Kinh Thủ Lăng Nghiêm Giảng Giải

Chương 05. Nghiệp Quả - Các Cảnh Giới - Chướng Nạn



I. NGHIỆP QUẢ

1. Nhân quả của sáu đường

Đức Phật nói lời đây rồi, khi ấy A-nan và cả đại chúng được nhờ Như Lai mở bày nghĩa mật ấn Bát-đát-la, và được nghe những tên gọi của kinh liễu nghĩa này, liền đốn ngộ thiền-na, tăng thượng diệu lý, tu tiến đến Thánh vị, tâm lự được rỗng rang lắng đọng, đoạn trừ được sáu phẩm phiền não vi tế tu tâm trong tam giới. Liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:

– Đức Thế Tôn có oai đức lớn dùng lời từ bi không ngăn ngại, khéo mở bày cho chúng sanh những mê lầm vi tế sâu kín, khiến ngày nay thân tâm con được vui thích được lợi ích lớn. Bạch Thế Tôn, nếu chân tâm thanh tịnh sâu mầu sáng suốt ngày xưa nay là tròn khắp, như thế cho đến đại địa cỏ cây, các loài sinh vật nhuyễn động, cội gốc là chân như, tức là chân thể thành Phật của Như Lai, Thể tánh của Phật là chân thật, tại sao lại có các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, người, trời?

Theo lời Phật dạy, tất cả chúng sanh đều từ một chân tâm thanh tịnh sâu mầu sáng suốt mà ra. Như vậy tất cả thế giới, cỏ cây, mọi loài sinh vật vốn từ chân như, tức thể tánh chân thật của Phật. Vậy sao lại sanh ra sáu đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v… Đây là câu hỏi rất hệ trọng, những người tu Phật nếu không rành, khi bị người ta hỏi sẽ lúng túng không thể nào đáp được. Hơn nữa, chính mình trên đường tu cũng đâm ra hoang mang. Cho nên những câu hỏi này chúng ta phải chú tâm nhớ kỹ, hiểu rõ, mới thấy giá trị của lời Phật giải thích cho ngài A-nan.

Bạch Thế Tôn, sáu đường này là xưa nay tự có hay do vọng tập của chúng sanh sanh khởi?

Câu hỏi thứ hai cũng rất hệ trọng. Như hiện nay chúng ta thường nghe có nhiều người hỏi: “Cảnh địa ngục, ngạ quỷ là do ai sắp bày sẵn, hễ phạm tội liền xuống đó hay do chúng sanh làm tội mà tự có ra?” Thời nay, có người nặng về lý, giảng là không có địa ngục nào hết, nếu mình làm xấu làm ác thì lương tâm cắn rứt giày vò, tức là địa ngục. Đó là một lối giải bất chấp lời Phật dạy. Phật đã nói có lục đạo luân hồi. Nhưng lục đạo luân hồi từ đâu mà có? Nó đã sẵn từ thuở nào hay do sự huân tập nghiệp của chúng sanh mới có? Đó là vấn đề rất then chốt.

Bạch Thế Tôn, như Tỳ-kheo-ni Bảo Liên Hương giữ giới Bồ-tát mà lén làm việc dâm dục, nói dối rằng hành dâm không phải là giết hại, không phải là trộm cướp, nên không có nghiệp báo. Khi nói lời ấy rồi, trước hết nơi nữ căn phát ra ngọn lửa cháy rực, sau đó từng phần thân thể đều bị lửa lớn thiêu đốt, đọa vào địa ngục Vô gián.

Vua lưu-ly và Tỳ-kheo Thiện Tinh, vua Lưu-ly vì giết dòng họ Cồ-đàm, Tỳ-kheo Thiện Tinh vì nói dối tất cả pháp đều không, ngay thân đang sống mà rơi vào địa ngục A-tỳ. Các địa ngục này là có chỗ nơi nhất định hay lại là tự nhiên, do mỗi người kia phát nghiệp, chỉ mỗi người nhận riêng?

Địa ngục là sẵn có cố định, ai làm tội đều phải vô đó, hay là do những người kia tạo nghiệp rồi tự họ cảm nhận cảnh địa ngục riêng cho mình, chứ không có địa ngục chung?

Câu chuyện vua Lưu-ly giết dòng họ Thích-ca, trong kinh Tăng Nhất A-hàm kể rằng: Vua Ba-tư-nặc cầu hôn con gái họ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ, nếu không bằng lòng sẽ dùng áp lực bức bách. Họ Thích thuộc dòng dõi lớn, không muốn kết thân, bèn đem con gái của Ma-ha-nam do một nữ tỳ sanh ra, diện mạo đoan chánh, cho mặc áo đẹp, ngồi xe vũ bão, đưa đến cho vua Ba-tư-nặc nói dối là công chúa con vua Ma-ha-nam. Vua Ba-tư-nặc lập công chúa làm đệ nhất phu nhân, sanh con trai là Tỳ-lưu-ly. Vua rất yêu thương thái tử. Khi Tỳ-lưu-ly lên tám, vua gửi sang bên ngoại, cho học bắn cung cùng năm trăm trẻ dòng họ Thích.

Bấy giờ trong thành Ca-tỳ-la-vệ mới dựng một giảng đường, chuẩn bị rất trang nghiêm. Những người dòng họ Thích định thỉnh Phật cùng chúng tăng đến đó để cúng dường. Thái tử Lưu-ly cùng năm trăm đứa trẻ đến giảng đường, leo ngay lên tòa sư tử. Những người họ Thích trông thấy hết sức giận dữ, bèn lôi Tỳ-lưu-ly kéo ra ngoài cửa, xô xuống đất mắng: “Đây là đứa con của nô tỳ, chư thiên và mọi người chưa có ai dám vào đây, mà đứa con nô tỳ này dám vào đây ngồi!”

Tỳ-lưu-ly bảo một người con của Phạm chí tên là Hiếu Khổ rằng: “Họ Thích hủy nhục ta đến thế này. Về sau nếu ta nối ngôi vua, ông nên nhắc ta chuyện này.” Từ đó, mỗi ngày người con Phạm chí tâu nhắc ba lần: “Hãy nhớ mối nhục họ Thích.” Đến khi thái tử Lưu-ly lên ngôi, Hiếu Khổ nhắc lại chuyện xưa, vua nổi giận dẫn bốn bộ binh đến nước Ca-tỳ-la-vệ.

Phật muốn can gián vua Lưu-ly, bèn đến một cây khô không cành lá bên đường, ngồi kiết già. Vua Lưu-ly từ xa thấy Phật ngồi, liền xuống xe cúi lạy rồi hỏi:

– Có những cây tốt cành lá sum suê, sao Ngài lại ngồi dưới cây khô này?

– Bóng mát của thân tộc hơn hẳn người ngoài.

Vua Lưu-ly liền nghĩ:

“Hôm nay Thế Tôn cố vì thân tộc. Vậy ta nên trở về, chẳng nên chinh phạt Ca-tỳ-la-vệ.”

Về triều nghe lời nhắc lại, vua tức giận lại kéo quân đi đánh. Nửa đường lại thấy Phật ngồi dưới cây khô và nói như lần trước, vua trở về. Lại được nhắc mối nhục xưa, vua kéo quân đi đánh nữa. Lần thứ ba này, tôn giả Đại Mục-kiền-liên muốn cứu dòng họ Thích, nhưng Phật nói: “Hôm nay họ Thích túc duyên đã chín, sẽ thọ báo.”

Những người dòng họ Thích đều trì giới, tu hành pháp lành, nên dù có quân binh mạnh vẫn không chống cự. Vua Lưu-ly giết hết dòng họ Thích, quanh thành Ca-tỳ-la-vệ máu chảy thành sông. Bảy ngày sau, vua Lưu-ly và quân lính, khi đến bên bờ sông A-chi-la vui chơi và nghỉ đêm, bị nước lớn cuốn trôi ra biển, chết sanh vào địa ngục A-tỳ.

Tỳ-kheo Thiện Tinh là con trai của thái tử Tất-đạt-đa, ngài thọ trì đọc tụng giải thuyết mười hai bộ kinh, chứng được tứ thiền. Vì gần gũi bạn ác nên mất tứ thiền, sanh kiến chấp tà ác mà nói rằng không Phật, không pháp, không nhân quả, không có tạo nghiệp, không có Niết-bàn. Phật thường thuyết pháp cho Tỳ-kheo Thiện Tinh mà ông không có lòng tin thuận. Khi ông đang ở gần sông Ni-liên-thiền, thấy Phật từ xa đi đến, ông liền sanh tâm tà ác. Do tâm ác này thân đang sống đọa vào địa ngục A-tỳ.

Tại Việt Nam, những năm về trước có xảy ra trường hợp “trời trồng”. Có những người làm tội ác, cầm dao hay cầm cây đánh cha mẹ thì tự nhiên đứng sững, rồi từ từ lún xuống, đó là ngay thân đang sống rơi vào địa ngục.

Tóm lại, câu hỏi thứ nhất: Tất cả chúng sanh đều từ nơi chân như, chư Phật cũng trở về chân như, tại sao chân như đó lại sanh ra lục đạo chúng sanh?

Câu hỏi thứ hai: Lục đạo chúng sanh phát sanh ra, đó là tự sẵn có hay do chúng sanh tạo nghiệp rồi mới có?

Câu hỏi thứ ba: Những nghiệp chúng sanh gây tạo, hiện đời thấy đọa địa ngục, địa ngục có sẵn nhất định, ai phạm tội thì rơi xuống, hay do chúng sanh phát nghiệp nên mới có địa ngục đó?

Nếu chúng ta hiểu ba câu hỏi thiết yếu này, ắt sẽ giải quyết được nhiều vấn đề mà lâu nay có thể chưa nắm vững.

Cúi mong đức Thế Tôn rủ lòng đại từ mở rộng cho kẻ mới vào đạo, khiến cho tất cả chúng sanh trì giới, nghe được nghĩa quyết định, vui vẻ tôn trọng kính cẩn gìn giữ cho trong sạch, không trái phạm.

Phật bảo A-nan:

– Hay thay câu hỏi này, khiến cho các chúng sanh không vào tà kiến. Nay ông lắng nghe kỹ, ta sẽ vì ông nói.

Này A-nan, tất cả chúng sanh thật vốn là chân như thanh tịnh, do vọng kiến kia mà có vọng tập sanh khởi. Nhân đây mà phân chia ra phần trong và phần ngoài.

Này A-nan, phần trong tức là phần trong của chúng sanh. Từ các ái nhiễm mà phát khởi vọng tình. Vọng tình chất chứa không thôi, hay sanh ra nước ái. Thế nên, tâm chúng sanh nghĩ nhớ đến những thức ăn ngon thì trong miệng liền ra nước miếng. Khi tâm nhớ lại những người xưa, người mình thương hoặc người mình giận thì nước mắt tuôn tràn.

Khi đói bụng mà nhớ đến những thức ăn ngon, tự nhiên trong lưỡi ra nước miếng. Khi nhớ lại những người đau khổ nhất thì trào nước mắt. Đó là hiện tượng của ái. Từ ái mà thành ra nước rơi xuống.

Người tham cầu tiền của thì tâm phát ra nước ái, toàn thân họ đượm ướt và sáng. Nếu tâm đắm trước sự hành dâm thì nơi nam căn, nữ căn tự nhiên có dịch chảy ra.

Những người thích của báu thì toàn thân họ đượm ướt, có vẻ hơi sáng. Điều này chúng ta ít thấy vì hiện tại hiếm có người ham tới cỡ đó, trừ những người đi bòn vàng, còn thường thì không thấy.

Tất cả những điều trên là bằng chứng cụ thể, cho thấy bên trong chúng ta tích lũy tình nhiều, dễ phát ra nước ái, là lý do đưa mình chìm xuống cõi dưới. Nước thì nặng nên rơi xuống, không thể chảy ngược lên, nên tình nhiều là trầm luân, không nghi ngờ gì. Ai tình cảm nặng quá thì coi chừng rơi xuống, chứ không đi lên nổi. Đó là kinh nghiệm bên trong con người, đức Phật kể rõ ràng như vậy, để biết nếu chúng ta chất chứa cái gì nhiều thì cái đó sẽ lôi mình đi.

Này A-nan, các thứ ái tuy khác nhau nhưng kết quả chảy nước là đồng, thấm ướt không thể bay lên được, tự nhiên theo đó mà rơi xuống. Đây gọi là phần trong.

Các thứ ái tuy khác nhau, hoặc thích món ăn, hoặc thương hoặc giận, hoặc ưa tiền bạc của báu, sắc đẹp… nhưng ái trước cái nào cũng ra nước, rơi xuống trôi đi, kết cuộc đều dẫn mình đi xuống, là đồng chứ không khác. Nên nói nghiệp ái dẫn đi xuống. Bên trong con người chất chứa những thứ đó thì rơi xuống, không nghi ngờ. Ái thuộc về tình, ái ít thì chìm cạn, ái nhiều thì nhất định chìm sâu.

Này A-nan, ngoại phần là phần bên ngoài của chúng sanh. Nhân các khát ngưỡng mà phát ra những hư tưởng. Tưởng đó tích chứa không thôi, hay sanh ra khí thù thắng.

Tưởng là phần bên ngoài, còn ái hoặc tình là phần bên trong. Khi mơ ước, trông mong khao khát một điều gì, do tích lũy sự tưởng tượng, mơ ước đó lâu ngày nên có sức mạnh, hơi mạnh đó đưa mình đi lên. Ví dụ như người khao khát muốn về Cực lạc, họ tưởng tới Phật, tưởng cõi Cực lạc. Bởi khao khát nên mới có mơ tưởng, tích lũy lâu rồi liền có diệu dụng. Còn người khao khát muốn thành tiên cưỡi hạc dạo chơi cõi trời, tưởng tiên lâu ngày cũng có hơi mạnh phát ra.

Thế nên, trong tâm chúng sanh giữ gìn giới cấm thì toàn thân nhẹ nhàng thanh tịnh. Tâm trì ấn chú thì mắt nhìn xem thấy mạnh mẽ kiên quyết. Tâm muốn cầu sanh cõi trời thì khi mộng thấy mình bay lên. Tâm nhớ cõi Phật thì cảnh Phật thầm hiện. Nếu thờ phụng thiện tri thức thì xem thường thân mạng. Này A-nan, các tưởng tuy khác nhưng nhẹ nhàng bay lên là đồng. Bay lên không chìm xuống, tự nhiên vượt lên. Đây gọi là phần bên ngoài.

Các tưởng tuy có khác: tưởng giữ giới, tưởng cõi Phật, tưởng sanh cõi trời, tưởng trì chú v.v… đều là đi lên.

Đến đây, chúng ta có thể sẽ có một điều nghi: Người muốn sanh lên cõi trời, cứ tưởng mãi thì thấy mình bay lên, muốn sanh về cõi Phật cứ tưởng mãi sẽ mộng thấy Phật hay thấy hoa sen, như vậy là tu có hiệu nghiệm. Còn người tu thiền thường không thấy gì hết, có phải là thua thiệt không? Do vì chúng ta tưởng mãi cái gì thì mộng thấy cái đó. Tu tịnh độ tưởng nhớ tới Phật nên mới thấy cảnh Phật, còn tu Thiền không cho mong tưởng, làm sao thấy!

Tại sao chúng ta không tưởng thấy Phật cho tốt? Bởi đây là đứng về mặt tình và tưởng: tình thì sanh trong các loài chìm sâu ở dưới, tưởng thì sanh lên các cõi ở trên, còn người tu thiền là dẹp cả tình lẫn tưởng. Không tưởng thì làm sao thấy có những cảnh mình mơ tưởng. Vậy người tu thiền sanh ở đâu? Do không muốn sanh nữa nên mới dẹp tình dẹp tưởng, tâm lặng lẽ như như bất động, cho nên gọi là “Bất động địa”, không kẹt bên này bên kia.

Lại có người hoang mang, vì khi tu thỉnh thoảng thấy mộng dữ, hoặc những tật cũ đời nào. Bởi vì người tu thiền không tưởng thêm cái mới, chỉ bỏ cái cũ thôi. Nhưng trong khi đang trừ dẹp, tàng thức vẫn còn chứa những chủng tử nhiều đời, tốt xấu đều có. Ban ngày, chúng ta bỏ những chủng tử đang hiện hành trong hiện tại, còn những thứ chất chứa trong quá khứ chúng ta chưa làm chủ được, nên khi nằm mộng nó trồi lên. Những thứ chất chứa không phải hoàn toàn tốt, cho nên khi mộng có thể thấy những cảnh bất thường, dữ xấu làm mình hoảng hốt. Bởi vậy, các bậc thầy xưa dạy, nếu người tu thiền đêm mộng thấy những cảnh dữ, thức dậy phải sám hối, vì biết những chủng tử xấu ở trong còn nhiều.

Nếu thấy cảnh lành, như thấy mình đang thuyết pháp hoặc trong chùa có lễ lạt, thấy huynh đệ cùng tu hành, đó là mộng thấy trở lại chỗ sống hàng ngày, chứ không phải thấy cảnh mình tưởng ra. Đây là dấu hiệu tốt lành, cho biết chủng tử quá khứ đã nhẹ rồi, chỉ có cảnh hiện tại.

Hiểu thật kỹ, mới biết mỗi lối tu có ảnh hưởng rất nhiều tới tâm tưởng. Nếu không hiểu, khi thất lạ sanh ra hoảng hốt, không biết tại sao hồi trước niệm Phật, cầu sanh tịnh độ thì thấy mộng lành, nay tu thiền thấy mộng dữ. Ở đây Phật dạy rõ tình là thế nào, tưởng là thế nào. Khi tình nhiều, mộng thấy cảnh của tình, còn tưởng nhiều thì mộng thấy cảnh của tưởng.

Đó là nêu lên cho biết nơi con người chúng ta, vọng nghiệp chia ra làm hai phần: phần tích chứa ở trong là tình và phần ở ngoài là tưởng.

Này A-nan, tất cả thế gian sanh tử tiếp nối: sanh thì thuận theo tập nghiệp, còn tử thì theo biến chuyển.

Xưa huân tập những gì thì nay theo đó mà đi, gọi là thuận tập. Vậy nên nói sanh là thuận mà tử là nghịch, vì phá hoại cái hiện hữu này nên gọi là nghịch, còn theo chiều nghiệp cũ dẫn đi gọi là thuận.

Khi sắp mạng chung chưa hết hơi ấm, những việc thiện ác trong một đời đồng thời hiện ra.

Điều này giúp chúng ta hiểu rõ tinh thần của con người sắp mạng chung. Khi sắp chết, chưa hết hơi ấm, những nghiệp thiện ác đã làm trong đời mình liền hiện ra. Cho nên, nếu là thiện, như người niệm Phật thành công thì thấy chư Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí. Còn những người làm ác, khi ấy thấy cảnh dữ, liền đọa xuống địa ngục. Chỉ có những người nửa tình nửa tưởng được sanh làm người, lúc đó mới có việc chờ cha mẹ trong vòng bốn mươi chín ngày, mới có chuyện cầu nguyện cho họ. Ở đây Phật nói rất kỹ cho chúng ta biết rành rẽ.

Như vậy, nặng về tình thì đi xuống, nhiều tưởng thì đi lên, nhưng cũng không ngoài luân hồi. Nếu muốn hết luân hồi thì phải hết tình hết tưởng.

Chết là nghịch, sanh là thuận, hai tập nghiệp giao nhau.

Hai tập nghiệp sanh thuận và tử nghịch giao tiếp nhau. Chết là nghịch vì thân này bị hoại, sanh là thuận là đi theo nghiệp cũ dẫn tạo nghiệp cũ dẫn tạo nghiệp mới, nên hai nghiệp mới cũ giao kết nhau.

Nếu thuần tưởng tức bay lên, ắt sanh trên cõi trời. Nếu bay lên mà trong tâm gồm đủ phước tuệ và nguyện thanh tịnh, thì tự nhiên tâm mở sáng, thấy được các cõi tịnh độ của chư Phật mười phương, tùy nguyện mà vãng sanh.

Nếu người thuần tưởng cõi tịnh độ, hay cõi đức Phật A-súc… không còn chút tình nào chen vào, có nguyện sanh về cõi đó, đồng thời làm phước tu tuệ đầy đủ thì khi lâm chung trí tuệ họ mở sáng, liền thấy cõi thanh tịnh của chư Phật mười phương, rồi tùy theo nguyện của mình mà sanh về cõi Phật, gọi là vãng sanh. Đó là tưởng cộng với phước, tuệ và nguyện, đủ bốn điều này thì sanh về cõi Phật.

Đây là lý do tại sao khi trong gia đình có người chết, đừng nên khóc mà phải tụng kinh. Khóc là tăng trưởng cái tình, tức là làm người chết chìm xuống các cõi dữ. Muốn nuôi dưỡng cái tưởng cho thuần khiết nên khuyên người sắp mất phải nhớ Phật, phải nghe kinh, để cho tâm tưởng nhẹ nhàng, dễ bay lên các cõi trên. Đó là điều thiết yếu.

Tình ít tưởng nhiều thì cũng nhẹ nhàng bay lên, nhưng không được xa, liền làm phi tiên, đại lực quỷ vương, phi hành dược-xoa, địa hành la-sát, dạo đi trong cõi trời Tứ thiên vương không bị chướng ngại.

Chừng chín phần tưởng một phần tình, hoặc tám phần tưởng hai phần tình thì cũng bay lên nhưng không xa, được tự tại ở trong khoảng trời Tứ thiên vương trở xuống. Chúng ta tự kiểm lại thì biết mình đang tới chỗ nào.

Trong đó nếu có những người tâm lành nguyện lành, hộ trì pháp Phật, ủng hộ giới cấm theo người giữ giới, hoặc ủng hộ thần chú theo những người trì chú, hoặc ủng hộ thiền định thì giữ yên pháp nhẫn, chính những người ấy được ở dưới tòa Như Lai.

Những người có tâm lành nguyện lành đó sẽ làm những vị thần để bảo vệ người giữ giới, người trì chú, người tu thiền định. Do đó họ luôn luôn ở dưới tòa Như Lai, tức là ở trong chùa, gọi là Hộ pháp, chứ không đi làm thần thánh các nơi khác.

Tình tưởng bằng nhau, không bay lên cũng không rơi xuống thì sanh ở nhân gian. Người tưởng sáng thì thông minh, người tình tối thì ngu độn.

Người sanh ở nhân gian, ai trước có tưởng nhiều hơn tình thì người đó thông minh, còn nếu tình nhiều thì ngu độn. Thử kiểm lại thì biết mình đời trước thuộc loại nào.

Nếu tình nhiều tưởng ít thì phải trôi giạt trong loài hoành sanh. Nếu nặng thì làm loài có lông, nếu nhẹ làm loài có cánh.

Nếu khoảng sáu phần tình bốn phần tưởng thì vào loài hoành sanh hay bàng sanh, tức là loài đi ngang, như trâu bò heo chó… Nặng thì làm loài thú có lông, nhẹ thì làm loài có cánh như chim chóc bay đi. Bây giờ nhìn lại mình tự biết mình thuộc loại nào, tương lai như thế nào, biết rõ chứ không nghi ngờ. Nếu tự đánh giá thấy tưởng nhiều thì tốt, còn nếu tình nhiều phải dẹp bớt lần lần.

Bảy phần tình ba phần tưởng thì chìm xuống thủy luân, sanh bên mé hỏa luân, nhận chịu hơi nóng bốc lên rất mạnh, thân làm ngạ quỷ, thường bị lửa đốt, vì nước có thể hại mình, không ăn không uống, trải qua trăm ngàn kiếp.

Trong nhà Phật nói ở ngoài trái đất là phong luân, kế đến thủy luân, hỏa luân, kim luân v.v… Người sanh ở giữa ranh giới thủy luân và hỏa luân này, do nhận chịu hơi lửa xông lên mà thân họ luôn luôn có lửa, trong miệng thường ra lửa, nên nói làm ngạ quỷ khổ vô cùng. Những người tự tử chết oan hay đọa làm ngạ quỷ, vì thắt cổ, uống thuốc độc… là nặng về tình mà chết, nên rơi vào loài này.

Chúng ta sống bảy tám mươi năm thấy cũng dài, ngạ quỷ sống cả trăm ngàn kiếp, tuổi thọ cũng không biết bao nhiêu. Nên làm loài đó rồi khó mà chuyển nổi, khổ quá không biết chừng nào mới tu được! Chúng ta thường nghĩ ngạ quỷ luôn đói khát là do không ai cúng cho họ ăn uống. Nước đầy cả sông cả biển, uống lúc nào cũng được, nhưng họ vẫn luôn luôn khát. Tại sao vậy? Vì nước có thể làm hại họ, thân họ như lửa, vào nước là tắt là chìm, nên họ không dám tới gần nước. Do đó khi cúng cho họ, phải tụng chú biến thực biến thủy, họ mới ăn uống được.

Vậy mới thấy, được làm thân người là rất quý. Mất rồi, nếu rơi vào những chỗ này không biết chừng nào mới trở lại làm người, thoát khỏi khổ đau!

Chín phần tình một phần tưởng thì chìm xuống thấu hỏa luân. Thân vào chỗ ranh giới giao nhau giữa phong luân và hỏa luân. Nếu nhẹ thì sanh nơi địa ngục hữu gián, còn nặng thì sanh địa ngục vô gián.

Địa ngục hữu gián là chỗ tra khảo còn có lúc nghỉ, còn tại địa ngục vô gián thì tra khảo suốt ngày suốt đêm không khi nào ngừng nghỉ.

Thuần tình thì chìm vào địa ngục A-tỳ.

Trọn mười phần tình, không có tưởng thì vào địa ngục A-tỳ, không biết chừng nào ra. Thế giới hoại, địa ngục A-tỳ vẫn chưa hoại.

Nếu trong tâm chìm vào đó mà còn chê bai Đại thừa, phá giới cấm của Phật, cuồng vọng nói pháp để tham cầu của tín thí, lạm nhận sự cung kính của người khác, phạm tội ngũ nghịch hoặc thập trọng thì lại sanh vào địa ngục A-tỳ ở mười phương.

Trọn mười phần tình lại thêm những tội ngũ nghịch thập trọng thì sanh địa ngục A-tỳ, khi thế giới này hoại, địa ngục A-tỳ ở đây mất lại sanh vào địa ngục A-tỳ ở thế giới mười phương khác. Ở đâu có thế giới, có địa ngục A-tỳ thì đều sanh vào đó, không biết đến chừng nào ra.

Theo nghiệp ác đã tạo, tuy là tự chiêu cảm quả báo, nhưng trong chúng đồng phần thì đã có chỗ sẵn.

Nếu hỏi rằng địa ngục là chỗ có sẵn hay do người tạo rồi mới có với người đó, đức Phật dạy: Tuy tùy nghiệp chúng sanh chiêu cảm mà có, nhưng vì nhiều người tạo nghiệp ác chiêu cảm như vậy, thành ra có chỗ sẵn.

Ví dụ như ở thế gian nếu người dân hiền lành không phạm luật pháp, không có ai tạo tội thì nhà nước đâu cất khám đường làm gì! Giả sử có một người hoặc hai người phạm, có lẽ cũng khỏi cất khám đường. Nhưng nếu cả trăm, ngàn người phạm tội, gọi là chúng đồng phần, nhiều người cùng chiêu cảm, phải có chỗ nhất định để giáo dục họ, hoặc phải có khám đường để chứa họ.

Như vậy có thể khẳng định là địa ngục có sẵn hay không có sẵn? Câu trả lời là: Không phải có ai tạo địa  ngục sẵn cho con người, chỉ do vọng nghiệp chúng sanh tạo tác, tự gây nhân rồi chuốc lấy quả, nên thấy có cảnh khổ phải chịu. Nhưng vì nhiều người tạo tác như vậy, cùng chuốc quả báo giống nhau, nên phải có cảnh nhất định cùng chung chịu khổ. Địa ngục rõ ràng như ở thế gian vậy.

Chúng ta học kỹ mới biết rõ tại sao mình được thăng, tại sao phải trầm. Vậy chúng ta phải như thế nào? Thăng trầm lên xuống là hai bên, chúng ta không nên kẹt một bên nào. Nếu chưa giải thoát được, thì thà là thăng chứ đừng trầm, khổ lắm!

Hãy thử xét nơi mình, nếu có nhân trầm nhiều thì phải ráng cạo gọt cho nhẹ bớt, đừng để tới sáu bảy phần tình là nguy. Năm phần tình là tối đa, để còn có thể trở lại làm người, tiếp tục tu nữa chứ quá phần đó thì nguy. Nhẹ thì làm các loài chim chóc cũng không tu được, cứ lẩn quẩn lo kiếm trái ăn. Nếu làm trâu bò, bị bắt kéo cày cực nhọc chịu sao nổi!

Tu là để chuyển hướng đi lên. Nếu người chưa thể đạt được giải thoát, nhờ chuyển hướng lên mà càng ngày càng nhẹ hơn. Còn người không biết tu cứ chìm ở trong tình thương ghét, do tình đó mà bị chìm sâu. Học kinh rồi mới thấy thương chúng sanh, thế gian này có mấy người biết tưởng, chỉ sống với tình thôi. Cứ giận người này, ghét người kia, thương người nọ, ngày ngày ngồi lại bàn nói chỉ có bấy nhiêu. Buồn, thương, giận, ghét… toàn là tình! Đeo mang tình đầy dẫy thì làm sao đi lên được!

Phật nói mất thân này rồi, tìm lại được rất khó. Chúng ta thử kiểm lại những người thân quanh mình, xem tình nhiều hay tưởng nhiều? Ít có người tưởng nhiều, trừ một vài người biết tu biết nhớ Phật, còn đa số là sống theo tình, ắt phải chìm sâu khó mà lên được. Bởi vậy, người biết tu rồi thấy thương chúng sanh mê muội không biết chỗ nào để thoát ra.

Con người sống một đời này mấy chục năm có nghĩa gì, mà trong đó lại tạo cái nhân chìm đắm khổ đau, đến mấy kiếp hoặc là mấy ngàn năm. Quả là đem một chút vui đổi lấy khổ muôn đời, giống như đứa con nít ham ăn, thấy có chút đường dính ở lưỡi dao bén, vội le lưỡi liếm. Liếm chút xíu đường, không ngọt được bao lâu mà họa đứt lưỡi đau không biết mấy ngày mấy tháng. Con người mê muội đến như vậy!

Người tu là người biết chọn hướng đi để thoát khổ, còn người không biết tu cứ vùi đầu trong khổ đau mà không tự biết. Đời này khổ một ít, rồi đời sau khổ nữa, không biết đâu là ngằn mé. Người đời trong lòng chứa toàn là tình. Nếu làm cha mẹ thì giận đứa con này thương đứa con kia, thằng đó nghèo quá, đứa kia ngỗ nghịch quá… Cứ kể lể bao nhiêu chuyện ấy, ít có ai nói chuyện niệm Phật, mộng thấy Phật Di-đà, hoặc mong sẽ sanh về cõi trời Đâu-suất, thấy Phật Di-lặc…

Do vậy, người thế gian chết rồi mà được trở lại làm thân người là vô cùng khó, trong trăm ngàn người chưa biết có được một người trở lại không, nói gì là lên các cõi trên! Bởi vì họ sống theo một lối một hướng như nhau là cứ đuổi theo tình, suốt ngày có bao nhiêu đó. Chúng ta biết tu, hiểu đạo rồi mới thấy chỗ quý báu của sự tu, nhìn lại thấy chúng sanh mê muội đáng thương. Phật thương chúng sanh nên chỉ cho họ hướng đi. Do đó, thuyết pháp là việc thiết yếu, để nhắc cho mọi người nhớ đường đi lên.

2. Mười tập nhân và sáu giao báo

A-nan, những điều này đều do nghiệp của các chúng sanh kia tự chiêu cảm, tạo mười tập nhân thì lãnh thọ sáu giao báo.

Mười tập nhân là do mình huân tập hay gây tạo, nên phải chịu hậu quả phát sáng, chứ không phải có ai ác ý muốn làm khổ mình.

a. Thế nào là mười nhân?

Này A-nan, một là tập khí dâm dục giao tiếp phát ra sự cọ xát lẫn nhau, cọ xát nhau không thôi, như thế nên ở trong có ngọn lửa lớn cháy sáng dấy lên. Giống như người lấy hai tay tự xoa với nhau, cảm giác nóng liền hiện tiền. Hai tập khí đốt nhau nên mới có các việc giường sắt cột đồng v.v… Thế nên tất cả Như Lai ở mười phương xem việc hành dâm này đồng gọi là lửa dục. Bồ-tát trông thấy dục như tránh hầm lửa.

Chúng ta thấu nhân và quả rõ ràng: nhân là tự mình tạo ở trong, đưa đến quả phải chịu thiêu đốt trên giường sắt nóng hoặc ôm cột đồng cháy v.v… ở địa ngục. Vậy là từ hành dâm dục ở trong mà có quả báo bên ngoài. Như vậy, rõ ràng từ tập nhân đó đưa tới nghiệp báo kia, chứ không phải ngẫu nhiên mà có quả báo hoặc do ai khác bày ra.

Hai là tập khí tham lam kết giao với so tính, phát ra sự thu hút lẫn nhau, thu hút buộc chặt không dừng, như thế nên ở trong đó chất chứa cái lạnh, biến thành băng cứng lạnh buốt. Như người dùng miệng hút hơi gió vào thì sanh cảm giác lạnh.

Do tham nên tính mưu kế, hai tập khí này thu hút nhau không dừng, kết thành những tảng băng cứng chắc.

Do hai tập khí lấn đoạt nhau, nên có các sự tra tra, ba ba, la la, hoa sen xanh, đỏ, trắng, băng lạnh v.v…

Chữ tra tra, ba ba, la la là những tiếng diễn tả khi bị lạnh quá răng đánh bò cạp, hoặc những tiếng rên hừ hừ khi bị rơi xuống hàn băng. Người phát ra tiếng thế này, người phát ra tiếng thế nọ.

Như vậy, dâm là lửa nóng, tham là nước lạnh.

Thế nên tất cả Như lai mười phương xem người tham cầu nhiều đồng gọi là nước tham. Bồ-tát trông thấy tham như tránh biển độc.

Tham cầu nhiều, muốn có được nhiều thứ, ở đời gọi là tham. Còn đối với trong chùa, khi làm người có trách nhiệm, ai tới mình cũng muốn người ta cúng nhiều để nuôi chúng, vậy muốn nhiều đó có phải là tham không? Vô tình mình cũng bị tham chi phối, rồi cũng rơi xuống chỗ lạnh cóng này. Vậy nên đừng ham muốn nhiều, thí chủ phát tâm thế nào cũng tùy hỷ. Đây là điều mọi người cần dè dặt.

Ba là tập khí ngã mạn giao kết với sự lấn hiếp, phát ra ỷ thế với nhau, giong ruổi không dừng. Như thế nên có phóng chạy ngược xuôi, chất chứa sóng thành nước. Như lưỡi trong miệng người tự kết với vị, nhân đó mà nước bọt chảy ra.

Mạn là ngã mạn. Người ngã mạn thì thấy ai cũng thua mình, ỷ mình hay chê người dở, khinh khi người khác. Chữ miên là cột, kết; lưỡi kết với vị. Vì khi lưỡi mình thích gì thì dính với cái đó, khi nhớ thèm cái đó, nước miếng chảy ra. Đằng dật bôn ba là phóng chạy ngược xuôi. Đằng là nhảy, dật là buông thả, bôn là chạy đuổi, ba là sóng, lượn sóng này đuổi lượn sóng kia, đuổi nhau hoài không ngừng.

Do hai tập khí này kích động nhau nên mới có các việc sông máu, sông tro, cát nóng, biển độc, rót nước đồng sôi. Thế nên tất cả Như Lai mười phương gọi ngã mạn là uống nước si. Bồ-tát trông thấy ngã mạn như tránh vực sâu.

Đó là hiện trạng của địa ngục, hoặc thấy bị xô xuống sông máu, sông tro, bơi lội khổ sở, hoặc bị cát nóng, hoặc bị rơi xuống biển độc, hoặc bị rót nước đồng sôi vô miệng bắt nuốt… Người ngã mạn khinh người, lấn lướt người khác là uống nước si, để rồi bị đau khổ. Bồ-tát tránh ngã mạn như tránh chỗ sông to biển lớn, vực thẳm, khiến dễ bị chết chìm.

Hãy thử kiểm tra lại xem trong ba thứ dâm, tham, mạn mình có thứ nào thì biết kết quả sẽ đưa tới đâu, phải liệu để tránh.

Bốn là tập khí nóng giận giao kết với xung đột, phát ra sự chống đối nhau, chống đối kết mãi không thôi, tâm nóng phát ra lửa, đúc khí ấy thành kim loại, thế nên có núi đao cọc sắt, cây kiếm, bánh xe kiếm, búa rìu thương cưa. Như người ôm lòng oán hận thì sát khí nổi lên. Do hai tập khí đó công kích nhau nên có những việc thiến cắt chém chặt, dùi đâm đập đánh. Thế nên tất cả Như Lai mười phương gọi nóng giận là dao kiếm bén. Bồ-tát trông thấy nóng giận như tránh họa chém giết.

Những kẻ nhiều sân giận thường chống đối người này người kia, lâu ngày kết thành thói quen chống đối. Trong tâm nóng bức, lửa sân dấy lên, nên mới có các thứ núi đao, cây kiếm… và các khổ chém chặt… rùng rợn ở địa ngục. Như vậy, do sân hận mình chống đối, hại người, rốt cuộc mình phải chịu khổ.

Năm là tập khí lường gạt giao kết với dụ dỗ, phát ra sự toan tính với nhau, dẫn khởi không ngừng.

Lường gạt là tìm cách này cách kia để gạt gẫm, lấy của người khác. Như người hiện chỉ có một ngàn đồng, muốn lấy của người khác mười ngàn, bèn nói: “Tôi có một trăm ngàn đang gửi ngân hàng, bây giờ lấy ra chưa được, chị cho tôi mượn mười ngàn, ít bữa tôi lấy ra trả lại.” Đây gọi là nói gạt.

Như thế nên có dây, cây, thòng lọng, căng nọc. Như nước chảy vào ruộng, cỏ cây được sanh trưởng. Do hai tập khí này kéo dài với nhau, nên có các việc gông cùm xiềng xích, roi trượng hèo gậy. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi gian dối là giặc gièm pha. Bồ-tát thấy sự lường gạt như sợ sói beo.

Do dối gạt lẫn nhau, dẫn dắt không dừng, nên đọa xuống địa ngục, bị dây trói, gậy, trượng. Đó là gốc từ gian dối mà ra. Bồ-tát xem sự lừa dối như các loài thú dữ, không dám đến gần.

Sáu là tập khí lừa dối giao kết với dối gạt, phát ra lừa gạt nhau, lừa gạt không dừng, phóng tâm tạo các điều gian dối, như thế nên có bụi đất, phân, nước tiểu, dơ nhớp không sạch. Như bụi theo gió, đều không thể thấy. Hai tập khí này giúp nhau, nên có những sự chìm đắm, nhảy lên, ném xuống, bay lên, rơi xuống, trôi chìm. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi dối gạt là cướp giết. Bồ-tát thấy dối gạt như đạp phải rắn rít.

Đây là tạo nhân lừa gạt. Do lừa gạt nên tâm gian trá càng nhiều, đó là nhân địa ngục. Nơi đó chứa toàn đồ bất tịnh, ô uế… bắt người có tội phải lội trong đó. Vì vậy mà các Bồ-tát xem lừa dối như đạp phải rắn độc.

Thứ bảy là tập khí oán hận giao kết với thù hiềm, phát ra ôm lòng giận hờn, như thế nên có quăng đá, ném gạch, nhốt trong hộp, xe cũi, hũ đựng, túi đãy. Như người hiểm độc ngầm, ôm ấp chất chứa điều ác trong lòng.

Người ôm ấp chất chứa điều ác trong lòng thì sau bị chứa nhốt trong hộp, trong cũi, trong hũ, trong đãy…

Do hai tập khí này nuốt nhau, nên mới có các việc ném quăng cầm giữ, đánh bắn tung chụp. Thế nên tất cả Như Lai mười phương gọi oán thù là quỷ vi hại. Bồ-tát thấy oán thù như uống rượu độc.

