Nguồn Thiền Giảng Giải

Phán Định Kinh Giáo Tổng Hợp



Kế đây phán định kinh giáo tổng hợp làm ba thứ:

Kinh điển của Phật giáo rất nhiều, nhưng ở đây theo chỗ phán định của ngài Khuê Phong, kinh Phật được chia làm ba giáo. Sau đây ngài trình bày từng giáo một.

1.- Giáo mật ý y tánh nói tướng: Trong giáo này có chia ba loại:

a.- Giáo nói về nhơn quả người, trời: Nói nghiệp báo thiện ác cho người biết nhơn quả không sai, sợ khổ ba đường dữ, cầu cái vui cõi người, cõi trời; tu bố thí, trì giới, thiền định… tất cả hạnh lành được sanh cõi trời, người cho đến cõi Sắc và Vô Sắc.

Mật ý là thầm ý căn cứ vào tánh, nhưng không nói tánh, một bề nói tướng, gọi là “Mật ý y tánh nói tướng”.

Trong phần (a) của giáo thứ nhất, nói gần và cạn, tức là dạy cho chúng ta biết rõ nghiệp báo thiện ác, nhơn quả không sai. Biết để chúng ta sợ khổ ở ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cố gắng tu các hạnh lành như bố thí, trì giới v.v… để được sanh vào các cõi lành. Phần này trước đã nói, tu trên tâm sanh diệt và hưởng quả sanh diệt, nghĩa là tâm thiện làm cho tăng trưởng, tâm xấu ác bỏ đi. Kết quả sẽ được sanh cõi trời, người hưởng phước báu. Trong bốn bộ A Hàm nói nhiều về nhân quả, nghiệp báo.

b.- Giáo nói dứt mê diệt khổ: Nói ba cõi không an đều là khổ như trong nhà lửa, khiến dứt tập nghiệp mê lầm, tu đạo chứng diệt. Vì tùy cơ nên nói pháp số một bề sai biệt để giản trạch tà chánh, biện rõ phàm thánh, phân biệt ưa chán, nhận rõ nhân quả. Nói chúng sanh do năm uẩn kết hợp, trọn không có cái ta làm chủ, nên đều là sắc chất hình hài và tâm suy tính, từ vô thủy đến nay do sức nhân duyên nên niệm niệm sanh diệt tiếp nối không cùng như nước chảy, như đèn sáng. Thân tâm giả hợp in tuồng một, in tuồng thường, phàm ngu không biết chấp là ngã (ta), nên khởi ba độc tham, sân, si. Ba độc kích thích ý thức phát động thân miệng tạo tất cả nghiệp. Nghiệp thành khó trốn, thọ thân trong năm đường chịu khổ vui… lăn lộn trong ba cõi có hơn kém… thọ thân rồi trở lại chấp làm ngã (ta), lại khởi tham v.v… tạo nghiệp thọ báo.

Phần (b) của giáo này căn cứ vàp pháp Tứ Ðế trong bốn bộ A Hàm. Trong pháp Tứ Ðế, đức Phật nói tất cả chúng sanh đều chịu bốn khổ sanh, già, đau, chết. Muốn hết khổ phải tu dứt mê lầm và được Niết bàn an lạc.

Trong giáo lý Tứ Ðế, phần Tập đế, đức Phật chỉ rõ cho chúng ta nguyên nhân con người chịu đau khổ là do chấp thân là ngã. Nhưng thân này do năm uẩn kết hợp, trọn không có cái ta làm chủ. Ðức Phật phân tích cho thấy: thân là phần vật chất thì có tứ đại, phần tinh thần là Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tâm suy tính. Hai phần này kết hợp với nhau thành con người. Thân tâm này sanh diệt tiếp nối không cùng, thay đổi từng sát na, vì thay đổi quá nhanh chóng, phàm phu không biết tưởng như thường còn, tưởng như nguyên vẹn. Giống như một dòng nước chảy xiết, chúng ta chỉ thấy là một dòng nước, chứ thật ra do từng hạt nước nối liền nhau mà thành. Khi chúng ta cầm cây nhang quay tròn thật nhanh, người ở ngoài thấy có một vòng lửa. Song, vòng lửa đó không thật, do sự quay quá nhanh của cây nhang mà thấy in tuồng như có vòng lửa. Cũng vậy, thân tâm hiện có của chúng ta do năm uẩn giả hợp thấy như thường có. Thật ra nó là một vòng sanh diệt biến đổi từng phút giây.

Xét kỹ, từ khi lọt lòng mẹ cho đến khi xuống mồ, thân tâm này thay đổi không biết bao nhiêu lần, mỗi sát na các tế bào thay đổi, mỗi sát na tâm niệm đổi thay. Nhưng phàm ngu không biết, cho thân tâm này là của ta. Do si mê chấp thân là thật nên khởi tham, tóm thâu của cải vật chất để bồi đắp cho thân. Nếu tham không được thì nổi sân, khi sân thì thân, miệng, ý tha hồ tạo nghiệp, tạo nghiệp rồi thì chịu quả khổ. Vòng xúc xích có ba khoen: Hoặc (si mê) – Nghiệp – Khổ – trói buộc lôi kéo chúng sanh lăn trong năm đường, ba cõi, chịu đủ các thứ khổ vui. Tất cả người xấu đẹp, lành lặn, tật nguyền cho đến loài súc sanh đều chấp thân cho là thật. Nói chung hễ mang thân nào là bám vào đó cho là ta. Như quỷ thần gá vào cây bèn cho cây ấy là mình, ai động tới là bắt bớ, quấy phá v.v… Do chấp thân này là thật, nên khi mất thân vội tìm thân khác và vòng luân hồi tiếp nối không dừng.

– Thân có sanh, già, bệnh, chết; chết rồi trở lại sanh. Thế giới có thành, trụ, hoại, không; không rồi lại thành. Kiếp kiếp đời đời luân hồi không dứt, không trước không sau, như cánh quạt nước lăn.

Thân người trải qua bốn giai đoạn sanh, già, bệnh, chết. Ngoại cảnh (thế giới) cũng có bốn giai đoạn thành, trụ, hoại, không. Con người chết rồi trở lại sanh. Thế giới không rồi trở lại thành, vòng luân hồi không dứt. Ví như cái quạt nước lăn, chúng ta thấy nó chạy cuồn cuộn hết vòng này tới vòng kia không dứt.

– Bởi do không hiểu thân này vốn không phải là ngã (ta). Không phải là ngã vì thân này nhơn sắc và tâm hòa hợp làm thành hình tướng, tìm xét phân tích thì sắc có bốn loại là đất, nước, gió, lửa; tâm có bốn loại là thọ, tưởng, hành, thức. Nếu mỗi cái đều là ngã tức thành tám cái ngã (ta).

Phân tích thân tâm này có bốn đại và bốn uẩn, nếu mỗi cái đều là ngã thì ta có tám cái ngã sao? Xét kỹ chúng ta nhận thấy thân tâm này là một vật thể tổng hợp chứ không có cái “Ta” thật.

– Huống là trong sắc có ba trăm sáu chục lóng xương, mỗi lóng đều riêng, da, lông, thịt, tim, gan, phổi, thận, mỗi phần đều khác nhau. Các thứ tâm sở cũng mỗi thứ không đồng, thấy không phải là nghe, mừng không phải là giận. Ðã có những vật này nhiều như thế, không biết định lấy cái nào làm ngã (ta)? Nếu nói đều là ngã, thì ngã có đến trăm ngàn ở một thân, chủ nhiều sanh rối loạn. Lìa ngoài những cái này, lại không có pháp nào riêng. Lật sấp ngửa tìm cái ngã đều không thể được, nên ngộ thân tâm này do các duyên hòa hợp, có tướng tương tợ, nguyên không phải một thể, in tuồng như tướng ta tướng người, nhưng không phải ta người? Vì cái gì sanh tham, sân? Vì cái gì sát sanh, trộm cắp? Cái gì tu giới? Cái gì sanh cõi người, trời?

Trong kinh Ðệ Nhất Tối Không (Tăng Nhất A Hàm), đức Phật phân tích cho các vị Tỳ kheo thấy rằng: trong thân người có ba trăm sáu mươi lóng xương, năm trăm mạch, năm trăm sợi gân, chín mươi ngàn lỗ chân lông, tám mươi ngàn hộ trùng. Ðức Phật dạy các Tỳ kheo quán sát kỹ như vậy thì sẽ chứng được quả A Na Hàm cho đến quả A La Hán.

Chia chẻ cho kỹ, chúng ta thấy rõ ràng không có gì là ta và của ta. Như chúng ta nhìn một ngón tay thấy nó là một ngón tay nguyên vẹn, nhưng xuyên qua lớp da bọc ngoài thì thấy các lóng xương cột lại bởi các sợi dây gân, chung quanh bọc một mớ thịt bầy nhầy và bên ngoài được phủ lên một lớp da. Sự thật là vậy, mà chúng ta quên, thấy ngón tay dài thon thì khen đẹp, ngón tay to thô thì chê xấu v.v… Bởi chúng ta chỉ nhìn trên giả tướng, mà không nhìn suốt thật thể của nó. Như các bác sĩ đáng lẽ họ giác ngộ hơn ai hết, vì hàng ngày họ nhìn rất tường tận biết bao nhiêu thân thể của bệnh nhân. Nhưng họ đâu có chán chê thân mình thân người, họ cũng như bao nhiêu người khác, vẫn đắm say sắc dục và đau khổ như mọi người.

Nghiệm cho kỹ, chúng ta thấy rõ sự giả hợp của thân này chúng ta mới tỉnh giác. Như khi ngồi thiền lâu, chân tê cứng coi như chân chết. Tại sao? Vì máu không lưu thông đến chỗ đó, nên nó không hoạt động. Vậy máu lưu thông thì thân sống, máu ngừng chạy thì thân chết. Chúng ta không làm chủ được nó, nó còn hay mất hoàn toàn do sự hợp tan của các duyên bên ngoài. Ðức Phật ví nó như hòn bọt ngoài biển, rất dễ tan vỡ. Hơn nữa, chúng ta cho rằng máu rất quý đối với sự sống, như vậy rút một ít máu rồi bảo chúng ta uống vô, chúng ta uống được không, hay phải truyền vô cơ thể bằng đường khác? Nói chung những gì ở trong cơ thể này chúng ta đều quí, nhưng khi loại ra khỏi cơ thể rồi thì xem như đồ bỏ. Thật là mâu thuẫn vô cùng. Nếu nhìn bằng con mắt trí huệ, khi nó đang mạnh khỏe hoạt động thì chẳng có gì đáng quí mà nó là một ổ chứa nhóm các thứ bệnh hoạn, hay một cái đãy da chứa đựng các thứ bất tịnh. Thấy rõ như vậy, chúng ta hết đắm trước thân này, hết vì nó tạo nghiệp, dứt nghiệp thì không còn khổ, phá vỡ được xích: Hoặc – Nghiệp – Khổ. Vậy tu không khó, chỉ khó ở chỗ chúng ta hay quên, không chịu đổi cái nhìn. Ðó là phân tích phần sắc chất. Bây giờ phân tích phần tinh thần. Hằng ngày hằng giờ, tâm chúng ta thay đổi biết bao nhiêu lần: mừng giận, buồn vui, thương ghét v.v… Vậy cái nào là ta? Buồn là ta hay vui là ta? Nếu buồn là ta thì vui là ai? Nếu hết thảy những cái đó đều là ta, thì trong một tâm nhiều cái ta quá. Trong một tâm nhiều cái ta thì tâm ấy sẽ điên cuồng, cũng như trong một nhà có nhiều ông chủ thì nhà ấy sẽ rối loạn.

Phân tích kỹ như vậy, để cho chúng ta nhận ra thân tâm này không thật, không phải của ta, nó giả dối tạm bợ, nó là tổng hợp của những sự mâu thuẫn. Nhận ra rồi, chúng ta mới hết chấp “Ngã”, dừng tạo nghiệp, đến chỗ giải thoát.

– Tâm không mắc trong ba cõi thiện ác, hữu lậu, chỉ tu trì quán vô ngã (không ta) để đoạn tham… dứt bặt các nghiệp, chứng ngã không chơn như, đắc quả Tu Ðà Hoàn (chứng dòng thánh) cho đến diệt hết hoạn lụy đắc quả A La Hán (không còn sanh tử), thân trí vắng bặt hằng xa lìa các khổ. Các kinh A Hàm đến 168 quyển, Luận Tỳ Bà Sa. Luận Câu Xá 98 quyển, nói lý không ngoài ý này.

