật là đạo giác ngộ bằng trí tuệ, nên đối với tất cả các pháp, không một pháp nào mà Phật không dạy dùng trí tuệ để quán. Thấy được lẽ thật thì gọi là trí. Pháp Phật đưa chúng ta đến giải thoát là hướng dẫn chúng ta dùng trí tuệ ban sơ rồi dần dần tới trí tuệ viên mãn. Do đó mà trong nhà Phật thường nói “Truyền đăng tục diệm”, tức là trai đèn tiếp lửa, hay nói cách khác là trao truyền ánh sáng trí tuệ. Trong kinh Phật dạy: “Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”. Chánh pháp là ngọn đuốc trí tuệ sẵn có của Phật, muốn cho trí tuệ chúng ta sáng, nhưng tự mình không phát sáng được, nên phải mồi qua ngọn đuốc trí tuệ của Phật, để cho trí của mình được sáng. Tu là thắp đuốc trí tuệ cho sáng rực lên. Vì vậy mà tôi dùng chữ Chiếu đặt tên cho các Thiền viện để nhắc thiền sinh luôn luôn phải soi sáng tâm mình, chớ để mờ tối mê lầm.

Thời nay, đa số người đến với đạo vì lòng tin hơn là trí tuệ. Rủ nhau đi chùa cúng lạy cho có phước, đi được mười chùa là năm đó được bình an. Tới chùa chỉ tới bằng niềm tin chớ không tới bằng trí tuệ. Đạo Phật là đạo trí tuệ, thế mà không thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ lên mà đi, chỉ biết tin, tin Phật như ông thần ban phước giáng họa vậy. Đến với đạo Phật sai lầm như thế, cho nên tu không tiến, thậm chí càng tu càng nhiều phiền não nữa. Có người nói tụng kinh Pháp Hoa nghiệp đổ. Đổ nghiệp là do đâu? Tại quý vị nghe nói tụng kinh Pháp Hoa phước nhiều nên ham, chùa mở hội tụng kinh Pháp Hoa thì đua nhau đi tụng, không đi sợ thiệt thòi. Nhưng gia cảnh của mình còn bận rộn, bỏ nhà đi thì việc làm ăn bê bối, lui sụt, nên bị chồng con la rầy, rồi cho là đổ nghiệp. Nghiệp đâu mà đổ vậy? Tại quý vị không thấy được lẽ thật, hoàn cảnh của mình chưa cho phép mình làm điều đó, vội làm thì không được như ý, nên bực bội cho là đổ nghiệp.

Nếu đến với đạo Phật, tu bằng trí tuệ thì đâu có việc đáng tiếc xảy ra. Lúc nào cũng soi lại mình, thấy rõ mình từng phút từng giây, tới chùa cũng tốt, không tới chùa cũng tốt. Ở nhà mà dùng trí thấy rõ từng ý niệm sai lầm, từng lời nói bất thiện, từng việc làm ác, liền dừng không theo. Những điều xấu tự bản thân mà mình bỏ được thì cũng như đi chùa tu đâu có khác. Còn tụng kinh Pháp Hoa tính bộ mà không dừng ba nghiệp ác, thì cũng như chưa tu. Đó là cái sai lầm của người Phật tử học đạo bây giờ. Tôi nói đây không phải bài tác tụng kinh. Đi chùa tụng kinh khi nào gia cảnh xuôi thuận, con cái lớn khôn, ở nhà không làm gì thay vì cờ bạc, xem hát… thì nên đi chùa lạy Phật tụng kinh tốt hơn. Còn nếu gia cảnh đang bận rộn, người nhà đang đầu tắt mặt tối lo cho cuộc sống chung, mà mình phó mặc, cứ xách gói vô chùa tụng kinh hoài, làm sao trong gia đình không xào xáo phiền não?


HỎI: 
Thưa Thầy, như Thầy nói, phần đông Phật tử đến với đạo Phật bằng lòng tin hơn là trí tuệ. Ngay như bản thân con, trước đây cũng đi chùa tụng kinh niệm Phật. Sau đến với thiền con cũng chưa biết gì, được vị thầy này dạy nên khán thoại đầu, đến thầy khác bảo đếm hơi thở, lại vị kia dạy nên an trú trong việc làm của mình hằng ngày… Pháp nào con cũng thực hành, song loạn tưởng vẫn cứ dấy khởi không thuyên giảm, nên con niệm Phật trở lại. Con biết tu như thế là bệnh, nhưng không biết phải đối trị như thế nào; xin Thầy từ bi chữa trị cho con bằng pháp môn tu Thiền, ngày đêm dụng công ra sao? Điều thân điều tâm như thế nào?

ĐÁP: Theo tôi thì thầy dạy đếm hơi thở để tiến tới chỗ định tâm, đó cũng là pháp tu tốt của vị sư ấy. Thầy dạy khán thoại đầu để đưa đến chỗ ngộ đạo, tôi cũng tôn trọng pháp tu của thầy đó. Vì tôi thuộc mẫu người tôn trọng chân lý. Nhưng riêng tôi, tu thiền phải dùng hai cách: Cách mà tôi tâm đắc nhất là pháp tu không phương pháp của Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Khi xưa tôi nghiên cứu về Tổ Bồ-đề-đạt-ma thấy nói đâu đâu, không liên quan gì với sự tu hành, tôi không hiểu gì hết, không thấy Ngài đặt ra một phương pháp để tu, qua câu chuyện ngài Thần Quang thiết tha cầu đạo, đứng ngoài tuyết suốt đêm tuyết ngập lên tới gối. Tổ ngoái nhìn lại hỏi:

– Người cầu cái gì mà dùng khổ hạnh vậy?

Thần Quang đáp:

– Xin ngài dạy con pháp môn cam lồ.

– Pháp môn cam lồ đâu có thể dùng chút ít khổ hạnh cỏn con mà được!

Thần Quang tha thiết như vậy mà Tổ chê là khổ hạnh cỏn con! Thần Quang buồn quá bèn chặt một cánh tay dâng lên để tỏ ý chí cầu đạo của mình. Tổ bảo:

– À, khá đó.

Và đặt tên là Huệ Khả. Câu chuyện có hay không thì ở đây miễn bàn. Chúng ta chỉ hiểu câu chuyện nói lên ý chí tuyệt vời của người cầu đạo.

Khi Tổ nhận cho Huệ Khả làm đệ tử rồi không dạy gì hết. Một hôm ngài Huệ Khả khổ quá mới thưa:

– Bạch Hòa thượng, tâm con bất an, xin Hòa thượng dạy con phương pháp an tâm.

Giống hệt như chúng ta, tâm Ngài Huệ Khả cứ xao xuyến bồn chồn mãi nên Ngài xin Tổ dạy cho phương pháp để định tâm. Tổ nhìn sửng vào mặt Huệ Khả bảo:

– Đem tâm ra ta an cho.

Theo cái thấy của chúng ta thì Tổ thật là vô lý, đệ tử xin dạy phương pháp tu mà Ngài không dạy gì cả, bảo “đem tâm ra ta an cho”. Nghe câu này chúng ta thấy lúng túng. Nhưng Huệ Khả là người xuất cách, Ngài bèn nhìn lại cái nghĩ tưởng lăng xăng, mà lâu nay Ngài cho là tâm thì không thấy nó đâu cả. Ngài mới thưa:

– Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.

Tổ nói rất nhẹ:

– Ta đã an tâm cho ngươi rồi.

Từ đó ngài Huệ Khả biết đường vào cửa thiền. Quý vị thấy Tổ dạy pháp môn gì? Nếu là người không có duyên với thiền nghe Tổ nói như thế, thấy như đùa chơi không nghĩa lý gì hết, nhưng đó chính là cửa bước vào thiền. Bởi vậy sau này ngài Đức Sơn mới nói: “Tông ta không ngữ cú, không có một pháp cho người”. Thiền tông không có phương pháp tu thứ bậc. Quý vị cũng như chúng tôi lúc trước đều nghĩ, tu là phải có phương pháp để nương vào đó mà thực hành. Nhưng Tổ dạy tu theo phương pháp gì? Ngày trước đọc tới chỗ này, tôi lắc đầu. Không có phương pháp làm sao tu được? Tổ nói như đùa! Nhưng nếu nhận được ý chỉ thì hay đáo để, hay quá sức tưởng tượng của mình. Nên khi ngộ, chư Tổ bật khóc là vậy, chỗ không bao giờ mình ngờ chính là pháp tu. Quý vị có nhận ra không? Chỉ có một ít người gật đầu, còn đa số thì ngẩn ngơ!

Đây, tôi chỉ cho quý vị thấy: Lâu nay chúng ta cho rằng cái nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ phải, nghĩ quấy… là cái tâm của mình. Trăm người như một đều chấp như vậy. Bởi chấp niệm suy nghĩ là tâm mình nên cứ khởi nghĩ tứ tung, vì nghĩ tứ tung nên bất an. Bây giờ phải tu theo pháp nào để đừng khởi nghĩ và tâm được an? Ở đây Tổ không dạy pháp gì hết, bảo: “Đem tâm ra ta an cho”. Tức là đem niệm nghĩ suy mà ông cho là tâm đó ra đây ta an cho. Ngài Huệ Khả sực nhìn lại cái mà Ngài cho là tâm xem nó ra sao? Tìm lại thì nó mất tiêu. Ngay đó thì tâm Ngài đã an. Nên Tổ nói: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi!”. Khi thấy niệm nghĩ suy nữa thì tâm an chứ gì! Không thêm một pháp nào hết.

Bây giờ quý đạo hữu thử nghiệm xem. Mình đang suy tính chuyện này, chuyện kia liền nhìn lại coi nó ra sao? Khi nhìn nó thì nó tự lặng không còn nữa. Vậy “niệm nghĩ suy” và “cái nhìn” niệm nghĩ suy, hai cái có khác nhau không? Niệm nghĩ suy thì lăng xăng lộn xộn, chợt khởi chợt mất, còn “cái nhìn” niệm nghĩ suy thì nó lặng lẽ mà sáng suốt, không động. Khi niệm nghĩ suy lăng xăng lộn xộn đã mất, chỉ còn lại “cái nhìn” lặng lẽ thì tâm không an là gì? Rất đơn giản. Khi ngài Huệ Khả nghe đến đó, tâm bừng sáng lên, không nghi ngờ. Còn chúng ta nghe qua thấy mù mịt! Nếu dạy điều thứ nhất phải thực hành như thế này, điều thứ hai phải thực hành như thế này… tiến từng bậc một, thì có thể làm. Ở đây bảo phải nhìn lại cái nghĩ tưởng lăng xăng, khi nhìn nó thì nó lặng mất. Do đó nên tôi nói cái nghĩ tưởng lăng xăng lộn xộn đó là cái hư dối không thật, gọi nó là vọng tâm hay vọng tưởng.

Từ lâu chúng ta lầm cho vọng tưởng là mình, bây giờ mỗi khi nó dấy khởi, nhìn nó biết nó là hư dối không theo nó là tu. Dường như không dạy mà đã dạy. Nếu khi vọng tưởng lăng xăng khởi, nhìn nó, nếu nó không lặng, thì tìm coi nó xuất phát từ đâu? Tìm, không thấy chỗ xuất phát của nó, rõ ràng vọng tưởng không có nguồn gốc chợt hiện rồi mất. Vậy, không có pháp an tâm mà tâm được an. Người tu theo Thiền tông bằng trí tuệ không phải bằng lòng tin.

Từ lâu mọi người ai cũng lầm nhận cái suy tư nghĩ tưởng là ta (ngã). Vậy, ta có khi nào vắng không? Ta lúc nào cũng hiện hữu không bao giờ vắng mặt, còn cái suy tư nghĩ tưởng chợt hiện chợt mất sao gọi là ta được? Lúc không nghĩ tưởng thì ta ở đâu? Biết rõ cái suy tư nghĩ tưởng là hư dối không thật đó là trí tuệ. Tuy vọng tưởng chưa hết, nhưng trí tuệ đã phát sáng thì từ từ sẽ làm chủ được nó. Bởi lâu nay chúng ta lầm nhận nó là “ta”, nên chạy ngược chạy xuôi theo nó. Bây giờ biết nó là hư giả, không theo, đó là biết quay trở lại với đạo. Khi chưa học đạo chúng ta tưởng đạo xa lắm, tưởng đạo là cái gì đó huyền bí phi thường, nên có nhiều người vô rừng lên núi tìm đạo. Nhưng đạo chính là cái tâm chân thật có sẵn ở nơi mỗi người. Vậy có được mấy người biết được tâm chân thật đó. Thế mà mở miệng ra xưng là ta là tôi, nhưng không biết cái ta chân thật là cái gì?

Đạo Phật không cho phép chúng ta ngồi suy tính chuyện bên ngoài mà không tự biết mình. Nếu không biết cái gì là mình, cái gì không phải là mình thì người đó chưa phải là người trí. Người trí biết được mình rồi mới chinh phục những cái không phải là mình, nên không còn lệ thuộc nó nữa và không bị nó chi phối làm cho khổ đau. Vì vậy, khi người nhận ra được thể chân thật nơi mình rồi thì cười hoài. Biết được mình mới là điều chủ yếu của sự tu hành. Nếu chưa biết được mình mà biết nhiều chuyện bên ngoài cũng chỉ là trò đùa, cũng vẫn trầm luân trong vòng luân hồi không có ngày dừng.

Như vậy tôi đã chỉ cho quý vị tu chưa? Tôi chỉ theo tôi, tôi nói tôi không đúng, quý vị khác sai, vì tôi tôn trọng chân lý.


HỎI: 
Thưa Thầy, mười Bức Tranh Chăn Trâu, bức tranh chín và mười biểu trưng phần tự lợi viên mãn rồi lợi tha. Nhưng chúng ta phần tự lợi chưa xong, nên phần hoằng pháp lợi tha dễ bị sai lạc, vậy chúng con phải làm sao? 

ĐÁP: Trong mười Bức Tranh Chăn Trâu, từ mục một đến chín biểu trưng cho phần tự lợi, mục mười biểu trưng cho phần lợi tha, hành giả thõng tay đi vào chợ, đi vào đời làm lợi ích cho người. Hiện tại chúng ta tu chưa tới bức tranh mười thì làm sao lợi tha? Điều này tôi xin trả lời: Chúng ta tu giống như người đi học, nếu học hết cấp, không còn lớp để theo học nữa thì đỗ Tiến Sĩ. Nhưng bây giờ chúng ta chỉ học tới lớp 12 thôi, như vậy là chúng ta học chưa xong. Hiện tại chung quanh chúng ta có mấy người bị mù chữ, họ muốn học để biết chữ. Chúng ta dạy họ biết đọc biết viết, có sợ dạy sai hay không? Chắc chắn là không sai, vì chúng ta dạy thấp chứ không dạy cao. Nếu chúng ta học lớp 12 mà đòi dạy bậc đại học thì sẽ dạy không được, vì quá sức học của mình. Tôi thường lưu ý quý vị, mình tu được 5 phần, nếu có người hỏi thì nói một hoặc hai ba phần thì bảo đảm không trật. Nếu tu năm phần, ai hỏi phần thứ sáu thứ bảy là phần chúng ta chưa tới, mà giảng nói e trật. Chúng ta nên thật thà khôn ngoan nói: “Chỗ này để tôi nghiên cứu lại”, chớ đừng tỏ ra mình khôn lanh thông suốt để lòe thiên hạ thì tai họa. Đó là trường hợp tu chưa đến chỗ cứu cánh, mà vẫn làm việc lợi tha được.


HỎI: 
Thưa Thầy, điều phục sáu căn, chủ yếu là nhãn căn và nhĩ căn, thế mà con cứ bị sắc trần và thinh trần làm loạn động. Thưa thầy, con phải làm thế nào để điều phục? 

ĐÁP: Trong sáu căn chủ yếu là tu nhân căn và nhĩ căn, mắt thấy sắc tâm xao xuyến, tai nghe tiếng tâm loạn động, vậy phải làm sao? Phương tiện tu hành thì có nhiều cách, nên tôi thường nhắc quý vị tu phải linh động. Có khi phải nhìn lại tâm mình thấy vọng tưởng khởi không chạy theo. Nói theo “Tứ Liệu Giản” của Tổ Lâm Tế thì gọi là “đoạt nhân bất đoạt cảnh”. Nghĩa là cảnh bên ngoài cứ mặc nó, chỉ dẹp vọng tưởng ở nội tâm mình thôi. Tu như thế mà tâm vẫn còn lăng xăng, thì phải ứng dụng cách thứ hai là “đoạt cảnh bất đoạt nhân”, tức là dẹp cảnh bên ngoài mà không dẹp vọng tưởng ở tâm. Dẹp cảnh bên ngoài là sao? Nghĩa là thấy sáu trần do duyên hợp như huyễn như hóa không thật. Mắt thấy sắc biết sắc là tướng duyên hợp hư dối, tâm từ từ hết lăng xăng. Tai nghe tiếng khen tiếng chê, biết nó có là do duyên hợp hư dối không thật, nghe qua rồi mất, tâm từ từ hết lăng xăng. Như vậy, tu có nhiều cách, hoặc xoay lại nhìn vọng tưởng lăng xăng ở tâm mình (đoạt nhân chẳng đoạt cảnh), hoặc quán trần cảnh bên ngoài không thật (đoạt cảnh chẳng đoạt nhân). Hoặc vọng tưởng nơi tâm và ngoại cảnh bên ngoài đều dẹp sạch (nhân cảnh đều đoạt). Khi không còn vọng tưởng, tâm không còn dính mắc với trần cảnh bên ngoài, tâm lúc nào cũng lặng lẽ sáng suốt, không cần phải dụng công tu (nhân cảnh đều chẳng đoạt).


HỎI: 
Thưa Thầy, theo pháp tri vọng thầy dạy, chúng con có được dùng pháp quán để đối trị tâm bệnh trong lúc ngồi thiền hay không? 

ĐÁP: Như tôi vừa nói, chúng ta tu hoặc xoay lại nhìn tâm lăng xăng của mình, hoặc quán trần cảnh bên ngoài không thật. Nếu khi ngồi thiền tâm quá xao xuyến, điều phục không nổi thì phải dùng pháp quán để phá. Chúng ta phá nó bằng cách đặt câu hỏi: “Cái gì đang xao xuyến?”.

Giả sử hồi chiều nghe người ta nói nặng mình một câu, mình trả lời chưa xứng. Bây giờ ngồi thiền cứ nhớ những lời nói nặng đó mãi, dẹp không được thì phải quán. Quán xét những lời nói đó từ đâu mà có? Những lời nói đó là hơi phát ra từ rốn, lên cuống họng, ra lưỡi, lưỡi uốn qua uốn lại thành tiếng. Do những duyên đó hợp lại thành tiếng, thoáng qua rồi mất, nó không thật, tại sao mình ôm ấp phiền giận? Quán như vậy một hồi, tự thấy mình vô lý, buông bỏ những lời nói đó, tâm được yên ổn. Nếu đang giận hậm hực, tìm câu nói nào cho hơn để trả lời thì tâm càng thêm sân giận, không dẹp phá được. Giờ ngồi thiền trở thành giờ cãi lộn, thêm phiền não không lợi ích.


HỎI: 
Thưa Thầy, trong bốn oai nghi đều phải tu. Vậy khi tiếp xúc với Phật tử, lúc đó có tu hay không?

