Luận Giải Thi Tụng Mười Bức Tranh Chăn Trâu Giảng Giải

Phần 1 - Nói Thẳng Về Mới Điều Phục (giảng)



Tựa đề này là nói đến việc trước khi điều phục để vào mười mục chăn trâu của Thiền sư Quảng Trí đời Lê.

Một phép mới điều phục này, chính là bổn phận trong hàng tăng sĩ, chẳng can hệ gì đến việc thế tục. Theo Vĩnh Gia Tập nói: “Như muốn tu đạo, trước cần phải lập chí.” Lại nói rõ về cách lập chí mộ đạo, phép thờ thầy, trình bày việc dạy dỗ theo khuôn phép, kế đến là trừ bỏ ý kiêu xa, để dừng vọng tâm quấy động. Rồi tiếp là làm sạch ba nghiệp, kiểm trách kỹ càng, răn giữ thân khẩu ý, khiến cho lỗi thô chẳng sanh, mới hay điều phục được thân tâm vậy.

Đoạn này Ngài nói có tánh cách nghiêng về người xuất gia. Ở đây Ngài dẫn trong Vĩnh Gia Tập của Thiền sư Huyền Giác, lời chỉ dạy cho người tu thiền. Muốn tu thiền được tăng tiến trước phải lập chí. Người muốn tu đến nơi đến chốn phải lập chí cho thật vững chắc, không phải sáng thì cần mẫn, chiều lại lơ là, hoặc tháng này siêng năng, tháng sau bê trễ v.v… Phải kiên trì lập chí thật vững thì trên đường tu mới có thể thành công được. Đó là điều căn bản của người mới tu. Thứ đến dạy cách lập chí mộ đạo, tức là kính trọng đạo pháp mà mình đang tu học, kế dạy phép thờ thầy. Người học đạo trước tiên phải có người hướng dẫn, người hướng dẫn đó là bậc thầy thì chúng ta phải kính quí như thế nào để xứng với công của người đã chịu khó khổ, chỉ dạy cho chúng ta tu đến nơi đến chốn. Do đó công ơn này cũng sánh bằng với công ơn của cha mẹ. Vì vậy phải biết cung kính quí trọng thầy, đó là phép thờ thầy.

Trình bày việc dạy dỗ theo khuôn phép.

Nghĩa là người tu không phải chỉ biết học đạo, chỉ biết tu thôi mà phải có phương hướng, có cách thức để tu. Nói gần hơn là phải có thái độ, có tư cách, chớ không phải tu rồi tự do tự ý muốn làm gì thì làm, mà phải sống có khuôn phép đúng theo luật lệ của người tu.

Kế đến là trừ bỏ ý kiêu xa, để dừng vọng tâm quấy động.

Chữ kiêu là kiêu căng, ngạo mạn; xa là xa xỉ, là tiêu phí không chừng mực, không điều độ. Đây dạy chúng ta phải dẹp bỏ ý kiêu căng xa xỉ để cho tâm được thấp, được nhẹ nhàng và không có những phí tổn vô ích đối với sự sống. Như vậy muốn dừng được vọng tâm quấy động thì trước phải lập chí cho vững, hướng với đạo, lúc nào cũng thành kính tôn thờ, kế là thờ thầy, sau là giữ khuôn phép và trừ bỏ ý kiêu xa. Đó là phần căn bản ở bên ngoài. Phần căn bản bên trong là:

Rồi tiếp là làm sạch ba nghiệp, kiểm trách kỹ càng.

Luôn luôn kiểm tra trách cứ những điều dở, những thiếu sót của mình phải răn dè, nhắc nhở đừng để nó đi lệch, đi xa.

Răn giữ thân khẩu ý.

Luôn giữ ba nghiệp thân khẩu ý cho trong sạch.

Khiến cho lỗi thô chẳng sanh, mới hay điều phục được thân tâm vậy.

Người khéo giữ thân khẩu ý được yên tĩnh trong sạch thì không có những tội lớn, nhờ vậy mới điều phục thân tâm một cách dễ dàng.

Tóm lại, đoạn này Ngài dạy người muốn tu thiền, chẳng những tu thiền mà tất cả các pháp tu giải thoát của Phật dạy, điều căn bản là phải lập chí cho thật vững, kính trọng thầy, giữ đúng khuôn phép của người tu và trừ bỏ những ý kiêu xa; đó là phần bên ngoài. Bên trong về bản thân phải giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý cho trong sạch, như vậy bắt đầu điều phục tâm mới có kết quả tốt. Người tu nếu thiếu những điều kiện trên đây thì việc điều phục tâm khó thành công. Đó là lời dẫn chỉ dạy cho chúng ta chuẩn bị tiến vào đạo, chuẩn bị chăn trâu.

Nguyên bởi, Chân tâm không vọng, Trí tánh sẵn sáng ngời, trong lặng nhiệm mầu không xen tạp; nhưng do vọng chợt khởi, thoạt đó liền mê mờ đánh mất tánh tinh nguyên, cái trong lặng bị dính khằn mà phát ra cái biết, nên chuyển trí thành thức. Vọng tâm ở trong thân gọi đó là thức, tâm vốn không biết, do thức nên biết. Tánh vốn không sanh, do thức nên sanh. Hạt giống sanh thân nảy mầm từ đó, rồi nở hoa hữu lậu, kết trái sanh tử. Người hiện nay vọng nhận trong tấc vuông (tâm) có vật sáng rỡ linh thông (chiêu chiêu linh linh), hồn nhiên cùng các vật đồng một thể, liền cho là nguyên thần ở đấy. Đâu chẳng biết, đây tức là thức thần tử tử sanh sanh, là chủng tử luân hồi kiếp kiếp. Nên Hòa thượng Cảnh Sầm nói:

Người nay học đạo chẳng tỏ chân,
Chỉ vì từ trước nhận thức thần.
Vô lượng kiếp rồi gốc sanh tử,
Kẻ si gọi đó bản lai nhân.

Đoạn này Ngài chỉ thẳng cho chúng ta biết được gốc của sự tu. Bởi vì nơi mỗi người chúng ta đều có sẵn Chân tâm, mà Chân tâm tự nó không có vọng, cho nên Chân tâm đứng về mặt sáng suốt gọi là Trí tánh, nó sẵn sáng ngời không lúc nào mờ tối, trong lặng nhiệm mầu không xen tạp. Như vậy diễn tả cho chúng ta biết nơi mỗi người ai cũng sẵn có Chân tâm, Chân tâm là Tánh giác sáng ngời, trong trẻo, lặng lẽ, nhiệm mầu không có gì xen tạp. Trong lặng, sáng suốt là thể Chân tâm của mỗi người, “nhưng do vọng chợt khởi, thoạt đó liền mê mờ đánh mất tánh tinh nguyên” của mình. Nghĩa là lỗi ban đầu từ Thể tánh trong sáng rạng ngời, bỗng có một niệm dấy khởi, từ có niệm vọng khởi liền quên mất tánh sáng đó, nên đánh mất tánh tinh nguyên của nó là trong sáng sẵn sàng.

Cái trong lặng bị dính khằn mà phát ra cái biết.

Cái trong lặng sáng suốt đó do dính với niệm khởi mà thành ra có cái biết. Cái biết đây tức là cái phân biệt, “nên chuyển trí thành thức”. Cái tánh sáng sẵn trong tinh nguyên gọi là trí, cái khởi phân biệt gọi là thức. Sở dĩ có thức là vì cái tinh nguyên đó do dấy niệm làm mê mờ, nó dính khằn với ngoại cảnh, rồi sanh ra vọng thức. Như vậy từ trí biến thành thức. Đây giống như trong kinh Lăng-già định nghĩa thế nào là thức? Thức là cái phân biệt sanh diệt, trí là cái sáng suốt không sanh diệt. Trí ở đây là Trí tánh, thức là thức tình phân biệt. Như vậy từ trí biến thành thức, nên nói:

Vọng tâm ở trong thân gọi là thức. Tâm vốn không biết, do thức nên biết.

Tâm là cái trong sáng không phân biệt, nhưng vì có vọng khởi nó biến thành thức rồi có phân biệt, nên chúng ta gọi là biết.

Tánh vốn không sanh, do thức nên sanh.

Tánh giác hay Trí tánh là sáng suốt không sanh diệt, nhưng do dấy động thành thức nên có sanh có diệt.

Hạt giống sanh thân nảy mầm từ đó.

Nghĩa là từ có niệm thức phân biệt do đó mới có hạt giống để sanh ra thân này. Như vậy từ có vọng thức là cái nhân để sanh tử, “rồi nở hoa hữu lậu, kết trái sanh tử” tức là nở hoa trong sanh diệt, vì hữu lậu là sanh diệt, nên kết thành quả là sanh tử. Do vậy nói đơn giản hơn, tất cả gốc sanh tử là từ vọng thức mà ra. Vọng thức là nhân để tạo nghiệp sanh tử. Vì vậy ngày nay chúng ta tu cốt làm sao lắng sạch vọng thức thì nghiệp sanh tử theo đó mà dừng. Không lắng dừng vọng thức thì nghiệp sanh tử liên tục không ngừng.

Người hiện nay vọng nhận trong tấc vuông (tâm) có vật sáng rỡ linh thông (chiêu chiêu linh linh), hồn nhiên cùng các vật đồng một thể, liền cho là nguyên thần ở đấy.

Nghĩa là người thời nay tu, nhất là tập tu thiền khi thấy ngồi yên có cái tâm sáng ở trong thân, lầm cho tâm đó là Tâm thể, nhưng sự thật nó là cái nguyên thần chớ chưa phải là Tâm thể. Bởi vì Tâm thể là tâm không giới hạn trong thân này, cũng không giới hạn trong hoàn cảnh nào, mà nó trùm khắp. Cho nên chúng ta chỉ thấy yên tịnh ở trong, tưởng đã đến nơi là sai. Yên tịnh ở trong chỉ là bước đầu. Theo kinh Lăng Nghiêm đây là mặt trăng thứ hai, chớ chưa phải là mặt trăng thật, nếu nhận lầm nó là sai.

Đâu chẳng biết, đây tức là thức thần tử tử sanh sanh, là chủng tử luân hồi kiếp kiếp.

Đây là thức phân biệt, chớ chưa phải là tâm trong sáng thanh tịnh, đó là nhân của sanh tử luân hồi. Dẫn bài kệ của ngài Trường Sa Cảnh Sầm nói:

Người nay học đạo chẳng tỏ chân.

Tức là người thời nay học đạo không thấu suốt được Chân tâm.

Chỉ vì từ trước nhận thức thần.

Chỉ vì lầm nhận thức thần tức là cái yên yên ở trong làm tâm mình.

Vô lượng kiếp rồi gốc sanh tử.

Đó là gốc luân hồi sanh tử từ vô lượng kiếp.

Kẻ si gọi đó bản lai nhân.

Người si mê cho đó là người xưa nay, nhưng sự thật không phải vậy.

Trong đoạn này Ngài chỉ thẳng cho chúng ta biết mỗi người ai cũng có cái Chân tâm trong sáng, lặng lẽ, thanh tịnh sẵn có chớ không riêng người nào. Nhưng từ Chân tâm thanh tịnh vừa dấy niệm khởi nên nó dính khằn với vọng trần phát ra cái biết, từ cái phân biệt gọi là thức, từ thức dẫn đi tạo nghiệp, liên kết vô số lần sanh tử, tử sanh. Vì vậy gọi là luân hồi muôn kiếp. Ngày nay chúng ta muốn tu để thoát khỏi sanh tử luân hồi, thì phải lóng lặng cái vọng thức đang liên kết với ngoại duyên để nó dừng lặng xuống. Do nó dừng lặng mới trở lại gốc của Chân tâm. Khi trở lại được gốc Chân tâm thì dòng sanh tử ngang đó mới dừng. Ngài bảo chúng ta đừng lầm nơi tâm mình có cái cũng sáng rỡ, cũng linh thông, nhưng cái sáng rỡ linh thông đó chỉ ở bên trong thân chưa phải là Chân tâm. Nếu nhận lầm là Chân tâm thì chỉ là nhận thần thức, nên cũng còn ở trong sanh tử chưa dừng. Đó là lối chỉ dẫn tường tận của Ngài cho chúng ta thấy trên đường tu mình đã có sẵn cái gốc, nhưng do vọng thức tạo nên luân hồi sanh tử. Nếu khéo dừng vọng thức để trở về gốc là thoát ly sanh tử.

Than ôi! Người đời đem kẻ tớ cho là chủ mà không hay biết, nhận giặc làm con mà chẳng thức tỉnh. Do đó Thế Tôn dạy người, trước đoạn dứt cội gốc vô thủy luân hồi. Cội gốc này đã đoạn dứt, thì các thức không chỗ nương, trả lại Bản thể thường sáng tỏ từ thuở ban đầu của ta. Thế nhưng, đạo lớn thì mênh mông, phải tùy theo chỗ mà ra tay. Mới biết, muốn sửa vạt áo cho ngay bằng, hẳn phải kéo cổ áo lên. Muốn sửa lưới cho thẳng, cần lôi giềng lưới lên.

