Sau mười năm chinh chiến, Alexander đã trở thành hoàng đế của đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thời đó. Đúng như ngài đã nói với tôi: “Achilles chưa từng thua trận nào” và ngài cũng vậy. Trải qua hàng trăm trận đánh lớn nhỏ, ngài trở thành quân vương bách chiến bách thắng trên sa trường. Ngay cả khi đối đầu với lực lượng quân thù đông gấp nhiều lần, ngài vẫn có thể giành chiến thắng. Ngài chiến thắng không chỉ vì biết dùng chiến lược sắc bén, tài tình mà còn vì ý chí kiên định và tinh thần quả cảm, không sợ hãi bất cứ kẻ thù nào. Trận đánh nào, Alexander cũng dũng mãnh xung phong lên trước, tướng đấu với tướng, bất chấp làn tên mũi giáo, truyền cảm hứng cho toàn quân sĩ quyết chiến với kẻ thù. Do đó, trên cơ thể ngài chằng chịt những vết sẹo do gươm giáo quân thù để lại. Khi luyện tập cùng binh sĩ, ngài không ngần ngại cởi trần cho họ thấy những vết sẹo trên người mình. Điều này càng làm cho binh sĩ thán phục và hết lòng theo ngài chiến đấu.
Sau sự việc Cassander đến Babylon không lâu, Alexander nhận được công văn của Harpalus báo cáo rằng ngân khố tại Pella chỉ còn khoảng 1.500 ta-lăng vàng dự trữ, và nếu không tìm thêm vàng thì triều đình khó có thể duy trì lực lượng quân đội đông đảo như thế. Việc này khiến Alexander vô cùng tức giận vì ngài nghi ngờ đã có sự gian lận trong việc quản lý ngân khố triều đình Pella, nhưng chưa rõ thủ phạm. Ngài biết rằng sau cái chết của Philotas và Parmenion cũng như việc sỉ nhục Cassander thì sẽ khó có thể gọi Antipater đến Babylon để thẩm vấn. Ngài cũng lo ngại nếu quá mạnh tay xử lý có thể gây chia rẽ hay nổi loạn tại chính quê hương mình. Do đó, ngài bàn với Timotheus về việc cho giải ngũ một số binh sĩ để cắt giảm chi phí. Timotheus đề nghị cho thu thuế từ các vùng đất đã chinh phục nhưng Alexander ngần ngại vì trước đây ngài đã hứa cho các thống đốc địa phương được giữ lại tiền thuế. Hiện nay, đế quốc của ngài chỉ vừa thành lập, chưa hoàn toàn yên ổn, ngài không muốn thực hiện những thay đổi có thể dẫn đến tình trạng xáo trộn.
Trong lúc nhà vua vẫn còn chưa tìm được giải pháp thì vài hôm sau Mazaeus đưa vào triều một lái buôn người Ba Tư. Người này cho biết đoàn thương buôn của họ thường đi theo con đường mòn vượt qua rặng Hindu Kush để trao đổi hàng hóa với các vương quốc nằm ở phía Đông rặng núi, đó là những vương quốc rất giàu có, đất đai trù phú, đời sống cư dân thịnh vượng với rất nhiều vàng bạc, châu báu. Alexander vô cùng kinh ngạc trước điều vừa nghe, vì mọi tài liệu từ trước đều ghi rằng dãy Hindu Kush chính là nơi tận cùng của thế giới. Ngay như Vua Cyrus cũng chỉ chinh phục Bactria, xứ sở cận Hindu Kush và dừng quân tại đó, không đi xa hơn. Nếu quả thật dãy núi kia vẫn chưa là tận cùng thế giới và bên kia là những vùng đất mới thì ngài nhất định phải khám phá. Alexander lập tức ra lệnh cho người tháp tùng đoàn lái buôn, đi theo con đường đó để nghiên cứu và vẽ bản đồ thật chi tiết. Từ đó, ngài không ngừng suy nghĩ về một cuộc chinh phục mới. Ngài nói với Timotheus:
– Nếu Bactria và rặng Hindu Kush không phải là nơi tận cùng thế giới thì ta phải đi đến cùng để khám phá, mở mang bờ cõi cho đế quốc của mình.
Vài tháng sau, Alexander nhận được báo cáo đầy đủ về con đường mòn (Khyber Pass ngày nay) cùng với bản đồ chi tiết về cách vượt qua rặng núi này. Alexander lập tức chuẩn bị quân đội cho một cuộc viễn chinh mới. Ngài triệu tập một số tướng lĩnh như Ptolemy, Antigonus đưa quân đến sáp nhập vào đội quân viễn chinh và phong cho Perdicas làm phó chỉ huy quân đội, Hephaestion làm chỉ huy kỵ binh. Ngài cũng ra lệnh cho tôi và Philiteus trở về Pella để chuyển vàng bạc trong ngân khố về Babylon. Ngài nói với tôi:
– Kyros, ngươi cứ lo việc đúc tiền cho đầy đủ. Khi ta chinh phục các vương quốc kia xong, sẽ còn mang về rất nhiều vàng nữa.
Chuyến công vụ trở về Hy Lạp lần này không còn khiến tôi hăng hái như trước. Nghĩ về cuộc viễn chinh kéo dài tại những nơi xa xôi kia, tôi không khỏi lo ngại và tự hỏi không biết đến bao giờ thì chiến sự triền miên này mới chấm dứt? Tôi nghĩ đến Philotas và câu hỏi của anh: “Nếu cuộc chiến cứ tiếp diễn như vậy, biết bao giờ chúng ta mới được trở về Hy Lạp?”.
Thật vậy, tôi thấy nhiều binh sĩ Macedonia đã mệt mỏi với cuộc chiến kéo dài quá lâu này. Phải chăng tham vọng làm bá chủ thế giới đã làm lu mờ mục đích ban đầu của nhà vua trẻ? Phải chăng men chiến thắng đã khiến Alexander trở nên kiêu căng, tự mãn, dẫn đến cái chết của Philotas và Parmenion? Phải chăng chỉ vì không chấp nhận việc pha trộn văn hóa Hy Lạp và Ba Tư mà Cleitus bị giết? Tôi ngậm ngùi nghĩ đến kết cục của những người vừa là bạn vừa là bầy tôi trung thành của Alexander kia. Bao nhiêu chiến công hiển hách của họ dường như cũng không đủ thỏa mãn tham vọng của vị Đại đế. Có lẽ, khi quyền lực đạt đến một mức nào đó, bất cứ ai cũng có thể trở nên độc đoán, tham lam và không bao giờ biết đủ. Một lần nữa, tôi lại nghe văng vẳng trong đầu lời thi sĩ Homer đã nói trong sử thi Iliad, không ai đi qua chiến tranh mà vẫn như xưa.
Khi đó, tôi chỉ biết cảm thán cho những người đã bị chiến tranh mài mòn, thậm chí lấy đi tính mạng, mà không biết rằng lần này tai họa sẽ ập đến với mình. Khi vừa đặt chân đến Athens, tôi bất ngờ bị bắt giam vì ai đó đã tố cáo tôi làm thâm hụt ngân quỹ. Người đứng ra tố cáo là Deasius, chồng của Isidora, hiện đang thay mặt Dimitris trông coi kho bạc của triều đình. Tôi bị giam vào ngục và bị tra tấn tàn nhẫn để bức cung về việc tôi cất giấu vàng bạc ở đâu. Nhưng dĩ nhiên vì tôi không làm việc này nên tôi không có gì để khai nhận. Tôi chỉ biết ngân khố bị thiếu một số vàng, điều này đã được báo cáo lên Hoàng đế Alexander nhưng tại sao người bị buộc tội lại là tôi? Mọi sổ sách chi thu đều được Dimitris xem xét cẩn thận. Từ trước đến nay, ông chưa hề phát hiện sự nhầm lẫn nào trong các sổ sách do tôi làm. Ông thường khen tôi làm việc chu đáo và tin tưởng khả năng tính toán chính xác của tôi thì tại sao hôm nay xảy ra cớ sự này?
Mấy hôm sau, tôi được đưa ra trước mặt hội đồng nghị viện Athens do Harpalus và Demosthenes làm chủ tọa. Deasius hùng hồn lên án tôi:
– Từ bao năm nay, mọi việc chuyên chở vàng từ Ba Tư về Pella đều do Kyros trông nom. Việc chi thu vàng bạc để đúc tiền làm quân lương cũng do chính hắn ta kiểm soát, sổ sách cho ngân khố cũng do chính tay hắn làm. Hiện nay, ngân quỹ thiếu một số vàng không nhỏ. Từ trước đến nay chỉ có mình hắn trông nom và kiểm soát tất cả, không phải hắn là thủ phạm thì còn ai vào đây nữa?
Quá oan ức, tôi lên tiếng bào chữa:
– Tất cả việc thu chi đều có sổ sách ghi chép. Các thùng vàng vận chuyển từ Ba Tư về đều được niêm phong rất cẩn thận. Khi về đến Pella, chính ngài Dimitris đã kiểm tra, xác nhận trước khi chuyển vào ngân khố. Việc đúc tiền và khí giới, tất cả cũng đều thông qua ngài…
Deasius quát lớn để ngắt lời tôi:
– Ngươi không thể đổ lỗi cho ai được. Mọi việc chi thu đều do ngươi kiểm tra, giám sát. Dimitris đối đãi với người tử tế như thế mà người đã lợi dụng lòng tốt của ông ấy để mưu cầu lợi ích cho riêng mình. Tội này phải xử thật nghiêm.
Harpalus cũng lên tiếng:
– Ta đã xem tất cả hồ sơ chuyển vận và sổ sách chi thu nhưng thấy có nhiều chỗ không rõ ràng, có những con số đã bị sửa đổi. Chắc chắn đã có việc gì đó mờ ám. Ngươi giấu vàng ở đâu thì phải khai ra ngay, nếu không đừng trách bọn ta nặng tay.
Tôi lập tức phản đối:
– Sao lại có chuyện như thế được? Từ trước đến nay sổ sách luôn luôn minh bạch. Lần nào ngài Dimitris cũng xem kỹ và hài lòng. Tôi đã làm việc này hơn mười năm, không hề có sơ sót nào. Làm gì có việc mờ ám. Không tin các ông cứ hỏi ngài Dimitris, ngài vốn là người kiểm soát và chịu trách nhiệm mọi thứ…
Deasius cười gằn:
– Ngươi giỏi lắm, lại còn đổ tội cho người đã chết.
Deasius vừa nói gì kia? Dimitris đã qua đời ư? Tôi không dám tin vào tai mình, lắp bắp hỏi lại:
– Cái gì… ngài .. đã qua đời ư?