ĐÁP: Đừng hiểu tu Thiền là ngồi im bất động, mà trong mọi oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín… lúc nào cũng tu. Khi im lặng thì nhìn lại tâm mình, thấy có vọng niệm khởi liền buông, không theo thì tâm vắng lặng. Khi tiếp duyên với Phật tử thì nói những lời đạo lý, nhắc nhở mọi người cùng tu. Những lời mình nói ra cũng xuất phát từ tâm thanh tịnh, giống như nước trong hồ khi lặng vẫn trong, khi nổi sóng cũng vẫn trong. Vì nước đã trong rồi thì dù lặng hay động nó vẫn trong. Nước ao nước hồ có bùn có cặn, nếu bị chao động nổi sóng là đục ngay. Vì vậy mà lúc nào chúng ta cũng phải tu, khi yên lặng thì tu theo cách yên lặng, khi tiếp duyên thì tu theo lối tiếp duyên. 


HỎI: 
Thưa Thầy, tu Thiền khi lâm chung phải làm sao?

ĐÁP: Người tu Thiền khi sắp chết có những trường hợp như thế này:

– Người dụng công tu đến chỗ tâm hằng thanh tịnh sáng suốt thì làm chủ mình hoàn toàn, ngay cả cái chết đến tâm vẫn bình thản an nhiên không lo sợ loạn động, vì đã biết đường đi.

– Người dụng công chưa làm chủ được tâm mình, lúc sắp chết tâm lo sợ loạn động. Lúc đó phải vận dụng hết thần lực trí lực quán chiếu, để thấy rõ thân này cảnh này là huyễn hóa không bền chắc, cho bớt chấp thân, như vậy ra đi có phần tự do.

– Người sắp chết mà thần lực trí lực quá yếu, không quán chiếu được thân cảnh không bền chắc tạm bợ, phải nhờ Thầy Tổ huynh đệ đến tụng kinh Bát-nhã hay Kim Cang khiến cho nhớ và duyên theo lời Phật dạy, dừng tâm quyến luyến thân, quyến luyến người, quyến luyến cảnh, ra đi cho dễ dàng.


HỎI: 
Thưa Thầy, ngộ lần đầu và ngộ lần sau có như nhau không? Ngộ lần đầu còn phải tiệm tu lâu dài, làm sao biết được giai đoạn sau cùng là lúc nào?

ĐÁP: Câu hỏi này tôi chỉ trả lời phân nửa, chớ chưa trả lời hết được. Tại vì tôi chưa ngộ lần cuối cùng, nên không trả lời phần này. Theo Thiền sử thì các Thiền sư tiểu ngộ hàng chục lần, đại ngộ cũng năm ba lần. Lục Tổ Huệ Năng khi còn là cư sĩ gánh củi đi bán, một phen nghe người tụng kinh Kim Cang, tâm liền khai ngộ. Sau đó Ngài đến Huỳnh Mai tham học với Ngũ Tổ. Một hôm, Ngài trình sở ngộ, được Ngũ Tổ cho vào thất để giảng kinh Kim Cang, giảng tới câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, ngay đó Ngài đại ngộ bèn thốt lên: “Đâu ngờ tánh mình vốn tự thanh tịnh, đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt…”. Sau lần ngộ này Ngài được Ngũ Tổ ấn chứng và truyền y bát. Lần ngộ đầu và lần ngộ này có khác không? Lần ngộ đầu chỉ thấy “bổn lai vô nhất vật”, lần ngộ sau thấy “sáu căn không dính mắc với sáu trần”, thì nhận ra tánh mình từ xưa vốn thanh tịnh, vốn không sanh diệt… lần sau Thầy đại ngộ nhận sâu hơn lần trước. Giống như quý Phật tử mới học đạo, đọc kinh lần đầu thấy hay, dụ như tiểu ngộ, lâu lâu đọc lại càng hiểu sâu hơn càng thấy hay hơn, dụ như đại ngộ. Như vậy lần ngộ đầu cạn, lần ngộ sau sâu không giống nhau. Còn lần ngộ chót là triệt ngộ, nghĩa là thấu suốt trùm khắp không giới hạn, lần ngộ đầu còn giới hạn.

HỎI: Thưa Thầy, con đọc kinh thấy Phật dạy tu là phải buông xả tất cả. Nhưng khi tâm trí buông xả thì ảnh hưởng đến nhân tình và sinh hoạt hằng ngày không tốt. Còn nếu nhiệt tình tích cực làm việc thì ảnh hưởng đến tâm trí, tâm trí chao động khó thanh tịnh. Con muốn tu tâm trí được an tịnh mà việc làm vẫn tích cực. Vậy con phải tu như thế nào xin thầy chỉ dạy?

ĐÁP: Câu hỏi này là câu hỏi thiết yếu và thực tế của người tu hành, nhất là người Phật tử tại gia còn làm việc trong xã hội. Tôi dạy Tăng Ni và Phật tử tu, cũng dạy buông xả mà buông xả tích cực chứ không phải buông xả tiêu cực. Nghĩa là làm tất cả mà không chấp vào việc làm của mình, đó là buông xả tích cực. Còn làm cái gì dính cái nấy, hoặc sợ quá nên bỏ, đó là buông xả tiêu cực. Ví dụ sáng quý vị đi làm công tác xã hội, giúp cho người tàn tật, nghèo đói, bệnh hoạn được no ấm an vui, ai cần là giúp, việc gì cũng làm, làm tích cực suốt ngày. Làm xong, chiều về nhà quý vị tắm rửa, ăn uống rồi đi tụng kinh, ngồi thiền. Mọi việc làm trong ngày buông hết không nghĩ đến, ngủ dậy sáng đi làm nữa, làm xong buông hết không nhớ không nghĩ tới, cứ thế mà làm và tu thì tâm trí không động, việc làm vẫn tích cực. Còn nếu sáng đi làm, chiều về nhớ mình làm việc này cho người này, việc kia cho người kia, người này tên A, người kia tên B, ghi vào sổ để mai mốt kể công kể ơn với họ. Nếu người nào quên ơn thì mình buồn trách, làm như thế là làm vì danh, tâm bị động chưa biết buông xả. Đó là hành động buông xả và không buông xả bên ngoài.

Đối với nội tâm, chúng ta luôn luôn phải buông xả, mà buông xả không phải không làm. Tôi nói niệm khởi phải buông. Song, buông không cho nghĩ gì hết sao? Chỗ này quý vị phải lưu ý thật kỹ để ứng dụng tu, kẻo thực hành sai. Ví dụ sáng thức dậy thấy có những việc đáng làm, chúng ta khởi niệm khoảng ba phút hoặc năm phút để sắp xếp. Sau khi sắp xếp xong bắt đầu thực hành, từ đó niệm khởi cứ buông, chỉ làm thôi chớ không suy nghĩ. Như vậy buông xả vọng niệm không trở ngại công việc đang làm. Như thế, làm việc mà vẫn tu được không trở ngại. Còn nếu sáng thức dậy vừa nghĩ làm việc gì liền buông bỏ không cho nghĩ, thì không sắp xếp và cũng không làm được việc gì. Buông xả như thế là buông xả tiêu cực, rốt cuộc chỉ ngồi không, không làm được gì cả. Vì khởi nghĩ là phải bỏ, không cho nghĩ thì biết làm gì đây?

Chúng ta phải hiểu cho rõ chỗ này. Xả là không chấp công mình giúp người. Xả là không nhớ và mong mỏi người mình giúp đền ơn mình. Và, người tu Thiền xả là luôn luôn để cho tâm thanh tịnh, khi làm việc chỉ biết làm việc, hoàn toàn làm chủ mình, không để tạp niệm xen lẫn. Buông xả như thế rất tích cực chớ không tiêu cực, quý vị nên tu tập như vậy không bị mâu thuẫn.


HỎI: 
Thưa Thầy, pháp môn “biết vọng” mà Thầy dạy chúng con tu có trải qua giai đoạn nhập Diệt tận định không?

ĐÁP: Pháp tu biết vọng mà tôi dạy cho quý vị tu là pháp tu của Thiền tông gọi là Tổ sư thiền. Còn Diệt tận định là thiền của Thanh văn. Thiền Thanh văn hành giả tu đến Diệt tận định thì chứng Tam minh, Lục thông đắc quả A-la-hán. Còn thiền biết vọng tu đến lúc sạch hết vọng tưởng thì thành Phật, chớ không chứng A-la-hán nên không nhập Diệt tận định. Vì hành giả khi nhập Diệt tận định thì không còn cảm thọ và tâm tưởng nên gọi là Diệt thọ tưởng định. Lúc đó còn hơi ấm mà không còn cảm thọ và tâm tưởng, nên giống người chết. Người tu đến Diệt tận định thì sạch hết vô minh hoặc lậu, chứng quả A-la-hán.

Đường lối tu Thiền ở đây như Lục Tổ nói trong kinh Pháp Bảo Đàn: “Nếu đại định thì không có nhập xuất, nếu còn nhập xuất thì chưa phải đại định. Tại sao vậy? Vì khi nhập thì định, khi xuất thì không định. Còn định của Tổ sư thiền thì đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng định hết. Lúc nào cũng định thì đâu có nhập có xuất, nên nói Đại định. Dù cho thấy, nghe, cảm giác, nói, nín… tâm luôn luôn bất động. Chính chỗ này mà Lục Tổ chủ trương định tuệ đồng đẳng.

Nếu nhập Diệt tận định thì có định mà không có tuệ, vì không có cảm giác và không nghe biết gì cả, lúc đó an trú trong định tuyệt đối. Hai cách tu Thiền này không giống nhau. Chúng ta tu cũng ngồi thiền, nhưng ngồi thiền để dễ điều phục tâm thêm sức mạnh, để lúc xả thiền đối trước trần cảnh không bị lôi cuốn. Tuy chúng ta ngồi thiền, nhưng không lấy sự ngồi thiền làm cứu cánh của sự tu, mà phải tu ngay trong mọi sinh hoạt của cuộc sống hằng ngày. Đó là chỗ sai biệt của hai cách tu.


HỎI: 
Sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì sáu thức mới khởi. Nhiều khi sáu căn con không tiếp xúc với sáu trần mà vọng thức cũng vẫn khởi là tại sao?

ĐÁP: Trong câu hỏi, tuy đạo hữu nói sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh ra sáu thức. Kỳ thực đạo hữu chỉ thấy nhãn căn tiếp xúc với sắc trần sanh ra nhãn thức, Nhĩ căn tiếp xúc với thinh trần sanh ra Nhĩ thức, Tỷ căn tiếp xúc với thinh trần sinh ra tỷ thức, Thiệt căn tiếp xúc với vị trần sinh ra thiệt thức, Thân căn tiếp xúc với pháp trần sanh ra thân thức, còn Ý căn tiếp xúc với pháp trần sanh ra ý thức, thì đạo hữu quên hoặc không thấy, nên mới nói như vậy. Pháp trần là bóng dáng của năm trần trước lưu lại sau khi năm căn trước đã duyên. Khi mắt không tiếp xúc với sắc, tai không tiếp xúc với thinh, mũi không tiếp xúc với hương, lưỡi không tiếp xúc với vị, thân không xúc chạm với nóng lạnh, trơn nhám, bấy giờ ý căn mới duyên với bóng dáng của năm trần này (pháp trần). Thế nên khi xếp chân, thân ngồi yên mà ý nhảy nhót lăng xăng như vượn khỉ, lát nhớ việc này, lát nghĩ việc kia đủ thứ. Vì vậy mà nhiều Phật tử thắc mắc tại sao ban ngày làm việc thì ít vọng tưởng, tối ngồi thiền tâm chạy nhảy như khỉ như ngựa? Sao ngồi thiền tâm lại động hơn lúc làm việc?

Chỗ này không có gì lạ, lúc làm việc, mắt thấy sắc thì chăm chú nhìn sắc, tai nghe tiếng bận duyên theo tiếng… pháp trần đâu có cơ hội trồi lên cho ý căn duyên theo mà chạy nhảy. Nhưng khi ngồi lại, mắt không còn tiếp xúc với sắc, tai không còn tiếp xúc với thinh, mũi không còn tiếp xúc với hương… thì lúc đó là lúc ý căn và pháp trần tung hoành, nên chúng ta thấy nó chạy nhảy lăng xăng. Những cái chạy nhảy lăng xăng đó là những cái bóng do năm căn trước duyên với năm trần còn lưu lại. Lúc ngồi thiền là lúc đối trị loại bỏ những bóng dáng hình ảnh (pháp trần) này. Những bóng dáng này lúc nào cũng có, vì lúc làm việc chúng ta bận tâm với công việc, nó không có cơ hội trồi lên và chúng ta cũng không để ý tới nó, nên không thấy. Lúc ngồi thiền năm căn trước không duyên với năm trần, nên có cơ hội trồi lên ý căn liền duyên theo nó, và chúng ta chăm chăm nhìn nó nên thấy nó nhiều. Thấy nó, biết nó, không theo thì nó lặng mất.


HỎI: 
Thưa Thầy, hạnh Bồ-tát con rất thích tu, lợi tha nhỏ thì con làm được, nhưng lợi tha lớn con không làm nổi. Hạnh Thanh văn và hạnh Bồ-tát sai khác như thế nào, xin thầy chỉ dạy cho con tu theo.

ĐÁP: Trước hết tôi nói hạnh Bồ-tát. Quý vị nhớ hạnh Bồ-tát không phải một đời là tu xong. Vì nói tới hạnh Bồ-tát là nói tới vô số kiếp. Đời này chúng ta làm được việc lợi ích cho người này chính ta làm được việc lợi ích cho người trong sự tỉnh giác bao nhiêu, thì bản ngã mòn nhỏ bấy nhiêu và công đức lợi tha tăng trưởng thêm lên. Sở dĩ chúng ta làm việc lợi tha lớn chưa được là vì bản ngã chúng ta còn lớn, làm lợi cho người ít mà nghĩ lợi cho mình nhiều. Bao giờ bản ngã chúng ta nhỏ hoặc tan vỡ hết thì hạnh lợi tha mới viên mãn. Ví dụ chúng ta có một ngàn đồng, một người nghèo đói đến xin một ngàn đồng, để lại phần mình năm trăm đồng chớ không dám cho hết. Thế nên hạnh Bồ-tát làm chưa tròn. Giúp người phân nửa hoặc một phần ba thì được, giúp hết thì làm không được. Điều đó chứng tỏ, bản ngã chúng ta có giảm bớt chớ chưa hết, vì vậy mà hạnh Bồ-tát thực hành chưa xong. Song, hạnh Bồ-tát đâu phải một đời là làm viên mãn, nên từ lúc phát tâm Bồ-đề tu hạnh Bồ-tát, cho đến khi viên mãn phải trải qua vô số kiếp.

Tâm Bồ-tát là tâm lợi tha rộng lớn, Phật tử phát được tâm này rất quý. Cứ vững chí mà tiến, đừng nghĩ mình phải làm việc lớn, việc nhỏ mình làm ít quá, mai kia chết đi hạnh Bồ-tát thực hành chưa xong. Tùy duyên, gặp việc nhỏ làm việc nhỏ, gặp việc lớn nếu làm được thì làm, làm chưa được tạm để đó rồi sẽ làm, có làm còn hơn không. Mỗi lần làm việc lợi tha là mỗi lần giũa mòn bản ngã. Nhớ làm là vì lợi ích cho người, chớ không phải làm vì danh thì mới hợp đạo lý. Người thế gian vì bản ngã to nên lợi tha không được. Có tiền là để dành phần mình, có quyền lợi là để cho con cháu mình, thế nên không làm việc lợi tha được. Lợi tha là quên mình, quên mình đã phá ngã. Đó là hạnh Bồ-tát.

Hạnh Thanh văn thì nặng nề về mặt tự lợi, các vị tu theo hạnh Thanh văn rất tinh tấn. Các Ngài nghĩ phải làm cho xong việc của mình là tu cho sáng đạo, hết vô minh lậu hoặc, ít có thì giờ nghĩ đến việc khác, nên hạnh nguyện lợi tha hạn chế trong sự giải thoát của mình. Ví dụ bây giờ tôi nghĩ tôi phải nhập thất tu cho sáng đạo. Khi nhập thất tôi không tiếp ai hết, nếu không tiếp người thì hạnh lợi tha tôi thiếu. Không tiếp người tôi cố gắng tu là việc tốt, tuy tốt nhưng chỉ làm cho xong việc của mình. Khi giải quyết xong việc của mình, lại có thêm việc thứ hai là dứt được mầm sanh tử, nên cứ an trụ trong cảnh thanh tịnh, không muốn tái sanh trở lại làm việc lợi sanh, vì thấy sanh tử là khổ. Do đó an trụ mãi trong Niết-bàn. Người tu hạnh Bồ-tát tâm lợi tha mạnh, tuy biết cõi Ta bà khổ nhưng sẵng sàng lao mình vào cảnh khổ, để làm lợi ích cho chúng sanh. Sở dĩ các Ngài gan dạ như thế là vì các Ngài thấy tất cả pháp như huyễn hy sinh một trăm một ngàn cái thân huyễn cũng không có giá trị gì. Chúng ta vì thấy thân thật nên một lần hy sinh là một lần thấy đau khổ, bởi thế nên chúng ta chưa mạnh, chưa tròn đầy.

Tóm lại, hạnh Bồ-tát và hạnh Thanh văn hạnh nào cũng tốt, hạnh nào cũng quý, nhưng hạnh Bồ-tát thì tinh thần lợi tha tích cực. Còn hạnh Thanh văn lo tu giải quyết cho xong việc của mình, rồi an trú trong Niết-bàn, hơi nghiêng về mình nên có phần tiêu cực hơn. Tôi giảng trạch ra như thế tùy quý vị thích tu hạnh nào cũng được.


HỎI: 
Thưa Thầy, đối với Bi, Trí, Dũng người học đạo cần phải có hạnh nào trước?

ĐÁP: Bi, Trí, Dũng, đối với người học đạo thì phải khởi Trí trước, kế đó là Dũng, sau đó là Bi. Tại sao vậy? Vì có Trí mới nhận ra cái nào là giả cái nào là chân. Cái giả thì bỏ, cái chân thì bảo nhậm giữ gìn. Nếu không có trí thì không phân định được cái giả, cái chân nên không tu được. Khi đã có trí biết rõ cái giả, cái chân thì nỗ lực ứng dụng tu một cách mạnh mẽ đó là Dũng. Khi nỗ lực tu có kết quả rồi, thấy mọi người chưa biết tu đang đau khổ, thương họ mới ra giáo hóa giúp họ tu cho bớt khổ, đó là Bi. Trên chữ nghĩa thì nói Bi, Trí, Dũng, nhưng thực tế tu hành thì trước hết là Trí, kế là Dũng, sau là Bi.


HỎI: 
Thưa Thầy, khi xưa đức Phật và các thầy Tỳ-kheo không phải lao động nên có nhiều thì giờ tọa thiền. Bây giờ chúng con lao động nhiều, nên tối ngồi thiền hay bị ngủ gục. Như vậy chúng con tu bao giờ mới có kết quả?

ĐÁP: Đây là điều đáng ngại cho một số người sơ cơ mới vào Thiền viện. Khi Phật còn tại thế, chư Tỳ-kheo mỗi ngày đi khất thực một lần, trưa thọ trai, chiều và tối ngồi thiền. Các Ngài dồn hết tâm lực để tu, nên sớm ngộ đạo, ngay trong đời chứng quả. Các con phát tâm tu trong giai đoạn này là thời mạt pháp có nhiều duyên không thuận. Vì vậy mà thầy phải vạch một hướng tu cho tạm ổn để các con tu. Biết rằng lao động, cuốc đất, xịt thuốc… làm chết côn trùng sâu bọ, giới sát giữ không tròn, tổn thương lòng từ bi. Nhưng vì hoàn cảnh đất nước nghèo, chúng ta phải lao động mới có cơm ăn, đi khất thực thì không thuận hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam hiện tại. Chẳng lẽ bây giờ chúng ta bó tay không tu, vì thế phải uyển chuyển tu theo hoàn cảnh. Thời xưa chư Tỳ-kheo dồn hết ngày giờ cho việc tu nên các Ngài mau đắc đạo. Bây giờ các con phải lao động ngày một buổi, tuy tối ngồi thiền bị buồn ngủ vì mệt nhọc, nhưng còn nhớ tu vẫn có lợi ích hơn là không tu.

