Nguồn Thiền Giảng Giải

Đốn Giáo, Tiệm Giáo



– Phật nói có đốn giáo, tiệm giáo. Thiền mở bày có đốn môn, tiệm môn. Hai giáo và hai môn mỗi phần phù hợp nhau. Nay người giảng pháp nghiêng giải giáo tiệm, người tu thiền nghiêng truyền môn đốn, người giảng pháp, người tu thiền gặp nhau thì cách biệt như Hồ, Việt. Tông Mật tôi không biết đời trước tại sao huân được tâm này: “mình chưa giải thoát, muốn giải thoát cho người”, vì pháp quên thân mạng, trong tâm thương người thống thiết mỗi khi than: “người cùng pháp sai, pháp do người thành bịnh”. Nên riêng chọn trong Kinh, Luật, Luận, Sớ mở rộng cửa giới, định, huệ, bày đốn ngộ giúp cho tiệm tu, chứng minh lời Tổ nói hợp với ý Phật.

Kinh Phật dạy cũng chia ra giáo nhanh chóng và giáo theo thứ lớp. Thiền tông cũng có pháp đốn, tiệm. Ðốn là chỉ thẳng nơi tâm có bản tánh bất sanh bất diệt, y nơi đó khởi tu. Tiệm là có thứ lớp, như Lục Diệu pháp môn: Sổ tức, tùy tức, chỉ, quán, hoàn và diệt. Tiệm tu xong pháp này rồi tới pháp kia qua nhiều tầng bậc mới xong việc. Hai giáo và hai môn này đều phù hợp nhau, cứu cánh là đưa người tới chỗ giải thoát. Nhưng lúc đó (thời ngài Khuê Phong) người giảng kinh thì nghiêng về tiệm, người truyền thiền thì nghiêng về đốn. Cho nên hai bên không hợp nhau, cách biệt như Hồ, Việt (xưa bên Trung Hoa hai nước Hồ, Việt xung đột, không gần nhau được). Lúc bấy giờ, thấy tình trạng truyền bá Phật pháp bế tắc, nên ngài vì pháp, quên thân mạng và khởi tâm đại bi: “mình chưa giải thoát mà muốn giải thoát cho người”, đó là tâm từ bi của Bồ tát. Như vậy có trái với đạo lý không, vì mình tu chưa xong mà ra dạy người?

Theo tinh thần của Thiền tông, có thể làm thiện tri thức trong hai trường hợp: một là giải ngộ, hai là chứng ngộ:

1. Giải ngộ: là sau khi nhận ra nơi mình có bản tánh bất sanh bất diệt, có thể làm thiện tri thức hướng dẫn người khác tu. Cũng như người biết đường về nhà, mà chưa tới nhà, nhưng thấy anh em bà con tìm đường về nhà mà không biết đường đi, người ấy dừng lại kêu họ, chỉ dùm con đường về nhà. Ðó là trường hợp của ngài Khuê Phong, chưa xong mà muốn làm lợi ích cho người nên phải ra giảng dạy.

2. Chứng ngộ: là trường hợp của đức Phật, sau khi hoàn toàn xong việc, ngài ra giáo hóa chúng sanh.

Do thấy “Người cùng pháp sai, pháp do người thành bịnh”. Nên ngài rút gọn những lời dạy của của Phật Tổ trong Kinh, Luật, Luận, Sớ đdể cho người sau biết được gốc mà tu hành. Và ngài chứng minh lời của Tổ phù hợp với ý Phật.

Người cùng pháp sai là pháp Phật dạy một đường, người thực hành một nẻo, nên tu không được lợi ích an lạc mà lại thành bịnh. Khi A Hàm kể chuyện:

Một hôm có người ngoại đạo đến hỏi Phật:

– Này Cù Ðàm, giáo lý của ngài có Niết bàn chăng? Nếu có, thì có người chứng được Niết bàn không?

– Giáo lý của ta có Niết bàn và có người chứng được Niết bàn.

– Cù Ðàm đã chứng chưa?

– Ta đã chứng được.

– Nếu giáo lý của ngài có Niết bàn, ngài đã chứng Niết bàn. Vậy tất cả đệ tử của ngài có được Niết bàn hết chăng?

– Ðệ tử của ta, có người chứng được Niết bàn, có người không chứng được Niết bàn.

– Tại sao giáo lý của ngài có Niết bàn, ngài đã chứng được, mà ngài dạy đệ tử có người chứng, người không chứng?

Phật hỏi lại:

– Ở đây có thành Vương Xá, vậy ông có biết thành Vương Xá không?

– Dạ biết.

– Ông có rành đường đến thành Vuơng Xá không?