Đột nhiên, từ trong đám đông, Isidora bước ra chỉ thẳng vào mặt tôi:
– Kyros, tên nô lệ khốn kiếp! Ngươi chỉ là một nô lệ thấp hèn nhưng cha ta đã đối đãi với ngươi quá tử tế. Cha ta không những đã nuôi nấng, dạy dỗ ngươi mà còn tin tưởng giao trọng trách cho ngươi. Không ngờ ngươi đã làm chuyện sai trái, đã lấy trộm vàng lại còn đổ lỗi cho cha ta, một người đã chết, không thể biện bạch được. Lòng tốt của cha ta đã đặt lầm vào một kẻ vô ơn bạc nghĩa như ngươi.
Isidora vừa khóc vừa kể lể, bóc trần thân thế nô lệ của tôi, xung quanh mọi người bắt đầu xầm xì mắng chửi tôi thậm tệ. Lời buộc tội bất ngờ của Isidora khiến tôi đau đớn vô cùng, cổ họng nghẹn lại, không thốt lên nổi lời nào. Mỗi câu nói của cô như từng nhát gươm đâm vào tim tôi, đau buốt. Tôi không ngờ người tôi thầm yêu trộm nhớ trong bao năm nay lại có thể nói ra những lời nặng nề như thế. Tôi gục mặt trong tủi nhục vì những lời “tên nô lệ”, “kẻ vô ơn” đã làm tôi quá đau đớn. Tôi cũng quá bàng hoàng vì Dimitris đã qua đời. Tôi biết cái chết của Leonidas, đứa con trai duy nhất, đã làm ông đau khổ và lâm bệnh, nhưng việc ông qua đời quả là một cú sốc với tôi.
Tôi ngước lên nhìn Isidora muốn lên tiếng nhưng không sao nói được lời nào. Isidora bước đến nhổ một bãi nước bọt thẳng vào mặt tôi, gằn giọng:
– Tên nô lệ khốn kiếp kia, ta không ngờ ngươi có thể hèn hạ, đốn mạt như thế. Dám đổ tội cho người đã nuôi nấng ngươi… Đi chết đi!
Nói xong, Isidora quay ngoắt đi, vừa đi vừa sụt sùi khóc khiến mọi người chung quanh đều thương cảm và càng bất mãn với kẻ tội đồ là tôi. Chủ tịch nghị viện Desmothenes bước ra:
– Kyros, ngươi còn gì muốn nói nữa không?
Tôi vẫn choáng váng vì hành động sỉ nhục bất ngờ của Isidora nên không thể nói gì. Thấy tôi im lặng, Demosthenes cười nhạt, rồi bằng giọng hùng hồn của người đã quen diễn thuyết trước đám đông, ông ta đưa ra những lý lẽ đanh thép về việc tôi là người duy nhất kiểm soát vàng bạc trong ngân khố cũng như sổ sách chi thu, rồi đặt câu hỏi, ngoài tôi ra, đâu ai biết về số vàng trong kho nhiều ít thế nào? Trong bao năm, ngân quỹ đã bị thất thoát đến mức nào cũng không ai biết, chỉ đến khi Harpalus điều tra thì mới khám phá ra sự thiếu hụt… Tôi là người duy nhất biết rõ số vàng thu chi bao nhiêu, là người duy nhất mang vàng đi đúc tiền, rồi tôi là người mang tiền đi phát lương cho binh sĩ, mọi việc thừa hay thiếu chỉ mình tôi biết. Việc thâm hụt, sửa đổi toàn bộ sổ sách chi thu cũng chỉ có tôi làm được, ngoài ra không còn ai. Cuối cùng, Demosthenes kết luận tôi chính là thủ phạm. Hắn nói thêm, mặc dù đã bị tra tấn nhưng tôi vẫn không khai đã giấu vàng ở đâu nên đề nghị tuyên án tử hình. Toàn thể hội đồng đều giơ tay bỏ phiếu đồng thuận. Demosthenes ra lệnh cho thi hành án ngay để làm gương cho dân chúng. Mặc dù hoang mang về biến cố bất ngờ và cái chết của Dimitris cùng những câu nói nặng nề của Isidora, nhưng tôi cũng kịp bừng tĩnh và phẫn nộ vì sự kết án vội vã như thế. Tôi vùng đứng dậy, định phản đối thì may thay, Philiteus đã bước ra:
– Khoan đã, việc này phải do Hoàng đế Alexander phán quyết. Tội trạng của y sẽ được ghi nhận nhưng án lệnh phải do chính nhà vua quyết định.
Demosthenes lắc đầu:
– Lúc này Hoàng đế Alexander đang bận việc ở xa. Tại đây mọi việc đều do nghị viện quyết định. Chúng ta đã bỏ phiếu, phải thi hành ngay.
Philiteus tức giận hét lớn:
– Athens không phải là triều đình. Nếu muốn, phải đưa Kyros về Pella cho Antipater xét xử. Y là người của quân đội thì phải bị xét xử theo quân pháp. Nghị viện dân sự của các ông không có quyền gì trong việc này.
Tuyên bố dõng dạc của Philiteus khiến mọi người trong nghị viện giật mình. Thấy nghị viện có vẻ nao núng, Harpalus lên tiếng:
– Ta đã được Hoàng đế ủy thác xử lý việc này. Ta đã điều tra, so sánh sổ sách giữa Babylon và Pella, tìm ra chỗ thất thoát. Ta hoàn toàn có quyền thi hành án lệnh này.
Philiteus chăm chú nhìn Harpalus rồi cười gằn:
– Nhưng ta cũng là người có trách nhiệm trong việc này. Nếu Kyros có tội thì ta cũng có quyền quyết định. Ta đề nghị mang Kyros về Pella để Antipater xét xử. Số phận người Macedonia không thể để Athens quyết định được. Ta không chấp nhận việc đó.
Câu nói của Philiteus chạm vào điều nhạy cảm trong mối quan hệ giữa hai miền. Từ xưa đến nay, dân Athens và Macedonia vẫn không ưa nhau. Công cuộc thống nhất Hy Lạp của nhà vua trẻ xứ Macedonia đã làm dân Athens bất mãn. Do đó, mặc dù nghị viện đã bị triều đình giới hạn quyền lực nhưng dân Athens vẫn cố gắng duy trì quyền tự trị bằng cách tiếp tục họp nghị viện để điều hành mọi việc. Tuy nhiên, việc mang một người Macedonia, lại còn là người dưới trướng của Alexander ra xét xử và tuyên án tử hình thì có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Không ai biết được vị Đại đế từng Nam chinh Bắc phạt này sẽ làm gì, vì tấm gương thiêu hủy xứ Thebes, bắt dân chúng bán làm nô lệ vẫn còn in hằn trong tâm trí dân chúng và nghị viện Athens. Tuy Harpalus được giao trách nhiệm điều tra việc này nhưng hắn chỉ là quan hành chính, trong khi Philiteus là người chỉ huy quân đội, có thể gây áp lực nếu nghị viện không tuân lệnh. Nhờ sự can thiệp của Philiteus, việc xét xử được tạm hoãn và tôi bị giải về Pella.
Trên đường đi, Philiteus đến gặp riêng tôi, anh nói:
– Tôi thấy việc này có gì không ổn. Tại sao chúng vội vã đổ lỗi và kết tội cậu ngay như thế? Chắc phải có nguyên nhân ám muội nào đó. Tôi sẽ báo cáo ngay với Alexander để ngài can thiệp vào việc này.
Mặc dù làm quan nhiếp chính cai quản Hy Lạp, đặt bản doanh tại Athens, nhưng Antipater bận đối phó với sự nổi dậy đòi độc lập của các tiểu quốc quanh đó nên không mấy khi có mặt tại đây. Ngay tại Pella, ông và Hoàng thái hậu Olympias cũng không ưa nhau nên ông thường tránh mặt, giao mọi việc cho các quan trong triều lo liệu. Những người này thì mãi say sưa trong men chiến thắng, chỉ biết tiệc tùng, vui chơi, hưởng thụ các chiến lợi phẩm mang về như vàng bạc, rượu thịt và phụ nữ, nên không ai để ý đến việc triều chính nữa. Triều đình Pella đẩy trách nhiệm cho nghị viện Athens và Athens thì đẩy trách nhiệm cho triều đình Babylon nên mọi việc đều trì trệ, không ai muốn quyết định gì khi không có mặt Alexander.
Khi Philiteus rời Pella về Ba Tư, tôi nghĩ vụ án của mình có thể được giải quyết trong vòng vài tháng. Thế nhưng triều đình Pella lại quyết định phải để cho Alexander xét xử, trong khi nhà vua bận chinh chiến liên miên nên việc giam cầm tôi dần trôi vào quên lãng. Tôi sống trong ngục tại Pella hơn hai năm mà không nghe thêm tin tức gì. Thời gian tại đây là một chuỗi ngày đằng đẵng vô cùng cay đắng, mặc dù tôi không bị đánh đập hay đối xử tàn tệ như tại Athens.
Đây cũng là lúc tôi nghĩ nhiều hơn về thân phận nô lệ của mình. Trong bao năm, khi đảm nhiệm những công vụ của triều đình, không ai biết gì về thân thế của tôi. Giống như Leonidas, các tướng lĩnh như Perdicas, Ptolemy, Antigonus, Philotas, Hephaestion và ngay cả Alexander đều coi tôi như bạn. Chúng tôi thường uống rượu, ca hát say sưa với nhau nên tôi cũng vô thức tự coi mình như người Macedonia tự do, không thường nghĩ đến thân phận nô lệ của mình nữa. Khi ra xét xử trước nghị viện, nghe lời mắng nhiếc, kết tội của Isidora, tôi đau đớn nhận rằng dù sống cùng nhà từ nhỏ, chơi đùa rồi lớn lên cùng nhau nhưng dưới mắt Isidora, tôi vẫn chỉ là một nô lệ hèn kém. Mẹ tôi là người trông nom chăm sóc những đứa con của Dimitris đến khi lớn khôn, Isidora là một trong số đó. Nay, người con gái từng lớn lên cùng tôi đó lại có thể thốt ra những lời vô tình đến vậy. Từ xưa đến nay, Sophia và Leonidas đều đối xử tử tế với tôi nhưng Isidora thì lại khác, cô giữ khoảng cách với tôi, chưa từng đối xử với tôi như một người cùng đẳng cấp, nói gì đến việc hiểu được tình cảm mà tôi dành cho cô bao năm qua. Vậy mà tôi đã từng ao ước rằng một ngày nào đó có thể nhờ công trạng với Alexander, tôi sẽ xin được trả tự do và sẽ xin cưới cô làm vợ…
Hôm đó, tôi đang nằm suy nghĩ mông lung thì cửa ngục mở ra, Simonides và Philiteus bước vào. Đã lâu không gặp nhau, tôi ngạc nhiên thấy Simonides nay trông đen đủi, khắc khổ, râu ria rậm rạp, khác hẳn khi xưa. Simonides sốt sắng lên tiếng:
– Kyros, Kyros ơi! Tôi rất tiếc khi cậu phải ở trong ngục quá lâu thế này. Tôi theo đoàn viễn chinh đi xa, vừa mới trở về. Nhận tin Philiteus báo, Đại đế Alexander đã ra lệnh điều tra ngay. Mấy tuần qua, tôi đã xem xét mọi việc. Tôi có đủ bằng chứng rằng tên Deasius và đám quan chức trong nghị viện Athens đã bòn rút vàng trong kho rồi đổ tội cho cậu. Tên Harpalus cũng liên quan đến việc này nữa. Alexander ra lệnh bắt chúng giải về Babylon nhưng tin tức lọt ra thế nào mà chúng đã trốn thoát. Hiện nay, triều đình đang truy nã chúng. Biết cậu vẫn ở trong tù nên tôi và Philiteus vội đến đây. Hôm nay, tôi phải vào báo cáo cho Antipater việc truy bắt đám phản loạn đó. Philiteus sẽ đưa cậu về nhà nghỉ ngơi ít hôm, rồi chúng ta sẽ gặp nhau sau. Chúng ta phải uống một bữa thật say bù cho mấy năm nay cậu không được uống rượu.