Ðọc kỹ kinh A Hàm, chúng ta thấy chủ ý của đức Phật là nhằm phá vở bản ngã, để đưa chúng sanh đến chỗ giải thoát. Khi người tu đạt đến chỗ ngã không rồi thì được vô sanh, không còn mong sanh lại cõi này hay cõi kia để hưởng sự sung sướng v.v… Tôi nói rộng hơn, người chứng được ngã không, khi ra làm việc lợi ích cho chúng sanh thì làm với một tâm niệm vô tư, không dính mắc. Còn người chưa chứng được ngã không, làm việc gì cũng vì bản ngã. Cho đến tu cũng vì bản ngã mà tu. Như quý Phật tử đi chùa lạy Phật, cúng ít tiền hay hoa trái, thường cầu nguyện cho con trai thi đậu, con gái có chồng sang, thân mình được sung túc, mua may bán đắt, bà con quyến thuộc đều bình an mạnh giỏi v.v… Phật tử đi chùa với tinh thần đó là vì bản ngã! Phật dạy tu vô ngã mà chúng ta đi chùa cầu cho bản ngã và ngã sở là trái lời Phật dạy. Tu thì phải bớt tham mà chúng ta đi chùa lại tham hơn lúc chưa đi chùa. Nếu là người Phật tu chơn chánh, muốn học đạo giải thoát nên đặt lại hướng đi chùa cho đúng để được lợi lạc. Chúng ta học đạo vô ngã thì đừng vì bản ngã mà chìm đắm trong mê lầm. Nếu Phật tử đi chùa với tâm niệm như trên thì lâu ngày biến đạo Phật thành đạo mê tín dị đoan, giáo lý Phật sẽ lu mờ. Tăng Ni chịu trách nhiệm lớn trong việc này, phải hướng dẫn Phật tử tu theo chánh kiến. Ðừng dẫn Phật tử đi thập tự, vô chùa đốt một nén hương, cúng vài ba mươi đồng, lạy ba lạy, cầu khẩn lung tung, chẳng được lợi ích gì. Vì cầu không được như ý, lâu ngày họ nản lòng, nghe đồn chỗ nào linh ứng cầu chi được nấy, họ sẽ bỏ chùa tìm đến nơi đó, như dinh Cô, dinh Cậu, miếu Bà, miếu Ông v.v… rơi vào mê tín. Nếu Tăng Ni hướng dẫn Phật tử có chánh kiến và đủ niềm tin với Tam Bảo thì họ sẽ được lợi ích và không lạc tà đạo. Kinh Phật dạy: “Phật tử cúng dường Tam Bảo phước đức vô lượng vô biên”. Nhưng quý vị nên nhớ vì Tam Bảo cúng dường chớ không phải cúng dường vì mình. Như tôi đã nói:

– Tăng Ni là người mồi ngọn đuốc chánh pháp từ nơi đức Phật, thắp sáng để soi đường cho chúng sanh đang đi trong đêm tối mê lầm.

Phật tử đi chùa cúng dường Tam Bảo là vì chánh pháp, quý vị góp vào một ít tài vật để nuôi dưỡng Tăng Ni, giúp Tăng Ni bớt lo phần kinh tế, có đủ thì giờ tu học và hoằng pháp lợi sanh, đem đạo giác ngộ phổ biến, thức tỉnh cho người bớt mê, bớt khổ. Cúng dường với tâm niệm như vậy là vì Tam Bảo và được phước vô lượng vô biên. Nếu Phật tử cúng dường vì cầu riêng cho mình, cho quyến thuộc thì phúc đức không đáng kể. Cho nên người Phật tử học đạo giải thoát, đi chùa trước hết là học giỏi đạo lý để biết đường tu, nếu có cúng dường tài vật cho Tăng Ni và được hỏi muốn cầu điều gì, nên trả lời:

– Con cúng dường quý thầy, cô chút ít phương tiện sống để tu hành, mở mang đạo pháp để dạy dỗ chúng sanh hết mê lầm.

Bấy nhiêu đó là quá đầy đủ ý nghĩa của sự cúng dường. Cúng dường mà bắt quý thầy đọc nửa tiếng đồng hồ mới hết tên họ quyến thuộc mình, Tam Bảo không thể nào chứng, không thể nào đáp ứng lại sở cầu của quý Phật tử được.

Vậy từ nay, Phật tử đi chùa nên thay đổi quan niệm. Trước hết học giáo lý để áp dụng tu hành, sau nếu có người muốn tu theo đạo Phật, quý vị biết để hướng dẫn họ. Ðừng đi chùa chỉ lo cầu cúng, biến đạo Phật thành đạo mê tín, không lợi ích cho mình, cho người. Phật tử đi chùa quy y hai ba mươi năm, không hiểu giáo lý, không biết tu hành thật đáng tiếc thay!

c.- Giáo đem thức phá cảnh: Nói trên pháp sanh diệt… không quan hệ gì đến chơn như. Chỉ vì chúng sanh từ vô thủy đến nay sẵn có tám thứ thức, ở trong đó Tàng thức (thứ tám) là cội gốc. Nó biến ra chủng tử căn thân (con người) và khí giới (thế giới), chuyển sanh bảy thức, mỗi thức hay biến hiện cảnh sở duyên của tự phần, ngoài tám thức này trọn không có cái gì thật.

Phần này đem thức phá cảnh. Chúng ta lâu nay cho rằng tất cả đều thật, nhưng Duy Thức học cho rằng tất cả đều do thức biến.

– HỎI: Biến như thế nào?

– ÐÁP: Vì ngã (ta), pháp (sự vật) do sức phân biệt huân tập, khi các thức sanh biến trông như ngã pháp. Vì thức thứ sáu, thức bảy bị vô minh che đậy nên duyên nơi đây (thức thứ tám) chấp làm thật ngã, thật pháp. Như người bịnh, người nằm mộng, vì sức bịnh sức mộng nên tâm hiện tướng giống như các cảnh ngoài. Khi mộng chấp là thật có ngoại vật, lúc thức mới biết chỉ do mộng biến ra. Thân tướng của ta và cảnh bên ngoài cũng như thế, chỉ là thức biến ra, vì mê lầm chấp có ta và các cảnh, khi ngộ vốn không có ta và sự vật, chỉ có tâm thức.

Ðây nói tổng quát cách thức biến (muốn hiểu rõ chi tiết, hãy xem Duy Thức). Sở dĩ chúng ta thấy có cảnh và thân tâm là vì thức thứ sáu, thứ bảy bị vô minh che mờ nên chấp có thật ngã (ta), thật pháp (cảnh). Ta và cảnh là gốc từ thức thứ tám biến ra, vì thức thứ sáu, thứ bảy mê nên chấp có ta thật và cảnh thật.

Ví dụ khi nằm mộng thấy có cảnh và người, trong lúc đang mộng, không ai biết rằng do mình mê, nên hiện ra cảnh và người, khi hoàn toàn tỉnh thức mới biết cảnh, người trong mộng là giả do ngủ mê hiện ra. Cũng vậy, khi còn mê lầm nói cảnh do tâm biến hiện không ai tin hết, chỉ khi nào giác ngộ như Phật, Bồ Tát, chúng ta tự biết. Như mắt thấy cái đồng hồ, chúng ta tưởng cái đồng hồ thật, nhưng đó chỉ là bóng đồng hồ phản ảnh vào mắt, rồi mắt tự biến ra tướng tương tợ để thức duyên theo, chúng ta gọi đó là thấy cái đồng hồ. Tướng cái đồng hồ chúng ta thấy là do thức biến hiện chứ không có tướng thật. Các căn kia cũng vậy. Tất cả cảnh chúng ta duyên theo đều phản ảnh vào trong các căn, căn biến ra hình tương tợ rồi duyên theo hình tương tợ đó sanh phân biệt. Ðó là nói tổng quát tất cả cảnh thấy, nghe, hiểu, biết đều do thức biến không ngoài mình mà có pháp. Khi chúng ta biết tất cả cảnh là giả, do thức biến, nên không còn chạy theo cảnh, trở về tự tánh là lặng yên chơn như. Ðó là chuyển thức thứ tám (A Lại Da thức) thành trí. Còn chứa chủng tử nhiễm tịnh tức là còn hòa hiệp nên gọi là A Lại Da thức, khi phá được phần hòa hiệp gọi đó là chơn như. Tuy một thể mà hai tên, theo duyên hòa hiệp gọi A Lại Da là tướng, tánh bất sanh bất diệt gọi là thể chơn như. Duy Thức tuy nói khác nhưng rốt rồi cũng trở về chỗ đó.

Kinh Phật nói thế, nhưng thực ra không ngoài ý chính là chỉ cho chúng ta thấy ngã không thật, pháp không thật. Biết ngã không thật thì phá được mê lầm chấp ngã, biết pháp không thật thì tâm không còn duyên theo cảnh để khởi phân biệt, không phân biệt thì hết vọng tưởng, tâm nhất như.

– Nương trí nhị không này (ngã, pháp không) tu quán Duy Thức và hành Lục độ, Tứ nhiếp pháp… dần dần đoạn dẹp hai thứ chướng phiền não và sở tri, chứng chơn như do nhị không hiển bày, viên mãn Thập địa, chuyển tám thức thành tứ trí Bồ đề; chướng chơn như đã hết, thành thân pháp tánh đại Niết bàn. Các kinh Giải Thâm Mật, Luận Du Già, Duy Thức… nói lý không ngoài ý này.

Dùng thức phá cảnh thuộc về giáo nói nhiều về tướng, nên duy Thức gọi là Pháp Tướng tông.

– Ba thứ trên đây đều là phần thứ nhất “Giáo mật y tánh nói tướng”. Nhưng chỉ có giáo thứ ba “Giáo đem thức phá cảnh” cùng với thiền môn “Tông dứt vọng tu tâm” phù hợp nhau. Do biết ngoại cảnh đều không, nên không tu sự tướng ngoại cảnh, chỉ dứt vọng tu tâm. Dứt vọng là dứt vọng ngã pháp. Tu tâm là tu tâm Duy thức. Cho nên đồng với kinh giáo Duy Thức.

Trong giáo thứ nhất chia làm ba phần, phần thứ ba “Ðem thức phá cảnh” mới phù hợp với “Tông dứt vọng tu tâm” (Tông 1) của Thiền tông.

– Ðã cùng Phật giáo đồng tại sao chê bai người tu môn tiệm, dứt vọng, quán tịnh, luôn luôn lau chùi, dừng tâm, trụ tâm, chuyên chú một cảnh, ngồi kiết già điều thân, điều hơi thở v.v… các phương tiện này đều là Phật khuyến khích khen ngợi. Kinh Tịnh Danh chép: “Không hẳn ngồi, không hẳn chẳng ngồi, ngồi cũng chẳng ngồi tùy theo cơ nghi, dừng tâm hay vận tâm mỗi thứ xét theo tánh đã tập”.

Tất cả các pháp môn tu trong kinh Phật dạy, sau này các Tổ tùy theo căn cơ linh động thêm bớt phương tiện, chứ không phải tự ý đặt ra. Bây giờ có một số người tu căn cứ trên hình tướng phê bình lẫn nhau. Thấy vị nào ngồi thiền nhiều thì cho vị đó tu giỏi, vị nào không ngồi thiền thì cho rằng vị đó không biết tu. Những vị không ngồi thiền, đi đứng quán chiếu thì nói những vị ngồi thiền như người chết không lợi ích gì. Cả hai đều có chỗ nêu ra để chỉ trích lẫn nhau. Kinh Tịnh Danh nói: “Không hẳn ngồi, không hẳn chẳng ngồi”. Nếu tâm chúng ta phóng túng chạy theo cảnh thì cần phải ngồi để dễ điều phục tâm. Khi tâm đã thuần rồi thì ngồi hay không ngồi cũng được. Ðức Phật thành đạo rồi mà ngài vẫn ngồi thiền là để an dưỡng thân tâm và làm gương cho Tăng chúng. Ở thiền viện Chơn Không, tôi chủ trương năm thứ nhất ngồi thiền một giờ, năm thứ hai ngồi thiền một giờ ba mươi phút, năm thứ ba ngồi hai giờ. Từ đó về sau muốn ngồi hay không ngồi cũng được. Chủ trương của tôi không lấy ngồi thiền làm trên mà cũng không bỏ ngồi thiền.

Tôi thường ví dụ: chúng ta là người đang bị giặc bên trong nổi loạn, giặc bên ngoài bao vây. Trước hết phải chặn giặc bên ngoài bằng cách ngồi lại, để tâm không chạy theo ngoại cảnh, và tận dụng sức mạnh của trí tuệ để dẹp giặc bên trong. Ðang dẹp giặc bên trong, sáu cửa thành (sáu căn) đóng bít thì giặc bên ngoài không có nội ứng, không có đường tiến vào thì phải rút lui. Khi giặc trong ngoài đều hết, chúng ta mặc tình thung dung tự tại ngồi cũng tốt, không ngồi cũng tốt.

Triều Cao Tông đại đế cho đến Huyền Tông, bổn tông viên đốn chưa lưu hành đất Bắc, chỉ có đại sư Thần Tú nêu cao Tiệm giáo là vị pháp chủ hai kinh đô, thầy của ba vua, hoàn toàn nói là tông của Tổ Ðạt Ma, mà không hiển bày ý chỉ “tức Phật”.

Tuy ngài Thần Tú truyền theo tông chỉ của Tổ Ðạt Ma, nhưng ngài không nói “tức tâm tức Phật”. Như vậy, ngài chỉ truyền pháp tiệm tu chớ không truyền môn đốn giáo.

– Tào Khê, Hà Trạch sơ e tông viên đốn diệt mất, nên chê trách việc trụ tâm, dẹp tâm v.v… chỉ vì trừ bịnh không phải trừ pháp.

Tào Khê chỉ cho Lục Tổ, Hà Trạch chỉ ngài Thần Hội đệ tử của Lục Tổ. Hai vị sợ tông viên đốn không được truyền bá, nên mới chê người tu tiệm còn bịnh. Chê như vậy là chủ ý: người muốn đến chỗ cứu cánh, cần phải nhận ra nơi mình có thể tánh bất sanh bất diệt. Ðó là dùng thuốc trừ bịnh chớ không phải các ngài nói tiệm tu là sai.

– Huống là, phương tiện này vốn là Ngũ Tổ đại sư chỉ dạy, mỗi vị đều ấn khả làm thầy một phương. Tổ Ðạt Ma ngồi xoay vô vách, dạy người an tâm, ngoài dừng các duyên, trong tâm không động, tâm như tường vách khả dĩ vào đạo, đâu không chính là pháp tọa thiền.