Chủ trương của thầy ngày nay giống Tổ Bá Trượng. Các con phải tu trong hoạt động, trong việc làm, chớ không phải chỉ tu trong lúc ngồi thiền. Ngay trong lúc cuốc đất, nhổ mạ, cấy lúa, nhổ cỏ… cũng là giờ chúng ta tu. Thầy thường nhắc: các con làm cái gì chỉ biết làm cái đó. Cuốc đất chỉ biết cuốc đất, nhổ mạ chỉ biết nhổ mạ, cấy lúa chỉ biết cấy lúa… tâm các con không nghĩ tưởng chạy theo việc khác, tâm lúc nào cũng tỉnh sáng. Như vậy lúc lao động là lúc tu, chớ đâu phải không tu. Trong lúc các con lao động đừng phóng tâm ra ngoài, làm chỉ biết làm và thấy được niệm lo ra của mình để làm chủ mình, đó là tu trong việc làm. Như vậy là suốt ngày lúc nào cũng tu, nếu các con chỉ tu trong lúc ngồi thiền tụng kinh thì tu quá ít, sức tỉnh giác quá yếu, không đủ sức làm chủ mình trong hoàn cảnh khó khăn.

Các con đừng đặt ngồi thiền là trên hết, mà phải tu trong việc làm, trong mọi hoàn cảnh, lúc nào cũng phải tỉnh, phải thấy được mình. Đừng để tâm chạy ngược chạy xuôi như trâu hoang thì rất tai hại, mà phải cầm vàm cầm roi chăn giữ nó. Các con phải biết rõ đường hướng tu mới không thiệt thòi, không còn băn khoăn than thở vì ngồi thiền ngủ gục khó tu.


HỎI: 
Thưa Thầy, ngồi thiền có trạng thái nửa mê nửa tỉnh, để lâu ngày có sao không? Trạng thái này có phải là vô ký không?

ĐÁP: Ngồi thiền có trạng thái nửa mê nửa tỉnh, đúng là trạng thái vô ký. Vì trạng thái này không ghi nhớ rõ ràng. Thế nên, ngồi thiền thà gục một hai cái rồi tỉnh luôn, chớ đừng nửa tỉnh nửa mê không tốt. Khi ở trạng thái nửa mê nửa tỉnh ráng chấn chỉnh lại, mở mắt sáng ra cho tỉnh thì khỏi trạng thái vô ký này.


HỎI: 
Thưa Thầy, đọc trong thiền sử con thấy chư Tổ khai ngộ cho đệ tử không nói trắng ra, vì nói trắng chỉ hiểu mà không ngộ. Ngày nay Thầy dạy chúng con, Thầy giảng rõ hết làm sao các con ngộ?

ĐÁP: Theo tinh thần của Thiền tông, thiền sinh đến tham vấn, thiền sư chỉ nói úp mở, hoặc hỏi bên đông trả lời bên tây, để cho người có trí tuệ nhận được. Khi nhận được thì họ thích thú nhớ lâu gọi là ngộ. Ngày nay Thầy không nói như vậy bởi nhiều lý do: Lý do thứ nhất là nhiều người nghe nói tới tu Thiền là sợ, vì cho rằng thiền dành cho bậc thượng căn, còn hạng trung căn hạ căn trong thời mạt pháp không thể tu được, nên không tu. Lý do thứ hai là nhiều người nói: “coi chừng tu Thiền điên” nên sợ không dám tu. Người học đạo sợ tu không được, sợ điên không dám tu, mà thầy dạy nói úp mở quanh co, thì họ sẽ cho thần kinh thầy không bình thường, làm sao họ tin để cho họ học, họ tu? Họ đã không tin làm sao thầy truyền bá thiền cho người học để tu? Thầy vẫn biết nói trắng ra thì dễ hiểu, nhưng bị xem thường, nói quanh co khó hiểu, mới nỗ lực tu để xa lìa vọng tưởng phiền não, khi thông suốt mới thích thú, nhớ lâu.

Thời xưa đời Đường đời Tống, Thiền tông truyền bá khá rộng nên nhiều người biết, nếu nói dễ hiểu thì sẽ trở thành lý thuyết suông, gọi là khẩu đầu thiền, thiền ngoài môi đầu lưỡi, chớ chưa thật sống với thiền. Vì vậy mà phải làm cách này, hay cách khác cho người học đạo điếc tai, nghi ngờ, tìm tòi. Khi phá vỡ nghi ngờ gọi là ngộ đạo. Thời nay hoàn cảnh có khác, mọi người chưa biết thiền, mà thầy không nói trắng ra, lại nói quanh co thì người học cho rằng thiền cao không thể tu, hoặc tu Thiền bị điên không dám tu. Buộc lòng thầy phải nói trắng ra để cho mọi người thấy thiền rất thực tế, Phật tánh ai cũng có sẵn, ai cũng có thể tu, không dành riêng giới nào. Hơn nữa, thời nay là thời khoa học, mọi người đòi phải lý giải để hiểu rồi mới hành. Không lý giải người học không hiểu, không tin, không thực hành. Thầy vẫn biết lý giải ra cho hiểu thì chậm ngộ, nhưng có đủ lòng tin để tu. Thầy chỉ mong thầy dạy các con học sau ba năm các con đủ lòng tin để tu là được rồi, thầy không nói các con ngộ hay chứng. Hoàn cảnh khác nhau nên phương tiện giáo hóa có khác. Tuy khác nhau nhưng cùng mục đích tu Thiền theo Phật Tổ đã dạy.


HỎI: 
Thưa Thầy, như vậy ai hiểu đúng như thầy dạy và có đủ niềm tin, thì cũng gần ngộ như các Tổ ngày xưa phải không?

ĐÁP: Các con đừng quan niệm ngộ là phải có thần thông, có những việc làm khác thường. Phải hiểu là ngộ là thấy được lẽ thật để vững lòng tin không thối chuyển. Tin đây không phải là tin lời Phật lời Tổ, mà là từ lời Phật Tổ dạy nhận ra mình có Phật tánh và tin mình có khả năng thành Phật. Chư Tổ ngày xưa trên phương diện giải ngộ thì cũng thế thôi, nhưng vì ngày xưa chư Tổ nói khó hiểu, nên lúc nhận ra mừng quá nên mới có những hiện tượng lạ như la lên, hoặc cười, hoặc khóc… Bây giờ thầy giảng trắng ra các con hiểu, nếu sâu hơn thì chỉ mỉm cười hay gật đầu chớ không có hiện tượng lạ, nên thầy không dùng danh từ ngộ, vì sợ người ta hiểu lầm.


HỎI: 
Thưa Thầy, theo pháp thầy dạy, chúng con thấy nó giống như bài toán mẫu có đáp số, nên đôi lúc có trở ngại cho chúng con trên đường giác ngộ hay chứng đạo, xin Thầy giảng thêm cho chúng con hết nghi ngờ.

ĐÁP: Thấy như có đáp số mà thực ra không có đáp số gì hết. Bởi vì thầy nói mỗi người có Phật tánh, đâu phải các con hiểu là đã nhận ra Phật tánh nơi mình, mà các con phải tu thì Phật tánh mới hiện tiền, chớ không phải hiểu rồi thôi. Như vậy, học hiểu rồi tin là có và thấy dấu vết, tu là phăng tới dẹp sạch phiền não Phật tánh mới hiện tiền. Còn toán học biết đáp số là xong việc, đâu có giống chỗ này.


HỎI: 
Thưa Thầy, phần thầy đã tròn trách nhiệm, phần các con học hiểu biết chút ít dễ sanh ảo tưởng rằng mình đã ngộ, tự gây tai họa mà không biết. Bây giờ Thầy còn thì thầy nhắc nhở chỉnh đốn, mai kia Thầy trăm tuổi không biết cái hại sẽ tới đâu?

ĐÁP: Thầy đã từng nói: “Phải hiểu mới tu, không hiểu làm sao tu?” Hiểu có hai cách: Một là hiểu suông trên văn tự chữ nghĩa. Hai là biết mình có Phật tánh rồi khai phát cho tròn sáng. Trong giới tu hành, mai kia có ai tự nhận là Phật là Thánh, thì lấy “Bát phong xuy bất động” làm thước đo liền biết thậy hay là giả. Nếu người nói hay khi gặp cảnh mà bị dao động là giả hiệu không thật, còn người không nói gì hết mà gặp cảnh dửng dưng không động mới là thật.


HỎI: 
Thưa Thầy, Phật tánh vốn có sẵn nơi mỗi người, khi hết vọng tưởng thì Phật tánh hiện tiền? 

ĐÁP: Không phải điều kiện, mà phải có chút tỉnh giác mạnh để vượt khỏi chỗ mà Thiền tông gọi là “đầu sào trăm trượng”. Chúng ta tu năng sở thì phải nổ lực khéo tu, đến lúc năng sở hết (vô tâm) mà chìm trong tịch lặng không tỉnh giác, Thiền tông nói là chìm trong nước vô sanh, phải vươn lên để vượt qua. Tức là nhận ra Phật tánh có sẵn nơi mình không ngờ mình có. Trong khi tu tuy cũng có những lúc lóe sáng, nhưng chỉ là phần nhỏ, bấy giờ thể nhập Phật tánh viên mãn mới là cứu cánh. Không phải điều kiện mà là ý chí, không tự mãn, không nghĩ là rồi mà phải có ý chí tu để vượt qua.


HỎI: 
Thưa Thầy, trạng thái vô tâm, Phật tánh chưa hiện tiền, lúc đó tập khí còn hay đã sạch hết.

ĐÁP: Nói tập khí còn cũng không được, nói sạch hết cũng không được. Vì tập khí còn tức còn vọng tưởng, tập khí sạch hết thì vọng tưởng không sanh, chỗ này rất tế nhị. Dụ như người bệnh nặng uống thuốc vừa hết bệnh, hết bệnh chớ chưa phải là mạnh, nên phải tịnh dưỡng mới thật khỏe mạnh. Cũng vậy, chúng ta vừa qua được cơn loạn tưởng, hay cơn sốt sanh diệt, chưa đến chỗ rốt ráo, mà phải tinh tấn tu để vượt qua, chỗ này Thiền tông gọi “đầu sào trăm trượng cần phải vượt qua”. Chỗ này là giao điểm giữa tối và sáng, nó còn mờ mờ. Nếu ngang đây tự mãn thì chìm trong chỗ mờ mờ, cần phải vượt qua tới chỗ viên mãn.

HỎI: Thưa Thầy, con ngồi thiền thường có những đốm đen tròn đập vào mặt rồi tan biến, sau đó lại tiếp tục đập nữa. Như vậy là tại sao? Xin Thầy dạy con cách điều phục.  

ĐÁP: Khi ngồi thiền có những đốm đen đập vào mặt rồi tan, sau đó lại tiếp tục đập nữa… Đó là tưởng trạng do ngồi thiền tâm hơi dằn ép, nên nó phát ra tướng lạ, có khi thấy đốm đen, có khi thấy đốm trắng, nó hiện rồi nó tan chớ không còn hoài. Biết nó là ảo tưởng không thật, hiện rồi mất không có gì phải sợ, nên không cần phải hướng dẫn cách điều phục. Chỉ cần biết đúng như thật nó là ảo ảnh, là giả tướng không thật thì nó hết.


HỎI: 
Thưa Thầy, có những lần ngồi thiền, con cảm nhận một luồng hơi nóng phát ra từ hai mang tai con. Lại có khi tai con nghe âm thanh KHÔNG! KHÔNG! KHÔNG! Khoảng vài ba phút mới hết. Thưa thầy những hiện tượng này có phải là những tướng báo hiệu con sắp khùng? Thưa Thầy luồng hỏa hầu đi như thế nào? 

ĐÁP: Khi ngồi thiền có những cảm giác lạnh, hoặc cảm giác nóng xuất phát từ hai mang tai, hoặc xuất phát từ xương cùng đi lên theo đường xương sống. Đó là do công phu tu mà có những tướng bất thường như vậy. Những tướng đó là những tướng không thật, không quan tâm chú ý thì dần dần nó tan. Nhớ là không được thở gấp không được thở mạnh, mà phải thở thong thả nhẹ nhàng. Nếu mừng hay sợ thì bệnh.

Khi ngồi thiền mà tai nghe âm thanh KHÔNG! KHÔNG! KHÔNG! Đó là do thần kinh hơi yếu, ngồi thiền tâm hơi dằn ép nên nó phát ra. Nếu nghe mà chấp tiếng đó là tiếng Phật, tiếng Bồ-tát nói pháp cho mình nghe, thấy quý và thích nghe, cố lắng nghe lâu ngày sẽ phát điên. Khi xưa tôi có một người bạn đồng tu. Ông với tôi đang đi trên đường, bỗng ông nói: “Đó, đó, tôi nghe họ nói vậy đó…”, tôi khuyên ông mấy lần mà không được. Về sau ông ấy phát điên. Chúng ta tu phải dè dặt, đừng chạy theo và chấp những âm thanh hư ảo đó.

Việc hỏa đầu đi trong thân người là pháp tu của ngoại đạo. Thiền tông không đề cập tới việc này. Người tu theo Thiền tông cốt yếu là đừng vọng tưởng lăng xăng, cho tâm được yên lặng tỉnh sáng, lúc nào cũng thấy nghe rõ ràng mà tâm không dấy khởi vọng niệm, như thế là đúng.

HỎI: Thưa Thầy, chư Tổ dạy phải dứt hết vọng tưởng Phật tánh mới hiện tiền. Thế nên trong mọi sinh hoạt phải dụng công tu, không để cho vọng niệm dấy khởi, vì vọng niệm là gốc tạo nghiệp dẫn đi luân hồi sanh tử. Nhờ dụng công tu, dần dần vọng tưởng hết. Vọng tưởng hết là dứt nhân sanh tử được giải thoát. Tuy nhiên, trong Thiền sử chư Tổ có dạy: “Chỗ im lặng không còn vọng tưởng là nước chết, tuy giải thoát mà không trọn, cần phải giác ngộ”. Thưa Thầy, khi vọng tưởng dấy khởi mình biết nó là vọng tưởng không theo, không bị vọng tưởng lôi dẫn thì khi đó đã có giác rồi. Vậy khi vọng tưởng hết thì Phật tánh tròn sáng hiện tiền là giải thoát. Giải thoát đâu có lìa giác ngộ sao lại nói là nước chết? Vậy chúng con phải tu thế nào cho đúng pháp?

ĐÁP: Chỗ này rõ ràng lắm. Tại vì quý vị nghe mà chưa thấu suốt nên khi tu sanh nghi ngờ. Có nhiều người tu cứ đè ép vọng tưởng không cho khởi tâm được lặng lẽ. Dù đè bằng phương tiện này hay phương tiện khác cho tâm được lặng lẽ gọi là thanh tịnh. Chư Tổ trong Thiền tông không chấp nhận, vì lặng lẽ mà không tri giác nên nói là nước chết. Ví dụ hiện giờ tôi đang ngồi trong chùa này, thấy đông đảo Phật tử đang ngồi đối diện với tôi. Xế chiều quý vị ra về hết, nếu tôi còn ngồi đây, lúc đó tôi thấy khuôn viên chùa trống vắng người. Thấy Phật tử đang ngồi đối diện đông đảo và khi quý vị ra về hết, thấy chùa trống vắng người. Thấy Phật tử đang ngồi đối diện đông đảo và khi quý vị ra về hết, thấy chùa trống vắng là tôi đang hiện hữu hay không hiện hữu? Nếu tôi không hiện hữu thì ai thấy có người và vắng người? Quý Phật tử ra về tức là khách ra về, tôi còn ngồi tức là chủ đang có mặt. Còn nếu Quý Phật tử ra về, tôi cũng đi luôn chùa trống không, không ai biết chùa có khách hay không có khách, gọi là nước chết có được không?

Tôi thường bảo: Vọng tưởng khởi, biết là vọng tưởng không theo. Khi vọng tưởng lặng, biết vọng tưởng hết. Thấy vọng tưởng khởi và thấy vọng tưởng lặng là chủ đang có mặt mới thấy, nếu chủ không có mặt làm sao thấy? Nếu vọng tưởng lặng hết là vô tri không biết gì cả thì lúc đó ông chủ ẩn mất không gọi nước chết là gì? Tu phải khéo, lệch một chút thành bệnh.


HỎI: 
Thưa Thầy, ngồi thiền có trạng thái như quên thân, hơi thở ra vào cũng không còn thấy nữa. Nhưng tiếng động, lời nói của người vẫn nghe rõ. Sau khi xả thiền, nghe vẫn nghe mà không biết nói gì. Trạng thái đó có lỗi không?

ĐÁP: Ngồi thiền nếu tâm được lặng yên một lúc thì có khi quên thân, hoặc có khi thấy như không có thở, đó không phải là bệnh mà là an định. Bởi an định nên hơi thở rất nhẹ, thân cũng nhẹ, nhưng vẫn nghe thấy, vì nghe thấy mà không chú ý nên xả thiền ra là quên. Chuyện này rất thường không phải bệnh.

HỎI: Thưa Thầy, kỳ trước thầy có đưa ra một công án như thế này: Một Thiền sư nói: “Huyễn hóa không thân tức pháp thân”. Rồi quơ gậy một vòng, Ngài nói tiếp: “Hiểu thì qua cầu thơm mùi rượu, không hiểu thì cách bờ qua đồng thơm”.

Thưa Thầy, hôm nay con xin nói: “Thiền sư nói: “Huyễn hóa không thân tức pháp thân”, rồi quơ gậy một vòng là chỉ tánh thấy. Tánh thấy đó phải vô cửa Văn Thù. Cửa Văn Thù là chỉ cho pháp tu, mà vô cửa Văn Thù là vô bằng Tánh Thấy”. 

ĐÁP: Vậy thì: “Cách bờ qua đồng thơm”.

* Chương 2

HỎI: Thưa thầy: người tu hành, lúc nào cần giáo lý và lúc nào buông cả giáo lý?

ĐÁP: Việc tu học tạm chia ra hai giai đoạn: Giai đoạn mới học đạo và giai đoạn thực hành để đạt đạo. Giai đoạn mới học đạo phải nhờ kiến thức học đạo, từ chuyên môn gọi là hữu sư trí (trí có thầy). Tức là phải nhờ thiện hữu tri thức giảng dạy, hoặc nghiên cứu kinh luận để biết rõ pháp tu Phật Tổ dạy, theo đó mà thực hành. Ví dụ như một người muốn đến nhà một người quen ở một thành phố lớn xa lạ mà vị ấy chưa từng biết nhà. Người biết đường cầm bản đồ hướng dẫn, thành phố đó cách người ấy đang ở bao xa, muốn tới đó phải qua những đường nào, chỉ bày rành rẽ. Khi người ấy đi, cầm bản đồ và nương theo bản đồ để đi. Lúc tới cổng, bước vào nhà thì bản đồ không cần nữa. Nhưng, nếu chưa tới nơi vẫn còn cầm bản đồ, bỏ bản đồ sớm quá, e lạc đường, không tới đích. Hữu sư trí đối với người tu cũng giống như bản đồ đối với người đi đường. Trong thời gian tu, chưa sáng được lý đạo thì hữu sư trí vẫn còn cần, để giúp cho chúng ta không sai lạc. Nhưng khi sáng đạo, tức là phát minh được trí tuệ đã có (vô sư trí) thì không cần nữa. Qua ví dụ này, quý vị tự biết mình lúc nào cần giáo lý và tới lúc nào buông giáo lý.