Do oán thù kết tập nhau mà sanh tâm ôm ấp hiềm hận. Hận là rơi vào chỗ bị quăng đá, ném gạch, nhốt trong hộp… ở địa ngục. Vì vậy các Bồ-tát xem sự oán hờn như uống rượu độc.

Tám là tập khí ác kiến giao kết với sáng, như thân kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, các nghiệp tà kiến, phát ra sự chống đối, sanh ra trái ngược nhau, như thế nên có vua, kẻ sứ, chủ, lại nắm giữ sổ bộ làm chứng. Như người đi đường qua lại gặp nhau.

Kiến là nhận định. Nhận định sai lầm hay nhận định chỉ đúng một phần mà chấp chặt thì gọi là kiến tập, là tập khí của kiến chấp. Nhận định thì lúc nào cũng là sáng, không phải tối, nhưng vì nhận định còn thiên về một bên hoặc lệch lạc không đúng mà chấp là đúng nên trở thành tà kiến hay ác kiến. Trong đó có các nghiệp thân kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến, phát ra sự chống trái nhau. Do đó hiện ra vua Diêm vương, sứ là người của nhà vua sai đi mời về, chủ là người sai khiến đánh đập, lại là người coi sổ bộ làm chứng… mọi việc hiện tiền không nghi ngờ.

Do hai tập khí giao kết với nhau nên có khám xét, mưu mẹo, tra khảo hạch hỏi, điều tra thẩm xét, vạch bày tra cứu cho sáng tỏ, có những đồng tử thiện ác tay cầm sổ bộ chứng từ biện bạch các việc. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi ác kiến là hầm kiến chấp. Bồ-tát thấy các thiên chấp hư dối như đi vào khe núi độc.

Do nghiệp chấp theo tà kiến, khi chết thấy bị sứ vua sai bắt, xuống địa ngục bị Diêm vương tra khảo hỏi cung. Nếu chối thì có người cầm bộ sổ đem đến minh chứng các việc để hết dám chối.

Chín là tập khí oan uổng giao kết với gia hại phát ra vu oan, chê bai người, như thế nên có núi ép đá ép lại, nghiền xay cày bừa. Như kẻ sàm tặc bức hiếp oan uổng người lương thiện. Do hai tập khí chống đối nhau, nên có các việc ép kẹp đánh đè, ép huyết, cân lường. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi sự oán ghét vu báng người là con cọp gian. Bồ-tát thấy sự oan uổng như gặp sấm sét.

Đọa xuống địa ngục, thấy mình đang ở giữa hai trái núi ép lại, hoặc là đi giữa hai khối đá ép lại, khiến bị nát thây, hoặc bị bỏ trong cối đâm hoặc trong cối xay. Kẻ gian bức bách, làm oan uổng người lương thiện khổ như thế nào thì khi chết thấy cảnh như vậy. Do ức hiếp người nên sanh vào địa ngục chịu các khổ như thế, nên Bồ-tát xem sự vu oan như sấm sét, không dám đến gần.

Thứ mười là tập khí thưa kiện giao kết với cãi vã, phát ra che giấu, như thế nên có gương soi đuốc chiếu. Như giữa ban ngày không thể giấu bóng được. Hai tập khí cùng phô bày nhau, nên có các việc bạn ác, gương nghiệp, hỏa châu, bày hiện nghiệp xưa để đối nghiệm. Thế nên tất cả Như Lai mười phương đồng gọi sự che giấu này là giặc ngầm. Bồ-tát xem che giấu như là đội núi cao mà lội trong biển lớn.

Do hơn thua nên có thưa kiện, khi thưa kiện thì lúc nào cũng đưa ra nhiều điều phải giấu điều quấy, tức là che giấu. Đến khi chết xuống địa ngục, những gì mình làm trên nhân gian, giấu giếm không nói ra thì lúc đó sẽ gặp những bạn ác, họ chỉ mặt nói “hồi đó anh làm những chuyện này, tôi làm chứng”. Nếu không chịu, cãi nữa thì được dẫn lại cái gương để coi. Ví dụ hồi trước giết người, nay trên gương hiện ra cảnh đó, gọi là gương nghiệp. Hoặc hỏa châu sáng rỡ soi cho thấy hết các việc mình làm. Nghiệp trước bày hiện ra hết không giấu giếm được, cho nên mới có sự đối nghiệm. Bồ-tát xem che giấu như đội núi cao mà đi vào biển lớn, ắt bị chìm xuống tận đáy.

Trên đây là mười tập nhân đưa đến các quả khổ. Địa ngục có những cảnh hung dữ, tàn ác, đau khổ… như vậy là do ở thế gian chúng sanh có các tâm dâm, tham, ngã mạn, nóng giận, lường gạt, lừa dối, oán hận, tà kiến, oan uổng, thưa kiện. Người không biết tu cứ tạo nghiệp rồi chịu khổ, chẳng phải chỉ trả đời này mà không biết bao nhiêu đời mới trả hết. Chúng sanh mê muội ham vui nhỏ mà chuốc khổ dài. Bởi vậy nên Phật mới thương, dạy cho biết thức tỉnh để tránh các khổ. Như ngày nay giật được của người ta năm, bảy chục nghìn, xài chừng nửa tháng đã hết rồi, mà nghiệp báo sau này phải bị đọa đày bao nhiêu đời kiếp. Sự khờ dại của con người là họ không biết tội để tránh, không biết phước để làm, vì vậy mà cứ chuốc khổ, chẳng biết tìm con đường an vui. Đó là gốc của khổ đau.

Chúng ta kiểm lại trong mười tâm đó, coi mình có tâm nào thì tự liệu. Nếu mình chứa cái nào thì sau này gặp cái đó, vì có tập nhân thì cũng có quả theo cùng. Quả báo khổ đau ấy, không phải ai khác làm ra mà chính do nhân mình đã tạo. Chúng ta học đạo phải biết rõ tập nhân xấu để tránh thì quả khổ sẽ không đến. Nếu không tránh tập nhân thì quả khổ nhất định phải tới.

Phần kế, Phật nói sáu quả giao báo, tức là quả báo do kết hợp với nhau mà thành.

b. Thế nào là sáu báo?

Này A-nan, tất cả chúng sanh do sáu thức tạo nghiệp, chiêu cảm ác báo từ sáu căn mà ra.

Phật chỉ sáu quả báo này là do sáu thức nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý của chúng sanh tạo thành nghiệp, nên chuốc lấy quả báo từ sáu căn.

Thế nào là ác báo từ sáu căn ra? Một là giao báo về thấy chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp giao báo về thấy này là khi lâm chung, trước thấy lửa dữ đầy cả thế giới mười phương. Thần thức của người chết bay lên rồi rơi xuống, nương theo khói vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là thấy sáng, thấy khắp các vật dữ, sanh ra kinh hãi vô cùng; hai là thấy tối, lặng im không thấy gì hết, sanh ra sợ sệt vô lượng.

Ác báo về thấy, vời quả báo ác dẫn tới chỗ thọ khổ. Ai đầy người ta vào địa ngục Vô gián? Chính là do nghiệp đã tạo, đến khi chết thấy lửa cháy rần rần, không biết đâu mà chạy, hoảng quá bay lên, gặp khói cuộn đưa vào địa ngục Vô gián. Khi vào địa ngục Vô gián thì thấy hai tướng: thấy sáng là thấy toàn sự ác, thấy tối là không thấy gì hết, cả hai đều làm cho người kinh sợ.

Lửa thấy như thế, thiêu đốt cái nghe, hay làm thành chảo nước sôi, nước đồng chảy. Đốt hơi thở thì hay làm ra khói đen lửa đỏ. Thiêu cái nếm thì hay làm tro nóng than hừng. Đốt tâm ý thì hay sanh sao lửa xẹt tung tóe, thổi bùng khắp cõi hư không.

Vào địa ngục thấy toàn là lửa, lửa đốt cái thấy phát ra hai tướng thấy sáng và thấy tối. Thấy sáng là thấy toàn những chuyện ác rồi sanh ra kinh hoàng. Thấy tối thì tuy lặng im không thấy gì hết, nhưng cũng làm hoảng hốt sợ sệt. Đốt nghe thì sanh ra chảo nước sôi, nước đồng nóng chảy. Đốt ngửi thì hay làm ra khói đen, lửa đỏ. Thiêu vị thì hay làm ra cơm hay cháo sắt hoặc viên lửa cháy đỏ, tức là một khối sắt lửa đỏ hừng, giống như giường sắt, lưới sắt nóng. Đốt cảm xúc thì hay làm thành tro nóng, lửa than. Đốt về tâm ý thì hay sanh tinh hỏa bính lệ, tức là những đóm lửa bay lên tung tóe rồi rơi xuống, cũng như thợ rèn đập sắt thấy toàn là lửa văng xẹt tứ tung. Khi gió thổi sao lửa xẹt lên, hừng hực cả cõi hư không, dấy động khắp nơi toàn là lửa.

Hai là giao báo về nghe chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp nghe này giao báo thì khi lâm chung, trước thấy sóng dậy chìm ngập cả trời đất. Thần thức của người chết rơi trong sóng, theo dòng nước vào ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là nghe thông thì nghe tất cả tiếng ồn náo làm cho tinh thần rối loạn; hai là điếc đặc thì lặng lẽ không nghe gì, hồn phách chìm trong mù mịt u tối.

Sóng nghe như thế, rót vào nghe thì hay làm thành lời trách móc hỏi vặn. Rót vào thấy hơi độc đầy dẫy từ xa đến gần. Thần thức của người chết từ dưới đất vọt lên, vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là ngửi thông, bị các khí độc xông thẳng vào mũi làm cho tâm rối loạn; hai là ngạt mũi thì hơi nghẹt không thông, làm cho chết giấc dưới đất.

Hơi ngửi như thế, xông vào hơi thở thì hay làm chất ngại, làm giày xéo. Xông lên thấy thì hay làm lửa làm đuốc. Xông lên nghe thì hay làm chìm đắm, làm nước lớn, nước nóng. Xông lên nếm thì hay làm đói làm lầm. Xông lên xúc thì hay làm rách nát, làm núi thịt lớn có trăm ngàn con mắt, bị vô lượng con vật cắn mổ ăn. Xông lên ý thì hay làm tro, chướng khí, gạch cát đá bay đáng nát thân thể.

Như vậy, tất cả những cảnh dữ đó, người làm ác khi vừa tắt thở đã thấy liền, thần thức hoảng loạn chạy trốn, rơi ngay vào địa ngục Vô gián, ai mà kéo ra cho kịp! Nếu có quý thầy quý cô đứng đó tụng kinh cũng không kéo lại nổi, người chết đâu kịp nghe kinh để xin về Cực lạc. Vì vậy, đừng có coi thường, nói chờ tới lúc chết có mấy vị tu hành đến cứu làm sao kịp!

Bốn là giao báo về vị chiêu dẫn tới quả dữ. Nghiệp nếm này giao báo thì khi lâm chung trước thấy lưới sắt lửa cháy hừng hực che khắp cả thế giới. Thần thức người chết rớt xuống mắc trong lưới, đầu bị treo ngược, liền vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là hít hơi vào, kết thành băng lạnh làm cho thân thể lạnh cóng da thịt nứt nẻ; hai là nhả hơi bay ra thành lửa mạnh thiêu rụi xương tủy.

Vị nếm như thế, qua nếm thì làm thành nhận chịu. Qua thấy thì hay đốt chảy vàng đá. Qua nghe thì hay làm các thứ đao binh bén. Qua mũi thì làm lồng sắt lớn che khắp cõi nước. Qua xúc thì hay làm cung tên nỏ bắn. Qua ý thì hay làm sắt nóng bay, từ trên không rơi xuống như mưa.

Năm là giao báo về xúc chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp xúc này giao báo thì khi lâm chung trước thấy núi lớn bốn phía áp lại không còn đường ra. Thần thức người chết thấy thành sắt lớn, rắn lửa chó lửa, cọp sói sư tử, ngục tốt đầu trâu, la-sát đầu ngựa, tay cầm thương mâu xua vào trong cửa thành, thẳng vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là hợp xúc thì thấy núi áp lại đè ép thân thể, xương thịt máu mủ tuôn chảy; hai là ly xúc thì thấy đao kiếm chạm vào thân, tim gan bị cắt nát.

Thần thức của người chết thấy các núi áp lại, có thành sắt lớn, trong ngoài đâu đâu cũng toàn là lửa, lại có mấy con thú lửa, ngưu đầu ngục tốt, mã đầu la-sát tay cầm thương, mâu xua vào trong cửa thành. Khi ấy do hoảng sợ, không còn có thời gian để suy nghĩ gì nữa, cùng đường rồi phải đi thẳng vào địa ngục Vô gián, chịu các cảnh thống khổ. Lúc đó, ở trên nhân gian con cháu dù có cúng gì, thần thức người chết cũng không thể hưởng.

Xúc hợp như thế, trải qua xúc thì hay làm ra đạo, quán, sảnh, án.

Đạo là thấy con đường tội nhân đi vào địa ngục. Quán là những tòa nhà cao lớn trong địa ngục. Sảnh là chỗ người ta tra hỏi. Án là cái bàn xét hỏi. Đây toàn là những cảnh của địa ngục.

Qua thấy thì hay làm thiêu đốt. Qua nghe thì hay làm đánh, đập, đâm, bắn. Qua hơi thở thì làm trùm bắt, đẫy nhốt, đánh khảo, cột trói. Qua nếm thì làm cày, làm kìm, chém, chặt. Qua ý thì hay làm rơi xuống, bay lên, nấu, nướng.

Phần này giao báo về xúc tức quả báo của thân, thần thức thấy toàn cảnh dữ, rồi rơi vào địa ngục, chịu bao nhiêu thứ khổ.

Sáu là giao báo về ý chiêu dẫn quả dữ. Nghiệp ý này giao báo thì khi lâm chung trước thấy gió dữ thổi nát cõi nước. Thần thức người chết bị gió thổi lên hư không, xoay rơi theo gió mà vào địa ngục Vô gián, phát sanh ra hai tướng: một là không biết, mê muội quá thành ra hoảng hốt, chạy đi không dừng; hai là không mê, hay biết thì khổ, bị thiêu đốt không cùng rất là đau đớn khó mà chịu nổi.

Như thế ý sai lầm kết với ý nghĩ thì hay làm ra nơi chốn. Kết nơi thấy thì hay làm gương soi, làm chứng cứ.

Nơi chốn là chỉ những chỗ hành hạ tra tấn. Khi người ta xét tội, nếu chối thì có người làm chứng như gương soi, cho biết là đang chối.

Kết nơi nghe thì hay làm đá lớn hợp lại, làm băng, sương, đất, mù. Kết nơi hơi thở thì hay làm ra những tiếng kêu to, làm hối hận, khóc lóc. Kết ở xúc thì hay làm ra lớn, nhỏ, làm cho trong một ngày mà muôn lần sống muôn lần chết, làm nghiêng làm ngửa.

Trong địa ngục khổ quá, muốn chết cũng không được. Chết rồi gió thổi sống lại, chịu khổ rồi chết, chết rồi sống lại nữa, muôn vạn lần trong một ngày, năm này qua tháng nọ hành hạ hoài không biết chừng nào ra. Chúng ta chết có một lần mà còn sợ, huống là chết quá nhiều lần. Đó là cảnh khổ của địa ngục Vô gián.

Người không lo tu lỡ rơi xuống đó rồi, dù kêu la cũng không ai cứu nổi, lúc đó chỉ riêng một mình chịu thôi. Khi còn sống ăn gian, trộm cướp mang tiền của về, có người này người kia ăn chia, tới chừng rơi xuống địa ngục không ai chia tội cùng mình. Bởi vậy người tu rồi mà còn tham lam của này vật kia, sau rơi xuống địa ngục chịu hình phạt thật là tủi, mới thấy đó là sự ngu si của mình. Ở ngoài thế gian vì không hiểu, tham lam, làm những điều tội lỗi để được tiền của, nhiều người cùng hưởng, khi chết phải một mình chịu khổ. Người tu nhiều khi không tỉnh giác, cũng có những lúc tham lam chen vào, tạo chút ít tội lỗi rồi phải đọa, thật khổ!

Cho nên biết rồi, chúng ta dè dặt từng hành động, từng lời nói, từng ý niệm, đừng để cho ba nghiệp tạo ác. Nếu tạo rồi thì sau này giả sử bị cùi bị mù… khổ sáu bảy chục năm là cùng, còn xuống đó chết đi sống lại khổ ngàn muôn năm, vậy mà người ta lại không sợ. Cứ tưởng rằng mình gian lận qua mắt thiên hạ được nên không sợ, không ngờ xuống đó có người làm chứng, có gương nghiệp soi, không thể chối được.

Sáu giao báo do sáu căn tạo ra. Một căn tạo nghiệp sẽ sanh ra các khổ qua những căn khác. Ví dụ như căn mũi thì có nghiệp của mũi, đồng thời có những nghiệp các căn khác phải chung chịu. Do nơi sáu căn chính là lục tặc dẫn đi xuống địa ngục chịu khổ đau. Vì vậy người tu phải biết dè dặt nơi mỗi căn, đừng để tạo nghiệp.

Này A-nan, ấy gọi là mười nhân sáu quả trong địa ngục, đều do chúng sanh mê vọng mà tạo ra. Nếu các chúng sanh đồng tạo nghiệp ác thì vào trong địa ngục A-tỳ chịu vô lượng khổ trải qua vô lượng kiếp.

Không phải có ai sắp đặt tạo sẵn chỗ đó, chỉ do mê vọng của chúng sanh tạo ra. Nếu nhiều người cùng mê vọng tạo nghiệp ác giống nhau thì liền có địa ngục A-tỳ, để họ đến chịu vô lượng khổ trong vô lượng kiếp. Thân đánh đập người, miệng chửi mắng người… gốc đều từ ý. Ý nổi giận nên miệng mới chửi, thân mới đánh, nhưng tới chừng hết giận, tìm cái nổi giận trước không thể thấy. Nó là hư vọng không thật nhưng một khi theo nó rồi thì tạo nghiệp không thể lường.

Ví dụ một người có sức mạnh lại biết võ, ra chợ mua hàng. Cô bán hàng phách lối, nghe người này nói câu gì đó không vừa ý liền chửi bừa vô mặt. Người đó ỷ có võ giơ tay đánh một cái, cô bán hàng té ngửa bất tỉnh, chết luôn. Như vậy, nổi giận đánh có một cái thôi mà người ta chết thì phải chịu ở tù bao lâu? Cái nổi giận đó không thật, chỉ một phút giây tạo nghiệp mà khổ kéo dài không biết bao lâu. Huống là cả đời tạo nghiệp ác thì khổ chừng bao nhiêu?

Do đó phải dè dặt, biết ý vốn không thật thì có nổi nóng gì cũng nhớ nó không thật, rồi buông bỏ đừng theo thì mọi việc an ổn. Trái lại theo nó tạo nghiệp thì phải chịu khổ, không biết ngày nào ra. Phật dạy quá rõ, bởi chúng sanh mê vọng tạo nghiệp chứ không phải thật, nhưng đã tạo rồi thì cảnh địa ngục A-tỳ liền có, phải đến để chịu quả khổ. Không phải Trời Phật ác ý muốn tạo địa ngục cho mình xuống; vì mình tạo nghiệp ác cho nên có cảnh khổ tương ưng với nghiệp của mình.

Cũng vậy nếu chúng ta không biết tu thì một phen tạo điều ác rồi, phải chịu khổ không biết bao lâu, thời gian không nhất định. Thế gian không thiếu những chuyện vì tham sân mà tạo nghiệp. Như mấy người tham, thấy có người cầm túi đồ quý, giật túi, bị công an bắt liền. Từ dấy lòng tham đến giật túi chỉ chừng năm mười phút, nhưng tới chừng bị bắt ở tù thì bao lâu? Như vậy mới thấy tham sân xảy ra thời gian rất ngắn nhưng quả báo của nó thật là dài.

Hiểu vậy mới thấy phiền não đáng sợ, còn không hiểu thì coi nó rất thường, nổi giận cứ làm, hoặc dấy lòng tham cứ làm, rồi chuốc lấy hậu quả không lường trước nổi. Vậy nên Phật dạy chúng ta phải buông bỏ tâm tham lam, nóng giận, si mê nơi mình, đừng để tạo nghiệp ác, như vậy là thoát khổ.

Nơi sáu căn, mỗi căn tạo và nghiệp đã tạo kia, gồm cả cảnh và căn, người ấy hẳn vào tám địa ngục Vô gián. Nếu cả ba thân khẩu ý tạo nghiệp giết trộm dâm thì người ấy hẳn vào mười tám địa ngục. Không gồm đủ ba nghiệp, trong đó hoặc giết hoặc trộm, người ấy hẳn vào ba mươi sáu địa ngục. Hiện thấy một căn riêng phạm một nghiệp, người ấy ắt hẳn vào một trăm lẻ tám địa ngục.

Do những chúng sanh ấy riêng làm riêng tạo mà chỗ đồng phần trong thế giới. Đó là do vọng tưởng phát sanh, không phải từ trước đến nay đã sẵn có.

Như vậy, khi tạo nghiệp thì tạo riêng, nhưng chịu quả lại đến chỗ chung, chỉ do vọng tưởng phát sanh chứ không phải địa ngục có sẵn từ trước. Như ở thế gian, những người tạo nghiệp trộm cướp là mỗi người tạo riêng, nhưng tới chừng vào tù thì ở tù chung. Chung gọi là đồng phần, còn riêng gọi là biệt nghiệp, nghiệp thì tạo riêng mà kết quả là tới chỗ chung.

Tuy địa ngục không phải sẵn có, nhưng nếu tạo nghiệp ác thì có. Lý này quá đúng, ở thế gian cũng vậy. Giả sử như trong một làng không có sẵn nhà tù, nhưng nếu có người nào ăn cướp, giết người, bị bắt đem nhốt, thì chỗ nhốt, đánh đập đó trở thành nhà tù. Nếu có nhiều người cùng tội thì phải có chỗ nhốt chung. Như vậy tất cả khổ trong địa ngục, phải có chỗ chung để cùng chịu, gốc từ hư vọng tạo ra chứ không thật có.

Nếu tất cả mọi người đều hiền lành, không ai phạm pháp luật nhà nước, thì các khám đường sẽ đổi thành trường học, nhà nuôi trẻ… Ở thế gian cũng như cảnh sau khi chết, nếu mình tạo nghiệp thì mới có cảnh dữ chứ không phải có sẵn cố định.

3. Dư báo

Lại nữa A-nan, những chúng sanh ấy chẳng phải phá hoại luật nghi, phạm giới Bồ-tát, hủy báng Niết-bàn của Phật, mà tạo các tạp nghiệp khác, nhiều kiếp phải bị thiêu đốt. Sau khi đền tội xong rồi, chịu các hình quỷ.

Sau khi đọa địa ngục rồi còn có nghiệp thừa, chiêu cảm quả báo đọa vào loài quỷ. Như vậy không phải ra khỏi địa ngục là trở lại làm người liền, mà còn nghiệp thừa, có khi phải làm quỷ. Ra khỏi loài quỷ còn có nghiệp thừa, phải làm súc sanh. Vậy là khi đi xuống thì đi một hơi từ người thẳng xuống địa ngục, không có thứ bậc, nhưng lúc trở lên phải đi từng chặng, từng bậc một để trả dư báo.

Nếu người kia do nhân trước tham đồ vật mà bị tội, người ấy đền tội xong, gặp vật thành hình, gọi là Quái quỷ.

Ví dụ do tham vàng hay tham ngọc mà thành tội, sau khi đọa địa ngục rồi lên kiếp quỷ, thấy vàng ngọc liền gá vô thành quỷ, gọi là Quái quỷ. Người ta thường nói đồ báu chôn giấu lâu ngày thành yêu, thành quỷ, là do các loài đó ảnh hưởng.

Nếu do tham sắc làm thành tội, người ấy đền tội xong rồi, gặp gió thành hình, gọi là Bạt quỷ. Nếu do tham mê làm thành tội, người ấy sau khi đền tội xong, gặp loài súc sanh thành hình, gọi là Mỵ quỷ.

Bạt quỷ là những con quỷ phiêu bạt. Còn Mỵ quỷ là những con thú sống lâu thành tinh, do thần thức người làm tội khi hết ở địa ngục rồi lên dựa.

Do tham hờn giận làm thành tội, người ấy đền tội xong rồi, gặp loài sâu trùng thành hình, gọi là Cổ độc quỷ. Do tham nhớ lỗi làm thành tội, người ấy đền tội xong rồi, gặp các loại suy thành hình, gọi là Lệ quỷ.

Nhớ đây là giận ai, buồn ai, nhớ đời đời không bỏ. Suy là các thứ sắp hoại, như nhà cũ sắp hoại, bỏ không, thì loài quỷ dựa vào.

Do tham kiêu ngạo làm thành tội, người ấy khi đền tội xong, gặp khí thành hình, gọi là Ngạ quỷ. Do tham lừa dối thành tội, người ấy sau khi đền tội rồi, gặp u tối thành hình, gọi là Yểm quỷ.

Do hơi nóng hơi lửa bị đói khát, thành ra Ngạ quỷ. Khi có người làm hình nhân rồi ếm, quỷ dựa vào đó để phá người, gọi là Yểm quỷ.

Do tham sự sáng (tham vẻ đẹp) làm thành tội, người ấy khi đền tội xong, gặp tinh hoa thành hình, gọi là Võng lượng quỷ. Do tham sự thành tựu mà làm thành tội, người ấy khi đền tội xong, gặp cái sáng thành hình, gọi là Dịch sử quỷ. Do tham bè đảng làm thành tội, người ấy khi đền tội xong, gặp con người thành hình, gọi là Truyền tống quỷ.

Có những người luyện thiên linh cái, lấy sọ người chết để luyện. Quỷ theo mấy người này và làm tay sai, người luyện sai quỷ làm các việc thay cho họ. Ví dụ có ai đến coi tay coi tướng gì đó, người luyện sai quỷ tới nhà người coi lấy tin tức về báo cho họ, nên gọi là Truyền tống quỷ, chuyên dựa vào người.

Này A-nan, những người ấy đều do thuần tình mà rơi xuống. Lửa nghiệp thiêu đốt khô, trở lên làm quỷ.

Như vậy mới thấy thuần tình là gốc rơi vào địa ngục, hết nghiệp dưới địa ngục thì trở lên làm quỷ.

Những loài này đều do nghiệp vọng tưởng chiêu cảm mà dẫn đến. Nếu ngộ được đạo Bồ-đề thì nơi tánh diệu viên minh vốn không có việc ấy.

Nếu giác ngộ được Bồ-đề rồi, thì nơi tánh mầu tròn sáng không có những cảnh địa ngục ngạ quỷ.

Như vậy, quả báo thừa là sau khi trả báo địa ngục xong, không phải ngang đó hết, mà còn trở lên làm quỷ. Hết làm quỷ, vẫn còn chút ít những nghiệp thừa thì làm súc sanh để đền trả, vì loài súc sanh đời sống ngắn, nên chỉ chịu khổ thời gian ngắn. Như thế, địa ngục tuổi thọ rất dài, tỷ dụ là một muôn năm, trả xong lên làm loài ngạ quỷ vài ngàn năm, làm súc sanh chừng ít năm. Vậy là từ nghiệp báo rất khổ thì tuổi thọ thật dài, tới nghiệp thừa chút ít, khổ kém hơn thì tuổi thọ cũng kém chút ít, sau đó nghiệp thừa còn rất ít, khổ ít hơn thì tuổi thọ cũng ít hơn. Nghiệp báo còn thừa nhiều thì khổ đậm, còn thừa ít thì nhẹ hơn.

Lại nữa, này A-nan, nghiệp quỷ đã hết thì cả hai tình và tưởng đều thành không, mới ở nơi thế gian cùng với những người mình thiếu nợ trước, oán thù gặp lại, thân làm súc sanh để trả nợ đời trước.

Tình và tưởng ngang đó xem như xóa hết, không phải nhờ tu mà là do thiêu đốt khô hết. Rồi trở lên nhân gian, cùng những người trước kia mình đã thiếu nợ, ân oán gặp lại nhau để trả, chứ chưa phải hết. Trả bằng cách làm thân súc sanh để đền đủ nợ cũ.

Loài Quái quỷ theo vật, khi vật đó tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm loài chim kiêu. Loài Bạt quỷ theo gió, gió tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài báo điềm dữ.

Vật quái là quỷ gá vào vật. Chim báo điềm dữ như chim ụt, chim cú, hễ nghe tiếng kêu là người ta thường chọi đuổi.

Loài Mỵ quỷ theo thú vật, khi con vật chết thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm loài chồn.

Loài này nương theo con vật mà thành quỷ. Con vật chết rồi sanh lên làm chồn, chồn này là loại thường chứ không phải là chồn tinh nữa.

Loài Cổ quỷ theo trùng bọ, khi trùng độc chết thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài độc. Loài Lệ quỷ theo sự suy hoại, khi suy dứt thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài giun sán.

Cổ quỷ khi hết quả báo, sanh lên làm các loài có nọc độc như rắn, rít v.v…

Lệ quỷ dựa vào những chỗ sắp tan hoại. Như khi chúng ta đi tới nhà nào đang hưng thịnh phát đạt thì thấy có vẻ quang đãng sáng sủa, còn tới nhà nào thấy u trệ hoang tàn biết là đang suy. Hồi xưa, thường các nhà giàu khi suy thì quỷ dậy. Đó là loại suy quỷ, thấy chỗ nào suy tàn thì dựa vào. Không ai bắt buộc nó tới đó, chỉ vì nghiệp của nó, thích dựa vào chỗ suy để phá thêm.

Ngạ quỷ theo khí, khi khí tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài cho người ăn thịt. Loài quỷ kết với u tối, khi u tối tiêu thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm loài cung cấp đồ mặc. Quỷ hòa với tinh hoa, khi tinh hoa tiêu thì quả báo hết, sanh lên thế gian phần nhiều làm các loài ứng.

Ứng tức là đáp ứng những gì người ta gọi hoặc kêu làm, thường nói “bên này hô, bên kia ứng”. Những loài người ta nuôi, dạy nó làm theo lệnh chủ sắp đặt gọi là ứng, như con khỉ, chim, chó v.v…

Quỷ minh linh khi sáng diệt thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm những loài báo điềm lành.

Hưu trưng là những loài báo điềm lành như bồ câu, chim khách, sáo, cưỡng v.v…

Quỷ nương nơi người, khi người chết thì quả báo hết, sanh ở thế gian phần nhiều làm các loài đi theo người.

Sanh lên làm các loài con người nuôi như chó hay mèo… cứ đi theo quanh quẩn bên người.

Này A-nan, những loài ấy đều do lửa nghiệp đốt khô, kế đó làm súc sanh đền trả nợ trước. Những loài này cũng đều từ nghiệp hư vọng chiêu cảm mà dẫn đến. Nếu ngộ được Bồ-đề thì vọng duyên này vốn không thật có.

Từ địa ngục rồi làm ngạ quỷ, còn một chút nghiệp, kế đó làm súc sanh. Chúng ta thấy làm con bò con heo, trâu chó cũng khổ quá rồi, vậy mà vẫn là nhẹ. Nghiệp chánh là địa ngục, phụ là ngạ quỷ, còn một chút bên cạnh đó là làm súc sanh.

Như ông đã nói nhóm Bảo Liên Hương, vua Lưu-ly, Tỳ-kheo Thiện Tinh, vốn tự mình tạo ta những nghiệp ác như thế, chẳng phải từ trời rơi xuống cũng không phải từ dưới đất vọt ra, cũng không phải người khác đem tới, chỉ do mình vọng gây ra, trở lại tự nhận chịu quả báo. Trong tâm Bồ-đề, đó đều là vọng tưởng hư dối nhưng kết lại.

Những nghiệp ác đó là do vọng tưởng hư dối ngưng kết lại trong tâm Bồ-đề, chứ không phải Bồ-đề có nghiệp ấy. Cũng giống như dưới biển có bọt có sóng, đối với mặt biển thì sóng không phải là mặt biển, bọt không phải là biển. Tuy nhiên, khi đã có nghiệp thì chỉ thấy sóng, thấy bọt mà không thấy biển. Quên biển là quên chỗ chân thật vậy.

Sau khi từ địa ngục qua ngạ quỷ đến súc sanh, bây giờ tới làm người, cũng còn một chút thừa nữa.

Lại nữa A-nan, từ loài súc sanh ấy đền trả nợ trước. Nếu lúc trả quá phần nợ cũ của họ, thì những chúng sanh này trở lại làm người đòi lại phần thừa kia.

Vậy nên đừng ỷ mình có phước, trong nhà nuôi bò trâu chó mèo, rồi nghĩ nó mang nghiệp xấu, nó thiếu nợ mình, tha hồ hành hạ quá mức. Đến chừng nó trở lại làm người, sẽ tìm người kia đòi lại nợ thừa đó.

Nếu như người kia có thế lực và có phước đức thì ở trong loài người, chưa bỏ thân người mà trả lại nợ dư đó. Nếu người không có phước, phải trở lại làm súc sanh để hoàn trả phần nợ dư đó.

Ví dụ như người nuôi bò hay trâu, bắt nó cày bừa. Nó là con vật giúp sức mà người ấy còn đánh đập, hành hạ nó quá mức, lẽ ra khi nó hết nghiệp, được sanh làm người, người chủ ấy phải sanh làm trâu bò để trả lại phần nợ dư. Nhưng nếu người chủ kia có phước đức thì khi con vật sanh làm người, người chủ ấy cũng vẫn làm người, nhưng lâu lâu lại bị nó làm khó làm dễ, làm khổ đôi chút để đòi nợ thừa. Nếu không có phước, lỡ lấy dư thì phải trở lại làm súc sanh trả đủ. Bởi vậy, phải tu cho có phước đức là điều thiết yếu.

A-nan! Phải biết nếu dùng tiền vật hoặc sai sử sức lực của chúng, trả đủ thì tự dừng. Nếu như trong khoảng giữa đó lại còn giết thân mạng hoặc ăn thịt chúng, như thế cho đến trải bao số kiếp như vi trần, ăn nhau giết nhau, giống như bánh xe lăn, xoay vần thay đổi trên dưới không có ngưng dứt. Trừ người được chánh định và gặp Phật ra đời, còn lại thì không thể dừng.

Con vật sanh ra trong nhà chủ để trả nợ, người chủ bắt làm gì đều phải làm, nó nợ tiền không nợ mạng, vậy mà còn ăn thịt nó tức là dư, dĩ nhiên phải nợ lại phần máu thịt đó, sau trở lại trả nợ máu thịt. Như thế mà xoay vần ăn nuốt lẫn nhau, như bánh xe lên rồi xuống, xuống rồi lên không dừng. Vòng luân hồi là vậy.

Nay ông nên biết loài chim kiêu kia, khi trả nợ đủ rồi, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng ngoan cố.

Ngoan cố hay ngoan cường là cứng đầu cứng cổ, làm điều quấy, người khác chỉ cho mà không chịu nghe không chịu nhận.

Loài chim báo điềm dữ kia trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng quái dị. Loài chồn kia khi đền trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng dung tục.

Các loài chim báo điềm xui xẻo như chim cú, sanh lên loài người, do nghiệp báo còn, nên làm người ngu ngốc, quái lạ. Các loài chồn thì gian xảo không lương thiện nên tầm thường.

Loài độc kia khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người, thích hợp với hạng tàn ác. Loài giun kia khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng nhỏ nhen.

Quả với nhân như nhau, loài giun, trùng, sùng, sên… khi trở lại được sanh cõi người thì hợp với hạng nhỏ nhoi ty tiện, ưa làm chuyện nhỏ nhít, chấp nê từng chút, bòn mót từng chút từ cây kim sợi chỉ.

Loài bị người ta ăn thịt, khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng nhu nhược.

Vì sanh trong loài bị người ăn thịt, bị đâm họng, lột da… trong lòng luôn sợ hãi, nên sanh ra nhu nhược.

Loài sanh ra để làm đồ mặc, khi trả hết nợ, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng lao nhọc.

Vì loài này luôn cần mẫn như tằm nhả tơ để cho người có đồ mặc, nên hợp với lao nhọc.

Loài ứng kia khi trả hết nợ, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng văn vẻ.

Loài ứng lanh lẹ, người ta kêu liền biết đáp ứng, nên khi làm người hợp với hạng văn vẻ.

Loài chim đem điềm lành, khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng sáng suốt. Các loài đi theo người, khi trả nợ hết, trở lại có thân sanh trong loài người thì hợp với hạng thông suốt.

Các loài chim đem điều tốt này luôn mang niềm vui, lợi ích cho người nen hợp với hạng sáng suốt.

Này A-nan, những hạng đó do nợ đời trước đã trả xong, trở lại được thân trong cõi người, đều từ vô thủy đến nay nghiệp chấp điên đảo, sanh nhau giết hại nhau, không được gặp Như Lai, không được nghe chánh pháp, ở trong trần lao cứ thế mà luân hồi. Những bọn này gọi là đáng thương xót vậy.

Những chúng sanh trả xong nợ ở địa ngục ngạ quỷ súc sanh thì trở lại làm người. Khi làm người cũng còn chút báo thừa của đời trước nên tùy loài mà hợp, vì vậy trong nhân gian có kẻ không người dại, có kẻ nham hiểm người độc ác… Đó là tùy theo hạt giống đời trước còn lưu lại.

II. MƯỜI THỨ TIÊN

Này A-nan, lại có chúng sanh từ loài người không y nơi chánh giác tu chánh định, riêng tu theo vọng niệm, giữ tư tưởng bảo vệ thân hình, dạo nơi rừng núi chỗ không có người đến, thành mười thứ tiên.

A-nan, những chúng sanh kia do kiên cố ăn thức bổ dưỡng không dừng nghỉ, khi đạo ăn được thành tựu gọi là Địa hành tiên. Kiên cố dùng cỏ cây không dừng nghỉ, khi đạo thuốc được thành tựu gọi là Phi hành tiên. Kiên cố dùng vàng đá không dừng nghỉ, khi đạo biến hóa được thành tựu gọi là Du hành tiên.

Địa hành tiên vì còn ăn những thứ mà họ cho rằng sẽ làm cho thân họ sống lâu bền, nên còn đi dưới đất chưa bay lên được. Phi hành tiên chỉ dùng thuốc nên nhẹ hơn, bay được. Lại có các ông tiên luyện đá hóa thành vàng, hoặc chế luyện các thứ thuốc. Luyện theo cách biến hóa như vậy nên gọi là đạo hóa.

Kiên cố dùng cái động và dừng không dừng nghỉ, khi khí tinh thành tựu gọi là Không hành tiên.

Động là sự biến động, dừng là sự yên tịnh, những vị này lấy đó làm phương châm để luyện tập. Như khí công, các lối luyện tập hơi thở, hít vô tới đâu rồi dừng lại để cho nó đi ra chỗ nào… Dùng cái động và dừng mà luyện, chỉ chuyên về khí nên bay được trên không.

Kiên cố dùng nước miếng không dừng nghỉ, khi nhuận đức được thành tựu gọi là Thiên hành tiên.

Những vị này ngồi thiền, co cái lưỡi trên ổ gà để đón nước miếng chảy xuống rồi nuốt, cho là nước cam lồ.

Kiên cố hấp thụ tinh sắc không dừng nghỉ, khi hấp thụ tinh hoa được thành tựu gọi là Thông hành tiên. Kiên cố luyện phù chú không dừng nghỉ, khi pháp thuật được thành tựu gọi là Đạo hành tiên. Kiên cố suy tư không dừng nghỉ, khi sự nghĩ nhớ được thành tựu gọi là Chiếu hành tiên. Kiên cố giao cấu không dừng nghỉ, khi cảm ứng được viên thành gọi là Tinh hành tiên. Kiên cố về biến hóa không dừng nghỉ, khi giác ngộ được viên thành gọi là Tuyệt hành tiên.