Vui mừng vì được minh oan, nhưng tôi lo lắng cho Isidora hơn. Tôi sốt ruột hỏi ngay:
– Deasius trốn thoát, còn Isidora thì sao?
Simonides nói:
– Tôi đã cho khám xét nhà của bọn chúng và tìm được dấu vết chúng từng chôn giấu vàng trong nhà. Tuy nhiên, tin tức bại lộ nên cả gia đình Deasius và Harpalus đã lên thuyền trốn ra khơi. Hiện nay, không biết chúng trốn ở đảo nào nhưng trước sau gì chúng ta cũng sẽ bắt được chúng.
Tôi bùi ngùi, không nói nên lời. Tuy được phóng thích nhưng tôi thấy buồn vui lẫn lộn. Sau đó, tôi theo Philiteus trở về trang trại của Dimitris, trên đường đi, cậu ta kể:
– Khi cậu bị bắt giam thì tôi có gặp Melissa. Biết cậu ở trong tù nên cô ấy nhờ tôi mang một lá thư cho người vợ sau của Leonidas. Melissa yêu cầu tôi đưa Yasamin về đây cho mẹ con họ đoàn tụ.
Tôi ngạc nhiên:
– Thật vậy sao? Rồi cậu có…?
Philiteus gật đầu, kể tiếp:
– Khi đến Babylon, tôi tìm gặp Yasamin và thấy hoàn cảnh của cô ấy rất đáng thương, vì Leonidas đã qua đời, không ai nương tựa, nên Yasamin đành trở lại làm vũ công cho đoàn hát như trước. Chắc cậu cũng biết, vũ công trong các đoàn hát phải bán mình cho đám lính đồn trú để kiếm sống thì cuộc sống có tốt đẹp gì đâu.
Tôi vội vã hỏi ngay:
– Vậy hiện nay Yasamin ở đâu?
Philiteus trả lời:
– Tôi bỏ tiền để chuộc cô ấy ra và đưa về đây. Khi Dimitris qua đời, trang trại này thuộc về Melissa. Hiện nay, Yasamin và đứa con của Leonidas đang sống với Melissa tại đó. Melissa trở thành người mẹ thứ hai của đứa bé.
Chúng tôi dừng ngựa trước cổng trại. Bao năm tháng trôi qua nhưng trang trại của Dimitris vẫn giữ nguyên dáng vẻ của ngày xưa. Tôi ngậm ngùi bước theo con đường mòn dẫn đến khu nhà chính mà chúng tôi từng sống, những kỷ niệm thơ ấu lần lượt kéo về. Mười năm chinh chiến đã thay đổi nhiều thứ. Leonidas và Dimitris đã thành người thiên cổ. Sophia trở thành góa phụ khi Philotas bị giết. Isidora bị truy nã, không biết đang lẩn trốn nơi đâu. Trong trang trại này chỉ còn Melissa sống với Yasamin và Alberla, đứa con của Leonidas.
Chiều hôm đó, sau bữa ăn, tôi và Melissa đứng trên hành lang nhìn xuống khu vườn phía dưới. Khu vườn mà ngày còn nhỏ, tôi, Leonidas, Antigenidas, Melissa, Isidora và Sophia vẫn thường chạy nhảy nô đùa, chơi trốn tìm sau các hàng cây rậm rạp. Bao kỷ niệm êm đềm của thời niên thiếu vẫn hiện rõ trong tâm trí của tôi. Tôi im lặng, đắm chìm vào cảm xúc hoài niệm. Melissa nhìn tôi, nhẹ nhàng nói:
– Kyros, cậu đã giúp chúng tôi rất nhiều. Tôi không bao giờ quên ơn của cậu.
Tôi lắc đầu:
– Chúng ta đã là bạn từ thuở nhỏ, đó đều là việc tôi nên làm. Tôi chỉ hơi ngạc nhiên khi gặp Yasamin ở đây.
Melissa mỉm cười:
– Trước đây Yasamin không muốn đến đây nhưng tôi biết khi Antigenidas bắt Alberla mang đi thì cô ấy đau khổ vô cùng, bởi con bé là tất cả những gì cô ấy có. Tôi tự hỏi, liệu người phụ nữ yếu đuối kia có thể làm gì trong hoàn cảnh bất an, loạn lạc của chiến tranh khi không có người che chở, bảo vệ? Do đó, tôi đã nhờ Philiteus đưa cô ấy về đây.
Tôi gật đầu, thông cảm:
– Tôi hiểu, chính Leonidas cũng muốn như thế.
Melissa xúc động, im lặng một lúc, rồi nhẹ nhàng nói tiếp:
– Cậu biết không, nhận được tin Philiteus đã đưa được Yasamin về đây, tôi cũng bối rối lắm, mặc dù chính tôi đã yêu cầu Philiteus làm việc đó. Tôi đã suy nghĩ về việc này nhiều lần, không biết mình có quyết định đúng không? Tôi nghĩ, việc gì sẽ xảy ra nếu tôi oán hận người phụ nữ đã cướp chồng của mình? Tôi nên làm gì với người phụ nữ đã phá vỡ hạnh phúc gia đình tôi? Nhưng khi nhìn thấy người phụ nữ gầy gò, nhỏ bé kia từ trên xe bước xuống, hai tay của cô ấy bám chặt lấy thành xe, nửa muốn bước xuống, nửa ngần ngại lẫn sợ hãi, thì tôi hiểu ngay rằng trong khi tôi đang bối rối thì có lẽ người phụ nữ kia còn bối rối hơn nhiều. Tôi gọi tên cô ấy nhưng Yasamin vẫn run rẩy, không dám rời xe. Tôi bèn bước đến ôm lấy cô ấy vào lòng để cô đỡ sợ. Tự nhiên, cả hai chúng tôi đều òa lên khóc. Tôi biết đó là những giọt nước mắt cảm thông, thương yêu, xóa tan mọi sợ hãi. Tôi bỗng nghĩ: “Trong bao năm qua, lúc nào tôi cũng mong Leonidas trở về với mình. Bây giờ, chồng tôi có lẽ đã về nhà, hiện thân trong đứa trẻ và người phụ nữ mà anh ấy đã thương yêu này. Tôi muốn nói cho Leonidas biết rằng tôi sẽ chăm sóc, yêu thương Yasamin và đứa trẻ như khi xưa Leonidas đã yêu tôi vậy. Kyros này, yêu thương chân thật là yêu thương mà không mong cầu gì hết. Tình thương mang lại hạnh phúc cho người khác. Hiện nay, tôi thấy mình hạnh phúc hơn bao giờ hết. Trong bao năm qua, tôi đã sống cô đơn nên tôi hiểu cô đơn đáng sợ thế nào. Nhưng hiện giờ, tôi không còn cô đơn nữa. Tôi đã có hai người để yêu thương. Kyros ơi, cậu biết không, tôi đang dạy cho Alberla về âm nhạc. Nó có khiếu về âm nhạc như cha của nó. Lần sau, khi cậu ghé qua đây, nó có thể dạo những khúc Lydia tuyệt vời cho cậu nghe, giống như trước đây Leonidas đã dạo cho tôi nghe vậy.
Tôi xúc động không thốt nên lời. Kỷ niệm về những khúc Lydia dịu dàng, thanh thoát bên những người bạn cũ lại kéo về trong tâm trí. Tôi tự hỏi, làm sao một người có thể yêu thương như thế được…
Suốt đêm hôm đó, tôi trằn trọc mãi mà không ngủ được, cứ suy nghĩ về lẽ yêu thương mà Melissa đã nói. Có thật trên đời này tồn tại thứ tình yêu như thế? Tôi chập chờn cố dỗ giấc ngủ, trong mơ màng, tôi mơ hồ cảm thấy hình như tôi đã từng nghe ai đó nói về thứ tình yêu thương vô điều kiện như thế này rồi, nhưng không sao nhớ được là ai. Tôi tự hỏi, liệu tôi có thể yêu thương Isidora như thế không? Trong ngục, có lúc tôi đã oán hận Isidora vô cùng, nhưng cũng có lúc tôi tự trách mình không biết thân phận nô lệ mà mơ mộng với cao. Có lúc tôi ghen với Deasius vì hắn đã chiếm mất người trong mộng của tôi. Tôi tức tối vì Isidora chấp nhận lấy một kẻ góa vợ. Tôi suy nghĩ miên man rồi lại thấy lo lắng cho Isidora hơn bao giờ hết. Việc bòn rút ngân quỹ, thông đồng với nghị viện Athens trong lúc Alexander vắng mặt là một trọng tội. Với tính nóng giận thất thường của vị Hoàng đế, e rằng toàn gia của Deasius khó có thể tránh khỏi cái chết…
Hôm sau, Melissa rủ tôi và Philiteus đến thăm Sophia ở gần đó. Cô nói:
– Đã lâu lắm rồi cậu không gặp Sophia. Tôi vẫn thường qua lại với Sophia, chị ấy vẫn hỏi thăm cậu luôn. Được gặp lại cậu chắc Sophia mừng lắm.
Dimitris có hai người con gái, tuy Sophia là chị nhưng vì Isidora quá xinh đẹp, luôn được mọi người chú ý nên Sophia chỉ là bóng mờ so với cô em. Tính tình Sophia giản dị, dịu dàng và ít nói. Từ khi còn nhỏ, cô đã đóng vai người chị chăm lo cho các em bởi mẹ qua đời sớm. Mặc dù đã có mẹ tôi là người trông nom các con của Dimitris, nhưng Sophia đã sớm tỏ ra có trách nhiệm trong lúc chúng tôi – Isidora, Leonidas, Antigonidas và Melissa – vẫn ngây thơ, vô tư nô đùa.