Chẳng phải chỉ có ngài Thần Tú chủ trương ngồi thiền. Sử ghi Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma chín năm ở chùa Thiếu Lâm, ngài ngồi xoay mặt vào vách. Ngài cũng chủ trương ngồi thiền để điều thân và tâm, thân không động tâm theo đó an. Ví như có một cơn gió thổi mạnh, chúng ta thấy bức tường không rung rinh, nhưng tấm màn vải treo lay động theo. Cũng vậy, khi tâm chúng ta lặng lẽ không bị gió ngoại cảnh làm xao động như bức tường thì khả dĩ vào đạo. Nếu bị gió ngoại cảnh lay động như bức màn treo thì chưa vào đạo. Như vậy, ngài Thần Tú chủ trương ngoầi thiền để trụ tâm đâu có lỗi gì. Vả lại, ngài cũng là một vị được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ấn khả cho làm thầy ở một phương, đâu phải ngài dạy tu lệch lạc với ý Phật, Tổ.

– Lại, ngài Viễn Công ở Lô Sơn cùng Phật Ðà Da Xá, hai vị Phạm Tăng dịch hai quyển kinh Thiền của Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma trong đó nói phương tiện thứ lớp tọa thiền của thiền môn rất đầy đủ, cùng đồ đệ Thiên Thai, Trí Săn, Thần Tú ý thú không khác.

Chẳng những ngài Bồ Ðề Ðạt Ma dạy ngồi thiền mà hai quyển sách của các ngài Huệ Viễn ở Lô Sơn và Phật Ðà Da Xá dịch cũng là sách thiền của Tổ Ðạt Ma. Hai quyển kinh này dạy phương pháp tọa thiền như ngài Thiên Thai, Thần Tú, ý thú không khác. Ðoạn này, hai chữ “Phạm Tăng” không phải chỉ riêng cho chư Tăng Ấn Ðộ mà chỉ chung cho những vị Tăng đầy đủ đức hạnh, tâm hồn trong sạch, sống đời phạm hạnh.

– Cho nên, Tổ thứ tư trong vài mươi năm, hông không dính chiếu. Thế nên biết, tông đốn và không đốn mỗi bên do kiến giải sâu hay cạn, không phải do hạnh điều cùng không điều mà đoán định pháp nghĩa. Thiên lệch hay tròn đầy chỉ tại mình tùy bịnh đối trị, không nên khen đây chê kia.

Tổ thứ tư là Ðạo Tín, trong vài mươi năm ngồi thiền không nằm. Ngài là Tổ mà còn ngồi thiền như vậy, huống là phàm phu chúng ta; ngồi thiền không có lỗi mà lỗi do chúng ta chấp cho ngồi thiền như người chết. Nếu chúng ta không chấp thì càng ngồi càng tỉnh táo, càng khỏe người thì có lỗi gì? Khi các vị tâm được nhất như, thì ngồi thiền thân tâm khỏe khoắn, không phải như chúng ta ngồi lâu đau chân, xuất mồ hôi, xả thiền đi không nổi. Vậy, tu đốn hay tiệm là do kiến giải sâu hay cạn chớ không phải do ngồi hay không ngồi. Người tu thiên lệch hay toàn vẹn là tùy chấp hay không chấp, nên tùy theo bịnh dùng thuốc đối trị, không nên khen đây chê kia, vì khen chê là manh mối của sự cãi vã tranh chấp.

Học xong, quý vị kiểm lại xem có thực hành được không? Học mà không hành sẽ không có lợi ích cho sự tu, cũng như ăn vô mà không tiêu hóa sẽ không bổ dưỡng cho cơ thể. Phật dạy:

– Thanh kiếm trí tuệ không rời tay, đó mới là chiến sĩ. Một chiến sĩ vào trận mà bỏ kiếm, đi tay không thì bị giặc bắt liền.

Chúng tôi đã trang bị cho quý vị thanh kiếm trí tuệ, quý vị hãy mang nó theo bên mình, xử dụng trong cuộc sống hàng ngày để chiến đấu với ma quân, nếu quý vị hữu sự mà không biết xử dụng thanh kiếm trí tuệ thì sẽ bị ma quỷ bắt.

Ví dụ: khi lên một chiếc xe đầy khách hết chỗ ngồi, có một người ngồi trên bắp đùi quý vị, nếu dùng trí Bát nhã quán chiếu thân này không thật, họ ngồi đau bắp vế một chút không sao! Như vậy là thanh kiếm trí huệ còn cầm trên tay. Nếu quý vị nổi nóng, hất họ xuống thì đã bị ma sân dẫn đi rồi.

Nếu quý vị có cửa hàng buôn bán, sáng mở cửa khách tới mua, món hàng giá một ngàn, họ trả năm trăm rồi bỏ đi. Nếu quý vị nổi sân cự lại là thanh kiếm đã rơi. Còn thản nhiên bình tĩnh đó là thanh kiếm vẫn còn trong tay.

Nếu là học trò trong khi học bài chỉ biết học bài. Khi học bài, phóng tâm đi chỗ khác là bị ma vọng tưởng lôi. Cho nên người học trò học bài chỉ biết học bài, anh thư ký cộng sổ chỉ biết cộng sổ, thợ may chỉ biết may, người bán hàng chỉ biết bán hàng v.v… không để tâm vào việc khác ngoài bổn phận của mình. Ðó là cột tâm vào một việc, khi đã quen rồi thì lúc ngồi thiền quý vị chỉ biết ngồi thiền.

Nếu quý vị không tập cột tâm cho quen, thì khi đang ngồi làm việc hay học bài, nghe bên kia có tiếng động, liền quay lại thấy có bóng người đi ngoài đường liền ngó ra. Như vậy là không làm chủ được tâm, bị vọng tưởng lôi đi từ chỗ này tới chỗ khác. Quý vị phải tập điều khiển tâm mình như thầy thuốc Bắc xử dụng tủ thuốc, cần lấy thuốc ngăn nào thì kéo ngăn đó ra.

Quý vị thấy người thợ may, chăm chú vào đường kim, mối chỉ, không có một ý nghĩ nào ngoài việc may thì may rất khéo. Người học trò chỉ biết học bài không suy nghĩ gì khác thì học bài rất mau thuộc. Chúng ta làm việc gì chỉ biết việc đó, không “lo ra” thì việc được hoàn hảo và tâm mình cũng an ổn. Như vậy, coi như không tu mà tu, làm chủ được tâm mình không cho nó chạy đông, chạy tây là đã có tu.

Ða số người có trọng bịnh “lo ra”, làm việc này tâm nghĩ việc khác nên hay bị sai trật, kết quả không tốt. Nếu để hết tâm trí vào việc làm là quý vị đã tu được trong khi làm việc và việc làm được thành công tốt đẹp. Trong công việc hàng ngày, quý vị biết tu thì khi ngồi thiền cũng chỉ biết có ngồi thiền. Nếu không tập như vậy thì khi làm tâm chạy lung tung, khi ngồi thiền tâm cũng tán loạn, lúc nào cũng lăng xăng, lộn xộn.

Người Nhật, họ trầm tỉnh hơn người Việt Nam là do họ biết ứng dụng thiền trong mọi sinh hoạt hàng ngày, như nghệ thuật uống trà, đấu kiếm v.v… Chúng ta không biết áp dụng thiền cho nên thân ở đây mà tâm ở tận đâu đâu. Tới giờ ăn thì nghĩ tới việc làm, tới giờ ngủ thì tính toán sinh kế… tâm luôn luôn bận rộn, không phút nào yên. Nếu chúng ta làm chủ được tâm thì khi ngủ chỉ biết ngủ, ăn chỉ biết ăn, làm việc chỉ biết làm việc, chơi chỉ biết chơi… Tập được như vậy là chúng ta tập làm chủ tâm mình, mà cũng là yếu tố chính để chúng ta thành công trong mọi lãnh vực.

Ðó là tu trong việc làm, lúc ngồi thiền vọng tưởng dấy lên, quý vị dùng trí biết là vọng tưởng không theo. Biết vọng tưởng không theo, vọng tưởng lặng xuống, tâm lặng lẽ đó là định. Ðịnh huệ đầy đủ trong khi tu, nếu gặp những duyên sự gì làm bận lòng, quý vị dùng trí Bát nhã quán chiếu thân tâm và cảnh không thật, tập buông xả hết thì tâm được an ổn. Như vậy, ngoài dùng kiếm Bát nhã để dứt các duyên, trong tâm không theo vọng niệm, tu trong bốn oai nghi: đứng, đi, ngồi, nằm chứ không nên một ngày tu hai ngày nghỉ thì sự tu không viên mãn, đời này bê trễ biếng nhác, biết đời nào xong.

Tóm lại, quý vị cần nhớ ba điểm quan trọng để thực hành:

1.- Giữ thanh kiếm trí tuệ không cho rời tay.

2.- Áp dụng thiền trong mọi sinh hoạt hàng ngày.

3.- Ứng dụng trí biết vọng tưởng trong lúc ngồi thiền.

Sau đây, tôi nói hơi xa đề một chút. Theo tôi nhận thấy pháp tu thiền rất có lợi ích cho quốc gia. Tại sao vậy? Vì pháp tu rất ảnh hưởng đến tư tưởng và đời sống của con người. Ngày xưa, nước Việt Nam bị lệ thuộc ngoại quốc, nên mất chủ quyền, con người cũng mất tự tin; mất tự tin thì pháp tu nào trông cậy vào tha lực là phù hợp với quần chúng. Hiện nay phong trào quần chúng đang hướng về pháp tu thiền. Lòng tự tin rất cần thiết cho người tu thiền, khi đã tin chắc mình có khả năng thành Phật thì mới khắc phục được những phiền não nghiệp chướng và lý tưởng tu hành không có gì làm lay động. Tự tín cũng cũng là một yếu tố làm cho một quốc gia hùng cường. Vì có tự tín con người mới gan dạ vượt qua hết mọi khó khăn và dồn hết mọi khả năng của mình đóng góp vào việc xây dựng đất nước. Cho nên ở Trung Hoa vào đời Ðường, Thiền tông rất hưng thạnh, lúc đó đất nước Trung Hoa cũng hưng thạnh về mọi mặt như văn hóa, xã hội, đạo đức v.v… Ở Việt Nam đời Lý, Trần, Phật giáo thiền tông thịnh hành thì đất nước Việt Nam cũng giàu mạnh. Thời gian qua, Nhật Bổn duy trì pháp tu thiền nên Nhật Bổn độc lập, có chủ quyền. Tâm hồn người dân Việt rất tự chủ, rất giàu mạnh. Việt Nam hơn một trăm năm Thiền tông bị chìm trong quên lãng, nên con người trở nên yếu đuối, việc gì cũng trông cậy ở bên ngoài. Chúng ta áp dụng lại phương pháp tu thiền thì chúng ta sẽ có tự tín, mà có tự tín là tâm hồn con người trở nên mạnh mẽ, tự lập, đó là yếu tố làm cho quốc gia hùng cường. Hơn nữa nếu mỗi người dân là một Phật tử biết tu thiền, biết áp dụng thiền trong mỗi lãnh vực sinh hoạt hàng ngày thì mọi việc làm đều tinh xảo và thành công tốt đẹp. Như vậy, họ đã đóng góp rất nhiều cho xứ sở và nhờ đó quốc gia trở nên giàu mạnh.

Hơn nữa, Thiền là lối tu bao dung tất cả pháp tu khác, không phân hóa, không chia rẻ đố kỵ, người niệm Chúa, người niệm Phật, người trì chú đều là dùng phương tiện để hàng phục vọng tưởng. Dưới cái nhìn của một người tu thiền, tất cả những vị tu theo các tôn giáo bạn và những tông phái khác đều là anh em thân thiết với nhau, không có gì ngăn cách. Cho nên ở đây (tu viện Chơn Không), lớp học của chúng tôi có một vi Linh mục đến học, tôi với người xử với nhau rất thâm tình, không bị ngăn cách bởi lớp áo bên ngoài, bởi danh từ Chúa, Phật. Vì tất cả đều là giả danh, giả tướng, phương tiện tuy nhiều nhưng cứu cánh không hai. Ở đời Trần, thiền tông bao dung cả Khổng và Lão gọi là Tam giáo đồng nguyên.

Tóm lại, phong trào quần chúng thích tu thiền càng ngày càng phát triển, tôi thấy đó là một cơ duyên tốt cho Phật giáo và quốc gia.

2.- Giáo mật ý phá tướng hiển tánh: Ðây nói: Cảnh biến ra trong giáo trước, đã là hư vọng thì thức hay biến đâu thể riêng chơn thật? Tâm cảnh đều nương nhau, nói không in tuồng có vậy.

“Mật ý phá tướng hiển tánh” đức Phật có cái thầm ý muốn phá tất cả tướng chúng sanh đang mê chấp, để cho họ không còn kẹt nơi tướng mà thấy được bản tánh thanh tịnh.

Mở đầu giáo này nói rằng: như giáo trước (giáo đem thức phá cảnh) nói thân cảnh đều do thức biến, giả dối không thật. Giáo này nói thêm, không những cảnh ngoài do thức biến là hư vọng mà cái thức hay biến ấy cũng hư vọng luôn. Như quý vị thấy một chai dầu, một ly nước v.v… chai dầu, ly nước do con người làm ra, trước khi làm ra phải dụng tâm để suy nghĩ. Tất cả mọi sự vật có hình tướng, có tên gọi đều do tư tưởng của con người suy tính, sắp đặt, chế biến mà thành. Sự vật được làm ra, chúng ta biết nó không thật, tâm hay suy nghĩ tính toán để làm ra sự vật cũng không thật. Quý vị thấy những sự vật được chế tạo ra đều do duyên hợp thì chính cái tâm suy nghĩ để chế tạo ra sự vật cũng do duyên hợp.