Trong thân người có tứ đại, nhưng nổi hơn hết là nước và lửa. Những vị này vận dụng lửa với nước gặp nhau để chuyển hóa gọi là giao cấu. Lửa đốt nước, nước thành hơi tức là khí, là lối “chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần”.

Này A-nan, những vị này đều ở trong loài người mà luyện tâm, không tu chánh giác, riêng được lẽ sống, thọ ngàn muôn tuổi, ẩn trong núi sâu hoặc ở trên đảo giữa biển lớn, xa cách chỗ người ở. Đây cũng là vọng tưởng lưu chuyển luân hồi. Vì không tu chánh định, khi quả báo hết, trở lại phân tán vào trong các đường.

Những vị này do công phu luyện tập, tuổi thọ tuy dài nhưng rồi cũng phải chết, cũng luân hồi trong lục đạo chứ chưa ra khỏi. Như vậy công phu rất cực mà kết quả không phải là viên mãn.

III. CÁC CÕI TRỜI

1. Dục giới

Đây là các cõi trời Dục giới, những người cư sĩ biết tu thiền, đối với ái dục ngày một bớt lần, công phu tu cao lên thì sẽ sanh vào các cõi trời.

Này A-nan, những người ở thế gian không cầu thường trụ, chưa thể xả bỏ ân ái thê thiếp, nhưng tâm không buông lung trong tà dâm. Do lóng tâm được trong lặng thì phát sanh sáng suốt, sau khi mạng chung họ gần với mặt trời mặt trăng. Một loại như thế gọi là Tứ thiên vương thiên.

Những người này không cầu được mãi mãi an trụ Niết-bàn, cũng chưa có thể xả bỏ ân ái thế tục, họ vẫn có gia đình, nhưng không phạm lỗi tà dâm. Nhờ biết tu thiền định, tâm họ được trong sáng nên khi chết sanh ở cõi trời Tứ thiên vương.

Đối với vợ mình, dâm ái giảm bớt, trong lúc ở yên chưa được toàn vị, sau khi mạng chung vượt quá ánh sáng mặt trời mặt trăng, ở trên đảnh nhân gian. Một loại như thế gọi là Đao-lợi thiên.

Những người này có gia đình, tuy chưa được hoàn toàn trong sạch nhưng đối với ái dục đã mỏng bớt thì chết rồi được sanh Đao-lợi thiên.

Gặp dục thì tạm theo, qua rồi không nghĩ nhớ, ở trong nhân gian động ít tịnh nhiều, sau khi mạng chung sáng rỡ an trụ ở trong hư không, ánh sáng mặt trời mặt trăng không chiếu đến được, những người ấy tự có ánh sáng. Một loại như thế gọi là Tu-diệm-ma thiên.

Những người này đối với dâm dục nhẹ mỏng, chỉ còn một ít, lại biết tu tịnh nên được sanh cõi trời Tu-diệm-ma.

Tất cả thời đều yên tĩnh, nhưng khi có sự xúc chạm đến thì chưa thể chống lại, sau khi mạng chung sẽ lên trên chỗ tinh vi, không tiếp xúc với các cảnh trời người cõi dưới, cho đến khi kiếp hoại, tam tai cũng không đến được. Một loại như thế gọi là Đâu-suất-đà thiên.

Khi một đại kiếp sắp hết sẽ lần lượt có ba tai nạn lớn nhiễu hại từ cõi người đến cõi Tam thiền: nạn nước, nạn lửa và nạn gió bão. Người ở thế gian nếu biết tu cũng có thể sanh lên cõi trời Đâu-suất-đà, không có ba nạn này.

Mình không có tâm dục, đáp ứng với người khác mà làm, lúc bày ra những việc ấy, vị như là nhai sáp, sau khi mạng chung vượt lên sanh vào cõi biến hóa. Một loại như thế gọi là Lạc biến hóa thiên.

Không có tâm thế gian, chỉ đồng với thế gian mà làm việc dục, lúc làm việc ấy rõ ràng là vượt lên trên, sau khi mạng chung đều hay ra khỏi cảnh giới biến hóa và không biến hóa. Một loại như thế gọi là Than hóa tự tại thiên.

Này A-nan, sáu cõi trời như thế, hình thức tuy ra khỏi động mà dấu tâm còn dính mắc. Từ đây trở lại trước gọi là Dục giới.

Trong kinh Lăng-nghiêm này nói sáu đường luân hồi của chúng sanh là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhân, tiên và thiên. Không thấy kể a-tu-la. Có lẽ chữ tiên này gần với Trung Hoa hơn. Người ta thường nói “tu tiên”, ít ai nói tu theo hạnh a-tu-la.

Tiên cũng chưa hết thất tình lục đục. Vì vậy khi có ai chọc tức, mấy ông tiên cũng xuống núi. Xem truyện thấy học trò của tiên đánh nhau rồi về mách với thầy, thầy cũng xuống trần bênh học trò. Như vậy là họ chưa thật giải thoát, chỉ do công phu tu luyện lâu năm nên củng cố thân hình bền bỉ, sống lâu. So sánh thì đâu bằng các thiền sư. Thiền sư không cần củng cố gì, nhưng cũng có thể để lại nhục thân mấy ngàn năm không hoại, còn thân một vị tiên ngày nay cũng không thấy có. Do đây mới thấy pháp Phật quá vi diệu, ngoài chuyện giải thoát còn có những thứ rất siêu thoát, không thuộc công phu luyện tập thường tình nữa.

Đoạn trên, ngài A-nan thưa hỏi Phật: Tất cả chúng sanh đều từ nơi chân như, chư Phật cũng trở về chân như, tại sao chân như đó lại sanh ra lục đạo chúng sanh? Lục đạo chúng sanh phát sanh ra đó, là tự sẵn có hay do chúng sanh tạo nghiệp rồi mới có? Đến đây, chúng ta mới thấy rõ ý Phật trả lời: Gốc ban đầu là bản thể diệu minh chân tâm, trong đó không có lục đạo luân hồi. Nhưng hiện nay thấy có lục đạo luân hồi là do vọng nghiệp của chúng sanh mới có?

Phật trả lời: Cảnh địa ngục không có sẵn, không cố định, nhưng do vọng tưởng người đời tạo thành nghiệp rồi đi theo nghiệp. Nếu nhiều người cùng tạo một nghiệp giống nhau thì sẽ có cảnh để cho họ cùng chịu trả nghiệp, gọi là đồng phần. Vậy cảnh địa ngục không phải từ trên trời xuống, không phải từ dưới đất lên, không phải người tạo mà chính vì mỗi người tạo nghiệp riêng, cộng những cái riêng thành chung nên có địa ngục. Giống như thế gian nếu có nhiều người trộm cắp thì sẽ có khám nhốt họ vì tội ấy. Nhiều người làm chính trị phạm tội thì có khám để nhốt những người phạm tội chính trị…

Những cảnh địa ngục nghe rởn gáy đó từ đâu mà ra? ai bày sẵn cho mình? Chính mình, nhưng mình là cái gì? Là những vọng tưởng điên đảo. Do vọng tưởng điên đảo mà tạo thành nghiệp. Đây là mấu chốt tạo nên các đường khổ. Giờ đây biết tu, chúng ta chặn ngay vọng tưởng điên đảo, chặn mấu chốt đó thì mọi đường khổ dứt.

Tu là nhắm thẳng động cơ chủ yếu mà dừng. Có bao giờ chửi nhau đánh nhau mà không do giận. Vậy giận là mấu chốt ban đầu. Khi chúng ta dừng được cơn giận thì đâu còn xảy ra chuyện đánh chửi, làm gì có nghiệp ở tù. Như vậy động cơ chủ yếu mà chặn được ngay từ ban đầu, thì mọi khổ đau dài lê thê không bao giờ có. Tuy nhiên, người thế gian có biết chặn không? Họ cứ thả cho vọng tưởng điên đảo chạy, rồi nó kéo đi đủ các đường, nếm đủ mùi. Nếu ai muốn nếm đủ mùi thì cứ thả nó chạy. Ai sợ không muốn đi trong các đường dữ đó thì dừng lại.

Tu tức là dừng lại, đừng cho vọng chạy nữa. Nếu dừng lại được thì trở về tâm tánh sáng suốt, còn không dừng lại thì đi trong lục đạo luân hồi, khổ vô kể. Hai đường đó chúng ta chọn đường nào? Có ai dại gì mà chọn đường lăn lộn khổ sở, cho nên mình phải biết dừng ngay. Nay học kinh, Phật chỉ cho biết rồi mà không sợ, không dừng thì thật dạy chứ không phải dại thường, nên Phật nói: “Đáng thương! Đáng thương!” Như người không biết cắm đầu tạo nghiệp chịu khổ, đáng thương, còn chúng ta biết rồi mà không chịu dừng thì thật đáng thương, đáng thương!

2. Sắc giới

Này A-nan, ở thế gian, tất cả những người tu tâm không nhờ thiền định thì không có trí tuệ.

Phật xác nhận những người tu tâm, nếu không nhờ thiền định thì không thể nào phát khởi trí tuệ được. Rõ ràng như vậy, trong ba vô lậu học giới định tuệ, có định mới có tuệ, không định thì không thể nào phát tuệ được.

Người chỉ hay gìn giữ thân không làm việc dâm dục, hoặc đi hoặc ngồi đều không tưởng niệm, không sanh ái nhiễm, thì không còn lưu lại ở cõi Dục. Người ấy liền đó thân làm Phạm lữ. Một loại như thế gọi là Phạm chúng thiên.

Phạm lữ là những người cùng chung ở, cùng là bạn bè trong cõi Phạm thiên. Phạm chúng thiên là dân chúng ở cõi Phạm thiên. Những người đã dứt tâm ái nhiễm tham dục thế gian thì không còn lưu lại Dục giới. Sau khi chết họ sanh vào làm chúng cõi Phạm thiên.

Tập khí cõi Dục đã trừ, tâm lìa dục hiện tiền, vui thích tùy thuận theo luật nghi. Người ấy liền đó hay thực hành đức trong sạch. Một loại người như thế gọi là Phạm phụ thiên.

Phạm phụ là các vị quan giúp đỡ cho vua cõi Phạm thiên. Những người tập khí của Dục giới đã trừ sạch, ưa thích gìn giữ luật nghi, sau khi chết sanh làm các vị quan ở cõi Phạm thiên.

Thân tâm nhiệm mầu tròn đủ, oai nghi không thiếu, giới cấm thanh tịnh, lại thêm tỏ ngộ. Người đó liền hay thống nhiếp chúng cõi Phạm thiên, làm vị Đại Phạm vương. Một loại như thế gọi là Đại Phạm thiên.

A-nan, ba hạng thù thắng này, tất cả khổ não không thể bức bách. Tuy chẳng phải chân chánh tu thiền định, nhưng trong tâm thanh tịnh, các lậu không làm lay động, gọi là Sơ thiền.

Chứng Sơ thiền thì tâm lìa dục, đối với ngũ dục thế gian không còn nhiễm nữa, đối với các luật nghi đều ưa thích tùy thuận, tâm cũng có một phần sáng suốt. Những người này không còn nhân sanh vào cõi Dục, khi chết được sanh lên các cõi trời Đại Phạm. Vì vậy Sơ thiền gọi là Ly sanh hỷ lạc, tức là xa lìa các dục nhiễm của thế gian mà sanh vui thích.

Người ấy nhờ tu thiền định mà chứng được Sơ thiền, nếu ngang đó không chịu tiến theo con đường giải thoát thì sau khi chết sẽ sanh làm ba hạng người ở cõi Phạm thiên: bậc thấp thì sanh làm chúng dân, bậc khá thì sanh làm quan, bậc cao hơn thì sanh làm vua cõi Phạm thiên.

A-nan, kế đến là hàng Phạm thiên thống nhiếp Phạm chúng, phạm hạnh tròn đầy, tâm lóng lặng không động, do trong lặng sanh ra ánh sáng. Một loại như thế gọi là Thiểu quang thiên.

Hào quang chiếu sáng nhau rọi sáng không cùng tận, ánh ra thế giới mười phương đều thành lưu ly. Một loại như thế gọi là Vô lượng quang thiên.

Vô lượng quang thiên tức là những vị trời ánh sáng vô lượng. Những vị này tự mình có ánh sáng chứ không nhờ ánh sáng của mặt trời.

Như vậy theo cái nhìn của nhà Phật, trong hư không có vô số hành tinh, có cõi nhỏ hơn, có cõi lớn hơn trái đất. Những hành tinh nào ở gần trái đất thì thấy ngôi sao đó sáng. Cũng có những hành tinh quá xa trái đất nhưng năng lực phát quang của bản thân và những người sống trên hành tinh đó, tự thân họ phát ra ánh sáng. Người tu ít thì ánh sáng ít, tu nhiều ánh sáng nhiều. Ánh sáng đó tự làm sáng cả cõi nước của họ, không nhờ mặt trời.

Thu hút gìn giữ ánh sáng tròn đầy, thành tựu giáo thể, phát ra sự giáo hóa được thanh tịnh, ứng dụng không cùng tận. Một loại như thế gọi là Quang âm thiên.

Đặc biệt, những vị trời này do ánh sáng phát ra làm phương tiện giáo hóa cho mọi người được thanh tịnh. Ánh sáng chiếu tới ai thì người đó tự thức tỉnh, giống như ở cõi nhân gian, khi nghe giảng kinh pháp, người nghe được thức tỉnh cho nên nói thành tựu giáo thể.

Này A-nan, ba hạng thù thắng này, tất cả lo buồn không thể bức bách được. Tuy chẳng phải chân chánh tu thiền định nhưng trong tâm thanh tịnh, những thô lậu đã hàng phục, gọi đó là Nhị thiền.

Những người đạt trạng thái của Nhị thiền Định sanh hỷ lạc, thì tâm lóng lặng không động, từ định phát ra ánh sáng, từ ánh sáng đó phát ra niềm vui an lạc. Những người tu đạt được Nhị thiền, nếu không vượt lên chứng thánh quả, ngang đó chết thì sanh bào Thiểu quang thiên, Vô lượng quang thiên và Quang âm thiên.

Này A-nan, những vị trời như thế, ánh sáng tròn đầy thành tựu được âm thanh, dùng âm thanh hiển lộ sự mầu nhiệm, phát thành hạnh tinh vi, thông suốt cái vui lặng lẽ. Một loại như thế gọi là Thiểu tịnh thiên.

Sự thanh tịnh rỗng rang được hiện tiền, dẫn phát không ngằn mé, thân tâm khinh an, thành tựu cái vui lặng lẽ. Một loại như thế gọi là Vô lượng tịnh thiên.

Thân, tâm, thế giới, tất cả đều hoàn toàn trong sạch, đức trong sạch được thành tựu, nương sự thù thắng hiện tiền trở về cái vui tịch diệt. Một loại như thế gọi là Biến tịnh thiên.

A-nan, ba hạng thù thắng này, đầy đủ đại tùy thuận, thân tâm an ổn, được cái vui vô lượng. Tuy chẳng phải chân chánh được thiền định, nhưng trong tâm an ổn, đầy đủ niềm vui, gọi là Tam thiền.

Tam thiền Ly hỷ diệu lạc, là lìa cái vui thô động ở trước, vì còn hỷ là còn thô, trở lại sự tịch diệt bên trong được cái vui thù thắng mầu nhiệm. Nếu ngang đó dừng trụ, không tiến lên được thì sẽ sanh ở ba nơi trong cõi trời Sắc giới: Thiểu tịnh thiên, Vô lượng tịnh thiên và Biến tịnh thiên.

A-nan, lại nữa những vị trời thân tâm không còn bị bức bách, nhân khổ đã hết, nhưng cái vui không thường còn, lâu dần cũng tiêu tan. Hai tâm khổ vui đồng thời chóng xả bỏ, các tướng thô trọng đã diệt, phước thanh tịnh được sanh. Một loại như thế gọi là Phước sanh thiên.

Nếu sống lâu ở cõi trời này thì thân cũng hoại, rồi phải sanh ở nơi khác. Phước của những vị này không phải nhờ làm lành được

Tâm buông xả được tròn khắp, thắng giải được thanh tịnh. Trong phước không gì ngăn ngại đó, được sự tùy thuận nhiệm mầu cùng tột mé vị lai. Một loại như thế gọi là Phước ái thiên.

A-nan, từ trong cõi trời này có hai lối tẽ:

– Nếu nơi tâm trước thanh tịnh sáng suốt vô lượng, phước đức tròn sáng, tu chứng rồi dừng trụ, một loại như thế gọi là Quảng quả thiên. 

– Nếu nơi tâm trước đều chán cả khổ và vui, chuyên ròng nghiên cứu tâm xả liên tục không dứt, xả bỏ được tròn đầy cùng tột, thân tâm đều diệt, tâm nghĩ suy lặng như tro tàn, trải qua năm trăm kiếp. Người ấy đã lấy sanh diệt làm nhân, không thể phát minh được tánh không sanh diệt, nên nửa kiếp ban đầu thì diệt, nửa kiếp sau sanh. Một loại như thế gọi là Vô tưởng thiên.

Bậc này có hai hạng: một hạng an trụ chỗ phước đức đầy đủ không tiến nữa, thì sang Quảng quả thiên. Một hạng nữa chán khổ vui, xả hết thân tâm, nhưng còn lấy cái sanh diệt làm nhân, không ngộ được tánh bất sanh bất diệt, nên nửa kiếp ban đầu diệt, nửa kiếp sau sanh gọi là Vô tưởng thiên.

Này A-nan, bốn hạng thù thắng này, tất cả các cảnh khổ vui ở thế gian không thể làm xao động được. Tuy chẳng phải là chỗ bất động chân thật vô vi, nhưng tâm có sở đắc, công dụng được thuần thục, gọi là Tứ thiền.

Tứ thiền còn gọi là Xả niệm thanh tịnh, tức xả hết niệm khổ niệm vui. Vì Tam thiền còn có diệu lạc, tức còn giữ cái vui nhiệm mầu, mà vui là đối với khổ, nên đến Tứ thiền khổ vui đều xả, thân tâm hoàn toàn thanh tịnh. Tứ thiền là địa vị người tu hành phải vượt qua mới đến thánh quả. Nếu dừng ngang đây thì sanh cõi trời chứ không được thánh quả.

Cõi trời Tứ thiền gồm có: Phước sanh thiên, Phước ái thiên, Quảng quả thiên, Vô tưởng thiên. Tứ thiền cũng gọi là Phàm phu thiền, dù cho được sanh ở cõi trời, nhưng hưởng hết phước rồi cũng trở lại trong vòng luân hồi chứ chưa thành thánh quả. Chúng ta hiểu thật rõ từng phần, tu được tới đâu mình đều biết. Nếu vượt qua sẽ chứng thánh quả, không vượt qua thì sanh ở cõi nào đều biết rõ không nghi.

A-nan, trong đây lại có Ngũ bất hoàn thiên, đồng thời diệt hết chín phẩm tập khí trong cõi dưới, cả hai khổ vui đều mất, không rơi xuống cõi dưới, cho nên an lập chỗ ở chúng đồng phần của tâm xả.

Ngũ bất hoàn thiên còn có tên Ngũ A-na-hàm thiên. Trong bốn quả thánh, quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn còn bảy phen sanh tử mới được A-la-hán, quả thứ hai là Tư-đà-hàm còn một lần lên cõi trời một lần trở xuống cõi trần gian, quả thứ ba là A-na-hàm còn sanh ở cõi Bất hoàn thiên. Các vị sanh lên đó rồi chứng A-la-hán luôn chứ không trở lại cõi trần, nên gọi là Bất hoàn.

Hạng này tâm buông xả, khổ vui đều hết, không còn rơi lại Dục giới này nữa. Nhiều người tu hạnh như vậy, chứng giống như vậy, gọi là chúng đồng phần, nên có lập ra một chỗ ở chung. Ngược với cõi đây là cõi khổ. Ví như người ăn trộm, hoặc trộm tiền bạc hoặc trộm quần áo, năm bảy chục thứ khác nhau, nhưng nếu cùng một nghiệp ác thì phải có một chỗ để họ chịu khổ. Ví như người ăn trộm, hoặc trộm tiền hoặc trộm quần áo, năm bảy chục thứ khác nhau, nhưng đều cùng một tội ăn trộm. Nếu có năm bảy trăm người ăn trộm thì nhà nước phải cất khám để nhốt và giáo dục họ. Như vậy từ nghiệp riêng thành quả chung. Khi thành quả chung thì có chỗ nơi để thọ quả chung.

Đó là đi xuống, còn đi lên cũng vậy. Mỗi người tùy theo duyên tạo phước, tùy duyên tu thiền, hoặc chứng Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền hoặc chứng Sơ quả, Nhị quả, Tam quả. Trong khi tu hành, nếu đạt được Tam quả, chưa chứng A-la-hán mà chết thì không bị rơi xuống cõi dưới, cũng chưa nhập Niết-bàn, nhiều người như vậy, liền có chỗ ở theo sức tu hành của họ.

Đây cũng còn là nghiệp, nhưng là nghiệp thanh tịnh nên có chỗ ở thanh tịnh. Ví dụ như các vị quan chức ở thế gian, năm bảy chục người cùng có trách nhiệm trong một công sở lớn. Nếu họ không có chỗ ở thì nhà nước phải cất nhà cho nhóm công chức đó ở. Chỗ họ ở tất nhiên đẹp hơn, sáng sủa hơn chỗ mấy người có tội ở.

Như vậy trong cái riêng lại có cái chung. Các vị A-na-hàm chưa được nhập Niết-bàn, cũng không còn duyên xuống cõi trần, nên phải có chỗ ở tương ứng với công phu tu hành, để tu thêm cho đến khi nhập Niết-bàn. Vì vậy gọi là Ngũ bất hoàn thiên.

A-nan, hai thứ khổ vui hết, không còn tâm đấu tranh, một hạng như thế gọi là Vô phiền thiên.

Buông xả độc hành, không chỗ nghiền ngẫm giao tiếp, một hạng như thế gọi là Vô nhiệt thiên.

Cơ quát độc hành, cơ là cái máy hay cái mỏ, quát là mũi tên. Nỏ và tên đi riêng nghĩa là không còn các đối đãi. Nghiên giao vô địa là không còn chỗ để nghiên cứu, giao tiếp. Hạng người này vì đã dứt được những giao tiếp đối đãi, đã buông xả cả khổ lẫn vui, không còn gì để bực bội nóng nảy nữa, nên gọi là Vô nhiệt thiên. Chúng ta sở dĩ nóng nảy bực bội là vì bị cái này cái kia ràng buộc, không được tự do nên sanh phiền não.

Khéo thấy cả thế giới mười phương đều tròn lặng, lại không có các trần cảnh, tất cả cấu nhiễm chìm đắm đều lắng sạch, một loại như thế gọi là Thiện kiến thiên.

Cái thấy tinh ba được hiện tiền, gạn lộc không còn chướng ngại, một loại như thế gọi là Thiện hiện thiên.

Thiện kiến tức là khéo thấy cả thế giới mười phương đều tròn đầy lặng lẽ.

Thiện hiện là cái thấy tinh ba khéo hiện ra.

Xem xét rốt ráo các cơ, cùng tột tánh của sắc, vào mé vô biên, một loại như thế gọi là Sắc cứu cánh thiên.

Vào mé vô biên là vào chỗ không còn ngằn mé nữa. Tới đây đã tột cùng cõi trời Sắc, sắp bước qua Vô sắc, nên gọi là Sắc cứu cánh thiên.

Này A-nan, cõi Bất hoàn thiên này, Tứ vị thiên vương Tứ thiền kia chỉ có kính nghe tên nhưng không thể thấy biết. Như hiện nay ở thế gian những nơi đồng trống hoặc núi sâu, chỗ đạo tràng của các bậc thánh, đều có những vị A-la-hán trụ trì, nhưng những người thô thiển ở thế gian không thể nào thấy được.

Từ cõi Bất hoàn thiên cho tới Tứ vị thiên vương Tứ thiền thiên, chúng ta chỉ có nghe tên chứ không thể thấy được hình ảnh của các vị. Tại sao? Ví dụ như nơi những đạo tràng giảng kinh thuyết pháp, có khi các vị A-la-hán hiện đến chứng minh mà mình không thấy được, hoặc các ngài tu ở nơi thâm sơn cùng cốc, mình cũng không biết.

Này A-nan, mười tám cõi trời đó ở cõi riêng không giao tiếp, nhưng chưa hết cái lụy hình hài. Từ đây trở lại gọi là Sắc giới.

Mười tám cõi trời đó riêng sống trong cảnh của mình chứ không có giao tiếp với nhau. Những vị đó đều chưa hết cái lụy thân hình, bởi hưởng hết phước rồi còn rơi xuống trần gian để thọ báo trở lại.

Những vị trời Phạm thiên do giữ giới thanh tịnh và chuyên tu thiền định mà được sanh thiên. Chỉ mới lên cõi trời mà còn phải tu như vậy, huống nữa người muốn thoát tam giới làm sao không tu thiền, không giữ tâm thanh tịnh được!

3. Vô sắc giới

Lại nữa A-nan, từ cõi Hữu đảnh này, trong bờ mé của Sắc giới, khoảng đó lại có hai lối tẽ:

– Nếu nơi tâm xả phát minh trí tuệ, ánh sáng trí tuệ tròn đầy thông suốt liền ra khỏi cõi trần thành A-la-hán, vào được Bồ-tát thừa. Một loại như thế gọi là Hồi tâm đại A-la-hán.

Như vậy có hai lối tẽ rõ ràng: Tâm xả thanh tịnh tức là Tứ thiền, rồi phát minh trí tuệ thông suốt, liền ra khỏi các thế giới của trần tục hay là các thế giới ở trong ba cõi, thành A-la-hán hoặc là vào Bồ-tát thừa. Hoặc là được Tứ thiền rồi, tức là tới Sắc cứu cánh thiên, rồi tẽ qua Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ v.v…

Người tu Phật có thể tu Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, nhưng tới Tứ thiền thì không đi qua lối tẽ Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ… của Vô sắc giới, mà đi thẳng ngộ được lý Tứ để, trí tuệ sáng suốt, liền chứng A-la-hán hay vào Bồ-tát thừa.

Ngoại đạo thời Phật tại thế cũng tu Tứ thiền nhưng mục đích chỉ lên các cõi trời. Đạo Phật tu Tứ thiền nhưng vượt qua để đến Niết-bàn. Bước đầu cùng dùng pháp tu chung, nhưng mục đích hướng đến mỗi bên khác nhau.

– Nếu ở tâm xả thành tựu sự chán xả, biết thân là chướng ngại, muốn tiêu chướng ngại của thân để vào trong không. Một loại như thế gọi là Không xứ (Không vô biên xứ).

Sau khi qua Sắc rồi, thành tựu được tâm xả, chán cái thân có hình tướng có chướng ngại, mới xả thân ngại đó để vào Không vô biên xứ.

Các chất ngại đã tiêu, không còn ngại cũng không còn diệt, trong kia chỉ lưu lại thức a-lại-da, toàn thức mạt-na chỉ còn nửa phần vi tế. Một loại như thế gọi là Thức xứ (Thức vô biên xứ).

Không còn chất ngại không còn diệt, thức a-lại-da còn đủ, thức mạt-na phần thô đã hết chỉ còn phân nửa thức vi tế.

Sắc và Không đã hết, thức tâm đều diệt, mười phương lặng lẽ không còn qua lại. Một loại như thế gọi là Vô sở hữu xứ.

Không còn thức, không còn tâm, cũng không còn qua lại gì hết, nên gọi là Vô sở hữu xứ.

Thức tánh không động, do nghiên cứu diệt đến cùng tột, trong chỗ không tận phát ra tánh tận, như là còn mà chẳng còn, như là hết mà chẳng hết. Một loại như thế gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Trong chỗ đó dường như hết mà không phải hết, nên gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Phi tưởng tức không còn tưởng, mà phi phi tưởng tức còn có tưởng, nghĩa là không có tưởng thô mà còn tưởng tế.

Những vị này quán cùng tột không mà chẳng tột được lý không, từ Bất hoàn thiên thấu tột thánh đạo, một loại như thế gọi là Bất hồi tâm độn A-la-hán.

Những vị A-na-hàm sanh về cõi Bất hoàn thiên tu để đạt được thánh đạo, tức ngộ lý Tứ đế rồi an trụ Niết-bàn thì gọi là độn A-la-hán và Bất hồi tâm độn A-la-hán. Chỗ này phân tích cho chúng ta biết những con đường tẽ thế nào, tới đâu thì tẽ lối.

Nếu từ các cõi trời Vô tưởng của ngoại đạo, cùng tột không mà không biết quay lại, mê lầm không nghe chánh pháp, liền vào đường luân chuyển.

Này A-nan, mỗi mỗi người ở trên các cõi trời đều là phàm phu, phải đền trả nghiệp quả, khi trả hết thì vào trong luân hồi.

Những ngoại đạo ở cõi trời Tứ không: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ, nếu không được gặp đạo, không nghe lý đạo, không biết tỉnh giác quay lại, thì khi hưởng hết phước báo sẽ trở lại trong luân hồi. Đó là những người thuộc về phàm phu. Bởi vậy những loại thiền này gọi là Phàm phu thiền.

Những vị vua trong các cõi trời đó là những vị Bồ-tát dạo đi trong chánh định, lần lượt tăng tiến, hồi hướng về con đường tu hành trong dòng thánh.

Như vậy những người sanh làm dân ở các cõi trời là do công họ tu, còn những vị vua ở các cõi đó phần nhiều là Bồ-tát. Các ngài sanh ở cõi trời để giáo hóa chư thiên, đồng thời tu hành để tiến lên thánh đạo. Trong kinh Hoa Nghiêm có nói, đức Phật sau khi thành đạo liền lên các cõi trời thuyết pháp, ban đầu là cõi trời Đao-lợi, rồi tới các cõi trời khác, nói đủ các pháp từ Thập trụ tới Thập địa cho những vị Bồ-tát ở các cõi đó. Vì những vị Bồ-tát không phải ngộ đạo rồi là viên mãn công quả thành Phật, mà còn phải hành đạo bằng cách lợi tha trong cảnh khổ cũng như cảnh vui.

Những người ở trong cảnh vui đáng thương hay đáng ghét? Những người ở trong cảnh khổ đáng thương hay đáng ghét? Chúng ta thường thương người khổ mà ghét người vui. Thấy ai khổ thì nói người đó đáng thương, còn thấy ai có tiền bạc, thảnh thơi, mình có vẻ không ưa. Vậy là tâm mình còn nông cạn, khác với tâm Bồ-tát.

Người dân quê nghèo đói là kẻ mê, còn ông quan tiền bạc sung túc, ăn ở sang trọng mà có tỉnh chưa? Cũng mê. Như vậy người nghèo mê nên chúng ta thương thì người sang cả mê mình cũng thương. Đó là thương cái mê chứ không phải thương sự sung sướng hay cực khổ. Vì sướng hay khổ chỉ một thời gian thôi, còn cái mê trầm luân mới là đáng thương, cần phải làm cho họ tỉnh giác. Vì vậy Bồ-tát có khi lăn lộn trong cảnh khổ giáo hóa chúng sanh, có khi lên cõi trời giáo hóa chúng sanh.

Này A-nan, chư thiên ở cõi Tứ không ấy, thân tâm diệt hết, tánh định được hiện tiền, không có nghiệp quả của cõi Sắc. Từ đây đến cuối gọi là Vô sắc giới.

Phần trên nói rõ về các cõi trời Tứ thiền. Các pháp tu đó trong đạo Phật cũng có, nhưng Tứ không thì ít dùng. Ngày xưa đức Phật đã tu qua những pháp này, khi sắp nhập Niết-bàn, ngài thuận nghịch trải qua các lớp định rồi mới nhập Niết-bàn. Tất cả các loại định đó, đức Phật đều đi qua nhưng không mắc kẹt, còn người tu tới Tứ không mà mắc kẹt chỗ đó, dù công phu tu rất đáng kể nhưng sau hưởng hết phước quả lại phải trầm luân.

Đây đều do không rõ Diệu giác minh tâm, tích chứa vọng mà phát sanh, giả dối có ba cõi. Ở trong đó dối theo bảy nẻo mà chìm đắm, nên bào thai tùy theo mỗi loại mà ra đời.

Kết luận này hết sức rõ ràng. Phật nói: sở dĩ sanh trong các cõi trời, là vì những người đó chưa tỏ ngộ được Diệu giác minh tâm, chứa nhóm các vọng hư dối, tức dùng tưởng để ứng dụng tu, nên phát sanh kết quả vậy. Như thế ba cõi là không thật, do vọng mà có, theo vọng chìm đắm trong bảy đường. Các kinh khác chỉ nói sáu nẻo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, a-tu-la, trời; ở đây có thêm tiên. Bảy đường đó là do chúng sanh hư dối tạo nghiệp rồi theo từng loại mà sanh ra.

Điều này hết sức rõ ràng. Như những đứa bé sanh ra ở thế gian, cùng một lứa tuổi mà mỗi đứa bé sanh ra ở thế gian, cùng một lứa tuổi mà mỗi đứa thích mỗi nghề, sở thích khác nhau. Có đứa thích du đãng, bụi đời, có đứa thích đức hạnh, muốn đi tu… Do đó lớn lên mỗi đứa tạo nghiệp khác nhau, rồi sẽ sống chung với những người theo nghiệp của nó, nên có những chỗ khác nhau. Sở thích đó là gì? Cũng là vọng tâm ưa cái này thích cái kia. Vọng tâm thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp của nó, nên có những chỗ khác nhau. Sở thích đó là gì? Cũng là vọng tâm ưa cái này thích cái kia. Vọng tâm thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp, thành nghiệp rồi thì đi tới chỗ chịu quả, không có ai bắt buộc.

Các loài khác nhau là tùy theo chỗ tạo nghiệp của mỗi người, mà nghiệp đó là từ vọng tưởng của mình phát ra chứ không do ai tạo.

IV. BỐN LOẠI A-TU-LA

Lại nữa A-nan, trong tam giới này lại có bốn loài a-tu-la: Nếu từ loài quỷ, do sức bảo hộ chánh pháp, được thần thông mà vào hư không, loại a-tu-la này từ trứng sanh ra, nhiếp thuộc về loài quỷ.

Loài a-tu-la này có thần thông, chúng ta gọi là các vị thần ủng hộ chùa chiền già-lam, ủng hộ những đàn tràn thuyết pháp, cũng thuộc về loài quỷ.

Nếu ở trong cõi trời mà đức đã giảm, bị rơi xuống chỗ ở gần với mặt trời mặt trăng, những loài a-tu-la này từ bào thai sanh ra, nhiếp thuộc về loài người.

Có vua a-tu-la nắm giữ thế giới, sức mạnh đến không hề sợ ai, hay cùng Phạm vương, Thiên Đế-thích, Tứ thiên vương tranh quyền với nhau. Loại a-tu-la này nhân biến hoá mà có, nhiếp thuộc về loài súc sanh.

Loài a-tu-la này chúng ta thường nghe người đời nói đến chuyện “mắc đàng dưới”. Đó là do những a-tu-la ban ngày đi dạo chơi, gặp người thì phá khuấy, tối lại trở về dưới biển ngủ, nên nói là đàng dưới.

Đó là đã kể rõ các loài khác nhau. Đến đây kết thúc, Phật nói cho chúng ta rõ tại sao có sáu đường chúng sanh hay bảy nẻo luân hồi, ngẫm cho thật kỹ mới thấy cái hay Phật chỉ ở các phần trước.

Này A-nan, nếu xét kỹ bảy loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thần tiên, trời cho đến a-tu-la như thế, đều do mê lầm các tướng hữu vi, từ vọng tưởng mà thọ sanh, vọng tưởng mà theo nghiệp. Đối với bản tâm diệu viên minh vô tác, đều như hoa đốm trong hư không, vốn không dính dáng.

Câu này quá hay! Đức Phật nói tất cả bảy loài đó gốc đều từ mê lầm tướng hữu vi mà ra. Xin hỏi tất cả quý vị có ai không mê lầm tướng hữu vi không? Nhà đẹp, áo đẹp, thân đẹp, cảnh đẹp… đều là tướng hữu vi. Chúng sanh bị chìm đắm trong tướng hữu vi nên mới có bảy loài. Phật nói rất rõ, tất cả đều từ vọng tưởng mà thọ sanh, vọng tưởng mà theo nghiệp, chứ đối với bản tâm tròn sáng nhiệm mầu không tạo tác này, bảy loài chúng sanh đều như hoa đốm trong hư không, không dính dáng gì. Thật là thấu đáo làm sao!

Tôi tạm ví dụ, như người thế gian, có người chiều tan sở đi về nhà, có người dấy niệm đi coi hát, rồi chuẩn bị đi coi hát. Dấy niệm đi coi hát là vọng tưởng, chuẩn bị đi coi hát là theo nghiệp. Có người dấy niệm đến quán nhậu, rồi lấy tiền sửa soạn đến quán. Vậy là từ khởi vọng tưởng, rồi đi theo nghiệp luôn. Lại có người dấy niệm đi chùa, sửa soạn áo tràng đi chùa, hoặc nghe nói có nơi đang tổ chức làm từ thiện, mình liền đến giúp. Đó là vọng tưởng lành nên tạo nghiệp lành. Tất cả đều do dấy vọng tưởng rồi theo nghiệp của vọng tưởng.

Như vậy vọng tưởng là sự sanh khởi đầu tiên, rồi theo nghiệp là bước thứ hai, và kết quả là đến chỗ mình muốn. Tất cả các cõi tướng hữu vi, dù lành hay dữ cũng đều từ vọng tưởng mà ra. Vậy vọng tưởng là trọng tâm để thành nghiệp. Bao nhiêu nghiệp lành dữ xấu tốt đều từ vọng tưởng mà ra, mà vọng tưởng lại không có căn cứ, hoàn toàn hư dối, vậy mới đau khổ! Như khi dấy niệm đi coi hát, thử nhìn lại niệm “muốn đi coi hát” xem nó ra sao. Nhìn lại thì nó mất tiêu, vì niệm tưởng vốn hư dối không thật. Vậy mà chúng ta theo nó để tạo thành nghiệp hư dối.

Vọng tưởng là hư dối, tạo nghiệp là hư dối. Những thứ hư dối ấy, đối với bản tâm chân thật diệu viên minh vô tác có dính dáng gì đâu! Nó chỉ như hoa đốm trong hư không, vậy mà chúng ta cam chịu theo những vọng tưởng đó trôi lăn mãi, còn tánh viên minh nơi mình lại bỏ quên mất. Thế có đau khổ không? Ngang đó có chịu dừng chưa?

Như chiếc xe máy, muốn cho nó chạy thì trước phải nổ máy, rồ ga nó mới chạy. Cái nổ máy đó tướng mạo ra sao? Đâu có tướng mạo gì, chỉ là sức nổ của động cơ (hơi). Từ sức động (hơi động) đó, chiếc xe chạy đường này đường kia tùy theo ý mình. Như vậy trọng tâm làm cho chiếc xe chạy là do máy nổ liên tục, mà máy nổ đó chỉ là hơi chứ đâu có gì thật. Từ cái không thật, biến thành chiếc xe chạy thật.

Cũng vậy, từ vọng tưởng không thật, nếu mình theo nó thì tạo nghiệp thật. Như có người vọng tưởng ra quán uống rượu say túy lúy rồi ụa mửa, thành thật mất! Từ động cơ không thật mà biến thành nghiệp thật, hết sức rõ ràng.