Sophia ra đón chúng tôi trước cửa, đã lâu không gặp, trông cô khắc khổ hơn xưa rất nhiều. Tôi hiểu cái chết thương tâm của Philotas và Parmenion đã khiến cô đau khổ và già đi trước tuổi, vừa gặp nhau, Sophia đã nói ngay:
– Kyros, khi nghe tin cậu bị kết tội, tôi lo lắng vô cùng. Đến khi Philiteus báo tin là cậu vô can trong việc này, tôi mừng lắm. Cậu đã giúp cha tôi trong nhiều năm, công lao của cậu rất lớn. Trước khi qua đời, cha tôi đã làm giấy với triều đình để xóa bỏ thân phận nô lệ, trả tự do cho cậu. Từ nay, cậu có thể sống tại đây hay đi đâu tùy ý. Ngoài ra, cha tôi có để lại một thư riêng cho cậu và dặn kỹ chỉ được mở ra khi có mặt tôi và Isidora. Nhưng hiện giờ không ai biết Isidora ở đâu… Cậu có muốn mở thư ra xem bây giờ không?
Tôi vô cùng xúc động và biết ơn tấm lòng của Dimitris. Nhưng cũng thấy ngạc nhiên vì việc trả tự do cho nô lệ thì việc gì phải viết thư riêng hay dặn kỹ lưỡng như thế. Tôi trả lời ngay:
– Tôi muốn xem bức thư bây giờ.
Melissa nói:
– Kyros mở thư xem đi. Để tôi ra ngoài nói chuyện với Philiteus.
Sophia gạt đi:
– Melissa, em cũng là người của gia đình này. Sự hiện diện của em cũng như Isidora vậy. Kyros cứ việc mở thư đi.
Tôi nghĩ có lẽ lá thư đó sẽ nói về việc trả tự do cho tôi hoặc là những lời dặn dò của Dimitris với việc tính toán tiền bạc như khi xưa ông vẫn thường dạy bảo. Nhưng thật bất ngờ, trong lá thư, Dimitris xác nhận tôi chính là con ruột của ông. Ông viết rõ khi mẹ tôi qua đời mấy năm trước, bà đã yêu cầu ông cho tôi biết sự thật nhưng lúc đó ông vẫn ngần ngại. Chỉ đến khi nghe được tin Leonidas đã qua đời, ông mới đổi ý. Tôi choáng váng, ngồi phịch xuống ghế, không nói nên lời. Khi còn nhỏ, tôi đã từng nghe các nô lệ trong nhà bàn tán về việc này nhưng mỗi lần tôi hỏi thì mẹ tôi đều gạt đi. Theo thời gian, tôi được sống chung với gia đình của Dimitris, làm bạn với các con ông, nên tôi cũng dần quên, không nghĩ về chuyện đó nữa.
Thấy thái độ kỳ lạ của tôi khi đọc lá thư, Melissa và Sophia cùng cầm lá thư lên xem. Sophia ngạc nhiên, thảng thốt:
– Ôi! Kyros! Cậu cũng là người của gia đình chúng ta. Sao đến tận bây giờ cha mới nói ra sự thật này. Phải chi chúng ta biết sớm hơn thì hay biết bao.
Lúc đó, Philiteus vừa bước vào, Melissa liền nói với giọng xúc động:
– Philiteus, anh biết không? Kyros chính là con của Dimitris. Phải báo ngay cho Isidora về nhận người em này.
Sophia mừng rỡ ôm chầm lấy tôi, cô reo lên:
– Trời ơi! Hay quá! Chị không ngờ lại có thêm một người em nữa. Sao có thể kỳ diệu đến thế?
Trong thư Dimitris dặn phải chia cho tôi một phần gia sản. Ông viết rất kỹ lưỡng về số vàng và đất đai được chia như thế nào, chi tiết đến tận từng xu lẻ. Theo phong tục Hy Lạp, một nô lệ dù được trả tự do vẫn chỉ được phép cư trú tại đó chứ không được hưởng quyền lợi công dân khác như sở hữu đất đai hay tài sản. Nhưng nay tôi đã là con của Dimitris, tôi trở thành công dân chính thức của xứ này, có đủ mọi quyền lợi như mọi người khác và có thể lập gia đình với người Hy Lạp. Đây là giấc mộng tôi vẫn ấp ủ từ lâu. Tôi từng hy vọng nhờ lòng trung thành tận tụy với Alexander, sẽ đến lúc tôi xin được trả tự do và có thể cưới Isidora. Sau khi Isidora lấy chồng, hy vọng được tự do của tôi vẫn vẹn nguyên. Nhưng lúc này, mặc cho mọi người cười nói chúc mừng, đầu óc tôi lại quay cuồng với nhận thức rằng bao nhiêu năm qua, người tôi hết lòng thương yêu, chờ đợi chính là người chị cùng cha khác mẹ với mình. Thật trớ trêu làm sao! Tôi thẫn thờ một lúc vì sự thật bất ngờ này nhưng khi bình tĩnh lại, tôi cảm nhận được sự đón nhận ấm áp của Sophia và niềm vui của Melissa. Sophia chợt trầm ngâm:
– Không biết hiện giờ Isidora ở đâu? Nếu biết được tin này chắc Isidora sẽ mừng lắm. Không ngờ chúng ta đều là chị em…
Sophia vốn không biết gì về việc xảy ra tại nghị viện cũng như những lời kết tội nặng nề của Isidora dành cho tôi. Tôi tự hỏi Isidora sẽ nghĩ thế nào khi biết tôi là em trai của cô? Còn tôi, tôi phải đối diện với cô thế nào, xưng hô với cô ra sao? Kể cả trong những năm tháng tù tội oan ức, lòng tràn ngập đau thương và uất hận vì bị chính người mình yêu thương nhất sỉ nhục và kết tội, thì cũng chính hình ảnh Isidora thân thương đã vỗ về tôi, giúp tôi vượt qua tháng ngày tăm tối đó. Trở thành chị em thì mộng tưởng nhiều năm của tôi đối với Isidora cũng chính thức phải quên đi.
***
Sau lần hồi tưởng tiền kiếp này, tôi tiếp tục tu tập theo sự hướng dẫn của ông Kris và ngày càng tự chủ hơn trong việc hồi tưởng. Mãi đến sau này, khi đã tiến bộ hơn, tôi mới nhận ra Isidora chính là thánh nữ Kor mà ở kiếp sống xa xưa từng bị tôi tổn thương, vùi dập. Nhận ra điều này tôi mới thấm thía luật Nhân quả khắc ghi và đeo bám tận cùng như thế nào. Không ai có thể gột bỏ hay trốn chạy khỏi những việc mình làm. Tôi đã hiểu rõ, vì những tội lỗi trong kiếp sống ở Atlantis, khi tôi lập mưu hãm hại một người con gái, mà ở kiếp sống tại Hy Lạp, dù đã trải qua bao vất vả, tủi nhục của đời nô lệ, tôi vẫn phải gánh chịu sự trừng phạt bằng nỗi đau khổ trong một tình yêu đơn phương, bị hắt hủi, khinh miệt bởi chính người con gái mà tôi từng tổn hại. Nhưng rất may, ở khoảnh khắc cuối cùng khi cơn đại hồng thủy Atlantis ập tới, tôi đã không bỏ rơi Kor. Có lẽ sự chân thành cuối cùng này đã được nhân quả vũ trụ ghi nhận, giúp tôi giảm nhẹ phần nào tội nghiệp từ lỗi lầm to lớn của mình, nên trong kiếp sống ở Hy Lạp này, tôi với cô đã trở thành ruột thịt.
***
Không để ý đến dòng suy nghĩ miên man trong tôi, Philiteus cười ha hả, vỗ mạnh vào vai tôi:
– Thế này thì chúng ta nhất định phải có tiệc mừng lớn rồi. Tôi sẽ gọi các bạn cũ về đây. Chúng ta phải uống một bữa thật say mừng cho Kyros của chúng ta.
Tôi ở lại trang trại Dimitris vài hôm rồi từ biệt Sophia và Melissa lên đường đi Pella. Tôi muốn gặp Simonides để hỏi thêm về cuộc viễn chinh của Alexander. Chúng tôi gặp nhau, uống rượu và chuyện trò. Simonides kể rằng Alexander đã chuẩn bị cho cuộc viễn chinh vô cùng cẩn thận. Ngài nghiên cứu kỹ lưỡng bản đồ mà lính do thám thực địa báo cáo về con đường mòn. Thay vì mang theo đoàn xe chuyên chở đồ tiếp vận, Alexander thu xếp để binh sĩ chỉ mang đủ những dụng cụ cần thiết đeo trên lưng. Lần này có hơn một trăm ngàn quân, một nửa là quân Hy Lạp, một nửa là quân Ba Tư, tất cả đều đi theo vách núi cheo leo của con đường mòn vượt rặng núi Hindu Kush cao ngất. Dù đã là cuối xuân chớm chuyển qua hè, nhưng rặng núi vẫn bị tuyết phủ kín. Với khí lạnh kinh hồn và những trận bão tuyết bất ngờ, nhiều binh sĩ không chịu nổi, đã chết vì lạnh. Khi vượt qua rặng Hindu Kush, xuống thung lũng dẫn vào xứ Ấn Độ thì gặp khí hậu nhiệt đới, vừa nóng vừa ẩm với các trận mưa kéo dài nhiều tuần lễ, một số đông quân sĩ không chịu nổi thời tiết nóng bức cũng lâm bệnh và qua đời.
Trên đường, Alexander cũng gặp sự chống cự của các tiểu quốc quanh đó, nhưng lần nào ngài cũng thắng. Ngài áp dụng chiến lược cũ là khi đối phương quy hàng, ngài phong vua xứ đó làm thống đốc, cho cai trị như cũ, nhưng vùng đất của họ phải sáp nhập vào Macedonia và quân đội của họ phải gia nhập vào binh lực của ngài. Mục tiêu chính của Alexander là đi đến vùng sông Hydaspes[1], một vùng đất trù phú thuộc vương quốc Pauravas, do Vua Porus cai trị.
Trải qua gần một năm trời với nhiều thiệt hại vì thời tiết và khí hậu, quân Hy Lạp mới đến sông Hydaspes. Hành trình vượt sông kéo dài và khá gian nan, nhưng cuối cùng Alexander đã tìm được cách qua bờ bên kia, trực tiếp đối đầu với quân của Vua Porus. Vua Porus đã cho bày trận chờ sẵn với hàng trăm con voi chiến. Từ trước đến nay, kỵ binh và bộ binh hạng nặng với những ngọn giáo dài của Alexander có thể chống lại các thế lực quân đội khác, nhưng không cản nổi những con voi chiến khổng lồ, hung dữ này. Mặc dù có kỷ luật và chiến thuật hữu hiệu nhưng quân Hy Lạp cũng không thể chiến thắng Vua Porus dễ dàng. Hoàng đế Alexander đã sử dụng nhiều chiến thuật, từ việc sử dụng lửa để chống voi chiến, đến việc dùng máy bắn đá để phá trận đối phương, nhưng đều vô hiệu. Trong một trận đánh này, con chiến mã Bucephalus đã theo Alexander hàng trăm trận chiến trước đó cũng bị trúng tên bỏ mạng, khiến nhà vua thương tiếc vô cùng, về sau, ngài cho đặt tên vùng đó là Bucephala[2] để tưởng niệm con chiến mã này. Biết Vua Porus thường cưỡi con voi lớn hô hào quân sĩ chiến đấu. Alexander dùng mưu, giả thua bỏ chạy, lừa ông vua này đuổi theo đến nơi mà quân Hy Lạp đã đào sẵn một hố lớn khiến voi sụp hầm, rồi bắt sống được Vua Porus.