Cho nên ở đây nói “Tâm cảnh nương nhau, nói không in tuồng có vậy”. Nói “Không” là căn cứ trên tánh, nói “In tuồng có” là nhìn trên giả tướng duyên hợp không thật.

– Vả lại, tâm không riêng khởi, nương cảnh mới sanh, cảnh không tự sanh, do tâm nên hiện. Tâm không tức cảnh mất, cảnh mất tức tâm không, chưa từng có tâm mà không cảnh, chưa từng có cảnh mà không tâm. Như mộng thấy vật hình như có, khác biệt giữa người hay thấy và vật bị thấy, kỳ thật đồng một hư vọng, trọn không thể có.

Tâm không riêng khởi, phải có cảnh tâm mới khởi. Nếu cảnh mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe thì không thể nghĩ tưởng được. Ví dụ tôi vừa thấy bình hoa, bình hoa được cất không còn để trước mặt tôi, nhưng tôi vẫn hình dung được hình ảnh bình hoa nơi tâm. Sở dĩ hình ảnh bình hoa hiện ra nơi tâm là do tâm gá vào cảnh (bình hoa), nếu không nương gá thì hình ảnh bình hoa không khởi lên nơi tâm. Cảnh không tự sanh mà do tâm hiện. Cái bình hoa có ra là do tâm chúng ta muốn có bình hoa để trên bàn cho đẹp mắt, nên đi cắt hoa cắm vào bình. Nếu tâm không điều khiển thì hoa vẫn ở ngoài vườn chứ tự nó không đi vào trong bình được. Ðó là chuyện trước mắt quý vị có thể tin được. Còn chuyện xa xôi như nói quả núi do tâm hiện, chắc chắn quý vị không tin. Trong kinh Phật dạy: Y báo (cảnh), Chánh báo (thân) của chúng sanh đều do nghiệp thành. Nếu chúng ta chưa có mắt trí tuệ thì không thể tin được. Như cái nhà hiện có là do tâm chúng ta phác họa ra, rồi thợ hồ, thợ mộc cùng với vật liệu hợp lại tạo thành. Ðó là do nghiệp hiện tại, chúng ta dễ tin. Còn quả địa cầu, núi, sông, biển, chúng ta ra đời đã thấy có rồi, thì khó tin là do nghiệp của chúng ta tạo ra. Nhưng xét theo lý nhân quả thì nghiệp đâu phải chỉ có một đời mà có từ vô lượng kiếp. Bởi vô lượng kiếp xa xưa, chúng sanh tạo ra những nghiệp tương tợ, nên mới đồng sanh trong cảnh tương tợ. Chúng ta sống chung trong một ngôi nhà hay một làng xã, nói rộng ra là một quốc gia, đó là do cộng nghiệp với nhau chứ không phải ngẫu nhiên. Nhưng trong Cộng nghiệp còn có Biệt nghiệp (học kinh Lăng Nghiêm sẽ hiểu rõ hơn). Ví dụ người nằm mộng thấy cảnh núi sông, người ấy tưởng như cảnh bị thấy khác với mình. Nhưng khi thức giấc thì biết do mộng nên có cảnh núi sông… kỳ thật đó là hư vọng.

– Các thức, các cảnh cũng như thế, đều gá nương các duyên, không tự tánh. Chưa từng có một pháp không phải từ nhân duyên sanh, thế nên tất cả pháp đều là Không. “Phàm có tướng đều là hư vọng” (kinh Kim Cang).

Thức là tâm thức, cảnh là ngoại cảnh đều không thật, nương nhau mà có, tự tánh là không, cái Không này là chỉ cho các pháp không cố định, chứ không phải là giả tướng không. Muốn thấu suốt, chúng ta phải học kỹ kinh Bát Nhã và ứng dụng trí Bát Nhã để quán chiếu, phân tích thì thấy rõ. Ví dụ cái bàn nhìn trên giả tướng, chúng ta thấy có cái bàn. Nhưng thật ra do nhiều duyên như gỗ, đinh, công thợ v.v… hợp lại mới thành cái bàn. Gỗ có phải là cái bàn không? – Không. Nếu chỉ có gỗ mà thiếu đinh, công thợ… thì không thành cái bàn được. Nên nói tự tánh là không, do duyên hợp giả có. Các pháp đều do nhân duyên sanh, đủ nhơn, đủ duyên thì thành, thiếu nhơn, thiếu duyên thì hoại. Lý duyên khởi là giáo lý căn bản của Phật giáo, do đức Phật tu chứng rồi nói ra cho chúng ta biết. Nếu thấu suốt được lý nhân duyên thì chúng ta hết mê lầm chấp trước. Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng, giả dối không thật. Biết như vậy thì còn cái gì bám vào để chấp trước.

Dưới đây là một tràng phủ định của kinh Bát Nhã. Nếu chúng ta không thấu suốt lý này thì sẽ hoang mang vô cùng.

– Thế nên trong “Không”: không sắc, không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không mười tám giới, không mười hai nhân duyên, không Tứ đế, không trí cũng không đắc, không nghiệp, không báo, không tu, không chứng; sanh tử và Niết bàn bình đẳng như huyễn.

Khi hiểu được chữ Không của Bát Nhã thì đọc đoạn này chúng ta không ngại, nếu không hiểu, thấy kinh Phật nói sao mâu thuẫn, rồi nghi vấn tại sao đức Phật dạy :”Con người sanh ra là do nghiệp”, nhưng kinh này lại nói không nghiệp, không báo, không tu, không chứng? – Nói có nghiệp là đứng trên sự tướng, còn nói không nghiệp v.v.. là đứng trên thể thánh. Ví dụ A dùng lời nói thô tục chọc tức B, B giận và chửi lại. A nghe chửi liền dùng trí Bát nhã phân tích : Lời nói là do lưỡi động, hơi phát ra thành tiếng chạm vào lỗ tai, đó là một luồng khí biến động sanh diệt không thực. Do đó khi bị chửi, A không thấy mình là người bị chửi, tiếng chửi của B đối với A không thành vấn đề nên xem như không nghiệp, không báo.

Tinh thần của Phật giáo Ðại thừa và Nhị Thừa khác nhau ở chỗ đó. Kinh A Hàm nói có nghiệp báo. Chính đức Phật còn bị quả báo “Kim thương mã mạch” (bị cây thương chích lên bắp đùi và ăn lúa mạch của ngựa), chúng ta phàm phu còn chấp, cái gì cũng cho là thật nên xem như đức Phật bị quả báo. Ðối với đức Phật, thấy thân, cảnh như huyễn, thì coi như trả mà không trả. Chúng ta phải hiểu kỹ chỗ này, nếu không sẽ bị rơi vào hai cực “Thật có nghiệp báo” và”Thật không nghiệp báo”, rồi mất niềm tin đối với Phật pháp và không nỗ lực tu hành.

Nếu rơi vào kiến chấp “Thật có nghiệp báo” thì nghi tu mong thoát nghiệp chứng quả như đức Phật, nhưng đắc A La Hán thần thông đệ nhất như ngài Mục Kiền Liên vẫn không tránh khỏi nghiệp thì tu làm gì?

Nếu rơi vào kiến chấp “Thật không nghiệp báo” thì cũng không chịu tu, lại càng dễ đọa lạc hơn. Trong sử của ngài Bá Trượng có kể câu chuyện nói về “Bất lạc nhân quả” và “Bất muội nhân quả”:

Một hôm, Tổ Bá Trượng thượng đường giảng pháp xong, chúng giải tán hết, có một ông già đứng mãi ngoài cửa không chịu đi, Tổ hỏi:

–         Tại sao chúng giải tán hết mà ông còn đứng đó?

Ông già thưa:

–         Con không phải là người, thời quá khứ con làm một vị phạm Tăng tu ở núi này. Một hôm có người hỏi: “Phàm là bậc đại tu hành có rơi vào nhân quả không?” Con đáp: “Chẳng rơi vào nhân quả” (Bất lạc nhân quả). Do đó con bị đọa làm thân chồn đã năm trăm kiếp. Nay xin Hòa thượng từ bi nói cho một chuyển ngữ để con được thoát kiếp súc sanh.

Tổ bảo:

– Ông hỏi đi.

Ông già thưa:

–         Phàm bậc đại tu hành có rơi vào nhân quả không?

Tổ đáp:

–         Chẳng lầm nhân quả (Bất muội nhân quả).

Ngay câu nói ấy, ông già đại ngộ, làm lễ thưa:

– Con đã thoát thân chồn. Con ở sau núi này, trong kẹt đá, ngày mai xin Hòa thượng khều xác con ra và cúi xin Hòa thượng từ bi táng xác con theo lễ táng của một vị Tăng.

Thọ trai xong, Tổ dẫn chúng Tăng đến kẹt đá sau núi, quả thật có một xác chồn vừa chết.

Chúng ta thấy, vì không hiểu lý nhân quả nên đáp lầm một câu hỏi, vị Tăng ấy phải đọa làm thân chồn mấy trăm kiếp. Tôi xin nhắc lại: với tinh thần Phật giáo Nhị thừa khẳng định có nghiệp báo là đứng trên sự tướng. Còn tinh thần Phật giáo Ðại thừa thì đứng trên thể tánh nói không nghiệp báo. Nghĩa là đã gây nghiệp thì phải trả báo, nhưng dùng trí Bát nhã nhìn tất cả tướng đều như huyễn hóa nên tuy có trả nghiệp là huyễn trả chứ không phải thật trả.

Cho đến “Sanh tử và Niết bàn đều bình đẳng như huyễn”. Nghĩa là khi còn mê lầm thì chúng ta có sanh tử thật, nên đức Phật dạy cho chúng ta phương pháp tu để dứt khổ sanh tử, cầu vui Niết bàn. Khi còn sanh tử khổ đau thì thấy Niết bàn là an lạc, vì Niết bàn đối với sanh tử mà lập. Nhưng dùng trí Bát nhã thấy sanh tử không thật, thì Niết bàn cũng như huyễn. Chúng ta thấy có khổ thật nên mong cầu được vui, sở dĩ mong cầu được vui vì cho cái vui là thật. Còn người đối với khổ vui không bận lòng, an nhiên tự tại, không cần Niết Bàn mà Niết bàn hiện tiền. Ví dụ có người bị thân bịnh đau đớn rên rỉ, khi gặp được thầy thuốc, uống thuốc hết bịnh, người ấy vui vẻ sung sướng, đó là khổ vui trong vòng đối đãi. Cũng có người bị thân bịnh, họ biết thân này là tứ đại duyên hợp như huyễn, thân bịnh là do tứ đại không điều hòa. Tuy thân đau mà họ không thấy buồn khổ, và khi hết bịnh thì biết hết bịnh cũng không mừng, đó là người thoát khỏi vòng đối đãi, sống an nhiên tự tại.

– Chỉ do không trụ tất cả, không chấp trước mà hành đạo. Các bộ kinh Bát nhã hơn một ngàn quyển và Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận, Quảng Bích Luận…đều nói lý này.

Hành đạo ở đây theo tinh thần thiền là sáu căn tiếp xúc với sáu trần không dính mắc, không kẹt trong vòng đối đãi có không, phải quấy, tốt xấu v.v… chỉ do điều phục tâm không chạy theo cảnh, trên hình tướng thì không thấy có hành gì cả. Còn hành đạo theo các tu sĩ thời đại là phải rày đây mai đó, đổi cảnh thay người, làm đủ thứ Phật sự như giáo hóa độ sanh, làm việc xã hội từ thiện, hoặc cầu an, cầu siêu v.v… trên sự tướng thấy được việc làm mới là hành đạo. Cách hành đạo trước là vận dụng trí Bát nhã thấy tất cả như huyễn nên tâm không chấp, thuộc về nội tâm vi tế, tuy có hành mà khó thấy, nên nói hành mà không hành. Cách hành đạo sau thuộc về thân và miệng, bộc phát ra hành động, dễ thấy và dễ làm hơn.

Kinh Bát nhã nói: “Tất cả các pháp lành đều nhiếp vào Bát nhã Ba la mật sâu thẳm”, nghĩa là nếu chúng ta sống được với trí Bát nhã thì coi tất cả mọi người như nhau, ai khổ thì giúp, ai mê thì gọi cho tỉnh, tâm không mong cầu đền đáp nên làm việc được viên mãn. Còn nếu chưa sống được với trí Bát nhã, tuy có làm Phật sự trên hình tướng nhưng làm một lúc không sao tránh kbỏi sự thiên chấp thân sơ, thương ghét v.v… nên việc làm không viên mãn.

Các bộ kinh Bát nhã, Trung Luận v.v… đều nói lý phá tướng hiển tánh.

– Giáo này cùng với “Tông dứt bặt không nương” của thiền môn hoàn toàn đồng. Ðã đồng lời dạy của Thế Tôn, chỗ hoằng truyền của Bồ tát, tại sao thiền chủ môn tiệm và đồ đệ những nhà giảng kinh mỗi khi nghe thuyết này liền chê rằng: “Bác không nhân quả”. Phật tự nói: “Không nghiệp”, “Không báo” đâu thể nói là tà kiến.

Ngài Khuê Phong đối chiếu giáo “Phá tướng hiển tánh” phù hợp với tông “Dứt bặt không nương” của Thiền tông để chứng minh cho người sau thấy chủ trương của Thiền tông không khác với lời dạy của đức Phật, và cũng giải thích cho những người trọng giáo khinh thiền, cho rằng các thiền sư “Bác không nhân quả”.