Chúng ta tu phải làm sao đây? Ngay động cơ không thật, dừng lại thì đâu còn chuyện gì nữa. Như vậy trọng tâm sự tu đặt ngay nơi động cơ chính yếu là dừng theo vọng tưởng. Đã không theo vọng thì đâu còn tạo nghiệp, không tạo nghiệp tức không thọ quả. Bao nhiêu vọng tưởng đều dừng lại thì đâu còn chuyện gì nữa. Như vậy trọng tâm sự tu đặt ngay nơi động cơ chính yếu là dừng theo vọng tưởng. Đã không theo vọng thì đâu còn tạo nghiệp, không tạo nghiệp tức không thọ quả. Bao nhiêu vọng tưởng đều dừng lại thì trở về bản tâm diệu viên minh vô tác. Đó là tu. Đó là trọng tâm của đạo lý, đâu thể sai chạy! Rất là đơn giản. Như muốn cho xe đừng chạy thì ta phải tắt máy. Cũng vậy muốn không tạo nghiệp thì cứ ngay vọng tưởng mình dừng lại là xong.

Đây là điều quan trọng mà bấy lây nay người ta coi thường. Nghe nói “biết vọng không theo” thấy thường quá, không có gì mầu nhiệm, không hiểu rằng vọng tưởng chính nó là chủ yếu tạo bao nhiêu nghiệp. Cái chủ yếu đó dừng rồi thì bao nhiêu thứ nghiệp làm sao có, không có nghiệp thì làm gì bị luân hồi. Không theo nghiệp, không còn luân hồi tức trở về bản tâm, rõ ràng như vậy.

Nghiên cứu kỹ trong các kinh điển, chúng ta mới thấy rõ đường lối tu “đừng theo vọng”, mới đủ lòng tin để tu, mới thấy đó là trọng tâm. Phật đã nói rõ: từ vọng tưởng mà thọ sanh, vọng tưởng mà theo nghiệp, đối với bản tâm diệu viên minh vô tác đều như hoa đốm trong hư không, vốn không dính dáng.

Chỉ một thứ hư dối, không có gốc rễ manh mối gì.

Vọng tưởng chỉ là hư dối, do theo hư dối đó mà có bảy đường. Nó lăng xăng lộn xộn vậy nhưng chẳng có gốc rễ manh mối gì. Khi vọng tưởng dấy khởi, chúng ta thử tìm lại coi nó ra sao, gốc rễ ở đâu, manh mối chỗ nào? Hoàn toàn không có, Vậy mà theo nó thì tạo thành nghiệp.

A-nan, những chúng sanh đó không biết bản tâm, phải chịu luân hồi như vậy, trải qua vô lượng kiếp không được tánh chân tịnh.

Do không biết bản tâm, chạy theo vọng tưởng nên phải chịu luân hồi vô lượng kiếp, không được chân tịnh. Nay nếu biết được đó là hư dối, trở về bản tâm tức là dừng vòng luân hồi. Điều này hết sức cụ thể. Vậy mới thấy đường lối tu của mình hết sức là thấu đáo, không có chuyện xa vời. Dầu lên cõi trời sung sướng bao nhiêu cũng vẫn trong luân hồi. Chỉ cần biết bản tâm, sống với thể thanh tịnh của bản tâm là đủ. Không dấy niệm chạy theo trần cảnh liền được thanh tịnh, thanh tịnh tức bản tâm hiện tiền. Biết được bản tâm, sống được với cái đó thì không đi trong bảy đường luân hồi.

Đều do tùy thuận sát, đạo, dâm. Nếu ngược lại ba thứ này thì phát sanh không sát không đạo không dâm. Nếu có ba nghiệp này thì gọi là loài quỷ, nếu không có thì gọi là nẻo trời. Bởi  và không lấn nhau mà phát khởi ra vòng luân hồi. Nếu khéo phát huy được chánh định thì thường lặng lẽ nhiệm mầu, cả hai có và không đều không, cái không hai thứ này cũng diệt luôn. Còn không có chẳng sát, chẳng đạo, chẳng dâm thì làm sao lại thuận theo việc sát, đạo, dâm?

Ví dụ như khi có những đứa con bất hiếu, hung hăng, chúng ta khuyên: “Các bé nên hiếu thảo với cha mẹ, hiền lành với mọi người.” Tại sao khuyên nó như vậy? Vì sợ nó bất hiếu, sợ nó hung hăng. Nếu một ngày nào những đứa bé đó hoàn toàn hiếu thảo, hiền lành thì mình không còn khuyên vậy nữa. Như vậy không còn khuyên là vì đã được rồi. Còn khi khuyên hiếu thảo, hiền lành là lúc đó chưa hoàn toàn được, chúng ta còn nghi nó có thể bất hiếu, còn nghi nó có thể hung hăng nên mới phải khuyên.

Do đó, ở đây nói bởi có và không lấn nhau chon nên đi trong vòng luân hồi. Nếu được chánh định thì thường ở trong tánh lặng lẽ mầu nhiệm. Trong đó hai cái  và không đã hết, cái hết có không cũng chẳng còn. Như vậy còn gì đâu mà nói chẳng sát, chẳng đạo, chẳng dâm, huống là còn theo việc sát, đạo, dâm?

Ba cõi đã như hoa đốm giữa hư không thì làm gì có có-không đối đãi mà phát ra ba nghiệp sát đạo dâm. Sở dĩ hiện nay chúng ta khi tỉnh khi mê là do chưa thật nhận được tánh chân như nơi mình. Nếu thật nhận được, thường hằng không lúc nào quên thì ba nghiệp sát đạo dâm không do đâu mà còn.

Này A-nan, không dứt ba nghiệp thì mỗi người đều có nghiệp riêng. Nhân mỗi người có nghiệp riêng, nhiều phần riêng thành đồng phần, chẳng phải không có chỗ nhất định.

Những câu này thật là chí lý! Giả sử có những người phạm tội giết người, bằng cách này hoặc bằng cách khác, bị nhốt chung chỗ của những người phạm tội giết người. Lại có một số người đánh cướp nhà này ăn trộm nhà kia, thành nghiệp trộm cướp, bị bắt cũng có chỗ nhốt riêng. Những người phạm tội hiếp dâm cũng bị nhốt chung. Mỗi người làm một cách riêng, nhân vật khác, nhưng nhiều người đồng phạm tội nào thì phải có chỗ nhốt chung. Như vậy các cõi không cố định nhưng khi đã tạo nghiệp thì nhất định thọ quả. Cái lý về nghiệp này, xem như siêu hình mà lại ứng với thực tế, không phải là việc mơ màng.

Chúng sanh tạo nghiệp rồi chịu luân hồi trong các đường. Như vậy các cõi trong tam giới này, từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cho đến các cõi trời Dục giới Sắc giới v.v… đều không cố định sẵn có, chỉ tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện. Nếu chúng sanh không tạo nghiệp, trở về bản tâm thanh tịnh thì các cõi đó đều không còn nữa.

Do tự hư vọng phát sanh, vọng sanh không có nhân, không thể tìm xét.

Ví dụ mình đang ngồi chơi rất là bình ổn, chợt có người đi ngang nói một câu xúc phạm đến danh dự, lúc đó mình liền nổi sân, rồi muốn đánh muốn chửi họ. Nếu là người bình tĩnh thì nhìn lại xem cái sân này từ đâu ra, nhìn một hồi nó mất tiêu, không có gốc rễ gì cả. Vì vậy nên nói do tự nơi vọng phát sanh, vọng sanh không có nhân. Khi nó lặng rồi, tìm xem nó trú ẩn ở đâu thì rõ ràng là không có chỗ nơi.

Ông nên khuyên người tu hành, muốn được Bồ-đề cần phải trừ ba hoặc sát đạo dâm. Chẳng hết ba hoặc, dù có được thần thông, đều là công dụng hữu vi của thế gian. Nếu không dứt trừ tập khí thì rơi vào đường ma, tuy muốn trừ vọng lại càng thêm hư dối. Như Lai nói những người đó rất đáng thương xót.

Tập khí ba hoặc nếu không diệt, sẽ rơi vào đường ma chứ không thành thánh thần gì. Dù có được thần thông, biết quá khứ vị lai, mà còn sát, đạo, dâm thì chưa giải thoát được. Những người không dứt được ba hoặc mà nói muốn trừ vọng thì chỉ thêm hư dối. Không hiểu được cái gốc này mà tu thì chỉ là việc tạm bợ trên thế gian, rồi cũng rơi trong đường ma chứ không đi tới đâu. Bởi vì mê quá nên Phật nói là kẻ đáng thương.

Đều do ông tự tạo nghiệp hư dối, không phải lỗi của Bồ-đề.

Câu này quá hay! Ông tự dấy niệm rồi theo nó tạo nghiệp, chứ thật Bồ-đề không tạo nghiệp. Tánh giác không có lỗi gì với việc đó. Nếu mình không tạo nghiệp nữa thì nhập Bồ-đề, Bồ-đề không từ chối mình. Chỉ tại mình ham làm chúng sanh quá nên quên làm Phật. Nếu không chịu làm chúng sanh thì trở lại thành Phật, có ai ngăn cản đâu!

Như người đang ngồi một mình nơi vắng vẻ trong vườn hay ngoài đồng ruộng, yên lành không bị ai quấy nhiễu, thật là quý. Nhưng người ấy có chịu đâu, thấy buồn, phải kiếm người nói chuyện cho vui. Nói một hồi thì có vấn đề để suy nghĩ, hoặc người kia có những lời nói xúc phạm mình, hoặc theo người đó chê người này, khen người kia… Vậy rõ ràng là mê làm chúng sanh, ngồi một mình yên ổn, tâm thanh tịnh tốt quá mà không chịu.

Hoặc buổi tối, tới giờ ngồi thiền, nghe đánh kẻng thì xách bồ đoàn đi có vẻ uể oải mệt nhọc. Nhưng nếu nghe nói tối nay có chiếu phim thì không mệt nhọc chút nào, đi sớm vô ngồi trước. Như vậy là mê làm chúng sanh hay mê làm Phật? Chúng ta chịu những thứ giả dối của chúng sanh bày ra, chứ không chịu nghe lý thật đức Phật chỉ.

Tự kiểm lại xem, muốn thành Phật mà ưa chúng sanh, mâu thuẫn lạ đời! Vậy phải dẹp sự mâu thuẫn đó, phải có con đường đi quyết định cho mình. Quyết đi đường Phật thì phải đi thẳng, những gì không liên quan thì gạt qua một bên. Vậy nên tu không phải là chuyện khó, chính vì chỗ nhiễm trước của mình đậm quá nên thành khó. Ai cũng biết phim là giả mà mê vẫn cứ mê, cũng như Phật nói vọng tưởng là giả dối mà mình vẫn cứ theo. Vậy nên không phải biết giả rồi ai ai cũng tỉnh; biết giả rồi cũng vẫn mê theo giả. Điều đó thật là đáng thương, thật là đáng thương, hai ba lần đáng thương. Sao dại khờ quá mức!

Cũng như những đứa trẻ con, có đứa chúng ta chỉ dạy một lần nó đã nghe, có đứa nói mãi không nghe. Như thấy đứa trẻ cầm dao cắt trái cây, chúng ta nhắc: “Cẩn thận! Coi chừng đứt tay!” Nhưng nó vẫn cứ cắt, rồi đứt tay. Theo lẽ thường mình giận nó, nhưng nếu xét kỹ thì thấy nó ngu quá, đáng thương; đã được cảnh cáo mà không nghe, để đứt tay rồi khóc. Cũng vậy, Phật nói tất cả nghiệp là từ vọng tưởng tạo nên, đừng theo nó. Phật cảnh cáo rồi, nhưng chúng sanh vẫn cứ theo vọng tưởng tạo nghiệp thọ khổ, than thở khóc lóc rồi kêu Phật cứu con độ con. Như vậy thật là đáng thương!

Đức Phật đã chỉ rõ ràng, tất cả nghiệp đều từ vọng tự tạo, Bồ-đề không có lỗi gì với việc đó. Chúng ta muốn được Bồ-đề thì đừng theo vọng, không vọng tự nhiên trở về với Bồ-đề.

Người nói lời như thế ấy, gọi là lời nói chân chánh, nếu nói khác đi tức là ma vương nói.

Hiện nay thấy có nhiều người không trừ ba nghiệp, nhưng họ gắng tu được chút thần thông, rồi tự cho là siêu nhân. Những người khác nghe họ nói vậy, do không biết được cội gốc tu hành nên cũng tin.

Nói về gốc của sự tu, tôi sẽ chỉ đơn giản cho dễ nhớ. Giai đoạn một: Phải diệt trừ ba nghiệp gốc sát đạo dâm.

Ba nghiệp này hầu như ai cũng có. Thấy người cầm súng hay ná bắn chim, nếu họ bắn trúng, mình cũng muốn vỗ tay khen. Đi ra bờ sông thấy người bỏ câu, giật được cá mình cũng mừng. Còn bản thân mình, đang ngồi chơi thấy con cóc con nhái nhảy, liền muốn lượm cục sỏi gần đó chọi chơi. Những thói đó đã quen rồi, nên hồi nhỏ gặp cào cào, châu chấu, dế thì bắt cho đá nhau, hoặc ngắt cánh ngắt đầu. Con người sanh ra đã mang bản chất đó. Bởi vậy sát là một nghiệp nặng.

Nghiệp dâm, đạo (trộm cắp) cũng vậy. Thấy đồ của ai tốt thì thích, nếu có tiền thì muốn mua, không tiền mua thì lén lấy. Ăn cắp cũng đủ cách, không phải chỉ ăn cắp bằng cách đưa tay lấy, nhiều khi dùng miệng nói gạt để được cũng là ăn cắp. Sát, đạo, dâm là gốc sẵn có của con người mê muội, phải ráng bỏ nó.

Giai đoạn hai: Vọng tưởng là chủ động tạo nghiệp, cứ thẳng nơi đó dừng thì mọi nghiệp theo đó hết, không có gì khác hơn.

Cho nên chúng ta tu, bên ngoài lấy giới luật giữ thân, bên trong biết vọng tưởng đừng theo là giữ tâm. Đó là nhân để giải thoát sanh tử. Nếu không thực hành như vậy thì khó mà ra khỏi vòng sanh tử.

V. CÁC CHƯỚNG MA

Bấy giờ đức Như Lai sắp chấm dứt thời pháp, từ trên tòa sư tử vịn ghế thất bảo, xoay thân tử kim sơn, trở lại dựa vào ghế, bảo khắp đại chúng và A-nan:

Thân của Phật được tán thán như một khối vàng tía, vững vàng như núi nên gọi là thân tử kim sơn. Đức Phật sắp mãn buổi giảng, do ngồi lâu nên ngài mới vịn ghế xoay thân muốn nghỉ, nhưng lại còn phải dạy thêm ít điều nữa nên trở lại dựa ghế. Chỗ này không ai hỏi, nhưng vì Phật thấy rằng nếu không dạy đủ sợ người tu dễ lầm lẫn, nên Phật tự chỉ dạy.

Các ông là hàng hữu học Thanh văn Duyên giác, ngày nay hồi tâm hướng về đại Bồ-đề vô thượng Diệu giác. Nay ta đã nói pháp tu hành chân thật, ông vẫn chưa biết những việc ma vi tế khi tu Chỉ tu Quán. Nếu cảnh ma hiện ra mà ông không thể biết được, khi tu tâm không chân chánh sẽ rơi vào tà kiến, hoặc là ma ngũ ấm của ông hoặc gặp thiên ma, hoặc bị quỷ thần dựa vào hoặc gặp những loài yêu quái, mà trong tâm ông không rõ nhận giặc làm con.

Phật thương muốn cho chúng ta tu, nên ngài đã chỉ rõ cách tu, đường lối tu rồi, nhưng còn e rằng trong khi tu có những cảnh ma mà mình không biết, dễ bị lầm lẫn. Chính lúc chúng ta tu sẽ có những ma sự lẫn trong đó, làm cho mình trở thành tà kiến, vì vậy mà Phật thương xót nhắc nhở. Do chúng ta không rõ đó là ngũ ấm ma hay thiên ma hoặc quỷ thần dựa vào người, lại nhận nó là thiện tri thức hay nhận là mình tu chứng, đó đều là nhận giặc làm con.

Từ đầu tới cuối kinh Lăng-nghiêm chủ yếu nhắm vào Thiền. Ban đầu là ngài A-nan đứng ra thưa hỏi về phương pháp tu Chỉ và tu Quán, đến phần chót của kinh, Phật lại dạy về các ma sự trong khi tu Thiền. Chỉ trong quyển bảy, do ngài A-nan thưa hỏi, Phật mới phương tiện nói việc dựng lập đàn tràng và nói lại thần chú.

Lại nữa, ở trong ấy được chút ít là đủ. Như có Tỳ-kheo vô văn tu được Tứ thiền, dối cho là chứng thánh. Khi quả báo cõi trời đã hết, tướng suy liền hiện tiền, liền chê bai A-la-hán mà còn có thân sau, phải đọa vào địa ngục A-tỳ.

Tỳ-kheo vô văn là vị Tỳ-kheo dốt nát, tu mà không học, không hiểu gì. Những vị này có công tu, nhưng tiến lên chưa đến nơi lại tưởng đã đến, hài lòng cho là đã chứng A-la-hán rồi, hoặc tưởng mình thành Phật. Đến lúc hưởng hết phước bị đọa, mới giật mình: “Tại sao mình là A-la-hán rồi mà nay còn bị đọa?” Do không hiểu bèn chê A-la-hán còn bị đọa, đây là nói bậy phải đọa địa ngục.

Ông nên lắng nghe cho kỹ, nay ta vì ông mà phân biệt chín chắn.

A-nan đứng dậy, cùng với hàng hữu học trong hội vui mừng đảnh lễ, kính mong được nghe lời chỉ dạy từ bi của Phật.

Phật sắp nói lý do vì sao ma phá người tu. Hồi xưa tôi cứ nghĩ mình tu là làm lành, tu đắc đạo thì độ hết chúng sanh, trong đó có ma nữa. Mình độ nó được tỉnh giác thì lẽ ra nó phải ủng hộ mình triệt để, nhưng tại sao nó lại phá mình? Phần kế Phật nói lý do rất rõ ràng.

Phật bảo A-nan và cả đại chúng:

– Các ông nên biết, thế giới hữu lậu có mười hai loài chúng sanh, tâm thể bản giác diệu minh giác viên cùng với chư Phật mười phương không hai không khác.

Đó là câu xác nhận của Phật, đối với tâm thể bản giác diệu minh giác viên, Phật có thì mười hai loài chúng sanh trong thế giới hữu lậu này cũng có, không hai không khác, không kém không thua chút nào. Đừng nghĩ lầm Phật mới có còn chúng sanh vô phần.

Do ông vọng tưởng, mê lầm chân lý mà thành lỗi lầm, si ái phát sanh, sanh mê cùng khắp nên có hư không. Cái mê biến hóa không dừng nên có thế giới sanh ra. Cõi nước như số vi trần ở mười phương này, trừ ngoài bậc vô lậu, thì đều là do mê lầm vọng tưởng mà an lập.

Tất cả chúng sanh đều có bản giác diệu tâm như chư Phật mười phương không khác, nhưng sở dĩ có khác là do vọng tưởng mê lý mà ra. Mê lý là không thấy được lý thật, tức không thấy được bản giác diệu tâm, thành ra lỗi. Lỗi đó là bởi si mê và ái kiến mà phát sanh. Khi đã phát sanh thì mê càng ngày càng rộng khắp, cho nên đầu tiên là có hư không. Cái mê lại biến hóa không dừng, lần lần có thế giới.

Trong thế giới ở mười phương như số vi trần này có cả phàm lẫn thánh. Thánh là những vị vô lậu, còn phàm là tất cả chúng sanh ngu mê, đều do vọng tưởng an lập. Như vậy các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v… đều từ vọng tưởng mà ra, cho nên vọng tưởng là then chốt tạo ra cảnh khổ cảnh vui, luân hồi lục đạo. Nay chúng ta chặn ngay gốc vọng tưởng, đừng cho nó làm chủ mình nữa thì đâu còn tạo nghiệp sanh tử.

Như vậy mới thấy trọng tâm sự tu là phải biết nhắm gốc để hạ nó. Cái cây tàn lớn bao nhiêu đi nữa, muốn nó ngã thì phải cưa từ gốc, còn chặt từng nhánh thì chỉ gãy nhánh chứ không ngả cây được. Cũng như vậy, lục đạo luân hồi mà phá từng chỗ thì lâu lắm, cứ ngay gốc tạo ra luân hồi lục đạo đó mà chặn là dứt. Đây là gốc của sự tu.

Do đó hướng tu của chúng ta, là vọng tưởng là chủ tạo nghiệp, vậy phải dừng nó lại đừng theo nữa. Không theo vọng tưởng là không theo nghiệp, mà không theo nghiệp tức hết luân hồi. Đơn giản vô cùng! Chúng ta tu cốt cầu giải thoát. Giải thoát cái gì? Giải thoát luân hồi. Cái gì là trọng tâm của luân hồi? Là vọng tưởng. Bây giờ dừng vọng tưởng không theo nó tức là dừng luân hồi, dừng luân hồi tức là giải thoát. Như vậy chủ đích chúng ta nhắm hết sức rõ ràng, không có gì nghi ngờ.

Hiểu thật rõ như vậy mới thấy đường hướng tu của chúng ta là thấu đáo. Người không hiểu rõ nói: “Tu gì đơn giản quá, phải làm công kia việc nọ cho có phước đức, còn không theo vọng tưởng coi bộ đơn sơ quá.” Họ không biết rằng vọng tưởng chính là mấu chốt của sanh tử. Ban đầu nó hết sức đơn giản, nhưng từ cái đơn giản đó, sau phát ra những thứ phiền toái.

Nên biết hư không sanh trong tâm của ông ví như một làn mây mỏng điểm trong bầu trời xanh, huống là các thế giới ở trong hư không kia.

Buổi trưa trời trong trẻo, chúng ta thấy bầu trời xanh có làn mây mỏng, làn mây mỏng đó có nghĩa gì, có thấm vào đâu so với bầu trời xanh! Hư không vô bờ vô bến mà đối với bản giác diệu tâm cũng như một mảnh mây nhỏ trong bầu trời xanh, nói gì các thế giới ở trong hư không. Huống nữa thân này nào có ra gì? Vậy mà chấp nó làm chỗ cứu cánh, còn cái thênh thang kia lại bỏ quên! Phật thương chúng sanh chính vì sự ngu mê đó.

Thể tánh thênh thang không bờ bến, trùm cả hư không, hư không đối với thể tánh đó không có nghĩa lý gì hết. Vậy mà mình bỏ quên tánh, rồi chấp và tự mãn với tấm thân chút xíu, chấp những hơn thua phải quấy, phiền hà nhau, đời này tiếp tục đời kia. Vậy nên khi ngài A-nan ngộ rồi, ngài nói nhìn thân cha mẹ sanh ra đối với pháp thân giống như thổi một hạt bụi trong hư không, hoặc còn hoặc mất chẳng có gì quan trọng hết. Còn chúng ta do mê nên thấy các giả tướng là thật, là quan trọng, không thể nào buông bỏ được.

Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật cho thân này như hạt bụi nhỏ tí ti, còn bản tâm như quyển kinh lớn bằng tam thiên đại thiên thế giới. Quyển kinh lớn nhét trong hạt bụi nhỏ, chỉ cần đập hạt bụi ra là lấy được quyển kinh. Như vậy, tâm thể bao la không ngằn mé, sao lại dồn ép vào một cái tí ti không nghĩa lý gì, để rồi lo nó còn mất, đói lạnh…! Cần cho nó rã ra, để lấy bộ kinh lượng bằng tam thiên đại thiên thế giới. Nhớ kỹ như vậy, sẽ thấy sự tu không khó.

Như vậy, việc làm của người tu là phi thường chứ không phải tầm thường, không nên lẩn quẩn mãi trong cái ăn cái mặc… để bị quay hoài trong trục luân hồi sanh tử không dừng dứt. Thoát ra khỏi vòng quay đó, sống với cái thênh thang không bờ mé tức là phi thường.

Các ông một người mà phát khởi sự trở về tánh chân thật ban đầu, thì mười phương hư không thảy đều tiêu mất, làm sao các cõi nước ở trong hư không kia không bị rúng động, đổ nát.

Trở về gốc ban đầu là bản giác diệu tâm của chính mình. Đối với bản giác diệu tâm thì hư không chỉ là mảnh mây nhỏ giữa khoảng trời xanh, không có giá trị gì, nên nói trở về diệu tâm thì hư không mười phương thảy đều tiêu hết. Hư không mười phương còn hết, huống là các cõi nước trong hư không, làm sao mà không rung chuyển, đổ nát?

Các ông tu thiền, trau giồi chánh định, Bồ-tát và hàng vô lậu đại A-la-hán ở mười phương, tâm tinh thông suốt, ngay đó được trong lặng. Tất cả ma vương cùng các quỷ thần, các vị trời phàm phu, thấy cung điện của họ vô cớ đổ vỡ; quả đất rạn nứt, các loài ở dưới nước, ở trên cạn, các loài bay nhảy thảy đều kinh hoảng, nhưng những người phàm phu tối tăm thì không biết có sự dời đổi.

Đến đây Phật nói lý do ma phá người tu hành. Giả sử có người tu đắc đạo, ma quỷ hoảng kinh đi tới phá, người này đều không hay biết. Trong sử kể: Có vị tăng tên Pháp Tế, tự khoe về thiền học. Một hôm đại sư Trí Giả tình cờ gặp vị này tại am thất. Am chủ Pháp Tế nằm dựa ghế hỏi: “Có người ở trong định nghe đất núi rúng động, biết có vị tăng quán lý vô thường, ấy là định gì?” Đại sư Trí Giả trả lời: “Đó chỉ mới chuyển thân vào định thôi, là biên định chưa sâu, là tà chứng ám nhập. Nếu chấp nói thì định ấy chắc chắn phải mất.” Vị tăng Pháp Tế nghe nói kinh hãi đứng dậy thưa: “Tôi thường được định này, vì nói cho người nghe nên đã mất.”

Như vậy, những cảnh trong định, quỷ thần với thiên ma biết mà người thường không biết. Người tu khi quán thế giới vô thường thấy cả quả đất rung động, huống nữa là tu đến lúc tâm hoàn toàn thanh tịnh, nên các cung ma chợt thấy sụp đổ.

Bọn kia đều được năm thứ thần thông, chỉ trừ lậu tận thông. Chúng quyến luyến trần lao này, làm sao có thể để cho ông làm tan hoại chỗ ở của chúng. Thế nên quỷ thần và các thiên ma, võng lượng yêu tinh, khi ông ở trong tam-muội, chúng cùng đến nhiễu loạn.

Bọn kia là ma vương, quỷ thần và trời phàm phu. Trong lục thông, họ có được cả năm thứ, trừ lậu tận thông mà bậc A-la-hán mới có. Cung mà là những chỗ sang trọng họ đang thụ hưởng, mà nay thấy rung chuyển tan hoang là do có người tu đắc đạo. Bọn họ quyến luyến trần lao này lắm, thấy cung điện sắp rã rời thì hoảng sợ, phải cử binh tới phá, như ngày xưa đức Phật sắp thành đạo, quân ma kéo tới bao vây phá ngài.

Trước đây chúng ta thấy ngạc nhiên, Phật giác ngộ rồi độ tất cả chúng sanh, trong đó có cả thiên ma, tại sao thiên ma lại tới vây hại ngài? Đó là từ lý do này. Hiểu rõ rồi, chúng ta không còn nghi ngờ tại sao khi mình tu tới chỗ tâm hoàn toàn thanh tịnh rỗng suốt giống như các vị A-la-hán các vị Bồ-tát, thì ma vương sẽ tới nhiễu loạn quấy phá.

Nhưng bọn ma kia tuy có giận dữ, chúng là ở trong trần lao còn ông ở trong diệu giác, như gió thổi ánh sáng, như dao chặt nước, trọn không xúc chạm được ông. Ông như nước sôi, bọn chúng như băng cứng, vừa gần hơi nóng thì không bao lâu băng sẽ tiêu hết.

Đó là ba ví dụ để chúng ta yên lòng. Thứ nhất là ma ở trong trần lao, còn chúng ta ở trong diệu giác, chúng muốn làm hại cũng giống như gió thổi ánh sáng. Thứ hai, ma muốn hại người tu giống như là cầm dao chặt nước, dầu chặt bao nhiêu nước cũng chẳng sao. Thứ ba, chúng ta như nước sôi, ma như băng cứng, băng cứng gần nước sôi sẽ chảy hết.

Chúng ỷ nơi thần lực nhũng chúng chỉ là khách, nếu chúng phá rối thành tựu được là do người chủ năm ấm trong tâm ông.

Quang trọng là người chủ là năm ấm (sắc thọ tưởng hành thức). Nếu người chủ năm ấm gạt gẫm mình, mình lầm nó thì ma bên ngoài mới phá được, vì ma ngoài là khách còn năm ấm là chủ. Trái lại, nếu chúng ta làm chủ được trọn vẹn, không bị năm ấm làm lầm, thì ma bên ngoài dù mạnh mấy cũng không làm gì mình được.

Chủ nhân nếu lầm thì khách mới được cơ hội thuận tiện. Chính trong khi thiền định giác ngộ không mê lầm thì những việc ma kia không làm gì được ông. Năm ấm tiêu trừ thì vào tánh sánh, bọ ma tà kia đều ở trong khí tối, sáng hay phá tối nên đến gần thì tự tiêu mất, làm sao dám ở đó nhiễu loạn người tu thiền định?

Khi chúng ta phá được mỗi ấm tức vào mỗi phần sáng suốt, còn ma thì ở chỗ u ám tối tăm. Chúng ta sáng suốt thì tối không sao chen vào được. Tối đến gần sáng thì tối phải mất, đâu dám ở lại làm rối loạn người tu thiền. Do lầm nên ma mới có cơ hội phá. Lầm cái gì? Lầm những biến tướng của năm ấm. Khi tu, năm ấm biến ra những tướng lạ, chúng ta lầm tưởng là chứng thánh cho nên ma có cơ hội phá. Trái lại, nếu khi những tướng lạ hiện ra, biết rõ không lầm thì ma không có cơ hội phá được.

Ma thuộc về âm u tăm tối, còn chúng ta tu thiền là mở mang trí tuệ, mà trí tuệ là sáng, sáng hay phá tối. Bởi vậy ma không thể làm nhiễu loạn người tu thiền định được, nếu người đó không lầm. Như vậy là sự tu có bảo đảm, với điều kiện là phải ngộ chứ không mê.

Nếu chẳng tỏ ngộ, bị các ấm làm mê, thì ông A-nan ắt sẽ làm con của ma, thành người ma.

Đó là chỗ đáng sợ. Nếu trong khi tu, chúng ta không sáng suốt không tỉnh ngộ, bị các ấm ma làm mê lầm (ấm ma là ma của mình, do nhận lầm năm ấm) thì chính mình ắt bị làm con của ma, thành người ma chứ không còn là người tu chân chánh nữa. Cho nên có nhiều người ham tu, tu rất có công phu mà rốt cuộc lại làm tôi tớ của ma, nói những chuyện ma, làm những điều ma. Đó là vì họ đã bị lầm.

Như Ma-đăng-già sức rất là yếu kém, chỉ dùng chút chú thuật khiến ông phá luật nghi của Phật. Trong tám muôn hạnh chỉ hủy một giới, do tâm ông thanh tịnh nên vẫn chưa bị trầm luân. Ma này phá hoại toàn thân bảo giác của ông, giống như quan tể tướng chợt mất hết bộ sổ, đành phải lang thang, không ai có thể thương mà cứu được.

Sức phá hại của ma làm cho toàn thân bảo giác của ngài A-nan bị hủy hoại. Tại sao? Vì nó làm mê lầm rồi phá giới, khiến không ngộ nhập được tánh giác, như ông tể tướng chợt mất hết bộ sổ, phải lang thang không thể cầu cứu ai.

Như vậy, đoạn này Phật đã giải thích hết sức rành rẽ:

– Tất cả chúng sanh đều có tâm thể bản giác diệu minh giác viên, đồng với chư Phật mười phương.

– Sở dĩ chúng ta bị luân hồi là vì vọng tưởng. Bởi có vọng tưởng nên mê lầm chân lý, đưa tới tạo nghiệp thọ sanh, chịu luân hồi sanh tử. Một phen mê liền sanh ra hư không, thế giới. Mà hư không, thế giới đối với tâm tánh giác minh chỉ giống như một mảnh mây nhỏ ở trong bầu trời xanh.

– Nay chúng ta tu để trở về bản giác đó. Nếu trở về được với bản giác thì hư không mười phương thảy đều tan hoại, tất cả cõi nước ở trong hư không này rúng động, đổ vỡ. Quân ma thấy cung điện chúng sụp đổ, hoảng hốt, biết là do có người tu gần đắc đạo, bèn kéo đến phá hại.

– Tuy nhiên không đánh sợ vì ma ở trong trần lao, chúng ta ở trong diệu giác, nó hại mình chẳng khác nào gió thổi ánh sáng, dao chặt nước, băng gần lửa. Chỉ có điều đáng sợ là lầm ngũ ấm ma. Nếu người tu lầm ngũ ấm ma nơi chính mình thì ma ở ngoài mới có cơ hội phá phách. Vậy nên phải dè dặt đừng lầm ngũ ấm ma.

Học đoạn này mới thấy sự tu hành thật là khó khăn chứ không đơn giản. Trong năm ấm, mỗi ấm Phật phân ra có mười thứ ma. Mười thứ ma này không phải từ ngoài vào mà chính là do công phu tu, phá từng ấm mà nó phát hiện. Nếu không biết rõ, khi hiện những tướng lạ tưởng là mình đạt đạo chứng quả thì đó là bệnh. Còn nếu biết rõ không lầm nhận thì đó là cảnh giới tốt, do công phu tu của mình mà hiện ra. Như vậy ma hay là thiện đều từ chỗ biết và không biết. Biết tức là cảnh giới lành, không biết là cảnh giới ma, tầm vóc hệ trọng ở chỗ đó.

Lại nữa, người tu thường nói bị ma phá, nhưng sự thật là họ tự phá. Nếu tất cả việc bên ngoài đến đều một mực nhất quyết từ chối không chấp nhận thì ma làm sao phá được. Chính vì mình còn mê nên nghe theo sự cám dỗ của ma. Nếu chúng ta chân chánh quả quyết một đường, sống chết không lay động thì không có con ma nào rù quến được mình. Như vậy không phải lỗi tại ma, mà lỗi tại mình vậy.

1. Sắc ấm

Mỗi ấm có mười thứ ma. Phải nhớ kỹ để khi tu khỏi lầm.

A-nan nên biết, ông ngồi nơi đạo tràng tiêu hết các niệm, các niệm kia nếu hết thì tâm lìa niệm tất cả được trong sáng, động tịnh không đổi dời, nhớ quên như một. Chính khi an trụ trong đó mà vào được chánh định, như người mắt sáng ở chỗ rất tối tăm. Tánh linh rất nhiệm mầu thanh tịnh nhưng tâm chưa phát sáng. Đây gọi là phạm vi của sắc ấm.

Tinh tánh diệu minh, tinh chỉ cho kiến tinh, tuy trong sạch nhiệm mầu nhưng trong tâm chưa phát sáng. Cái sáng chỉ mới ở mắt, nhưng chưa sáng trong tâm, như người mắt sáng mà còn ở trong chỗ tối. Đó là còn trong phạm vi sắc ấm.

Nếu con mắt trong sáng, mười phương đều rỗng suốt, không còn chỗ nào tối tăm, gọi là hết sắc ấm. Người ấy có thể vượt khỏi kiếp trược, xét lại nguyên do có sắc ấm, thì cội gốc là vọng tưởng kiên cố.

Phá được một ấm là qua được một lớp trược trong năm lớp trược. Người nào khi con mắt thấy rỗng suốt cả mười phương không còn chỗ nào tối tăm thì gọi là hết phạm vi của sắc ấm, tức vượt khỏi kiếp trược. Xem lại nguyên do thì thấy sở dĩ có sắc ấm là bởi vọng tưởng quá bền chắc. Đó là cội gốc có thân sắc ấm.

Như vậy ở trên giải thích tổng quát hai phần: Phần thứ nhất còn ở trong phạm vi sắc ấm. Phần thứ hai vượt khỏi phạm vi sắc ấm.

Đến đây mới nói mười thứ ma của sắc ấm.

Này A-nan, chính ở trong ấy chuyên ròng nghiên cứu tánh sáng suốt nhiệm mầu, tứ đại không còn đan kết nữa, trong khoảng chốc lát thân có thể ra khỏi chướng ngại. Đây gọi là tánh sáng suốt tuôn tràn ra cảnh trước. Ấy chỉ do công dụng tạm được như thế, chẳng phải chứng thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.

Khi đang thiền định, chuyên ở trong tĩnh lặng, lâu ngày phát ra ánh sáng. Lúc đó thấy tứ đại như rã rời, không đan kết nữa, cảm thấy thảnh thơi nhẹ nhàng không còn chướng ngại. Rồi thấy ở trước sáng khắp hết, đó là do dụng công tu mà tạm thời vậy thôi, chứ không phải chứng thánh. Nếu thấy vậy, biết là do công phu tu hành mình dồn ép mà phát ra, chứ không có gì thật, không khởi tâm cho rằng mình chứng thánh thì đó là cảnh giới lành, không có lỗi gì. Trái lại, vừa dấy niệm chấp cho là mình chứng thánh, liền rơi vào tà kiến.

Như vậy, tốt hay tà đều do mình tỉnh giác biết rõ hay chấp lầm. Chỉ khéo một chút là an ổn, còn không khéo thì thành bệnh. Đó là ma thứ nhất. Ma này có thật là ma không? Nếu biết rõ cảnh giới đó là do sức cố gắng tu hành của mình phát ra, không cho là chứng thánh, thì ma đâu có cơ hội để dựa. Còn nếu nói mình chứng thánh, tự cho là Bồ-tát hay A-la-hán thì ma có cơ hội dựa vào.

Này A-nan, lại dùng tâm ấy chuyên ròng nghiên cứu tánh sáng suốt nhiệm mầu, trong thân thành rỗng suốt. Người ấy bỗng nhiên ở trong thân mình lượm ra những con giun sán, mà thân thể vẫn y nguyên, không bị thương tổn. Đây gọi là tánh sáng suốt tuôn tràn ra thân thể. Đó chỉ do tinh chuyên thực hành mà tạm được như thế, chẳng phải chứng thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.

Người tu nếu không hiểu kỹ sẽ bị hai lỗi:

– Do không hiểu, nên khi ngồi thiền thấy lạ liền hoảng hốt. Sao lại thấy giun sán trong ruột gan, còn lượm đem ra ngoài được nữa nên lo sợ. Vì sợ nên không dám tu tiếp. Đó là do không biết mà bị thối tâm.

– Khi thấy lạ khởi tâm mừng, cho rằng mình kỳ đặc hơn người, nghĩ mình chứng thánh còn mấy người kia là phàm, liền rơi vào đường tà.

Chúng ta thấy sự tu không đơn giản. Tu mà không chịu học, không tìm hiểu cho thấu đáo thì dù có nỗ lực cố gắng, khi thấy những cảnh lạ đó lại sanh ra hoảng hốt hoặc vui mừng, rồi nói bậy bạ, dễ lạc vào tà kiến.

Lại dùng tâm ấy chuyên ròng nghiên cứu trong ngoài, khi ấy hồn phách, ý chí, tinh thần, trừ chấp thọ thân ra, đều xen lẫn vào nhau làm chủ làm khách. Bỗng nhiên ở trong hư không nghe tiếng nói pháp, hoặc nghe mười phương đồng diễn bày nghĩa sâu kín. Đây gọi là tinh phách thay nhau lìa rồi hợp, thành tựu hạt giống lành tạm được như thế, chẳng phải là chứng thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.

Nhiều người mắc phải chỗ này, ngồi tu lâu, bỗng nhiên nghe ở ngoài có tiếng nói pháp, hoặc nghe thần chú, tưởng rằng Phật hay Bồ-tát tới dạy, điểm đạo cho mình, tưởng mình đã ngộ, lắng nghe riết rồi quên tu. Như vậy do không biết nên tự mình bị gạt, ban đầu nghe nói những pháp chánh, sau dẫn tới pháp tà, bị lạc vào đường ma, dần dần bị điên hồi nào không hay. Nếu biết những tiếng đó là do nỗ lực công phu mà phát ra, không thèm chú tâm vào tiếng nói đó, chỉ cố gắng tu tiến thì sẽ qua. Đó là cảnh giới lành, vì đã qua được một chặng đường chứ đâu có lỗi gì. Lỗi tại mê lầm không biết, tưởng mình chứng thánh mà thành bệnh.