Cũng như mọi khi, Alexander thường cho những vua chúa thua trận cơ hội được cai trị như cũ với chức thống đốc và sáp nhập nước đó vào Macedonia. Tuy nhiên, lần này Vua Porus cương cường nhất định không chịu thần phục. Khi Alexander gọi Porus đến, ông ta nhất định không chịu quỳ, mặc dù hai tên lính lực lưỡng đã cố đè xuống nhưng ông vẫn kiên quyết vùng đứng thẳng dậy. Thấy vậy, Alexander ngạc nhiên, chỉ tay vào Porus, hỏi:
– Ông là kẻ thua trận nhưng vẫn chưa chịu hàng phục sao? Thế ông muốn ta đối xử với ông như thế nào?
Không như các vua khác đều lạy lục xin tha tội, Porus khảng khái trả lời:
– Ngài là vua, ta cũng là vua. Ngài phải đối xử với ta như một vị vua, không thể khác được.
Alexander gằn giọng:
– Ông nói thế là hỗn xược đấy. Ông không sợ chết ư?
Porus không hề tỏ vẻ sợ hãi, dõng dạc trả lời:
– Làm người ai chẳng phải chết. Chết sớm hay muộn cũng thế thôi, việc gì mà phải sợ.
Alexander đe dọa:
– Ông chuẩn bị sẵn sàng để chống lại ta như vậy, hẳn ông đã nghe đến danh tiếng của ta. Chắc ông cũng biết, kẻ nào không thần phục, ta sẽ cho quân lính tàn sát dân chúng, thiêu đốt nơi đó thành tro tàn bình địa.
Porus điềm tĩnh trả lời:
– Nước ta rộng muôn dặm, ngài không thể thiêu đốt hết giang sơn của ta được. Ngài có thể giết ta nhưng làm sao có thể giết hết hay thu phục hết lòng dân của ta được, với chục ngàn quân lính, làm sao ngài có thể cai trị được đất nước này của ta?
Alexander nghiêm giọng:
– Ta đã cai trị toàn thế giới. Ông không thấy các đế quốc hùng mạnh như Ai Cập, Babylon, Ba Tư với hàng triệu người đều phải quy phục ta sao? Xứ nhỏ bé nhược tiểu của ông thì có sá gì.
Porus nhếch miệng cười:
– Ngài chỉ biết chinh phục bằng sức mạnh chứ đâu có biết gì về cai trị. Dân xứ ta tuy ít nhưng không bao giờ chịu khuất phục trước bất kỳ sức mạnh nào.
Câu nói này bất chợt gợi cho Alexander nhớ về lời khuyên của Aristotle. Vị Đại đế mềm giọng hơn, hỏi:
– Được lắm! Hãy thử nói cho ta biết ông cai trị thế nào?
Porus trả lời không do dự:
– Ta lo cho dân ta như cha mẹ lo cho con cái. Luật pháp xứ ta công minh, không để bất cứ ai thiệt thòi. Trong xứ sở của ta, người trẻ được giáo dục, người già có chỗ nương tựa. Dân trí nước ta cao, làm sao một người tham vọng, bạo quyền như ông có thể cai trị được?
Alexander nổi giận, quát trả lại:
– Ông dựa vào đâu mà dám tự hào dân trí xứ này cao hơn nơi khác? Nền văn minh của nơi này làm sao sánh được với nền văn minh Hy Lạp chứ?
Porus rất bình thản chậm rãi trả lời:
– Ta không biết văn minh xứ ngài như thế nào nhưng tại xứ sở của ta, từ thuở nhỏ, dân ta đã được dạy dỗ cẩn thận rằng giáo dục là nền tảng và là cách bảo vệ quốc gia hữu hiệu nhất. Dân trí cao là thứ vũ khí lợi hại nhất. Không có sức mạnh bạo quyền nào có thể khuất phục được những người dân bình thường nhưng có sự hiểu biết và tinh thần bất khuất của xứ này đâu.
Alexander lắng nghe rồi im lặng suy nghĩ hồi lâu. Sau đó, nhà vua sai người mang rượu ra mời Porus uống.
Ngài cũng đuổi hết mọi người ra ngoài để có thể nói chuyện riêng tư với Porus. Mọi người đều không thể hiểu tại sao Alexander lại ứng xử khác lạ như thế.
Hôm sau, trước sự ngạc nhiên của các tướng lĩnh và binh sĩ, Alexander ra lệnh thả cho Porus tự do ra về. Lúc đó, Simonides còn nghe vị Đại đế lẩm bẩm: “Có lẽ Roxana nói đúng”.
Nghe kể đến đây, tôi ngạc nhiên hỏi dồn:
– Tại sao lại có chuyện lạ như thế được? Lại còn liên quan gì đến Hoàng hậu Roxana?
Simonides lắc đầu:
– Tôi cũng không rõ lắm… Có thể Roxana đã nói điều gì đó với Alexander mà tác động đến quyết định của ngài. Sau đó, còn có nhiều chuyện lạ xảy ra nữa. Mấy hôm sau, Porus đích thân dẫn một đoàn người ăn mặc giản dị, có phần khắc khổ, đầu cạo trọc, đến diện kiến Alexander. Nhà vua cho gọi các học giả Hy Lạp vẫn tháp tùng với ngài trong cuộc viễn chinh vào lều để trao đổi, tranh luận với nhóm người khoác áo bình dị kia, còn Porus và Alexander mang rượu ra uống, việc lạ lùng này kéo dài cả mấy tuần lễ. Chúng tôi không hiểu chuyện gì đang diễn ra nên sốt ruột vô cùng. Tôi hỏi Timotheus thì anh ấy chỉ nói vắn tắt rằng xứ này không có vàng bạc như lời đồn của nhóm thương buôn kia, nhưng lại có những kiến thức mới lạ của nhiều bậc cao nhân, vì vậy, Alexander muốn chính mình và các học giả được học hỏi thêm. Tôi tò mò hỏi về nhóm người đầu trọc, ăn mặc giản dị như dân thường kia thì Timotheus nói đó là những người cao quý, thông thái nhất của xứ này. Bọn tôi ngạc nhiên lắm, không hiểu sao người cao quý lại ăn mặc có phần rách rưới và lại còn cạo trọc đầu như thế. Chúng tôi ai cũng thắc mắc nhưng vì Alexander đối đãi với những người đó hết sức cung kính nên không ai dám nói gì.
Tôi ngạc nhiên, hỏi dồn:
– Rồi sao nữa? Việc thương thuyết sau đó ra sao?
Simonides lắc đầu:
– Tôi không biết việc thương thuyết diễn ra như thế nào nhưng trước sự ngạc nhiên của mọi người, Alexander đã ra lệnh rút hết quân lính về Babylon. Đa số quân sĩ đều sợ phải quay trở lại con đường cũ, nơi có những khu rừng già ẩm thấp với những cơn mưa như trút nước kéo dài cả tháng trời và cả rặng núi đá hiểm trở, lạnh lẽo kinh hồn. Vì vậy, theo sự chỉ dẫn của người địa phương, quân ta đã đóng những chiếc thuyền lớn theo dòng sông Indus ra biển để hướng về thành Babylon.
Tôi ngạc nhiên quá đỗi, liền hỏi:
– Vậy nghĩa là trận đánh đó, dù chiến thắng nhưng không thu được vàng bạc, của cải, đất đai gì sao?
Simonides lắc đầu:
– Lần này, chúng ta chẳng thu được vàng bạc hay đất đai gì mà còn thiệt hại biết bao nhiêu quân sĩ. Cái xứ sở nghèo nàn đó lại có những người lính chiến đấu ngoan cường nhất, khiến thương vong bên ta rất lớn. Chưa kể bao nhiêu binh sĩ đã thiệt mạng vì đường xa, khí hậu khắc nghiệt. Trên đường đến đó, chúng ta còn phải chiến đấu với những tiểu quốc xung quanh nên khi về đến Babylon chỉ còn hơn bốn chục ngàn quân. Mọi người đều thất vọng vì cuộc chinh phạt hao tổn bao xương máu này cuối cùng không mang lại kết quả gì về vật chất như những trận đánh khác.
Simonides im lặng một lúc rồi bình luận:
– Khi xuất quân ra đi, Alexander là một vị hoàng đế oai hùng, bách chiến bách thắng nhưng khi trở về, ngài ít nói hơn trước và thường tự nói một mình những điều không ai hiểu. Trong suốt những năm Alexander chinh chiến vắng mặt, triều đình Babylon rơi vào tình trạng vô quyền, không ai dám quyết định gì, mọi việc trì trệ, ngân khố cạn kiệt, triều đình suy sụp. Đã thế lại có tin đồn Alexander đã tử trận nên quan lại, thống đốc khắp nơi được dịp tha hồ lộng quyền, bóc lột dân chúng. Vì triều đình không thu thuế nên các thống đốc giữ tiền thuế làm của riêng, xây cất dinh thự rộng lớn, tiêu pha bừa bãi, bất chấp dân chúng đói khát, lầm than. Khi trở về triều đình và xem các báo cáo, Alexander ra lệnh cho Ptolemy và Antigonus bắt giam hơn ba mươi thống đốc đã lạm dụng quyền hạn, xử tử sáu người để làm gương. Tướng Cleander, người thay thế Parmenion chỉ huy quân Hy Lạp đồn trú tại Ba Tư, nhân lúc Alexander vắng mặt đã cho đưa khá đông người Hy Lạp qua đây chiếm những vùng đất canh tác trù phú của dân địa phương nên Alexander sai Perdicas đến bắt hắn và xử tử hình ngay. Việc này gây xáo trộn và khiến những người Hy Lạp di dân đến đây bất mãn. Tình hình hiện giờ, cuộc viễn chinh không thành công, không thu được chiến lợi phẩm gì, lại thiệt hại nhiều quân sĩ, cộng thêm việc thanh toán nội bộ, xử tử quan lại và tướng sĩ khiến triều đình rối loạn, xã hội bất an và dân chúng hoang mang sợ hãi.
Trong những người thân cận của Alexander thì Timotheus và Hephaestion là hai người được ngài tin tưởng nhất nên tôi vội hỏi:
– Nếu vậy thì Timotheus và Hephaestion thì sao? Hai người họ có ý kiến gì không?
Simonides thở dài, lắc đầu than:
– Timotheus đã mất tích tại Hydaspes. Khi về đến đây, Hephaestion cũng lâm bệnh rồi qua đời tại Ecbatana.