HỎI: 
Thưa thầy, thân nhân con có nhiều người khá giả, mỗi khi họp mặt đề cập đến việc tu hành, người thì vui vẻ tán thành, người thì dửng dưng không để ý. Hai người cùng giàu là do cùng làm phước ở đời quá khứ. Song, nghe nói đến tu người thì tán thành người thì dửng dưng. Thưa thầy, có phải người đã có tu tuệ và người không tu tuệ trong quá khứ không?   

ĐÁP: Chúng ta thường thấy hai người cùng làm một việc mà hai tâm trạng khác nhau. Cùng đem của giúp người nghèo đói, người thì muốn được phước giàu sang sung sướng, người thì muốn giúp cho họ bớt khổ, để hướng dẫn họ chuyển nghiệp từ từ. Vì vậy mà Phật tử quy y có những giới để ngăn chặn việc bất thiện. Nhiều người trước có làm phước mà không có chủng tử tu huệ nên hiện đời hưởng phước được chức cao, quyền lớn, giàu sang, mà vẫn hung hăng không thích tu thân, vì họ không có sẵn chủng tử trí tuệ. Còn người thì được giàu sang lại có chủng tử đạo đức trí tuệ, nên vừa làm phước vừa lo trau giồi giới đức, trí tuệ.


HỎI: 
Thưa thầy, có phải tu là ăn chay không? Nếu tu là ăn chay thì trong tháng ăn chay những ngày nào?

ĐÁP: Cư sĩ là quy y giữ năm giới. Ăn chay được ngày nào là tốt ngày nấy, đạo Phật không đặt ăn chay là quan trọng. Cư sĩ tu cốt yếu là quy y giữ giới tránh làm những điều ác, nên làm những việc thiện.


HỎI: 
Thưa thầy, các con vừa bệnh tật vừa nghèo khó muốn cúng dường Tam Bảo lấy gì để cúng?

ĐÁP: Quý vị cúng dường bằng tâm thành, bằng ý nghĩ tốt, bằng lời nói tốt, bằng hành động tốt. Ba nghiệp lành là đã cúng dường Tam Bảo rồi, không đợi dâng tiền dâng của mới là cúng dường. Nhân đây tôi kể câu chuyện cho quý vị nghe. Thuở xưa có người con gái mồ côi cha mẹ lúc năm bảy tuổi, không có bà con quyến thuộc nên mới đi lang thang để xin ăn, cô lớn dần theo ngày tháng. Năm cô mười bảy tuổi, nhằm ngày rằm tháng bảy cô nghe người ta rủ nhau đi lạy Phật cúng chùa. Cô cũng muốn cúng chùa, nhưng nghèo quá không biết lấy gì để cúng, hôm ấy chỉ xin được một xu, cô bèn nhịn ăn để cúng chùa. Cô nghe nói cúng mà chư Tăng được hưởng hết thì phước được nhiều, nên cô muốn cúng dường hết chư Tăng, nhưng có một xu làm sao đủ? Cô bèn mua một xu muối đem vô chùa cúng. Hòa thượng trong chùa biết được tâm niệm của chúng sanh, nên bảo đánh chuông trống để đón một đại thí chủ. Cô nghe đánh chuông trống mà vẫn không biết gì, cô rón rén bước xuống bếp tìm bà thường trụ trình bày ước nguyện của mình, bà hứa giúp. Bà dùng muối của cô cúng nêm canh cho chư Tăng ăn. Như vậy thì toàn thể chư Tăng trong chùa ai cũng có thọ nhận của cúng dường của cô. Sau khi cúng dường cô trở lại sống kiếp hành khất lang thang.

Lúc bấy giờ nhà vua chọn dâu, hàng tiểu thơ công chúa đến, Thái tử đều chê. Nhà vua ra lệnh tùy ý Thái tử muốn chọn ai thì chọn. Một hôm Thái tử đi đến làng nọ, thấy trên đình có chòm mây năm sắc, khí vần xoay trên nóc đình. Thái tử vào đình thấy cô gái nghèo khổ ăn mặc rách rưới ấy đang ở đó. Thái tử xót thương cho rước về cung, sau khi tắm gội sạch sẽ, ăn mặc đàng hoàng thì trông cô thật xinh đẹp. Thái tử dẫn lên trình vua cha, nhà vua cưới cô cho Thái tử. Sau vua băng hà, Thái tử lên ngôi, cô làm hoàng hậu. Khi làm hoàng hậu, cô xa giá chở vàng bạc đi cúng chùa. Bấy giờ cô chở đến cả xe vàng bạc, mà Hòa thượng trong chùa không cho đánh chuông trống đón cô như một đại thí chủ cúng đồng xu muối ngày xưa. Câu chuyện này cho chúng ta thấy Phật pháp quý trong lòng thành chứ không quý trọng tiền của nhiều. Bây giờ quý vị có tâm thành hướng về Tam bảo, luôn nghĩ lành, nói lời lành, làm điều lành là quý vị đã cúng dường Tam bảo rồi.


HỎI: 
Thưa thầy, do nghiệp nhân nào mà chúng con bị bệnh phong cùi?

ĐÁP: Kinh A Hàm Phật có dạy: Người đời trước hay làm khổ hay đánh đập chúng sanh thì đời này sanh ra bị yếu đau bệnh tật. Đời trước nếu hay giúp đỡ an ủi chúng sanh thì đời này sanh ra được khỏe mạnh tốt đẹp. Đó là Phật trả lời chung cho tất cả bệnh, không riêng về bệnh phong cùi. Nhưng theo tôi nghĩ thì phước quý vị ít, nghiệp đời quá khứ không được tốt nên bây giờ mới có bệnh tật. Song, đối với người hiểu đạo thì bệnh tật là cái nhân thúc đẩy quý vị tiến tu, không lấy đó làm buồn. Tại sao? Vì Phật nói thân này dù là mạnh hay đau cũng đều là ổ chứa vi trùng; không riêng gì người đau mới có vi trùng mà người mạnh cũng có vi trùng. Nếu người đau tỉnh giác, biết rõ thân này là bệnh tật, nổ lực tinh tấn tu thì bệnh tật là nhân tố thúc đẩy tu hành. Có nhiều người vì sướng quá sanh bê tha, tạo nghiệp bất thiện đời sau thọ khổ. Bây giờ quý vị tuy bệnh tật mà biết lợi dụng nó để tu hành, chẳng những ngay trong đời này hết khổ mà đời sau cũng an vui. Đó là tôi nói chung về bệnh tật. Còn riêng về bệnh phong cùi thì tôi chưa phải là người biết quá khứ vị lai nên không nói gốc từ đâu.


HỎI: 
Thưa thầy, quy y thọ năm giới, trong năm giới có giới cấm sát sanh. Chúng con nuôi gia súc để có phương tiện sinh sống, nếu đem bán thì gián tiếp sát sanh, nếu ăn thì trực tiếp sát sanh. Con không biết làm gì để sinh sống?

ĐÁP: Giới cấm sát sanh dành cho cư sĩ là cấm không cho giết người, không giết người là không phạm tội sát sanh. Giết người có ba cách: Thân giết là tay cầm vũ khí giết người, miệng giết là xúi bảo người giết, ý giết là vui mừng khi thấy người chém chết nhau. Nếu mắc phải ba lỗi đó thì phạm giới sát sanh. Còn đối với những con vật lớn như trâu, bò, heo… tránh giết được bao nhiêu là tốt bấy nhiêu. Vì không có phương tiện sinh sống nên phải nuôi, nó lớn lên đem bán để mua gạo mua thức ăn. Tuy biết bán rồi nó cũng chết, không trực tiếp giết nên tội nhẹ hơn cắt cổ nó.


HỎI: 
Thưa thầy, theo sách tử vi thì tướng số cố định hay thay đổi?

ĐÁP: Tướng và số không cố định, nó tùy theo tâm niệm và việc làm của người mà đổi thay. Đừng vì tướng xấu hay tử vi xấu mà bi quan buồn khổ. Con người sinh ra do có phước thành tựu ba mươi hai tướng tốt. Người do tạo nghiệp bất thiện ít phước mà có tướng xấu. Tuy nhiên tướng tốt hay xấu còn tùy theo hiện nghiệp mà có đổi thay. Xưa có ông thầy tướng số rất giỏi, bói là đúng, gần nhà ông có anh nông dân nghèo mà hiền lành, ngày nào anh đi làm ruộng cũng đi ngang qua nhà thầy tướng số. Một hôm trời mưa, anh nông dân ghé vào nhà thầy tướng số trốn mưa. thầy nhìn kỹ anh rồi lắc đầu nói: Tướng chú nghèo ba đời! Nghe nói, anh nông dân không lấy làm quan trọng. Thực tế anh nghèo, bây giờ thầy bói nói anh nghèo, chuyện đó quá bình thường. Anh chỉ cười không nói gì, hết mưa anh ra về. Những ngày sau anh cũng đi làm bình thường, bỗng một hôm trên đường đi, anh thấy sợi dây chuyền đứt nằm bên đường. Anh nghĩ của ai mới làm rớt, nếu mình không lượm thì người khác sẽ lượm, nên anh lượm sợi dây chuyền rồi ngồi tại đó chờ để trả lại cho chủ nó. Anh ngồi từ sáng cho đến chiều tối, bỏ buổi cơm trưa. Trời sẫm tối anh thấy có cô gái vừa đi vừa khóc, anh nghi bèn kêu lại hỏi:

– Cô có việc gì buồn mà phải khóc vậy?

Cô nói:

– Thưa chú, tôi được chồng đi hỏi có cho một sợi dây chuyền, tôi đeo đi trên con đường này đến thăm bà con, nó đứt hồi nào tôi không hay. Tới nơi mới biết nó mất nên tôi đi kiếm, nếu kiếm không được chắc tôi tự tử, vì sợ bên chồng nghi tôi cho ai, không thể giải bày được.

Nghe xong, anh nông phu đưa sợi dây chuyền ra hỏi:

– Có phải sợi dây chuyền này của cô không?

Cô gái mừng quá, nói:

– Đây chính là sợi dây chuyền của tôi bị rớt.

Anh nông phu nói:

– Nếu của cô, tôi xin trả lại cô. Tôi lượm khi sáng mà không biết chủ nó là ai để trả.

Nhận lại sợi dây chuyền cô gái không tự tử. Anh nông phu trả vàng cho cô gái, không thấy đó là việc làm quan trọng. Sau một thời gian anh cũng đi làm ruộng ngang qua nhà ông thầy tướng số. Hôm đó trời mưa, anh cũng ghé nhà thầy tướng số trốn mưa. Ông thấy anh, ngạc nhiên nói:

– Tướng chú sắp làm quan.

Anh nông dân nói:

– Cũng bác, hôm trước bác nói tôi mạt ba đời, nay bác lại nói tôi phát quan. Tại sao cũng là tôi cũng là bác, trước bác nói vầy sau bác nói khác?

Thầy tướng số nói:

– Tôi thấy có điều gì mới lạ. Chú hãy nói thật cho tôi nghe, từ ngày chú ghé nhà tôi tới giờ chú có làm việc gì phước đức quan trọng không?

Anh nông dân chất phác, ngồi kiểm lại việc làm của mình, anh không thấy anh làm việc gì quan trọng cả. Song, anh chợt nhớ tới việc anh đi ruộng, lượm sợi dây chuyền và trả lại cho cô gái. Anh kể cho thầy tướng số nghe. Thầy tướng số nói:

– Đó là phước chú, chú sắp làm quan.

Đúng như lời thầy tướng số nói, ba tháng sau trong làng chọn người hiền đức đưa lên làm xã trưởng thì anh nông dân là người được dân tín nhiệm bầu lên. Như vậy chúng ta thấy tướng số không cố định. Vì vậy trong sách tướng có bài kệ:

Hữu tâm vô tướng,

Tướng tự tâm sanh,

Hữu tướng vô tâm,

Tướng tùng tâm diệt.

Có tâm tốt mà không được tướng tốt thì nhờ tâm tốt sẽ phát ra tướng tốt. Có tướng tốt mà tâm không tốt thì tướng tốt dần dần cũng mất. Như vậy, tướng không cố định, mà tùy theo hành động, tùy theo tâm niệm của con người mà thay đổi. Nếu tướng xấu mà biết làm các điều lành việc tốt thì dần dần tướng xấu biến thành tốt. Nếu có tướng tốt ỷ mình tốt rồi ngạo mạn kiêu hãnh, dần dần cũng trở thành xấu. Mấy thầy coi tướng coi tay, họ hay nói thế này: Tay ông như vậy, tướng ông như vậy… nhưng sáu tháng sau coi lại. Người đi coi nghĩ rằng thầy bói muốn làm tiền, ông hẹn coi lại để ổng có tiền. Trong vòng sáu tháng mà làm phước nhiều hay tội nhiều thì tướng thay đổi. Tướng số không cố định, biến chuyển tùy theo hành động tốt xấu của con người. Tương đối nó chỉ đúng phần nào trong trường hợp người không làm điều gì đặc biệt, nếu người có làm việc đặc biệt hoặc thiện hoặc ác thì tướng thay đổi hoặc tốt hoặc xấu hơn.

Đó là tôi nói về tướng, bây giờ tôi nói về số. Giả sử có người lấy tử vi hồi mười lăm, mười bảy tuổi. Trong tử vi nói người đó sau này có ba đứa con và hai đời vợ. Nhưng tới hai mươi tuổi người đó đi tu. Người đó tu suốt đời thì không có ba đứa con và hai đời vợ. Như vậy là tử vi nói không đúng. Người thay đổi việc làm thì số cũng thay đổi. Tướng và số hiện theo nghiệp của con người. Nếu nghiệp chuyển thì tướng số cũng theo nghiệp chuyển theo, làm ác thì tướng số tốt tự mất, làm lành thì tướng số xấu tự mất. Nếu muốn chuyển nghiệp ác thì ngay đây chuyển nghiệp ác thành thiện. Giả sử người có tướng xấu mà làm thiện thì đâu có thiệt thòi. Nếu tướng xấu mà làm thiện thì tướng tốt sẽ hiện và nếu đã có tướng tốt mà làm thiện thì tướng càng tốt thêm. Như vậy, dù tướng số xấu hay tốt làm việc thiện là hơn cả. Phật dạy: Nghiệp thiện là đưa người đến chỗ tốt, hãy lo chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện. Không sợ tướng số xấu mà chỉ sợ mình không làm thiện, không có tâm tốt. Tâm tốt, làm lành thì mọi điều xấu đều chuyển thành tốt.


HỎI: 
Thưa thầy, Phật ra đời dưới gốc cây vô ưu. Trong sách Nho cũng có câu “Học đạo vô ưu”. Vậy vô ưu của cây vô ưu và vô ưu bên sách Nho có đồng nghĩa không?

ĐÁP: Vô ưu trong sách Nho là không buồn không lo. Người học đạo mà còn lo buồn thì học đạo không tiến. Không lo buồn thì mới tiến đạo. Còn cây vô ưu là cây tượng trưng cho mọi lo phiền đã hết. Hai chữ tuy đồng âm mà nghĩa thì có khác đôi chút.


HỎI: 
Thưa thầy pháp Vô là thế nào?

ĐÁP: Nói theo hệ Bát-nhã là: “Vô sanh vô bất sanh”. Theo con mắt của người phàm tục thì thấy vạn vật thật có sanh thật có diệt. Vì vậy mà muốn tìm cái vô sanh. Nhưng cái vô sanh ở đâu? Ví dụ cái bàn, trước khi chưa được thợ mộc cưa, bào, đục gỗ và dùng đinh đóng lại thì không có cái bàn. Bây giờ đã được thợ mộc cưa, bào, đục đóng gỗ thành cái bàn, thì nói cái bàn mới sanh. Như vậy, cái bàn thật có sanh không? Nếu biết rõ cái bàn này là tướng duyên hợp tạm có, hư dối không thật sanh đó là thấy lý vô sanh. Theo mắt phàm phu đối với thân con người, khi lọt lòng mẹ thì thấy thật sanh, khi ngừng thở thấy là thật tử. Nếu chúng ta nhìn thân ta thấy tóc, răng, xương… là đất; máu, nước mắt, mồ hôi, nước tiểu là nước; hơi thở là gió, hơi ấm là lửa, hoặc nhìn qua từng tế bào kết hợp thì cái gì thật là ta? Chẳng qua do duyên cha mẹ và thần thức hội đủ thì tạm có thân và tạm nói là sanh. Xét theo lý nhân duyên thì duyên hợp tạm nói là sanh, chớ có sanh thật đâu? Nếu không có thật sanh thì đâu có thật tử. Vậy, quý vị thấy sanh và tử thật hay không thật? Tôi nói sanh và tử không thật. Tại sao? Vì trước tứ đại hợp lại tạm gọi là sanh, nay tứ đại tan rã tạm gọi là tử. Chỉ có duyên hợp và duyên tan mà thôi, nào có sanh tử thật? Giống như dùng phương tiện ráp lại thì thành cái bàn. Những dụng cụ làm nên cái bàn vẫn còn đó không mất, chỉ giả tướng cái bàn mất thôi. Thân người cũng vậy, đất, nước, gió, lửa hợp lại tạm có thân gọi là sanh; khi hơi thở trả về với gió, hơi ấm trả về với lửa, máu tủy… trả về với nước, tóc xương răng… trả về với đất tạm gọi là tử. Đất, nước, gió, lửa vẫn còn đó nào có mất đâu? Chỉ có giả tướng của thân là mất thôi. Nếu thấy rõ sanh là tạm sanh, tử là tạm tử thì ngay trong cái tạm sanh, thấy được cái vô sanh. Không thể tìm lý vô sanh ngoài cái sanh tử ấy.


HỎI: 
Thưa thầy, trong kinh nói: Bồ-tát học tất cả mà không chấp không chướng ngại, giác ngộ tất cả pháp mà không chấp không chướng ngại. Vậy các pháp là cái gì mà giác ngộ?

ĐÁP: “Pháp” là “cái” chỉ cho tất cả mọi sự vật ở thế gian. Biết tất cả pháp là biết tất cả sự vật ở thế gian, như biết về thiên văn, địa lý, triết học, trồng cây, cất nhà, dạy học… Thông thường người đời biết cái gì cũng cho là sở đắc của mình, chấp vào cái biết của mình, rồi tự cao ngã mạn thấy mình hay giỏi hơn thiên hạ. Còn Bồ-tát biết tất cả, mà không vì cái biết đó mà sanh ra kêu mạn hay tự hào, vẫn an nhiên thấp mình thương người, đó là cái hạnh của Bồ-tát. Vì vậy mà nói học tất cả pháp, biết tất cả pháp mà không chướng ngại. Ở thế gian, chỉ cần giỏi một nghề là có tự cao ngã mạn rồi, nên luôn luôn bị chướng ngại. Nếu biết tất cả như Bồ-tát thì ngã mạn tới mức nào?