Lại dùng tâm ấy lóng lặng, hiển bày sáng suốt, ánh sáng ở trong phát minh, khắp cả mười phương làm ra sắc vàng Diêm-phù-đàn, tất cả các chủng loại hóa thành Như Lai. Khi ấy bỗng thấy đức Phật Tỳ-lô-giá-na ngồi trên đài thiên quang, có ngàn đức Phật đi nhiễu quanh, trăm ức cõi nước cùng với hoa sen đồng thời hiện ra. Đây gọi là tâm hồn linh ngộ tiêm nhiễm tâm quang nghiên cứu phát minh, chiếu soi các thế giới, tạm được như thế chẳng phải là chứng thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.

Thấy cảnh giới như vầy là phi thường rồi. Chỗ này thật dễ tưởng mình chứng thánh, thành đạo. Đoạn trước nói về thân, con mắt, đến đây nói về tâm. Do tâm lóng lặng, thấu triệt rồi phát ra ánh sáng, thấy toàn cả thế giới sắc vàng, thấy tất cả loài chúng sanh như chó mèo… đều hóa thành Phật hết, rồi lại thấy Phật pháp thân ngồi trên đài kim quang, có cả ngàn đức Phật vây quanh, cả trăm ức cõi nước cùng hoa sen hiện ra. Như vậy quá tuyệt rồi, không lầm mình chứng thánh sao được. Thấy những cảnh đó nếu không lầm, biết do tâm mình nỗ lực tu hành mà hiện ra, trong phạm vi phá sắc ấm, thì đó là cảnh giới lành; còn nếu cho là mình chứng thánh tức rơi vào tà. Vậy mới biết tu hành khó khăn, chứ không đơn giản.

Lại dùng tâm ấy chuyên ròng nghiên cứu tánh sáng suốt nhiệm mầu, quán sát không ngừng, đè ép hàng phục, kìm chế quá mạnh, khi ấy bỗng dưng mười phương hư không thành sắc bảy báu hoặc sắc trăm bảo, đồng thời đầy khắp không ngăn ngại nhau, các sắc xanh vàng đỏ khắp không ngăn ngại nhau, các sắc xanh vàng đỏ trắng mỗi thứ đều thuần hiện ra. Đây gọi là công sức đè ép quá phần, tạm được như thế chứ chẳng phải chứng thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.

Bảy báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Tinh nghiên là chuyên ròng nghiên cứu, không phải khởi niệm nghiên cứu, mà là tâm luôn luôn thầm lặng hướng về tánh thanh tịnh sáng suốt. Như khi ngồi thiền luôn giữ tâm yên lặng, càng ngày càng lặng gọi là tinh nghiên.

Tuy kể có mười thứ ma, nhưng không phải người tu nào trong khi phá sắc ấm đều thấy đủ mười thứ. Trong những thứ ma đó hoặc thấy thứ này hoặc thấy thứ kia, hễ lầm cho là mình chứng thánh thì đều rơi vào tà; còn không lầm, biết rõ do công phu đè ép vọng tưởng của mình lâu ngày mà phát ra như vậy thì đó là cảnh giới lành.

Lại dùng tâm ấy nghiên cứu lóng lặng thấu suốt, ánh sáng tinh thuần không loạn, chợt khoảng giữa đêm ở trong nhà tối thấy rõ các vật không khác gì ban ngày, mà những vật trong nhà tối cũng không diệt mất. Đây gọi là tâm vi tế thầm kín lóng lặng mà thấy được. Cái thấy thấu suốt chỗ tối tăm, tạm được như thế chẳng phải là chứng thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.

Những cảnh này, nếu ai dụng công tu thì có khi thấy được. Nhờ dụng công nhiều, bỗng dưng thấy trong nhà sáng hết, thấy các đồ vật cũng như lúc ban ngày. Chúng ta học rồi hiểu kỹ thì chính mình tu không lầm, mình cũng biết để nói cho họ khỏi bị lầm lạc, đây là điều thiết yếu.

Lại dùng tâm ấy hoàn toàn vào chỗ rỗng suốt dung hợp, khắp thân bỗng dưng đồng với cây cỏ, lửa đốt dao cắt không hề có cảm giác. Lại, dùng lửa không thể đốt cháy, dù có cắt thịt cũng như cắt cây. Đây gọi là bỏ các trần, dẹp trừ tánh tứ đại, một bề vào chỗ thuần thục, tạm được như thế chẳng phải là chứng thánh. Nếu không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.

Trạng thái thứ bảy này là không còn cảm giác, thân mình như cây cỏ, đâm vào không đau, đốt không nóng. Nhiều người tu tới đây hoảng sợ dừng lại không dám tu nữa. Cần biết đây là do sức ép quá mức của sự dụng công dẹp bỏ thân tứ đại quá thuần thục, hết cảm giác. Đó là một chặng trong phá sắc ấm, không phải chứng thánh cũng không phải thành vô tri vô giác.

Lại dùng tâm ấy thành tựu sự thanh tịnh, công phu thanh tịnh tâm đã cùng cực, chợt thấy cả đại địa, núi sông ở mười phương đều thành cõi Phật, đầy đủ bảy báu, hào quang sáng suốt đầy khắp. Lại thấy chư Phật Như Lai nhiều như số cát sông Hằng đầy khắp cõi hư không, lầu các hoa lệ. Nhìn xuống dưới thấy cõi địa ngục, nhìn lên thấy thiên cung, được không chướng ngại. Đây gọi là do tưởng ưa chán ngưng lắng lâu ngày, tưởng lâu mà hóa thành, chứ không phải chứng thánh. Không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.

Đây là do tưởng ưa chán lâu ngày hóa thành, như tưởng ưa cõi Phật, ví dụ người tưởng cõi Cực lạc, hoặc là chán các cõi địa ngục khổ sở, cái tâm ưa chán mạnh quá, lâu ngày kết đọng lại mà thành ra các cảnh tượng như vậy. Ngang đây rất dễ vỗ ngực xưng ta là Thánh, vì thấy núi sông, đất liền… đều thành cõi Phật và thấy chư Phật ở khắp mười phương nhiều như cát sông Hằng, trên thấy thiên cung, dưới thấy địa ngục. Nhưng thật chỉ mới là chặng thứ nhất trong năm chặng thôi. Nếu khởi tâm cho là chứng thánh thì lạc vào bọn tà, còn nếu không khởi thì không có lỗi gì, đó là cảnh giới lành.

Lại dùng tâm ấy nghiên cứu sâu xa, chợt lúc giữa đêm thấy phố chợ đường sá, thân tộc quyến thuộc ở phương xa, hoặc nghe những người kia nói. Đây gọi là tâm bị bức bách cùng tột bay ra, nên thấy được nhiều thứ cách xa, chứ không phải chứng thánh. Không khởi tâm cho là chứng thánh thì gọi là cảnh giới lành. Nếu khởi nghĩ chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.

Đây giống những người xuất hồn, vì đè ép quá mức, tâm bay ra thấy những thứ xa xôi, làng xóm chợ búa, hoặc nghe người ta nói. Như vậy, nếu ai nghiên cứu kỹ thì biết lối xuất hồn chỉ là một chặng trong phá sắc ấm. Như ngài Hư Vân có lần ngồi thiền trong căn nhà tối mà ngài thấy ở ngoài xa xa những người đi thuyền trên sông. Đây cũng là một trong những trạng thái này.

Lại dùng tâm ấy nghiên cứu tinh chuyên cùng cực, thấy hình thể thiện tri thức đổi dời, không có duyên cớ gì, trong chốc lát thay đổi thành nhiều thứ. Đây gọi là tâm tà, bị các loài ly mỵ hoặc các thiên ma vào trong tim trong bụng, họ tự nhiên nói pháp, thông suốt các diệu nghĩa, đó chẳng phải là chứng thánh. Không khởi tâm cho là chứng thánh thì ma sự tự tiêu dứt. Nếu nghĩ là chứng thánh liền rơi vào các thứ tà.

Có một lần, tôi nghe nói có một hai vị tu lâu ngày theo cách gì đó, khi có người gặp họ, thấy trong ngày họ thay đổi hình dáng nhiều lần, có lúc thấy họ đỏ hồng, khi thì trắng bạch, lúc khác thì đổi khác, nói pháp rất lưu loát, ai thấy cũng phục. Nếu mình nghe vậy tin phục, xin làm đệ tử, đó là lạc vào đám tà. Như vậy, việc này là bên ngoài, do khi tu, sức nghiên cứu tinh chuyên của mình phát ra khiến cho thấy những người như vậy. Khi thấy vậy, nếu không lầm là tốt, còn lầm là tai hại.

Này A-nan, mười thứ cảnh hiện ra trong lúc tu thiền như vậy đều do sắc ấm và dụng tâm xen lẫn nên mới hiện ra những việc ấy. Chúng sanh mê lầm không tự suy xét, gặp những nhân duyên này, mê không tự biết, cho là chứng quả thánh, thành tội đại vọng ngữ, rơi vào địa ngục Vô gián.

Kể ra có mười thứ chỉ trong một giai đoạn phá sắc ấm mà hiện ra như vậy. Những cảnh thấy trong khi tu, là do sức dụng công phá dẹp sắc ấm. Nói phá sắc ấm, chẳng qua là do tâm thanh tịnh, vượt qua sắc ấm thì có những ma cảnh hiện ra, nếu biết thì không có lỗi gì.

Sau khi Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp, các ông phải y theo lời chỉ dạy tuyên bày nghĩa này, không để cho thiên ma được cơ hội quấy phá. Phải bảo vệ che chở những người tu hành thành tựu đạo Vô thượng.

Như vậy mười thứ ma này có thật là ma không? Nếu biết tức là cảnh giới lành, còn lầm nó mới gọi là ma. Vậy thì đó không hẳn là ma, mà do công phu của mình phát ra. Biết rõ do công phu phát ra tức không lầm, đi qua được một chặng đường là tốt. Còn nếu không biết, tự cho là chứng đắc mới rơi vào ma.

Vậy ma hay không phải mà là tùy mình biết hay không biết. Muốn biết thì phải học. Nhiều người không chịu học, chỉ muốn cố gắng tu, nên đa số những người tu lâu mà không biết đều dễ lạc trong mấy thứ ma này. Công phu càng nhiều càng lạc sâu, rốt cuộc thành tai hại. Có lắm người tu, một thời nổi tiếng như cồn, ai nghe cũng nể phục, nhưng thời gian sau lại rơi đường tà.

Vậy nên chúng ta tu phải học cho thông suốt. Phật đã chỉ kỹ càng, chúng ta phải nhớ đâu đó rành rẽ, biết rõ đường đi, nếu không biết thì dễ đi lạc. Chúng ta cần biết đường để tu, đồng thời để hướng dẫn người khác. Bởi vậy nên tôi bắt quý vị phải nhớ đại cương, vì đây là những điều thiết yếu của sự tu, không khéo nguy hiểm cả một đời tu của mình. Trong lúc tu thiền, khi thấy những ma cảnh đó chúng ta đâu kịp giở kinh đối chiếu, vừa vội mừng là đã bị kẹt rồi. Vậy nên phải nhớ những điểm then chốt này, nếu lầm sẽ tai hại lớn chứ không phải nhỏ.

Như vậy ma ở ngoài không quan trọng, mà trọng tâm là ma ở trong. Phá mỗi ấm có mười thứ ma, năm ấm có năm mươi thứ ma, không phải là ít. Qua được năm mươi thứ rồi, mới là yên ổn.

2. Thọ ấm

Này A-nan, người thiện nam kia trong khi tu Chỉ Quán, sắc ấm đã hết, thấy tâm chư Phật như trong gương sáng hiện rõ các hình tượng. Nếu có sở đắc mà chưa dùng được, cũng như người bị bóng đè, tay chân vẫn y nguyên, thấy nghe không sai lầm, nhưng vì tâm bị khách tà nên không thể cử động được. Đây gọi là phạm vi của thọ ấm.

Nếu hết bị bóng đè, tâm người kia lìa khỏi thân, trở lại xem thấy được cái mặt, đi đứng tự do không còn bị lưu ngại, ấy gọi là thọ ấm hết. Người này ắt hay siêu việt kiến trược, xem lại nguyên do của nó thì vọng tưởng hư minh là cội gốc.

Lúc còn trong phạm vi thọ ấm thì thấy biết tâm Phật mà chưa dùng được, giống như người bị bóng đè, biết hết mà không cựa động được, thành ra phải chịu áp lực của nó.

Giai đoạn kế là ra khỏi thọ ấm, tức là vượt ra khỏi hình thức bị bóng đè. Lúc đó tâm ra khỏi thân, thấy được cái mặt của mình, đi lại tự do không chướng ngại. Đây gọi là thọ ấm hết, tức vượt ra khỏi kiến trược. Khi vượt ra khỏi rồi, xem lại nguyên do ở trong vòng thọ ấm này, thì thấy do vọng tưởng hư minh (rỗng sáng) làm gốc.

Đó là vọng tưởng sáng mà hư dối là rỗng, không có thật. Ví dụ như mắt tai mũi lưỡi thân chúng ta xúc chạm với sắc thanh hương vị xúc, Khi xúc chạm, các cảm thọ rõ ràng. Cái biết rõ đó là biết của vọng tưởng hư dối chứ không có thật, cho nên thọ không thật, thọ rồi liền mất. Mùi hương qua lỗ mũi, mình cảm nghe thơm, nhưng mùi hương thoảng qua rồi mất chứ không còn hoài. Như vậy, có cảm thọ rõ ràng nên gọi là minh, nhưng nó không có thật thể, qua rồi mất nên gọi là hư, đều thuộc về vọng tưởng.

Này A-nan, người thiện nam kia chính khi ở trong đó được rất sáng suốt, tâm kia phát minh do bên trong đè nén quá phần, từ nơi ấy chợt phát lòng thương vô cùng. Như thế cho đến xem thấy ruồi muỗi cũng thương như con đỏ, tâm sanh thương xót, bất giác rơi lệ đầm đìa. Đây gọi là dụng công đè ép quá mức, nếu tỉnh ngộ thì không lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu biết rõ ràng không lầm thì lâu dần tự hết. Nếu khởi nghĩ là chứng thánh ắt có ma bi nhập vào tim gan, thấy người thì thương xót khóc lóc không dừng, mất đi chánh định, sẽ bị trầm luân.

Người này thấy gì cũng thương cũng khóc, nếu không biết tưởng đó là phát tâm Bồ-đề nên mới thương chúng sanh như vậy. Rồi lầm tưởng mình đạt đạo, thành Bồ-tát, không ngờ đó là bệnh.

Mới thấy qua, mọi người sẽ cho người này là quá tốt vì thấy người thấy vật đều thương. Tốt quá mà sao phải trầm luân? Bởi vì bi thương đó khiến ngồi thiền không yên, làm mất tâm chánh định của mình, chánh định mất đi thì sẽ đi vào trầm luân.

Này A-nan, lại những người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm được rõ ràng, tướng tốt hiện ở trước, cảm kích quá phần, bỗng ở trong đó sanh ra dõng mãnh vô hạn. Tâm kia mạnh mẽ nhạy bén, ý chí bằng với chư Phật, cho rằng chỉ một niệm có thể vượt qua ba vô kiếp. Đây gọi là dụng công lấn ép thái quá, tỉnh ngộ thì không lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Hiểu rõ không lầm, lâu rồi tự tiêu mất. Nếu khởi nghĩ là chứng thánh ắt bị ma cuồng nhập vào tim gan, thấy người thì khoe khoang, ngã mạn không ai sánh bằng. Tâm người kia, cho đến trên không thấy có Phật dưới không thấy có người, mất đi chánh định, sẽ rơi vào vòng trầm luân.

Trước là ma Bi, đây là ma Cuồng. Do sức tu của mình dằn ép quá phần, bỗng nhiên có thắng tướng hiện tiền, sự cảm kích quá mức đó làm phát sanh sức dõng mãnh phi thường. Phật nói tu ba vô số kiếp mới thành Phật, nay trong một niệm mà mình vượt qua được, tưởng như mình là người phi thường. Nếu không biết, tự cho là chứng thánh thì sanh tâm ngã mạn, trên không thấy có Phật để kính, dưới không thấy có người có thể bằng mình. Đó là bệnh lớn gọi là ma cuồng.

Như vậy, dõng mãnh tinh tấn là điều tốt, nhưng khi quá phần sẽ có những tướng lạ. Nếu không biết, tưởng là chứng thánh liền thành bệnh. Cái lỗi là do không biết nên lầm, cho là mình đạt đạo, chứng thánh, nếu biết rõ đây chỉ là do sức dằn ép quá phần mà hiện ra thì từ từ nó tiêu mất. Cho nên tu cần có kinh nghiệm chín chắn, phải bình tĩnh trước mọi cảnh, không nên chỉ mới được chút ít liền mừng hoặc hoảng sợ, đó là gốc của bệnh.

Lại, những người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, phía trước không có chỗ chứng mới, lui lại thì đã mất chỗ cũ, trí lực yếu kém, vào trong chỗ tiêu diệt, bặt không thấy gì, trong tâm chợt sanh rất khô kiệt. Trong tất cả thời, cái nhớ thầm lặng không mất, cho đây là tưởng tinh tấn. Đây gọi là tu tâm mà không có trí tuệ nên tự lầm. Nếu tỉnh ngộ thì không lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi nghĩ là chứng thánh ắt có ma nhớ nhập vào tim gan, sớm chiều nắm cái tâm treo ở một chỗ, làm mất chánh định, sẽ rơi vào vòng trầm luân.

Chỗ này mới gian nan, phía trước tiến tới không được mà lùi lại sau thì chỗ chứng cũ mất rồi, tâm khô như cây như đá, chìm trong cái nhớ thầm lặng không tan, lại cho đây là tướng siêng năng tinh tấn. Đó là hiểu lầm. Thật ra đây chỉ là một chặng đường, do tâm bị khô kiệt rồi hiện ra tướng trạng đó, gọi là tu tâm mà không có trí tuệ nên tự lầm, hiểu rõ thì không có lỗi gì.

Lại, những người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, sức tuệ vượt quá sức định, bị lỗi mạnh mẽ bén nhạy, ôm ấp các tánh thù thắng trong lòng, tự tâm đã nghi mình là Phật Lô-xá-na, được ít cho là đủ. Đây gọi là dụng tâm quên mất chỗ thường xét nét kỹ càng, chìm ở nơi tri kiến. Nếu tỉnh ngộ thì không có lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi nghĩ là chứng thánh, ắt có ma hạ liệt dễ biết đủ nhập vào tim gan. Thấy người thì tự nói tôi được Vô thượng đệ nhất nghĩa đế, mất hết chánh định, sẽ rơi vào trầm luân.

Từ tuệ nhiều hơn định mà sanh ra các việc như vậy. Do không có sự xét nét kỹ càng, lầm tưởng mình là Phật Lô-xá-na tức là báo thân Phật, mới được chút ít cho là đủ. Đó là bệnh lớn, hợp với con ma hạ liệt dễ biết đủ.

Lại, những người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, chỗ đứng mới chưa được còn tâm cũ đã mất. Xem qua hai mé trước và sau, tự cho là nguy hiểm, tâm chợt sanh lo buồn vô tận, như ngồi trên giường sắt, như uống thuốc độc, tâm không muốn sống nữa, thường nhờ người khác hại mạng mình để sớm được giải thoát. Đây gọi là tu hành lạc mất phương tiện. Nếu tỉnh ngộ thì không lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi nghĩ là chứng thánh ắt có một phần ma thường ưu sầu nhập vào tim gan. Tay cầm dao bén tự cắt thịt mình, thích bỏ thân mạng hoặc thường ưu sầu chạy vào trong rừng núi, không muốn thấy người, mất hết chánh định, sẽ rơi vào vòng trầm luân.

Bệnh này có hai trạng thái: Một là muốn mượn người khác giết mình cho chết để được giải thoát. Hai là buồn chán tột độ, không thích thấy ai nữa, chỉ ưa một mình nên muốn chạy vô rừng núi ở.

Vậy, thỉnh thoảng có người đang tu học bỗng muốn vô rừng ở một mình, không muốn gặp ai. Người này thấy ai cũng phàm tục, chỉ có mình là thánh, sợ ở chung với kẻ phàm rồi bị nhiễm, nên muốn lên rừng ở một mình. Người tu lâu lâu có bệnh đó. Nên nhớ mình chưa phải là thánh, vô rừng ở một thời gian rồi đói quá cũng phải bò ra kiếm ăn! Lúc ấy, do đói nhiều năm, nên ăn nhiều hơn người khác nữa. Thành ra điều đó không tốt gì đâu! Vậy nên cố gắng tu trong bình thường, giản dị mà luôn tiến là tốt.

Lại, những người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, ở trong chỗ thanh tịnh, sau khi tâm được an ổn bỗng tự sanh vui vẻ vô hạn, trong tâm vui mừng không thể tự dừng. Đây gọi là khinh an mà không có trí tuệ để tự kìm chế. Tỉnh ngộ thì không có lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi nghĩ là chứng thánh ắt có một phần ma ưa hỷ lạc vào trong tim gan. Thấy người liền cười, ở bên cạnh ngã tư đường tự ca tự múa, tự bảo đã được vô ngại giải thoát, mất hết chánh định sẽ rơi vào dòng trầm luân.

Thỉnh thoảng chúng ta có thấy những người tu kiểu đó. Họ tưởng mình đã được giải thoát vô ngại, đi tới đâu cũng ca múa hát xướng, không biết đó là bị ma hỷ lạc nhập vào.

Lại, những người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, tự cho là đã đủ, chợt vô cớ sanh khởi đại ngã mạn, như thế cho đến mạn cùng quá mạn cùng quá mạn và mạn quá mạn, hoặc tăng thượng mạn, hoặc ty liệt mạn, đồng thời đều phát.

Đại ngã mạn là trên không thấy Phật để kính, dưới không thấy có chúng sanh bằng mình. Mạn là ỷ mình hay mà khinh người, lấn lướt người. Quá mạn là mình có tài năm mươi phần trăm, người kia cũng có tài y vậy mà tưởng mình hơn họ; bằng người ta mà tưởng hơn nên gọi là quá mạn. Mạn quá mạn là người khác có tài năm mươi phần trăm mình chỉ ba mươi phần trăm mà tưởng mình tới bảy mươi phần trăm, nghĩa là kém hơn người mấy phần mà tưởng mình cao hơn người.

Tăng thượng mạn là được ít mà tưởng là đủ, ví dụ mình tu mới tới phá thọ ấm mà tưởng như mình thành Phật rồi. Ty liệt mạn là kẻ không ra gì mà thấy ai cũng coi họ không ra gì, nghĩa là mình thấp kém mà lại khinh thiên hạ, kiêu căng phách lối. Người bệnh này trong thiên hạ hết xài được, đã thua kém hết thảy mọi người mà lại tưởng hơn. Tất cả các bệnh trên, chúng sanh thường mắc kẹt.

Trong trường hợp này, người ở trong định kia có đủ hết các thứ mạn nên nói đồng thời đều phát.

Trong tâm còn khinh cả chư Phật mười phương, huống là những quả vị dưới như Thanh văn Duyên giác. Đây gọi là chỗ thấy thù thắng mà không có trí tuệ tự cứu. Nếu tỉnh ngộ thì không có lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi nghĩ là chứng thánh, ắt có một phần ma đại ngã mạn vào trong tim gan. Không chịu lễ chùa tháp, phá hủy kinh tượng, nói với những người cư sĩ rằng: “Những tượng này là vàng, đồng hoặc là đất, cây; kinh là lá cây hoặc là vải lụa. Xác thân là chân thường mà không tự cung kính, lại sùng mộ đất, cây, thật là điên đảo.” Những người quá tin lời kia, theo đó phá hủy kinh tượng, chôn vùi trong đất. Do làm nghi lầm chúng sanh, bị vào địa ngục Vô gián, mất hết chánh định, sẽ rơi vào trầm luân.

Những người quá ngã mạn, họ cho mình là trên, cho nên đối với Phật, đối với chùa không coi ra gì. Tượng Phật họ cho đó là đồng là đất là xi-măng là cây v.v… kinh cũng vậy, cho nên không trọng Phật không trọng kinh. Phật tử nghe họ nói cũng bắt chước theo, như vậy đó là làm nghi lầm chúng sanh, mất đi chánh định sau phải trầm luân. Thật là tai hoạ! Nên khi thấy ai có điều kỳ đặc, lại nói lời giống như thế, chúng ta biết rõ đó là ma. Đừng thấy có thần thông hay thấy những chuyện lạ của họ mà vội tin. Họ luôn luôn có những điều lạ, hiện ra những thứ khác thường để làm cho người lầm lẫn.

Lại nữa, những người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, trong chỗ thuần sáng viên ngộ được tinh lý, được đại tùy thuận. Tâm kia chợt sanh vô lượng khinh an, tự nói đã thành thánh, được đại tự tại. Đây gọi là nhân nơi tuệ mà được sự trong sáng nhẹ nhàng. Nếu tỉnh ngộ thì không có lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi hiểu là chứng thánh ắt có một phần của ma ưa trong sáng nhẹ nhàng vào trong tim gan, tự cho là đầy đủ, lại không cầu tiến lên. Những người này phần nhiều là những thầy Tỳ-kheo ít học, làm nghi lầm chúng sanh, đọa địa ngục A-tỳ, mất đi chánh định, sẽ rơi vào dòng trầm luân.

Tinh minh là thuần trong sáng. Ma thứ tám này là ma ưa trong sáng nhẹ nhàng. Nếu lầm cho là chứng thánh thì bị ma nhập vào tim gan, ngang đó tự cho là đã đầy đủ rồi, không cầu tiến lên bước nào nữa.

Lại nữa, những người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, trong chỗ tỏ ngộ được tánh rỗng sáng. Trong ấy bỗng dưng xoay hướng về sự hằng đoạn diệt, bác không có nhân quả, một bề vào rỗng không. Tâm rỗng không hiện tiền, cho đến tâm sanh chấp đoạn diệt mãi mãi. Nếu tỉnh ngộ thì không có lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi hiểu là chứng thánh, ắt có ma rỗng không vào trong tim gan, bèn chê bai người trì giới gọi là Tiểu thừa, còn Bồ-tát ngộ lý không thì có gì mà trì phạm?

Người kia thường ở nơi nhà người cư sĩ có tín tâm, ăn thịt uống rượu, làm những chuyện dâm uế. Vì sức ma nhiếp phục nên người chủ nhà không sanh nghi ngờ chê bai. Tâm quỷ nhập lâu rồi thì hoặc ăn phẩn dơ cùng với ăn thịt uống rượu v.v… đều cho là không, phá luật nghi của Phật, làm lầm lạc đưa người vào chỗ tội lỗi, mất hết chánh định, sẽ rơi vào vòng trầm luân.

Đây nói về những người tu chấp không, chấp đoạn diệt, bác không có nhân quả, chê bai người trì giới nên cứ ăn thịt uống rượu, làm việc dâm dục, vậy mà một số tín đồ vẫn tin theo. Chúng ta thấy lạ quá, cư sĩ giữ năm giới còn không làm các điều đó, những người này xuất gia lại làm những việc xấu ác như vậy. Nếu biết lý do thì không có gì lạ, đó là vì sức ma nhiếp phục, ma khiến được người ta, tuy thấy như vậy mà nhiều người vẫn tin, vẫn kính trọng như thường.

Lại nữa, những người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, được vị rỗng sáng thâm nhập vào tận tim cốt. Người kia chợt sanh tâm ái vô hạn. Ái quá độ nên phát cuồng, liền làm những việc tham dục. Đây gọi là cảnh định an thuận vào trong tâm, không có trí tuệ để tự gìn giữ, lầm mê vào trong các dục. Nếu tỉnh ngộ thì không có lỗi, chẳng phải là chứng thánh. Nếu khởi hiểu là chứng thánh, ắt có ma dục vào trong tim gan, một bề nói dục là đạo Bồ-đề, giáo hóa những người cư sĩ bình đẳng hành dục, người hành dâm kia gọi là người giữ gìn chánh pháp.

Những người lầm lạc vào trong các dục, họ bảo cư sĩ làm chuyện dâm dục để có con tiếp nối giữ gìn chánh pháp, nên gọi là trì pháp tử. Như khi họ thấy cần cưới vợ, người ta hỏi tại sao thầy tu mà cưới vợ, đáp là để sanh con cái gìn giữ chánh pháp, họ sợ mình chết rồi không có người tiếp nối duy trì pháp Phật. Lý luận của họ nghe thật trái đời, vậy mà thiên hạ vẫn tin.

Do sức của quỷ thần, nhiếp phục những kẻ phàm ngu trong đời mạt pháp, số đến cả trăm. Như thế cho đến một trăm hai trăm hoặc năm sáu trăm, còn nhiều thì cả ngàn muôn người. Khi tâm ma sanh chán, nó rời bỏ thân thể người kia, oai đức đã không còn, rơi vào nạn pháp luật. Vì làm nghi lầm chúng sanh nên vào địa ngục Vô gián, mất hết chánh định, sẽ rơi vào vòng trầm luân.

Những điều này thật là đáng sợ. Tu là việc rất hay nhưng lệch một chút là xuống địa ngục. Vì lầm không biết nên bị ma nhập, tự làm những điều tà quấy, lại dạy người khác làm, đó là tội đọa địa ngục. Cho nên tu mà không cẩn thận thì rất nguy hiểm.

Thật ra trong khi tu do dụng công nhiều nên có những trạng thái bất thường hiện ra. Người tu phải có trí tuệ sáng suốt, khi có điều gì bất thường hiện ra phải tự biết kìm chế nó lại, để tâm được an định. Định và tuệ cân bằng thì sự tu mới tốt, nếu có một thứ vượt bậc, mất thăng bằng dễ lạc vào ma. Bởi không tự kìm chế được nên ma mới mới dựa vào, thúc đẩy người tu đi sâu vào tội lỗi.

Do đó, nói tới sự tu tôi rất dè dặt, quý vị phải nghe cho rõ, học cho kỹ để biết. Bởi vì bản thân tôi tuy là thầy, nhưng chưa qua hết những địa vị đó, làm sao tôi nói hết được. Chúng ta phải nhờ chư Phật tổ đã tu đã chứng qua, biết rõ các bệnh rồi dạy lại. Nên mình phải học, nghe kỹ thì khi tu mới khỏi lầm. Nếu chỉ học chút ít tưởng là đủ, tới chừng tu gặp những cảnh ma này, không biết tưởng là mình đắc đạo. Lại hướng dẫn người khác đi sai, tự mình đọa lại khiến cho người khác đọa theo, đó là tội rất lớn. Vì vậy phải cẩn thận dè dặt, đừng có khinh thường.

Này A-nan, mười thứ cảnh hiện ra trong lúc tu thiền định như vậy, đều do thọ ấm và dụng tâm xen lẫn nên mới có những việc này. Chúng sanh ngu mê không tự xét lường, gặp những nhân duyên này, mê lầm không tự biết, cho rằng mình đã lên quả thánh, thành đại vọng ngữ, phải rơi vào địa ngục Vô gián.

Sau khi ta diệt độ, ở trong đời mạt pháp, các ông cũng nên đem lời nói của Như Lai truyền dạy, khiến khắp chúng sanh khai ngộ được nghĩa này, không để cho thiên ma được dịp khuấy phá. Phải bảo vệ gìn giữ che chở cho những người tu hành được đạo Vô thượng.

Đó là lời Phật nhắc nhở chúng ta phải ráng đem lời ngài chỉ dạy truyền lại cho những người sau, đừng để họ lầm lẫn.

Tóm tắt mười loại ma của thọ ấm là: ma bi, ma cuồng, ma nhớ, ma hạ liệt dễ biết đủ, ma thường ưu sầu, ma ưa hỷ lạc, ma đại ngã mạn, ma ưa khinh an, ma không và ma dục.

3. Tưởng ấm

Trong phạm vi sắc ấm và thọ ấm thì ma nhập vào tâm của người tu. Đến tưởng ấm ma không nhập vào tâm nữa mà dựa vào một người khác để gạt mình. Đây là trường hợp người ngoài làm cho mình tin và bị họ gạt. Nếu chúng ta không khéo biết thì cũng rất dễ lầm tin.

Này A-nan, người thiện nam kia tu thiền, thọ ấm đã hết, tuy chưa được lậu tận mà tâm rời khỏi hình hài như chim bay ra khỏi lồng. Đã có thể thành tựu từ thân phàm này, trên thì trải qua sáu mươi vị Thánh của Bồ-tát, được ý sanh thân, tùy qua lại không chướng ngại. Ví như có người ngủ say nói mớ, người ấy tuy không hay biết mình nói gì, nhưng lời kia đã thành âm vận thứ lớp, khiến cho những người không ngủ đều hiểu được lời nói đó. Đây gọi là phạm vi của tưởng ấm.

Khi đã vượt qua thọ ấm, còn ở trong tưởng ấm, tâm mình thoát ra khỏi thân tự do như chim sổ lồng, cho nên được ý sanh thân tự tại, dễ dàng tiến lên các vị thánh, nhưng trải qua trong mê lầm chứ chưa sáng tỏ như các bậc thánh. Thấy như tự do tự tại mà chưa thật được vậy, giống như người ngủ mê nói mớ, nói thành câu thành lời rõ ràng mà họ không có ý thức gì, nhưng người ở ngoài nghe thì biết. Đó là hình ảnh lúc còn trong phạm vi của tưởng ấm.

Nếu hết động niệm, các tưởng thô phù tiêu trừ, nơi tâm giác minh như bỏ trần cấu, một vòng sanh tử đầu cuối đều soi sáng khắp, gọi là hết tưởng ấm. Người ấy hẳn có thể vượt khỏi phiền não trược. Xét lại nguyên do của tưởng ấm, cội gốc là vọng tưởng dung thông.

Năm ngón trực đều từ vọng tưởng mà ra. Trong năm ấm, phá mỗi ấm cũng đều thấy gốc từ vọng tưởng. Cội gốc của tưởng ấm là vọng tưởng dung thông. Vọng tưởng khi đã thuần thục rồi thì dung hợp với nhau không chướng ngại. Đây cũng còn thuộc vọng tưởng, nên nói còn ở trong phạm vi tưởng ấm, dường như là được tự tại mà chưa tự tại. Đến khi tất cả động niệm và các tưởng thô đều hết, sạch hết trần cấu, nhìn thấy dòng sanh tử đầu cuối đều biết rõ, đó là qua khỏi tưởng ấm.

Này A-nan, người thiện nam kia thọ ấm rỗng suốt linh diệu không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong chánh định, tâm ưa được sáng suốt tròn đầy, suy nghĩ bén nhạy, tham cầu thiện xảo. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần của nó gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy không biết là bị ma dựa, tự cho được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu thiện xảo kia, trải tòa nói pháp. Hình dáng người ấy, nếu cần thì hoặc làm thân Tỳ-kheo khiến cho người kia thấy, hoặc làm thân Đế-thích, hoặc phụ nữ hoặc Tỳ-kheo-ni, hoặc nằm trong nhà tối mà thân có hào quang chiếu sáng. Người tu hành ngu mê lầm cho là Bồ-tát, tin vào sự giáo hóa của người ấy, làm cho tâm họ dao động, phá luật nghi của Phật, lén làm việc tham dục.

Những việc này rất dễ lầm, thật khó xét lường. Nếu muốn xét lường. Nếu muốn xét lường thì chúng ta phải lấy tiêu chuẩn gì để xét? Họ muốn biến hiện gì thì hiện nhưng nếu họ nói bậy, làm việc tham dục thì nhất định không tin. Như vậy, người tu ấy từ chỗ hay đi lần tới dở, do tâm phóng đãng, dao động nên phá luật nghi của Phật, làm những chuyện tham dục. Sở dĩ ma phá được là vì người tu ấy tuy tưởng thô không còn, nhưng niệm tưởng vi tế vẫn còn dấy lên tham cầu. Đó là yếu điểm cần phải biết.

Miệng người ma dựa ưa nói những việc tai họa, điềm lành, đổi thay. Hoặc nói Như Lai ra đời chỗ này chỗ nọ, hoặc nói về kiếp hỏa hoặc nói có dao binh, làm khủng bố người khiến cho tiền của trong nhà họ vô cớ bị hao tán.

Gần đây có ông Đạo làm chiếc thuyền Bát-nhã. Ông nói sẽ có trận hồng thủy, nước ngập đầy, mọi người đều sẽ chết chìm. Ông đóng chiếc thuyền Bát-nhã đó, để khi có nạn ông chèo đi vớt người. Nhiều người nghe ông nói như vậy tin và sợ, bỏ nhà bỏ của đi ra cất nhà dọc theo cồn, để khi có nạn hồng thủy leo lên thuyền Bát-nhã cho sớm. Họ đã bỏ hết gia tài sự nghiệp để ra đó chờ được cứu sống, đến giờ nơi đó có xảy ra trận hồng thủy nào đâu!

Đó là những trường hợp ma dựa, nói những điều làm cho người ta hoảng hốt lo sợ. Thoạt nghe thì có vẻ như là ông Đạo khuyến khích mọi người tu, nói cho họ sợ để lo tu, nhưng ngược lại làm phá tan sự nghiệp của người. Do không biết nên bản đạo khi nghe những lời tiên tri đó liền sợ hãi. Họ đang làm ăn, có nhà cửa ruộng vườn, bỗng nhiên bỏ hết ra cồn ở, khiến gia nghiệp tiêu tan. Con người vốn sợ chết, nghe nói ai cứu là mừng, tốn hao bao nhiêu cũng không màng. Điều đáng lo là vì mọi người nghĩ ông Đạo kia tu khổ hạnh, tu hay… nên lầm tin theo, đưa đến những tai hại đáng tiếc.

Thật ra, trong kinh đức Phật có dạy, người tu không được nói chuyện tai biến của một đất nước, một cá nhân hay một gia đình. Ví như mình biết trước chuyện có thể xảy ra, cũng không có quyền nói. Tại sao? Vì tai nạn có đến là do nhân quả của họ. Nhân họ đã gieo thì quả họ phải chịu. Mình nói trước tức muốn sửa đổi nhân quả của họ, nhưng làm sao có thể đổi được. Như ngày xưa đức Phật biết vua Lưu-ly qua đánh giết dòng họ Thích-ca, nhưng ngài cũng không thể cứu được. Ngài Mục-kiền-liên thương xót, cứu năm trăm người để trong bát đưa lên hư không, nhưng khi mở ra tất cả đều hóa thành máu.

Vậy nói ra không có lợi gì, chỉ làm cho họ bị khủng bố, khổ sở thêm. Sách Nho thường gọi là “thiên cơ bất khả lậu”, nghĩa là việc trời không thể thổ lộ được. Nếu nói ra là “lậu thiên cơ”, sẽ bị hình phạt. Đứng về mặt nhân quả thì tất cả những gì xảy ra trên một đất nước, một địa phương cũng đều là do nghiệp, nên khi mình biết, chỉ có thể cứu họ bằng cách dạy họ tu để chuyển nghiệp. Nếu họ không tự chuyển được thì đành chịu.

Đây gọi là Quái quỷ, tuổi già thành ma làm não loạn người tu. Khi tâm ma chán rồi, nó bỏ thân người, đệ tử cùng thầy đều phạm vào luật vua.

Tới chừng ma chán, bỏ thân người không gá nữa, do lường gạt người khác nên thầy trò phải ngồi tù. Thời hiện tại, chúng ta thấy rõ đã có những điều như vậy.

Các ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.