– Dạ rành.

– Có thành Vương Xá và ông rành đường về thành Vương Xá, giả sử có ông A và B nhờ ông chỉ dùm đường đến thành Vương Xá, khi đó ông chỉ: đi thẳng tới ngã ba thì quẹo trái, đi một đoạn nữa tới vườn hoa, bên kia vườn hoa là thành Vương Xá. Nhưng ông A đi tới ngã ba thì quẹo tay mặt, như vậy ông A có tới thành Vương Xá không?

– Không?

– Ông B đi đúng theo lời ông chỉ. Vậy ông B có tới thành Vương Xá không?

– Tới.

– Tại sao có thành Vương Xá, ông là người biết rành đường về thành Vương Xá, ông chỉ đường cho hai người kia đi, tại sao người đến, người không đến, lỗi tại ai?

– Lỗi tại người đi. Nếu người đi đúng theo lời tôi chỉ thì tới, còn không y theo lời tôi chỉ thì không tới.

Ðức Phật kết luận:

– Ta cũng vậy,giáolý của ta có Niết bàn và ta là ngưuời đạt tới Niết bàn, nhưng ta dạy đệ tử ai y theo lời ta dạy mà tu thì đạt tới Niết bàn, nếu không y theo thì không đến, đâu phải lỗi tại ta.

Ðó là người cùng pháp sai. Như chúng ta học kinh Bát Nhã, nếu ứng dụng đúng theo lời Phật dạy, luôn luôn dùng trí Bát nhã quán chiếu thì đâu có khổ. Nghe giảng thì hiểu, nhưng chúng ta có bịnh hay quên, lúc quên thì phiền não dấy lên, lỗi tại chúng ta chứ đâu phải tại lỗi tại Phật.

Pháp do người thành bịnh, vì người hiểu lầm lời Phật dạy, thực hành không đúng nên thành bịnh. Có một nữ Phật tử đi chùa, nghe quý thầy giảng về lý nhân quả:

– Ai ở đời này khổ là do đời trước tạo nhân ác, ai gặp may mắn vui vẻ là do nhân đời trước làm lành.

Một hôm có người ăn mày vô nhà cô Phật tử ấy xin, cô bảo người làm đuổi ra không cho. Người làm hỏi:

– Tại sao cô đi chùa mà không có lòng từ bi bố thí cho người nghèo khổ?

Cô đáp:

– Tại kiếp trước ông ấy gieo nhân ác, bây giờ để ông ấy khổ bù lại tội khi xưa, cho làm chi, ông trả quả không xong.

Người hiểu lý nhân quả và thực hành như vậy là sai. Vẫn biết rằng người làm ác là gặt lấy quả khổ, đó là phần của họ. Còn chúng ta là Phật tử đã học lý nhân quả, tại sao thấy họ khổ không khởi lòng từ bi cứu giúp? Nếu gieo nhân lành thì sẽ hưởng quả tốt chứ có mất mát đi đâu? Cô Phật tử lý luận như vậy là hiểu lầm lời Phật dạy, hay muốn che đậy tâm bỏn sẻn của mình? Vậy ai là người hiểu pháp sai hãy tự kiểm điểm lại.

Vì thấy những tệ trạng trên, nên ngài Khuê Phong với lòng từ bi tha thiết, muốn làm lợi ích cho người, ngài đã quên thân mạng, nghiên cứu rút gọn ý chỉ của Phật trong Tam tạng để chỉ bày thế nào là giới, định, huệ cho người đốn ngộ khởi niệm tu. Ngài làm vậy là để chứng minh lời Phật nói không khác với ý Tổ. Phật và Tổ dù cách bao nhiêu kiếp, dù có khác ngôn ngữ, nhưng ý chỉ không khác.

– Ý có gốc ngọn, tùy đó chỉ bày nhưng văn mênh mông khó tìm. Người học rộng tuy nhiều, kẻ vững chí rất ít. Huống là dẫm chân lên danh tướng ai hay phân biệt vàng thau, luống tự nhọc nhằn chưa thấy được cơ cảm.

Ý của Phật Tổ nói có gốc ngọn đàng hoàng, nhưng văn từ quá nhiều, người học đạo khó tìm ra manh mối. Người đa văn thì nhiều, kẻ vững chí tu hành thì ít. Người đa văn chỉ học trên danh tướng nên không thể phân biệt cái nào gốc, cái nào ngọn để tu hành, cứ mò mẫm trong Tam tạng giáo điểm rất nhọc nhằn mà không có chút phần tương ưng.