HỎI: 
Thưa thầy, trong Thiền sư Trung Hoa, có một Thiền sư gọi một vị Ni là con trâu cái già và đòi đạp đổ giường thiền. Tại sao tu mà có những lời lẽ thóa mạ không được thanh nhã như vậy? 

ĐÁP: Đây là câu chuyện đối đáp giữa Tổ Quy Sơn và bà Lưu Thiết Ma. Bà Lưu Thiết Ma một hôm đến núi Quy ra mắt Tổ Quy Sơn. Vừa thấy bà, Tổ nói:

– Con trâu cái già ngươi mới đến!

Câu nói thật chát lỗ tai!

Bà trả lời:

– Ngày mai Hòa thượng có đi thọ trai ở Ngũ Đài Sơn không?

Tổ liền nằm xuống giả vờ ngủ. Bà xoay lưng đi.

Đọc Thiền sư Trung Hoa tới đoạn này ai cũng bực bội, trách Thiền sư lỗ mãng quá! Nhưng không ngờ đây là lối đối đáp rất lý thú. Thiền tông có cái thuật đặc biệt là Thiền khách đến hỏi đạo, Thiền sư đáp, một là đưa Thiền khách lên, hai là hạ Thiền khách xuống. Nếu Thiền sư đưa Thiền khách lên, Thiền khách phải biết hạ Thiền sư xuống, nếu Thiền sư hạ Thiền khách xuống, thì Thiền khách phải biết đưa Thiền sư lên. Như vậy là hai bên thông cảm nhau. Nếu đưa lên thì vui mà hạ xuống thì giận, đó là phàm phu. Ở đây bà Lưu Thiết Ma vừa tới, Tổ hạ bà xuống bằng câu “Con trâu cái già ngươi mới đến”, bà liền đưa Tổ lên “Ngày mai Hòa thượng có đi thọ trai ở Ngũ Đài Sơn không?”. Tổ biết bà là người đối thủ rồi. Tổ giả vờ nằm ngủ, bà xoay lưng đi. Hiểu được thì rất lý thú. Nếu không hiểu, thấy nói thô lỗ, bực bội, bỏ ra về thì Thiền khách chỉ là kẻ phàm phu chưa hội được lý thiền.

Còn đạp đổ giường thiền là chuyện của ngài Quán Khê đến Ni sư Liễu Nhiên. Thời bấy giờ là thời trọng nam khinh nữ, đa số chư Tăng đều xem thường chư Ni, nên khi nghe nói Ni sư Liễu Nhiên tu ngộ đạo, Ngài không tin, đi du phương đết Mạt Sơn tự nói: “Nếu tương đương thì ở, chẳng vậy thì xô ngã giường thiền”. Đó là lối dọa dẫm coi và đối đáp có thông không. Nào ngờ Ni sư Liễu Nhiên là người cao tay ấn, rốt cuộc Ngài phải đầu hàng và xin làm tri viên ba năm.


HỎI: 
Trong kinh Duy Ma Cật nói: Bồ-tát thương chúng sanh như vợ chồng trưởng giả thương con một; con bệnh thì cha mẹ cũng bệnh theo. Chúng sanh bệnh thì Bồ-tát cũng bệnh. Đó là tâm đại bi của Bồ-tát. Trong chuyện tiền thân của Phật, có một kiếp Ngài làm Thái tử tu hạnh bố thí Ba-la-mật. Thái tử bố thí hết của cải trong kho của vua cha, rồi bố thí con bạch tượng là quốc bảo của quốc gia, khiến cho quần thần phản đối nên Thái tử bị đày vô núi rừng. Đi dọc đường, của cải đem theo, ai xin Thái tử cũng cho, cho cả xe ngựa, chỉ còn có vợ và hai con, Thái tử dẫn lên núi ở. Sau đó có người đến xin hai đứa con. Hai con sợ cha cho, nên một đứa trốn dưới ao sen, một đứa ôm chân Thái tử khóc không chịu đi. Vật bố thí gồm có ngoại tài và nội tài, ngoại tài là những vật thuộc quyền sở hữu của Thái tử, cho hết cũng được, còn nội tài như mắt, tai, óc, tủy… cho hết cũng được, vì nó thuộc quyền sở hữu của Thái tử. Còn con và vợ chẳng phải ngoại tài cũng chẳng phải nội tài, không hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của cha và chồng. Hai đứa con biết cho nó cho người lạ là nó sẽ bị làm tôi tớ khổ sở, nên không chịu đi, vậy mà Thái tử vẫn cho. Sự việc này, đứng trên phương diện thế gian thì có phần xót xa đau đớn ở nơi người bị cho. Thưa thầy, đây là chuyện ẩn dụ hay thật đã xảy ra?

ĐÁP: Bồ-tát tu Lục độ Ba-la-mật là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ. Ba-la-mật là viên mãn, cùng tột. Khi phát nguyện tu một hạnh nào trong sáu hạnh là phải thực hành rốt ráo thì mới tròn hạnh nguyện, nếu tu còn một chút chưa xong thì chưa gọi là Ba-la-mật, chưa rốt ráo viên mãn. Ở đây, Thái tử nguyện tu bố thí Ba-la-mật, nghĩa là buông xả tất cả không lẫn tiếc một món gì. Nếu người xin mà không cho thì chưa gọi là bố thí Ba-la-mật. Thái tử đang thực hành hạnh bố thí Ba-la-mật, đây muốn nói lên ý nghĩa Bồ-tát khi tu hạnh nào, dù hạnh đó có khó làm thế mấy cũng phải làm cho kỳ được. Cảnh con sợ, một đứa trốn dưới ao sen, một đứa ôm chân Thái tử khóc là cảnh tượng làm cho lòng Thái tử dày vò khổ đau mà Thái tử vẫn phải cho. Việc này đâu phải dễ làm! Nếu không phải Bồ-tát đang tu pháp bố thí Ba-la-mật thì không thể làm được. Đây không đặt nặng từ bi mà chỉ nhấn mạnh ý nghĩa bố thí Ba-la-mật là phải thực hành cho rốt ráo. Nghĩa là tu hạnh nào là phải rốt ráo hạnh đó. Chúng ta với mắt thịt tâm phàm, đôi lúc thấy các vị tu hành đối xử với đệ tử hay thân nhân bất nhẫn quá, không chịu nổi! Nhưng chúng ta đâu ngờ các Ngài đang thực hiện Bồ-tát hạnh, nguyện làm là phải cho viên mãn.


HỎI: 
Thưa thầy, việc làm của Thái tử có phải là Tối thượng thừa không?

ĐÁP: Đó là hạnh bố thí trong Lục độ Ba-la-mật. Nếu tu một hạnh nữa vời thì không tới chỗ cứu cánh, mà công hạnh chưa cứu cánh thì làm sao thành Phật? Vì vậy phải thực hành cho đến chỗ viên mãn, dù cho việc làm có khó xử, có giằng co cũng phải làm cho kỳ được.


HỎI: 
Thưa thầy, ở đây nói Bồ-tát có hạnh nguyện tức là “có chuyện”. Chỗ khác nói: giáo môn có ba cửa giải thoát là: không, vô tướng, vô nguyện. Vậy “có nguyện” ở trước và “vô nguyện” ở sau, nguyện ấy có khác nhau không?

ĐÁP: Có khác, nguyện của Bồ-tát là thực hiện cho viên mãn sáu pháp Ba-la-mật; đó là hạnh tu. Còn không, vô tướng, vô nguyện là chỉ cho nguyện của phàm phu. Các pháp ở thế gian không có tự tánh cố định, chỉ là tướng hư dối nên nói là vô tướng. Đã là tướng hư dối thì dù có ước mơ mong cầu, cũng là không thật, nên nói là vô nguyện. Đây là trường hợp phá chấp thế gian.


HỎI: 
Thưa thầy, Lục độ Ba-la-mật có phải là một hay là sáu pháp khác nhau? 

ĐÁP: Sáu pháp có liên hệ với nhau, nhất là liên hệ với trí tuệ Ba-la-mật. Năm pháp trước muốn được viên mãn mà không có pháp thứ sáu là trí tuệ Ba-la-mật thì không được viên mãn. Vì vậy nên nói trong sáu pháp Ba-la-mật, trí tuệ Ba-la-mật là đầu. Liên hệ là liên hệ trí tuệ Ba-la-mật.


HỎI: 
Thưa thầy, trong sáu pháp Ba-la-mật, pháp nào giúp cho người tu tiến hóa?

ĐÁP: Pháp nào cũng giúp cho người tu tiến mạnh mẽ, nhưng e người thế gian tiến không nổi. Chỉ một pháp bố thí Ba-la-mật như trước đã nói, người đời không làm được vì bị lương tâm cắn rứt và sợ thế gian phê phán, ngại không dám làm.


HỎI: 
Thưa thầy, trong Lục độ Ba-la-mật thì có Bát-nhã Ba-la-mật, trong Thập độ thì có trí Ba-la-mật. Xin thầy phân biệt Bát-nhã Ba-la-mật và trí Ba-la-mật.

ĐÁP: Thập độ Ba-la-mật là phần chia chẻ thêm, Bát-nhã là trí tuệ. Trong phần thập độ chia Bát-nhã thành hai là quán chiếu Bát-nhã và Thể tánh Bát-nhã. Sau khi dùng trí tuệ quán chiếu rồi, phải nhập được thể Bát-nhã. Đây cũng là lối chia chẽ.


HỎI: 
Thưa thầy, trong kinh nói muốn tiến đạo là phải vượt khỏi bộc lưu. Thưa thầy, bộc lưu là gì?

ĐÁP: Bộc là bạo, lưu là dòng nước chảy xiết. Tình cảm, ái trước thường dụ là dòng bộc lưu, hoặc nghiệp thức cũng dụ là dòng bộc lưu. Tất cả chúng sanh trên đời này bị trôi lăn trong vòng sanh tử gốc từ ái nhiễm. Ái nhiễm có một sức mạnh cuốn phăng con người đưa vào sáu nẻo luân hồi không có ngày dừng. Giống như dòng nước mạnh chảy xiết cuốn phăng đi những gì rơi trong dòng nước. Người tu muốn thoát khỏi dòng nước thương yêu là phải xa lìa ái nhiễm.

Nghiệp thức cũng dụ là bộc lưu. Trong Duy thức học dụ những niệm vi tế sanh diệt ở trong A lại da thức giống như dòng nước chảy, hạt nước trước hạt nước sau liên tục cuồn cuộn chảy xiết không dừng. Người còn mê thì vọng tưởng dấy khởi chạy theo vọng tưởng. Khi tỉnh biết đó là vọng tưởng không theo thì vọng tưởng lặn. Lúc vọng tưởng lặn rồi nhìn sâu hơn, thì thấy những gợn lăn tăn sanh sanh diệt diệt không dừng, không thể phân tích, cũng giống như dòng nước không thể tách ra từng hạt nước được.  

HỎI: Thưa thầy, trong Thiền sử có ghi hai vị Thiền sư đi qua một cái cầu, dưới cầu nhiều người giăng lưới bắt cá, có một con cá lớn, phóng ra khỏi lưới. Thiền sư thứ nhất nói “À, mình tu giống con cá đó”. Thưa thầy, có phải nghiệp thức giống như cái lưới không?

ĐÁP: Hai vị Thiền sư đó là Thượng tọa Khâm và Thượng tọa Minh, cùng đi qua sông Hoài thấy người bủa lưới đánh cá, có một con cá nhảy vọt ra khỏi lưới. Thiền sư Minh nói:

– Hay quá! Con cá giống như người tu vậy.

Thiền sư Khâm nói:

– Chẳng hay, phải ở ngoài lưới mới hay.

Thiền sư Minh nói:

– Như vậy là huynh Khâm chưa hiểu.

Hai vị tiếp tục đi, đi khoảng mấy cây số, Thiền sư Khâm chợt hiểu, liền nói:

– Tôi hiểu rồi.

Vậy Thiền sư Khâm hiểu là hiểu cái gì?

– Dạ ở trong đau khổ, biết và vượt ra đau khổ mới hay.

Thầy tiếp: Chúng ta sở dĩ tu là vì đang ở trong cảnh khổ, nếu không khổ chúng ta không có tu, nên Thượng tọa Minh thấy cá nhảy vọt khỏi lưới khen là hay. Nếu cá ở ngoài lưới thì đâu cần nhảy và không khen hay. Chính ở trong phiền não bủa vây mà thoát ra được mới là người tu hay. Xưa Thái Tử Sĩ Đạt Ta vượt ra khỏi mọi ràng buộc của trách nhiệm và tình cảm, nào là đạo làm con đối với vua cha, nghĩa làm chồng đối với vợ, cha đối với con, người lãnh đạo đối với quần thần quốc dân… ràng buộc rất chặt chẽ, mà Ngài vẫn thoát khỏi, đó không phải thoát ra khỏi lưới là gì? Còn chúng ta thì trách nhiệm không nhiều mà vẫn không thoát ra khỏi được.

HỎI: Thưa thầy, trong nhà khách Viên Chiếu có bức tranh đối đáp giữa Mã Tổ và Bàng Long Uẩn. Bàn Long Uẩn hỏi Mã Tổ: “Người không cùng muôn pháp làm bạn là người gì?”. Mã Tổ đáp: “Chừng nào ông một hớp cạn nước Tây Giang tôi sẽ vì ông đáp” là ý nghĩa gì?

ĐÁP: Vậy, đạo hữu thấy chưa?  Đó là phong cách của Thiền sư, nếu nói thêm nữa thì không phải phong cách của Thiền sư.


HỎI: 
Thưa thầy, giận là do gốc thấy hai, nếu không thấy hai là không giận. Ký ức sâu đậm, mỗi lần nhớ lại cũng giận. Vậy ký ức cũng là hai không?

ĐÁP: Nếu không thấy hai thì không có ký ức. Ngồi nhớ lại chuyện phải chuyện quấy, chuyện hơn chuyện thua… tất cả những nhớ nghĩ đều do thấy hai mà ra. Vì thấy hai mới nhớ nhiều, mới ghi đậm, thương nhiều thì nhớ nhiều, ghét nhiều cũng nhớ nhiều, vui nhiều nên nhớ nhiều, khổ nhiều cũng nhớ dai… Do thấy hai nên mới có ký ức, nếu không thấy hai thì có gì để ghi nhớ? Đâu quý vị thử nhớ dùm tôi cái không hai coi? Sở dĩ chúng ta nhớ là nhớ những cái tốt xấu, chuyện vui buồn, người thương ghét. Giả sử quý vị giao tế với ba hạng người: người tốt được quý vị thương, người xấu bị quý vị ghét và người quý vị không thương không ghét. Qua một thời gian xa cách gặp lại cả ba, quý vị nhớ người nào rõ nhất? Chắc chắn là người thương, hoặc người ghét, còn người không thương không ghét thì quên mất. Như vậy, người có ký ức đậm là do thương ghét nhiều.


HỎI: 
Thưa thầy, Thiền sư Pháp Dung khi chưa gặp Tổ Đạo Tín, Ngài tu trên núi, chim tha hoa trái tới cúng dường. Sau khi gặp Tổ Đạo Tín khai ngộ, từ đó chim không tha hoa trái tới cúng nữa. Vậy có phải lúc trước Ngài có phước hơn lúc sau, nên trước chim cúng hoa trái sau không cúng?

ĐÁP: Thiền sư Pháp Dung tu rất tinh tấn trên núi Ngưu Đầu, cọp sói cảm đức từ bi của Ngài tụ hội về khá đông, chim muôn cũng cảm lòng từ nên tha bông trái đến cúng dường Ngài. Sau khi được Tổ Đạo Tín khai ngộ, Ngài tiếp tục tu, nhưng chim không còn tha bông trái đến cúng dường Ngài nữa. Như vậy có phải Ngài kém phước không? Sau này Ngài tu lùi hay tiến? Đây là cái nghi vấn mà người tu Thiền đã nêu lên. Muốn giải cái nghi này tôi xin dẫn câu chuyện của Thiền sư Đạo Ưng.

Thiền sư Đạo Ưng là đệ tử của Tổ Động Sơn Lương Giới, khai Tổ tông Tào Động khi Sư còn ở Động Sơn, có cất cái am ở Tam Phong, trải qua một tuần nhật Ngài không xuống trai đường. Động Sơn thấy lạ hỏi:

– Mấy ngày nay sao ngươi không đến thọ trai?

Sư thưa:

– Mỗi ngày có thiên thần cúng dường.

Quý vị thấy tu mà được chư Thiên cúng dường là quá tuyệt rồi phải không?

Động Sơn bảo:

– Ta bảo ngươi là kẻ vẫn còn kiến giải. Ngươi rảnh chiều lại.

Chiều Sư đến, Động Sơn gọi:

– Ưng am chủ!

Sư ứng thinh:

– Dạ!

Động Sơn bảo:

– Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác là cái gì?

Sư trở về am ngồi yên lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy Sư, trãi qua ba ngày như thế mới thôi cúng dường.

Quý vị thấy thế nào, trước Sư được chim cúng dường, sau không được cúng là tại sao? Sự việc này nếu không giải thích thì quý vị sẽ hoang mang. Bình thường người tu mà có kẻ quý kính cúng dường thì vui, không có người ủng hộ thì buồn. Giả sử quý vị phát nguyện nhập thất độ một tuần hoặc nửa tháng, bỗng một hôm được chư Thiên đem phẩm thực đến cúng dường, cúng dường khoảng ba hôm chắc quý vị mừng lắm đi khoe cùng xóm, vì đó là chuyện hy hữu. Nhưng ngài Đạo Ưng được như vậy lại bị Tổ Động Sơn chê là còn kiến giải. Tại sao nói còn kiến giải? Vì tu mà còn dụng tâm khởi quán từ bi, muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Khởi tâm thiện mạnh như thế, nên chư Thiên thấy quý kính đến cúng dường. Nếu dứt hết niệm ác và niệm thiện cũng không còn, tâm không khởi niệm tức là vô niệm thì duyên vào đâu mà thấy tâm?

Trong nhà Thiền nói tu đến chỗ đó dù cho mắt Phật cũng không thấy, huống nữa là chư Thiên hay quỷ thần. Tâm vô niệm mới là chỗ vượt mọi đối đãi hai bên. Nếu còn khởi quán là còn niệm thiện, niệm thiện rất thuần khiết nên chư Thiên thấy và chim muôn cảm được mới tới cúng dường. Như vậy tu tới chỗ cao tột, với mắt phàm thấy như hết phước vì không thấy tâm đang nghĩ gì, còn tu vừa vừa thì dễ cảm thông, thấy kết quả rõ ràng. Chúng ta thấy người xưa tu được chư Thiên, chim muôn cúng dường, mà còn bị chê. Chúng ta thời nay tu chưa tới đâu lại xao lãng biếng nhác thì bị chê cỡ nào?

Đối với những phép lạ, những việc như trên, nhà Thiền không lấy đó làm quan trọng. Thiền sư Nam Tuyền khởi niệm đi thăm trang chủ. Sáng hôm sau Ngài xuống trang sở thì thấy trang chủ đã chuẩn bị đón tiếp. Ngài hỏi:

– Lão Tăng ra vào thường không cho người biết, sao trang chủ biết trước mà bày biện như vậy?

Trang chủ thưa:

– Đêm qua thổ địa mách, ngày nay Hòa thượng đến.

Ngài bảo:

– Vương lão sư tu hành vô lực (khởi niệm động tâm) bị quỷ thần xem thấy.