Bệnh thứ nhất của người tu trong giai đoạn phá tưởng ấm là tham cầu thiện xảo. Chúng ta học Phật phải nắm cho vững những điều này, đừng để bị lầm bị gạt. Chúng ta đang tu bình an, nếu  nghe có ai bảo sẽ có tối trời tối đất, tận thế… thì biết là ma đang dựa vào người đó, nói cho mình sợ, làm cho mình phải hao tài tốn của. Như có một bà khá giả, có nhà cửa ruộng vườn. bà nghe nói chỉ trong năm, mười năm nữa “đời tới” rồi. Bà hoảng sợ, không dám làm ăn gì cả, cất cái thất nhỏ ở đó chờ “đời tới”. Nhưng đời không tới mà sự nghiệp thì tiêu hết. Đó là ma quái gạt người. Những lời tiên tri dối gạt này, được nghe rất nhiều người, đừng vội lầm tin.

Này A-nan, lại người thiện nam kia thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong chánh định, tâm ưa dạo chơi lang thang, tinh thần bay đi, tham cầu ngao du nơi này nơi kia. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần của nó gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy cũng không biết là mình bị ma dựa, tự cho rằng được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam muốn dạo chơi kia, trải tòa nói pháp.

Tự thân hình người ấy không biến đổi, nhưng những người nghe pháp kia chợt thấy thân mình ngồi trên tòa sen báu, toàn thân thành khối vàng tía rực rỡ. Cả chúng nghe pháp mỗi mỗi đều như thế được việc chưa từng có. Người tu hành ngu mê lầm là Bồ-tát, tâm sanh dâm dật, phá hoại luật nghi của Phật, lén làm những điều tham dục.

Miệng người ma dựa ưa nói chư Phật ứng hóa ra đời; ở chỗ kia, người kia chính là hóa thân đức Phật kia đến đây; người nọ tức là vị Bồ-tát nọ… đến giáo hóa nhân gian. Người tu hành thấy thế tâm sanh khát ngưỡng, tà kiến thầm dấy lên, giống trí tuệ bị tiêu diệt. Đây gọi là Bạt quỷ, tuổi già thành ma làm não loạn người tu kia. Khi tâm ma đã nhàm chán, nó bỏ thân thể người, đệ tử với thầy đều phạm vào luật vua. Các ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ roi vào địa ngục Vô gián.

Như gần đây, có tin đồn đức Phật Di-lặc ra đời là một chú bé mập mạp ở xứ nào đó; hoặc nói có Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí thị hiện ở đâu đó. Người tu nghe thấy vậy kính trọng quá, lần lần tâm tà càng ngày càng tăng, trí tuệ từ từ tiêu mòn. Đây là do tâm ưa dạo chơi lang thang, để biết chỗ này chỗ kia, rày đây mai đó, không yên ở tu hành.

Lại, người thiện nam kia thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong chánh định, tâm ưa thầm hợp, lóng lặng tinh thần, tham cầu khế hợp. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy thật không biết bị ma dựa, cũng nói mình được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu thầm hợp kia, trải tòa nói pháp.

Thân hình người ấy và những người nghe pháp kia, bên ngoài không có gì biến đổi, nhưng khiến cho những người nghe pháp, trước khi nghe pháp tâm tự khai ngộ, niệm niệm dời đổi, hoặc được túc mạng thông, hoặc có tha tâm thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc biết được các việc tốt xấu ở nhân gian, hoặc miệng nói kệ, hoặc tự tụng kinh. Mỗi người đều vui mừng được điều chưa từng có. Người tu hành ngu mê, lầm cho là Bồ-tát, tâm thầm ưa thích, phá luật nghi của Phật, lén làm những chuyện tham dục.

Miệng người ma dựa ưa nói Phật có lớn có nhỏ, Phật kia là Phật trước, Phật nọ là Phật sau… Trong đó cũng có Phật thật Phật giả, Phật nam Phật nữ, Bồ-tát cũng vậy. Người tu kia thấy vậy, quên mất tâm tu hành trước, dễ tin hiểu theo tà. Đây gọi là Mỵ quỷ, tuổi già thành ma não loạn người ấy. Khi tâm ma đã nhàm chán, nó bỏ thân người, đệ tử và thầy đều phạm bào luật vua. Các ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.

Trường hợp này người nghe pháp chưa nghe câu nào bỗng dưng tâm tự sáng. Lại có nhiều người vào chỗ ma, rồi tự nhiên phát ra những lời nói mà bình thường không hề biết. Do sức ma quá mạnh, khiến lúc đó nhớ được đời trước, hoặc liền biết tâm người khác, hoặc thấy địa ngục… hoặc miệng tụng những kinh mà trước đây mình không thuộc. Người ấy thấy mầu nhiệm như vậy, nên quên hết tâm tu hành trước kia đã qua được thọ ấm mà tin theo ma, khiến tâm kiên cố trước càng ngày càng bị lệch, càng phai nhạt, dễ tin hiểu theo tà.

Lại, người thiện nam kia thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong chánh định, tâm ưa biết cội gốc, xem xét cùng tột sự biến hoá trước sau của muôn vật, tâm sáng suốt kia tham cầu biện biệt phân tích.

Người này tâm ưa tìm lại cội gốc trước, muốn thấu tột thế giới từ đâu mà có, từ cái gì sanh ra… muốn phăn tìm cái gốc ban đầu đó.

Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, nó phóng tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy trước không biết mình bị ma dựa, cũng nói rằng mình được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu rõ nguồn gốc kia, trải tòa nói pháp. Người ấy thân có oai thần, nhiếp phục được người cầu pháp, khiến cho người ở dưới tòa tuy chưa nghe pháp mà tự nhiên tâm đã kính phục rồi. Những người ấy cho rằng pháp thân, Bồ-đề, Niết-bàn của Phật là trên xác thân hiện tiền của ta đây. Cha cha con con lần lượt mà sanh, tức là pháp thân thường trụ không mất. Đều chỉ cho hiện tại là cõi Phật, không riêng có cõi thanh tịnh và thân tướng sắc vàng nào khác.

Những người bị ma dựa kia cho pháp thân, Bồ-đề, Niết-bàn ở trên thân xác thịt hiện đây chứ không gì khác. Cứ cha sanh con, con sanh cháu, cháu sanh chắt, sanh tiếp tục mãi đời đời không dứt như vậy, cho đó là pháp thân còn hoài không mất. Họ nói vậy mà vẫn được thiên hạ tin.

Người kia tin nhận, quên mất tâm tu hành trước, thân mạng đều quy y nơi người ấy, cho rằng được việc chưa từng có. Những người tu hành ngu mê lầm cho là Bồ-tát, tâm ưa suy cứu kia, phá luật nghi của Phật, lén làm chuyện tham dục. 

Miệng người ma dựa ưa nói mắt tai mũi lưỡi đều là Tịnh độ, nam căn, nữ căn là chỗ chân thật Bồ-đề, Niết-bàn. Những người kia không biết, tin lời nói ô uế ấy. Đây gọi là các loài ác quỷ Cổ Độc, Yểm Thắng, tuổi già thành ma làm não loạn người tu hành. Khi tâm ma sanh nhàm chán, nó bỏ thân người, thì đệ tử và thầy đều phạm vào luật vua. Các ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.

Người kia, trước tu chân chánh nên vượt qua được sắc ấm và thọ ấm, nhưng tới đây họ tin vào những điều ma nói nên quên mất tâm trước đó, quy y theo ma.

Các loài quỷ Cổ Độc là các loài sâu cổ, quỷ Yểm Thắng tức là làm bùa yếm đối hại người. Các loài quỷ này, tuổi già thành ma hại người. Lâu nay người ta sợ quỷ hơn sợ ma vì nghĩ quỷ dữ hơn ma, ở đây nói có khác là thành quỷ lâu ngày mới thành ma. Đó cũng chỉ là ngôn từ thôi.

Lại, người thiện nam khi thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong chánh định, tâm ưa sự huyền ứng, nghiên cứu cùng khắp, tham cầu thầm cảm ứng. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy vốn không biết bị ma dựa, cũng nói mình được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu cảm ứng kia, trải tòa nói pháp, hay khiến cho thính chúng tạm thấy thân họ như đã trăm ngàn tuổi, tâm sanh ái nhiễm, không thể nào xa lìa được; đem thân làm tôi tớ, cúng dường tứ sự không biết mỏi mệt. Ma khiến cho tâm mỗi người dưới tòa đều biết đây là thiện tri thức, tiên sư của mình, riêng sanh pháp ái, dính khắn như keo sơn, được việc chưa từng có. Những người ngu mê ấy lầm cho là Bồ-tát, tâm ưa thân cận, phá luật nghi của Phật, lén làm những chuyện tham dục.

Miệng người ma dựa ưa nói: “Kiếp trước ta ở trong đời đó, trước độ người đó, lúc ấy là thê thiếp, anh em của ta, đời nay đến đây để độ nhau. Ta cùng với các ngươi theo nhau về thế giới kia, cúng dường đức Phật kia.” Hoặc nói riêng có cõi trời Đại quang minh, Phật ở trong đó là chỗ tất cả đức Như Lai nghỉ ngơi.

Những người kia không hiểu biết, tin lời lừa dối ấy, quên mất tâm tu hành trước. Đây gọi là Lệ quỷ, tuổi già thành ma não loạn người tu hành. Khi tâm ma nhàm chán, nó bỏ thân người, thì đệ tử và thầy đều phạm vào luật vua. Các ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.

Huyền ứng là muốn biết các việc chưa tới, muốn có sự ứng hợp từ xa đến giúp mình. Vậy mới thấy những loại ma này quá dữ! Trong nhà thiền có những câu chí lý: “Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma.” Chúng ta tu là để định tâm, phát huy trí tuệ, chứ không mong cầu điều gì bên ngoài. Nếu người bên ngoài tới nói là Phật mình cũng không nhận, nói là ma cũng không sợ, như vậy mới không lầm. Nếu còn cầu mong bên ngoài, mong Phật tới giáo hóa mình, mong Bồ-tát hiện để cứu rỗi thì dễ lạc vào ma.

Cho nên phải thật cẩn thận, có những người tu thấy không có gì đặc biệt, nhưng họ dạy mình phải giữ giới, dạy thực hành đúng luật nghi của Phật, nên biết đó là người chân chánh. Trái lại, người có thần thông cao tới đâu, nếu dạy mình bỏ những điều răn cấm quan trọng của Phật, đó là tà ma. Do đó ngày xưa Phật cấm các vị Thanh văn hiện thần thông, vì ngoại đạo cũng hiện được những phép lạ. Người tu Phật thì cứ dùng pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Nhân quả luân hồi, Lục độ… để dạy người, còn tất cả những thứ mầu nhiệm, lạ lùng đều không nên dùng.

Người tu thiền chân chánh, khi tu chỉ làm một điều là dứt hết mọi vọng tưởng điên đảo. Tâm yên tịnh thì trí tuệ tự sáng, tự nhận ra cái chân thật của chính mình. Ngoài ra, tất cả những gì bên ngoài đều không thừa nhận. Như vậy thì không bao giờ lầm. Trái lại nếu còn tin những thứ bên ngoài sẽ dễ bị gạt, bị hiểm nguy, có thể thầy trò đều rơi vào tai nạn. Vậy nên người học Phật phải khéo biết.

Lại, người thiện nam khi thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong chánh định tâm ưa thâm nhập khắc khổ siêng năng, ưa chỗ vắng vẻ, tham cầu yên tĩnh. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy vốn không biết bị ma dựa, cũng nói mình được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu yên lặng kia, trải tòa nói pháp, khiến những người nghe pháp đều biết được nghiệp trước của mình. Hoặc ở trong hội đó, nói với một người rằng: “Nay ông chưa chết mà đã làm súc sanh”, rồi bảo một người phía sau đạp cái đuôi, liền khiến người kia không đứng dậy được.

Điều này tôi cũng có nghe, có một người tu làm kiểu đó. Người nào tới, ông ấy nhìn một hồi rồi nói đời trước là gì, nếu không tin thì bảo người khác đứng sau đạp đuôi thử. Quả nhiên người ấy không đứng dậy được. Đó là do bị ma dựa mà làm ra như vậy. Nếu chúng ta không học để biết rõ cũng dễ bị lầm.

Khi ấy cả chúng đều hết lòng kính phục. Có người khởi tâm thì nó đã biết được ý móng khởi. Ngoài luật nghi của Phật, lại thêm sự khắc khổ, nó chê bai các thầy Tỳ-kheo, mắng nhiếc đồ chúng, vạch bày việc của người, không ngại sự chê trách.

Ví dụ có người vừa khởi nghĩ: “Không biết ông này tu thật hay giả đây?”, nó biết liền: “À, ông nói tôi giả phải không?” Người ma dựa làm ra vẻ tu hơn Phật. Như Phật dạy Tỳ-kheo ngày ăn một bữa, bây giờ nó nói như vậy cũng nhiều, một ngày chỉ ăn một chén thôi. Hoặc không được ăn cơm, phải ăn khoai, khắc khổ còn hơn Phật dạy, để cho mọi người kính phục. Do đâu mà dám chê bai Tỳ-kheo? Vì nó mỗi ngày chỉ ăn một chén cơm hoặc chỉ ăn khoai, nên nói: “Mấy ông thầy tham ăn, ăn nhiều, mấy ông tu lôi thôi, tôi mới là chân chánh.” Nếu đồ chúng tin theo các thầy Tỳ-kheo, liền bị nó mắng nhiếc. Ma ưa vạch bày những việc thầm kín của người, không ngại người ta tỵ hiềm.

Thật ra người tu chân chánh vẫn sống bình thường như mọi người. Chỉ khác là họ luôn gìn giữ giới luật, biết chuyển hướng những vọng niệm sai lầm, biết tu sửa, đó là điểm chính yếu. Đừng nên ham những hình thức lạ. Chúng ta phải hiểu rõ chánh và tà. Tà mau phát mau tàn, còn chánh thì cứ thầm thầm diệu diệu. Chánh là mỗi ngày mình tu gỡ được một ít phiền não, đó là giải thoát được một ít; lâu ngày phiền não sạch tức giải thoát hoàn toàn. Đừng mong cầu điều lạ, sẽ dễ lạc đường ma.

Miệng người ma dựa ưa nói những điều họa phước đến, đến khi họa phước xảy thì không sai sót mảy may. Đây là Đại lực quỷ, tuổi già thành ma não loạn người tu hành. Khi tâm ma nhàm chán, nó bỏ thân người thì đệ tử cùng với thầy đều phạm vào luật vua. Các ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.

Ma ưa nói chuyện họa phước của người. Ví dụ như nói người này ba tháng nữa mắc nạn, phải ở tù, thì đúng ba tháng người đó mắc nạn ở tù. Vậy làm sao không tin được! Người tu phải sáng suốt, biết để đừng lầm. Tuy nghe kinh biết rõ vậy, nhưng giả sử bây giờ có ma hiện việc lạ đó, quý vị có lầm không? Có thể lầm gần chín mười phần trăm. Vậy phải làm sao, có tiêu chuẩn gì để khỏi lầm? Tất nhiên người tu thiền phải có tiêu chuẩn riêng để không lầm, đó là Giới – Định – Tuệ.

Hễ người nào phá giới luật của Phật là ma. Như Phật dạy cấm tà dâm, cấm nói dối, cấm uống rượu v.v… mà người đó lại khen, chúng ta liền biết là ma. Chủ trương nhà thiền tu là định chứ không phải thần thông, từ định phát sanh trí tuệ. Những chuyện huyền bí ở bên ngoài không cần thiết với người tu thiền. Nếu chúng ta chạy theo những cái hay lạ bên ngoài là mất đi định tuệ của mình. Sở dĩ người tu bị lầm là vì không nắm vững những điều đó.

Theo nhà thiền thì “gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma”. Dù nó hiện Phật mình cũng không tin, đừng nói là ma. Tu không cầu Phật ở ngoài, tâm giác ngộ là Phật. Dù Phật tới xoa đầu mình cũng không nhận, làm sao ma gạt được. Sở dĩ bị gạt là tại ham những thứ lạ bên ngoài, tu ngồi thiền hoài cực quá, có ai cho mình kết quả mau và khỏe thì thích, chạy theo liền. Vậy nên ma dễ đánh lừa mình.

Lại, người thiện nam khi thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong chánh định, tâm ưa hiểu biết, siêng năng khổ nhọc xét tìm, mong cầu biết đời trước. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy vốn không hay biết bị ma dựa, cũng nói mình được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu hiểu biết kia, trải tòa nói pháp.

Người tu hành bỗng dưng ở chỗ nói pháp, được hạt châu lớn. Ma kia có khi hóa làm súc sanh, miệng ngậm hạt châu và các loại trân bảo khác, hoặc sắc lệnh phong tước của vua chúa, thẻ lệnh của quan tướng, các vật kỳ lạ, trước trao cho người kia, sau đeo vào trong thân. Hoặc dụ người nghe pháp ở dưới đất có chôn hạt châu minh nguyệt, đang chiếu sáng chỗ kia. Những người nghe pháp được việc chưa từng có. Phần nhiều ma ăn thuốc hoặc cỏ, không ăn những thức ăn ngon, có khi ngày ăn một hột mè hạt lúa mà thân hình nó vẫn béo mập, do vì sức ma gìn giữ. Ma chê bai các thầy Tỳ-kheo, mắng nhiếc đồ chúng, không sợ sự chê trách.

Ma ăn mỗi ngày một hột mè, hột bắp, ăn rất ít, sơ sài, không ăn thức ăn ngon mà vẫn mập

Miệng người ma dựa ưa nói kho báu chôn ở phương khác, hoặc chỗ ở ẩn của các bậc Thánh Hiền mười phương. Ai theo sau đi tìm thì thường thấy có những người kỳ dị.

Ví dụ ma nói trên núi Thị Vải có cái hang, hiện có ông thánh đang tu ở đó. Chúng ta không tin, nó bèn dẫn mình đi. Tới đó thấy một vị ẩn tu rất kỳ đặc, râu tóc phủ dài trắng xóa, làm sao không tin được. Cho nên người tu nếu không biết cội nguồn, cứ chạy theo hình tướng bên ngoài sẽ dễ lạc vào đường tà.

Đây gọi là quỷ thần ở rừng núi, đất đai, thành hoàng, sông núi, tuổi già thành ma. Hoặc ma nói những điều dâm dục, phá giới luật của Phật, nó cùng với những người phụng sự lén làm việc ngũ dục, hoặc có khi tinh tấn ăn toàn cỏ cây. Việc làm của nó không nhất định, cốt não loạn người tu hành. Khi tâm ma nhàm chán, nó bỏ thân người thì đệ tử và thầy phần nhiều phạm vào luật vua. Các ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.

Dựa lâu rồi ma cũng ló đuôi. Cách ma gạt gẫm là có khi nó rất khổ hạnh không ăn thức ăn ngon, có lúc lại cùng đồ đệ lén hưởng ngũ dục. Như vậy những loại ma này chúng ta nên vững chí không tin theo.

Lại, người thiện nam khi thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong chánh định, tâm ưa các thứ thần thông biến hóa, nghiên cứu nguồn gốc sự biến hóa, tham cầu có thần lực. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy vốn không hay biết bị ma dựa, cũng nói mình được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu thần thông kia, trải tòa nói pháp.

Người ấy hoặc tay cầm lửa sáng, nắm lửa đó đem phân phối trên đầu bốn chúng nghe pháp. Ngọn lửa trên đỉnh đầu những người nghe pháp, lên cao vài thước (thước tàu = 1/3m) cũng không nóng, không hề bị thiêu đốt. Hoặc ma đi trên nước như khi đi trên đất bằng, hoặc ở trong hư không ngồi yên không động, hoặc vào trong bình hoặc ở trong đãy, hoặc vượt ra cửa sổ, xuyên qua vách tường không có gì chướng ngại. Chỉ đối với đao binh thì ma không được tự tại.

Chúng ta thấy vậy có phục không? Như lửa cháy rực trên đầu mà tóc không cháy, không nóng, hoặc ngồi kiết già trong hư không, hoặc đi trên nước phao phao… Những điều đó, đối với các vị thiền sư thì chẳng có gì quan trọng cả. Như ngài Hoàng Bá một hôm đi dạo núi Thiên Thai, gặp một vị tăng nói chuyện với nhau như đã quen biết từ xưa, nhìn kỹ là người mục quang xạ. Hai người cùng đi, gặp khe suối nước đầy chảy mạnh, ngài giở mũ chống gậy dừng lại, vị tăng kia thúc ngài đồng qua. Ngài bảo:

– Huynh cần qua thì tự qua.

Vị tăng kia liền vén y, bước đi trên sóng như đi trên đất bằng. Qua đến bờ, vị tăng kia quay lại hối:

– Qua đây! Qua đây!

Ngài bảo:

– Ôi! Cái gã tự độ. Nếu tôi sớm biết, sẽ chặt bắp đùi huynh.

Vị tăng kia khen:

– Thật là pháp khí Đại thừa, tôi không bì kịp.

Nói xong, không thấy vị tăng ấy nữa.

Bây giờ nếu người cùng đi với mình bước trên nước qua sông, còn mình không đi được như vậy, mình có xấu hổ vì thua, có phục họ chăng? Ngài Hoàng Bá chẳng những không xấu hổ, không phục mà còn đòi chặt chân nữa! Như vậy mới thấy người chân tu là làm sao cho tâm mình thanh tịnh, trí tuệ giác ngộ sáng suốt, chứ không cốt ở thần thông, coi thần thông như trò chơi, không có gì quan trọng. Người mới tu thấy thần thông rất phục, nên khi thấy ma quỷ có sức thần thông, đi trên nước, ngồi trong hư không, chun trong bình, ngồi trong đãy, xuyên qua vách tường, cái gì nó cũng làm được, liền cảm thấy xấu hổ, cho là mình tu bao nhiêu năm mà không được gì hết, sanh lòng nể phục rồi theo làm đệ tử nó. Đó là lạc đường ma. Nguy hiểm như vậy!

Ma tự nói là Phật, thân mặc áo trắng mà nhận Tỳ-kheo lễ, chê bai Thiền Luật, mắng nhiếc đồ chúng, vạch bày việc của người mà không sợ tỵ hiềm. Miệng ma thường nói thần thông tự tại, hoặc lại khiến người ở bên thấy được cõi Phật. Đây là do sức quỷ mê hoặc người, không phải chân thật. Ma khen ngợi việc hành dâm, không chê những hạnh thô, đem những việc xấu xa cho đó là truyền pháp.

Tuy ma là người bạch y cư sĩ, lại ngồi cho các thầy Tỳ-kheo lạy. Thường thì Tù-kheo ngồi cho cư sĩ lạy, nay vì các thầy Tỳ-kheo phục tài năng của nó, tưởng nó là Phật thị hiện nên lễ lạy. Ma khiến cho người ngồi đây mà thấy được cõi Phật, cho nên người ta dễ lầm. Tuy nhiên, ma chấp nhận những hạnh thô, nó dẫn người vô bóng tối làm những chuyện xấu xa, bảo là truyền pháp. Ban đầu nó hiện thần thông, làm những điều kỳ quái cho người ta phục, rồi sau lộ ra những tà hạnh.

Đây gọi là các loài tinh mỵ có sức lực lớn trong trời đất: tinh núi, tinh biển, tinh gió, tinh sông, tinh đất; tất cả tinh mỵ do cây cỏ sống nhiều kiếp hóa thành; hoặc là rồng thành quỷ; hoặc các vị tiên tuổi thọ hết, sống lại làm loài yêu quái; hoặc những vị tiên kỳ hạn đã hết, đến lúc phải chết mà hình không hoại, có các loài yêu quái gá vào, tuổi già thành ma não loạn người tu. Khi tâm ma nhàm chán, nó bỏ thân thể người kia, đệ tử với thầy phần nhiều phạm vào luật vua. Các ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.

Bệnh này là do ưa thích thần thông nên quỷ hiện thần thông tới gạt. Như vậy người tu mà còn dấy niệm ưa thích điều gì đều thành bệnh hết.

Lại, người thiện nam khi thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong chánh định, tâm ưa vào chỗ tịch diệt, nghiên cứu tánh biến hóa, tham cầu cái Không sâu xa. Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy vốn không biết bị ma dựa, cũng nói mình được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu Không kia, trải tòa nói pháp. Ở trong đại chúng, thân hình bỗng hóa thành không, mọi người không thấy gì, lại từ hư không đột nhiên xuất hiện, khi xuất hiện khi mất tự tại. Ma hoặc hiện thân rỗng suốt như lưu ly, hoặc duỗi tay chân phát ra mùi hương chiên-đàn, hoặc đại tiểu tiện cứng như đường phèn.

Đây là những loại quỷ ghê gớm, làm những việc ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Hồi tôi còn bé cũng nghe có một ông thầy, gặp ai ông cũng đưa tay bảo ngửi. Có người ngửi nghe thơm, không rõ là thơm chiên-đàn hay thơm mùi gì. Nếu thơm chiên-đàn là đúng loại ma này rồi. Lại thêm việc kỳ quái: đại tiểu tiện như đường phèn, chắc các đệ tử sẽ đua nhau lượm, vì họ tin tưởng đó là bậc Thánh.

Ma chê bai giới luật, khinh khi người xuất gia, miệng thường nói không có nhân quả, một phen chết là mất hẳn, không có thân sau, cũng không có phàm thánh. Tuy nó được không lặng mà lén làm những việc tham dục, người thọ nhận dục kia cũng được tâm không, cũng bác không có nhân quả. Đây gọi là các loại vàng ngọc, cỏ thơm… ăn nuốt tinh khí mặt trời mặt trăng, lân, phụng, quy, hạc, trải qua ngàn muôn năm không chết, thành tinh linh sanh ra trong cõi nước, tuổi già thành ma não loạn người tu hành. Khi tâm ma nhàm chán, nó bỏ thân thể người ấy, đệ tử với thầy phần nhiều phạm vào luật vua. Ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.

Những đồ vật để lâu ngày hay những con vật sống lâu quá thành tinh, lâu nữa nó linh thiêng nên thành ma, quấy phá người tu hành.

Lại, người thiện nam khi thọ ấm rỗng suốt linh diệu, không bị các tà lự, định tròn đầy phát sáng. Trong chánh định, tâm ưa sống lâu, nhọc nhằn nghiên cứu kỹ, tham cầu được nhiều tuổi bỏ mạng sống phần loạn, mong chóng được tướng vi tế biến dịch thường trụ.

Người này cho cái thân phần đoạn này là thô, mong cầu được thân biến dịch vi tế thường trụ. Thân phần đoạn sanh tử phải chịu luân hồi trong sáu đường, có sự sai khác về hình thể và hạn định về tuổi thọ, phải chịu các thứ quả báo khác nhau của phàm phu. Vì thân mạng có dài ngắn nên gọi là phần đoạn. Các bậc thánh từ A-la-hán trở lên có thân biến dịch sanh tử, là thân không có hình sắc hơn kém, không có thời gian thọ mạng ngắn dài, chỉ có những mê tưởng diệt dần, chứng ngộ tăng dần, nên gọi là biến dịch. Đây là sự thay đổi trong vi tế mà tánh thường còn không mất.

Khi ấy thiên ma được cơ hội thuận tiện, phóng tinh thần gá vào người khác, miệng nói kinh pháp. Người ấy vốn không biết bị ma dựa, cũng nói mình được Vô thượng Niết-bàn, đến chỗ người thiện nam cầu sống lâu kia, trải tòa nói pháp. Ma ưa nói qua lại phương khác không chướng ngại, hoặc trải qua muôn dặm chỉ trong chớp mắt hay một hơi thở liền trở lại, đều lấy được vật ở phương kia.

Ví dụ như hiện đang ngồi trong hội ở đây, người ấy nói: “Để tôi ra thành nội Huế mượn một món đồ cổ đem về cho các ông coi.” Rồi trong chớp mắt liền đưa món đồ kia ra. Chúng ta có tin là người ấy đã đi tới Huế không? Nếu không đi tới thì làm sao lấy món đồ kia được. Vả lại có người từng đến Huế, đã biết món đồ đó để chỗ nào trong thành nội nên nó đưa ra là tin liền. Như vậy mới thấy sức của ma quá mạnh.

Hoặc ở một chỗ, trong một nhà chỉ khoảng vài bước, bảo người kia đi từ bên đông đến vách bên tây, người ấy đi rất mau mà trải nhiều năm cũng không đến. Nhân đây mọi người có lòng tin nghi là Phật hiện tiền. Miệng ma thường nói: “Chúng sanh ở mười phương đều là con của ta, ta sanh ra chư Phật, ta sanh ra thế giới, ta là Phật đầu tiên, tự nhiên ra đời, không do tu mà được.” Đây gọi là ma Trụ thế Tự tại thiên. Ma sai bọn quyến thuộc như Giá-văn-trà và đồng tử Tỳ-xá cõi trời Tứ thiên vương, những kẻ chưa phát tâm, ưa cái hư minh kia, ăn tinh khí của người tu hành.

Ma vương ở cõi trời Tự tại, quyến thuộc của nó và đồng tử cõi trời Tứ thiên vương, những kẻ chưa phát tâm theo Phật thì phá người tu như vậy, còn khi đã phát tâm theo Phật rồi thì ủng hộ chứ không phá nữa.

Hoặc không nhân nơi thầy, đích thân người tu hành kia xem thấy, những vị tự xưng là thần Chấp kim cang đến ban cho mạng sống lâu dài. Ma hiện thân mỹ nữ, làm những việc tham dục, chưa đầy một năm, gan não của người kia đều khô kiệt. Miệng người kia hay nói lẩm bẩm một mình, nghe như yêu quái, người đi trước chưa rõ nguyên do, phần nhiều phạm vào luật vua, chưa kịp chịu hình phạt, trước đã chết khô. Ma não loạn người kia cho đến chết mất. Các ông phải biết trước để không vào trong luân hồi, còn nếu mê lầm không biết sẽ rơi vào địa ngục Vô gián.

Đây là con ma thứ mười, lỗi tại người tu mong cầu sống lâu. Cho nên gần đây, có người nói với tôi: “Quý thầy tu mà bệnh hoạn hoài, vậy tu làm chi! Tu không bệnh mới được chứ!” Họ khuyên muốn không bệnh, phải luyện pháp tiên để được sống lâu. Như vậy vô tình mắc kẹt vào bệnh tham sống lâu. Nếu trong khi tu có bệnh đó, dễ bị loại quỷ này gạt và dẫn đi. Ban đầu nó hiện thần thông để chinh phục mình, rồi sau nói những điều trái với luật nghi Phật và xúi làm bậy. Đa số những loài quỷ quái đều vậy. Người tu hành có công phu ở núi rừng dễ bị bệnh này.

Người học đạo phải sáng suốt nhận cho kỹ, điều gì trái với luật nghi của Phật thì không phải chánh đạo. Bởi vì những gì trái với đạo đức đều phát nguồn từ ba bệnh gốc dâm-sát-đạo. Ở đây, ma mắc bệnh thứ nhất. Cho nên, dầu một ngày nó ăn một hạt mè, một hạt bắp mà nói toàn những chuyện tham dục, biết là bậy rồi, không tin theo. Đó là những điều giúp chúng ta nghiệm biết để không lầm lẫn.

Như vậy, bị ma dẫn là do các bệnh tham cầu thiện xảo, tham cầu ngao du, tham cầu khế hợp, tham cầu biện biệt phân tích, tham cầu thầm cảm ứng, tham cầu yên lặng, tham cầu biết đời trước, tham có thần lực, tham cầu được Không, tham cầu sống lâu. Do mười bệnh đó mà bị ma phá, gốc vẫn là tại mình. Nếu không có mười bệnh đó thì ma không thể phá được.

Tu thiền là phải dứt lòng tham, bất cứ là tham điều gì; tâm phải lặng lẽ như như. Tâm như như thì không bệnh. Nếu tâm có chỗ mong cầu là gốc của bệnh, gốc của ma. Nhưng đa số người tu lại thường mong cầu ham điều lạ, nên thường lạc vào ma. Tu là cốt trở về chân trí như như, dù cho ma có hiện cái gì, đến bậc nào cũng không dính gì tới mình. Nếu không được vậy thì dễ bị ma lôi.

Người ta sợ tu thiền có thể bị điên, chính vì không biết cái gốc vọng. Vọng khởi thì sanh bệnh, vừa có mong muốn là vọng khởi, dù là muốn thành Phật cũng không được, đừng nói là mong những thứ lạ khác. Người tu thiền buông hết vọng tưởng thì không bao giờ điên.

Này A-nan, phải biết mười thứ ma này, trong đời mạt pháp, những người xuất gia tu hành ở trong giáo pháp của ta, hoặc ma gá vào thân thể người ấy hoặc tự hiện hình, đều nói đã thành Chánh biến tri giác, khen ngợi dâm dục, phá luật nghi của Phật. Trước là thầy ác ma, cùng với đệ tử ma, đem dâm dục truyền dạy nhau. Những tà tinh như thế mê hoặc tim gan người kia, gần thì chín đời, nhiều đến trăm đời, khiến cho người tu hành chân chánh đều làm quyến thuộc của ma. Sau khi mạng chung ắt làm dân ma, mất chánh biến tri, rơi vào địa ngục Vô gián.

Phật kết thúc rất rõ ràng, tuy ma tự xưng là Phật là thánh, nhưng nó khen ngợi sự dâm dục, chê bai giới luật của Phật. Do đó chúng ta biết nó là ma, không còn nghi ngờ gì nữa.

Nay ông chưa nên vào Niết-bàn tịch diệt. Trước dù ông đã được vô học, nên lưu nguyện vào trong đời mạt pháp kia, khởi lòng đại từ bi cứu độ những chúng sanh có lòng tin sâu chân chánh, khiến họ không bị mắc tà ma, được chánh tri kiến. Nay tôi độ ông đã được ra khỏi sanh tử, ông phải vâng lời Phật dạy mới gọi là đền ơn của Phật.

Phật tha thiết khuyên ngài A-nan đừng vội nhập Niết-bàn, dù cho ngài đã tới mức đó rồi. Phải phát nguyện vào trong đời mạt pháp, để dạy dỗ chúng sanh có lòng tin sâu Tam bảo không rơi vào tà ma. Đó chính là đền ơn Phật vậy.

Này A-nan, mười thứ cảnh hiện ra trong thiền định như thế, đều do tưởng ấm dụng tâm xen lẫn nên hiện những việc này. Chúng sanh mê lầm không tự xét lường, gặp những nhân duyên này, mê mờ không tự biết, bảo rằng đã lên quả vị thánh, thành tội đại vọng ngữ, rơi vào địa ngục Vô gián. Sau khi ta diệt độ, các ông ắt phải đem lời nói của Như Lai truyền dạy cho đời mạt pháp, khiến cho khắp chúng sanh khai ngộ được nghĩa này, không để cho thiên ma được cơ hội thuận tiện, bảo vệ che chở những người tu hành thành đạo Vô thượng.

Giả sử chúng ta chưa nghe những lời Phật dạy răn như vầy thì thật dễ bị gạt như trở bàn tay, chỉ cần thấy nó ngồi trong hư không là đủ để quỳ lạy rồi. Bởi vậy thế gian bị lầm lẫn không biết bao nhiêu! Nếu một người tu dù có thần thông tự xưng là thánh mà còn xúi người làm một trong ba điều dâm sát đạo, đều là tà hết. Nhớ kỹ như vậy.

Thiên hạ rất dễ bị lầm, nghe thấy người nào làm điều gì lạ liền tin, mà không nhận ra người ấy đang xúi làm những điều bậy. Vậy nên bị ma gạt, chìm trong khổ đau đời này nối tiếp đời sau, chịu khổ làm tôi tớ cho nó, ít nhất là chín đời, nhiều thì cả trăm đời. Vậy nên mới đáng sợ. Tu mà không hiểu thấu đáo thì ham tu là họa chứ không phải phước, vì tu sai nhiều đời càng dễ rơi sâu vào đường tà. Người tu ít mà giữ tròn năm giới cũng được trở lại làm người. Trái lại, tận lực tu hành cần khổ mà không hiểu biết cũng rơi vào tà, làm tôi tớ ma, còn thua người giữ năm giới.

Như vậy, phần sắc ấm và thọ ấm là nhân người tu có công phu phát ra tướng lạ, lầm cho là ngộ đạo hay chứng thánh nên rơi vào đường tà. Ma có cơ hội dựa vào làm cho người tu mất hết chỗ tu tiến trước kia, sanh ra các bệnh.

Qua tới tưởng ấm, do trong khi tu còn một vài tâm chấp và tham cầu, hoặc chấp sống lâu, hoặc chấp không… nên ma mới có cơ hội quấy phá. Bởi vì tưởng là tưởng ngoại cảnh nên ma bên ngoài gá vào người khác đến chỗ người tu, nói rằng đã được đạo, hiện những điều kỳ lạ để cho người kia kính phục, rồi theo làm đệ tử, do đó mà rơi vào đường tà. Như vậy, mỗi phần có mỗi thứ ma. Nếu không học thì chúng ta rất dễ bị lầm.

4. Hành ấm

Đến phần hành ấm thì ma trong ma ngoài đều hết, chỉ còn lỗi do công phu tu tới đó tưởng là đã tột, rồi suy lý chấp thế này thế kia, liền rơi vào ngoại đạo.

Này A-nan, người thiện nam kia tu chánh định, tưởng ấm đã hết, người này bình thường mọi mộng tưởng đã tiêu diệt, nên thức ngủ hằng một tánh giác minh rỗng suốt lặng lẽ, giống như hư không trong trẻo, không còn những việc bóng dáng thô trọng của tiền trần. Xem thấy núi sông đất liền trong thế gian như trong gương soi sáng, đến không chỗ dính, đi không dấu vết. Rỗng nhận sự soi sáng ứng hiện, hoàn toàn không còn tập khí cũ, chỉ có một tinh chân.

Trong nhà thiền hay có câu hỏi: “Đã được thức ngủ như một chưa?” Ở đây nói khi tưởng ấm không còn thì thức ngủ như một, chỉ một tánh giác minh rỗng suốt lặng lẽ. Vì còn tưởng ấm là còn mộng, tưởng ấm hết rồi thì lúc nào cũng tỉnh táo an nhiên, nên thức ngủ là một, như hư không trong trẻo không có chút bụi bặm. Người tu chúng ta khi tu thuần thục mà vẫn còn tưởng ấm, chỉ hay hơn người thường là trong lúc thức mình không nhiễm trần cảnh, không phạm giới luật, khi ngủ nếu gặp cảnh đó mình cũng không phạm. Ví dụ như khi thức mình ăn chay, không uống rượu, thì lúc ngủ người ta mời ăn mặn uống rượu mình cũng từ chối. Như vậy là tốt rồi. Còn lại, đa số người khi thức thì khác, khi ngủ khác, lúc tỉnh lúc mê; thức thì giữ giới, còn ngủ không giữ được.

Khi tưởng ấm sạch rồi thì hết mộng. Mộng từ tưởng mà ra, mộng hết thì ngủ thức như nhau. Vậy nói thức ngủ như nhau là tới giai đoạn phá hành ấm này. Đến đây những tập khí cũ không còn nữa, chỉ thuần một tánh chân. Phần này nói về thắng tướng của hành ấm, phần kế nói phạm vi hành ấm.

Cội gốc sanh diệt từ đây bày hiện. Thấy rõ ràng tất cả chủng loại của mười hai loài chúng sanh trong mười phương. Tuy chưa thông suốt manh mối sanh mạng của các loài, nhưng thấy đồng một nền tảng phát sanh, giống như sóng nắng chập chờn, trong sạch mà lăng xăng, là then chốt cứu cánh của phù căn trần. Đây gọi là phạm vi của hành ấm.

Chữ thanh nhiễu thật khó giải thích. Thanh là trong, nhiễu là lăng xăng. Chỗ hành ấm này quá tế nhị, mới nhìn thấy rất lặng lẽ, tuy nhiên vẫn còn gờn gợn lăn tăn. Giống như khi chúng ta nhìn xuống dòng sông hay mặt hồ, tuy không có sóng lớn nhưng những gợn lăn tăn vẫn còn. Những gợn lăn tăn đó, ở xa nhìn như không có, chỉ là mặt nước bình lặng, tới thật gần mới thấy rõ. Chữ thanh là trong, thấy như trong lặng, nhưng nhìn gần thì có những gợn lăn tăn, nên gọi là nhiễu. Đó là trạng thái của hành ấm.