Đây là lời nhắc nhở chỉ dạy chúng ta phải tu như thế nào? Vì lâu nay chúng ta lầm nhận kẻ tớ cho là chủ, hay nhận giặc cho là con. Vậy hiện nay tất cả chúng ta có nhận tớ làm chủ, nhận giặc làm con không? Như chúng ta đã biết nơi mình có Tâm chân thật, trong sáng, thanh tịnh không từng dấy động đó là Chân tâm. Rồi từ vọng thức dấy lên duyên với ngoại trần, kết thành nghiệp tạo ra bao nhiêu kiếp luân hồi sanh tử liên tục không dừng. Như vậy Chân tâm và vọng thức, hiện chúng ta đang nhận cái nào là mình? Nhận Chân tâm là mình hay vọng thức là mình? Chắc mọi người đều nghĩ cái khôn ngoan, lanh lợi là mình, còn Chân tâm trong sáng không dấy động thì không bao giờ mình nhận. Đó chính là chỗ chúng ta nhận giặc làm con. Như khi ngồi chơi dưới cội cây, trên tảng đá, bất thần không nghĩ suy, không phân biệt gì hết, thì lúc đó chúng ta thấy có mình không? Khi không phân biệt, không nghĩ suy chúng ta tưởng như mất mình, rồi bất chợt nhớ nghĩ đến việc gì lại cho là có mình. Như vậy nhớ cái suy nghĩ, tính toán lại nói là mình hiện tiền, còn mất cái suy nghĩ tính toán lại cho là không có mình. Vậy cái suy nghĩ, tính toán đó là chủ hay tớ? Là tớ sao lại nói là mình, quên nó, vắng mặt nó nói là mất mình. Còn cái hằng sáng, tai nghe tiếng, mắt thấy hình dáng, da xúc chạm gió mát v.v… nó hiện tiền mà không nhớ, chỉ nhớ có cái nghĩ suy; có nghĩ suy gọi là có mình, quên nghĩ suy gọi là mất mình. Như vậy rõ ràng chúng ta đã nhận tớ làm chủ, nhận giặc làm con. Đã nhận giặc làm con thì sự nghiệp đời mình tan nát không còn gì hết, không biết đến bao giờ mới dừng được. Vì vậy chúng ta tu là phải sáng suốt, giặc biết là giặc, tớ biết là tớ để nhận ra Ông chủ hay con thật không bị lầm, đó là chúng ta giác. Nếu nhận giặc làm con, nhận tớ làm chủ là chúng ta mê. Mê, giác đã có sẵn ở tất cả mỗi người, nhưng chúng ta thích cái nào hơn, thích mê hay thích giác? Thường thường có suy nghĩ mới vui, không suy nghĩ thì buồn. Ngồi yên không suy nghĩ gì cảm thấy buồn quá, nên muốn có suy nghĩ để thả nó chạy đầu non, góc núi, thành này, thị kia, dạo khắp các nơi thì vui ngồi quên giờ, còn ngồi mà không cho nó nghĩ, sao thấy lâu quá thời gian dài thăm thẳm. Đó là do thói quen của chúng ta đã thuần rồi, phải cho nó chạy nó nhảy mới vui, nếu dừng lại cảm thấy buồn, như ù lì không có gì hay, gì vui hết. Nhưng không ngờ chính cái chạy nhảy đó là tướng hư dối sanh diệt, còn cái yên lặng trong sáng là cái thật của mình, chỉ cần chúng ta nhận ra nó thì bao nhiêu nghiệp sanh tử ngang đây được dừng. Nếu chạy theo cái lăng xăng sanh diệt thì chúng ta cứ tiếp tục trôi lăn trong sanh tử, mà sanh tử là khổ đau. Như khi chúng ta tắm biển, ở chỗ nước phẳng lặng không chịu vì buồn, thích đến chỗ có sóng để nhồi với sóng mới vui, đó là do con người không thích bình yên chỉ thích cái gì động, cái hơi nguy hiểm mới chịu. Thế nên nói chúng ta đang an lại cầu nguy. Vì vậy đời này sanh tử, đời sau lại tiếp tục sanh tử. Ở đây chúng ta tu cốt dứt hết sanh tử, đó là nhân căn bản phải dừng sanh tử, nhưng các vị Bồ-tát có chịu dừng sanh tử không? Các ngài chưa chịu dừng sanh tử lại thích đi trong luân hồi. Như vậy đối với người tu là phải biết rõ gốc ngọn cho tường tận. Chúng ta tu là phải biết rõ mầm sanh tử phát xuất từ đâu, khi biết được mầm sanh tử phát xuất ở chỗ nào, rồi phải nhận trước khi mầm đó nảy ra, cái gì là gốc chân thật phải nhận ra cái gốc chân thật đó. Biết rõ nắm vững được gốc ngọn rồi, nếu không muốn sanh tử nữa thì mầm sanh tử chúng ta phải tiêu diệt, là dứt được gốc sanh tử. Nếu mầm sanh tử không tiêu diệt thì không dứt được sanh tử. Như vậy người tu chúng ta có hai hạng: một là biết được nhân sanh tử rồi chán ngán muốn dứt sạch mầm để thoát ly sanh tử, tức là để giải thoát sanh tử; hai là cũng biết được nhân sanh tử và gốc trước khi chưa có sanh tử. Biết rõ sanh tử là ảo tưởng, hư dối không thật, lẽ ra phải dứt các mầm đó để được giải thoát, nhưng các ngài không chịu dứt. Không chịu dứt để làm gì? Để còn sanh tử, để lăn lộn trong sanh tử giáo hóa cho mọi người được thức tỉnh. Nếu các ngài biết được gốc sanh tử ở chỗ nào, rồi tiêu diệt nó để hết sanh tử, như vậy phần mình được yên, nhưng còn bao nhiêu người khác mê thì làm sao? Vì thế các ngài không dứt mầm sanh tử, vẫn nuôi sanh tử nhưng không mê lầm. Nghĩa là các ngài đi trong sanh tử, mà danh từ chuyên môn trong nhà Phật gọi nhập du hí tam-muội, hay dạo chơi trong chánh định, dạo chơi trong lục đạo luân hồi mà vẫn ở trong chánh định. Bởi thấy sanh tử là trò ảo hóa không thật, không quan trọng và chúng sanh còn mê nên các ngài phải đi trong đó để đánh thức họ. Như vậy đi trong sanh tử có hai hạng người:

1. Vì mê chạy theo vọng thức tạo nghiệp luân hồi  nên tiếp tục đi trong sanh tử.

2. Do biết sanh tử là hư dối, từ vọng thức mà ra, nhưng vì chúng sanh mê nên các ngài chấp nhận đi trong sanh tử với bản nguyện đánh thức mọi người được tỉnh, được giác để thoát ly sanh tử, đó là hạnh nguyện của Bồ-tát.

Như vậy trọng tâm của sự tu không phải chỉ một bề cầu giải thoát sanh tử mà có người gấp rút lo giải thoát sanh tử, nhưng cũng có người chấp nhận đi trong sanh tử. Tôi nói có nhiều khi người ta tưởng tôi tham. Tại sao tham? Bởi vì tôi muốn làm sao cho ai cũng được thức tỉnh, mà muốn được như vậy có phải tham không? Người ta chưa chịu tỉnh mà tôi muốn họ phải tỉnh tức nhiên là tham rồi. Vì muốn mọi người đều tỉnh nên lúc nào tôi cũng sẵn sàng nhắc nhở, khuyến khích cho họ tỉnh. Nhưng thế thường của con người là khi vô minh nhè nhẹ, phơn phớt, vừa nhắc liền tỉnh, nếu lúc vô minh dày quá khi nhắc thì tỉnh, qua cơn lại mê. Vì vậy đôi khi tôi thấy cũng hơi bận rộn. Nếu hiểu được đường lối mình chỉ chăm chú lo tu thì khỏe biết mấy, phần mình tự lo đâu có gì phiền hà. Còn biết được đường lối tu, không chịu lo tu, lo kêu người này, gọi người kia nhắc họ tỉnh, nhưng họ không tỉnh còn làm những điều lôi thôi làm mình cũng hơi buồn. Bởi vì nếu tôi không biết mỗi người đều có hòn ngọc quí thì tôi không dại gì đi kêu đi chỉ. Nếu người ta không có, hoặc người đó không biết cũng như tôi không biết họ có hòn ngọc quí thì tôi kêu họ để chỉ cái gì. Ngược lại tôi biết người đó có hòn ngọc quí cũng như tôi có hòn ngọc quí, biết rõ không nghi ngờ. Nếu tôi biết rồi tự ráng phủi dẹp để lấy hòn ngọc, còn người khác biết có mà không chịu lấy, cứ lo chạy ngược chạy xuôi bỏ quên nó thì mình nghĩ sao? Trách nhiệm của mình thế nào, chẳng lẽ làm thinh để họ ôm hòn ngọc quí đi ăn mày lang thang, đành chịu vậy sao? Vì vậy tôi phải ráng nói, ráng chỉ, dù họ có tin hay không tin cũng được, nhưng tôi có chỉ rồi thì lòng mới an. “Anh có hòn ngọc quí thật đó, tôi chỉ cho anh thấy rõ, còn chuyện tin hay không là quyền của anh.” Tôi nói thật như vậy là bổn phận của tôi đã xong. Nếu tôi biết mà không chỉ để họ lang thang khổ sở là tôi ích kỷ không tròn bổn phận; đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai là biết mọi người ai tạo nghiệp lành, nghiệp dữ đều được hưởng vui hoặc phải chịu khổ. Nhưng ở thế gian ai cũng sợ khổ, thích vui thì nỡ lòng nào mình để cho người ta tạo khổ mà phải đánh thức cho họ tìm cái vui. Vì vậy phải chỉ cho họ biết nhân nào đau khổ, nhân nào an vui để họ tránh khổ được vui. Biết mà không chỉ là mình cũng có tội, nên phải ráng chỉ. Đó là phần thông thường mà tôi sử dụng hằng ngày, còn phần thâm trầm hơn là nhận được hòn ngọc quí.

Bởi vậy tôi nghĩ đời tôi có lẽ chừng nào không đủ sức để nói nữa mới thôi, chớ đâu nỡ làm thinh. Vì biết rõ chắc chắn không nghi ngờ nên tôi phải ráng nói ráng chỉ, còn tin và làm theo hay không là quyền của mỗi người, miễn sao nói được thì lòng tôi cảm thấy nhẹ đi phần nào. Nhưng đôi khi cũng có phản ứng ngược lại, là mình thấy hay thấy tốt, mà nói họ không nghe mình cũng hơi buồn, chớ lý đáng tôi nói ra là làm hết bổn phận rồi, nghe hay không là chuyện của họ. Đây là nhân việc của người xưa mà tôi nhắc đến việc hiện tại, như ngài Quảng Trí đã chỉ cho chúng ta thấy được nguồn gốc tường tận rõ ràng, Ngài mới nói:

Thế nhưng, đạo lớn thì mênh mông, phải tùy theo chỗ mà ra tay.

Đạo lớn mênh mông không thể nào chỉ ra hay diễn đạt cho người ta tường tận, nên phải tùy theo phương tiện mà mình ra tay được phần nào. Thí như biết cái áo lệch, nắm cổ áo kéo lên cho bằng, sửa cổ áo đó là chỗ ra tay. Giềng lưới không thẳng bị dùn hoặc chinh phải kéo lên cho thẳng cho ngay. Như vậy đạo quá lớn quá rộng, người ta không thể một sớm một chiều mà làm được, nên cái gì gần có thể làm được chỉ cho họ làm trước, còn cái thênh thang từ từ chỉ sau. Thế nên tôi nói có hai điều:

1. Biết mỗi người đều có hòn ngọc quí nên phải chỉ cho họ, tôi mới an lòng. Nhưng nói họ lại không tin vì tự cho mình là kẻ bần hàn làm sao có ngọc quí được, nên nghe nói họ chỉ lắc đầu tưởng như là trò chơi.

2. Vì biết họ thích vui sợ khổ, thôi thì dạy cho họ làm những việc tránh khổ để được vui trong đời này và những đời sau là tốt rồi. Như vậy điều gì sửa được thì sửa ngay giùm, chỉ những cái căn bản cho họ làm trước. Đó là phần thứ hai chỉ nghiệp thiện, nghiệp ác, nhân quả rõ ràng để cho người tu biết mà tránh cũng là điều tốt.

Trước kia, dưới cửa Tổ sư chỉ ra một con đường chánh tu hành, dạy người từ ngay đầu nguồn mà khởi công. Nếu đầu nguồn đã trong sạch, thì lý thật luôn luôn hiện tiền, thức và niệm tự nhiên ô nhiễm chẳng được. Ví như mặt trời đã lên cao giữa hư không, thì ma quái đều bặt dấu. Một pháp môn tâm địa này, chính là đạo của ngàn Thánh xưa nay chẳng đổi. Cho nên, trái với nó thì phàm, thuận với nó thì Thánh, mê nó thì sanh tử bắt đầu, ngộ nó thì luân hồi ngừng dứt.

Bởi vì người tu có khi đi từ những phương tiện này sang phương tiện khác, lần lần đến chỗ cuối cùng, còn đối với Thiền tông đi thẳng ngay đầu nguồn chớ không dùng phương tiện. Như câu chuyện tôi thường nhắc nhiều lần về việc Tổ Đạt-ma chỉ cho Tổ Huệ Khả, có phải đầu nguồn không? – Thưa: Tâm con không an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm. Nếu không phải chỉ thẳng đầu nguồn thì khi dạy nói: Ngươi niệm Phật đi rồi lần lần tâm ngươi an. Hoặc: Ngươi trì chú đi, rồi tâm ngươi sẽ an. Hay: Ngươi dùng câu gì đó để đàn áp cho tâm an. Còn ở đây Tổ Đạt-ma bảo: Đem tâm ra ta an cho. Ngay cái bất an tìm lại nó ở đâu? Tìm một lúc nó mất tiêu. Như vậy tìm tận cùng cái bất an đó không nguồn gốc, không nơi chốn. Khi tìm lại không được, Tổ mới dạy: Ta đã an tâm cho ngươi rồi. Ngay cái bất an phăng tìm tận gốc nó không có, như vậy có phải là trở về gốc không? Đường lối tu của Tổ sư là chỉ thẳng tìm tận gốc. Chúng ta nói bất an thì cái gì là bất an? Là cái nghĩ suy tính toán làm cho mình bất an, là tâm mình phải không? Khi tìm lại tường tận không có gì hết là đi thẳng vào gốc, không phải dùng một phương tiện nào để đè. Đó là ý ở đây nói “dưới cửa Tổ sư chỉ ra một con đường chánh tu hành, dạy người từ ngay đầu nguồn mà khởi công”. Như vậy chúng ta xét kỹ mọi tội lỗi tham sân si gốc từ đâu ra, cũng từ dấy niệm mà ra; dấy niệm nên có tham, sân v.v… Vì vậy muốn dứt tham, sân, si thì ngay niệm khởi phải dừng. Niệm khởi dừng thì tham sân si đâu còn. Đây cũng thẳng từ gốc mà dẹp, nên tôi nói là đi tận đến chỗ nảy mầm dẹp sạch nó hay bóp chết từ trong trứng nước không đợi nó thành hình. Đó là ý nghĩa chúng ta phải nhớ nắm vững để tu hành.