Tôi bàng hoàng đến lặng người. Những người bạn cũ cứ lần lượt ra đi trong chiến trận liên miên này. Tôi thẫn thờ hỏi:
– Hephaestion mất rồi? Timotheus cũng mất tích? Tại sao lại mất tích được? Timotheus luôn ở bên cạnh Alexander thì làm sao xảy ra chuyện gì được…
Simonides gật đầu, thở dài:
– Đúng thế, Alexander là người lo lắng nhất. Ngài đã cho người lùng kiếm khắp mọi nơi nhưng không tìm thấy, vì mọi người cần phải gấp rút hành quân ra biển trở về để tránh mùa bão tố nên không có nhiều thời gian đi tìm một người mất tích. Chắc anh ấy đã chết ở đâu đó rồi.
Tôi ngậm ngùi nghĩ đến người bạn đã cùng tôi chia sẻ tâm sự trong suốt thời gian cuộc viễn chinh. Chúng tôi từng ngủ cùng lều, ăn cùng mâm, cùng trò chuyện về mọi vấn đề và tôi cũng học được nhiều từ người bạn thông thái này.
Hôm sau, tôi và Philiteus lên đường đi Babylon để trình diện nhà vua. Từng là người phụ trách vận chuyển quân lương khắp nơi, tôi đã đi lại trên con đường này nhiều lần nhưng lần này, tôi thấy có nhiều thay đổi.
Hầu hết các thành phố đều bị đổi tên Alexandria với rất đông người Hy Lạp kéo đến định cư tại đây. Những người di dân này tự cho mình là kẻ chiến thắng, có quyền chiếm đoạt những gì họ có thể lấy được, từ nhà cửa đến đất đai, ruộng vườn của dân địa phương, việc này khiến người Ba Tư bất mãn sâu sắc và tạo ra sự mâu thuẫn giữa hai tộc người. Khắp nơi các quán rượu với âm nhạc Babylon mọc lên như nấm, rất đông người Hy Lạp tụ tập chè chén say sưa, đôi khi họ còn hành xử vô luật pháp, ức hiếp dân lành. Khi xưa, Timotheus đã kể cho tôi về viễn cảnh hòa hợp dòng máu Hy Lạp và Ba Tư để xây dựng một thế hệ công dân mới cho đế quốc của Alexander. Nhưng nay nhìn thấy cảnh này, tôi lo ngại viễn cảnh kia khó có thể xảy ra nếu triều đình không có biện pháp gì khác.
Khi vào triều, Philiteus báo cáo mọi việc lại cho nhà vua. Từ việc tôi bị vu oan cho đến việc thân phận tôi đã thay đổi. Alexander nghe xong, suy nghĩ một lúc rồi phong cho tôi chức quản lý ngân khố và tài chính, là chức vụ của Dimitris trước đây. Từ việc thất thoát một số vàng lớn và cả chuyện mưu hại đã xảy ra với tôi, Alexander không còn tin tưởng triều đình Pella nữa. Ngài lập kế hoạch chuyển triều đình về Babylon và cho tướng Craterus thay thế Antipater làm thống đốc tại Hy Lạp. Để đề phòng Antipater nổi loạn, ngài và các tướng lĩnh cũng chuẩn bị đưa thêm quân về Hy Lạp để kiểm soát an ninh trật tự trong việc thay đổi này.
Mấy hôm sau, Alexander cho gọi tôi vào để bàn về việc đúc tiền tại Babylon. Tôi ngạc nhiên vì ngài không cho gọi tôi vào điện mà lại cho mời đến hậu viện. Tôi thấy Alexander đang đi dạo trong vườn, vẻ mặt suy tư. Nhìn thấy tôi, ngài không nói gì mà chỉ ra hiệu bảo tôi đi cùng. Chúng tôi yên lặng dạo quanh khu vườn. Bất chợt nhà vua nói:
– Kyros, trước đây ta muốn Hy Lạp phải là một quốc gia hùng cường, chạy dài đến tận cùng của thế giới. Hy Lạp phải vĩ đại hơn Ai Cập, phải mạnh mẽ hơn Assyria và Babylon và phải rộng lớn hơn Ba Tư. Ta đã có một kế hoạch vĩ đại cho vương quốc vĩ đại của ta. Nhưng nay, mọi việc đã chuyển biến khác.
Tôi im lặng, đợi nhà vua nói tiếp. Alexander trầm ngâm:
– Ta không ngờ thế giới này bao la, rộng lớn hơn ta nghĩ rất nhiều, và trên đời lại còn có những thứ còn quý báu hơn cả của cải, vàng bạc châu báu, đất đai nữa. Ta đã học được những kiến thức mới lạ, khác hẳn những điều ta học từ Aristotle. Từ trước đến nay, ta vẫn tin văn minh của Hy Lạp là cao siêu nhất nhưng giờ ta đã thấy rõ sự thiếu sót của các bậc thầy ở xứ mình. Người thông thái như Timotheus cũng công nhận như thế. Chúng ta chỉ biết chú trọng vào các sự kiện bên ngoài nhưng không biết gì về những việc xảy ra bên trong. Chúng ta biết về thân xác con người nhưng không biết gì về tâm thức con người. Chúng ta biết về thế giới này nhưng không biết gì về các thế giới khác. Chúng ta biết về thần linh nhưng không biết gì về các định luật vũ trụ. Còn biết bao nhiêu thứ nữa mà chúng ta cần phải học…
Alexander im lặng một lúc rồi nói tiếp:
– Ta đã học được rằng kiến thức, học vấn khác hẳn với minh triết. Người học nhiều bằng cấp, có kiến thức nhiều không hẳn đã tài giỏi uyên bác thông thái hơn người. Người càng ỷ lại, cho rằng mình học nhiều thì càng bám chặt lấy các ý tưởng giới hạn của mình và thường tỏ ra thiếu khoan dung, đồng cảm với suy nghĩ của người khác. Người giỏi lý luận thường thích tranh luận, cãi vã, bất đồng ý kiến với người khác theo suy nghĩ hơn là biết lắng nghe, khám phá và cảm thông. Đó chính là thiếu sót lớn của nền văn minh xứ ta. Với kiến thức đúng đắn và lý luận rõ ràng, ta có thể cai trị dân chúng dễ dàng. Ta cũng có thể sử dụng khả năng biện luận hay tài hùng biện để kêu gọi mọi người đi theo quan niệm hay mục đích của ta. Nhưng việc này chỉ thuyết phục, lôi cuốn mọi người được một lúc mà thôi. Sau đó, nếu mọi chuyện diễn ra khác với những lời hứa thì mọi thứ sẽ tan như bọt nước, ta chẳng thể thay đổi hay mang lại kết quả gì. Vì kiến thức chỉ là sản phẩm của trí óc, nên bắt mọi người phải tuân theo một lý lẽ nào đó chỉ là sự áp chế nhất thời, rồi sẽ tạo phản ứng khiến họ sợ hãi bối rối thêm chứ không soi sáng gì cho họ được. Kiến thức giúp chúng ta tranh luận và thuyết phục bằng những lý lẽ xác đáng nhưng sẽ không thực sự cảm hóa được người khác, vì nó không thật sự thu phục được nhân tâm, không xâm nhập vào tâm hồn con người được. Chỉ có những gì đi từ trái tim mới đến được trái tim người khác.
Alexander hôm nay tôi gặp có cái gì đó rất khác với vị Hoàng đế Nam chinh Bắc phạt mà tôi từng biết. Ngài nhìn tôi một cách lạ lùng rồi nói tiếp:
– Kyros, minh triết là điều khó giải thích vì nó xuất phát từ sự uyên thâm và tế nhị nằm sâu trong tâm thức, trong khi kiến thức là sự thu nhặt các sự việc, sự kiện, so sánh và sắp đặt chúng theo một lý luận hay trật tự nào đó. Để cai trị quốc gia hữu hiệu, một hoàng đế có tài là chưa đủ, mà còn phải biết sử dụng tài năng đó một cách sáng suốt và minh triết. Ta không thể cai trị chỉ với những kiến thức đã được thu góp từ xa xưa mà còn phải biết sử dụng sự minh triết để nền văn minh xứ sở chúng ta được trường tồn. Khi xưa, ta mơ nhìn Hy Lạp sẽ như mảnh đất chạy dài đến tận cùng thế giới nhưng nay ta đã biết phóng tầm mắt lên bầu trời bao la, và mong Hy Lạp sẽ trở thành trung tâm của sự hiểu biết và được điều hành theo những định luật vũ trụ. Do đó, ta muốn thay đổi Hy Lạp với những tư tưởng mới mẻ này, xây dựng một xã hội khác khi xưa. Từ khi về đây, ta đã cho gọi các học giả, các hiền triết Hy Lạp và Ba Tư đến để tham khảo, đối chiếu với những điều mà các hiền triết Ấn Độ đã nói về các quy luật của vũ trụ. Tiếc rằng hai người mà ta tin tưởng là Timotheus và Hephaestion đã không còn nữa. Ngươi là bạn của Timotheus, ta cũng muốn nghe ý kiến của ngươi.
Tôi muốn nói cho Alexander về những điều đã chứng kiến trên chuyến hành trình từ Hy Lạp sang đây nhưng sợ nhà vua sẽ nổi giận. Tôi không lạ gì những trận lôi đình bất ngờ của vị Hoàng đế này. Như việc bắt giam nhiều thống đốc và xử tử hình một số trong đó đã gây hoang mang trong dân chúng. Việc người Hy Lạp kéo sang đây chiếm đoạt đất đai ruộng vườn của dân bản xứ có thể tạo ra những hậu quả khó lường sau này. Khi xưa, người Hy Lạp đã sống trong lo sợ trước thảm họa xâm lăng của Ba Tư, thì hiện nay, người Ba Tư lại sống trong sợ hãi trước sự cai trị của Hy Lạp.
Khi xưa dân Ba Tư có lẽ đã tận hưởng những gì họ chiếm được từ Ai Cập, Babylon hay Assyria thì ngày nay dân Hy Lạp cũng đang tận hưởng những chiến lợi phẩm và phụ nữ mà mình chiếm được từ Ba Tư. Đế quốc Hy Lạp hiện nay, từ Athens đến Babylon, từ Ai Cập đến Bactria, đều chỉ lo vui chơi, ăn uống, hưởng thụ ngày đêm. Giai điệu Doria oai hùng đã biến mất từ lâu. Ngay cả giai điệu Lydia êm đềm cũng không còn nữa, thay vào đó là những điệu nhạc truy hoan, hưởng lạc của Babylon và Assyria đang thịnh hành. Các buổi tiệc trụy lạc với hàng chục nam nữ hành dâm tập thể kéo dài thâu đêm suốt sáng trở nên thịnh hành, mở đầu cho một thời kỳ suy thoái.[3]
Những suy nghĩ ấy lũ lượt kéo đến trong đầu tôi nhưng tôi không biết nên nói ra như thế nào. Nhìn thấy tôi khó khăn lựa chọn cách diễn đạt suy nghĩ, Alexander mỉm cười:
– Thôi được rồi, ngươi không cần nói, dù sao đây cũng không phải vấn đề ngươi có thể suy nghĩ thấu đáo. Ta chỉ muốn tìm ai đó để nói chuyện thôi. Tuần này, chúng ta sẽ ăn mừng vì Hoàng hậu đã mang thai. Ta sẽ cho ban hành những biện pháp mới để chuẩn bị cho cuộc thay đổi lớn trong xã hội. Ta muốn ngươi chuẩn bị cho đúc loại tiền mới để mừng cho đứa con sắp chào đời của ta. Nó sẽ cai trị một đế quốc rộng lớn an bình, không có chiến tranh.