Chúng ta tạm ví dụ cho dễ hiểu. Như lúc ngồi thiền, có những khi khởi vọng tưởng này vọng tưởng kia, hình tướng dễ thấy; rồi có những lúc tâm yên, tuy yên mà vẫn lăn tăn, chập chờn nhè nhẹ, thật là khó trị. Vọng tưởng nhảy ra từng thứ thì dễ bỏ dễ trị, riêng những gợn lăn tăn này thì khó thấy khó trị. Cho nên đa số người tới hành ấm thường bị kẹt. Người tu phá được hành ấm là ngang với Bồ-tát Bát địa, gần quả A-la-hán của Thanh văn chứ không phải thường.

Nếu nguồn gốc trong sạch mà lăng xăng chập chờn này vào tánh lóng lặng ban đầu, một phen lóng lặng những tập khí từ trước, như những lượn sóng lớn sóng nhỏ đều tiêu diệt, chỉ còn nước lắng trong, gọi là hành ấm hết. Người ấy ắt hay vượt khỏi chúng sanh trược. Xét lại nguyên do kia thì gốc là vọng tưởng thầm lặng.

Khi nào tất cả những gợn lăn tăn đều hết, chỉ còn tâm phẳng lặng, lúc đó gọi là hành ấm hết. Người ấy xem lại nguyên do kia thì gốc là vọng tưởng thầm lặng. Đây cũng còn thuộc về vọng tưởng, nhưng nó nhẹ nhàng thầm lặng ở trong, vì quá thầm lặng nên khó thấy, gọi là u ẩn. U là tối, ẩn là kín, tức là những vọng tưởng thầm lặng chứ không phải vọng tưởng nổi.

A-nan nên biết, những người thiện nam ở trong chánh định được chánh tri này, tâm chân chánh ngưng lặng sáng suốt, mười loài thiên ma không được cơ hội thuận tiện nữa, mới được chuyên ròng nghiên cứu cùng tột cội gốc các loài chúng sanh. Nơi cội gốc các loài, manh mối của sự sanh được bày lộ. Xét gốc ban đầu trong sạch thầm kín, tròn đầy mà còn xao động, ở trong cội gốc tròn đầy đó khởi suy tính chấp trước, người ấy rơi vào hai thứ luận vô nhân.

Vô nhân là không có nhân. Ở đây chia ra: gốc vô nhân và ngọn vô nhân.

Một là người ấy thấy gốc không có nhân. Vì sao? Người ấy đã phá dẹp hoàn toàn cơ sở của sự sanh, nương tám trăm công đức của nhãn căn, thấy được những chúng sanh trong tám muôn kiếp, nghiệp báo lưu chuyển xoay vần, chết đây sanh kia; chỉ thấy chúng sanh luân hồi trong khoảng đó, ngoài tám muôn kiếp thì mờ mịt không thấy được. Người ấy liền khởi nghĩ rằng chúng sanh ở thế gian trong mười phương này, tám muôn kiếp trở lại, không nhân mà tự có. Do suy tính chấp trước này, mất chánh biến tri, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề.

Giả sử có người nào nói thấy được mười đời về trước, chúng sanh ở đâu, làm cái gì, chúng ta nghe cũng đã nể, đàng này thấy đến tám muôn đời của chúng sanh! Tuy nhiên người ấy chỉ thấy đến khoảng đó, ngoài ra không thể thấy. Do thấy bỗng dưng có người có cảnh, có chúng sanh mà không biết từ đâu ra, nên người ấy nói là không có nhân. Đó là kiến chấp thứ nhất phăn về nguồn gốc, cho là không có nhân.

Hai là người ấy thấy ngọn không có nhân. Vì sao? Người ấy nơi sự sanh đã thấy cội gốc các loài, biết người sanh người, hiểu chim sanh chim, quạ trước nay là đen, thiên nga trước nay là trắng, người và trời vốn đi thẳng, súc sanh vốn đi ngang, màu trắng không do rửa mà thành, màu đen chẳng phải do nhuộm mà được, suốt tám muôn kiếp không hề thay đổi. Nay hết đời này cũng lại như thế. Ta xưa nay không thấy có Bồ-đề, làm sao lại có việc thành tựu Bồ-đề? Nên biết ngày nay tất cả vật tượng đều vốn là không có nhân. Do suy tính chấp trước này, quên mất chánh biến tri, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ nhất, lập luận vô nhân.

Những người này do tu hành thấy được tám muôn kiếp, nhưng manh mối trước đó nữa họ không thấy, nên lầm cho là không có nhân. Khi lập luận vô nhân như vậy là do công phu của họ thấy được, chứ không phải bỗng dưng bịa đặt ra.

Này A-nan! Những người thiện nam ở trong chánh định này, tâm chân chánh ngưng lặng sáng suốt, ma không được cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc ban đầu trong sạch thầm kín mà thương nhiễu động kia, ở trong tánh viên thường mà khởi suy tính chấp trước, người ấy rơi vào bốn thứ luận biến thường.

Biến thường luận là luận khắp thường, tức là cái gì cũng cho là thường.

Một là người ấy xét cùng tột tánh của tâm và cảnh, cả hai đều không nhân. Tu tập có thể viết được trong hai muôn kiếp, sự sanh diệt của chúng sanh mười phương, thảy đều tuần hoàn không hề tan mất, chấp cho đó là thường.

Do người ấy xét cùng tâm tột cảnh đều thấy không có nhân, nên thấy được trong hai muôn kiếp, chúng sanh sanh diệt xoay vần không mất. Bởi thấy không mất nên chấp là thường.

Hai là người ấy xét cùng tột nguồn gốc của tứ đại, tánh của tứ đại là thường trụ. Tu tập có thể biết được trong bốn muôn kiếp, sự sanh diệt của chúng sanh trong mười phương, bản thể đều thường hằng không hề tan mất, chấp cho đó là thường.

Như chúng ta thường lý luận, thân này do tứ đại hòa hợp thành, nên khi thân này rã ra là thân mất chứ tứ đại không mất. Như vậy đối với thân thì có diệt nhưng tứ đại không diệt. Cây cối, sự vật chung quanh cũng vậy. Họ tìm xét cho tới nơi, thì thấy tất cả chúng sanh ở trên thế gian này có sanh diệt nhưng tứ đại không mất, không sanh diệt, nên họ chấp là thường.

Ba là người ấy xét cùng tột sáu căn, do thức mạt-na chấp giữ, trong tâm ý thức biết nguyên do căn bản tánh là thường hằng. Do tu tập có thể biết được trong tám muôn kiếp, tất cả chúng sanh xoay vần không mất, xưa nay thường trụ; xét tội cùng tánh không mất, chấp cho đó là thường.

Người đó biết cùng tột sáu căn do thức mạt-na gìn giữ. Ở trong tâm ý thức đó họ biết được nguyên do cội gốc của nó, cho đó là tánh thường hằng. Do họ thấy cứ xoay chuyển luân hồi hoài không mất, nên chấp là thường.

Bốn là người ấy đã hết gốc tưởng, lý sanh không còn sự vận chuyển trôi chảy hay dừng lại. Tâm tưởng sanh diệt nay đã vĩnh viễn diệt mất, trong lý tự nhiên thành chẳng sanh diệt. Nhân tâm khởi suy tính chấp trước cho đó là thường. Do chấp thường này, mất chánh biến tri, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ hai, lập luận viên thường.

Đến phần phá hành ấm không khéo thì trở thành ngoại đạo, chứ không bị ma phá nữa. Tu được tới chỗ này cũng cay đắng lắm. Trên thế gian hiếm thấy người tu tới đây. Cao lắm là đến phá sắc ấm thôi. Vậy mà chúng ta cứ nghe người khoe chứng cái này, người kia đạt cái nọ, chỉ là gạt gẫm nhau chứ chưa tới đâu.

Vậy nên phải cẩn thận, tu phải thấy cho tới nơi tới chốn. Mình là đệ tử Phật thì phải làm đúng như lời Phật dạy. Thà là chậm mà đến nơi, còn mong cho mau thì dễ rơi vào đường ma hoặc lạc vào ngoại đạo. Trong sự tu hành, ai có tâm nôn nóng mong mỏi mau được mai đến thì đó là bệnh, khó tránh khỏi lầm lạc.

Người tu phải điềm đạm bình tĩnh, lấy căn bản Phật pháp làm tiêu chuẩn để theo. Điều gì thấy lệch thì tránh liền, không lầm. Dù ai đó hiện bao nhiêu thứ thần thông mà rủ mình uống rượu thì từ giã liền, không chơi nữa. Dù ai đó có bao nhiêu phép lạ mà bảo mình phải giết người, vì người ấy là ma, mình cũng từ giã. Phật cấm sát hại chúng sanh, giết là phạm giới sát, mà bảo mình giết thì phải tránh ngay. Hễ theo họ là theo đường tà, rất nguy hiểm!

Ma dễ đưa người tới chỗ lầm lẫn, vừa làm hại bản thân, vừa hại cho những người chung quanh. Ai tin theo cũng bị hại lây cả chùm. Vậy nên phải rất dè dặt. Chúng ta cứ nhận mình là phàm phu, tu không có gì đặc biệt, thủng thẳng bước từng bước, bước nào vững bước nấy. Người khoe khoang nói chuyện quá khứ vị lai, e rằng không phải thứ thật, phải tránh xa đừng nên gần.

Lại, những người thiện nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc ban đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, ở trong tự và tha khởi suy tính chấp trước. Người ấy rơi vào bốn luận chấp điên đảo, một phần vô thường một phần thường.

Một là người ấy xem xét tâm diệu minh lặng lẽ khắp cả thế giới mười phương, cho là thần ngã cứu cánh, từ đó khởi chấp cái ta cùng khắp mười phương, ngưng lặng sáng suốt chẳng động, còn tất cả chúng sanh ở trong tâm ta, tự sanh tự chết. Vậy tâm tánh của ta gọi là thường, còn những chúng sanh sanh diệt kia thật là vô thường.

Người này do thấy tâm mình trùm khắp mười phương nên chấp cho là thường, còn chúng sanh sanh rồi tử ở trong tâm mình thì tánh vô thường. Như vậy những người này chấp một phần thường một phần vô thường.

Hai là người ấy không xét tâm mà xem khắp hằng sa cõi nước trong mười phương, thấy chỗ kiếp hoại gọi là chủng tánh rốt ráo vô thường, thấy chỗ kiếp không hoại gọi là rốt ráo thường.

Phần trước quán tâm mình. Đến đây không quán tâm mà quán cõi nước trong mười phương. Cõi nước nào còn hoài cho là thường, cõi nước nào bị hoại cho là vô thường.

Ba là người ấy quán riêng tâm mình tinh tế nhỏ nhiệm, giống như vi trần, lưu chuyển trong mười phương, tánh không đổi dời, có thể khiến cho thân này liền sanh liền diệt. Chấp tánh không hoại kia gọi là tánh thường của mình. Tất cả sanh tử từ nơi cái ngã đó phát sanh ra gọi là vô thường.

Khi quán tâm mình đến chỗ tế nhị nhỏ nhiệm như là vi trần, thấy tâm lưu chuyển khắp cả mười phương không có dời đổi, liền cho tánh ngã đó còn mãi nên chấp là thường, còn thân sanh rồi lại diệt này gọi là vô thường.

Bốn là người ấy biết tưởng ấm hết, thấy hành ấm trôi chảy. Hành ấm thường trôi chảy, chấp cho là tánh thường, còn sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm v.v… nay đã diệt hết, gọi là vô thường. Do đây mà khởi suy tính chấp trước một phần vô thường một phần thường, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây là ngoại đạo thứ ba, lập luận một phần thường một phần vô thường.

Đến hành ấm thì ma trong ma ngoài đều không phá được người tu hành, mà do họ nhận định sai lầm, do chỗ nhìn thấy chỉ giới hạn ở chừng mực nào đó rồi chấp chặt vào, tự cho là đã thấy đúng sự thật nên mới có những lập luận như vậy. Nếu không biết thì thấy sự tu hết sức khó, còn khi biết rõ tu là để tâm thanh tịnh giác ngộ chứ không mong cầu gì khác, thì mình không sợ ma trong lẫn ma ngoài.

Nếu vọng tưởng ở trong dấy khởi, chúng ta luôn biết rõ không theo thì còn có ma trong nào dấy được; nếu đối với tất cả cảnh bên ngoài, chúng ta luôn tâm niệm “gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma” thì ma ngoài làm sao phá được. Đến ngang hành ấm thì cần nhớ, Phật chỉ cho chúng ta tới chỗ tột cùng là giác ngộ giải thoát, chứ không phải thấy thường hay thấy vô thường. Thấy bên này bên kia đều là ngoại đạo chấp sai lầm. Biết nguyên tắc đó sẽ không bị lầm, nếu không nhớ nguyên tắc đó thì tu tới đây cũng dễ bị lầm.

Lại, những người thiện nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được cơ hội thuận tiện; xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc ban đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, ở trong phần vị sanh ra suy tính chấp trước. Người ấy rơi vào bốn thứ luận hữu biên.

Một là tâm người ấy chấp chỗ ban đầu của sự sanh trôi chảy không dừng, chấp quá khứ vị lai gọi là hữu biên, chấp tâm tương tục gọi là vô biên.

Người ấy chấp quá khứ là đã qua rồi, vị lai chưa đến, đó gọi là hữu biên, còn tâm liên tục không dừng gọi là vô biên.

Hai là người ấy quán tám muôn kiếp thấy có chúng sanh, còn trước tám muôn kiếp thì bặt không nghe thấy gì. Chỗ không nghe thấy gọi là vô biên, còn chỗ có chúng sanh gọi là hữu biên.

Những người này quán thấy được chúng sanh trong tám muôn kiếp, ngoài ra không thấy gì. Do chỉ thấy có chúng sanh trong khoảng đó nên nói là hữu biên, chỗ không thấy được chấp là vô biên.

Ba là người ấy chấp ta biết khắp là được tánh vô biên. Tất cả các người kia hiện ở trong cái biết của ta, ta không hề biết tánh biết của họ, cho là những người kia không được tâm vô biên, chỉ có tánh hữu biên.

Chấp tâm ta biết khắp cả là vô biên, còn những chúng sanh hiện trong cái biết của ta là hữu biên.

Bốn là người ấy xét cùng tột hành ấm là không. Do chỗ thấy con đường tâm suy tính trong một thân của tất cả chúng sanh, thảy đều phân nửa sanh phân nửa diệt; chấp rằng tất cả sự vật trong thế giới, phân nửa là hữu biên, phân nửa là vô biên. Do suy tính chấp trước hữu biên và vô biên như thế, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ tu lập luận hữu biên.

Tâm thế nào là phân nửa sanh phân nửa diệt? Họ chấp tâm vừa dấy lên là sanh, kế lặng xuống là diệt mất. Tâm có phân nửa sanh còn phân nửa là diệt, vì nếu không có phân nửa diệt đó thì làm sao diệt. Chấp sự vật trong thế giới một nửa hữu biên, một nửa là vô biên.

Thật ra ở Việt Nam ít nghe ai chấp những điều này, cho nên cũng khó mà giải thích rộng.

Lại, những người thiện nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc ban đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, ở trong hiểu biết sanh ra suy tính chấp trước. Người ấy rơi vào bốn thứ luận hư vọng, điên đảo biến kế, càn loạn bất tử.

Chữ bất tử ở đây có nghĩa là không dứt khoát, không nhất định.

Một là người ấy xem cội gốc sự biến hóa, thấy chỗ dời đổi gọi đó là biến, thấy chỗ tiếp nối không dừng gọi đó là hằng còn. Thấy những chỗ thấy được gọi là sanh, chỗ chẳng thấy được gọi là diệt. Chỗ các nhân tiếp nối không đoạn dứt gọi là tăng; còn chính trong chỗ tiếp nối, ở chỗ giữa lìa ra gọi là giảm. Chỗ sanh của mỗi thứ gọi là có, chỗ luôn luôn mất gọi là không.

Ví dụ như đoàn xe chạy liên tục cả trăm chiếc, tuy liên tục nhưng vẫn có khoảng cách giữa chiếc này với chiếc kia. Như vậy trong sự liên tục đó vẫn có những khoảng cách ở giữa là cái mối đứt quãng; người ấy thấy khoảng cách ở giữa gọi là giảm, còn thấy sự liên tục không dứt gọi là tăng. Chỗ nào mình thấy được gọi là sanh, chỗ nào không thấy được gọi là diệt v.v…

Dùng lý xem xét tất cả, dụng tâm thấy có sai biệt. Có người đến cầu pháp hỏi nghĩa kia thì đáp rằng: “Nay tôi cũng sanh cũng diệt, cũng có cũng không, cũng tăng cũng giảm.” Trong tất cả thời đều nói rối loạn, khiến cho người đang đứng trước hỏi đạo đó, không thể hiểu câu nghĩa.

Di thất chương cú là mất hết câu chữ, tức là không còn câu, không còn lời lẽ để người nghe có thể hiểu nghĩa rành rẽ được. Nói rối loạn như vậy thì không ai có thể hiểu.

Hai là người ấy xem kỹ tâm kia, luôn luôn ở chỗ không, nhân không mà được chứng. Có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là “không”. Ngoài chữ “không” ra không nói lời gì nữa.

Người này chấp không, ai hỏi gì cũng đáp không.

Ba là người ấy xem xét kỹ nơi tâm kia, mỗi mỗi đều có chỗ, do thấy có mà được chứng. Có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là “phải”. Ngoài chữ “phải” ra không nói lời gì nữa.

Người này chấp , nên ai hỏi gì cũng đáp phảiphải tức là có.

Bốn là người ấy chấp cả có và không, vì cảnh phân tán nên tâm cũng rối loạn. Có người đến hỏi, đáp rằng: “Cũng có tức là cũng không, trong cũng không chẳng phải là cũng có.” Tất cả đều rối loạn, không đáp cùng tột.

Cảnh chi là phân chia cảnh ra từng phần chấp  rồi cũng chấp không. Do chấp như vậy nên đáp có không lộn xộn, làm tâm người hỏi rối loạn, không sao hiểu rõ manh mối.

Do suy tính chấp trước đó, rối loạn, rỗng không, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ năm, chấp bốn thứ luận hư vọng, điên đảo biến kế, càn loạn bất tử.

Đến ngoại đạo thứ sáu, chấp sau khi chết có tướng.

Lại, những người thiện nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc các loài chúng sanh, xem gốc ban đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, nơi dòng chảy vô tận sanh ra suy tính chấp trước, người ấy khởi tâm điên đảo, rơi vào chấp sau khi chết có tướng. Hoặc tự củng cố thân, bảo rằng “sắc là ngã”. Hoặc thấy ngã bao trùm khắp các cõi nước, nên nói “ngã có sắc”. Hoặc thấy những duyên ở trước theo ngã mà xoay trở lại, nên nói “sắc thuộc về ngã”. Hoặc lại thấy ngã nương trong hành mà tương tục, nên nói “ngã ở nơi sắc”.

Chúng ta thường nghe trong kinh nói có hai thứ chánh báo và y báo. Y báo thuộc về chánh báo, cũng như cảnh thuộc về người. Nếu người khéo léo sáng suốt ở đâu thì cảnh nơi đó đẹp, còn người vụng về dốt nát ở đâu thì cảnh nơi đó xấu theo. Như vậy cảnh tùy thuộc theo người, nên nói những duyên trước theo ta mà xoay trở lại, tức là cảnh ở trước tùy theo ta mà xoay lại.

Đây là những lối chấp của ngoại đạo, nếu chúng ta không biết, lúc đọc kinh Nikaya nói về Ngã, sẽ thấy khó hiểu. Khi nói sắc là ngã, đó là trường hợp chấp thân kiên cố. Nếu nói ngã có sắc, tức trường hợp thứ hai, do thấy ngã trùm khắp cõi nước mười phương. Nói sắc thuộc về ngã, là trường hợp thứ ba, do thấy ngoại cảnh tùy thuộc mình. Nói ngã ở nơi sắc là trường hợp thứ tư, vì tới hành ấm, họ thấy ngã nương nơi hành ấm, mà hành ấm thì tương tục không dứt.

Chúng ta hiểu được bốn lối chấp này, mới thấy rõ ý trong các kinh A-hàm, bằng không thì khó mà hiểu tại sao Phật không nói đơn giản “không có ngã” là được rồi, lại còn phá luôn bốn thứ chấp ngã.

Bốn thứ ngã đó đều do suy tính chấp trước sau khi chết có tướng. Như thế xoay vần có mười sáu tướng, từ đây còn chấp cứu cánh phiền não và cứu cánh Bồ-đề, hai tánh cùng chạy đuổi, đều không đụng chạm nhau. Do đây suy tính chấp trước sau khi chết là có, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ sáu, do tâm điên đảo lập luận trong năm ấm sau khi chết có tướng.

Những lập luận này đều do hiểu sai lầm mà ra, thuộc về sáu mươi hai kiến chấp của ngoại đạo trong thời Phật. Mấy phần này hơi khô khan, nhưng chúng ta học kỹ thì đọc những kinh khác mới dễ hiểu.

Lại, những người thiện nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của cái loài chúng sanh, xem gốc ban đầu trong sạch thầm kín mà thương nhiều động kia, trước trừ diệt sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, sanh ra suy tính chấp trước. Người ấy khởi tâm điên đảo, rơi vào chấp sau khi chết không tướng.

Người ấy thấy sắc ấm diệt, hình thể không còn chỗ làm nhân; quán tưởng ấm diệt, tâm không ràng buộc chỗ nào; biết thọ ấm diệt, không còn dính dáng gì; tánh các ấm tiêu tan, dù có lý sanh mà không có thọ và tưởng thì đồng với cây cỏ. Hình chất này hiện tiền còn không thể được, sau khi chết làm sao lại có các tướng? Nhân đó suy nghiệm sau khi chết không có tướng.

Do người này quán sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm đều hết, nên thấy tất cả tiêu tan, không còn có sự liên hệ nào. Họ cho rằng khi phá thọ và tưởng rồi, dù đang sống mà không có cảm thọ, không có tưởng tượng thì cũng giống như cây cỏ. Thân đang sống đây còn không thể được, huống là sau khi chết, làm sao có tướng! Nên họ cho rằng sau khi chết là không tướng.

Như thế xoay vần có tám thứ vô tướng. Từ đây chấp nhân quả, Niết-bàn… tất cả đều không, chỉ có danh tự suông, rốt ráo đều đoạn hết. Do đây suy tính chấp trước sau khi chết là không, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây là ngoại đạo thứ bảy, do tâm điên đảo lập luận trong năm ấm sau khi chết không có tướng.

Họ cho rằng Niết-bàn, nhân quả… chỉ là nói suông, không có lẽ thật. Như vậy họ bác không nhân quả, không Niết-bàn, tất cả đều không. Đây là chỗ lầm chấp sau khi chết là không của ngoại đạo thứ bảy.

Lại, những người thiện nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc ban đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, trong chỗ hành ấm còn, mà thọ tưởng đều diệt, khởi hai chấp có và không tự thể phá nhau. Người ấy rơi vào luận điên đảo, chấp sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không.

Hai chấp có và không tự thể phá nhau, bởi vì phân nửa có phân nửa không tức là chống nhau, nên nói tự thể phá nhau. Vì vậy, chữ câu phi nghĩa là có và không đều chẳng phải.

Trong sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, thấy có mà chẳng phải có; trong hành ấm thì đổi dời, thấy không mà chẳng phải không.

Vì sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm trước có mà bây giờ đã diệt rồi, nên chẳng phải có; còn hành ấm thì luôn luôn đổi dời, cho nên thấy nó không mà chẳng phải không, vì nó vẫn liên tục.

Như thế xoay vần cùng tận ấm giới, thành tám tướng “đều chẳng phải”; tùy gặp một duyên gì, đều nói sau khi chết có tướng, không tướng.

Nghĩa là, gặp duyên gì cũng nói sau khi chết có tướng, không tướng, nói không dứt khoát.

Lại, suy xét tánh các hành ấm là thay đổi liên tục, nên tân phát ra thấu suốt, cho rằng có, không đều chẳng phải, hư thật lộn xộn.

Nói có không đều chẳng phải thì không có rõ ràng, không biết là hư là thật thế nào, làm cho lộn xộn lúng túng.

Do đây suy tính chấp trước sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không, phía sau mờ mịt không có lối đi, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ tám, do tâm điên đảo lập luận trong năm ấm sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không.

Đây là ngoại đạo thứ tám, chấp sau khi chết rồi, năm ấm này nói có nói không đều chẳng phải.

Lại, những người thiện nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem gốc ban đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, sanh ra suy tính chấp trước sau cùng là không. Người ấy rơi vào bảy thứ luận đoạn diệt.

Hoặc họ chấp thân này diệt, hoặc chấp dục hết là diệt, hoặc chấp khổ hết là diệt, hoặc chấp vui tột là diệt, hoặc chấp xả tột là diệt. Như vậy xoay vần cùng tận bảy thứ, hiện tiền đều là tiêu diệt, diệt rồi không trở lại. Do đây suy tính chấp trước sau khi chết là đoạn diệt, rơi vào ngoại đạo, lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ chín, do tâm điên đảo lập luận trong năm ấm sau khi chết đoạn diệt.

Những người này chấp đoạn diệt vì thấy mé sau cùng là không, không còn sanh nữa. Bởi vì khi khổ mà hết khổ rồi thì khổ diệt mất, khi vui mà hết cơn vui rồi thì vui cũng mất. Vì tột khổ rồi cũng diệt, tột vui rồi cũng diệt, tột xả rồi cũng diệt nên chấp tất cả đều tiêu diệt.

Lại, những người thiện nam ở trong chánh định, do tâm chân chánh ngưng lặng vững chắc, ma không được cơ hội thuận tiện, xét cùng tột cội gốc của các loài chúng sanh, xem chỗ ban đầu trong sạch thầm kín mà thường nhiễu động kia, sanh ra suy tính chấp trước ở sau cùng là có. Người ấy rơi vào chấp năm thứ luận Niết-bàn.

Hoặc cho Dục giới là chánh chuyển y, do xem thấy sáng suốt tròn khắp nên sanh lòng yêu thích. Hoặc cho Sơ thiền là Niết-bàn vì tánh không lo buồn. Hoặc cho Nhị thiền là Niết-bàn vì tâm không khổ. Hoặc cho tam thiền là Niết-bàn vì rất vui. Hoặc cho Tứ thiền là Niết-bàn vì cả hai khổ vui đều mất, không phải chịu sanh diệt trong luân hồi.

Chuyển y là chuyển bỏ chỗ nương của các pháp tạp nhiễm, để chứng được chỗ nương của các pháp thanh tịnh, tức chuyển sanh tử thành Niết-bàn.

Ở đây những người cho cõi Dục giới là chánh chuyển y tức là Niết-bàn. Ví như họ thấy mình đang được sống trong cảnh sung túc, ấm no vui sướng trong vật chất đầy đủ, bèn cho như vậy là Niết-bàn, chấp ngay ở Dục giới là Niết-bàn. Sơ thiền là ly sanh hỷ lạc, tức do lìa hết dục lạc nên hết buồn khổ mà được hỷ lạc, không còn lo buồn, cho đó là Niết-bàn. Nhị thiền là định sanh hỷ lạc, cho tâm không còn khổ nữa là Niết-bàn. Tam thiền xả hết khổ vui, không còn bị luân hồi sanh diệt, nên cho đó là Niết-bàn.

Do mê lầm cõi trời hữu lậu, khởi hiểu là vô vi, lấy năm chỗ an ổn làm nơi nương tựa thù thắng thanh tịnh. Xoay vần như thế có năm chỗ cứu cánh.

Cõi trời hữu lậu là từ Dục giới tới Sắc giới, còn trong sanh diệt mà lại cho đó là vô vi bất sanh bất diệt. Chấp năm thứ vui mà họ cho là Niết-bàn, làm chỗ nương tựa.

Do đây mà suy tính chấp trước năm thứ Niết-bàn hiện có, rơi vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ-đề. Đây là ngoại đạo thứ mười, do tâm điên đảo mà lập luận trong năm ấm có năm thứ Niết-bàn hiện tại.

Đó là mười thứ chấp lầm thuộc hành ấm, gồm có: Một là hai thứ luận vô nhân. Hai là bốn thứ chấp biến thường. Ba là chấp một phần thường một phần vô thường. Bốn là chấp hữu biên. Năm là chấp bốn thứ luận điên đảo biến kế, càn loạn bất tử. Sáu là chấp sau khi chết có tướng. Bảy là chấp sau khi chết không có tướng. Tám là chấp sau khi chết chẳng phải có chẳng phải không. Chín là chấp ngũ ấm sau khi chết đoạn diệt. Mười là chấp năm thứ Niết-bàn hiện tại.

Đến đây Phật kết thúc:

Này A-nan, mười thứ cuồng giải trong thiền định như thế, đều do hành ấm dụng tâm xen lẫn nên hiện ra hiểu biết này. Chúng sanh mê lầm không tự xét lường, gặp những cảnh hiện tiền này, lấy mê làm ngộ, tự nói đã chứng quả thánh, thành tội đại vọng ngữ, rơi vào địa ngục Vô gián.

Sau khi ta diệt độ, các ông cần phải đem lời của Như Lai truyền dạy cho chúng sanh đời mạt pháp, khiến cho khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho tâm ma tự gây những tội lỗi sâu nặng. Bảo vệ che chở cho họ tiêu dứt các tà kiến. Dạy cho họ thân tâm đều khai mở được nghĩa giác ngộ chân thật, nơi đạo Vô thượng không gặp những lối tẽ. Chớ để họ mong cầu được một ít cho là đủ, nêu bày lời dạy thanh tịnh của bậc Đại giác vương.

Mười thứ ma hành ấm này, đối với các thứ ma trước mới thấy dường như ít nguy hiểm hơn. Vì các thứ ma trước phá đủ cách, thấy rất nguy hiểm; đến đây ma không phá nữa, nhưng do mình nhận thấy sai, nên lạc vào ngoại đạo. Tự mình thấy sai so với ma phá, thứ nào nguy hiểm hơn? Thật ra, các ma trước mới nghe tưởng như nguy hiểm, nhưng không bằng ma hành ấm này, bởi vì hễ thấy sai rồi thì không ai sửa được. Ma phá, đến khi tỉnh mình biết, hoặc có ai chỉ cho thì hết lầm; còn chỗ này vì mình thấy nên cho như vậy là đúng, khó mà sửa được.

Cho nên, sự tu càng lâu lại càng khó. Khó là vì tế nhị quá nên chúng ta dễ lầm, hễ lầm rồi thì không thể đi tới chỗ cứu cánh như sự mong mỏi.

5. Thức ấm

Thức ấm là cái cuối cùng của năm ấm. Qua được thức ấm là xong phần ngũ ấm ma, là qua khỏi Thập địa Bồ-tát. Trong phần thức ấm này, không còn bị ma quỷ phá nữa, chỉ có những nhận định sai lầm thành kiến chấp. Đến đây, chúng ta sẽ thấy trình độ của chúng ngoại đạo cũng thật là cao chứ không phải tầm thường.

Này A-nan, người thiện nam kia khi tu chánh định, hành ấm đã hết, ở chỗ trong sạch thầm kín mà nhiễu động, sự sanh chung của các chúng sanh trong thế gian bỗng nhiên bị tiêu diệt. Giềng mối sâu kín của mầm sanh, mạch ngầm cảm ứng của sự đền trả các nghiệp đã dứt mất.

Đồng phần là chung của tất cả chúng sanh. Bồ-đặc-già-la chỉ cho mầm sanh của chúng sanh trong các cõi, gốc của bào thai.

Khi qua khỏi hành ấm thì mầm sanh ở trong tam giới bị huỷ diệt, những manh mối vi tế không còn thấy nữa, cho nên sự cảm ứng nghiệp báo tới đây đã dứt. Nói một cách gọn hơn, đến thức ấm này thì mầm móng sanh của tất cả chúng sanh đã dứt, không còn cảm ứng nữa.

Nơi trời Niết-bàn sắp đại minh ngộ, giống như khi gà gáy sáng, nhìn về phương đông đã thấy có ánh sáng.

Đại minh ngộ là được sáng suốt hoàn toàn, tức ngộ đạo. Tinh sắc là ánh sáng. Đây nói người dứt hết hành ấm qua thức ấm thì mọi mầm sanh tử tiếp nối ngang đây đều dứt, Niết-bàn chân thật sắp hiện. Giống như khi gà gáy sáng, nhìn về phương đông thấy mặt trời sắp lên.

Sáu căn rỗng lặng không còn giong ruổi, trong ngoài lặng lẽ sáng suốt, vào không chỗ vào, thấu suốt được nguyên do thọ mạng của mười hai loài chúng sanh ở khắp mười phương. Xem thấy nguyên nhân đều từ chấp trước, nên các loài không còn chiêu dẫn được nữa. Trong mười phương thế giới đã được tánh đồng, sắc sáng không còn bị chìm mất, phát hiện những chỗ sâu kín. Đây gọi là phạm vi của thức ấm.

Như trên là còn trong phạm vi của thức ấm. Tuy thấu được chỗ thâm sâu đó, cũng chưa thoát ra khỏi thức ấm. Vì tới thức ấm tức gần Niết-bàn nhưng vẫn chưa đạt được Niết-bàn, cũng như gần sáng chưa phải là sáng.

Theo các chỗ giảng, khi qua được hành ấm rồi mà chưa phá thức thứ bảy vẫn còn chấp một phần của thức thứ tám là ngã. Nó chấp ngã như vậy vì chưa thật rõ thức thứ tám, chưa thấu suốt được Như Lai tàng ma chỉ thấy cái bóng của Như Lai tàng rồi chấp làm ngã, tức chưa thật đến nơi đến chốn. Bởi vậy, còn ở trong phạm vi thức ấm là chưa hoàn toàn tỉnh ngộ sáng suốt.

Nếu đối với các sự chiêu cảm đã tới chỗ chung rồi thì tiêu dung sáu căn, khi đóng hay mở đều được thành tựu, thấy nghe thông nhau, dùng lẫn nhau thanh tịnh.

Nếu dứt hết được các mầm lôi cuốn để sanh ở nơi này nơi kia, thì trong tánh đồng đó sáu căn không còn riêng rẽ, đóng hay mở đều được thành tựu. Như vậy, tới đây con mắt có thể nghe, lỗ tai có thể thấy, nghĩa là sáu căn hỗ dụng, không còn cách biệt. Sáu căn chúng ta hiện nay đang bị dính khắn, nên không thể dùng cái này thay cái kia được. Còn khi tu tới đây thì được tánh đồng, nên sáu cái riêng mất đi, trở thành một cái chung, bởi chung nên hỗ dụng thanh tịnh.

Thế giới mười phương cùng với thân tâm như ngọc lưu ly, trong ngoài đều sáng suốt, gọi đó là thức ấm hết. Người ấy có thể vượt khỏi mạng trược.

Phải tới chặng này mới hết mạng trược. Đến đây thế giới, thân và tâm, cả ba đều rỗng suốt như lưu ly, không còn mờ tối. Ở những giai đoạn trước, có khi thấy cảnh ở trước sáng mà trong tâm tối, có khi thấy trong tâm sáng mà cảnh tối, hoặc thấy mờ mờ không rõ. Tới đây tất cả rõ ràng, cảnh hoàn toàn sáng, thân và tâm hoàn toàn sáng. Cả ba đều trong sáng như lưu ly mới qua được thức ấm.

Như vậy, chặng đường nào rõ ràng chặng đó. Nếu chúng ta tu mà không hiểu, không nắm vững điều này thì dễ lầm lẫn, mới đi một đoạn đường mà tưởng đâu đã đến nơi, đưa tới những sai lầm.

Xem xét nguyên do của nó, gốc là vọng tưởng điên đảo, hình ảnh giả dối rỗng không.

Như vậy cả cảnh, thân và tâm đều là những hình ảnh hư dối rỗng không, từ vọng tưởng mà sanh chứ không có gì thật. Đó là nói tổng quát phạm vi của thức ấm và ra khỏi thức ấm. Người tu nếu không mắc kẹt nơi thức ấm, tất nhiên sẽ bước qua các quả vị Bồ-tát, lên tới Đẳng giác Diệu giác.

Đến đây đi vào chi tiết mỗi cái chấp của thức ấm.

A-nan nên biết, người thiện nam ấy đã tột các hành ấm là không, trở về cội nguồn của thức ấm, đã diệt được danh diệt, nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt chưa được tròn đủ. Người ấy có thể khiến nơi thân mình, các căn khi hợp khai, khi chia cách, cũng cùng các loài trong mười phương thông hiểu nhau; tánh hiểu biết đó thông suốt nhau, có thể vào tánh ban đầu tròn đủ.

Nếu nơi chỗ trở về đó, lập ra nhân chân thường, sanh khởi thắng giải, người ấy rơi vào chấp “nhân, sở nhân”, thành bè bạn của ngoại đạo Ta-tỳ-ca-la, chấp trở về với minh đế, lầm Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ nhất, lập tâm có sở đắc thành quả có chỗ trở về, trái xa tánh viên thông, đi ngược với thành Niết-bàn, sanh vào giống ngoại đạo.

Người này lấy chỗ trở về cho là nhân chân thường, tự xem đó là hiểu biết thù thắng. Đây là cái chấp thứ nhất, chấp có chỗ trở về tức sở nhân, và mình là người trở về tức năng nhân. Do thấy có tâm sở đắc nên thành quả có chỗ trở về.

A-nan, người thiện nam ấy, đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt, nhưng chỗ tinh diệu của tịch diệt chưa được tròn đủ. Nếu nơi chỗ trở về xem là tự thể, tất cả chúng sanh trong mười hai loài ở khắp cả cõi hư không đều từ trong một thân ta lưu xuất, rồi sanh khởi thắng giải. Người ấy rơi vào chấp “năng, phi năng”, thành bè bạn với Ma-hê-thủ-la hiện vô biên thân, lầm Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến.

Năng, phi năng là hay tạo tác và cũng không tạo tác, tức chấp cái ta trùm khắp, tất cả chúng sanh nơi thế giới mười phương đều ở trong thân ta, như vậy ta là năng, còn các chúng sanh đó là phi năng.

Đây gọi là hạng thứ hai, lập tâm năng vi thành quả năng sự, trái xa tánh viên thông, đi ngược với thành Niết-bàn, sanh vào giống ngoại đạo Đại mạn thiên, thấy cái ngã trùm khắp viên mãn.

Tám năng vi thành quả năng sự, là tâm hay làm thành quả hay nên việc.

Đại mạn thiên thấy ngã trùm khắp, cho chúng sanh đều sanh từ trong thân ta. Hễ chấp giống như vậy thì thành bè bạn của đám này.

Lại, người thiện nam ấy đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt, nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt chưa được tròn đủ. Nếu đối với chỗ trở về thấy có chỗ quay về nương tựa, liền tự nghi thân tâm từ đó lưu xuất, hư không mười phương đều từ đó sanh khởi. Ngay chỗ tất cả đều từ đó lưu xuất, khởi hiểu là thân chân thường không còn sanh diệt. Ở trong sanh diệt sớm chấp cho là thường trụ. Đã lầm cái chẳng sanh cũng mê luôn cái sanh diệt, an trụ trong mê lầm sâu nặng mà sanh khởi thắng giải.

Người này thấy thật sự có chỗ cho mình trở về nương tựa, cho rằng thân tâm mình và mười phương hư không đều từ chỗ nương tựa đó lưu xuất; khởi hiểu đó là thân chân thường, bị chìm sâu vào mê lầm; ngay ở trong sanh diệt chấp lầm là thường trụ. Như thân này là thứ bại hoại, là sanh diệt mà nói là thường trụ, vậy nên đã chẳng rõ cái chẳng sanh mà cũng không biết cái sanh diệt luôn.

Người ấy rơi vào chấp “thường, phi thường”, thành bạn bè những kẻ chấp Tự tại thiên, lầm Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ ba, lập tâm nhân y thành quả vọng kế, trái xa tánh viên thông đi ngược với thành Niết-bàn, sanh ra hạt giống “đảo viên”.