Thông thường chúng ta đến nơi nào mà không cho nơi đó hay, nhưng được người biết trước sửa soạn đón tiếp thì rất vui mừng chấp nhận, vì được sự ủng hộ của quỷ thần. Song đối với người tu cao như ngài Nam Tuyền, thì hối tiếc rằng mình dụng tâm tu để cho quỷ thần thấy. Tu để cho quỷ thần thấy tâm là còn thấp. Giá trị của sự tu không phải ở chỗ huyền hoặc, thế mà người đời lại đặt nặng sự huyền hoặc, cho là cao quý nên bị kẹt ở đó.


HỎI: 
Thưa thầy, trong kinh nói “Người tu khi chứng quả thì được thần thông. Khi được thần thông thì sáu căn hỗ dụng”. Xin thầy giải thích hỗ dụng thế nào?

ĐÁP: Hỗ dụng là dùng thay cho nhau mà cũng có thể thấy được. Mắt chẳng những thấy mà cũng có thể nghe… Người còn mê thì sáu căn bị niêm, căn nào chỉ có công dụng của căn nấy, như mắt chỉ thấy mà không nghe hay ngửi được. Người tu đắc đạo rồi thì sáu căn không còn bị niêm nửa, sáu chỉ là một. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: Nhất tinh minh sanh lục hòa hợp. Hòa hợp là chỉ cho sáu căn, nơi sáu căn mỗi căn có cái biết riêng, nếu trở về được với một tinh minh (bản thể) thì sáu căn thanh tịnh, căn này có khả năng biết thay cho căn kia. Nếu chưa tinh minh thì sáu căn chỉ có công dụng riêng của nó, mắt chỉ thấy mà không nghe, tai chỉ nghe mà không thấy…


HỎI: 
Thưa thầy, trong kinh nói: “Lấy nước và lấy tất cả vật ở dưới biển, đem nhét vào lỗ chân lông cũng không ngại”. Câu này hàm chứa ý nghĩa gì? 

ĐÁP: “Đem biển cả nhét vào lỗ chân lông” hay “Đem núi Tu Di nhét vào hạt cải mà không ngại” là những câu nói của Không tông. Thông thường theo cái nhìn của phàm phu thì thấy cây xoài lớn, cây cỏ nhỏ, cái nhà lớn cái bàn nhỏ, cái lớn cái nhỏ ngại nhau. Nhưng theo cái nhìn của Không tông thì thấy cây xoài, cây cỏ, cái nhà, cái bàn đều là tướng duyên hợp không có thật thể, đã là tướng duyên hợp không có thật thể, đã là tướng duyên hợp không có thật thể thì không có lớn nhỏ. Song đứng trên mặt giả tướng thì tạm có lớn nhỏ, nên hạt cải sánh với núi Tu Di không thấm vào đâu. Còn đứng về thể tánh tức là tánh không thì hạt cải hay núi Tu Di, hoặc biển cả hay lỗ chân lông tánh nó vốn không, không có lớn nhỏ nên nói hạt cải nuốt núi Tu Di, hoặc nói đem biển cả nhét vào lỗ chân lông. Đó là đứng về mặt thể tánh mà nói, vì tánh của các pháp không có lớn nhỏ nên không ngại nhau.


HỎI: 
Thưa thầy, tu cốt là để thoát khổ, tức là giải thoát lục đạo luân hồi sanh tử. Tại sao Thiền sư Quy Sơn nói: “Sau khi lão tăng trăm tuổi đến dưới núi làm con trâu, hông bên trái có năm chữ “Quy Sơn Tăng Linh Hựu”. Khi ấy gọi là Quy Sơn Tăng hay gọi là con trâu? Gọi là con trâu hay gọi là Quy Sơn Tăng? Gọi thế nào mới đúng?”.

Ngài nói như vậy Ngài có thoát khỏi luân hồi sanh tử chưa?

ĐÁP: Trong nhà Thiền có cái đặc biệt là không cho người học đạo vướng mắc hai bên: bên thánh bên phàm. Nên các Thiền sư hay nói hồi hỗ, tức là nói cái này xoay qua cái kia, nói cái kia xoay qua cái nọ. Người tu thường nghĩ mình đang ở trong cõi phàm, tu cốt để thành Thánh và khi thành Thánh thì sung sướng tự do, không bao giờ bước chân vào cõi phàm nữa, vì cõi phàm quá xấu xa nhơ nhớp. Nhưng với con mắt của Thiền sư thì thấy Thánh phàm không có thực thể. Vì còn mê nên thấy có Thánh và phàm khác nhau, khi ngộ rồi thì thấy Thánh phàm chỉ là giả danh giả tướng thôi. Vì vậy mà các Thiền sư sau khi ngộ đạo, các Ngài đi vào đời để độ chúng sanh. Chúng ta thường có quan niệm tu là để giải thoát, ra khỏi lục đạo luân hồi. Trong lục đạo có những đường xấu xa ngạ quỷ, súc sanh… Giải thoát là ra khỏi, không trở lại những đường xấu đó. Tu như thế là tiêu cực yếm thế. Các Thiền sư thì không có thái độ như thế, các Ngài tu tới chỗ tâm thể nhất như rồi thì đi vào lục đạo, để giáo hóa làm lợi ích chúng sanh, không ngồi yên để hưởng an lạc. Thế nên mục thứ mười trong mười mục chăn trâu là mục thõng tay vào chợ, Thiền sư mở cửa am, mặc áo hở ngực hở bụng, tay cầm cá chép, tay xách bầu rượu, đi chân trần vào làng vào chợ… hòa mình để giáo hóa người. Nghĩa là đến chỗ cứu kính rồi thì phải quay lại cảnh phàm tục để giáo hóa chúng sanh, chứ không an trụ trong chỗ cứu kính. Vì vậy nên Ngài Quy Sơn nói Ngài làm con trâu. Đó là một người đạt đạo chân thật, đi vào đời làm lợi ích cho đời. Còn người tu sơ sơ, nhút nhát chỉ mong tới chỗ thanh tịnh để an trú trong đó, vì tâm vị ngã hãy còn. Còn ngã là còn ích kỷ không dám nhập thế, vì nhập thế thì phải độ chúng sanh nhọc nhằn. Thế nên người đạt đạo viên mãn ra vào trong tam giới không ngại không nhiễm, tùy căn cơ chúng sanh mà ứng hiện để hóa độ.


HỎI: 
Thưa thầy, tu là phải độ chúng sanh; chúng sanh thì có nhiều căn cơ, nhiều hạng. Vậy phải độ chúng sanh nào trước?

ĐÁP: Chúng sanh có hai loại: chúng sanh trong và chúng sanh ngoài. Khi mới tu tâm hành giả còn loạn tưởng điên đảo thì nên độ chúng sanh nơi tâm (chúng sanh trong), khi chúng sanh trong độ hết rồi thì phát nguyện độ chúng sanh ngoài. Không phải độ chúng sanh trong xong rồi an trụ mãi trong yên lặng là xong việc. Vậy, người phát tâm tu Bồ-đề, lúc nào cũng nhớ chúng sanh trong nhiều hơn phải độ cho xong. Khi độ hết chúng sanh trong thì lăn xả vào thế tục để độ chúng sanh ở ngoài. Cả hai chúng sanh đều phải độ. Nhưng chúng sanh trong cần phải độ trước, vì nếu người tu còn tham sân si, mà dạy người đời đừng tham sân si thì họ không nghe không làm theo, không độ họ được. Vì vậy phải độ chúng sanh trong trước. Độ chúng sanh trong là tu khiến vọng tưởng tham sân si… nơi mình hết sanh, đó là tự giác, rồi giảng dạy hướng dẫn cho người đời tu xa lìa tham sân si… là giác tha. Người tu nào cũng phải thực hành hai điều này, nếu không tự giác trước mà nói giác tha là nói suông nói rỗng. Vì chưa giác ngộ làm sao hướng dẫn người giác ngộ được? Cũng như người dốt mà nói tôi dạy học, dạy học mà anh dốt thì dạy ai? Đó chỉ là lời nói suông nói rỗng không thật.


HỎI: 
Thưa thầy, tại sao nói sáu căn là lục thông mà cũng nói sáu căn là lục tặc?

ĐÁP: Nói sáu căn là lục thông, khi mắt thấy sắc, chẳng hạn thấy một cái hoa, thấy chỉ thấy không khởi tâm phân biệt đẹp xấu, không khen chê, đó là nhãn thông. Nếu mắt thấy hoa liền khen hoa đẹp, trầm trồ khen ngợi muốn ngắm nhìn hoài, hoặc muốn hái về nhà chưng, đó là nhãn tặc. Tai nghe tiếng chửi chỉ biết mình đang nghe chửi, không khởi tâm phân biệt nhân ngã buồn giận đó là nhĩ thông. Nếu tai nghe tiếng chửi khởi phân biệt tiếng này nặng, tổn thương danh dự của mình, làm mình ô nhục, sân si nổi lên… đó là nhĩ tặc. Tóm lại sáu căn tiếp xúc với sáu trần không dính mắc không nhiễm ô đó là lục thông. Ngược lại sáu căn tiếp xúc với sáu trần, khởi tâm phân biệt tốt xấu sanh ưa chán, tham sân dấy khởi đó là lục tặc. Chính nó là thông mà chính nó cũng tặc.


HỎI: 
Thưa thầy, kiến tánh và ngộ đạo có khác nhau không?

ĐÁP: Kiến tánh hay ngộ đạo nói tuy khác nhưng ý nghĩa không khác. Kiến tánh là nhận ra thể tánh chân thật của chính mình. Còn ngộ đạo thì cũng nhận được cái chân thật của mình. Ngộ đạo thì có giải ngộ, đại ngộ, triệt ngộ, chứng ngộ… Tùy sức huân tu sâu cạn mà ngộ cạn hay sâu. Kiến tánh cũng na ná như vậy, có người nhận ra cái chân thật của mình rõ ràng, có người thấy cũng chừng phân nửa, có người chỉ thấy mờ mờ…


HỎI: 
Thưa thầy, trong vũ trụ có nhiều hành tinh. Trong kinh nói: “Nhất thiết do tâm tạo”. Có phải do tâm tạo ra hành tinh và muôn loài muôn vật trong vũ trụ này không?

ĐÁP: Giáo lý nhà Phật nói: Tam giới duy tâm vạn pháp duy thức, nghĩa là tất cả pháp do thức phân biệt mà ra, mọi sự trong tam giới do tâm mà có. Quý vị nhớ đừng hiểu lầm vạn pháp duy thức là thức làm ra cây cột làm ra cái nhà, thức có biến thành cây cột cái nhà được không? Nói vạn pháp duy thức là nói muôn vật trong thế gian này tuy có hình tượng, nhưng nếu không có thức phân biệt loại giống và đặt tên thì không có núi, sông, biển, rừng, thành thị, cái nhà, cái đường… Có trăm ngàn giống loại, trăm ngàn thứ tên là do thức phân biệt đặt ra nên nói vạn pháp duy thức. Còn tam giới duy tâm, không phải là tâm biến ra quả đất hay thế giới này. Nếu do tâm biến ra quả đất này thì khi người chết quả đất cũng hoại luôn sao? Đây nói tam giới duy tâm là tâm khởi nghiệp thiện hay nghiệp ác, tùy theo nghiệp mà đi vào thế giới lành hay thế giới dữ, chớ không phải tâm biến ra bụi đất tạo ra thế giới mình ở.


HỎI: 
Thưa thầy, chúng sanh do phân biệt nên nhìn cái gì cũng thấy đẹp xấu, hay dở… Trong Thiền sử có câu chuyện: Thiền sư Quế Sâm, Trường Khánh và Bảo Phước cùng thấy hoa mẫu đơn. Bảo Phước nói: Một đóa hoa mẫu đơn đẹp. Trường Khánh bảo: Chớ để con mắt sanh hoa. Quế Sâm bảo: Đáng tiếc một đóa hoa. Thưa thầy, cái thấy của chúng sanh do phân biệt mà có đẹp xấu. Còn cái thấy của ba vị Thiền sư thế nào mà nói khác nhau như vậy?

ĐÁP: Chỗ này bảo cắt nghĩa làm sao nói? Tuy nhiên tôi cũng tạm mượn ngôn ngữ để cho quý vị thấy chỗ sai biệt của người nói. Bảo Phước nói: “Một đóa hoa mẫu đơn đẹp”. Đó là giai đoạn một còn thấy hoa đẹp. Trường Khánh nói: “Chớ để con mắt sanh hoa”. Đây là giai đoạn hai, Trường Khánh răn nhắc Bảo Phước chớ để con mắt dính hoa. Quế Sâm nói: “Đáng tiếc một đóa hoa”. Ngài trách Bảo Phước và Trường Khánh làm cho đóa hoa bị bệnh. Hoa là hoa mà kẻ thì khen hoa đẹp, người thì nói đừng dính, đóa hoa không bệnh mà hai vị làm nên bệnh.


HỎI: 
Thưa thầy, câu “Nghiệp phi nghiệp, chân phi chân, Phật phi Phật”. Nghĩa như thế nào?

ĐÁP: Thông thường khi thấy, hay nói điều gì chúng ta có thói quen là khẳng định. Ví dụ như nói về nghiệp thì khẳng định là nghiệp không thể chuyển, nghiệp đã tạo rồi thì phải chịu thế nên tu mới gặp chướng duyên thử thách thì thối tâm, cho rằng nghiệp của mình như thế không tránh khỏi. Đó là khẳng định nghiệp cố định không thể chuyển. Để đối trị bệnh chấp cố định đó, Phật nói “Nghiệp phi nghiệp”. Nghiệp phi nghiệp nghĩa là sao? Trong kinh thường dạy: Do nghiệp dẫn mà chúng sanh luân hồi trong lục đạo. Vậy nghiệp từ đâu mà có? Nghiệp được xuất phát từ thân, khẩu, ý, gọi là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thân làm lành hoặc làm ác, miệng nói hiền hoặc nói dữ, ý nghĩ tốt hoặc nghĩ xấu. Tuy chia ra ba nghiệp, nhưng chủ là ý. Song, ý có thật không? Thiền sư Khuê Phong có nói rằng: “Thể không mà thành sự”. Thể của ý nghiệp là không, nhưng nếu tạo tác thì thành sự. Ví dụ quý vị đang sống bình thường vui vẻ, bỗng dưng có người đến xúc phạm quý vị, lúc đó ý quý vị nổi giận, tiếp theo là miệng nói bậy, thân làm bậy tạo thành nghiệp bất thiện. Bấy giờ nếu quý vị vừa nổi giận, liền biết mình giận, nhìn kỹ cơn giận xem nó từ đâu mà ra? Khi nhìn nó thì nó lặng mất. Lúc cơn giận lặng, quý vị có biết nó trốn ở đâu không? Nó không có chỗ nơi. Khi cơn giận dấy lên, không biết từ đâu khởi và khi lặng xuống cũng không biết về chỗ nào? Vậy cơn giận có thật không? Không. Thế nên nói thể nó là không. Nếu cơn giận nổi lên, miệng chửi, tay đánh gây khổ cho người thì thành sự. Nghiệp có là do ý, mà ý đã không thật thì nghiệp có thật không? Nghiệp không có thật nên nói “Nghiệp mà phi nghiệp”. Như vậy, khẳng định nghiệp không thể chuyển là sai lầm. Tại sao? Vì nó không thật nên nó có thể chuyển. Để phá chấp “nghiệp cố định” nên trong kinh nói “nghiệp phi nghiệp”.

“Chân phi chân”. Thông thường chúng ta nhìn sự vật với cái thấy hai bên đây là vọng, kia là chân, đây là giả, kia là thật. Khi thấy giả thấy thật, thấy vọng thấy chân, chúng ta cũng cho là cố định, giả cố định, thật cố định, vọng cố định, chân cố định… Nhưng với người đạt đạo thì không thấy như vậy. Cái chân không tự có, nhờ cái giả nên đối đãi lập ra cái chân. Do có ác nên đối đãi lập ra thiện. Ngược với vọng thì gọi là chân, nếu không có vọng thì đâu có nói chân! Vậy, chân là giả danh đối với vọng lập ra, nó không có thật. Không thật, nhưng lúc mê thấy có vọng và chân. Để phá chấp chân là thật nên nói “chân phi chân”.

“Phật phi Phật” cũng vậy. Phật là giác, giác là đối với mê. Bởi có chúng sanh mê nên nói Phật giác. Nếu hết chúng sanh rồi, thì danh từ Phật không còn nữa. Nếu tất cả chúng sanh đều giác hết thì có còn nói Phật và chúng sanh nữa không? Lúc đó không còn nói Phật. Vì ai cũng như ai, song người giác ngộ vẫn có. Phật là danh từ đối đãi giả lập không thật. Vì vậy mà nói “Phật phi Phật”. Nghĩa phi Phật là như vậy, chứ không phải không có Phật. Còn có chúng sanh thì danh từ Phật còn, hết chúng sanh thì danh từ Phật cũng bỏ.


HỎI: 
Thưa thầy, trong sử ghi đức Phật lúc ra đời trong vườn Lâm-tỳ-ni dưới gốc cây vô ưu, khi thành đạo thì ở trong rừng Ưu-lâu-tần-loa dưới gốc cây Bồ-đề. Sau khi thành đạo nói pháp lần đầu cũng nói trong vườn dưới cội cây, về già viên tịch cũng ở trong rừng dưới gốc cây Sa-la. Trong khi vua chúa cúng dường nhiều tịnh xá khang trang, sao Phật không ở trong nhà, mà cứ ở trong rừng ngoài trời. Thưa thầy, có phải Phật thị hiện như vậy để làm gương cho hậu thế không? 

ĐÁP: Phật đản sanh, thành đạo nói pháp và Niết-bàn đều ở ngoài trời dưới cội cây. Như ý đạo hữu là Phật để lại cái gương sáng cho đời. Đây tôi nói rõ hơn một chút. Ngài ra đời trong vườn Lâm tỳ ni dưới gốc cây vô ưu thì chưa có ngụ ý gì vì do mẹ sanh ra. Khi Ngài thành đạo dưới cội Bồ-đề, thuyết pháp lần đầu ở vườn Lộc uyển và Niết bàn dưới hai cây Sala thì có thể Ngài ngụ ý làm gương. Chúng ta gẫm lại mới thấy, nghĩa xuất gia trong đạo Phật là ra khỏi nhà. Như kinh A Hàm nói “Từ bỏ gia đình sống không gia đình”. Chỗ tu hành không phải là nhà của mình, học đạo không có của riêng. Người tu bây giờ lâu lâu cũng hơi kẹt, có của riêng. Ở Ấn Độ thời bấy giờ có tập tục là người theo đạo Bà la môn, khi tới tuổi già là xuất gia sống đời khất sĩ du phương. Cứ đi chỗ này chỗ kia thọ cúng dường, chớ không có chỗ ở riêng. Vì vậy khi thái tử Tất-đạt-đa xuất gia Ngài cũng thực hành theo hạnh đó, đi nơi này nơi kia. Mặc dù có người xây tịnh xá cúng dường, Ngài chỉ ở an cư ba tháng hạ chớ không ở lâu. Đức Phật làm như vậy rất hợp với thời đó. Vì Ngài mới thành đạo, cả nước Ấn Độ chưa ai biết, nên Ngài phải đi du phương giáo hóa rộng rãi cho mọi người được lợi ích. Nếu Ngài ở một chỗ thì sự giáo hóa giới hạn không rộng rãi. Ngày nay hoàn cảnh xã hội chúng ta có khác, tất cả người tu đều có chùa. Người tu ở chùa có hai trường hợp: Một là đúng, hai là sai. Nếu người tu ở chùa mà thấy chùa là tư hữu của mình là sai. Nếu thấy chùa là chỗ cư ngụ chung của toàn thể người tu, mình là một phần tử cư trú để tu hành, mai kia nó trở thành của ai cũng được, không phải là của riêng mình thì không có lỗi. Như vậy, tuy ở chùa mà tâm không kẹt nơi cái chùa. Song hiện nay đa số người tu đều bị kẹt thấy cái chùa là của riêng mình ai động tới là không dung thứ.