Nếu đầu nguồn đã trong sạch, thì lý thật luôn luôn hiện tiền, thức và niệm tự nhiên ô nhiễm chẳng được.

Bởi thức và niệm không dấy khởi được thì làm gì có ô nhiễm, là trở về Tâm thể thanh tịnh. Vì vậy Ngài mới ví dụ:

Ví như mặt trời đã lên cao giữa hư không, thì ma quái đều bặt dấu.

Khi tâm mình không còn một niệm vọng thức dấy động, đó là mặt trời lên cao. Cho nên ngài Vô Ngôn Thông ngộ câu: “Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu.” Nghĩa là đất tâm nếu không thì mặt trời trí tuệ liền soi. Không có niệm khởi, không có vọng thức thì mặt trời trí tuệ sáng lên rất rõ ràng, nên nói ma quái đều bặt dấu. Còn chúng ta ma quái hiện lên luôn luôn vì đất tâm còn bụi rậm um tùm, nên có chỗ cho nó ẩn núp.

Một pháp môn tâm địa này, chính là đạo của ngàn Thánh xưa nay chẳng đổi. Cho nên, trái với nó thì phàm, thuận với nó thì Thánh, mê nó thì sanh tử bắt đầu, ngộ nó thì luân hồi ngừng dứt.

Thật đơn giản làm sao! Nếu trái với đất tâm trong sạch là phàm, thuận với nó là Thánh. Nghĩa là chúng ta trở về đất tâm thanh tịnh thì dòng luân hồi không còn nữa. Nếu quên nó đi, cứ nuôi vọng thức lăng xăng đó là gốc luân hồi sanh tử.

 Vậy muốn dừng luân hồi không gì bằng thể nhận “chí đạo”. Muốn thể nhận chí đạo, không gì bằng quán chiếu Bản tâm. Muốn quán chiếu Bản tâm, cần mở rộng mắt rỗng soi xét. Luôn khiến cho trăng tỏ rọi sáng ngời, thường ở trong định mà trí tuệ chiếu soi. Luôn luôn giữ được trong chỗ thất tình chưa phát này. Luôn luôn bảo tồn được thể bát thức chưa nhiễm này. Thì, ngoài dừng các duyên, trong bặt các vọng. Gồm thu ánh sáng nơi mắt, lắng đọng âm vận nơi tai, điều hòa hơi thở nơi mũi, bịt kín khí vị nơi lưỡi, tay chân chẳng động. Khiến cho năm thức: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, mỗi thứ trở lại căn của nó, thì năm thứ linh: tinh, thần, hồn, phách và ý, mỗi thứ yên nơi vị của nó. Trong hai mươi bốn giờ thường xem kỹ bên trong sự chạy rong của con trâu này, lẫn với thường lắng nghe ngược lại sự thuần thục hay buông lung của nó. Cả đến mọi cử chỉ hành động, niệm niệm chẳng rời nó. Cũng như, đi đứng nằm ngồi, tâm tâm luôn ở ngay con trâu này. Không thể một sát-na quên mất chiếu soi hay thoáng chốc trái nhau. Thần quang vừa phóng ra liền thu lại. Trong lúc vội vàng vẫn không tách rời. Thường ở ngay đây mà luôn để ý chiếu soi. Như ông Tử Tư nói: “chẳng thể rời trong giây lát”, là đấy.

Muốn dừng luân hồi không gì bằng thể nhận “chí đạo”: Đây là một từ khác, chữ “chí đạo” này là từ của Tổ Tăng Xán nói: “Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch.” Chí đạo tức là chỗ tột cùng của đạo, là Chân tâm.

Muốn thể nhận chí đạo, không gì bằng quán chiếu Bản tâm.

Tức là soi sáng từng niệm, từng phút giây nó có chạy, có rong ruổi hay không?

Muốn quán chiếu Bản tâm, cần mở rộng mắt rỗng soi xét.

Phải nhìn nó với tánh cách rỗng rang, không nên hẹp hòi kềm chế.

Luôn khiến cho trăng tỏ sáng ngời, thường ở trong định mà trí tuệ chiếu soi. Luôn luôn giữ được trong chỗ thất tình chưa phát này.

Phải dùng trí soi sáng rõ ràng, không nên để định mà quên tuệ. Chỗ thất tình luôn luôn gìn giữ không cho dấy lên. Thất tình là: mừng, giận, sợ, yêu, buồn, ghét, muốn. Nghĩa là làm sao giữ không cho bảy thứ này dấy lên. Nếu tâm không dấy niệm thì có thất tình hay không? Nếu nó dấy niệm thì không niệm thương thì niệm ghét, không niệm mừng thì niệm giận. Vì vậy phải giữ được chỗ lặng yên của nó chưa dấy niệm thì thất tình không có.

Luôn luôn bảo toàn được thể bát thức chưa nhiễm này. Thì, ngoài dừng các duyên, trong bặt các vọng.

Nếu giữ cho thất tình không dấy động, hay nói cách khác, chỗ không nhiễm tức là thức thứ tám không nhiễm thì ngoài dừng các duyên, trong bặt các vọng. Câu này nghe khó hiểu, các duyên bên ngoài làm sao dừng được. Mắt mình đang mở sáng có người đi qua là có duyên, nên chận họ lại không cho đi qua mắt mình hay phải làm sao? Như vậy cảnh đến đi mình dừng nó bằng cách nào? Dừng không có nghĩa là trốn, đuổi, hay xây mặt vào vách không nhìn đến ai. Dừng các duyên có nghĩa là mọi cảnh, mọi duyên đối diện trước mắt mình không cho dính, kẹt. Người đi qua biết người, vật đi qua biết vật, giống như gương cái nào hiện cái ấy, qua rồi thôi. Có người vật nào đi qua rồi còn dính bóng trong gương không? Còn gương mắt mình tại sao bị dính? Nó không có keo mà sao qua rồi lại dính? Đó là điều mà tất cả chúng ta tu phải khéo như cái gương trong sáng, người vật đến thì hiện hình, qua rồi thì mất bóng. Mắt chúng ta cũng phải như cái gương vậy. Như vậy chúng ta không trốn cảnh, không đuổi mọi sự vật đến với chúng ta mà cái khéo là người đến hiện người, vật đến hiện vật, qua rồi thôi đừng để dính nhiễm. Muốn không dính nhiễm thì khi người qua đừng vọng khởi về người, vật qua không vọng khởi về vật. Không vọng khởi thì không nhiễm. Nếu có người qua khen là đẹp, vật qua cho là xấu đó là dính rồi. Cho nên người thì biết người, vật thì biết vật, không có một niệm nào để phân biệt về người vật đó thì không có dính khằn; nếu có niệm phân biệt đây là đẹp, kia là xấu là có khằn dính. Vì vậy xấu hay đẹp qua rồi mà bóng cứ lảng vảng ở mình mãi làm mất thì giờ tu, hết chướng này lại sanh chướng khác. Lý đáng giờ ngồi thiền rảnh rang biết mấy, mọi sự việc ở ngoài đều gác qua một bên, đóng cửa Thiền đường lại vô ngồi thì còn chuyện gì nữa đâu. Vậy mà có yên không? Bởi vì chúng ta tránh được duyên tiếp xúc bên ngoài, nhưng bóng dáng bên trong vẫn còn chưa mất hết; sở dĩ nó không mất là vì khi tiếp xúc với duyên mình vọng khởi phân biệt nhiều, từ vọng khởi phân biệt nên có dính mắc. Khi dính mắc rồi tuy cảnh ngoài không có, mà từ trong tâm bóng dáng hiện ra quấy nhiễu, làm mất thì giờ tu của mình. Vì vậy chúng ta tu phải làm sao đối cảnh, đối duyên mà tâm vẫn như như trong sáng không để cho dính mắc. Thế nên Cổ đức có nói:

Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tung chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.

Nghĩa là:

Nhạn bay trong không
Bóng chìm đáy nước
Nhạn không có ý để dấu
Nước không có tâm giữ bóng.

Nghĩa là nhạn bay qua bóng chìm dưới nước, mà nhạn có ý để bóng, nước có ý lưu dấu lại không? – Không, qua rồi mất, còn có ý thì có bóng có dấu. Vì vậy không dấy niệm thì ý không chen vào, còn dấy niệm thì ý mới chen vào được. Thế nên biết tu là làm sao trước cảnh duyên chúng ta không tiêu cực để trốn tránh, nhưng đừng để cho vọng thức quá lăng xăng, quá phân biệt rồi dính khằn, khiến cho sự tu bị thối thất. Được như vậy thì giờ ngồi thiền là giờ rất thánh thiện, nhàn hạ, thảnh thơi, khỏi phải dẹp bỏ gì hết. Lâu lâu tôi có nhìn lén những người ngồi thiền, có người ngồi rất tươi tỉnh, có người ngồi gục gặc đầu, có người nhăn mặt trông khổ sở lắm. Những hiện tượng đó là do ở trong đang có niềm vui hay có cái gì không được thảnh thơi thoải mái. Làm sao khi chúng ta ngồi thiền có nét mặt như ông Phật ngồi trên bàn, tươi vui cười mỉm trông thật nhàn hạ, còn ngồi bặm môi, trợn mắt, hay gục gặc đầu thật là khổ sở. Vì vậy chúng ta phải khéo tu làm sao cho có kết quả tốt thì sự tu mới được lợi ích thiết thực.

Gồm thu ánh sáng nơi mắt, lắng đọng âm vận nơi tai, điều hòa hơi thở nơi mũi, bịt kín khí vị nơi lưỡi, tay chân chẳng động. Khiến cho năm thức: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, mỗi thứ trở lại căn của nó, thì năm thứ linh: tinh, thần, hồn, phách và ý, mỗi thứ yên nơi vị của nó.

Ở đây Ngài chỉ cho chúng ta thấy rõ, khi ngồi thiền là gồm thu ánh sáng nơi mắt, lắng đọng âm vận nơi tai. Bởi vì người tu thiền có hai căn bén nhạy nhất là mắt và tai, nên khi ngồi phải thu ánh sáng trở lại mắt, không cho phóng chạy ra ngoài, thu âm vận nơi tai cho lắng đọng, “điều hòa hơi thở nơi mũi, bịt kín khí vị nơi lưỡi, tay chân chẳng động. Khiến cho năm thức: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, mỗi thứ trở lại căn của nó”. Tức là nó y nguyên: Mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, mũi vẫn ngửi, lưỡi vẫn nếm bình thường nhưng không bị dấy động, không bị nhiễm nhơ bởi ngoại trần; đó là mình thu nó trở về. Nếu năm thức trở về được năm căn của nó thì ở đây Ngài nói theo Nho là tinh, thần, hồn, phách và ý, còn chúng ta chỉ nói gọn là ý mới được yên nơi vị của nó. Như vậy trong năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân nếu không phóng ra thì ý không có cơ hội chạy, nên nó dừng được ý; còn năm căn phóng ra thì ý theo đó mà chạy. Như chúng ta đang ngồi thiền nghe có những tiếng người nói chuyện bên ngoài, nếu nghe mà mình không dấy niệm thì ý có chạy không? Còn nghe mà khởi nghĩ ai đó nói gì ở ngoài, lắng nghe rồi thì ý chạy lung tung. Như vậy gốc của sự tu là làm sao giữ năm căn mỗi cái phải ở ngay bản vị của nó, đừng để cho ý chen vào gây ra chuyện rối rắm bên ngoài.

Trong hai mươi bốn giờ thường xem kỹ bên trong sự chạy rong của con trâu này, lẫn với thường lắng nghe ngược lại sự thuần thục hay buông lung của nó.

Như vậy chăn trâu là chăn bằng cách nào? Nghĩa là trong hai mươi bốn giờ giữ con trâu của mình (con trâu ở đây Ngài nói là nơi sáu căn của mình) không cho nó chạy ra, trái lại phải nhìn thấu vô trong xem nó đang thuần thục hay buông lung để kềm chế nó.

Cả đến mọi cử chỉ hành động, niệm niệm chẳng rời nó. Cũng như, đi đứng nằm ngồi, tâm tâm luôn ở ngay con trâu này.

Khi đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng chăn giữ sáu căn không cho nó chạy, không để nó dính với ngoại cảnh.

Không thể một sát-na quên mất chiếu soi hay thoáng chốc trái nhau.

Nghĩa là một phút, một giây cũng phải thấy biết rõ, không để cho nó tung hoành ra ngoài.

Thần quang vừa phóng ra liền thu lại. Trong lúc vội vàng vẫn không tách rời. Thường ở ngay đây mà luôn để ý chiếu soi. Như ông Tử Tư nói: “chẳng thể rời trong giây lát”, là đấy.

Ở đây Ngài dẫn theo Nho để làm chứng rằng người khéo tu dù theo Nho hay Phật đều phải khéo giữ gìn, không để cho nó buông lung dù trong một phút một giây.

Lại trước còn giữ nó để cho trống hết tâm kia. Kế quên nó để mở rộng cái lượng kia. Tùy chỗ, tùy thời đều tự tại vô ngại.

Đây Ngài chỉ hai cách đễ giữ. “Trước còn giữ nó để cho trống tâm kia.” Giữ nó tức là giữ cho sáu căn đừng đấy niệm thì tâm mới trống rỗng, thênh thang. “Kế quên nó để mở rộng cái lượng kia“: Nghĩa là giữ cho sáu căn không dấy niện tức là sáu căn thanh tịnh. Sau đó quên không còn kềm giữ sáu căn nữa thì tâm mình mới rộng thênh thang.

Tùy chỗ tùy thời đều tự tại vô ngại.

Như vậy tùy chỗ tùy thời tâm mình không còn gì trở ngại hết.