– Nếu bảo Phật nói lời này tự có thâm ý, thì thiền môn nói lời này không thâm ý sao? Nếu bảo tôi từng suy gẫm biết không có thâm ý thì chính ông là kẻ không hiểu. Nhưng người có thể trách, chớ không thể bài xích pháp.

Ðức Phật nói “Không nghiệp, không báo, không tu, không chứng v.v… là thầm ý phá tướng để hiển tánh”. Các thiền sư nói cũng có thâm ý muốn cho người tu không còn chỗ bám, để nhận ra bản tánh bất sanh bất diệt. Người sau không nên vội cho rằng đó là tà kiến, là “quái thai” của Phật giáo. Người chưa đối chiếu ý kinh với chỗ hoằng truyền của các thiền sư, cho rằng các ngài nói như vậy không có thâm ý gì. Ðó là lời nói bừa bãi của kẻ không hiểu chớ không phải là lời phê phán chân chính. Hơn nữa, người có nhiều tình chấp thì có thể chê trách, chứ “Pháp” thì không nên bài xích. Nếu chúng ta chưa thông lý sự mà phát ngôn bừa bãi, bài xích pháp thì e rằng không tránh khỏi tội hủy báng chánh pháp. Một khi đã phạm lỗi hủy báng chánh pháp thì đời đời kiếp kiếp dù có tu, chúng ta cũng khó gặp được chánh pháp. Phải nên cẩn thận!

– Hai giáo trên đây căn cứ bản ý của Phật tuy không trái nhau, nhưng kẻ hậu học truyền bá phần nhiều chấp văn mê ý chỉ, hoặc mỗi bên chấp một chỗ thấy, rồi kia đây bài bác nhau, hoặc cả hai bên đều tin bừa, hỗn độn không hiểu. Thế nên Bồ tát Long Thọ, Ðề Bà… y giáo phá tướng nói rộng nghĩa “không”, phá chấp “hữu” để hiểu suốt chơn không. Chơn không là cái không chẳng trái với hữu. Bồ tát Vô Trước, Thế Thân… y giáo Duy Thức nói rộng danh tướng, phân tích tánh tướng không đồng, nhiễm tịnh sai biệt, phá chấp không kia để hiển rõ diệu hữu. Diệu hữu là hữu chẳng trái với không.

Hai giáo Bát Nhã và Duy Thức đều căn cứ vào bản ý của đức Phật, tuy Duy Thức nói Có; Bát nhã nói Không mà không trái nhau. Người sau phần nhiều chấp văn tự, quên bản ý của đức Phật nói Không nói Có để hiển bày lý “Chơn không diệu hữu”. Hoặc mỗi người chấp theo cái thấy thiên lệch của mình rồi bài bác lẫn nhau, hoặc cả hai đều không hiểu rồi tin bừa. Ðó là hai cái bệnh của người học Phật. Một là chấp văn tự rồi hiểu theo cái thấy thiên lệch nông cạn của mình và cho cái thấy của kẻ khác là sai. Hai là nghe sao tin vậy, nghe kinh nói Có tin có, nghe nói Không tin thật không, hoặc nghe người nói rồi tin theo, không chịu nghiên cứu cho sâu cho kỹ. Ví dụ nghe người đồn “Tu thiền điên”, Phật tử liền tin, không dám tu thiền. Ðó là nghe nói rồi tin, nói theo, chứ không chịu nghiên cứu kỹ xem tu thiền như thế nào là điên, tu thiền như thế nào là hợp với chánh pháp của Phật và có lợi ích, được giải thoát. Hoặc nghe kinh Bát nhã nói “Tánh không”, không hiểu lý kinh cho rằng Bát nhã nói cái gì cũng không: không chứng, không đắc v.v… rồi buông lung phóng túng không chịu tu, đó là tai họa.

Ðể phá hai căn bịnh chấp Không và Có của người học Phật, nên ngài Long Thọ và Ðề Bà căn cứ vào giáo phá tướng (kinh Bát nhã) nói rộng nghĩa không để phá bịnh chấp Có. Ngài Vô Trước và Thế Thân y giáo Duy Thức nói rộng danh tướng v.v… hiển bày lý diệu hữu để phá bịnh chấp Không. Do đó, Phật giáo có hai tông là Không tông và Tướng tông. Không tông là tông Bát nhã, Tướng tông là tông Duy Thức, còn gọi là Hữu tông.

Hữu tông phá chấp Không của phàm phu nên nói các pháp do huyễn hợp nên có hình tướng, như hư giả. Duy Thức tuy không nói tánh Không, chỉ phân biệt giả tướng nhưng chủ ý cũng muốn cho người nhận ra bản tánh các pháp là không. Ví dụ cái bàn, Duy Thức phân tích là do gỗ, đinh, thợ mộc, cưa, đục v.v… hợp lại giả có, không thật nên tự tánh là không. Nói diệu hữu nhưng rốt là hiển bày lý chơn không.

Không tông nói các pháp tự tánh không, không phân tích như Duy Thức, nhưng ngầm ý nói do nhân duyên sanh giả có. Trên văn tự chúng ta thấy có khác, Hữu tông nói Có, Không tông nói Không, Nhưng trên chỗ dung hội thì tuy hai mà một. Nói có cũng để rõ nghĩa duyên hợp, nói không cũng hiển bày nghĩa duyên hợp.

Hiểu thấu suốt rồi, chúng ta thấy giáo lý của Phật không mâu thuẫn. Nói Không thì chỉ biết cái không của Diệu hữu, nói Có thì biết chỉ cái Diệu hữu của chơn không, không nghi ngờ.

*

– HỎI: Nếu vậy cớ sao có các Luận sư Thanh Biện, Hộ Pháp v.v.. phá lẫn nhau?

– ÐÁP: Ðó là làm thành cho nhau, không phải phá nhau. – Sao vậy? – Vì kẻ hậu học sau này căn cơ đần độn… chấp “Không” và “Hữu”. Thanh Biện… phá tướng định hữu, khiến thấu triệt đến cứu cánh chơn không mới có thể thành tựu diệu hữu duyên khởi kia. Hộ Pháp… phá chấp thiên không đoạn diệt, ý còn lại diệu hữu; diệu hữu còn mới thành tựu chơn không vô tánh kia. Về căn thì hai bên phá nhau, về ý tức làm thành cho nhau.

Thanh Biện và Hộ Pháp là hai luận sư người Nam Ấn.

Ngài Thanh Biện tuyên dương giáo nghĩa của ngài Long Thọ, nói Không để phá chấp Có của kẻ hậu học. Ngài Hộ Pháp kế thừa tư tưởng A Lại Da duyên khởi của Vô Trước và Thế Thân, vì phá chấp thiên không đoạn diệt nên nói diệu hữu. Trên văn tự thấy như hai ngài phá nhau vì bên nói Có bên nói Không. Song, các ngài chỉ có một bản ý là hiển bày lý chơn không diệu hữu, nên nói làm thành cho nhau.

– Bởi vì diệu hữu chơn không có hai nghĩa: một là “Nghĩa trái hẳn nhau”, nghĩa là hại đoạt nhau cùng tột, hai là “Nghĩa rất thuận nhau”, nghĩa là thầm hợp một tướng toàn thể nhiếp thâu.

Chơn không diệu hữu có hai nghĩa:

a.- Trái hẳn nhau, hại đoạt nhau cùng tột. Nhìn cái đồng hồ, Không tông nói đồng hồ này không. Tướng tông nói đồng hồ này có. Căn cứ trên văn tự thì Có, Không là trái nhau và hại đoạt nhau cùng tột vì bên nói không, bên nói có.

b.- Rất thuận nhau. Không tông nói không là thầm ý nói nhơn duyên hợp, tánh nó không. Tướng tông nói có là do nhân duyên hợp nên giả có. Thuận nhau ở chỗ nhơn duyên hợp.

– Nếu không đoạt nhau cùng tột thì không sao toàn thể nhiếp thâu. Cho nên có trái tột mới có thuận tột. Ngài Long Thọ, Vô Trước… đến môn thuận tột nên làm thành cho nhau. Ngài Thanh Biện, Hộ Pháp…. y cứ môn trái tột nên phá lẫn nhau. Trái và thuận tự tại thành phá mà không phá, tức là đối với các pháp đều hòa hội vậy.

Ðoạn này ngài lập lại ý các đoạn trước để cho rõ nghĩa phá mà không phá của Không tông và Tướng tông.

– Than ôi! Phương này kẻ hậu học của hai tông (Không tông và Hữu tông) và người học kinh luận chỉ hại nhau, bài xích nhau chẳng khác cừu thù, đến khi nào mới chứng vô sanh pháp nhẫn? Người tu thiền đốn tiệm cũng như thế, cố gắng xem thông suốt chớ bị thiên cuộc.

Ngài quở người thời bấy giờ ở Trung Hoa mắc phải bịnh cố chấp. Các Luận sư ở Ấn Ðộ nói tuy trái nhau, nhưng bản ý làm thành cho nhau. Còn ở Trung Hoa môn đồ của hai tông và người học kinh luận kể cả người tu thiền đốn, tiệm bài xích nhau chẳng khác cừu thù, ngài khuyên người tu nên cố gắng học cho thông suốt, đừng để thiên cuộc trong tình chấp riêng tư.

– HỎI: Ở Ấn Ðộ các vị tiên hiền phá nhau đã làm thành cho nhau, đâu thể phương này bài xích nhau làm thành thù hiềm?

– ÐÁP: Như người uống nước lạnh nóng tự biết, mỗi người xét lại tâm mình, mỗi người xét lại ý niệm của mình, để thuốc ngừa bịnh không phải vì người mạnh, lập pháp phòng kẻ gian không phải vì người hiền.

Người hỏi:

– Ở Ấn độ các vị Luận sư phá nhau là làm thành cho nhau, thì ở Trung Hoa bài xích cũng có thể làm thành cho nhau, tại sao ngài nói là cừu thù?

Ngài đáp rất khéo:

– Mỗi bên hãy tự xét lại ý niệm của mình, trên văn tự bài xích nhau mà trong thâm thâm có hiềm thù nhau hay không thì tụ biết, như người uống nước nóng lạnh tự biết. Lời nói của ngài là thuốc ngừa bịnh, là pháp luật ngăn kẻ gian, nếu có bịnh hiềm thù thì bỏ, nếu có tà ý bài xích thì dừng.

3.- Giáo hiển bày chơn tâm tức tánh: Giáo này nói tất cả chúng sanh đều có chơn tâm không tịch, từ vô thủy đến nay tự tánh thanh tịnh, tinh lanh, không mờ, rõ ràng thường biết, đến tột mé vị lai vẫn thường còn không diệt, gọi là Phật tánh, cũng gọi là Như Lai tàng, cũng gọi là Tâm địa.

Ba điểm trọng yếu của giáo lý A Hàm là : Vô thường, khổ, vô ngã, còn gọi là Tam pháp ấn. Trong đó đức Phật dạy chúng sanh mang thân này là khổ, vì thân tâm, ngoại cảnh đều vô thường, vô ngã v.v… (đoạn trước đã giải thích kỹ). Ðoạn này lại nói tất cả chúng sanh đều có chơn tâm không tịch, từ vô thủy đến nay tánh tự thanh tịnh, tinh lanh không mờ, rõ ràng thường biết, đến tột mé vị lai vẫn thường còn không diệt. Nói vậy có rơi vào lỗi chấp thường của ngoại đạo và có mâu thuẫn với giáo lý A Hàm hay không? Ngoại đạo chấp thường là chấp tâm suy tính phân biệt của chúng ta là linh hồn thường nhất bất biến, hiện giờ làm người, đời sau cũng làm người không thay đổi, còn gọi là thần ngã. Ðức Phật cho đó là cái thấy một bên (biên kiến), nó là một trong mười món kiết sử trói buộc chúng sanh. Tâm tư suy tính ấy, theo đức Phật thì là một dòng sanh diệt chớ không phải thường còn, khi nghĩ thiện, lúc nghĩ ác, khi buồn, lúc vui v.v… Ðể phá chấp thường của ngoại đạo và chấp ngã của phàm phu, nên kinh A Hàm đức Phật nói rất nhiều về lý vô thường, khổ, vô ngã. Nhưng không phải Phật nói chúng sanh không có cái chơn tâm bất sanh bất diệt. Ðức Phật đã có nói, có chỉ, tuy nhiên nói rất ít, hoặc ngầm ý và không đặt tên nên khó nhận ra. Sau này Phật giáo Ðại thừa triển khai chỗ đó triệt để và đặt nhiều tên để chỉ cho “Cái không sanh không diệt” ấy. Vì nếu chúng sanh không có tâm bất sanh bất diệt thì lấy gì để thành Phật, thành A La Hán? Chẳng lẽ tu phá hết sanh diệt rồi chẳng còn gì nữa sao? Như vậy tu làm gì, vô lý quá!

Trong kinh Phật Thuyết Như Vầy, có đoạn: “Có cái không sanh, không diệt, không hiện hữu, không tác thành…”, đức Phật không đặt tên. Sau này những bộ kinh Ðại thừa ra đời mới đặt tên. Kinh Lăng Nghiên gọi là chơn tâm, kinh Niết bàn gọi là Phật tánh v.v… Ðức Phật nói chúng ta có cái “Chơn tâm không tịch” không phải căn cứ trên cái biết suy tính phân biệt, mà căn cứ trên cái biết không có hình tướng lặng lẽ. Tâm là cái biết, chơn là chơn thật, không là không hình tướng, tịch là lặng lẽ. Tâm suy tính phân biệt luôn luôn dấy động, mà dấy động là có pháp trần nên có hình tướng. Còn chơn tâm thì lặng lẽ mà thường biết rõ ràng. Ví dụ chúng ta ngồi thiền hay ngồi chơi, tai vẫn nghe tiếng, mắt vẫn thấy cảnh mà tâm không dấy niệm chạy theo tiếng theo cảnh và phân biệt tốt xấu, ấy là lặng lẽ mà thường biết.