– Tuy Phật nói: “Bi tăng là hành”, nhưng tôi tự lo ái kiến khó ngừa, bèn bỏ chúng vào núi tập tu định huệ, trước sau bặt nghĩ, tính ra có mười năm.

Tuy nghe đức Phật nói lòng từ bi tăng trưởng mà phát ra hành động. Ngài Khuê Phong mới giải ngộ đã ra giảng dạy giáo hóa người. Nhưng ngài e rằng Ái kiến khó ngừa nên ngài bèn bỏ chúng vào núi tu tập định huệ hết mười năm.

Bệnh ái kiến là sao? Ví dụ tôi phát tâm dạy hai ba chục thiền sinh. Trong số đó chú nào có tánh tình dễ thương tôi thương nhiều, mấy chú kia tôi thương ít. Sự thiên lệch đó là ái kiến. Cũng như các Sư cô nuôi mấy em mồ côi, ban đầu nuôi chúng vì lòng từ, nhưng nuôi lâu thấy đứa nào kháu khỉnh đễ thương thì thương như con. Lúc đó lòng từ bi đã biến thành ái kiến. Từ bi thì hợp với sự tu hành, nhưng ái kiến là bệnh nên phải ngừa.

Ngài Khuê Phong, trước vì lòng từ bi ra giảng dạy cho người bớt đấu tranh với nhau. Ngài đã giải ngộ rồi còn sợ làm một lúc sanh bệnh ái kiến, nên phải bỏ chúng vào núi để tu cho tâm lặng hết các vọng tưởng, tính ra đến mười năm. Chúng ta thấy người xưa hết sức dè dặt, lượng được khả năng của mình là lo ngừa trước, chứ không phải như chúng ta bây giờ, đạo lực chưa tới đâu, kiến giải còn nông cạn mà lo giáo hóa người này, dạy dỗ người kia, ra vẻ ta đây là thầy thiên hạ chỉ là bịnh.

– Tình tập vi tế khởi diệt rõ ràng nơi định huệ, pháp nghĩa sai biệt la liệt thấy trong tâm không ánh sáng chiếu qua kẻ hở thấy bịu bặm lăng xăng, hồ nước lóng trong nhìn dưới đáy thấy hiện hình vạn tượng.

Khi tu, tâm được thanh tịnh rồi thấy rõ ràng những vọng tưởng nhỏ nhiệm khởidiệt lăng xăng, như ánh sáng chiều qua kẽ hở thấy bịu bặm lăng xăng. Ánh sáng dụ cho định huệ, buị bặm dụ cho vọng tưởng nhỏ nhiệm. Tâm chưa yên chúng ta chỉ thấy được vọng tưởng thô, khi tâm thanh tịnh rồi mới thấy được những vọng tưởng vi tế lăng xăng. Chẳng khác nào mặt biển khi gió dừng, những lượn sóng to đã hết, nhưng những lượn sóng nhỏ lăn tăn vẫn còn. Và khi tâm đã thanh tịnh thì đọc kinh sách là hiểu và hiểu rất rành rẽ chính xác, không còn ngờ vực điều gì nữa. Nghĩa lý sai biệt hiện bày rõ ràng.

Nói về Phật Tổ cách xa, quý vi hơi khó tin, căm cứ nơi tôi mà nói thì rất gần gũi với quý vị. Nếu đem so sánh sở học của tôi vớicác thầy, bè bạn, thì tôi thua nhiều vì tôi học ít lắm, chỉ học có mười năm ở Việt Nam, còn thầy Huyền Vi, thầy Thiền Ðịnh ngoài mười năm chung học với tôi, các thầy đi Ấn Ðộ, Nhật Bản học năm mười năm nữa. So sở học, hai thầy ấy hơn tôi hai ba lần. Nhưng tại sao bây giờ tôi dám ra giảng kinh luận và chỉ dạy cho quý vị tu? Vì tôi nhờ có một giai đoạn ngồi yên để tu, có tu thì tâm mới thanh tịnh và thấy được những cái dốt của mình. Ngày xưa, khi giảng kinh Kim Cang đến chỗ Tam luân không tịch, Phật dạy kẻ bố thí không thấy mình là người hay thí, kẻ khác là người thọ thí và không thấy vật đem ra bố thí. Tôi lắc đầu than :

– Kinh Ðại thừa dạy cao siêu khó tu quá, tu không được thì làm sao thành Phật.

Tôi bị bế tắc ngay đó. Tôi nghĩ kinh Ðại thừa chi để trên gác thờ lạy thôi, chứ không áp dụng tu được. Lúc đó tôi lại thân cận với Thượng tọa Minh Châu. Thượng tọa đưa cho tôi bộ A Hàm để đọc, tôi thích quá và nghĩ rằng:

– Mình nên áp dụng kinh A Hàm tu theo Tiểu thừa, chớ áp dụng kinh Ðại thừa nói không hiểu và làm cũng không được.