Song, người học chỉ cốt lo dẹp trừ sáu thức, thì càng nên rõ biết chỗ trước sau. Ý tuy là chủ soái của sáu thức, mà mắt chính là tiên phong của năm giặc. Nên bậc Tiên đức nói: “Tâm là then chốt, mắt là giặc trộm.” Muốn hàng phục tâm kia, trước phải thu nhiếp mắt kia. Bởi cây nỏ thì sự phát động ở tại bộ phận máy, tâm thì sự duyên dẫn ở tại mắt. Bộ phận máy chẳng động thì nỏ đứng yên. Mắt chẳng động thì tâm đứng yên. Phải biết, vọng niệm dấy lên từ thức căn, đối với cảnh mà thành vọng, chẳng phải có thật thể. Khi ở chúng sanh, thì trí yếu thức mạnh nên chỉ gọi là thức. Ngay khi ở Phật địa, thì trí mạnh thức yếu nên chỉ gọi là trí. Chỉ chuyển tên kia mà chẳng chuyển thể kia. Ban đầu thì một nguồn tâm rỗng rang trong lặng, rồi do “tri kiến lập tri”, vọng trần sanh khởi, nên có vọng niệm. Nếu “tri kiến vô kiến, tư tức Niết-bàn”, thì Trí tánh chân thật thanh tịnh sẽ trở lại trong lặng nhiệm mầu, rỗng suốt trọn vẹn, ý niệm liền tiêu. Ý niệm đã tiêu, thì từ thức thứ sáu trở xuống, không thức nào chẳng đều tiêu hết. Tức là chỗ ngài Văn-thù bảo: “Một căn đã trở về nguồn, sáu căn trở thành giải thoát.” Đã không sáu căn thì không sáu trần, đã không sáu trần thì không sáu thức. Đã không sáu thức thì không chủng tử luân hồi. Đã không chủng tử luân hồi, thì một điểm Chân tâm của ta, đứng riêng không chỗ nương, rỗng rang mênh mông, sáng rỡ, lặng trong, muôn kiếp thường còn, hằng không sanh diệt.

Đoạn này Ngài chỉ rất rõ ràng để chúng ta nhớ mà tu.

Song, người học chỉ cốt lo dẹp trừ sáu thức, thì càng nên rõ biết chỗ trước sau. Ý tuy là chủ soái của sáu thức, mà mắt chính là tiên phong của năm giặc.

Như vậy người học chỉ lo dẹp trừ sáu thức nhưng phải rõ biết cái nào trước, cái nào sau. Ý tuy là chủ soái song con mắt mới là tiên phong của năm giặc. Chủ soái có bị lăng xăng rối loạn hay thành công là do tướng tiên phong dẫn đường. Như thấy hoa đẹp ở trước, mà mắt chúng ta không chú ý phân biệt thì chủ soái bên trong có quấy rầy lăng xăng không? Sở dĩ chúng ta bị quấy rầy là vì mắt vừa thấy hoa đẹp liền phân tích hoa đẹp làm sao… thì ý theo đó duyên nhiễm. Như vậy chủ soái là ý mà con mắt là tiên phong. Con mắt làm sao không cho nó dính? Trong nhà thiền thường nói là mở mắt như mù. Nghĩa là sao? Không phải đi đâu cũng bịt mắt lại không cho thấy gì hết mà mắt vẫn thấy biết tất cả nhưng không cái gì dính kẹt là có mắt như mù. Giả sử có mười người đi qua trước mắt chúng ta, ăn mặc quần áo sặc sỡ, nhưng mình không chú ý đến người nào hết. Khi họ đi qua rồi, giây lát sau nếu có ai hỏi, những người khi nãy vừa đi qua người nào đẹp, người nào xấu thế nào, mình sẽ trả lời ra sao? Không chú ý thì đâu thấy ai đẹp, ai xấu. Như vậy có mắt mà như mù, thấy như không thấy. Còn nếu chú ý người này ăn mặc hợp thời trang, người kia không hợp thì khi được hỏi đến liền phân tích thế này thế nọ, là người có mắt sáng, là có thấy, còn không chú ý là có mắt như mù. Chúng ta phải giữ sao cho có mắt như mù thì tu dễ thành công, còn có mắt sáng quá tu cực khổ lắm. Đó là chỗ phải ngừa anh tiên phong trước để ông chủ soái được yên; nếu để anh tiên phong dẫn giặc vào nhiều thì ông chủ soái phải mệt.

Nên Tiên đức nói:

Tâm là then chốt, mắt là giặc trộm.

Then chốt là vật dùng gài cửa. Tâm là cửa gài ở trong, nhưng con mắt là giặc trộm, có chuyện gì nó liền cạy cửa, cho nên tâm mới động, mới dấy. Như vậy hai thứ đó liên hệ nhau.

Muốn hàng phục tâm kia, trước phải thu nhiếp mắt kia.

Nghĩa là làm sao đối với tất cả cảnh đừng để cho nó kẹt dính thì tâm dễ hàng phục, nếu để kẹt dính thì tâm khó hàng phục được.

Bởi cây nỏ thì sự phát động ở tại bộ phận máy, tâm thì sự duyên dẫn ở tại mắt. Bộ phận máy chẳng động thì nỏ đứng yên. Mắt chẳng động thì tâm đứng yên. Phải biết, vọng niệm dấy lên từ thức căn, đối với cảnh mà thành vọng, chẳng phải có thật thể.

Vì vọng niệm dấy lên là do mắt tai mũi lưỡi thân tiếp xúc với ngoại trần dấy niệm nên thành ra đối địch, chống chọi, phân biệt. Tuy đối địch nhưng nó không có thật thể.

Khi ở chúng sanh, thì trí yếu thức mạnh nên chỉ gọi là thức. Ngay khi ở Phật địa, thì trí mạnh thức yếu nên chỉ gọi là trí.

Như vậy gọi là trí, là thức tùy ở địa vị. Ở địa vị mê của chúng sanh, cũng cái biết nhưng là cái biết của vọng tưởng phân biệt nên gọi là thức; còn ở địa vị Phật, cũng cái biết mà sáng suốt giác ngộ, nên gọi là trí.

Chỉ chuyển tên kia mà chẳng chuyển thể kia. Ban đầu thì một nguồn tâm rỗng rang trong lặng, rồi do “tri kiến lập tri”, vọng trần sanh khởi, nên có vọng niệm.

Ngài dẫn kinh Lăng Nghiêm để thấy rõ ban đầu chỉ là một nguồn tâm rỗng rang trong lặng, nhưng do “tri kiến lập tri”, vừa có thấy biết liền khởi niệm phân biệt đó là lập tri, rồi “vọng trần sanh khởi, nên có vọng niệm”. Nếu “tri kiến vô kiến, tư tức Niết-bàn”. Nghĩa là mình thấy biết mà không thấy biết, như có người đi qua mình thấy biết, mà không có niệm phân biệt đó là không thấy biết. Nếu không thấy biết như vậy tức là Niết-bàn. Vậy Niết-bàn với sanh tử cách nhau bao xa? Chỉ là đối duyên, xúc cảnh mà khởi niệm đuổi theo phân biệt đó là sanh tử. Còn đối duyên, xúc cảnh mà không dấy niệm đuổi theo dính mắc, đó là Niết-bàn chớ không đâu xa.

Thì Trí tánh chân thật thanh tịnh sẽ trở lại trong lặng nhiệm mầu, rỗng suốt trọn vẹn, ý niệm liền tiêu. Ý niệm đã tiêu, thì từ thức thứ sáu trở xuống, không thức nào chẳng đều tiêu hết.

Nếu ý niệm tiêu thì sáu thức cũng theo đó mà tiêu. Vì vậy trọng tâm chúng ta tu là ở ý. Nếu ý lặng thì tất cả đều theo đó mà lặng hết.

Tức là chỗ ngài Văn-thù bảo: Một căn đã trở về nguồn, sáu căn trở thành giải thoát.

Đây lại dẫn kinh Lăng Nghiêm chỗ Phật dạy ngài Văn-thù chọn các căn viên thông.

Đã không sáu căn thì không sáu trần, đã không sáu trần thì không sáu thức. Đã không sáu thức thì không chủng tử luân hồi.

Khi sáu thức không còn hoạt động, không còn tạo nghiệp nữa thì luân hồi cũng không còn.

Đã không chủng tử luân hồi, thì một điểm Chân tâm của ta, đứng riêng không chỗ nương, rỗng rang, mênh mông, sáng rỡ, lặng trong, muôn kiếp thường còn, hằng không sanh diệt.

Đến đây gọi là giải thoát sanh tử, là được giác ngộ hoàn toàn. Như vậy chúng ta tu là trở về cái sẵn của mình, chớ không phải ở đâu đem đến. Đã có sẵn nhưng vì chúng ta mê tức là quên, nay tỉnh lại dẹp bỏ những manh mối dẫn đi luân hồi sanh tử, để trở về nguồn bất sanh bất diệt, đó là gốc của sự tu.

Đây là pháp chỉ thẳng tâm người, rất rõ ràng xác thật, chặt thẳng làm sao! giản dị làm sao! Chỉ hay chăm lo cội nguồn quán chiếu con trâu này, lâu rồi thì tự nhiên tâm không, mênh mông lóng đứng, lặng lẽ chẳng động, vắng bặt chẳng nghĩ, rỗng toang tâm mở, tỏ suốt thấy tánh. Đây là chỗ nói: Da mỏng da dày đều rớt sạch, một Thể chân thật hiện tiền.

Ngài nói: “đây là pháp chỉ thẳng tâm người” tức là trực chỉ nhân tâm, “rất rõ ràng xác thật, chặt thẳng làm sao! giản dị làm sao!” Bởi vì pháp này đi thẳng không quanh co, mà đã đi thẳng thì nó rất giản dị không phiền toái. Vì vậy nên ở đây nói chặt thẳng, giản dị. Như chúng ta ứng dụng tu đối với pháp Thiền tông chỉ thẳng nơi tâm mình, nên là chặt thẳng, cho thấy rõ tâm nào chân thật, tâm nào hư dối, chúng ta không theo những vọng tưởng hư dối, đó là đơn giản vô cùng không có gì lạ ở bên ngoài.

Chỉ hay chăm lo cội nguồn quán chiếu con trâu này.

Chúng ta tu là phải nhìn thẳng nguồn gốc để quán chiếu tường tận, mà quán chiếu cái gì? – “Quán chiếu con trâu này.” Như vậy con trâu này tức nơi tâm mình có những niệm dấy khởi chạy theo sáu trần, thì những niệm dấy khởi chạy theo sáu trần đó gọi là con trâu đi ăn lúa mạ của người. Ngay đó chúng ta dừng không đi theo, là chăm lo cội nguồn, chận đứng ở nội tâm chớ không đợi nó dính với cảnh rồi mới chận.

Lâu rồi thì tự nhiên tâm không.

Nghĩa là khi niệm khởi chúng ta không theo, tập như vậy lâu rồi tự nhiên tâm được an ổn nên nói tâm không. Không ở đây là không dấy niệm chớ không phải không ngơ.

Mênh mông lóng đứng.

Khi tâm lặng lẽ rồi thì nó không có chỗ nơi, không chừng mực nên nói nó mênh mông. Chỗ này có tu mới thấy rõ được. Khi chúng ta ngồi thiền mà nội tâm dấy khởi thì nó mênh mông hay gom lại một phần nhỏ? Thí dụ khởi nghĩ nhớ món đồ thì nó nhỏ bằng món đồ, nghĩ nhớ con người nó gom lại bằng con người, còn khi không nghĩ, không nhớ thì tâm không một chút giới hạn nào nên gọi đó là mênh mông, không chừng mực nào hết.

Lặng lẽ chẳng động.

Khi nó không dấy thì lặng, mà lặng thì không động.

Vắng bặt chẳng nghĩ, rỗng toang tâm mở.

Khi tâm lặng lẽ không nghĩ không tưởng thì nó vắng bặt, nó rỗng toang. Rỗng toang tức là mở rộng không có gì ngăn cách.

Tỏ suốt thấy tánh.

Nó sáng tỏ thấu suốt được Bản tánh của mình nên thấy được tánh. Như vậy chữ thấy tánh này phải nghĩ làm sao mà thấy. Ví như tâm chúng ta cứ dấy động nghĩ chuyện này chuyện kia liên miên, thì lúc đó chúng ta chỉ biết việc nó nghĩ, theo việc nó nghĩ mà không thấy được Bản tánh của tâm. Khi tâm lặng yên trong sáng mà mình hằng giác hằng tri, thì cái hằng tri hằng giác nhận rõ nó là Bản tánh của mình. Như vậy bỏ tâm sanh diệt chợt còn chợt mất, để nhận Bản tánh sáng suốt hằng nhiên rỗng khắp, là bỏ một cái nhỏ để nhận một cái lớn. Nếu nhận niệm khởi là tâm mình là nhận tâm nhỏ, mà niệm khởi là tướng sanh diệt, là tâm tạm bợ, khi niệm khởi lặng thì tất cả những lăng xăng đều yên tĩnh hết, lúc đó mới thấy tâm mình thênh thang, trong sáng hằng giác hằng tri, tâm mình vô giới hạn. Thế nên nói người học Phật là bỏ cái nhỏ để đạt được cái lớn hay bỏ cái giả để nhận chân cái thật của chính mình, chớ không phải của ai đem đến ban cho. Đó là một lẽ thật, chỉ khi nào tâm mình an định mới thấy rõ, nên nói tỏ suốt thấy tánh.

Đây là chỗ nói: Da mỏng da dày đều rớt sạch, một Thể chân thật hiện tiền.

Như người bị những lớp da bao bọc, che phủ, bây giờ những lớp da đó tan hoang rã rời, chỉ còn cái chân thật hiện tiền. Như vậy để thấy người tu Phật hay nói đơn giản hơn là tu thiền, không mong cầu cái gì xa lạ ở bên ngoài, mà chỉ cần gỡ những mối gút đang làm cho tâm xáo động mờ mịt, không cho dấy động nữa. Tâm không dấy động, không mờ mịt thì tự nhiên nó trong sáng. Từ tâm trong sáng mới nhận ra được Thể chân thật của mình. Mọi ý niệm, mọi nghĩ suy dấy lên cứ che mờ, giống như da mỏng da dày đang phủ che cái chân thật ở trong. Bây giờ những thứ đó rã rời ra thì cái chân thật hiện tiền. Đó là để chỉ cho chúng ta biết tu đến lúc nào thành công, đến lúc nào đạt được kết quả, chớ không phải như nhiều người hiểu lầm tu cứ mơ màng, cứ trông đợi Phật Tổ ban cho cái này cái kia, mà đây là lẽ thật quay về mình.