Một hôm, ngài Huệ Khả trình sở ngộ với Tổ Ðạt Ma:

–         Tâm con bặt hết muôn duyên.

Tổ bảo:

–         Coi chừng rơi vào không.

Ngài thưa:

–         Chẳng rơi không mà rõ ràng thường biết (Liễu liễu thường tri).

Tổ ấn khả:

– Ðó là chỗ hộ niệm của chư Phật.

Trong kinh cũng thường nói: “Ðức Phật trong bốn oai nghi, hoặc thuyết giảng, hoặc ở chổ đông người đều ở trong đại định”. Chỗ này chúng ta có tu rồi mới biết, bây giờ chỉ hiểu trên kiến giải, chớ chưa thật biết.

– Từ vô thủy bị vọng tưởng che lấp không tự chứng được, đắm mê sanh tử, đức Phật thương xót mới hiện ra đời, vì nói pháp sanh tử… tất cả đều “Không”, chỉ bày tâm này hoàn toàn đồng với chư Phật.

Tất cả chúng sanh đều có chơn tâm, nhưng từ vô thủy bị vọng tưởng che lấp nên tự mình không nhận ra, do đó bị chìm đắm trong sanh tử. Ðức Phật thương xót, nên mục đích duy nhất của ngài là chỉ cho chúng sanh nhận ra ra bản tâm thanh tịnh của mình đồng với tâm Phật. Kinh Pháp Hoa nói: “Ðức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”.

– Kinh Hoa Nghiêm phẩm Xuất Hiện nói: “Không có chúng sanh nào chẳng có đầy đủ trí huệ Như Lai, đều do vọng tưởng chấp trước nên không chứng được. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí liền được hiện tiền”.

Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không nhận ra, nếu lìa vọng tưởng thì Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, vô ngại trí hiển bày”.

Như vậy, chúng ta muốn có tất cả trí như Phật, chỉ cần lìa vọng tưởng là được, không khó. Tuy nhiên, không khó mà khó, khó ở chỗ chúng ta hay quên rồi cũng bị vọng tưởng lôi đi.

– Như có quyển kinh lớn bằng tam thiên đại thiên thế giới, biên chép đầy đủ tất cả việc trong thế giới tam thiên đại thiên, quyển kinh này tuy lượng bằng thế giới Ðại thiên mà nằm gọn trong một hạt bụi nhỏ; như một hạt bụi nhỏ, tất cả hạt bụi nhỏ cũng như thế. Khi ấy có một người trí huệ sáng suốt được thiên nhãn thanh tịnh đầy đủ, thấy quyển kinh này nằm gọn trong hạt bụi nhỏ, vì muốn làm lợi ích cho chúng sanh, bèn lập phương tiện đập hạt bụi nhỏ kia, hiện bày quyển kinh lớn này, khiến các chúng sanh khắp được lợi ích.

Ðoạn này đưa ra một thí dụ, trong kinh thường gọi là :”Phá vi trần xuất kinh quyển” (Ðập hạt bụi ra quyển kinh). Quyển kinh dụ cho chơn tâm không tịch, tất cả chúng sanh đều có nhưng không nhận ra, hạt bụi dụ cho thân năm uẩn, người có trí huệ sáng suốt dụ cho đức Phật, chỉ cho phương pháp đập hạt bụi để lấy quyển kinh là đức Phật dạy cho chúng ta phương pháp tu để phá hết vọng tưởng chấp trước, thì chơn tâm hiện bày, lợi mình lợi người vô cùng.

– Trí huệ Như Lai cũng thế, không lường không ngại, khắp hay lợi ích cho tất cả chúng sanh, nằm gọn trong thân chúng sanh, các phàm phu vọng tưởng chấp trước không biết, không giác, không được lợi ích. Khi ấy Như Lai dùng trí nhãn thanh tịnh không chướng ngại xem khắp tất cả chúng sanh trong pháp giới, nói thế này: “Lạ thay! Lạ thay! Các chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ Như Lai mà ngu si mê lầm không biết không thấy, ta phải dạy đạo Thánh khiến họ hằng xa lìa vọng tưởng chấp trước, chính nơi thân họ thấy trí huệ rộng lớn Như Lai cùng Phật không khác. Liền dạy chúng sanh kia tu tập đạo Thánh, khiến lìa vọng tưởng, chứng kiến được trí huệ vô lượng như Lai, làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh”.

Trí huệ Như Lai sẵn có nơi mỗi chúng sanh nhưng vì ngu si mê lầm nên không biết không thấy, do đó mất đi sự lợi ích. Sau khi đức Phật thành đạo, với trí nhãn thanh tịnh thấy tất cả chúng sanh đều có trí tuệ rộng lớn, đều có tánh giác như ngài, nhưng vì vọng tưởng chấp trước che đậy nên không nhận ra. Ngài thương xót lập bày phương tiện dạy cho chúng sanh tu tập theo Thánh đạo, xa lìa vọng tưởng để tánh giác hiển bày. Tất cả pháp tu của Phật dạy nhắm vào mục đích duy nhất đó. Khi tánh giác hiển bày thì đối với Thanh văn gọi là chứng quả A La Hán; chư Phật và Bồ tát thì gọi là trở về bản giác. Tánh giác sẵn có nơi mỗi chúng sanh, vì chúng sanh quên lãng nên Phật dùng phương tiện cho nhớ và trở về với nó. Khi nhận ra nơi mình có tánh giác gọi là Thỉ giác, khi sống trọn vẹn với nó thì Thỉ giác hợp với bản giác gọi là chứng ngộ.

– HỎI: Ở trên nói “Tánh tự rõ ràng thường biết”, đâu cần chư Phật chỉ bày?

– ÐÁP: Ðây nói “Biết” không phải chứng biết, ý nói chơn tánh không đồng với hư không cây đá nên “Biết”.

Khi nghe trong kinh nói nơi mỗi chúng sanh đều có chơn tâm không tịch, nhiều người hiểu lầm, cho nó lặng lẽ rỗng không như hư không là sai. Tôi giải thích cho quý vị nhận ra chỗ này: Khi tâm chúng ta không khởi vọng tưởng chừng mười giây, hai mươi giây, lúc đó chúng ta vẫn có cái Biết, nhưng vì thời gian không vọng tưởng quá ngắn, vọng tưởng lại tiếp tục dấy khởi, nên chúng ta không nhận ra Cái rõ ràng thường biết. Nếu thời gian không vọng tưởng chừng mười phút, mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, các cơ quan đều hoạt động thì cái rõ ràng thường biết hiển lộ nơi mình. Cái rõ ràng thường biết không bám vào sáu trần nên không tướng mạo, ví nó như hư không nhưng không đồng với hư không, vì hư không bất động, tánh giác linh động. Thiền tông chủ trương phải nhận ra cái rõ ràng thường biết, y nơi đó tiến tu cho đến khi triệt ngộ mới không bị lầm lạc, cách tu này gọi là Xứng tánh khởi tu.

– Không phải như thức duyên cảnh phân biệt, không phải như trí soi thấu thể, chính là một tánh chơn như tự nhiên thường biết.

Ðây nhận định cái biết nào là thức, cái biết nào là trí, cái biết nào là chơn tâm.

Nhìn cái bàn chúng ta liền khởi niệm phân biệt: cái bàn này đóng khéo quá, kiểu bàn này rất đẹp thuộc gỗ quý v.v… đó là cái biết của thức. Cũng nhìn cái bàn chúng ta dùng trí Bát nhã soi thấu thể của nó tự tánh là không, do nhiều duyên hợp lại thành cái bàn. Ðó là cái biết của trí. Cái biết của trí cao hơn cái biết của thức, là dụng của chơn tâm, gần với chơn tâm hơn thức, tuy cũng phân biệt nhưng phân biệt đúng lẽ thật. Chúng ta tu là vận dụng trí để phá cái biết theo tình chấp của thức, nhưng khi thức hết rồi thì trí cũng quên luôn, lúc đó chơn tâm hiển bày. Kinh thường dụ chơn tâm như mặt gương trong sạch, ở ngoài có hình tướng gì thì trong mặt gương có hình ảnh đó. Như ở ngoài có đồng hồ thì trong mặt gương hiện bóng đồng hồ, ở ngoài có cái chuông thì mặt gương hiện bóng cái chuông. Cái biết của chơn tâm cũng vậy, tai vẫn nghe tiếng, mắt vẫn thấy sắc, lưỡi vẫn nếm vị… mà tâm an nhiên tự tại, không dính mắc, không khởi niệm phân biệt.

Vào một đêm ba mươi Tết, ngài Hư Vân bảo chúng làm một tiệc trà cuối năm, gọi là Phổ trà. Nhân đó ngài dạy:

– Khi uống trà, người biết trà ngon dỡ là phàm phu, nếu không biết mùi vị trà thì đồng như cây đá. Vậy các ông nên uống trà như thế nào?

– Uống trà.

Ngay chừng ấy thôi, uống trà chỉ biết uống trà.

Ngài Triệu Châu nghe danh ngài Ðại Ðồng ở núi Ðầu Tử bèn đến thăm. Ðến nơi, ngài Ðại Ðồng đi vắng, ngài đến trước am ngồi chờ. Ngài Ðại Ðồng trở về trên tay cầm một bình dầu, ngài Triệu Châu hỏi:

–         Nghe danh Ðầu Tử đã lâu, đến đây chỉ thấy ông già bán dầu.

Ngài Ðại Ðồng đáp:

–         Ngài chỉ thấy ông già bán dầu là không biết Ðầu Tử.

Ngài Triệu Châu hỏi:

–         Thế nào là Ðầu Tử?

Ngài Ðại Ðồng đưa bình dầu lên:

– Dầu, dầu.

Qua hai câu chuyện trên đủ để quý vị nhận ra rồi. Nếu không thì thời gian sau quý vị sẽ biết.

– Bồ Tát Mã Minh nói: “Chơn như là tự thể chơn thật hiểu biết”. Kinh Hoa Nghiêm phẩm Hồi hướng cũng nói: “Chơn như soi sáng làm tánh”.

Trong Ðại thừa Khởi Tín, ngài Mã Minh nói : “Tự thể chơn như là chơn thật hiểu biết”. Chơn là chơn thật, Như là cái biết như như không sanh không diệt. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Chơn như là cái biết sáng suốt, lấy cái sáng suốt đó làm tánh”.

– Lại y cứ phẩm Vấn Minh nói: “Biết cùng trí khác, trí cuộc nơi thánh không thông nơi phàm, biết tức phàm thánh đồng có thông nơi lý trí.

Cái biết của trí hạn cuộc nơi hàng Thánh giả, không có ở nơi phàm phu. Nếu dùng trí hằng thấy thân tâm là vô thường, khổ, vô ngã đó là trí năng của hàng Thanh văn. Nếu thấy thân ngũ uẩn đều không, các pháp như huyễn hóa (ngã, pháp không) là cái trí của hàng Bồ tát. Phàm phu sống theo tình thức phân biệt nên không có thánh trí. Chỉ Thánh mới có trí nên gọi là thánh trí, dùng trí phá được thức nên gọi là thánh. Chơn tâm bao trùm cả phàm thánh, nơi phàm cũng có tánh biết, nơi thánh cũng có tánh biết. Ðức Phật nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành” là căn cứ trên tánh giác của Phật và chúng sanh đồng có.

– Cho nên Bồ tát Giác Thử…, chín vị hỏi Văn Thù Sư Lợi rằng: “Thế nào cảnh giới trí của Phật (Trí chứng ngộ)? Thế nào cảnh giới trí biết của Phật (Chơn tâm sẵn có)?”. Văn Thù đáp: “Trí của chư Phật tự tại trong tam giới không ngăn ngại (Ðáp trí). Không phải thức hay phân biệt được, cũng không phải cảnh giới của tâm, bản tánh nó thanh tịnh, chỉ bày các chúng sanh (Ðáp biết).

Trí của Phật soi thấu trong tam giới không gì ngăn ngại. Chơn tâm không phải phân biệt cũng không phải là tâm suy tư đầy vọng tưởng, là bản tánh thanh tịnh sẵn có nơi mỗi người.

– Luận Bảo Tạng chép: “Biết có thì có hoại, biết không thì không hoại; cái biết thật biết thì có không đều không chấp”. Như thế là chỉ bày tâm linh tri tức là chơn tánh cùng Phật không khác. Thế là hiển bày “Giáo chơn tâm tức tánh vậy”.

Biết có tức là chấp theo có, cho sự vật là thật có. Nhưng tất cả sự vật là vô thường, nên cái biết ấy cũng vô thường hoại diệt. Biết không là chấp vào không ngơ. Biết theo hai bên có không là biết sanh diệt. Biết thật biết là cái biết của chơn tâm, không kẹt hai bên có và không. Ðó là tâm linh tri, hay gọi là chơn tánh, chúng sanh cùng Phật đồng có. Ngài đã tóm gọn ý nghĩa của giáo thứ ba “Hiển bày chơn tâm tức tánh”.

– Kinh Hoa Nghiêm, Mật Nghiêm, Viên Giác, Phật Ðảnh, Thắng Man, Như Lai Tạng, Pháp Hoa, Niết Bàn… hai mươi bốn bộ. Luận Bảo Tánh, Phật Tánh, Khởi Tín, Thập Ðịa, Pháp Giới, Niết Bàn, mười lăm bộ. Tuy đốn hoặc tiệm không đồng, căn cứ pháp thể hiển bày đều thuộc giáo này. Hoàn toàn đồng với tông thứ ba “Chỉ bày tâm tánh” của thiền môn.