Sau nhập thất tu, tôi sáng ra và nhận thấy rằng kinh Ðại thừa là quí báu, Phật dạy bố thí với tinh thần Tam luân không tịch là khi bố thí không thấy có mình, không có người, không thấy có vật. Tức là dùng trí huệ Bát nhã quán chiều năm uẩn tự tánh là không, thì thân năm uẩn là không, vật do tứ đại giả hợp mà có nên tự tánh cũng không. Quán chiếu như vậy, ba điều không tịch chớ không phải thấy bằng mắt thịt, thấy có ta, người và vật. Mắt thấy có hình tướng rõ ràng, làm sao gọi là không tịch? Cho nên tôi nói:

– Chủ trương của tôi là ngu dân.

Nghĩa là phải bỏ hết mọi kiến thức. Ngồi gạn lọc những cặn bả của tự tâm khi yên lặng chúng ta sẽ phát minh ra những cái mới, và hết những ngu dốt của chúng ta khi xưa. Sau này khi ra giảng kinh Kim Cang, tôi lạy Phật sám hối những ý nghĩ ngu ngốc của tôi ngày xưa đã cho kinh điển Ðại thừa là vô dụng.

Sở dĩ dẫn chứng trường hợp của tôi là để quý vị thấy lời ngài Khuê Phong nói là chân lý. Khi tâm chúng ta thanh tịnh, dù có nói thế gian pháp cũng thành Phật pháp. Người sống được với trí huệ thì sự nhận định, nói năng hay làm việc của họ rất chính xác không lầm lẫn. Tâm thanh tịnh cũng như hồ nước lặng trong, muôn hình vạn tượng đều hiện rõ ràng. Như câu chuyện của Hòa thượng ở Phú Yên tôi đã kể trong đoạn trước, khi tâm ngài thanh tịnh rồi, muốn biết là biết liền, biết rất chính xác. Còn chúng ta vì vọng niệm quá nhiều, phủ che chơn tánh nên có khi việc đến trước mắt mà nhận định cũng sai lầm.

– Ðâu có thể so với kẻ tu thiền say mê giữ không yên lặng, người huệ điên cuồng chỉ tìm trong văn nghĩa.

Có nhiều người ham tu, nghe nói tu thiền là giữ tâm yên lặng, họ ngồi thiền cứ giữ tâm không ngơ, không biết cái gì hết, đó là thiền si mê. Vì sao? Vì thiền chủ trương yên lặng mà biết, chứ yên lặng mà không biết là rơi vào không ngơ. Tôi ví dụ như có người bỏ nhà đi hoang đã lâu, quên đường về nhà, nay dò dẫm tìm được đường về, nhưng lại quên số nhà, khi đến trước cổng mà vẫn không dám vô nhà. Biết đường về nhà mà quên số thì dù có tới nhà vẫn không vào được trong nhà. Nếu nhớ số nhà thì tới cửa biết chắc đây là nhà của mình, bấm chuông cửa mở và an nhiên bước vô nhà không ngại gì hết. Cũng vậy, khi chúng ta ngồi thiền, biết vọng tưởng dấy lên là che đậy tâm tánh, khi vọng tưởng lắng xuống biết đó là chơn tánh sáng suốt hiện bày. Trong nhà thiền thường nói:

– Do cửa không mà vào được trong nhà và thấy ông chủ.

Như vậy, đồng thời tu thiền nếu người giữ tâm không vọng tưởng, nhưng không biết gì ấy là “thiền si mê”. Còn người vọng tưởng không khởi nhưng thường biết rõ ràng ấy là giác. Nếu tu lệch một tí là sai tông chỉ. Cho nên, học đạo là phải có thầy, kẹt chỗ nào vị thầy ấy khai thông cho. Còn không, tu riết rồi lạc, hoặc thối chí ngã lòng. Người nào đi sâu vào thiền định mới thấy rõ chỗ này.

Lại có người tu thiền khi nghe giảng, hoặc xem kinh Phật, thấy câu nào hay rồi ghi nhớ, tới giờ ngồi thiền đem ra suy nghĩ, nghiền ngẫm hoài. Hoặc phát minh điều gì mới lạ, rồi viết lách giải thích, đó là huệ điên cuồng, không bao giờ thấy được Phật tánh, Vì cứ lo tìm trong văn nghĩa, làm sao thấy được chơn tánh bất sanh bất diệt của mình?


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.