Tóm lại, theo ý của đạo hữu thì Phật giáng sanh, thành đạo, thuyết pháp, Niết-bàn đều ở dưới gốc cây ngoài trời là ngụ ý muốn giáo hóa, nhắc nhở cho đồ đệ phải sống đời sống không có tư hữu, phải du phương tìm đạo. Đó là gương tốt sẵn có, nhưng không phải cố định là ai tu chân chánh đều phải giống như Ngài không được khác. Sự tu hành và truyền bá của người tu hiện tại, còn tùy thuộc hoàn cảnh tập tục xã hội. Ở vùng này vị tu sĩ này có bổn phận giảng dạy, ở vùng khác vị tu sĩ khác có bổn phận giảng dạy, ở đâu cũng có người giảng dạy Phật pháp. Hơn nữa sự đi lại giảng dạy bất hợp pháp là không được, nên ở đâu làm việc ở đó, mới thoạt nhìn thấy như có chỗ riêng. Nhưng nếu người tu không chấp chỗ mình ở là của mình thì tốt, còn thấy riêng của mình là không tốt. Chúng ta theo gương của Phật và theo tinh thần hơn là theo hành động của Ngài thuở trước.


HỎI: 
Thưa thầy, trong sách có ghi “Thà chấp có bằng núi Tu Di, không nên chấp không bằng hạt cải”. Cây này có ý nghĩa như thế nào?

ĐÁP: Trước khi giải thích câu này, chúng ta nên hiểu thế nào là chấp có, thế nào là chấp không. Nếu chưa hiểu chấp có chấp không, dù có giải thích cũng không hiểu được ý nghĩa. Chấp có là tin có thiên đường, có địa ngục, có phước, có tội, có thiện, có ác… chấp có một cách tuyệt đối. Vì chấp có tội nên sợ tội, chấp có phước nên ham làm phước, do chấp có địa ngục nên sợ địa ngục không làm ác, chấp có thiên đường nên muốn sanh lên thiên đường lo làm lành. Tuy chấp có là dở mà ít tai nạn ít khổ đau. Còn chấp không là không tin có thiên đường, không tin có địa ngục, không phước, không tội, không thiện, không ác. Chấp cái gì cũng không hết nên cứ làm ác, cứ tạo tội, không biết hướng thượng để làm lành hưởng phước mặc tình muốn làm gì thì làm, nguy hiểm không thể lường. Thế nên nói: “không nên chấp không bằng hạt cải”, chấp không chút xíu cũng tai họa. Vì chấp có nên sợ tội không dám làm ác, ham phước nên siêng làm lành. Vì chấp không nên tha hồ làm ác tạo tội, rơi vào địa ngục như tên bắn. Thà chấp có mà không xuống địa ngục. Do đó mới có câu “Thà chấp có như núi Tu Di không nên chấp không bằng hạt cải”.

Câu chuyện sau đây có liên hệ đến chấp có và chấp không. Một thiền khách đến hỏi Thiền sư Trí Tạng:

– Thưa Hòa thượng có thiên đường không?

– Có.

– Có địa ngục không?

– Có.

– Có tội không?

– Có.

– Có phước không?

– Có.

Hỏi cái gì thiền sư cũng đáp có, thiền khách mới nghi hỏi lại:

– Hòa thượng nói như vậy có lầm không?

– Ta đối đáp với ông đâu có lầm.

– Tại sao tôi hỏi có thiên đường không, có địa ngục không… Ngài Quốc Nhất trả lời không, bây giờ hỏi Hòa thượng, Hòa thượng nói cái gì cũng có hết. Vậy thì ai đúng?

Thiền sư Trí Tạng không trả lời ai đúng hết, mà Ngài hỏi:

– Ông có vợ không?

– Dạ có.

– Hòa thượng Quốc Nhất có vợ không?

– Dạ không.

– Vì Hòa thượng Quốc Nhất không có vợ, nên Ngài nói không. Vì ông có vợ nên tôi đáp có.

Câu chuyện mới nghe qua như là đùa vậy. Song nó hàm xúc ý nghĩa: Hòa thượng Quốc Nhất không bị ái nhiễm ràng buộc, tu thấy tột được lý đạo, nên Hòa thượng nói không. Còn người phàm phu thê thằng tử phược cột trói chằng chịt, vô minh phiền não phủ che mà nói không thì tạo tội đọa đường ác. Vì vậy nên phải nói có. Đó là ý nghĩa của câu “Thà chấp có bằng núi tu di, không nên chấp không bằng hột cải”. 

HỎI: Thưa Thầy, người thế tục và người tu hành, ai cũng mưu cầu hạnh phúc. Người đời tìm hạnh phúc ở bản năng thì sa vào tội lỗi. Người tu tìm hạnh phúc là phải khép mình hành khổ hạnh ở chốn núi rừng xa xăm vắng vẻ. Trong sự tìm cầu hạnh phúc dường như không ai bắt gặp được hạnh phúc. Phải chăng chỉ có bậc Thánh mới có hạnh phúc chân thật, người phàm thì không có phần?

ĐÁP: Phàm hay Thánh nếu khéo biết, đều có hạnh phúc. Không phải chỉ Thánh mới có hạnh phúc, mà phàm vô phần. Sở dĩ người ta đau khổ là vì đang ở trong hạnh phúc mà không chịu hưởng, cứ kiếm tìm. Nếu chúng ta ngồi đây mà tâm không lo nghĩ, không sợ sệt, không buồn rầu thì có hạnh phúc không? Ngay đây là hạnh phúc. Quý vị khổ là vì đang ngồi đây mà nhớ chuyện ở nhà, chẳng biết các con mình ở nhà có đi chơi rong không? Có kẻ xấu tới dụ dỗ lường gạt các con mình không? Tâm cứ lo lắng bồn chồn không an, thì làm sao có hạnh phúc? Giả sử như trong gia đình, vợ chồng con cái đang quây quần bên mâm cơm, qua câu chuyện đạo bằng lời hiền lẽ phải với nhau thì hạnh phúc biết bao nhiêu. Ngược lại, lúc nói chuyện mà chồng ý này, vợ ý nọ, con ý kia không ai đồng ý với ai, mặc dù cùng nói chuyện mà ý ngấm ngầm chống đối không hòa thuận nhau. Tuy gia đình họp mặt ăn uống, mà ý cứ ngấm ngầm chống đối, thì đâu có hạnh phúc. Nếu chúng ta buông được ý niệm riêng tư, sống với hiện tại thì lúc nào hạnh phúc cũng tràn trề. Hằng ngày, qua buổi công tác mệt nhọc, quý vị tắm rửa xong, hoặc nằm trên ghế bố hoặc ngồi dưới gốc cây, tâm không lo buồn nghĩ ngợi thì lúc đó có hạnh phúc không? – Hạnh phúc tràn trề. Ngược lại nếu thân nằm đó mà tâm cứ chạy ngược chạy xuôi, nhớ đứa con này làm buồn, nhớ người láng giềng nọ không tốt… Lúc nào cũng có niệm buồn phiền bất an, nên không có hạnh phúc. Vì vậy mà đi tìm hạnh phúc, tìm không biết bao giờ mới gặp? Vì không chấp nhận sống với cái mình đang có và sống với hiện tại. Bây giờ quý vị đừng đợi làm Thánh để được hạnh phúc mà ngay giờ nào sống với việc nấy thì luôn luôn hạnh phúc. Khi ăn cơm vui trong việc ăn cơm. Khi làm việc thì vui trong công việc. Làm việc gì là vui với việc nấy, không để tâm nghĩ vơ nghĩ vẩn thì an vui hạnh phúc vô cùng. Vua Lý Thái Tôn đến viếng Thiền Lão Thiền sư. Vua hỏi:

– Hòa thượng trụ núi này đã được bao lâu?

Sư đáp:

“Chỉ biết ngày tháng này,

Ai rành xuân thu trước”.

Ngài hạnh phúc tràn trề, chỉ biết ngay bây giờ thôi. Chúng ta vì không sống với hiện tại nên không có hạnh phúc. Đang ngồi đây mà nuối tiếc việc quá khứ, mong cầu việc tương lai. Chẳng hạn chúng ta trồng cây cam, cứ nhìn nó mong nó có hoa có trái, thấy hoa trái rụng lòng không vui. Sống như vậy làm sao có hạnh phúc? Lúc nào chúng ta cũng muốn mọi sự việc như ý mình. Sự việc thì tùy duyên, khi đủ duyên tốt thì thành tốt, không đủ duyên tốt thì thành xấu. Chúng ta làm việc gì cứ làm hết sức, còn thành tựu thì tùy thời tiết nó thành. Vì làm việc gì chúng ta cũng mong cho thành tựu như thế này như thế kia. Hoặc sống ngày nay không sống trọn vẹn với ngày nay, mong mai kia sẽ có việc lạ xảy ra. Hoặc sống năm nay lại mơ ước năm tới được phát tài, phát lợi… Cứ mơ ước hoài, mơ ước cho tới già gần chết thì sợ. Sống như vậy làm sao có hạnh phúc? Hết mong rồi nhớ, nhớ lại thời tráng niên trẻ trung tài ba oanh liệt, hồi tưởng quá khứ thì tiếc rẻ. Cứ như thế mà bất an, không có phút giây hạnh phúc.

Quý phật tử nên tập sống ngày nay thì vui với ngày nay, bằng lòng với hiện tại, với công việc hiện có của mình. Sống như thế mới có hạnh phúc. Nếu không chấp nhận hiện tại, không bằng lòng với cái mà mình đã có, lại cứ mơ ước tương lai hoài vọng quá khứ, thì không bao giờ có hạnh phúc, cứ khổ mãi. Trong kinh Kim Cang Phật có dạy: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”. Tức là không chạy theo tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai, mà phải an nhiên trong giờ phút này đó là hạnh phúc. Người phàm mà biết sống như vậy đâu không có hạnh phúc?


HỎI:
 Thưa Thầy, trong tứ đại hạnh có báo oán hạnh. Vậy báo oán hạnh là sao? 

ĐÁP: Báo oán hạnh trong Thiếu Thất Lục Môn có giảng kỹ. Đây tôi chỉ nói đại ý cho quý vị hiểu thôi. Báo oán hạnh là hạnh trả thù. Chư Tổ dạy tu sao dạy trả thù? Thường thì trong kinh Phật dạy tất cả mọi oán hận, người tu chúng ta phải bỏ và nên lấy ân để báo oán, chớ đừng lấy oán báo oán. Vậy chư Tổ tu theo Phật, dạy báo oán bằng cách nào? Ví dụ người có tâm ích kỷ hay lấn hiếp bạn bè, họ làm ăn chung với quý vị, khi chia lời, lẽ ra chia mỗi người 50% như nhau. Nhưng họ lại giành 60% chia cho quý vị 40%. Bây giờ quý vị muốn trả thù họ, phải làm sao? Thay vì họ muốn 60%, quý vị vui vẻ nhường họ 80%. Trả thù như vậy là hết oán. Lại có người tâm hay tật đố, thấy mình có gì hơn họ, họ đều đố kỵ. Muốn trả thù người có tâm tật đố, phải làm sao? Cái gì họ muốn mình vui vẻ cho họ thì họ hết tật đố. Người đời bị đối xử bạc ác thì họ oán thù, họ làm khổ lụy lại bằng hoặc hơn họ mới hả dạ. Ngược lại người tu khi bị người làm khổ lụy, thì mình phải làm cho họ vui, cho họ sung sướng hơn. Người làm khổ mình, mình trả lại họ bằng cái vui. Đó là hạnh báo oán mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma đã dạy trong Thiếu Thất Lục Môn.

 

HỎI: Thưa thầy, “Sắc không tự là sắc, do tâm cho nên có sắc. Tâm không tự là tâm, do sắc nên có tâm”. Nghĩa này thế nào?

ĐÁP: “Sắc không tự là sắc, do tâm cho nên có sắc”. Tôi ví dụ để giải nghĩa, cây này được gọi là hoa mai. Vậy từ đâu mà có tên hoa mai? Từ tâm. Cây hoa mai là sắc tướng, hoa mai vàng, đẹp, quý, tiện v.v… đều từ tâm phân biệt của người mà có. Nếu không có tâm phân biệt thì cây này không có tên hoa mai. Vậy sắc tướng lớn, nhỏ, đẹp, xấu đều từ tâm mà có. “Tâm không tự là tâm, do sắc nên có tâm”. Nếu không có sắc thì không khởi tâm phân biệt. Vì có sắc nên tâm dấy khởi phân biệt lớn, nhỏ, đẹp, xấu… Nếu không có sắc thì tâm phân biệt cái gì? Không phân biệt cái gì thì không có tâm. Bởi có sắc nên có tâm phân biệt. Vì vậy mà nói “Sắc không tự là sắc, do tâm cho nên có sắc”.


HỎI: 
Thưa Thầy, trong đạo Phật bắt buộc tất cả mọi người tu, ai ai cũng phải thọ giới cụ túc hay sao?

ĐÁP: Cụ túc giới là giới điều của Tỳ-kheo gồm 250 giới, Tỳ-kheo-ni 348 giới. Đó là phần luật quy định tư cách của người xuất gia theo một đường lối rõ ràng. Phải thực hành đúng những điều luật Phật quy định mới đủ tư cách của một Tỳ-kheo, hay Tỳ-kheo-ni, mới đủ giới hạnh hướng dẫn cho người tu hành. Nếu thực hành không đúng giới luật quy định thì chưa xứng đáng lãnh đạo hướng dẫn cho người tu theo. Do đó người xuất gia phải thọ cụ túc giới là vậy. Đối với người xuất gia giới luật là một sự bắt buộc, chớ không phải là tự ý. Tuy nhiên cũng có một vài trường hợp ngoại lệ. Giữ tròn giới luật mới đủ tư cách của người hướng đạo, hướng đạo mà không đủ tư cách thì không xứng đáng, người học đạo không phục không theo thì không hướng dẫn được.


HỎI: 
Thưa Thầy, “Nhất niệm vạn niên” là sao?

ĐÁP: Nhất niệm vạn niên nghĩa là một niệm là muôn năm. Tại sao một niệm là muôn năm? Đứng về mặt thời gian, một niệm là khoảng thời gian ngắn nhất. Tâm vừa khởi nghĩ đó là một niệm, khoảng thời gian tích tắc của đồng hồ rất ngắn. Còn muôn năm thì quá dài. Thời gian ngắn thời gian dài, trên lý đạo thì nó không thật. Ngắn hay dài là do khái niệm của con người đặt ra. Cũng như nói giờ, phút, giây là do người chia cắt thời gian mà thành, hoặc nói ngày, tháng, năm là do căn cứ trên chu kỳ quay của trái đất quanh mặt trăng, quanh mặt trời mà định ngày, tháng, năm. Trái đất cứ quay, nó không tự nói ngày tháng năm gì cả. Song người đời định đặt ra để hiểu với nhau. Thời gian là do khái niệm con người định đặt, chớ không có thật. Bản chất của thời gian đã không thật thì dù có ngắn hay dài, một niệm hay muôn năm cũng như nhau, chỉ là pháp không thật. Đó là thấy theo tinh thần Bát-nhã.

Theo cái thấy của Thiền gia thì khi tâm an nhiên thanh tịnh, không còn dấy động nữa, lúc đó là niệm không sanh không diệt, nếu không sanh không diệt thì muôn năm cũng như vậy thôi. Lục Tổ nói: “Vô niệm tắc tử”, nghĩa là không có niệm là chết. Nhưng niệm đó là gì? Tôi hiện thấy rõ tâm mình thanh tịnh an nhiên đó là niệm. Vì niệm đó không sanh không diệt thì một niệm là muôn năm rồi, đâu có chặn ngăn cách khoảng ngắn dài khác nhau. Vì vậy khi tới chỗ tâm thể nhất như rồi thì nói “Một niệm là muôn năm, muôn năm chỉ là một niệm”.


HỎI: 
Thưa Thầy, trong kinh có nói hai loại sanh tử là biến dịch sanh tử và phần đoạn sanh tử. Nghĩa ấy như thế nào?

ĐÁP: Phần đoạn sanh tử chỉ cho sự sống chết của phàm phu. Còn biến dịch sanh tử thì thuộc về Tiểu thừa. Con người phàm phu khi chết thì thân thịt xương rã ra từng phần từng đoạn nên gọi là phần sanh tử. Còn Nhị thừa tu, khi chứng quả Tu-đà-hoàn, cố gắng tu nữa sẽ tiến lên Tư-đà-hàm, nếu tiến tu nữa sẽ chứng quả A-na-hàm và tiến tu nữa sẽ chứng quả A-la-hán. Mỗi lần tiến từ quả thấp lên quả cao là một lần biến chuyển nên gọi là biến dịch sanh tử. Vì đang là quả Tu-đà-hoàn mà tiến lên quả Tư-đà-hàm, thì quả Tu-đà-hoàn phải mất, gọi đó là tử và lên Tư-đà-hàm gọi đó là sanh. A-na-hàm và A-la-hán cũng thế.


HỎI: 
Thưa Thầy, kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói mặt trăng thứ nhất, thứ hai. Vậy những mặt trăng ấy biểu trưng cho cái gì?

ĐÁP: Nói về mặt trăng thì có mặt trăng thứ nhất, mặt trăng thứ hai, mặt trăng thứ ba. Mặt trăng thứ ba thì ít nói, mặt trăng thứ nhất thứ hai thì thường đề cập. Tôi nhắc lại hình ảnh của mặt trăng. Mỗi tối vào ngày mười bốn, rằm, mười sáu, chúng ta thấy mặt trăng nguyên vẹn đó là mặt trăng thứ nhất. Với người bị bệnh mắt thấy chấp chóa, nhìn lên bầu trời thấy có mặt trăng thứ hai bên cạnh mặt trăng thứ nhất. Còn mặt trăng thứ ba là bóng trăng hiện dưới nước. Mặt trăng thứ nhất dụ cho tánh giác sẵn có nơi mỗi chúng sanh, kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi là “Nhất tinh minh”. Mặt trăng thứ hai dụ cho cái biết của sáu căn đó là tánh thấy, tánh nghe… là lục hòa hợp. Còn ý thức phân biệt dụ cho mặt trăng thứ ba. Hiện tại, chúng ta đang sống với mặt trăng thứ mấy? Thứ ba. Xa quá! Bao giờ chúng ta sống với tánh thấy tánh nghe… đó là sống với mặt trăng thứ hai. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy chúng ta phải “Phản văn văn tự tánh”, tức là khi nghe biết mình đang nghe, có tánh nghe, không chạy theo âm thanh, đó là sống với mặt trăng thứ hai bên cạnh mặt trăng thứ nhất. Tôi thường ví dụ trong nhà có bóng đèn néon sáng, xung quanh nhà có sáu cửa vuông, tròn, lớn, nhỏ khác nhau. Đứng ở ngoài nhìn vào nhà, thấy ánh sáng rọi ra theo hình dáng của sáu cửa lớn, nhỏ, vuông, tròn khác nhau. Khi vào nhà thì chỉ có một ngọn đèn sáng duy nhất rọi ra sáu cửa. Sáu cửa dụ cho lục hòa hợp, hay sáu căn. Còn ngọn đèn sáng dụ cho Nhất tinh minh, hay mặt trăng thứ nhất. Chúng ta muốn trở về với tánh giác là phải nhớ mình có tánh nghe tánh thấy… qua các căn để dần dần thể nhập tánh giác.