Hơn bốn mươi bộ kinh thuộc hệ Ðại thừa và mươi lăm bộ Luận, tuy giáo nghĩa đốn tiệm không đồng, nhưng đều căn cứ vào pháp thể để hiển bày lý Chơn tâm tức tánh. Giáo thứ ba hiển bày chơn tâm tức tánh hoàn toàn phù hợp với tông thứ ba Chỉ bày tâm tánh (tức tâm tức Phật) của thiền tông.

– Bồ Tát Mã Minh nêu “Tâm” là cội nguồn. Văn Thù chọn “Biết” là chơn thể, tại sao nhóm phá tướng chỉ nhận tịch diệt mà không chấp nhận “Chơn tri”; các nhà nói tướng chấp phàm khác thánh mà không nhận “Tức Phật”? Nay tóm tắt kinh Phật phán định, chính vì những người này. Chư Tổ ở Ấn Ðộ truyền tâm gồm kinh luận không phân hai, bởi do phương này mê tâm chấp văn cho danh là thể, nên Tổ Ðạt Ma khéo léo bỏ văn truyền tâm, nêu tên của nó, thầm chỉ thể của nó, dụ dùng ngồi xoay mặt vào vách, khiến dứt các duyên.

Bồ tát Mã Minh nói “Tâm” là nguồn sanh ra muôn pháp. Ngài Văn Thù cho “Biết” là thể chơn thật. Tại sao nhóm phá tướng (những vị nghiêng về lý Bát nhã) chỉ chấp nhận chơn không tịch diệt mà không nhận chơn tri (biết chơn thật)? Các nhà nói tướng (những vị nghiêng về giáo nghĩa A Hàm) thì cho rằng phàm thánh khác nhau, không chấp nhận lý “Tức tâm tức Phật”? Do đó, ngài Khuê Phong tóm tắt kinh Phật chia làm ba giáo, phán định lý của mỗi giáo rõ ràng để phá kiến giải lệch lạc của ngườisau.

Xưa, chư Tổ ở Ấn Ðộ khi truyền Thiền luôn luôn dạy cả kinh luận. Khi ngài Bồ Ðề Ðạt Ma sang Trung Hoa thấy người tu Phật ở đây quên mất bản tâm, chạy tìm trên văn tự nên kẹt trên tên gọi (tâm) mà quên mất thể của tâm. Nên Tổ Ðạt Ma mới tuyên bố: “Bất lập văn tự, chỉ thẳng tâm người”, đó là ngài khéo léo bỏ văn tự truyền tâm. Về phần thực hành, ngài lặng lẽ ngồi xoay mặt vào vách chín năm, chủ yếu cho người nhận ra rằng phải buông hết các duyên bên ngoài, quay lại nhiếp phục vọng tưởng bên trong, không chạy theo văn tự suông, đó là yếu tố chính để người tu thiền chứng ngộ.

– HỎI: khi các duyên dứt có phải đoạn diệt chăng?

– ÐÁP: Tuy dứt các niệm, không phải đoạn diệt.

– HỎI: Lấy cái gì chứng nghiệm biết không đoạn diệt?

– ÐÁP: Rõ ràng tự biết, nói không thể đến.

Ðây là những thắc mắc của đa số người tu. Tu thiền là buông vọng tưởng, không cho tâm chạy theo sáu trần. Giả sử hành giả thực hành một thời gian lâu, trong bốn oai nghi tâm thanh tịnh bặt hết vọng niệm, lúc đó hốt hoảng sợ mất mình? – Tuy bặt hết vọng niệm mà tai hành giả vẫn nghe tiếng, mắt vẫn thấy sắc v.v… Nếu không có mình thì ai nghe, ai thấy?

Hỏi lấy cái gì để chứng nghiệm? Chỉ trả lời “Rõ ràng thường biết”, đến chỗ ấy mỗi người tự biết, không thể nói ra được, cũng như người uống nước nóng lạnh tự biết.

– Sư Ðạt Ma ấn chứng rằng: “Chỉ đây là tự tánh thanh tịnh, tâm chớ nghi ngờ”. Nếu đáp không khế hội cũng ngăn được các lỗi. Lại bảo: “Quán sát rốt ráo”, không vì người trước nói chữ “Biết” (tri), chỉ đợi tự ngộ mới nghiệm thật, là thân chứng được thể kia, nhiên hậu ấn chứng khiến dứt hết nghi hoặc, cho nên nói: “Thầm truyền tâm ấn”. Nói thầm đó duy thầm chữ “Biết” (tri) chẳng phải tất cả chẳng nói. Sáu đời truyền nhau đều như vậy.

Ðể cho người sau đủ niềm tin, ngài dẫn chứng lời Tổ Ðạt Ma ấn chứng cho Tổ Huệ Khả: “Chỉ đây (cái rõ ràng thường biết) là tự tánh thanh tịnh, tâm chớ nghi ngờ”. Ðáp “Rõ ràng tự biết” nếu người không khế hội thì thôi, không giải thích để ngăn các lỗi hiễu lầm. Ví dụ: nói tu đến trạng thái đó vui lắm, người nghe tưởng vui như đi xem hát; hoặc nói vắng vẻ lắm, họ tưởng như ở chỗ núi non hoang vu. Còn đáp “Rõ ràng tự biết”, tức là tới trạng thái đó mỗi người tự biết lấy, ai chưa tới thì không biết, cứ tiếp tục tu. Nhà thiền chủ trương, thà để người không biết, còn hơn cho người đó hiểu sai rồi chấp. Như người đứng bên ngoài một ngôi nhà đóng kín cửa, không biết bên trong nhà. Dù có nghe người diễn tả nhiều vật bên trong cũng không biết đúng như thật vật trong nhà. Khi nào người ấy bước vào được trong nhà thì tự biết tất cả.

Chỗ này chẳng những các Tổ không nói, mà đức Phật cũng luôn luôn từ chối không bao giờ ngài giảng về Niết bàn. Khi Phật còn tại thế, bị nhiều kẻ ngoại đạo võ đoán rằng: Ðức Phật nói Niết bàn nhưng chắc ngài cũng không biết Niết bàn là gì, cho nên hỏi ngài không trả lời. Vì nếu có nói ra chúng ta cũng không biết, vì chúng ta chưa chứng được trạng thái đó thì làm sao biết.

Ví dụ học sinh lớp hai, đem toán hình học không gian giảng cho nó nghe, dù giáo sư có cố gắng giảng, nó cũng không hiểu, vì trình độ của nó chỉ biết một cộng một là hai, nó không hiểu tới không gian. Giáo sư chỉ nên khuyên nó học từ từ, lên Trung học sẽ hiểu được và giải được toán này.

Kinh Tu Nhàn Ðề thuộc hệ A Hàm, có kể chuyện:

Có một người ngoại đạo tên Tu Nhàn Ðề, bài bác đức Phật chủ trương xa lìa ngũ dục. Sau khi được Phật dùng đạo lý giáo hóa, ông tỉnh ngộ và nghe đức Phật nói bài kệ:

Không bịnh lợi bậc nhất,

Niết bàn vui bậc nhất.

Tu Nhàn Ðề hỏi:

– Thế nào là Niết bàn vui bậc nhất?

Ðức Phật không trả lời chỉ đưa ra một thí dụ:

Như người mù mắt từ thuở bé, nghe người khác diễn tả những màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng… cũng không thể hình dung được. Có người thương xót chỉ cho người ấy một món thuốc trị lành mắc. Khi sáng mắt, người ấy thấy rõ ràng các màu sắc không cần ai diễn tả. Cũng vậy, Phật nói ông chưa sáng con mắt huệ, dù ta có vì ông nói, chỉ nhọc nhằn mà ông cũng không được lợi ích. Ta sẽ chỉ ông phương thuốc làm sáng mắt huệ của ông.

1.- Gần gủi thiện trí thức.

2.- Nghe pháp lành.

3.- Nghe rồi suy nghĩ.

4.- Suy nghĩ rồi tu chứng.

Tu chứng rồi chính ông sẽ biết rõ thế nào là cái vui đệ nhất của Niết Bàn.

Ngài Khuê Phong bảo hành giả phải quán sát rốt ráo, đừng vội nghe người trước nói lý cứu cánh (chữ Biết) rồi sanh nghi, hãy tự ngộ, khi trình sở ngộ vị thầy nghiệm lại sẽ ấn chứng (như trường hợp ngài Huệ Khả), gọi là Thầm truyền tâm ấn. Từ sư Bồ Ðề Ðạt Ma cho đến Lục Tổ Huệ Năng đều truyền tâm bằng cách ấy.

– Ðến thời Hà Trạch (Thần Hội) tông khác đua nhau truyền bá, muốn cầu thầm khế hội không gặp cơ duyên, lại cũng suy nghĩ lời ký “Huyền ty” (chỉ tơ treo) của Tổ Ðạt Ma, e sợ tông chỉ diệt mất, ngài bèn nói rõ “Một chữ Biết (Tri) là cửa các thứ nhiệm mầu” (Tri chi nhứt tự chung diệu chi môn).

Ðến đời ngài Thần Hội, thấy các tông phái đua nhau truyền bá thiền, người muốn cầu khế hội lại không gặp cơ duyên. Ngài nhớ lại lời huyền ký của Tổ Ðạt Ma: “Pháp của ta sau sáu đời mạng như chỉ tơ treo”. Ngài sợ tông chỉ của Tổ diệt mất nên ngài nói thẳng “Một chữ Biết là cửa các thứ nhiệm mầu”. Cái biết của chơn tâm là cửa của các thứ nhiệm mầu. Nên trong giáo thứ ba nói nếu ai chứng ngộ chơn tâm thì có đầy đủ diệu dụng như chư Phật.

– Mặc dù học giả ngộ có cạn sâu, chỉ cốt giữ tông giáo không dứt, cũng là vận số đại pháp ở nước này (Trung Hoa) đã đến. Một số Tăng tục được nghe khắp nên cảm ứng như thế. Về mật truyền thì những người khác không biết, nên lấy cà sa này làm tin. Còn hiển truyền thì kẻ học dễ biện biệt, chỉ dùng lời nói để trừ nghi, huống đã hiện bày lời nói đầy đủ có thể dẫn kinh luận… làm chứng

Ở Trung Hoa dưới thời ngài Thần Hội, thiền của Lục Tổ rất thạnh hành tại Hà Trạch. Mặc dầu ngài Thần Hội chỉ thẳng những người ngộ có cạn sâu, tuy nhiên vẫn giữ được không đoạn dứt. Có hai lối truyền thiền là Mật truyền và Hiển truyền. Mật truyền là trường hợp của Lục Tổ Huệ Năng, chỉ một thầy một trò biết, lấy y bát làm tín vật. Hiển truyền là đem kinh luận ra giảng dạy. Ở Chơn Không dạy tu thiền, tôi đem kinh luận ra giảng cho quý vị biết thế nào vọng, thế nào là chơn, không theo vọng và hằng sống với cái chơn, y đó tu cho đến khi triệt ngộ. Hiển truyền là lấy kinh luận đối chiếu lại sự chứng ngộ của hành giả xem có phù hợp với lời dạy của Phật Tổ không.

– HỎI: Ngộ tâm rồi phải tu như thế nào? Lại ý “Giáo nói tướng” ban đầu khiến tọa thiền chăng?

– ÐÁP: Ðây có hai ý. Nếu người hôn trần nặng nề không thể sách phát, trạo cử lăng xăng không thể đè dẹp, tham sân mãnh liệt gặp cảnh khó khăn, thì dùng các thứ phương tiện trong giáo trước tùy bịnh điều phục. Nếu người phiền não mỏng yếu, huệ giải sáng bén, nên y tông bổn giáo tu nhất hạnh tam muội.

Ý câu hỏi là:

– Ngộ rồi tức nhận ra nơi mình có chơn tâm không tịch, có nên y giáo nói tướng tọa thiền chăng.

Ngài đáp có hai ý:

– Nếu người còn bịnh hôn trầm nặng nề, trạo cử lăng xăng, khi gặp cảnh trái ý nghịch lòng thì nổi sân dữ dội, gặp danh lợi thì lòng tham khởi lên không dừng được, thì phải tọa thiền từ từ điều phục tâm.

– Nếu người phiền não mỏng ít, biết tham sân là xấu liền dẹp được. Hoặc ngồi thiển tâm dễ yên không bị hôn trầm và tán loạn làm khổ, thì y theo tông và giáo thứ ba tu nhất hạnh tam muội, còn gọi là Như Lai Thanh Tịnh thiền.

Quý vị tự xét mình thuộc hạng người nào để chọn pháp tu hợp với căn cơ của mình, giống như bịnh nhân chọn thuốc uống, nếu thuốc đúng thì bịnh mau lành.

– Luận Khởi Tín nói: “Người tu Chỉ, nên ở chỗ vắng vẻ, thân ngồi ngay thẳng, ý chơn chánh không nương hơi thở, hình sắc cho đến chỉ có tâm, không cảnh giới ngoài”.

Luận Ðại thừa Khởi Tín dạy: nếu tu Chỉ trước hết phải nhờ cảnh vắng vẻ, thân ngồi ngay thẳng, ý chơn chánh (không vọng niệm), không nương hơi thở và hình sắc. Có nhiều người tu nương nơi hình sắc để trụ tâm như trụ tâm ở rốn, ở chót mũi, ở giữa hai chân mày v.v… hoặc vẽ một vòng tròn ở trước mặt, nhìn vào đó để trụ tâm. Tu như vậy gọi là tu hệ duyên (theo duyên kềm tâm ở một chỗ). Ðây dạy tu Chỉ mà không cho mượn phươnng tiện kềm tâm, chỉ cần ý không vọng niệm và khi vọng niệm lặng xuống chỉ còn một tâm linh tri.