Công phu đến đây thì tự nhiên tinh thần sáng tỏ, trí tuệ thông suốt, tâm tánh linh thông, khắp được đại tự tại.

Người tu đến chỗ tâm rỗng rang trong sáng thì tự nhiên tinh thần được sáng tỏ, trí tuệ được thông suốt, tâm tánh được linh thông, khắp được tự tại. Như vậy cái thông minh sáng suốt là do tâm phiền não vọng tưởng lóng dừng rồi cái trí tuệ sáng suốt hiện. Khi trí tuệ sáng suốt hiện là mình được đại tự tại. Vì thế việc tu là một lẽ thật chỉ quay lại mình để dẹp những mê mờ, đưa đến cái sáng suốt của chính mình, chớ không phải ai đâu xa khác.

Mới biết, tất cả chư Thánh đều từ pháp môn tâm địa này, phương tiện mà vào, sẽ được thành Phật, làm Tổ, làm thầy trời người, phàm phu không thể chứng đến.

Như vậy chúng ta mới biết rõ chư Thánh, tức là các bậc từ bậc Hiền lên bậc Thánh đều từ pháp môn tâm địa này, phương tiện mà vào. Pháp môn tu thiền này cũng gọi là pháp môn Tâm địa. Tại sao gọi là Tâm địa? Tâm địa có nghĩa là đất tâm. Bởi vì tất cả cây cối, nhà cửa v.v… có cái nào ngoài mặt đất mà mọc, mà sanh được không? Như vậy tất cả muôn sự, muôn vật trên thế gian này đều tựa trên mặt đất. Cũng vậy tất cả pháp lành pháp dữ đều từ nơi tâm mà ra, chớ không cái nào riêng có. Mà đã từ tâm ra thì pháp tu trở về tâm gọi là Tâm địa. Vì nó là chỗ sản sanh muôn pháp, mà trở về tức là dùng phương tiện mà vào. Đi vào bằng những phương tiện rồi sẽ được thành Phật, làm Tổ, làm thầy cả trời người, phàm phu không thể chứng đến. Bởi vì khi tu đến kết quả thành Phật thành Tổ, thì lúc đó sẽ làm thầy cả trời người. Còn chúng ta hiện nay tu lại mong mỏi được chư thiên ủng hộ, mà nếu chư thiên ủng hộ thì mình là bạn bè với chư thiên, chớ không được làm thầy, vì làm thầy thì không cần ủng hộ, cần ủng hộ thì không phải là thầy họ, có khi ngược lại. Cũng như có người đi cầu quỉ thần ủng hộ thì người đó là thầy của quỉ thần hay là đồ đệ của quỉ thần. Đây tôi nói một cách thông thường, như có ai mới tu hoặc tu ít ít đến với tôi thì họ nói: Nhờ Thầy thương xót ủng hộ cho chúng con tu hành đến nơi đến chốn. Nếu tôi ủng hộ họ thì họ bằng tôi chưa? Chắc chưa. Nếu bằng thì chắc họ không phải xin ủng hộ. Cũng như vậy, nếu ai muốn được quỉ thần ủng hộ tức là bạn bè hay đàn em cháu của quỉ thần, còn ai muốn được chư thiên ủng hộ, đó là huynh đệ của chư thiên, có lẽ làm đệ là đúng hơn. Còn ở đây nếu chúng ta tu đến chỗ cuối cùng, là làm thầy của chư thiên nữa đó. Vì vậy nên khi Phật thành đạo thì chư thiên đến qui y thỉnh Phật về cung trời giảng pháp v.v… Như vậy có phải là thầy chưa? Như Tổ Ưu-ba-cúc-đa khi bị các loài thiên ma đến phá, Ngài chinh phục được rồi, thiên ma xin qui y, kính Ngài làm thầy. Như vậy Phật Tổ đều làm thầy của cả trời người, chớ không phải chỉ làm thầy cho người thôi. Bởi vậy trong lễ qui y có câu: qui y Phật không qui y thiên thần quỉ vật. Vậy mà hiện nay có nhiều người tuy đã qui y Phật rồi, nhưng thiên họ vẫn kính, thần họ vẫn thờ, quỉ họ vẫn nể. Như vậy những người đó chưa hiểu được giá trị thật của Phật, của Tổ. Đó là chỗ chúng ta phải hiểu cho thật rõ. Không phải chúng ta ngạo mạn, nhưng vì đức Phật và chư Tổ đủ khả năng để dạy bảo hướng dẫn cho chư thiên tu hành, thì chư thiên đối với Phật là đệ tử, chúng ta cũng là đệ tử Phật. Như vậy chư thiên với chúng ta cũng không khác bao nhiêu, chỉ có phước hơn chúng ta thôi. Cũng như người giàu có qui y với thầy, người nghèo khổ qui y với thầy, tuy giàu, nghèo có khác nhưng cùng qui y một thầy, mà một thầy tức là đồng sư. Vậy điều vô lý là đồng sư mà trở lại qui y với họ. Bởi vậy chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa thiên nhân chi sư là thầy cả trời người là thế ấy. Giả sử kính trời còn khả dĩ vì phước cao hơn mình, còn quỉ thần mà kính thì thật là khó hiểu. Nếu nói quỉ chắc ít ai kính, chỉ sợ thôi, như những quỉ lang thang đói rét, gọi là ngạ quỉ, là quỉ đói. Còn thần đối trong nhà Phật gọi là đại lực quỉ, là quỉ có thế lực. Thí dụ ông tướng nào đó chết trận có thể họ hay phá phách người, nên gọi là thần nhưng nhà Phật cũng gọi là quỉ, chỉ là quỉ có thế lực. Nói như vậy để chúng ta hiểu rõ không còn lầm lẫn.

Do người chẳng nhận biết Tự tâm, nên kinh Phật nói: “Tất cả chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay mê muội điên đảo Bản tâm chẳng tự giác ngộ, vọng nhận bốn đại làm thân, duyên lự làm tâm. Ví như bỏ đi trăm ngàn biển cả chỉ nhận lấy một hòn bọt nhỏ.”

Đây là đoạn dẫn trong kinh Lăng Nghiêm. Đoạn này khi học kinh Lăng Nghiêm tôi thắm thiết nhất. Bởi vì trong kinh Phật nói: “Tất cả chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay mê muội điên đảo Bản tâm chẳng tự giác ngộ.” Tất cả chúng sanh từ vô lượng kiếp là không biết bao nhiêu kiếp mà nói. “Mê muội điên đảo Bản tâm” hay nói cách khác là đối với Bản tâm mình mê muội, điên đảo. Bởi mê muội điên đảo Bản tâm nên không tự giác ngộ, mà không tự giác ngộ rồi nhận cái gì làm mình? – “Vọng nhận” tức là dối nhận “bốn đại làm thân, duyên lự làm tâm”. Có ai không nhận vậy không? Khi nói tới mình thì tự xưng tôi, xưng ta, mà tự xưng tức chỉ cho thân tứ đại, thân tứ đại là tôi, là hình tướng lấy tứ đại làm mình, rồi “duyên lự làm tâm” tức cái nghĩ tưởng lăng xăng ở trong cho là tâm mình. Vậy tất cả chúng ta nhìn lại xem có người nào thấy khác không? Hay ai cũng thấy thân tứ đại là mình, tâm nghĩ tưởng lăng xăng là tâm mình? Như vậy là đã nhận lầm thân, nhận lầm tâm rồi. Bây giờ tôi nói thẳng, chỉ thẳng, thân tứ đại này do duyên hợp, nói gần là bốn thứ đất, nước, gió, lửa. Sáng ngủ thức dậy sửa sang đôi chút rồi lo điểm tâm sáng. Điểm tâm là gì? – Đem một ít đất, một ít nước vào cho nó an ở trong. Đến trưa cũng đem một số đất nước dồn vô. Rồi chiều nếu nhè nhẹ cũng một ít đất nước vô nữa. Nhưng đem vô rồi nó có ở trong luôn không? – Phải cho ra. Cứ đem vô cho ra, đem vô cho ra, cái này đổi cái kia, cái kia đổi cái khác nữa, từ gió rồi đất, nước, lửa cứ thay đổi, thay đổi liên tục. Tuy thay đổi liên tục vậy mà thiếu nó mình không an. Đôi khi tôi cũng tức cười, có những lúc bận công việc hoặc đi đâu lỡ bữa, đói đi không muốn nổi, nếu ai cho củ khoai nhai vô một lúc lại đi nổi. Như vậy củ khoai là mình hay là gì mà sao nó có sức mạnh lạ thường vậy. Nếu mình là thật, mình là chủ thì có củ khoai hay không có củ khoai, mình cũng làm chủ, mình cứ đi, chớ sao thiếu nó mình đi không nổi. Vậy củ khoai có phải là mình không? Như vậy để thấy rõ tứ đại này nó không tự tồn tại mà phải nhờ tứ đại ngoài bồi bổ, thiếu sự bồi bổ cũng như cái máy thiếu xăng, thiếu dầu không thể chạy được. Thân tạm bợ vay mượn mà mình chấp là thân mình, nhưng nếu thân này là thân mình có hai trường hợp: Như khi thân chúng ta trên da thịt bị ung nhọt, người ta cắt bỏ, vậy cái cắt bỏ ra còn là mình, của mình nữa không? Hoặc có một phần da thịt bị hư, cắt bỏ chúng ta có tiếc giữ nó lại để trong bình ngọc, bình ngà, vì cái đó là mình mà tiếc không, hay đem chôn cho rồi sợ nó hôi thúi chịu không nổi. Như vậy cái mình thật, thật là mình nó phải ra sao chứ! Chẳng lẽ cái mình sao mà dở quá vậy! Cũng như thân này khi hơi ấm đã mất, con người lạnh dần rồi từ từ rã nát. Khi nó rã nát lúc đó, nếu mình làm khách đứng nhìn thây chết của mình, mình có gớm không? Cái mình đó sao tệ quá phải không? Hôi hám không ai chịu nổi, vậy mà ai cũng quí. Có người nào xem thường nó không? Chỗ này trong kinh Phật nói do mê muội, do điên đảo mới dối nhận làm thân mình, rồi tâm duyên lự làm tâm mình. Tâm duyên lự là tâm nghĩ tưởng lăng xăng. Khi ngồi thấy trong đầu nó nhảy cái này, nhảy cái kia đủ thứ ý, đủ thứ nghĩ, nhưng những ý nghĩ đó gốc từ đâu mà ra, hình dáng ra sao? Khi tìm lại thì nó mất tiêu. Cái nghĩ là bóng dáng không thật do duyên theo sáu trần mà có niệm khởi, nên cái duyên lự, nghĩ tưởng không thật có. Như vậy nhận thân không thật, tâm không thật là mình, thì mình thật hay mình không thật? Lấy cái không thật làm mình thì tự nhiên mình giả dối, chớ không thật được. Vì vậy khi nhận thân này là mình, nhận tâm duyên lự là mình thì đã quên mất cái Tâm thể chân thật. Tâm thể chân thật là cái thể rộng lớn thênh thang mà quên, chỉ nhận một số tứ đại họp lại và một ít duyên lự lăng xăng làm tâm mình, nên quên mất cái to lớn thênh thang kia. Thế nên Phật dùng thí dụ: “Ví như bỏ đi trăm ngàn biển cả chỉ nhận lấy một hòn bọt nhỏ.” Không nói trăm ngàn biển cả mà chỉ một biển cả thôi, thấy mặt biển thênh thang mà mình không nhận, chỉ nhìn hòn bọt nổi trên mặt biển cho là mặt biển. Người nhìn hòn bọt nói là mặt biển, thì người đó khôn thượng thặng hay ngu tột độ? Nhìn nhận hòn bọt cho là mặt biển, ai nghe cũng tức cười thôi, vì sao ngu một cách đáo để vậy! Chúng ta hiện nay nhận cái thân này, nhận cái suy nghĩ này là mình, cũng giống như người ngu nhìn trên mặt biển chỉ nhìn hòn bọt cho là biển. Cũng vậy biển cả thênh thang cũng như tâm mình thênh thang mà không nhận, lại nhận cái lăng xăng, nhận cái tướng sanh diệt tạm bợ cho là mình, như vậy mình có đáng thương không? Tại sao mình đáng thương? Ở đây dùng từ là mê muội, điên đảo, còn nói theo từ gọn của thế gian là ngu mê. Sao mình lại ngu mê đáo để vậy! Mình có cái rộng lớn, cái chân thật không chịu nhận, lại nhận cái tạm bợ giả dối như vậy. Đây Phật nói trăm ngàn mặt biển mà tôi chỉ nói một mặt biển thôi. Như ở Việt Nam chúng ta nhìn ra mé biển là biển Thái Bình Dương, chỉ một biển Thái Bình Dương so với hòn bọt thì sao, nó có thấm vào đâu không? Vậy mà hài lòng nhận một hòn bọt cho là biển thì hết tưởng nổi cái ngu của mình. Cũng như vậy cái Tâm thể thênh thang mà người ta không nhận, lại nhận cái thân tứ đại với cái tâm lăng xăng này là mình, cũng tương tự như người ngu nhận hòn bọt làm mặt biển vậy. Như vậy xét kỹ chúng ta thông minh đến bậc nào rồi, nên Phật nói chúng sanh si mê là chỗ đó. Không phải Phật chê mình mà Phật chỉ trách mình có cái quí không chịu nhận, lại nhận cái tầm thường nhỏ không đáng kể, đó là chuyện đáng thương, nên Phật nói pháp mãi là thế ấy.

Do đây trên mê thêm một lớp mê, trong vọng thêm một lớp vọng, theo cảnh mà lưu chuyển, để mắt sanh tình, muôn điều lấy bỏ, không lúc nào tạm rảnh.