Kiến thức, học vấn khác hẳn với minh triết. Người học nhiều bằng cấp, có kiến thức nhiều không hẳn đã tài giỏi uyên bác thông thái hơn người. Người càng ỷ lại, cho rằng mình học nhiều thì càng bám chặt lấy các ý tưởng giới hạn của mình và thường tỏ ra thiếu khoan dung, đồng cảm với suy nghĩ của người khác. Người giỏi lý luận thường thích tranh luận, cãi vã, bất đồng ý kiến với người khác theo suy nghĩ hơn là biết lắng nghe, khám phá và cảm thông.
Kiến thức giúp chúng ta tranh luận và thuyết phục bằng những lý lẽ xác đáng nhưng sẽ không thực sự cảm hóa được người khác, vì nó không thật sự thu phục được nhân tâm, không xâm nhập vào tâm hồn con người được. Chỉ có những gì đi từ trái tim mới đến được trái tim người khác.
Điều không ai ngờ là sau buổi tiệc mừng đó, Alexander đột nhiên lâm trọng bệnh. Thật khó tin, mới một vài tháng trước thôi, ngài vẫn là vị Hoàng để khỏe mạnh, dũng mãnh, oai phong, khiến mọi đối thủ phải khiếp sợ, nay lại bất ngờ gục ngã trên giường bệnh. Các y sĩ giỏi nhất từ khắp nơi được mời đến nhưng tất cả đều bó tay. Alexander nằm đó quằn quại đau đớn suốt mấy ngày đêm nhưng không một ai biết ngài bị chứng bệnh gì. Cơn đau dữ dội của ngài rất bất thường và nội bộ triều đình bắt đầu có những lời bàn tán rằng có vẻ như Đại đế đã bị đầu độc.
Tôi và các tướng lĩnh ngày đêm túc trực bên giường bệnh nhưng bệnh tình của Alexander ngày một nguy kịch. Trước sự việc quá bất ngờ này, dù rất đau buồn nhưng Hoàng hậu Roxana vẫn cố gắng bình tĩnh để hỏi nhà vua muốn tổ chức tang lễ như thế nào. Alexander trìu mến nhìn người phụ nữ mà ông yêu thương nhất và khẽ nói:
– Khi ta chết, quan tài của ta phải do những y sĩ giỏi nhất khiêng đi – vì y thuật không thể chiến thắng cái chết, vàng bạc trong kho phải mang lót trên đường khi di quan từ nội cung ra triều đình – vì khi chết không ai mang bất cứ của cải gì theo được. Quan tài của ta phải mở hai bên để hai cánh tay ta có thể dang ra ngoài – vì khi sinh ra ta chẳng có gì và khi ta chết cũng ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.
Tất cả triều thần đều sửng sốt với di lệnh này của Đại đế Alexander, người bất bại trong mọi cuộc chinh phạt. Đây là một Hoàng đế rất khác với hình dung quen thuộc của mọi người. Đây là cách mà Vua của Á Châu, chiến binh vĩ đại nhất lịch sử ra đi sao? Chỉ có Roxana, người luôn túc trực bên giường bệnh với đôi mắt đong đầy thương yêu, là người duy nhất thấu hiểu sâu sắc tâm tình của vị Hoàng đế và khiến ngài yên tâm rằng di ngôn của ngài sẽ được thực hiện.
Hôm sau, Alexander nằm im, hơi thở yếu dần. Người chỉ huy lúc đó là Perdicas ghé lại gần và hỏi:
– Xin hoàng đế ban chỉ thị, ai sẽ là người thay ngài cai trị xứ này?
Hoàng đế Alexander thở dốc, lẩm bẩm một câu ngắn bằng một thứ ngôn ngữ lạ lùng rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng. Lúc đó, mọi người đều hỏi: “Hoàng đế nói gì vậy?”, Perdicas không hiểu câu Alexander nói nên đành trả lời: “Trao quyền cho kẻ nào xứng đáng nhất”.
Mãi về sau, khi tu tập ở Ấ n Độ một thời gian, tôi mới hiểu câu nói của Alexander là: “Sinh, Lão, Bệnh, Tử – Thành, Trụ, Hoại, Diệt.”
Vì Alexander vẫn chưa có con nối dõi và cũng không chỉ định ai thay thế nên người chỉ huy quân đội lúc đó là Perdicas đề nghị chia Đế quốc Hy Lạp ra làm năm vùng, mỗi vị tướng cai quản một vùng, chờ đứa con của Alexander còn đang nằm trong bụng của Roxana ra đời và khôn lớn để tiếp nhận ngôi vị. Perdicas chỉ huy triều đình tại Ba Tư và Syria; Ptolemy nắm giữ Ai Cập; Lysimachus nắm giữ Thrace; Antigonus nắm giữ Tiểu Á; và Antipater tiếp tục cai quản Hy Lạp.
Thái hậu Olympias ra lệnh mang di hài của Alexander về Pella để chôn cất, đồng thời cũng đưa Hoàng hậu Roxana về Pella để bà có thể trông nom đứa cháu nối dõi sắp ra đời. Tuy nhiên, trên đường về Hy Lạp, quan tài của Alexander bị Ptolemy đánh cướp rồi đưa đi chôn tại Alexandria, Ai Cập. Điều này xác nhận âm mưu của Ptolemy muốn thay thế Alexander làm vua. Từ đó khởi đầu những năm tháng tranh giành chém giết kéo dài. Huynh đệ tương tàn, các tướng lĩnh giỏi nhất nắm binh quyền dưới thời Alexander đều khởi sự binh đao để tranh chấp ngôi vị hoàng đế. Antigonus cũng tự xưng vương, không chịu thần phục triều đình Babylon. Perdicas dẫn binh tấn công Antigonus nhưng rồi thua trận và bị Seleucus giết để đoạt binh quyền. Khi Antipater già yếu qua đời, Cassander cũng xưng làm vua Hy Lạp, cho quân giết chết Thái hậu Olympias, Hoàng hậu Roxana và đứa con của Alexander với Roxana để diệt trừ hậu họa. Từ đó, các tướng lĩnh đều xưng vương xưng hùng, đem quân gây chiến lẫn nhau, khiến Đế quốc Hy Lạp vừa thành lập đã rơi vào cảnh nội chiến điêu tàn, chia tách thành nhiều vùng miền.
Tôi tiếp tục trông nom việc tài chính tại Babylon nhưng cuộc tranh chấp kéo dài khiến tôi dần chán ngán. Việc thu thuế và kiểm soát quân lương cho các cuộc chiến giữa những người từng là bạn khi xưa thì có gì đáng để tôi dốc sức chứ. Tôi ngậm ngùi suy nghĩ về những gì vị hoàng đế đã nói với mình không lâu trước khi ngài qua đời. Phải chăng nếu Alexander sống được thêm ít lâu nữa thì xã hội và văn minh Hy Lạp có thể sẽ tiến bộ, đổi khác, không phải rơi vào cảnh loạn lạc như thế này?
Cho đến một buổi tối, một lái buôn Ba Tư bất ngờ tìm đến trao cho tôi lá thư, nói là của Timotheus gửi. Tôi vừa kinh ngạc vừa mùng rỡ, không ngờ bạn mình vẫn còn sống. Trong lá thư đó, Timotheus chỉ viết vắn tắt: “Hãy đến Bactria nếu cậu muốn gặp lại tôi.”
Bactria nằm trong phạm vi kiểm soát của Seleucus nên tôi lấy cớ đi phát lương để lên đường ngay. Khi gặp Timotheus, tôi ngạc nhiên thấy cậu ta đã cạo trọc đầu, khoác một tấm áo rách. Tôi ôm chầm lấy cậu:
– Timotheus, tôi mừng quá, cậu vẫn còn sống. Nhưng tại sao… Tại sao cậu lại ra nông nỗi này?
Timotheus mỉm cười, giải thích:
– Chắc cậu đã biết kết quả của cuộc viễn chinh qua xứ Ấ n Độ như thế nào rồi. Chúng ta không thu được vàng bạc hay chiếm được đất đai nào nhưng lại học được nhiều điều mới lạ, khác hẳn những điều chúng ta đã học từ hai bậc thầy Platon và Aristotle. Tôi là người say mê kiến thức nên muốn dành nhiều thời gian để học hỏi văn hóa xứ đó, nhưng Alexander đã ra lệnh rút quân, việc này không cho tôi cơ hội học thêm những kiến thức mà tôi đang vô cùng hứng thú, nên tôi tìm cách trốn khỏi doanh trại, ở lại nơi đó để thụ giáo với những hiền triết Ấn Độ. Sau một thời gian sống và học hỏi tại Hydaspes, tôi theo một số hiền giả lên dãy tuyết sơn tu tập. Khi đến vùng Bamyan xứ Bactria, các vị này dự định cho xây đạo viện để đưa sự minh triết đến với dân địa phương. Vùng này thuộc sự kiểm soát và cai quản của Hy Lạp nên tôi cần cậu giúp. Do đó, tôi mới viết thư nhờ những người lái buôn chuyển cho cậu.
Tôi hỏi tiếp:
– Vậy cậu đã học được gì? Tại sao lại chọn đời sống như kẻ hành khất thế này?
Timotheus trả lời:
– Cậu có nhớ trước đây cậu từng có những thắc mắc về thân phận con người nhưng tôi không thể trả lời được không? Những gì tôi học tại Hy Lạp không thể giải đáp được những thắc mắc đó. Hiện nay, tôi đã có câu trả lời cho cậu. Có một định luật gọi là tác động phản lực mà người xứ này gọi là Karma hay Hành động. Nó cũng hàm ý rằng lực tác động và phản lực không thể tách rời nhau.
Hôm đó, Timotheus đã giải thích về luật Nhân quả và Luân hồi cho tôi[4]. Đó là những kiến thức lạ lùng mà tôi chưa từng nghe. Chúng tôi bàn luận suốt mấy ngày liền và Timotheus đã giúp cho tôi hiểu về mối liên quan của tôi với những người khác. Biết Timotheus sẽ sống trong một động đá trên núi, tôi đề nghị mang lương thực giúp bạn mình và cả những hiền giả Ấn Độ tu tập tại đó. Bactria là vùng thuộc sự cai quản của quân Hy Lạp và tôi là người quản lý quân lương nên không gặp khó khăn gì trong việc này.