– Kinh Kim Cang Tam Muội nói: “Thiền tức là động, không động thì không thiền, ấy là thiền vô sanh”.

Thông thường thiền là phải định, ở đây nói: “Thiền tức là động, không động thì không thiền” có mâu thuẫn không? Vọng tưởng dấy lên chúng ta dùng trí nhìn nó, nó liền lặng xuống, ấy là tu thiền. Vọng tưởng là động, dùng trí quán cũng động. Như vậy tu thiền là dùng động để ngăn động. Ðó là ý nghĩa thông thường. Theo kinh Kim Cang, trong khi thân hoạt động đi, đứng, gánh nước, hái củi v.v… tâm vẫn lặng lẽ ấy là tịnh trong động, gọi là Thiền vô sanh. Tại sao? Vì ngồi thì tâm dễ định, hoạt động thì vọng tưởng dễ khởi nên còn sanh diệt. Thân hoạt động mà tâm lặng lẽ, khi thân ngồi yên tâm càng an tĩnh hơn, tâm không khởi không diệt nên gọi là vô sanh. Thiền trong bốn oai nghi gọi là Như Lai Thanh Tịnh thiền hay Tự Tánh Thanh Tịnh thiền. Hễ còn vọng niệm là còn sanh tử. Vậy ai muốn biết mình còn hay hết luân hồi, chỉ cần nhìn lại xem mình còn vọng niệm hay hết là tự biết, không cần thọ ký hay điểm đạo.

– Kinh Pháp Cú nói: “Nếu học các tam muội (chánh định) mà động thì không phải tọa thiền, tâm trôi theo cảnh giới làm sao gọi là định?”

Ðây nói ngược lại: “Ðộng thì không phải tọa thiền”. Kinh Pháp Cú rút từ hệ A Hàm nên nói thiền định là phải tọa thiền, cột tâm tại một chỗ không cho duyên theo cảnh ngoài. Mượn phương tiện để cột tâm như sổ tức quán, bất tịnh quán, nhơn duyên quán v.v…

– Kinh Tịnh Danh nói: “Không khởi diệt định, hiện các oai nghi, không ở trong tam giới hiện thân ý, ấy là an tọa”.

Diệt định là diệt thọ tưởng định, định của những vị chứng A La Hán. Các ngài nhập diệt định thì ngồi yên, không biết gì bên ngoài, không còn hơi thở, chỉ còn hơi ấm. Muốn làm gì thì phải xuất định, xuất định rồi mới hiện các oai nghi, đi, đứng… Kinh Tịnh Danh nói: “Không xuất định mà hiện các oai nghi”, vì các kinh Ðại thừa nói đến định là chỉ cái định khi thân hoạt động. Hành giả tu định này vẫn đi, đứng, làm việc mà tâm không vọng tưởng. Ðịnh này khó tu hơn định trước, nhưng nếu tu được thì không mất lợi ích cho chúng sanh.

“Không ở trong tam giới hiện thân ý, ấy là an tọa”. Khi hành giả chứng được định trong bốn oai nghi thì thể nhập pháp thân trùm khắp tam giới, nên tuy ở trong tam giới mà không kẹt trong tam giới, tùy duyên độ chúng sanh mà hiện có thân, ý để giáo hóa, nên nói tự tại ra vào tam giới ấy là an tọa. Không phải ngồi mới gọi là an tọa. An tọa ở đây có nghĩa là luôn luôn sống với pháp thân thanh tịnh.

– Phật đã ấn khả, căn cứ nơi đó dùng để đáp. Ba cõi như hoa đốm trong hư không, bốn loài chúng sanh như giấc mộng, y nơi thể mà tu hành, tu mà không tu; còn không trụ nơi Phật, nơi tâm thì cái gì luận thượng giới, hạ giới?

Ðức Phật đã ấn khả như vậy, căn cứ nơi đó đáp để giải nghi cho người. Ðối với hàng phàm phu mê muội, chấp mình có thật, cảnh có thật, thời gian có thật nên thấy cuộc sống này thật. Dưới con mắt tuệ của Phật và Bồ Tát, thấy ba cõi như hoa đốm trong hư không, bốn loài chúng sanh như giấc mộng. Từ sáng đến tối, chúng ta ôn lại sinh hoạt trong ngày giống như giấc mộng. Sự việc xảy ra buổi sáng, chiều tìm lại không còn. Ngày nay tìm chuyện xảy ra hôm qua cũng không được. Rồi một ngày, một tháng, một năm trôi qua nhanh như chớp mắt. Mới ngày nào tóc xanh giờ đây đầu đã bạc. Những gì qua rồi không tìm lại được. Cuộc sống của con người và muôn loài biến đổi từng sát na. Nếu chúng ta tỉnh giác và biết rõ cuộc sống tạm bợ giả dối như vậy thì không còn tham lam dành dựt từng miếng ăn, từng tấc đất làm khổ lẫn nhau.

Chúng ta biết thân, cảnh là vô thường biến đổi và cũng biết ngay nơi thân sanh diệt có cái bất sanh bất diệt, y nơi thể tánh đó mà tu hành, tu nhưng không tu. Vì sao? Vì từ lâu chúng ta quên chơn tâm sống với vọng tưởng, bây giờ Phật Tổ chỉ dạy, chúng ta không theo vọng tưởng, sống với chơn tâm nên nói tu không tu. Các ngài không cho trụ nơi Phật, nơi tâm vì Phật là giả danh, tâm cũng giả danh, không kẹt vào giả danh thì lấy gì luận bàn thượng giới, hạ giới.

– Nhưng trong giáo này dùng một chơn tâm tánh đối với các pháp nhiễm tịnh hoàn toàn lọc ra, thu vào.

Hoàn toàn lọc ra: như trước đã nói, điều khắn chặt nơi thể, chỉ thẳng linh tri tức là tâm tánh, ngoài ra đều hư vọng. Cho nên nói: Không phải thức hay phân biệt, không phải cảnh của tâm (vọng tâm)… cho đến không phải tánh, không phải tướng, không phải Phật, không phải chúng sanh, lìa tứ cú tuyệt bách phi.

Ở trước có nói đến hai lối Lọc ra và Thu vào của thiền sư Thạch Ðầu và Mã Tổ. Ðoạn này ngài giải thích thêm: Giáo thứ ba căn cứ trên một đoạn chơn tâm tánh mà lọc ra và thu vào.

Hoàn toàn lọc ra: thấy các pháp đều hư vọng chỉ có một tâm linh tri, sống với tâm linh tri ấy không chạy theo hư vọng.

– Hoàn toàn thu vào: Các pháp nhiễm tịnh đâu không phải là tâm, tâm mê nên vọng khởi hoặc nghiệp, cho đến tứ sanh, lục đạo, cõi nước tạp uế; tâm ngộ nên từ thể khởi dụng, tứ đẳng (tứ vô lượng tâm), lục độ, cho đến tứ biện tài, thập lực, thân đẹp đẽ, nước thanh tịnh chỗ nào chẳng hiện. Ðã là tâm này hiện khởi các pháp, các pháp hoàn toàn là chơn tâm.

Hoàn toàn thu vào: thấy tất cả pháp sai biệt đều từ chơn tâm hiện ra. Quên chơn tâm duyên theo vọng niệm, tạo nghiệp nên đọa vào bốn loài (Noãn, thai, thấp, hóa sanh) và đi trong sáu đường (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Thiên, nhơn, A Tu La). Xoay lại sống với chơn tâm thì khởi ra diệu dụng như Tứ vô lượng tâm, Lục độ vạn hạnh v.v… Ví dụ hai ly nước, một ly nước đường, một ly nước muối. Tuy vị có khác, một mặn một ngọt nhưng thể của nó vẫn là nước.

Từ chơn tâm khởi ra các pháp sai biệt, nên các pháp cũng không rời chơn tâm mà có.

– Như người nằm mộng thấy cảnh vật, cảnh vật đều do người. Như vàng làm các vật dụng, mỗi vật đều là vàng, Như gương hiện bóng, mỗi bóng đều là gương.

Ví dụ người nằm mộng, tất cả cảnh vật có trong mộng đều do mộng mà có. Như vàng làm ra các thứ vòng, xuyến… khác nhau như đều là một chất vàng.

– Kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết tất cả pháp là tự tánh của tâm thì thành tựu huệ thân, không do nơi khác mà ngộ”.

Nếu người biết tất cả pháp từ chơn tâm hiện, hằng sống với chơn tâm, không chạy theo hư vọng của sáu trần, ấy là ngộ được pháp thân, không do cái khác mà ngộ.

– Luận Khởi Tín nói: “Tam giới giả dối do tâm tạo ra, lìa tâm không có cảnh giới, sáu trần cho đến tất cả phân biệt tức là phân biệt tự tâm, tâm không thấy tâm, không tướng có thể được, nên tất cả pháp như bóng trong gương”.

Luận Khởi Tín nói: ba cõi giả dối, do tâm hiện ra. Sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp cũng do tâm có, cho đến tất cả niệm phân biệt cũng khởi từ tâm, chẳng lẽ đem tâm trừ tâm? Ðem tâm thấy tâm? Tâm không có tướng để thấy, nên tất cả pháp đều như bóng trong gương không thật. Nếu người nào thấy được như vậy là đã có tỉnh, là người trí.

– Kinh Lăng Già nói: “Tịch diệt gọi là nhất tâm, nhất tâm gọi là Như Lai Tạng, hay biến khởi tạo tác tất cả cõi và chúng sanh, tạo thiện ác, thọ khổ lạc cũng nhơn đồng, nên biết tất cả đều là tâm”.

Cũng nhơn đồng là từ chơn tâm tạo thiện, tạo ác, rồi thọ khổ thọ vui… Như trên mặt biển có trăm ngàn lượn sóng lớn nhỏ khác nhau, trên hình tướng tuy có sai biệt nhưng đều đồng một thể là nước.

Tóm lại, ngài Khuê Phong dẫn chứng kinh luận để cho thấy chủ yếu của lối tu Thu vào là thấy tất cả pháp sai biệt đều từ chơn tâm hiện ra, để không còn chạy theo cái sai biệt hư vọng, hằng sống với chơn tâm.

– Trong môn hoàn toàn lọc ra nhiếp thuộc “Giáo phá tướng” thứ hai. Môn hoàn toàn thu vào nhiếp thuộc “Giáo nói tướng” thứ nhất ở trước. Ðứng trước nhìn lại đây, đây ắt khác trước, đem đây nhiếp trước, trước ắt toàn đồng với đây; sâu ắt gồm cạn, cạn không đến sâu, sâu là chỉ ra thể chơn tâm, rồi ở trong đó lọc tất cả, thu tất cả. Như thế thu lọc tự tại, tánh tướng không ngại, mới có thể đối tất cả pháp đều không có chỗ trụ, duy đây gọi là liễu nghĩa.

Môn hoàn toàn lọc ra giống Giáo phá tướng ở chỗ nhìn tất cả tướng sai biệt đều là hư vọng. Môn hoàn toàn thu vào giống Giáo nói tướng ở chỗ nói tướng sai biệt của các pháp và từ chỗ sai biệt chỉ ra thể chung của sự sai biệt ấy là chơn tâm. Do đó, nói có cạn có sâu. Sâu là chỉ cho chúng ta nhận ra thể chơn tâm, rồi mới khỏi tu lọc ra hoặc thu vào.

Thiền tông cũng chủ trương hành giả trước phải nhận ra nơi mình có thể bất sanh bất diệt rồi mới khởi tu lọc ra hay thu vào. Vì tất cả pháp đều hư dối từ chơn tâm hiện ra, không cố định nên không dính mắc. Ấy gọi là Liễu nghĩa thượng thừa.

– Ba giáo trên nhiếp hết các kinh một đời Phật nói và các luận chư Bồ Tát tạo ra. Tìm kỹ pháp nghĩa lại thấy có “ba nghĩa” khác nhau mà chỉ “một pháp” không sai biệt. Ðến trong ba nghĩa thì giáo thứ nhất, thứ hai là “Không”, “Hữu” tương đối; giáo thứ ba và thứ nhất là “Tánh”, “Tướng” tương đối, đều rõ ràng dễ thấy. Duy giáo thứ hai và thứ ba là “Phá tướng” cùng “Hiển tánh” tương đối thì giảng sư và thiền sư cùng lầm, đều gọi một tông, một giáo, một đồng cho là “Phá tướng” tức là “Chơn tánh”.

Ba giáo nói trên, ngài Khuê Phong tóm gọn ý nghĩa các kinh Phật nói và các luận chư Bồ tát làm ra. Công phu nghiên cứu giáo điển của ngài rất sâu rộng. Nhờ đó người sau nếu không đọc hết được Tam Tạng thì cũng nắm được cương yếu giáo lý trong Tam Tạng. Theo ngài phân tích thì có ba nghĩa khác nhau, chỉ có một pháp không khác. Sau đây ngài nêu lên ba cặp tương đối:

1.- Giáo I Không, giáo II Hữu tương đối.

2.- Giáo III Tánh, giáo I Tướng tương đối.

3.- Giáo II Phá tướng, Giáo III Hiển tánh tương đối.

Hai cặp đối đãi một và hai dễ thấy vì Không, Hửu, Tánh, Tướng rõ ràng. Chỉ có cặp thứ ba Phá Tướng và Hiển Tánh thì giảng sư và thiền sư đều lầm cho rằng nó cùng một tông, một giáo vì phá tướng tức là chơn tánh.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.