Những câu này là câu trách. “Do đây” là do cái mê lầm trên đó mà “trên mê thêm một lớp mê, trong vọng thêm một lớp vọng”. Trên mê thêm một lớp mê, trong vọng thêm một lớp vọng là sao? Nhận thân này và tâm lự lăng xăng là mình, đó là mê rồi, nhưng bây giờ thêm một lớp mê nữa là cái gì, thêm một lớp vọng nữa là cái gì? Tức là “theo cảnh mà lưu chuyển”. Đã nhận thân này là thân mình thật, cái nghĩ suy là tâm mình thật, đó là đại mê rồi, mà còn chạy theo cảnh cho là đẹp là xấu, có phải thêm một lớp mê nữa không? Như vậy trên mê thêm một lớp mê, trong vọng thêm một lớp vọng. Rồi cứ suốt ngày theo cảnh mà lưu chuyển tức là theo cảnh mà trôi đi luôn luôn.

Để mắt sanh tình.

Thấy cái gì cũng chú ý rồi khen cái này tốt, chê cái kia xấu. Như vậy suốt cả ngày bị cái đẹp, xấu, khen, chê phủ hết. Mình đã hư dối, tạm bợ nhận mình thật là ngu si rồi, còn cảnh cũng tạm bợ giả dối lại bị nó chi phối, lôi dẫn đi nữa. Như vậy có phải là si mê quá chừng không? Cho nên nói “theo cảnh mà lưu chuyển, để mắt sanh tình, muôn điều lấy bỏ”. Cái gì tốt muốn lấy, cái gì xấu muốn bỏ, cứ thế suốt đời lấy bỏ, lấy bỏ. Có được cái nhà, lâu lâu thấy nhà mình xưa cũ quá, muốn cất theo kiểu hiện đại mới thích, rồi theo cái mới bỏ cái cũ. Do đó từ nhà cửa, xe cộ cho đến ăn mặc cũng thế, cứ như vậy mà “không lúc nào tạm rảnh” là suốt đời chạy theo nó nên không rảnh được.

Đây tôi nhắc lại một lần nữa. Bởi vì chúng ta đã mê lầm nhận thân tứ đại là mình, nhận tâm duyên lự làm tâm mình. Cả hai thân và tâm này đều hư dối, Phật ví dụ như nhận hòn bọt làm biển cả, là đã quá si mê. Đồng thời nhận cảnh bên ngoài cho là đẹp là xấu, rồi cứ chạy theo cảnh, suốt ngày suốt tháng, suốt năm. Mê thân, mê tâm, mê cảnh, ba bốn thứ mê đó rồi chạy mãi lưu chuyển không cùng, cho đến ngày tắt thở là xong một đời không biết quay trở lại, không biết thức tỉnh. Người như vậy thật đáng thương. Nếu chúng ta tỉnh thấy họ mê như vậy chắc thương lắm, tội nghiệp quá phải không? Cứ hụp lặn trên mấy lượn sóng, hết chụp bọt này, đến chụp bọt kia mà khổ sở. Mình đứng trên bờ thấy thật là đáng thương, vậy đó mà người ta vẫn hài lòng, vẫn thỏa mãn.

Đến nỗi khiến cho dấy lên mê lầm tạo nghiệp, lẩn quẩn trong sáu đường, chẳng ra khỏi được.

Bởi chạy theo cảnh, đắm đuối theo cảnh nên mê lầm tạo nghiệp, mà tạo nghiệp rồi lẩn quẩn trong sáu đường luân hồi không ra khỏi được. Như vậy hết địa ngục lên ngạ quỉ, hết ngạ quỉ lên súc sanh, rồi lên cõi người, cõi trời, cõi a-tu-la, cứ nhào lên lộn xuống, chạy mãi không dừng được, lẩn quẩn trong sáu đường sanh tử luân hồi không ra khỏi được.

Rốt cùng cái mờ mịt ban đầu (minh sơ) đều do cái lỗi một thoáng vọng mê chân vậy.

Cái gì là “cái mờ mịt ban đầu”? Chỉ là một thoáng chút vọng khởi lên rồi quên cái chân, đó là gốc. Thế nên chúng ta tu thiền, vừa dấy niệm lên mình biết là đã che cái chân rồi. Nghĩa là nó vừa dấy lên là cái chân thật bị khuất. Vì vậy mới bảo buông bỏ vọng tưởng là chỗ đó, vì nó dấy lên là đã che mờ cái chân. Như tôi thường dụ, cái gương sáng mà vừa có tấm giấy hay vật gì đưa ngang qua là nó bị khuất sáng, nếu vật đưa qua liên tục mãi thì gương sáng không bao giờ thấy sáng. Chúng ta cũng thế, từ một niệm dấy lên làm cho cái chân bị mờ đi, là gốc tạo ra đủ thứ nghiệp luân hồi trong sáu đường. Ở đây tôi khuyên dạy tu là bỏ những niệm vọng tưởng dấy động che lấp cái chân, đó là dẹp cái ban đầu. Nếu tôi chỉ khuyên bỏ những lời nói ác, hành động ác để nói những lời lành, làm những việc lành, chưa phải là chỉ cái gốc. Việc đó là để chỉ chúng ta không tạo những nghiệp ác để đọa ba đường ác, tạo nghiệp lành để sanh nơi ba đường lành. Nhưng sanh nơi ba đường lành cũng ở trong dòng luân hồi, nên khi hết nghiệp lành lại rơi xuống dữ. Vì vậy, chưa phải là cứu kính, muốn đến chỗ cứu kính phải tìm tận cái ban đầu. Nhưng cái ban đầu là gì? Tức là một niệm vừa dấy lên làm che khuất Chân tánh. Đó là việc chúng ta cần phải chú tâm gạt bỏ nó qua.

Nên biết, ba cõi chỉ có tâm, kẻ mê thì ngoài tâm chạy tìm pháp, người trí thì thấy cảnh chính là tâm.

Những câu này rất khó hiểu, nhưng thật ra đó là cái căn bản.

Nên biết, ba cõi chỉ có tâm.

Nghĩa là tam giới duy tâm, tại sao vậy? Vì tâm là cái biết. Thí dụ như núi rừng, cây cối, nhà cửa v.v… nó có, nhưng nếu không có tâm mình thì nó có, có nghĩa gì không? Nó có, không ai biết nó thì nó có cũng như không có. Chỉ có tâm mới có thể biết được tất cả, mà biết được tất cả nên nó mới thành tất cả, đặt tên là núi, là rừng, là sông, là biển… Còn nếu không có tâm thì tất cả những cái đó có cũng như không có, là không có nghĩa lý gì hết. Cho nên từ tâm mà tạo thành nghiệp có ba cõi, cũng từ tâm mà biết ba cõi, không có tâm thì không biết. Vì vậy nên nói ba cõi chỉ có tâm.

Kẻ mê thì ngoài tâm chạy tìm pháp.

Người mê không biết quay về tâm mình cứ chạy ra ngoài tìm pháp này pháp kia.

Người trí thì thấy cảnh chính là tâm.

Cho nên nói kiến sắc minh tâm, là thấy cảnh tức là tâm. Vì sao thấy cảnh tức là tâm? Như chúng ta đang ngồi đây nhìn ra kia thấy có cây thông, cây thông có phải tâm mình không? Nếu cây thông là tâm mình, có ai bẻ một nhánh mình có đau không? Những người ngoại cuộc không đau, chớ tôi đau, vì tôi trồng nên ai bẻ tôi đau. Vậy thấy được cây thông, biết được cây thông, nếu không có tâm thì thấy được, biết được không? Như vậy biết cây thông đó là tâm, nên nói thấy sắc tức là biết được tâm, chớ không có gì khác. Nếu không tâm thì làm sao thấy sắc, biết sắc, vì vậy nên nói kiến sắc là minh tâm. Nghĩa là thấy được hình tướng liền rõ được tâm, nếu không có tâm làm sao biết được hình tướng, thấy được hình tướng. Đó là những câu rất khó hiểu, nhưng khéo tu rồi sẽ nhận ra được lẽ đó. Nếu thấy sắc biết được tâm thì mình còn thấy sắc nào quan trọng không, vì cái nào cũng từ tâm mình hết thì còn gì nữa mà quan trọng. Cho nên ở đây nói “người trí thấy cảnh chính là tâm”. Cảnh nào cũng không ngoài tâm mình, nếu ngoài tâm mình thì mình không biết, mà mình biết thì không thể ngoài tâm mình được. Thế nên chỗ này đôi khi tôi nói có nhiều người thấy khó hiểu. Đây tôi nói như tôi thấy được cái ly thì cái ly có ngoài phạm vi cái thấy của tôi không? Nếu ngoài phạm vi cái thấy, tôi có thấy nó không? Nó cùng cái sức thấy của tôi, nếu ngoài sức thấy của tôi thì tôi đâu thấy nó, mà tôi thấy nó thì nó ở trong cái thấy của tôi. Vậy tôi thấy cái ly thì cái ly đó chính là tôi thấy, cái thấy của tôi trùm cả cái ly rồi. Đó là thấy sắc tức là thấy tâm, nghĩa là cái ly là sắc nhưng biết rằng cái sắc này không ngoài tâm mình, nếu ngoài tâm mình thì mình không thấy. Như vậy cả bầu trời, cả núi non mình đều thấy tới, không có cái nào ngoài mình hết, nếu ngoài mình thì mình không thấy, mình thấy thì không phải ngoài mình. Đó là cái thấy, còn cái biết nữa. Như chúng ta biết đến cung trăng, thì cung trăng có ngoài cái biết của mình không? Rồi tất cả những chỗ khác mình biết, thì cái gì mình biết được nó, nó không ngoài tâm mình. Thế nên cái thấy cái biết của mình đến đâu thì cảnh vật đó đều không ngoài tâm mình hết. Vì vậy nên hiểu tất cả sự vật không có gì ngoài tâm.

Cảnh tức là cảnh của tâm, tâm tức là tâm của cảnh.

Như vậy cảnh không ngoài tâm nên cảnh tức là tâm, mà từ tâm mình biết được cảnh cho nên tâm cũng tức là cảnh. Cảnh với tâm không rời nhau.

Đối cảnh chẳng mê, gặp duyên chẳng động, năng sở làm thành lẫn nhau, một thể không khác.

Đây là chỗ đặc biệt của người tu. “Đối cảnh chẳng mê” là sao? Tức là gặp cảnh mà mình không quên. Vậy không quên cái gì? Biết cảnh không ngoài tâm là không mê, còn thấy cảnh ở ngoài tâm đó là mê. Mà nếu thấy cảnh không ngoài tâm thì “gặp duyên chẳng động”, vì có cảnh nào, đẹp xấu gì cũng không ngoài tâm, thì dù đẹp cũng không dấy động, xấu cũng không dấy động, nên “gặp duyên chẳng động”.

Năng sở làm thành lẫn nhau.

Năng là mình, là tâm, sở là cảnh, hai cái đó làm thành lẫn nhau.

Một thể không khác.

Tâm cảnh không hai. Tôi thấy cái ly thì cái ly và cái thấy của tôi không hai phải không? Nếu là hai thì tách rời, mà tách rời thì không thấy, không biết. Như vậy là lối nhìn tường tận.

Nếu hay đạt cảnh chỉ là tâm, liền đó ngộ tâm thành đạo.

Nếu người thấu suốt được cảnh chỉ là tâm, không có cảnh ngoài tâm, liền đó ngộ tâm thành đạo. Khi đó mới thấy tâm mình trùm khắp, nó không còn giới hạn như cái tâm suy nghĩ lăng xăng, như thân tứ đại này nữa. Như vậy thấy cảnh và tâm không hai là đạt đạo.

Giác tột vọng niệm từ vô thủy, nhiếp thu cảnh trở về tâm, chân như ra khỏi trói cột (xuất triền), lìa cấu nhiễm được giải thoát.

“Giác tột vọng niệm từ vô thủy.” Giác ngộ tột cùng tất cả vọng niệm từ vô thủy.

Nhiếp thu cảnh trở về tâm.

Nghĩa là tất cả cảnh đều thấy không ngoài tâm, tức là gom nó trở về tâm.

Chân như ra khỏi trói cột.

Như vậy tâm chân như không bị trói cột nữa.

Lìa cấu nhiễm được giải thoát.

Sở dĩ chúng ta ngày nay nhiễm là nhiễm cái gì? Nhiễm tâm hay nhiễm cảnh? Hầu hết là nhiễm cảnh vì thấy cảnh có ngoài tâm, nên nói cảnh này đẹp, cảnh kia xấu, cảnh này mình ưa thích, cảnh kia mình không ưa v.v… Tất cả cái ưa thích hay không ưa thích đó gọi là cấu nhiễm, mà những cấu nhiễm mình biết không ngoài mình mà có, thì tự nhiên ưa cảnh là ưa tâm phải không? Vì nó không ngoài mình có, cảnh tức là tâm mà tâm cũng tức là cảnh, thì còn gì nữa mà phải theo cảnh, mê cảnh. Không theo cảnh, không mê cảnh thì cảnh làm gì trói buộc mình được, nên không bị sáu trần lôi kéo, mà sáu trần không lôi kéo thì mình được giải thoát sanh tử. Thật đơn giản! Như vậy cũng một cái nhìn, nhưng nếu nhìn thấy cảnh có ngoài mình, ngoài tâm thì dễ bị cảnh lôi cuốn. Còn thấy cảnh không ngoài tâm thì cảnh không lôi cuốn mình được. Nếu cảnh lôi cuốn thì dẫn mình đi luân hồi sanh tử, nếu thu nhiếp được cảnh là mình thoát ly sanh tử.

Hằng hợp với thanh tịnh bản nhiên, thì chẳng còn sanh trở lại.

Nếu mình hợp với tâm thanh tịnh sẵn vậy thì chẳng còn trở lại sanh tử hay trần lao này nữa.

Và núi sông, quả đất, mọi tướng hữu vi, như vàng ra khỏi quặng, trọn chẳng còn dính bụi đất.

Nếu thấy tất cả cảnh đều không ngoài tâm, thì cảnh không còn gì để quyến rũ lôi cuốn tâm, mà không quyến rũ lôi cuốn tâm thì mọi cảnh không có gì làm dính bận hay làm mình rối loạn. Do đó cũng giống như vàng ra khỏi quặng là vàng ròng nên không còn dính bụi đất.

Dường như cây đã cháy thành tro, đâu có mọc cành lá lại nữa.

Được như vậy cũng giống như cây đã cháy thành tro thì không còn mọc lên cành lá nữa được.

Một phen được là được mãi, tột đến mé vị lai thoát hẳn cảnh giam giữ, ở mãi nơi cõi Thánh vậy.