HỎI: 
Thưa Thầy, câu “Nói viên giác mà trọn ngày không Viên giác, đó là bệnh của phàm phu”. Xin Thầy chỉ cho cái bệnh của phàm phu mà ở đây chê.

ĐÁP: Ví dụ: Có người hễ mở miệng ra là nói: các pháp là hư dối, các pháp là huyễn hóa, nhưng khi ăn, gặp món dở thì chê không ăn. Ngủ, giường không nệm thì không ngủ. Người sống như thế có Viên giác không? Miệng lúc nào cũng nói Viên giác, khi đối duyên xúc cảnh bất như ý thì sân si dấy khởi, người như thế là miệng nói Viên giác mà tâm phàm phu không chút tỉnh giác. Đó là lời chê người học đạo chỉ nói được mà không làm được.


HỎI: 
Thưa Thầy, Lục Tổ nói: “Tu chỉ cốt kiến tánh”. Có phải kiến tánh là nhận ra tánh giác chân thật có sẵn nơi mình không? Chẳng hạn như các con đọc kinh luận, biết nơi mình có chân tâm Phật tánh, có phải như vậy là kiến tánh khởi tu không? 

ĐÁP: Kiến tánh là những trường hợp như sau: Người thấy được nhân không sanh diệt, cũng tạm gọi là kiến tánh, nhưng kiến tánh đó chỉ mới là kiến tánh của cái nhân. Còn người tu tới chỗ viên mãn tâm thanh tịnh, bừng sáng thấy tường tận hết, đó là kiến tánh trên quả. Kiến tánh của cái nhân tạm dụ cho người ở ngoài thấy ánh sáng từ trong nhà phát ra các cửa, nhờ thấy ánh sáng mà biết trong nhà có đèn sáng, chứ chưa thấy ánh sáng phát ra từ ngọn đèn, chưa phải là thấy tột cùng. Song cũng tạm gọi là kiến tánh, kiến tánh đó còn yếu chưa tròn. Khi vào nhà thấy rõ ngọn đèn tỏa ra ánh sáng, mới là cái thấy tột cùng, là cái thấy thật. Kiến tánh của Lục Tổ là vào nhà thấy ngọn đèn tỏa ra ánh sáng. Kiến tánh của chúng ta hiện tại là thấy ánh sáng tỏa ra cửa, rồi tin có đèn, chứ chưa thấy đèn sáng. Kiến tánh của chúng ta nếu gặp duyên không tốt thì bị lui sụt.


HỎI: 
Thưa Thầy, người Phật tử phát tâm tu, khi nghiệp quả đến có thay đổi từ nặng sang nhẹ như lời dạy trong kinh sách, hay chỉ là lời an ủi, chẳng hạn như nói “hao tài thì không tản mạng” để trấn an Phật tử?

ĐÁP: Câu “Hao tài thì không tản mạng” đa số người nói theo sự an ủi nhiều hơn, chớ lẽ thật thì không hẳn như vậy. Vì trong cuộc sống con người lúc hưng thịnh thì điều vui đến với chúng ta nhiều, lúc suy vi thì buồn phiền cũng đến nhiều với chúng ta. Con người ai cũng có lúc thịnh lúc suy, không ai cả cuộc đời thịnh mà cũng không ai cả cuộc đời suy. Khi có việc không vui xảy ra với mình bạn bè tới an ủi “Tai nạn nhỏ cứu tai nạn lớn là nhờ tu”. Đó là phỏng nói, chớ người nói nào có rõ lẽ thật ra sao? Tôi nhắc cho quý Phật tử nhớ điều này, tất cả mọi sự việc vui buồn xảy ra trong đời mình là do nhân quả. Nhân quả quan hệ tới ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai; quá khứ đã qua không thấy được, vị lai thì chưa đến, hiện tại là cái mốc rất quan trọng, là chỗ thừa kế nghiệp quá khứ, mà cũng là chỗ gây tạo quả vị lai. Vì vậy, người hiểu đạo ngay trong cuộc sống hiện tại này, phải chấp nhận bằng cách nào? Ví dụ chúng ta sanh ra trong gia đình ấm no sung túc, chúng ta biết đó là do nghiệp lành đời trước mình đã tạo, bây giờ mình hưởng. Nên khi hưởng không tự hào không phách lối, để dành công đức về sau. Vì không phải ngẫu nhiên mà mình được giàu sang, hay ngẫu nhiên mà được sung túc. Giàu sang sung túc là do nhân tốt mà mình đã tạo từ trước, không để mất.

Nếu chúng ta sanh ra trong gia cảnh nghèo khó khổ sở, chúng ta biết do nghiệp quá khứ mình tạo không tốt, nên đời này phải chấp nhận lãnh quả khổ, vui mà trả quả chứ không than trách trời đất hay oán trách ai cả. Trong lúc trả quả xấu của quá khứ, phải biết tạo nhân lành trong hiện đời để vị lai không khổ nữa.


HỎI: 
Thưa Thầy, lúc Phật còn tại thế, một hôm Ngài cùng các Tỳ-kheo đi khất thực trở về tinh xá. Có hai thầy trò ngoại đạo đi theo sau Phật. Trên đường đi, thầy thì dùng đủ lời chê bai chỉ trích Phật, ngược lại trò cũng tìm đủ cách để tán thán Phật. Các vị Tỳ-kheo cùng đi với Phật thắc mắc bàn tán tại sao cũng là đức Phật mà thầy thì thì chê trò lại khen? Nhân đó Phật nói: Người thầy chỉ trích Phật như thế không đúng và người trò tán thán Phật như thế cũng không đúng. Chỉ có bậc Thánh và đệ tử bậc Thánh mới biết khen Phật. Xin Thầy chỉ cho chúng con rõ lời chỉ trích và tán thán của hai thầy trò ngoại đạo không đúng ở chỗ nào, bậc Thánh và đệ tử bậc Thánh tán thán Phật như thế nào là đúng?  

ĐÁP: Câu chuyện này xuất xứ từ kinh Phạm Động trong trường A Hàm. Trước tôi nói chỗ không đúng của sự chỉ trích và tán thán của ngoại đạo. Tất cả mọi sự khen chê của phàm tình đều xuất phát từ tình cảm. Đối với người mà mình đã có ác cảm thì dù cho họ có làm điều gì tốt điều phải mình vẫn làm lơ, có khi không hạp ý còn đem ra phê bình chỉ trích. Đối với người mà mình đã có cảm tình đã thương rồi, dù họ có làm điều gì sai quấy cũng không phê phán, lại còn tìm cách bênh vực. Tình cảm nó chi phối con người rất mạnh, chúng ta khen và ủng hộ ai chẳng qua người đó làm lợi ích cho chúng ta. Ngược lại, chúng ta chê trách ai, chẳng qua người đó làm thương tổn chúng ta, đối với người đã làm thương tổn mình chút ít, làm lợi làm tốt với mọi người, chúng ta vẫn thấy họ tốt như thường, miễn có lợi cho mình là tốt. Đó là chỗ khen theo tình cảm của con người mà đa số bị kẹt, nó không có lẽ thật.

Bây giờ tôi nói về chỗ khen chê như chỗ Phật nói. Phật dạy rằng: Đa số người phàm khen Phật đều căn cứ trên hình tướng, thấy Phật giữ giới, ăn ngày một bữa, mặc ba lá y, ở dưới gốc cây, sống không gia đình… Phật cho đó là hình tướng bên ngoài không quan trọng, tối quan trọng là chỗ “Phật biết tất cả mà không chấp”. Tại sao nói là tối quan trọng? Vì giá trị của con người thường được đánh giá trên hình thức, trên hành động, mà ít được nhìn thấu đáo tường tận ở nội tâm. Có nhiều người dáng vẻ bên ngoài rất nghiêm trang nhưng nội tâm lại xao xuyến. Ngược lại, có những người hình tướng có thể thô tháo nhưng tâm họ lại tốt hay. Cũng như có nhiều loại trái cây da bên ngoài chín đỏ mà ruột thì chưa chín, lại cũng có những loại trái cây ngoài vỏ xanh trong ruột đã chín.

Điều đó nói lên rằng, có những người thấy dáng bên ngoài dường như rất tốt, nhưng gần họ thì thấy tâm họ không tốt, vì vậy mà người ta dễ chán, dễ có niệm “trước trọng sau khinh”. Lại có người mới tiếp xúc thấy họ lợt lạt khô khan, nhưng gần lâu mới thấy được tâm chân chính trong sáng của họ, càng thêm kính mến. Như vậy, mới thoáng nhìn qua, mà đặt vấn đề khen chê thì quá nông nổi. Phê bình chính đáng là phải hiểu rõ người đó. Theo Phật, giá trị con người không phải ở hình thức như giữ giới, ngày ăn một bữa, mặc chỉ ba lá y… mà phần tinh thần và trí tuệ mới quan trọng. Trí tuệ là biết tất cả mà không chấp. Ngoại đạo họ thấy tới đâu là chấp tới đó. Từ cái chấp ấy mà họ đặt ra thuyết thường thuyết đoạn rồi luận chiến nhau. Phật biết tất cả và còn biết hơn ngoại đạo đã biết, nhưng Ngài không chấp không dính mắc, đó là cái đáng khen mà người thế gian không biết để khen. Chỉ có bậc Thánh và đệ tử bậc Thánh mới biết được điều đó để khen. Khen đó là cái khen chân chính của người trí tuệ.

Giả sử có người nói rằng: Tôi tu hạnh Bồ-tát, làm lợi ích cho nhiều người, những chuyện gì khó làm tôi làm… Nghe họ nói như vậy, quý vị khen họ là Bồ-tát. Khen như vậy có chín chắn không? Chúng ta phải chờ xem họ có thật là Bồ-tát vì mọi người làm lợi ích hay vì danh lợi? Khi biết chắc họ thực hành hạnh Bồ-tát rồi, thì lời khen mới xứng đáng. Hoặc có người có ác cảm với một tu sĩ nào đó nói: “Thầy đó tu hành lôi thôi, tư cách không đúng đắn”. Một số người nghe vậy liền ùa theo chê thầy đó thế này thế kia. Thật sự thì những người ấy chưa biết gì về vị tu sĩ này, vậy mà cứ chê. Sự chê bai phê phán đó không đúng. Ở đời người ta hay đánh lừa thiên hạ, cứ nhìn qua hình tướng hoặc nghe qua dư luận, rồi khen, rồi chê không cần biết đúng hay sai. Vì vậy mà Phật dạy: Khen chê đều chưa đến lẽ thật, đừng nghe chê vội giận, đừng nghe khen vội mừng, mà phải biết nghe và tự xét lại mình. Người thế gian thường khi bị chê liền phản ứng, tức tối bực bội, không vui… Ngược lại được khen thì vui vẻ tươi cười. Đa số chúng ta đều đang mắc kẹt chỗ này. Ở trong bối cảnh đó, Phật nhắc chúng ta đừng vướng bận sự khen chê, mà phải thấu đáo tâm trạng của người, thì sự khen chê mới có giá trị. Nếu nghe chê liền buồn, nghe khen liền vui là bị thế gian bẩy gạt. Thế nên Phật nói: Chỉ có bậc Thánh, đệ tử bậc Thánh mới biết chỗ đáng khen của Phật để khen. Còn những hình thức về giới luật, chưa đáng để khen.


HỎI: 
Thưa Thầy, câu “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn, tri kiến tư tức Niết-bàn” nghĩa như thế nào?

ĐÁP: Câu này trong kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng: Tri kiến mà lập tri đó là gốc vô minh. Còn tri kiến mà không chấp tri kiến đó là Niết-bàn. Hôm giảng kinh Pháp Hoa tôi có đề cập đến vấn đề này. Kinh Pháp Hoa có nói Tri kiến Phật, nên nhiều người hiểu lầm thắc mắc. Tại sao kinh Thủ Lăng Nghiêm nói tri kiến mà lập tri là gốc vô minh còn kinh Pháp Hoa nói là tri kiến Phật?

Vậy tri kiến vô minh của phàm phu và tri kiến của Phật khác nhau chỗ nào? Đây tôi giải thích chữ Tri kiến. Tri là biết, kiến là thấy. Cái thấy biết có khởi niệm chấp thủ gọi là lập tri. Thí dụ thấy người khác phái, cậu A liền phân biệt cô này là đẹp là xấu… đó là lập tri, thấy biết như vậy là gốc vô minh. Mắt nhìn thì cứ thấy không khởi niệm, đó là không lập tri. Không lập tri đó là Niết-bàn. Tại sao? Vì khởi niệm đẹp thì thương, khởi niệm xấu thì ghét, có thương có ghét là phàm phu vô minh. Còn thấy biết mà không khởi niệm phân biệt đẹp xấu thì không có tâm yêu ghét. Vẫn thấy biết mà tâm thanh tịnh ấy là Niết-bàn. Cùng một cái thấy biết mà một bên phàm một bên Thánh, chỉ khác nhau ở chỗ phàm thì lập tri, Thánh thì không lập tri. Vì vậy mà cổ đức có câu:

Như nhau dọc mũi ngang mày,

Lòng phàm lòng Thánh khác nhau ngàn trùng.

Con người ai cũng có mũi dọc mày ngang như nhau, nhưng người thì tâm phàm người thì tâm Thánh. Phàm thì thấy cái gì cũng khởi niệm phân biệt tốt xấu hơn thua, rồi sanh thương ghét buồn giận, tâm điên đảo không cùng. Còn Thánh thì thấy biết tất cả mà không khởi niệm phân biệt thủ xả, nên không phiền não. Đó là ý nghĩa câu “Tri kiến lập tức tri vô minh bổn, tri kiến vô kiến tư tức Niết-bàn” là vậy.


HỎI: 
Tiếp theo ý trên con có chút nghi vấn về giai đoạn vấn đáp của Thiền sư Cảnh Thanh và thị giả qua tiếng mưa rơi và tiếng nhái kêu. Thầy thị giả nghe tiếng mưa rơi nói tiếng mưa rơi, nghe tiếng nhái kêu nói là tiếng nhái kêu, đâu có phân biệt tiếng mưa rơi buồn, tiếng nhái kêu thảm, sao lại bị Thiền sư Cảnh Thanh quở?

ĐÁP: Thiền sư Cảnh Thanh và thị giả đối đáp qua hai trường hợp:

Một hôm trời mưa to, Thiền sư Cảnh Thanh hỏi thị giả:

– Tiếng gì đó?

Thị giả đáp:

– Tiếng mưa rơi.

Ngài nói:

– Chúng sanh quên mình theo vật.

Hôm khác Ngài ở trong thất với thị giả, ngoài vườn có tiếng nhái kêu. Ngài hỏi:

– Tiếng gì đó?

Thị giả đáp:

– Tiếng nhái kêu.

Ngài nói:

– Chúng sanh khổ lại có khổ chúng sanh.

Câu chuyện thứ nhất, trời mưa, không phải Thiền sư Cảnh Thanh không nghe tiếng mưa rơi. Ngài hỏi, cốt là nhắc cho thị giả nhân khi nghe tiếng mưa rơi, nhớ lại tánh nghe sẵn có nơi mình. Thế mà thị giả không nhớ tánh nghe sẵn có nơi mình, mà chạy theo tiếng mưa rơi bên ngoài, nên trả lời “Tiếng mưa rơi!”. Vì vậy mà Ngài nói: “Chúng sanh quên mình theo vật”.

Câu chuyện thứ hai cũng vậy. Rắn bắt nhái, nhái kêu. Ngài Cảnh Thanh cũng nghe tiếng nhái kêu, nhưng Ngài hỏi là cốt nhắc cho thị giả nhớ tánh nghe của mình. Thế mà thị giả một bề chạy theo tiếng bên ngoài, trả lời: “Tiếng nhái kêu”. Nên Ngài nói “Chúng sanh khổ lại có khổ chúng sanh”. Con nhái bị rắn bắt là chúng sanh khổ. Thị giả quên tánh nghe chân thật của mình, chạy theo tiếng kêu của nhái là tướng vô thường sanh diệt đó là khổ chúng sanh.

Thị giả nghe tiếng mưa rơi nói là tiếng mưa rơi, nghe tiếng nhái kêu nói là tiếng nhái kêu. Theo chúng ta thì thị giả không có lỗi vì nghe không phân biệt. Nhưng đối với Thiền sư Cảnh Thanh, thị giả là người chưa sáng đạo, nên nhân khi thị giả nghe tiếng mưa rơi, nghe tiếng nhái kêu Ngài hỏi để đánh thức cho nhớ lại tánh nghe, không muốn thị giả nghe tiếng chạy theo tiếng bên ngoài. Vì nghe mà không nhớ mình có tánh nghe, chỉ biết có tiếng bên ngoài đó là quên mình theo vật. Ở trước chỉ nói đối cảnh bên ngoài, biết mà không khởi niệm phân biệt, không kẹt. Hai trường hợp có khác.


HỎI: 
Nếu mình cứ nhớ lại tánh nghe tánh thấy của mình, có ai hỏi gì mình cứ trả lời: tôi đang nghe, tôi đang thấy, mà không biết nghe cái gì, thấy cái gì. Như vậy thì làm sao nói chuyện, sinh hoạt bình thường với cuộc sống?

ĐÁP: Vì vậy mà có câu: “Tri kiến mà đừng lập tri”. Vì ông thị giả chưa nhận ra tánh giác của mình, nên Thiền sư Cảnh Thanh hỏi để đánh thức cho ông nhận ra mà nói như vậy. Còn Ngài A-nan đã nhận ra tánh giác của mình rồi nên Phật nói như vậy. Phàm Thánh khác nhau là ở chỗ đó.


HỎI: 
Trong phần lược giải kinh Viên Giác của Hòa thượng Viện trưởng viện Hóa Đạo, ở chương Văn Thù có đoạn: “Không phải phá hoại làm cho các pháp mất đi mà nói là không, chính bản tánh của pháp nó tự không. Cái biết các pháp không đó cũng như hư không. Cái biết như hư không cũng không luôn. Nhưng không thể nói: Không có cái biết. Phải dứt trừ hết cả Có và Không, như thế mới gọi là tùy thuận tánh Viên Giác”. Câu này ý nghĩa thế nào? 

ĐÁP: Trong kinh Viên Giác có một đoạn nói như thế này: “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”. Nghĩa là biết các pháp là huyễn thì lìa, lìa đó là giác. Ví dụ khi thấy người thấy cảnh, tôi khởi quán chiếu đây là huyễn hóa, đây là giả dối, tôi thường quán như vậy trong một thời gian thì thấy của tôi thuần thục. Lúc bấy giờ tôi thấy người thấy cảnh không để tâm quán chiếu nữa, mà vẫn thấy rõ ràng là giả dối không thật, nên ở đây nói cái biết (quán) cũng bỏ luôn. Nhưng cái biết về người về cảnh không phải là không. Cũng như quý vị tu “biết vọng không theo”; khi vọng tưởng dấy khởi biết nó không thật, không theo đó là giai đoạn còn vọng tưởng khi vọng tưởng lặng hết thì tâm thể thanh tịnh. Có nhiều người hỏi: Khi vọng tưởng lặng hết thì cái biết làm sao? Tự nó thanh tịnh, không cần khởi quán nữa. Sở dĩ biết là vì có vọng tưởng, khởi biết để dẹp nó, vọng tưởng hết rồi thì thôi nhưng không phải là không có tánh giác.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.