Khi tôi dự định trở về Babylon thì nghe tin Seleucus đã xưng làm hoàng đế và đem quân đánh Ptolemy. Lúc đó Antigonus và Cassander cũng liên minh để tấn công Babylon nên tình hình ở đó không an toàn nữa. Cuộc chiến giữa những người bạn bè thân thiết khi xưa đã khiến tôi không còn hứng thú với cuộc sống quan trường, sống tại biên thùy xa xôi như Bactria lại tương đối thoải mái và an lành hơn. Tôi quyết định sống hẳn tại Bamyan, không trở về Hy Lạp nữa.
Từ đó, tôi theo Timotheus thực hành những phương pháp tu tập mà cậu ấy được những bậc hiền triết Ấn Độ hướng dẫn, chỉ dạy. Đó cũng là lúc hành trình của tôi thật sự bắt đầu.
***
Trong buổi nói chuyện với Thomas về tiền kiếp tại Hy Lạp, ông chỉ nói nhiều về mối tình của Leonidas và Melissa, về tình bạn của ông với Timotheus, cuộc đối thoại giữa ông và Alexander, và chuyện tình yêu đơn phương của ông với Isidora. Vì chi tiết tương đối rời rạc lại có liên quan đến nhiều nhân vật lịch sử nên tôi đã phải dựa vào tài liệu của các sử gia như Plutarch, Curtius và một số sử gia khác để viết thêm chi tiết theo thứ tự thời gian, cũng như “tiểu thuyết hóa” các tình tiết để tạo thành một câu chuyện mạch lạc cho những chương này.
Trong lúc duyệt lại những ghi chép này với Thomas, tôi có cho ông biết về sự bổ sung những chi tiết lịch sử để cuốn sách trở nên có trật tự hơn. Thomas đồng ý và nói rằng đây là cuốn sách của tôi và là tác giả, tôi có thể sửa đổi một số tình tiết cho dễ theo dõi và giúp độc giả hiểu biết thêm về lịch sử của thời đó.
Thomas không đồng ý với một số sử gia ghi chép rằng sau khi trở về từ Ấn Độ, Alexander vẫn tiếp tục mang quân chinh phục một số nước nhỏ ở bán đảo Ả Rập. Ông nói, lúc đó hoàng đế đã thay đổi, không còn tham vọng như xưa và lời trăng trối với Roxana về việc cử hành tang lễ là bằng chứng rõ rệt nhất cho sự thay đổi này. Alexander đã bàn với các tướng lĩnh và các quan về dự định cải cách xã hội dựa theo những điều ngài đã học được từ Ấn Độ. Hiển nhiên, việc cải cách này sẽ gây thiệt hại quyền lợi của rất nhiều người, nhất là những tướng lĩnh và quan lại triều đình. Họ đã theo ngài chinh phục, mở mang bờ cõi Hy Lạp nên cho rằng mình có quyền được hưởng những quyền lợi khi chiến thắng. Theo Thomas, chính ý định cải cách này là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Alexander, vị hoàng đế chết vì bị đầu độc chứ không phải vì bệnh tật như các sử gia đã viết. Hầu hết các tài liệu Hy Lạp đều ghi nhận Alexander chết vì bệnh khi chuẩn bị đem quân chinh phục các nước khác tại bán đảo Ả Rập. Thomas nói rằng các sử gia Hy Lạp cố ý lưu lại hình ảnh Alexander như một anh hùng vĩ đại trong lịch sử chứ không muốn nói đến kết quả cuộc viễn chinh gây nhiều thiệt hại mà không hề thu được chiến lợi phẩm gì tại Ấn Độ. Nếu Alexander mắc bệnh thì các y sĩ đã tìm ra nguyên nhân và có thể cứu chữa, vì lúc đó y thuật Hy Lạp đã tiến bộ rất cao.
Thomas còn nói rằng vì đã gây chiến và giết chóc quá nhiều nên dân Hy Lạp phải chịu cộng nghiệp qua những trận nội chiến thảm khốc giữa các tướng lĩnh trong suốt mấy chục năm, khiến Đế quốc Hy Lạp suy thoái, tạo cơ hội cho người La Mã chinh phục Hy Lạp.
Sử liệu ghi nhận Alexander trở về Babylon vào mùa xuân năm 323 TCN và qua đời vào mùa hè năm đó. Thời gian đó quá ngắn, mà ngài còn phải chấn chỉnh lại triều đình tại Babylon, xử tử khá nhiều thống đốc về tội tham nhũng và chuẩn bị thay thế một số tướng lĩnh đã lạm quyền khi ngài vắng mặt. Quân đội cũng cần nghỉ ngơi, không thể chinh chiến ngay. Nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng thời gian này không đủ để nhà vua đem quân chinh phục các nước khác. Alexander làm vua được mười hai năm, gây dựng được một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới. Tuy nhiên, vì ngài dẫn binh chinh chiến suốt thời gian đó nên người Hy Lạp không hề được hưởng thái bình, dẫu cho mong muốn của ngài là xây dựng một quốc gia vĩ đại để con cháu được hưởng lâu dài. Ngay khi Đại đế qua đời, đế quốc của ngài liền bị chia năm xẻ bảy, các tướng tranh chấp lẫn nhau, vợ con của ngài đều bị giết. Cuộc nội chiến kéo dài gây rất nhiều tổn hại, văn hóa Hy Lạp suy đồi, từ nền văn minh khai sáng của các triết gia chuyển qua nền văn minh hưởng thụ, rồi sụp đổ khi người La Mã chinh phục Hy Lạp.
Bài học lịch sử tiếp diễn qua nhiều thời đại với nhiều đế quốc khác nhau, lúc thành lúc hoại, lúc chiến thắng vinh quang, lúc sụp đổ nhục nhã. Từ Đế quốc Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã, Mông cổ, Ả Rập đến Đế quốc Tây Ban Nha, Anh, Nga, Pháp, Nhật và tiếp tục đến nay, thời nào cũng có những lãnh đạo chỉ biết xâm lăng, chiếm đoạt, để xây dựng cho mình một đế quốc vĩ đại, để được ghi danh trong lịch sử. Trong cơn say máu vinh quang và lý tưởng, không mấy ai biết nhìn vào bài học thành và hoại của lịch sử hay quan tâm đến việc khi nắp quan tài của họ đóng lại, hậu thế sẽ định công luận tội họ ra sao.
Trong triều đại của Đế quốc La Mã, hầu hết các vị vua đều đến viếng mộ Alexander. Hoàng đế Julius Caesar đã đến viếng ngôi mộ, ngồi cạnh mộ gần nửa ngày và thì thầm gì không ai rõ. Hoàng đế Augustus khi chiến thắng Marcus Anthony cũng đến viếng ngôi mộ này và để lại câu nói: “Ta đến để tỏ lòng kính trọng một hoàng đế chứ không phải một xác chết”. Hoàng đế Caligula cũng đến đây để tỏ lòng ngưỡng mộ vị vua mà ông gọi là “Vua của tất cả các vua”. Hoàng đế Septimus Severus viếng mộ rồi ra lệnh đóng cửa mộ, cấm dân chúng vào làm mất vẻ tôn nghiêm. Ông nói chỉ có vua mới được đến thăm vua, dân chúng phải đứng bên ngoài. Trải qua nhiều thời đại, thành phố Alexandria bị thiên tai, động đất cũng như bị quân Ả Rập thiêu đốt nên hiện nay không ai biết ngôi mộ của Alexander nằm ở đâu.
Vị hoàng đế vĩ đại đã vĩnh viễn tan vào cát bụi thời gian, chỉ còn lại những câu chuyện huyền thoại được lưu truyền về cuộc đời và những chiến công của ông. Nếu Alexander là Achilles tái thế, như lời khẳng định mạnh mẽ của ngài tại phế tích thành Troy, thì “gót chân chí mạng” của Alexander phải chăng chính là “sự thức tỉnh muộn màng” hay là tham vọng bá chủ đã gây ra cái chết của biết bao con người? Khó ai có thể trả lời được câu hỏi này. Sau những cơn bão lửa chiến tranh khởi phát từ Alexander, Đế quốc Hy Lạp phải gánh chịu nội chiến tương tàn, chia năm xẻ bảy, còn bản thân Alexander cũng tuyệt tử, tuyệt tôn, âu có lẽ cũng là nghiệp báo của luật Nhân quả.
***
Thomas còn cho tôi biết thêm rằng Melissa chính là Cihone duyên dáng mà ông đã gặp trong tiền kiếp tại Ai Cập. Melissa và Cihone đều là những cô gái cao quý, có tâm hồn thánh thiện, giàu tình thương yêu. Mặc dù Thomas gặp lại cô trong kiếp sống ở Hy Lạp nhưng hai người không có duyên nợ gì nhiều nên chỉ là những người bạn để giúp đỡ nhau khi cần. Isidora cũng chính là thánh nữ Kor hồn nhiên, xinh đẹp từ kiếp sống Atlantis, và ở kiếp sống tại Hy Lạp, Thomas đã phải đau khổ vì cô, lại còn bị giam cầm trong hai năm, như một sự chuộc lỗi cho những gì ông từng gây ra với cô. Đó đều là nghiệp quả ông phải trả theo luật Nhân quả của vũ trụ.
***
Trong phần kết chương trước, từ khát vọng thống nhất thế giới bằng sức mạnh của Alexander, chúng tôi đã trao đổi và bỏ lửng câu hỏi “nếu thế giới không còn những ranh giới về sắc tộc, tôn giáo, chính trị thì liệu con người có chấm dứt sự chia rẽ, thù hằn, xâm chiếm và chém giết lẫn nhau hay không?”. Tuy nhiên, sau câu chuyện của Thomas về Ấn Độ, với sự thức tỉnh của Alexander về minh triết và quy luật vũ trụ trong những ngày tháng cuối đời, cũng như quyết định rời bỏ quan trường để tu tập tại Ấn Độ của Kyros, tôi đã dần hiểu ra lý do tại sao Thomas muốn tôi ghi lại câu chuyện này. Thomas đã thức tỉnh trong kiếp sống hiện tại của thế kỷ 21. Chính nhân duyên Thomas theo Timotheus tu tập tại Ấn Độ hay việc Thomas gặp lại ông Kris để được dẫn đạo, thức tình trong kiếp sống này, là một vòng tròn lớn nhiệm màu của nhân quả luân hồi. Họ đều là những người có sứ mệnh và tương lai nhân loại vẫn còn cứu vãn được.
Tôi đã dần nhìn thấy ánh sáng của lời giải đáp cho những trăn trở của tôi về cơn đại họa của thế giới đang diễn ra và tương lai của con người trong vòng xoáy bất tận của vô lượng kiếp, của chu kỳ Thành – Trụ – Hoại – Diệt.
[1] Ngày nay một phần thuộc Pakistan và một phần thuộc tiểu bang Punjab, Ấn Độ.
[2] Nay là tỉnh Jhelum, Punjab.
[3] Thời kỳ mà các sử gia sau này gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa (Hellenistic), chỉ một nền văn minh chỉ biết hưởng thụ, vui chơi trác táng.
[4] Về tác động và phản lực. Karma hay Hành động, xem Muôn Kiếp Nhân Sinh Tập 1.
Trang trước | Mục lục | Trang sau |