Nếu ai nhìn người, nhìn vật đều biết không ngoài mình, không ngoài tâm mình mà có, thì người đó không bị cảnh lôi kéo, người đó sẽ được tự tại, được giải thoát. Và khi được một lần là được mãi không mất. Đó là lời giải thích rất sâu xa của Ngài.

Song đại đạo Nhất thừa tối thượng này, nếu người căn khí lanh lợi, một nhảy liền thẳng vào đất Như Lai.

Chỗ đại đạo Nhất thừa tối thượng này tức là Thiền tông. Nếu người căn khí lanh lợi thì chỉ một cái nhảy là thẳng vào đất Như Lai, chớ không có cái nửa chừng.

Nếu người căn khí chậm lụt thì phải làm thế nào? Hẳn phải do công phu học từ dưới lên trên, thứ lớp dẫn vào pháp môn, mới có thể được.

Những người chậm lụt thì phải do công phu học từ dưới lần lần lên trên, cứ thứ tự mà vào pháp môn mới có thể được.

Khiến cho họ đi một bước tự có hiệu nghiệm một bước, lên một cấp tự có khuôn khổ một cấp. Đó cũng chính là ý đi xa thì từ gần, lên cao thì từ thấp.

Đây chính là chỗ mà hiện giờ tôi có trách nhiệm phải hướng dẫn. Như nói về Thiền tông có dạy chúng ta tu đếm hơi thở không? Đâu có, chỉ cần nhảy một nhảy liền thẳng vào đất Như Lai rồi. Còn bây giờ tôi dạy đếm hơi thở chỉ là phương tiện để đi từ thấp lên cao. Chỗ nhảy một nhảy liền vào, đó là trường hợp như ngài Huệ Khả khi được Tổ Bồ-đề-đạt-ma bảo “đem tâm ra ta an cho”. Ngài xoay lại tìm tột cùng không thấy, thưa “con tìm tâm không được”. Tổ Đạt-ma bảo “ta đã an tâm cho ngươi rồi”. Ngay đó Ngài biết được đường vào. Đó là chỗ nhảy một nhảy được vào, không cần dùng phương tiện. Nhưng chúng ta ngày nay, người đến học tu thiền mà nói như thế họ đâu biết sao mà tu. Vì vậy phải bắt họ ngồi nghiêm chỉnh đếm hơi thở, hít vô thở ra đếm một, hít vô thở ra đếm hai… lâu dần tâm họ mới yên. Rồi từ từ tiến lên bỏ pháp này chuyển sang pháp khác cho đến lúc nào đó niệm khởi không theo. Như vậy đi từ bậc từ bậc, nhưng trong đây có nói mỗi bậc đều có khuôn khổ của nó, có hiệu nghiệm của nó. Thí dụ như đếm hơi thở phải làm đúng phép đếm hơi thở, từ đếm hơi thở lúc ban đầu còn loạn, còn lăng xăng, nhưng lần lần được an định, hết loạn, khi ấy có hiệu nghiệm là không quên số nữa, tức là có kết quả, từ có kết quả đó mới bước qua pháp khác. Như vậy từng bước từng bước đều có hiệu nghiệm, đều có kết quả, rồi đi thẳng vào mới được, chớ không phải ai cũng đều nhảy một cái là tới nơi hết. Cho nên phương pháp dạy đó cũng như chính là ý muốn đi xa thì phải từ gần, muốn lên cao phải từ thấp. Không có thần thông mà muốn leo lên chót núi thì phải từ dưới đất bằng đi từ từ lên, lên mãi rồi sẽ đến chót núi. Còn người có thần thông chỉ cần nhảy một cái đã đến chót núi, tỉ dụ như Tôn Ngộ Không chẳng hạn. Mình không thể bì khi thấy người ta nhảy một cái đã tới núi, còn mình phải đi từng bước từng bước dưới chân núi đi lên có tủi thân không? Tuy mình đi từng bước từng bước lên nhưng cuối cùng cũng lên đến chót núi, còn người nhảy một nhảy tới nơi thì cũng đến chót núi vậy thôi, khác nhau chỉ có nhanh và chậm. Dù cho chậm mà cố gắng đi cũng tới nơi, chớ đừng thấy người ta nhảy một cái, còn mình đi lâu quá rồi buồn khổ, thất chí không nên. Phải tự hiểu, à anh có thần thông cứ nhảy lên trước, tôi không thần thông cứ đi từ từ rồi cũng tới. Như vậy ai cũng làm được, chớ đừng thấy người ta thế ấy mình bì không nổi rồi thất chí, thối lui là không hay, không phải.

 Nếu chẳng biết ra tay thực hành công phu vào cửa thì đâu hay chóng đến địa vị xong xuôi tột bậc.

Nếu chúng ta không biết cách tu để tiến vào cửa, mà không vào cửa được thì làm sao đến được địa vị cứu kính.

Nếu chưa thể tận tâm, thì đâu hay rõ tánh.

Tận tâm nghĩa là sao? Thường chúng ta hay nói tận tâm tận lực, nghĩa là mình dùng hết sức, nhưng ở đây không phải vậy. Tận tâm là tột của tâm, tức là tất cả những tâm lăng xăng vọng tưởng hết sạch, khi đó mình mới rõ được Tánh chân thật của mình. Nếu tâm lăng xăng chưa sạch, chưa tột thì tánh mình cũng không thấu rõ được.

Chưa thể minh tâm, thì đâu hay kiến tánh.

Chữ tận tâm là một lối nói khác với minh tâm. Nếu mình chưa sáng được tâm thì đâu có thể thấy được tánh. Như chúng ta tu, nếu chưa biết cái nghĩ suy, cái tâm vọng lự là hư dối, thì chúng ta có thể nhận ra được Bản tánh chân thật không? Cái hư dối, không biết nó hư dối thì không bao giờ nhận được cái thật. Vì vậy trước mình phải thấy rõ tâm hư dối, không lầm, không theo thì từ từ nó mới yên lặng, khi nó lặng thì Tánh chân thật mới hiển bày. Cho nên nói “chưa thể minh tâm, thì đâu hay kiến tánh”. Kiến tánh là phải thấy rõ được tâm rồi sau mới biết được tánh, chớ không phải bước vào là liền thấy tánh. Thật ra nói tâm, nói tánh dường như hai mà không phải hai. Tâm có khi nó trùm cả tâm vọng và tâm chân, nên nói tâm mang cả hai mặt vọng và chân. Còn tánh là chỉ cho cái chân thật bất di bất dịch. Nếu nói thật trắng ra thì tâm là cái biết của mình, cái biết do suy nghĩ và cái biết tự nhiên, vì vậy nên nói tâm lẫn cả vọng và chân. Cái biết do suy nghĩ là cái biết do lăng xăng trong đầu, còn cái biết tự nhiên là thấy người biết người, nghe tiếng đàn biết tiếng đàn, tiếng trống biết tiếng trống, cái biết đó không có suy nghĩ. Như vậy sáu căn mình đều có cái biết tự nhiên, rồi trong đó có cái biết suy nghĩ. Cái biết suy nghĩ đó gọi là vọng thức hay vọng tâm, cái biết này có lăng xăng, còn cái biết tự nhiên không lăng xăng. Có ai thấy cái biết tự nhiên này ra làm sao không? Nó có bóng có hình gì không? Nó không có bóng hình, còn cái biết suy nghĩ thì có bóng. Suy nghĩ về cái cây thì có bóng cái cây, suy nghĩ về con người thì có bóng con người. Cái biết tự nhiên không có bóng dáng nào hết, tự nó hiện tiền sẵn vậy. Cái biết suy nghĩ là cái bóng sanh diệt, vậy mà khi nói tâm là mình nhận cái suy nghĩ theo bóng đó, chớ không nhận ra cái biết tự nhiên. Vì vậy mà cái biết suy nghĩ là cái biết hư dối, không thật, còn cái biết chân thật không có bóng, bởi không có bóng nên nó thật, bởi không suy nghĩ nên nó không sanh diệt. Nếu nhận ra thì cái biết này là tánh, còn cái biết lăng xăng là cái biết trùm cả tâm và tánh hay là tâm chân tâm vọng ở trong đó. Cho nên nói tâm là kiêm cả chân vọng, nói tánh là chỉ cho cái Tâm chân thật.

Tóm lại, đoạn này Ngài muốn nói cho tất cả chúng ta hiểu rằng người tu thiền, đúng ra những bậc túc duyên đầy đủ, nghe một câu, một hành động của các Thiền sư liền ngộ, liền thấy, cho nên nói “một nhảy liền thẳng vào đất Như Lai”. Còn chúng ta ngày nay vì không đủ duyên nhiều đời nên phải đi thứ tự từ thấp lần lên. Nếu chúng ta có ý chí, có quyết tâm, thì chúng ta cũng đến nơi đến chốn được vậy.

Nên biết, minh tâm chính là mái chèo trí tuệ trong biển sanh tử, kiến tánh chính là thuốc hay trong bệnh phiền não.

Hai câu này hết sức quan trọng.

Minh tâm chính là mái chèo trí tuệ trong biển sanh tử.

Con thuyền đi trong biển sanh tử nếu không có mái chèo, đó là nói theo ngày xưa, còn bây giờ phải nói là nếu không có máy nổ thì sẽ bị sóng gió dồn dập, chắc không bao giờ đến được đích cả. Muốn đến được đích phải có mái chèo, mới chèo con thuyền đưa mình đi đến nơi tức là ra khỏi sanh tử. Như vậy minh tâm là thấy tột được lẽ thật của tâm mình, biết cái nào vọng cái nào chân, đó là cái gốc để đưa mình vượt ra khỏi biển sanh tử.

Kiến tánh chính là thuốc hay trong bệnh phiền não.

Ở trên là trong biển sanh tử, ở dưới là trong bệnh phiền não, lý đáng phải nói trong rừng phiền não, vì nói bệnh phiền não nó không hợp với chữ biển sanh tử. Kiến tánh chính là thuốc hay trong rừng phiền não. Bởi phiền não đối với chúng ta quá nhiều, nếu mình không kiến tánh thì không biết chừng nào mới sạch hết rừng phiền não này. Nếu phiền não không sạch thì không bao giờ chúng ta thoát khỏi sanh tử. Như vậy muốn trị bệnh phiền não phải nhờ kiến tánh, muốn ra khỏi biển sanh tử phải nhờ minh tâm. Nhưng tại sao kiến tánh trị bệnh phiền não? Nếu tất cả buồn thương giận ghét là chúng ta, thì chúng ta sống với tâm nào? Nghĩa là nếu không có nghĩ tưởng suy tính thì đâu có buồn thương giận ghét. Buồn thương giận ghét là do cái nghĩ tưởng suy tính, đó là sống với tâm vọng. Bởi sống với tâm vọng nên chúng ta sanh ra tất cả các thứ phiền não. Ngày nay chúng ta kiến tánh tức là nhận ra được Bản tánh hay nhận ra được Tâm chân thật trùm khắp, thì chúng ta đâu có suy tính nghĩ tưởng nữa mà còn phiền não, cho nên mới trị được bệnh phiền não. Như vậy người tu muốn ra khỏi sanh tử thì nhờ minh tâm, muốn sạch hết phiền não phải nhờ kiến tánh.

Nếu như sau khi được minh tâm kiến tánh rồi, lúc đó mới dùng cảnh giới trị sạch tự tâm, dùng tinh tấn làm cho tự tâm kiên cố, dùng nhẫn nhục làm cho tự tâm phẳng lặng, dùng giác chiếu làm cho tự tâm trong sạch, dùng trí tuệ làm cho tự tâm bén nhạy sáng suốt, dùng Tri kiến Phật làm cho tự tâm mở bày, dùng bình đẳng Phật làm cho tự tâm rộng lớn.

Ngài dạy sau khi chúng ta tu được minh tâm kiến tánh rồi, đừng nghĩ ngang đó là xong, mà còn phải dùng cảnh giới trị sạch tự tâm. Dùng cảnh giới trị sạch tự tâm là sao? Như ở trên đã nói, không có cảnh ở ngoài tâm, cũng như không có tâm nào ngoài cảnh, cảnh tức là tâm nên thấy cảnh tức là thấy tâm. Lúc đó tâm mình đâu có duyên lự mà làm cho phiền não, cho nên nói “dùng cảnh giới trị sạch tự tâm”.

Dùng tinh tấn làm cho tự tâm kiên cố.

Tuy rằng đã minh tâm kiến tánh mà vẫn phải tinh tấn để cho tâm càng kiên cố, chớ không phải nói minh tâm kiến tánh rồi đi nói dóc cho nhiều, thấy đó là tốt, là đủ rồi, mà phải luôn luôn tinh tấn, nhưng tinh tấn không cũng chưa được mà phải “dùng nhẫn nhục làm cho tự tâm phẳng lặng”. Nghĩa là dù cho mình có minh tâm kiến tánh nhưng nếu có ai biết, họ muốn chọc phá chơi nên nói: Thầy đó nói dóc chớ minh tâm kiến tánh gì, nói để lòe thiên hạ, lừa bịp thiên hạ vậy thôi. Nghe họ nói như vậy rồi mình dấy phiền não lên, tâm mình bị xáo động. Cho nên mặc kệ họ nói gì, chê gì mình vẫn nhẫn nhục bỏ qua hết thì tâm mình mới phẳng lặng, mới yên ổn. Nếu không khéo, tâm mình cũng sôi động lên rồi cũng phiền não. Như vậy tuy minh tâm kiến tánh mà vẫn phải “dùng nhẫn nhục làm cho tự tâm phẳng lặng”.

Dùng giác chiếu làm cho tự tâm trong sạch.

Như thấy cảnh, thấy người mà có những gì làm cho mình hơi bận rộn thì phải giác chiếu rõ ràng cảnh không thật, người không thật, không ngoài tâm mình có, luôn luôn nhắc như vậy khiến cho tự tâm mình trong sạch, không nhiễm, không nhơ.

Dùng trí tuệ làm cho tự tâm bén nhạy sáng suốt.

Lúc nào cũng dùng trí để quán chiếu, nhìn sự vật, không nên bỏ cho nó lu mờ.

Dùng Tri kiến Phật làm cho tự tâm mở bày.

Phải nhận ra nơi mình có Tri kiến Phật, mà thấy được mình có Tri kiến Phật thì tâm mình càng mở bày, càng rộng.

Dùng bình đẳng Phật làm cho tự tâm rộng lớn.

Tâm Phật là tâm bình đẳng rộng khắp, cho nên nhờ tâm bình đẳng này mà lần lần tâm mình càng mở rộng, không bị hạn cuộc.

Nếu sáng tỏ được tâm này, thì chóng vượt khỏi sanh tử, viên chứng Niết-bàn.

Nếu người nào sáng tỏ được tâm này tức là tâm thênh thang rộng lớn bất sanh bất diệt, thì người đó chóng vượt khỏi sanh tử, đều viên chứng Niết-bàn, tức là tròn chứng được quả vị Niết-bàn.

Nếu mê mờ tâm này thì luân hồi mãi mãi, bỏ mất tánh chân.

Nếu người nào đối với Tâm chân thật của mình mà mê mờ không biết, thì người đó phải luân hồi mãi mãi, người đó bỏ mất Tánh chân thật của chính mình.

Cho nên trọn chẳng ra ngoài tâm này.

 Rốt cuộc chẳng ra ngoài tâm này.

Nếu lìa tâm này thì không riêng có huyền diệu vậy. Về sau, dù có công phu thứ lớp, chẳng qua chính là thành tựu “cái ấy” mà thôi.

Nếu rời Tâm chân thật của chính mình thì không có cái gì gọi là huyền diệu hết. Về sau dù công phu thứ lớp mình tu để tiến, nhưng rốt cuộc tiến đến chỗ cuối cùng chỉ là cái tâm này thôi chớ không có gì khác. Đó là chỗ rõ ràng.

Những lời trên đây chính là phương pháp tu hành, là yếu thuật thành tiên chứng Thánh, là cửa tròn đủ vào đạo, vào đức.

Đây tôi thấy ngài Quảng Trí nói rất rõ, nhưng lâu lâu Ngài cũng thích tiên một chút, chớ lẽ ra thì thành Phật chứng Thánh hay thành Bồ-tát chứng Thánh, còn Ngài nói thành tiên chứng Thánh. Bởi ngày xưa ảnh hưởng đạo Nho, đạo Lão nhiều. Như vậy những lời trên đây tức là lời chỉ thẳng cho chúng ta đường lối tu thấu suốt tâm tánh, đó là yếu thuật cho mình thành Phật, thành Tổ, là cửa tròn đủ vào đạo đức.

Xưa ngài A-nan nhớ giỏi không sót điều gì (đa văn tổng trì) nhưng trải nhiều năm mà chẳng lên được Thánh quả. Khi dừng duyên chiếu soi trở lại, liền chứng vô sanh. Bởi tâm phàm phu trọn ngày cứ chạy ra ngoài, thì mỗi lúc càng xa, càng trái đó thôi.

Đến đây Ngài nhắc chúng ta biết tu là phải quay lại, phải nhìn sâu tận ở nơi mình, chớ không nên chạy ra ngoài. Vì vậy Ngài mới dẫn:

Xưa ngài A-nan nhớ giỏi không sót điều gì (đa văn tổng trì).

Như trong kinh diễn tả Phật thuyết pháp ngài A-nan nghe, giống như nước trong bình này rót qua bình kia, không rơi ra ngoài một giọt. Rót bình này bao nhiêu qua bình kia đủ bấy nhiêu không mất một giọt. Như vậy sức nhớ của Ngài thế nào? Nghĩa là Phật nói bao nhiêu Ngài nghe hết bấy nhiêu không sót một chữ nào. Vậy mà nhiều năm cũng không chứng được quả A-la-hán. Ngài thông minh thế ấy mà cũng không chứng quả là tại sao? Bởi vì cái đó chỉ nhận bên ngoài chớ không quay về mình. Đến khi Phật nhập Niết-bàn, ngài Ca-diếp mới đứng ra triệu tập năm trăm vị chứng quả A-la-hán đến, để đọc những lời Phật dạy kết tập kinh điển lần thứ nhất. Khi triệu tập lại, các ngài đồng ý cử A-nan để nói lại những bài pháp của Phật. Chỗ này có người đã nghi, bởi vì nói rằng ngài A-nan thuyết lại những lời của Phật dạy từ đầu đến cuối, nhưng thật tình khi Phật thành đạo thì ngài A-nan mới sanh, tên là Khánh Hỉ, nghĩa là mừng. Vậy Phật thành đạo rồi đi thuyết pháp đã lâu ngài A-nan mới được theo, như vậy khoảng trước đó ngài A-nan không có mặt làm sao Ngài nghe được. Nhưng trong kinh có câu chuyện thế này. Khi chọn người làm Thị giả thì lúc đó Phật đã yếu rồi, nên các vị đệ tử lớn mới đề nghị, nay Thế Tôn đã lớn tuổi, đi đứng một mình cũng khó khăn, phải có người giúp đỡ. Vậy phải chọn người làm Thị giả. Khi ấy ngài Mục-kiền-liên, ngài Xá-lợi-phất đều xin Phật làm Thị giả, nhưng Phật đều từ chối nói các ông có thể còn yếu hơn tôi nữa. Cuối cùng các vị đề nghị ngài A-nan làm Thị giả thì Phật chịu. Phật chọn ngài A-nan làm Thị giả, vì lúc đó Ngài mới hai mươi lăm tuổi. Nhưng khi hỏi A-nan thì Ngài không chịu vì Ngài bảo tôi chưa thông suốt những gì Phật dạy. Nếu Phật muốn dùng tôi làm Thị giả thì xin cho tôi năm điều thỏa mãn tôi mới làm. Trong năm điều đó có một điều là những bài kinh đức Phật đã nói trước mà tôi chưa được nghe, nay xin Phật nói lại cho tôi nghe, tôi mới chịu làm Thị giả. Vì vậy sau này những lời kinh mà Phật đã nói trước đều nhắc lại cho ngài A-nan nghe, nên khi kết tập mới đầy đủ, chớ mỗi người nhớ một ít thì làm sao gom lại hết được. Bởi lẽ đó là phương tiện ngài A-nan nghĩ đến việc kết tập kinh điển sau này nên Ngài xin Phật có điều kiện. Chúng ta thấy đối với ngài A-nan là một con người thông minh mà tu đến khi Phật nhập Niết-bàn Ngài chưa chứng quả A-la-hán. Như vậy chỉ nhớ lời Phật không, không phải được chứng đạo, vì lời Phật ở ngoài mà mình nhớ, thì cái nhớ đó chỉ giỏi về văn tự chớ không thể chứng đạo. Khi các vị trong buổi họp đề cử ngài A-nan phải kết tập kinh tức là thuật lại các bài kinh Phật đã nói Ngài nghe và thuộc, nhưng có một số vị trong đó có ngài Ca-diếp không đồng ý. Bởi vì ngài A-nan lúc đó chưa chứng quả A-la-hán, nên không cho vào trong hội. Khi ấy ngài A-nan tủi quá, vì Ngài thuộc hết kinh Phật nói mà không được dự kết tập. Buồn quá, Ngài đi vào núi trong một động ngồi thiền suốt đêm, đến khuya Ngài chứng quả A-la-hán. Sáng ra tất cả những vị được dự họp vào trong hang núi Kỳ-xà-quật rồi đóng cửa hang lại. Ngài A-nan đến sau gõ cửa xin cho vào, ngài Ca-diếp trở ra nói, nếu ông chứng được A-la-hán thì ông tự vào cần gì phải mở cửa. Lúc bấy giờ ngài A-nan mới dùng thần thông để qua được cửa hang. Như vậy chúng ta thấy rõ trong hội kết tập lần đầu chỉ toàn là bậc A-la-hán, không có người phàm phu nào chen vào. Ở đây dẫn để thấy rằng dù bao nhiêu năm ngài A-nan theo Phật, học nhớ hết mà không chứng quả, chỉ một ngày đêm ngồi quay lại liền chứng A-la-hán. Như vậy mình thấy giá trị của người học và của người tu khác nhau chỗ nào. Bởi vì học là cái mình lượm lặt ở ngoài, mà tôi thường gọi là Hữu sư trí, còn ngồi lại định tâm để Trí vô sư phát ra, mà Trí vô sư là trí chân thật cho nên chứng quả chớ không có gì lạ. Thế nên người ngồi tu cảm thấy như mình dốt, mà thật có dốt không? Nếu chứng quả thì đâu có dốt. Có ông Phật, hay A-la-hán nào không biết thuyết pháp không? Chỉ sợ tu không thành Phật, không chứng quả A-la-hán thôi. Nếu chứng quả A-la-hán thành Phật thì nói cái gì cũng thành pháp hết. Còn đi học, học mãi không biết bao giờ xong, học ông này rồi học ông kia, học triết đông lại sang triết tây, học đủ thứ, học suốt đời cũng không rồi, mà không chứng gì hết. Còn ở đây ngồi tu, chỉ cần quay lại tìm cho ra cái gì thật mình, tìm ra được cái đó thì chứng quả, mà chứng quả rồi nói cái gì cũng thành pháp cả. Như vậy cái nào gần hơn. Nói thế không có nghĩa là xúi đừng đi học.

Khi dừng duyên chiếu soi trở lại, liền chứng vô sanh.

Chứng vô sanh là chứng A-la-hán. Ngài A-nan chỉ dừng duyên chiếu soi trở lại trong một đêm là chứng được A-la-hán.

Bởi tâm phàm phu trọn ngày cứ chạy ra ngoài, thì mỗi lúc càng xa, càng trái đó thôi.

Đó là điều đáng thương. Tâm phàm phu trọn ngày cứ chạy ra ngoài, còn chúng ta trọn ngày có chạy ra ngoài hay trọn ngày xoay vô trong. Nếu Tăng Ni thời nay không bắt ngồi thiền thì cũng khó mà xoay trở lại phải không? Vì vậy ở đây khắt khe một chút là bắt ngày đêm phải sáu giờ xoay lại. Giờ đó muốn thấy cũng không thấy gì, muốn nghe cũng không nghe được gì, buộc phải xoay lại để phản chiếu. Nếu còn chạy ra ngoài thì càng chạy càng xa, càng xa càng trái mất cái chân thật của mình, rồi không biết chừng nào biết quay lại, chừng nào thấy được chính mình mới là quan trọng.

Là bậc học đạo, chẳng lo gì không thành tựu, chỉ lo chẳng siêng năng.

Câu này Ngài khuyến khích người học đạo. Học đạo chẳng lo gì không thành tựu, mà lo chẳng siêng năng. Ở đây có cái bệnh muốn cho thành tựu, muốn làm sao được ngộ đạo, làm sao được chứng quả mà không chịu cố gắng tu. Như vậy mong muốn đó có hão huyền không? Cho nên điều căn bản là phải siêng năng, cần mẫn là trên hết. Phải siêng năng cần mẫn thì tất cả công phu tu hành để đạt đạo sẽ đến. Không siêng năng cần mẫn dù cho có mong mỏi cũng vô ích.

Nếu hay ròng rặc và siêng năng, thì chưa có ai tham thiền mà chẳng ngộ.

Chúng ta phải nhớ câu này cho kỹ.

Giả sử lập chí chẳng vững, niềm tin đạo chẳng mạnh, sớm làm chiều lại đổi thay, mới đầu siêng năng đến giữa chừng thì buông nghỉ, thích trong chốc lát, lại chán với thời gian lâu dài.

Đây là nói bệnh của những người tu hiện nay. Lập chí thì chông chênh chưa vững, niềm tin đạo thì chẳng mạnh, chí không vững, tin không mạnh.

Sớm làm chiều lại đổi thay.

Sáng làm ra vẻ hăng hái lắm, tính ngày nay mình tu thật hay, tu thật giỏi. Nhưng sáng tính như vậy mà chiều ôm bồ đoàn lên rồi thôi kệ tu từ từ có gấp gì phải không?

Mới đầu siêng năng đến giữa chừng thì buông nghỉ.

Ban đầu thì siêng lắm, đến nửa chừng thì thả trôi.

Thích trong chốc lát, lại chán với thời gian lâu dài.

Nếu tu chừng ba bữa đạt đạo thì hăng lắm, nhưng nói mười năm, hai mươi năm thì ngán quá, nên đó là một bệnh. Như vậy trên đường tu muốn thành công chúng ta phải ngược lại những điều này. Nghĩa là phải lập chí cho vững, niềm tin đạo phải cho mạnh, sớm chiều đều như một không đổi thay, mới đầu siêng cuối cùng cũng vẫn siêng, dù nói thời gian bao lâu cũng không chán. Được như vậy chúng ta sẽ thành công.

Như thế mà mong mỏi được cùng làm bạn với chư Tổ, thật là ngông cuồng thay!

Lời nhắc nhở này thật là quí giá để cho chúng ta tu. Muốn sánh vai với chư Tổ thì chúng ta phải làm những điều ngược lại bệnh ở trên. Nếu mang bệnh đó mà đòi ngang hàng với chư Tổ là điều ngông cuồng không bao giờ có.

Một pháp mới điều phục này, tạm trình bày ít lời, để lại cho người đồng chí hướng soi rọi.

Đây Ngài nói pháp mới điều phục này Ngài tạm trình bày chút ít để người đồng chí hướng tu hành ráng soi lại cho kỹ.

Được vậy mới mong chẳng rơi vào không, kẹt theo tà kiến, thì pháp môn rất là may lắm! Mà tôi cũng may lắm!

Nếu người nghe những lời trình bày này mà soi rọi được sáng tỏ, tu hành được tiến bộ thì mới không rơi vào không, không kẹt vào tà kiến. Không rơi vào không, không kẹt vào tà kiến thì pháp môn này rất là may lắm, mà tôi (ngài Quảng Trí) cũng may lắm, vì đã giúp đỡ và chỉ bảo cho người khỏi lạc lầm.

Chỉ một bài điều phục trâu này, đại khái là như vậy, học giả cần biết rõ. Nói xong!

Như vậy bài này chưa nói gì đến trâu, Ngài chỉ phác họa cho chúng ta biết việc chuẩn bị điều phục trâu phải có những tư cách như thế này.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.