Nhân y là có nhân để nương tựa. Vọng kế là suy tính chấp lầm hư dối.

Người này chấp chỗ trở về nương tựa là thường, còn tất cả chúng sanh nương tựa nơi đó là chẳng thường. Người ấy thành bè bạn của Tự tại thiên, vì Tự tại thiên cho rằng mình hay sanh ra tất cả chúng sanh là chẳng thường, không biết cõi trời Tự Tại thiên chẳng phải thường trụ. Đó là chấp điên đảo.

Lại, người thiện nam ấy, đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt, nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt chưa được tròn đủ. Nếu ở chỗ biết, do biết cùng khắp, nhân biết đó lập thành sự nhận hiểu rằng “cỏ cây mười phương đều gọi là hữu tình, cùng với người không khác; cỏ cây làm người, người chết trở lại thành cây cỏ mười phương, đều cùng biết khắp, không có chọn lựa”, rồi sanh khởi thắng giải.

Người ấy rơi vào chấp “tri vô tri”, thành bạn bè của Bà-tra-tản-ni, chấp tất cả đều biết, lầm mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ tư, chấp tâm khắp biết, thành quả sai lầm hư dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược với thành Niết-bàn, sanh ra hạt giống “đảo tri”.

Những người này không có chọn lựa cái nào là hữu tình, cái nào là vô tình, mà cho rằng tất cả đều là biết khắp, sanh khởi thắng giải như vậy nên chấp tri vô tri. Tri là biết, cái biết trùm khắp mười phương, đó là cái biết của người, là chủ. Cỏ cây là vô tri, do tri trùm khắp nên nó cũng thành tri. Ngoại đạo lập tri vô tri là cái biết ban đầu trùm khắp tất cả cái vô tri, nên gọi tri vô tri. Chấp như vậy nên sanh ra đảo tri, nghĩa là biết điên đảo.

Lại, người thiện nam ấy đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt, nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt chưa được tròn đủ. Nếu trong chỗ viên tịch diệt chưa được tròn đủ. Nếu trong chỗ viên dung các căn hỗ dụng đã được tùy thuận, liền nơi sự biến hóa tròn đầy mà tất cả phát sanh, mong được ánh sáng của lửa, ưa sự trong sạch của nước, thích sự chuyển khắp của gió, xem sự thành tựu của trần, mỗi mỗi đều tôn sùng thờ phụng, lấy các trần này làm nhân ban đầu, lập ra sự nhận hiểu thường trụ.

Người ấy rơi vào chấp “sanh vô sanh”, thành bạn bè của Ca-diếp-ba cùng những Bà-la-môn, đem hết thân tâm siêng năng thờ phụng lửa, nước để cầu ra khỏi sanh tử, mê lầm Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ năm, chấp trước thờ phụng, tâm mê theo vật, lập nhân vọng cầu mong được quả hư dối, trái xa tánh viên thông, đi ngược với thành Bồ-đề, sanh ra hạt giống “điên hóa” (biến hóa điên đảo).

Do chấp trước, tâm mê chạy theo vật, cái nhân mong cầu hư dối thì quả đạt được cũng là hư dối. Học đến đây mới biết vì lý do gì người ta dạy thờ lửa, thờ nước. Do những người tu đến chỗ phá thức ấm, nhìn thấy lửa sáng rỡ đẹp, thấy nước trong sạch đẹp… cho tứ đại là gốc của muôn vật, sanh ra muôn vật, nên đem thân tâm thờ phụng như chúng ta kính thờ tổ tiên.

Lại, người thiện nam ấy đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt, nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt chưa được tròn đủ. Nếu nơi chỗ tròn sáng chấp cái rỗng trong tánh sáng, bác bỏ và diệt trừ các sự biến hóa, nương tựa nơi hằng diệt mất làm chỗ trở về, rồi sanh khởi thắng giải.

Người ấy rơi vào chấp “quy vô quy”, thành bạn bè với các thần Hư không trong Vô tưởng thiên, lầm mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ sáu, do tròn đủ tâm hư vô mà thành quả “không vong”, trái xa tánh viên thông, đi ngược thành Niết-bàn, sanh ra hạt giống đoạn diệt.

Quy vô quy là trở về mà không có chỗ trở về. Tâm hư vô là tâm trống không. Không vong là quên mất hết.

Những người này chấp nơi chỗ rỗng không, nên tất cả sự biến hóa họ đều cho tiêu diệt hết. Họ trở về chỗ vĩnh diệt nên đồng với thần Hư không trong Vô tưởng thiên, không có tướng mạo.

Lại, người thiện nam ấy đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt chưa được tròn đủ. Nếu nơi chỗ viên thường chấp giữ thân được thường trụ, đồng với tánh tinh viên (tinh ba tròn đầy) còn mãi không bị chết mất, rồi sanh khởi thắng giải.

Người này chấp giữ thân cho còn mãi không chết, không muốn nó hoại.

Người ấy rơi vào chấp “tham phi tham”, thành bạn bè của các vị A-tư-đà cầu được tuổi thọ lâu dài, lầm mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ bảy, chấp trước cội nguồn của mạng sống, lập nhân cố giữ cái hư dối, tiến đến quả kéo dài sự khổ nhọc, trái xa tánh viên thông, đi ngược thành Niết-bàn, sanh ra hạt giống “vọng diên” (sự kéo dài hư dối).

A-tư-đà là vị tiên A-tư-đà. Những người này thích sống lâu nên gọi là tham, nhưng họ đã qua được mấy phần chấp ở trước, không còn kẹt trong sắc thọ tưởng hành, khi những thứ ấy đã diệt thì tham không thành, nên gọi là phi tham.

Hạng này lập nhân cố giữ cái hư dối, hướng đến quả kéo dài sự lao khổ. Con người vì nuôi thân này sống, nên phải cực vì sự sống. Bởi ăn nên phải làm, làm nên chịu cực khổ, vì mình mà cực. Còn có thân là còn khổ, mỗi ngày sống là thêm cực, vậy mà họ lại muốn giữ thân còn hoài thì khổ nhọc càng kéo dài, nên gọi là trường lao.

Nhiều người cho sống già là nhọc, nhưng nếu chết sớm mà không biết tu hành thì còn khổ hơn, khổ vì bị rơi vào địa ngục ngạ quỷ súc sanh, còn cực hơn làm người. Bởi vậy, tuy thân này sống lâu mệt nhọc, nhưng biết tu thì những năm tháng đó cũng quý.

Lại, người thiện nam ấy đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt chưa được tròn đủ. Quán xét mạng sống thông lẫn nhau, muốn giữ lại trần lao, e sợ nó tiêu mất. Khi ấy liền ở nơi mé này ngồi cung hoa sen, hóa ra rất nhiều bảy báu và nhiều mỹ nữ, buông lung tâm mình, rồi sanh ra thắng giải.

Người ấy rơi vào chấp “chân vô chân”, thành bạn bè của Tra-chỉ-ca-la, lầm mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ tám, phát ra nhân suy nghĩ sai lầm, lập thành quả các trần hưng thịnh, trái xa tánh viên thông, đi ngược thành Niết-bàn, sanh ra hạt giống thiên ma.

Gọi là chấp chân vô chân vì họ hóa ra được nhiều thứ báu, ngồi trên đài sen v.v… thấy như chân nhưng lại không phải chân. Người này rơi vào thiên ma, vì ưa hưởng các dục lạc.

Lại, người thiện nam ấy đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt chưa được tròn đủ. Trong chỗ sáng suốt của mạng căn phân biệt sự tinh và thô, quyết định cho rõ ràng thật và giả, nhân quả đền đáp nhau, chỉ cầu cảm ứng, trái với đạo thanh tịnh. Nghĩa là thấy Khổ đoạn Tập chứng Diệt tu Đạo, ở nơi Diệt đế đã dừng lại không chịu tiến lên, rồi sanh ra thắng giải.

Người ấy hẳn rơi vào định tánh Thanh văn, thành bè bạn với những vị Tăng vô văn, những người tăng thượng mạn, lầm mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ chín, viên mãn tâm tinh ứng, thành tựu quả tiến đến chỗ tịch diệt, trái xa tánh viên thông, đi ngược thành Niết-bàn, sanh ra hạt giống trói buộc nơi không.

Sơ quyết chân ngụy là đối với chỗ thật và giả, sự quyết đoán chưa chín chắn. Người này đã thấy được Tứ đế, nhưng chứng được Diệt đế rồi thôi, không tiến lên nữa. Như vậy vị này chứng quả A-la-hán chưa? Chứng rồi. Nhưng chưa thật rõ được cái nào chân cái nào giả, chỗ nhận định chưa thấu đáo rành rẽ, nên hài lòng tự mãn ở nơi đó. Do vậy vị này sau khi diệt hết mọi phiền não rồi dừng ngang đó, sống với Diệt đế chứ không tiến lên nữa, tức là lấy sự tịch diệt đó làm chỗ cứu cánh. Vì vậy mà bị chê là trầm không trệ tịch.

Đây gọi là vị tăng ít học, cũng là những vị tăng thượng mạn. Trong kinh Pháp Hoa, khi Phật sắp nói về nhân duyên lớn chư Phật xuất hiện nơi đời thì năm nghìn người đứng dậy lui về. Đó gọi là những người tăng thượng mạn, chưa chứng mà tự cho là đã chứng, nên không ở lại  nghe pháp.

Lại, người thiện nam ấy đã tột hành ấm là không, đã diệt được sanh diệt nhưng chỗ tinh diệu tịch diệt chưa được tròn đủ. Nếu nơi tánh giác sáng suốt thanh tịnh viên dung, nghiên cứu chỗ thâm diệu liền lập làm Niết-bàn mà không tiến tới nữa, rồi sanh thắng giải.

Người ấy hẳn rơi vào định tánh Bích-chi, thành bè bạn của những vị Duyên giác, Độc giác không hồi tâm về Đại thừa, lầm mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là hạng thứ mười, do viên mãn tâm giác thông suốt, thành tựu được quả lặng lẽ sáng suốt, trái xa tánh viên thông, đi ngược thành Niết-bàn, sanh ra hạt giống giác viên minh nhưng không chuyển hóa để tròn đủ.

Hàng Độc giác là Bích-chi Phật, đã thấy được chỗ viên minh, nghiên cứu thâm diệu, nhưng hài lòng ở chỗ yên vắng riêng, không muốn làm gì, không muốn gần ai.

Như vậy, hai hạng sau là định tánh Thanh văn tức A-la-hán và định tánh Bích-chi là Bích-chi Phật. Tuy hai bậc này không tiến lên nữa, nhưng các ngài đã tới chỗ viên minh sáng suốt rồi, không còn bị trầm luân.

Như vậy trong mười cái lầm của thức ấm, bảy trường hợp trước lạc vào ngoại đạo, điều kế là thành thiên ma, còn hai cái lầm sau là vào hàng A-la-hán (Thanh văn) và Bích-chi Phật (Duyên giác).

Đến hết thức ấm này có chỗ gọi là Đệ bát địa, hay Niết-bàn A-la-hán. Người tu đến đây có thể bị mắc kẹt ở quả vị A-la-hán hoặc ở quả vị Bích-chi Phật không vượt lên được. Các vị Bồ-tát thì phải được nhờ Phật khuyến phát để tăng tiến lên.

Này A-nan, mười thứ thiền-na như thế, ở giữa đường thành ra cuồng mê. Nhân y nơi mê hoặc trong chỗ chưa đủ tưởng là chứng đầy đủ, đều do thức ấm dụng tâm xen lẫn, nên sanh ra những địa vị này. Chúng sanh mê muội không tự xét lường, gặp những cảnh này hiện tiền, mỗi người do tâm mê lầm, yêu thích những tập cũ mà tự dừng nghỉ, cho là chỗ trở về an ổn rốt ráo. Họ tự nói đã đầy đủ đạo Vô thượng Bồ-đề, trở thành đại vọng ngữ. Ngoại đạo tà ma, khi nghiệp cảm đã hết thì rơi vào địa ngục Vô gián. Thanh văn Duyên giác thì không tiến lên được.

Các ông để tâm gìn giữ đạo của Như Lai, sau khi ta diệt độ đem pháp môn này truyền dạy cho chúng sanh đời mạt pháp, khiến cho khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho ma tà kiến tự làm cho chìm đắm trong tội lỗi. Bảo vệ thương xót cứu giúp người tu hành tiêu dứt các tà duyên, khiến cho thân tâm họ vào tri kiến Phật, từ lúc bắt đầu đến khi thành tựu không gặp các đường tẽ.

Đến đây kết thúc năm ấm ma. Nói là Ngũ ấm ma nhưng thật ra là vượt qua năm ấm, trên con đường tiến tu không còn bị các ấm che mờ nữa, cuối cùng là tâm, thân và cảnh đều sáng rỡ như lưu ly. Đến đó là đã vượt khỏi thức ấm, đối với hàng Thập địa Bồ-tát là đã đến địa thứ chín và thứ mười. Phần này rất hệ trọng. Nếu chúng ta phá được mười thứ ma trong mỗi ấm thì sẽ tiến đến chỗ cứu cánh thành Phật.

Lời căn dặn chí yếu của đức Phật là phải làm sao đem những lời Phật dạy, đem pháp môn Phật chỉ ở đây, nhắc nhở cho người sau, để họ đừng bị rơi vào đường tà, có thể vào được tri kiến Phật, không đi các lối tẽ.

Kế đây, Phật nói những công dụng của người tu, khi qua được ngũ ấm ma.

Pháp môn như thế, chư Như Lai nhiều như số bụi trong hằng sa kiếp quá khứ đã nương nơi pháp môn này mà tâm được khai ngộ và chứng Vô thượng đạo. Thức ấm nếu hết thì hiện tiền các căn của ông được dùng thay lẫn nhau đó, có thể vào địa vị Kim cang Càn huệ của Bồ-tát; trong tâm tinh thuần tròn sáng đó phát ra sự biến hóa, như mặt trăng báu hiện trong món đồ lưu ly trong trẻo.

Chúng ta có thể nói cách khác, như trong cái bình thủy tinh để một bóng đèn, khi bóng đèn cháy sáng, chúng ta thấy nó sáng rỡ không bị ngăn ngại. Ở đây cũng vậy, khi tâm tinh thuần tròn sáng rồi, nó phát hiện ra không bị trở ngại.

Như thế mà vượt khỏi Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh tâm, Kim cang thập địa của Bồ-tát tu hành, Đẳng giác tròn sáng, vào được biển Diệu trang nghiêm của Như Lai, viên mãn Bồ-đề, trở về Vô sở đắc.

Rốt cuộc trở về Vô sở đắc, tức không chỗ được. Vô sở đắc là có đắc hay không? Tại sao nói đủ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác, rồi lại Vô sở đắc? Do vì đã thấy tâm thể của tất cả chúng sanh là sẵn có. Tâm thể sẵn có đó, gọi là Phật pháp thân. Tuy nhiên trên con đường tu, tạm đặt ra nhiều chặng. Dù có đặt ra nhiều chặng đường, nhưng sự thật thì không thêm bớt gì cả. Vậy có được cái gì không? Sống trở về với cái mình sẵn có thì có gì là được?

Cũng như mình sẵn có một gia tài lớn, nhưng vì quên mất lại đi lang thang chỗ này chỗ kia, làm ăn thất bại, thiếu thốn nghèo đói. Nay mình nhớ lại gia sản lớn của cha mẹ, liền trở về và được cha mẹ trao lại sự nghiệp. Đó là được hay là không được? Gia sản đó cha mẹ để dành sẵn cho mình thì mình có quyền hưởng, chỉ vì mình bỏ đi nên nghèo khổ, nay trở về nhận lại của sẵn có thì có gì gọi là được! Cái gì mình không có, ai cho mới gọi là được; còn của mình, bây giờ trở về nhận lại thì không có gì gọi là được, cho nên nói Vô sở đắc.

Đó là nói tổng quát, đến đây mới giải thích thêm rành rẽ.

Đây là chư Phật Thế Tôn trước, thuở quá khứ ở trong Chỉ và Quán đã giác ngộ sáng suốt, phân tích được những việc ma vi tế.

Đây tức chỉ cho kinh này, pháp môn này. Những đức Phật trước ở đời quá khứ, chính ở trong chánh định, trong thiền quán, các ngài dùng tánh giác sáng suốt, phân tích những việc ma vi tế cho chúng ta biết như vậy.

Ma cảnh hiện tiền, ông hay biết rõ thì tâm nhơ được rửa sạch, không rơi vào tà kiến, ấm ma tiêu diệt, thiên ma bị tan nát, đại lực quỷ thần khiếp đảm chạy trốn, các loài ly mỵ võng lượng không còn dám xuất hiện, thẳng đến Bồ-đề không có thiếu sót. Dù cho những người hạ liệt cũng được tăng tiến, đối với đại Niết-bàn tâm không mê muội.

Điều trọng yếu trong việc diệt ma là tâm nhơ phải tẩy trừ. Tâm nhơ tẩy trừ rồi thì bao nhiêu thứ ma đều chạy hết. Tâm nhơ không trừ thì các ma hưng thịnh. Phá được hết các ấm ma thì mọi thứ khác không có gì làm hại mình được, đi tới Bồ-đề viên mãn.

Nếu những chúng sanh ngu độn ở đời mạt kiếp chưa biết thiền-na, không biết Phật pháp, ưa tu chánh định, ông sợ họ rơi vào đường tà, nên một lòng khuyên bảo họ trì thần chú Phật đảnh đà-la-ni của ta. Nếu chưa thể trì tụng được thì viết để trong thiền đường hoặc đeo trên thân, thì tất cả các ấm ma không thể lay động được. Ông nên kính vâng theo khuôn phép rốt sau, chỗ tu tiến cứu cánh của Như Lai mười phương.

Đó là lời đức Phật khuyên bảo ngài A-nan và hội chúng, phải y theo lời Phật dạy mà tu hành để khỏi rơi đường tà, không lạc vào ngoại đạo.

Qua đoạn này, chúng ta thấy kết quả của người tu sau khi phá được năm ấm thì sẽ tiến lên quả vị Bồ-tát, rồi thẳng tới Đẳng giác Diệu giác, không còn bị ma chướng làm trở ngại nữa; trái lại, ma kinh hoàng sợ sệt không dám quấy nhiễu. Người nào đi được tới đây cũng phải trải qua nhiều gian nan cay đắng. Muốn được kết quả an ạc đầy đủ, cái giá phải trả là vượt qua đám ma quấy phá dọc đường; có những khi điêu đứng với nó, có những khi muốn làm thân thuộc với nó.

Nếu chúng ta vượt qua được hết những rào cản đó, tới đây tự tại, thì lúc này chúng ma hoảng hồn khiếp vía, không còn dám khinh khi như trước nữa. Ngược lại, nếu không chịu khổ nhọc để vượt qua thì sẽ làm bè bạn hoặc tôi tớ của ma. Như vậy trong sự tu, chúng ta muốn tiến lên thì phải chấp nhận những khó khăn, nhất là phải trì chí hướng về mình, chứ đừng lệ thuộc bên ngoài, cũng đừng dính với những ảo ảnh do tâm biến hiện.

Sau đây là điều nghi cuối cùng của ngài A-nan. Chúng ta nẵm vững chỗ nghi này, mới thấy đoạn này là thiết yếu.

VI. KHAI THỊ BẢN NHÂN NĂM ẤM LÀ VỌNG TƯỞNG – GIỚI HẠN PHẠM VI CÁC ẤM

A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nghe Phật chỉ dạy, đảnh lễ kính vâng ghi nhớ không quên, ở trong đại chúng lại bạch Phật rằng:

– Như Phật đã dạy, trong tướng của năm ấm có năm thứ hư vọng, làm tâm tưởng cội gốc. Chúng con bình thường chưa được nghe Như Lai khai thị tỷ mỷ.

Khi kết thúc mỗi ấm, Phật đều nói bản nhân của nó gốc từ vọng tưởng hư dối mà thành, nhưng đại chúng chưa được nghe Phật giải thích tường tận. Do đó ngài A-nan nghi, nên đặt thành câu hỏi.

Lại năm ấm này là đồng tiêu trừ hay theo thứ lớp mà hết? Năm lớp như thế, đến đâu là giới hạn? Cúi mong Như Lai phát tâm đại từ, vì đại chúng ở đây khiến cho tâm mắt họ được trong sáng, để làm con mắt tương lai cho tất cả chúng sanh đời mạt kiếp.

Phật bảo A-nan:

– Bản giác nhiệm mầu sáng suốt tinh thuần chân thật trong sạch viên mãn, không lưu giữ sanh tử và các trần cấu, cho đến hư không đều nhân nơi vọng tưởng mà sanh khởi. Tánh giác cội gốc ban đầu này vốn là vi diệu sáng suốt tinh thuần chân thật, do vọng mà phát sanh ra khí thế gian.

Tinh chân diệu minh bản giác viên tịnh chỉ cho thủy giác và bản giác. Đứng về mặt thủy giác hay bản giác đều không chứa sanh tử và trần cấu. Đây là câu trả lời tổng quát: Trong bản giác viên tịnh không có sanh tử, trần cấu; do mê lầm bản giác viên tịnh mà sanh khởi muôn sự muôn vật, cho đến hư không cũng do vọng tưởng mà sanh, thế giới cũng từ vọng tưởng mà có.

Thế giới hay thế gian gồm: hữu tình thế gian tức tất cả chúng sanh có tình thức; và khí thế gian là sông núi, đất đai, cõi nước… nơi tất cả chúng sanh cư trú.

Như Diễn-nhã-đạt-đa quên đầu nhận bóng.

Diễn-nhã-đạt-đa quên đầu nhận bóng là từ cái gì mà ra? Từ vọng mà ra. Nghĩa là khi tỉnh thì biết đầu mình là đầu, nhưng lúc mê, thấy bóng cái đầu trong gương liền tưởng là đầu mình, lầm nhận bóng cái đầu trong gương là đầu thật, rồi quên cái đầu thật của mình, sanh ra cuồng loạn. Cũng vậy, chúng sanh mê lầm cứ chạy theo những bóng vọng tưởng cho là thật, quên mất bản giác, phát sanh bao nhiêu phiền não trần lao, nên nói do vọng mà sanh.

Do vọng sanh thì có nhân không?

Vọng vốn không nhân. Ở trong vọng tưởng mà lập ra tánh nhân duyên. Mê lầm nhân duyên thì gọi là tự nhiên. Tánh hư không kia còn thật là huyễn sanh thì nhân duyên, tự nhiên đều do vọng tâm chúng sanh suy tính chấp trước.

Sự cuồng loạn đó không có nhân, chỉ do mê lầm mà vọng sanh. Từ vọng tưởng mà lập ra nhân duyên, rồi khi thấy không phải nhân duyên thì nói là tự nhiên. Như khi chúng ta ngủ mê thấy mộng, trong mộng có đủ thứ người, vật. Trong mộng chúng ta phân tích những người, vật mình thấy đó, cho là do nhân duyên hợp mà có. Tuy vậy, nhân duyên ở trong mộng cũng chỉ là nhân duyên của mộng thôi. Nếu nhân duyên trong mộng hết rồi, bèn cho là tự nhiên. Hễ hết nói nhân duyên thì xoay qua tự nhiên. Nhưng nhân duyên hay tự nhiên cũng đều là của cảnh mộng, thì có gì là thật! Cho nên nói nhân duyên nói tự nhiên chỉ là hý luận, không đến được chỗ cứu cánh.

Tánh hư không kia còn là huyễn sanh, vì hư không cũng do vọng mà phát. Từ hư không cho đến thế giới đều là huyễn sanh, do vọng mà có nên không thật. Vì vậy, nói nhân duyên hay tự nhiên đều là do vọng tưởng chúng sanh so chấp mà ra.

Này A-nan, biết chỗ vọng khởi, nói vọng là nhân duyên. Nếu vọng vốn không, nói nhân duyên vọng vốn không có. Huống là chẳng biết mà suy ra là tự nhiên.

Thấy vọng dấy khởi thì gọi đó là nhân duyên, còn nếu nhân duyên vọng không khởi thì đẩy qua tự nhiên, cứ bị mắc kẹt ở hai bên ấy. Như vậy chỉ là trong mê mà lập ra đối đãi, chứ nhân duyên hay tự nhiên đều không thật.

Thế nên Như Lai vì ông mà phát minh bản nhân của năm ấm đồng là vọng tưởng.

Đó là Phật nói lý do gì mà cả năm ấm đều gốc từ vọng tưởng. Bởi vì thế giới, hư không đều là vọng mà có, thì chúng sanh ở trong thế giới, hoặc chấp nhân duyên hay tự nhiên cũng từ hư vọng mà ra.

Thân ông trước là do tưởng của cha mẹ mà sanh. Tâm ông nếu không có tưởng thì không thể đến trong tưởng mà truyền mạng.

Cha mẹ gặp nhau là từ tưởng và nếu mình không có tưởng thì không đến đó. Như vậy, cha mẹ gặp nhau là do tưởng nên có bào thai, rồi mình cũng do tưởng mà kết tụ vô bào thai. Gọi là thọ sanh hay truyền mạng đều là nhập cái mạng vô bào thai. Vậy cả ba đều gốc từ tưởng, thân này có là từ tưởng mà ra.

Như trước ta đã nói, tâm tưởng về vị chua thì trong miệng chảy nước miếng, tâm tưởng lên chỗ cao thì giữa lòng bàn chân nghe rờn rợn. Dốc núi cheo leo chẳng có, vật chua chưa đến, thân của ông nếu chẳng phải chung một nhóm với hư vọng, thì nước trong miệng vì sao nhân nói chua liền chảy ra?

Đó là một ví dụ chính xác, Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ, nếu thân này không phải là hư vọng thì những thứ tưởng hư vọng đó đâu có liên hệ gì đến nó, nó đâu có động. Nay những vọng tưởng về vị chua hay đứng trên cao thì thân liền động, hẳn nhiên là chung một loại với vọng tưởng.

Thế nên phải biết, sắc thân hiện tại của ông gọi là lớp vọng tưởng kiên cố thứ nhất.

Phật chỉ cho chúng ta thấy hai chặng:

– Chặng thứ nhất là khi bắt đầu thọ mạng từ ba tưởng: cha, mẹ và mình. Ba tưởng đó từ hư vọng mà có.

– Khi hiện mang thân những thứ tưởng cũng phát sanh: nghe nói chua là chảy nước miếng, nghe nói đi trên núi cao thì rờn rợn bàn chân, hoặc ban đêm đi đường vắng, nhớ lại chỗ đó nghe nói có ma, liền rởn óc… Tất cả những điều ấy chỉ nghe nói hoặc nghĩ đến là mình có cảm giác liền, có hiện tượng phát ra liền. Đó không phải từ tưởng ra thì là gì? Nên nói thân đồng một loại với tưởng.

Hai chặng này quá rõ: chặng ban đầu và chặng hiện hữu. Chặng đầu là từ tưởng, rồi chặng hiện hữu cũng từ tưởng. Như vậy cuộc sống chúng ta đều là từ tưởng.

Ví dụ về việc ăn, ai cũng biết ăn để sống, nhưng nếu bụng chưa đói lắm mà thấy cơm khô canh lạt thì nuốt không trôi. Trái lại, khi bụng đói thì ngon dở gì nuốt cũng được hết. Như vậy, ăn cũng thuộc tưởng. Mình nghĩ món đó không ngon thì ăn thấy không ngon. Như khi có người làm thức ăn cho mình, nếu mình cảm thấy họ làm dơ dáy, ăn có ngon không? Để vô lưỡi nghe ngon, nhưng nếu khởi tưởng dơ thì ăn hết ngon. Như vậy rõ ràng từ tưởng mà ra.

Thân này là vọng tưởng kiên cố chứ không có gì thật. Vậy mà chấp nó, vỗ ngực xưng ta đây là thật, đâu biết là vọng tưởng. Bản chất của thân là vọng tưởng, vì nó cứng chắc quá nên có thân này. Vì vậy mới nói sắc thân là lớp vọng tưởng kiên cố thứ nhất.

Chính khi nghe lời nói ở trên, nơi tâm nghĩ tưởng đến chỗ cao, có thể khiến cho thân ông thật có cảm thọ rờn rợn. Do nhân cảm thọ sanh hay làm động sắc thân.

Cái cảm thọ rờn rợn nơi lòng bàn chân là do mình tưởng đi lên núi cao. Rồi nhân nơi thọ sanh ra mà làm động cái thân của mình. Như khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, mắt tiếp xúc với sắc trần có cảm thọ khổ vui, tai tiếp xúc với thanh trần có cảm thọ khổ vui… Từ cảm thọ đó mà thân thể này chuyển theo.

Ví dụ như mình đang vui vẻ, chợt có ai nói một lời nặng, xúc chạm tới danh dự. Vừa cảm thọ đó là lời nói nặng, mặt mình sa sầm ngay. Như vậy vừa có cảm thọ thì thân chuyển liền. Hoặc giả mình đang buồn mà có ai nói điều gì đúng sở thích, vừa cảm thọ thích thú thì vui lên, con mắt sáng rỡ. Như khi bụng đang đói cồn cào, có ai đưa cho một củ khoai lang thì mắt liền sáng rỡ, rồi nhai ngấu nghiến, cười nói vui vẻ. Các thọ khác cũng vậy, hễ có cảm thọ thì thân thể chuyển theo. Vì vậy nên nói do nhân cảm thọ sanh hay làm động sắc thể.

Ông hiện nay hai thứ thuận thì tăng ích nghịch thì tổn giảm hiện đang đuổi nhau, gọi là vọng tưởng hư minh thứ hai.

Thuận là như khi nghe khen mình vui, còn nghịch như lúc bị chê mình buồn. Hai thứ hiện đang đuổi nhau, nghĩa là có vui thì không buồn, có buồn thì không vui. Giả như đang buồn mà có ai làm điều gì mình vui thích thì buồn biến mất. Còn đang vui chợt có ai nói lời động chạm liền buồn bực thì hết vui. Như vậy thì thuận nghịch đổi thay luôn luôn, gọi đó là lớp vọng tưởng hư minh thứ hai. Hư mình nghĩa là rỗng sáng.

Vậy cảm thọ cũng thuộc vọng tưởng.

Do ý nghĩ của ông sai khiến sắc thân ông, nếu thân không phải cùng loại với ý nghĩ thì nhân gì thân ông lại theo sự sai khiến của ý niệm, nhận các thứ hình tượng, tâm sanh thì thân nhận theo, cùng với niệm tương ưng?

Ví dụ mình đang ngồi yên trước thềm chùa, chợt dấy niệm gặp huynh A để làm gì đó, vừa dấy niệm liền đứng dậy đi. Như vậy ý niệm là vọng tưởng, nhẹ như gió, mà vừa dấy lên thì thân mấy chục ký liền theo. Vọng tưởng vừa khởi, thân này liền bị sai khiến, nếu thân này không cùng một loại với vọng tưởng thì làm sao vọng tưởng khiến được? Vì cả hai đều là đồng loại anh em nên vừa dấy vọng tưởng, thân liền đi theo, không cưỡng lại nổi. Nên nói tâm sanh thì hình thủ, niệm vừa sanh thì thân nhận theo, cùng với niệm tương ưng, tức là đi theo niệm.

Khi thức thì tâm tưởng, khi ngủ thì thành các mộng. Vậy tâm tưởng của ông, vọng tình dao động gọi là vọng tưởng dung thông thứ ba.

Công dụng của tưởng là gì? Khi thức thì tưởng cái này, tính cái kia, mơ ước cái nọ. Còn khi ngủ thì nó làm cho mình thấy mộng này mộng kia. Mộng là từ tưởng, được lưu giữ ở tàng thức, khi ngủ hiện ra nên nói mộng tưởng. Qua được tưởng ấm thì thức ngủ như một. Còn ở trong tưởng ấm thì thức ngủ khác nhau. Vì trong chỗ tích lũy vọng tưởng xa xưa đâu có lường nổi, cho nên khi ngủ bao nhiêu tướng trạng ngày thường không có, bây giờ nó hiện ra.

Thân hiện sống khởi bao nhiêu thứ tâm tưởng, những tâm tưởng đó lại sai sử thân này. Vậy thân này đâu có rời vọng tưởng. Nó đồng một loại với vọng tưởng, thân với tưởng không tách rời nhau. Nên nói tưởng ấm là hư vọng. Tâm tưởng nghĩ thì thân liền theo, hai cái dung hợp nhau. Đây là lớp vọng tưởng dung thông thứ ba.

Sự chuyển biến không dừng, xoay vần thầm dời đổi, móng tay dài, tóc mọc ra, khí lực tiêu mòn, da mặt nhăn. Ngày đêm đổi thay nhau mà không hề hay biết.

Chúng ta không biết một ngày móng tay mình ra bao nhiêu, một đêm tóc mình dài bao nhiêu. Khí huyết mình tiêu mòn hồi nào đâu có hay. Lâu lâu rờ lại mặt nhăn thì biết là già, chứ không biết nó già lúc nào. Như vậy con người chúng ta thầm dời đổi mà mình không biết. Đó là hành ấm.

Này A-nan, nếu sự dời đổi này không phải là ông thì làm sao thân ông bị dời đổi? Còn như thật là ông thì vì sao ông không biết?

Sự dời đổi thuộc về mình, mình mới bị dời đổi, nếu nó không phải là mình thì mình đâu có bị dời đổi. Nhưng nếu nó là mình thì mình đâu có bị dời đổi. Nhưng nếu nó là mình thì mình phải biết nó dời đổi chứ?

Vậy các hành niệm niệm không dừng của ông, gọi là vọng tưởng u ẩn thứ tư.

U ẩn là vì nó thầm thầm đổi dời ở trong mà mình không biết.

Lại, chỗ tinh minh trong lặng không dao động của ông, gọi là thường hằng đó, nơi thân không ngoài thấy nghe hiểu biết. Nếu thật là tinh thuần chân thật thì chẳng dung những tập khí vọng tưởng. Vậy tại sao các ông trong những năm trước, từng thấy một vật kỳ quái, trải qua nhiều năm không còn nhớ nữa, về sau bỗng nhiên lại thấy vật lạ ngày trước, liền nhớ lại rõ ràng không hề sót mất.

Chỗ trong lặng không dao động, thường hằng đó chỉ cho thức ấm, tức a-lại-da hay tàng thức. Nếu đó là tinh ba chân thật thì đâu dung những tập khí vọng tưởng. Nhưng hiện nay trong đó thường chứa chất những tập khí vọng tưởng không thật. Ví dụ như nhiều năm trước mình thấy một người có tật lạ, như con mắt hay giật giật. Thấy đó rồi thôi, mình bỏ qua và không để ý nữa, bao nhiêu năm không còn nhớ tới hình ảnh đó. Bỗng nhiên một hôm đi đường chợt thấy lại người có tật mắt giật, mình nhớ liền hình ảnh cũ.

Như vậy nó chứa ở đâu mà nay nhớ lại? Chính là đã tích lũy ở trong tàng thức. Nhưng nếu tàng thức không cùng một loại với nó thì làm sao chứa được? Bởi cùng một loại mới chứa ở trong, nên nói Nếu thật tinh chân thì không dung tập vọng. Như vậy, tàng thức sẵn chứa các chủng tử thiện ác, khi tiếp duyên rồi thì nó lưu lại, bởi lưu nên khi gặp lại, nó phát ra cái cũ không sai sót.

Thế nên trong chỗ tinh liễu lặng lẽ không dao động này, từng niệm luôn nhận sự huân tập, đâu thể tính toán nổi!

Thức ấm chỉ gần với tánh chân mà không phải chân, nó còn những niệm sanh diệt liên miên ở trong. Tàng thức lặng lẽ không dao động nhưng lại nhận những thứ huân tập, vô số trong đó, không thể nào tính toán cho hết được. Bởi vậy nên khi chúng ta ngồi lại, nó tràn ra hết lớp này tới lớp kia, cũ có mới có, bỏ hoài không hết.

Này A-nan, phải biết cái lặng lẽ này không phải thật, như dòng nước chảy nhanh, trông xa giống như yên lặng, vì nó chảy nhanh nên không thấy, chẳng phải là không chảy. Nếu cội gốc không phải là vọng tưởng thì đâu nhận những tập khí hư vọng.

Như người cầm cây hương quay thật nhanh sẽ có một vòng lửa. Người đứng xa nhìn thấy có vòng lửa, vòng lửa này có thật không? Chỉ vì quay cây hương quá nhanh, con mắt mình nhìn theo không kịp nên thấy có vòng lửa, nhưng sự thật cây hương đang chạy nhanh chứ không có vòng lửa.

Tàng thức hoàn toàn không phải thật. Nó giống một thác nước đổ, ở xa trông như một dải nước trắng, lại gần mới thấy nó chảy liên tục, ầm ầm. Người không biết tưởng nó là chân thường, sự thật nó là một dòng sanh diệt. Thức ấm nhận các tập khí hư vọng thì nó cũng thuộc về vọng tưởng.

Nếu sáu căn của ông không thể khai hợp dùng thay lẫn nhau thì vọng tưởng này không khi nào được diệt. Cho nên trong những thây nghe hiểu biết của ông hiện tại xâu kết các tập khí; những hình ảnh hư dối rỗng không trong chỗ trạm liễu là tinh tưởng vi tế điên đảo thứ năm vậy.

Khai là mở, hợp là đóng. Nếu sáu căn không thể đóng mở tự tại, chưa tới chỗ hỗ dụng thì vọng tưởng không bao giờ diệt, mà muốn tới chỗ sáu căn hỗ dụng thì phải phá hết thức ấm.

Trạm liễu chỉ cho tàng thức lặng lẽ rõ ràng. Võng tượng hư vô là những hình ảnh hư dối rỗng không. Đây cũng là tưởng nhưng rất tinh vi, là lớp tưởng điên đảo thứ năm.

Như vậy cả năm ấm đều thuộc vọng tưởng. Nếu năm ấm là vọng tưởng thì thân này là gì? Thân này là do năm ấm sắc thọ tưởng hành thức kết thành, mà năm thứ đó đều từ vọng tưởng mà ra; năm vọng tưởng lại thành một cái tưởng to, vậy thân này là chúa tể vọng tưởng. Mang cái chúa tể vọng tưởng mà nói mình thật, vậy có ngu không? Chúa tể vọng tưởng thì có gì là thật, vậy mà lúc nào cũng thấy nó thật, không phải điên đảo là gì!

Đức Phật vạch trần cho chúng ta biết từng phần bản chất của con người. Mọi điều rõ ràng như vậy mà chúng ta thường không hề biết. Cho nên học kinh rồi mới thấy chỗ ngu mê của mình thật quá sâu dày, nhờ Phật chỉ ra từng phần chúng ta mới thấy. Chính chỗ mê lầm, giả tưởng mà tưởng là thật, nên trầm luân muôn kiếp.

Nếu chúng ta nhận biết rằng mình đang mang cái thân tràn trề vọng tưởng thì tự nhiên sẽ bớt chấp, bớt khổ. Rõ ràng chúng ta đang sống trong điên đảo, cái thân vọng tưởng hư dối cứ tưởng là thân thật. Nay mình biết thân này có ra là từ vọng tưởng chứ không gì khác, hàng ngày buông bỏ vọng tưởng thì đâu còn chấp thân nữa.

Như vậy phá được năm ấm tức là phá được vọng tưởng. Vọng tưởng hết, đó là bắt đầu vào cảnh giới của Bồ-tát, của Phật. Nên biết vọng tưởng là gốc của tất cả, năm ấm, thế giới… đều từ vọng mà ra. Do vọng mà thân bị sai sử, nay mình không theo vọng thì nó hết sai sử. Gốc của cuộc đời mình là vọng tưởng, không theo vọng tưởng, làm chủ vọng tưởng là chúng ta đã làm chủ được cuộc đời mình. Tu bỏ vọng tưởng là bỏ ngay cái gốc.

Này A-nan, năm thọ ấm này là do năm thứ vọng tưởng mà thành. Nay ông muốn biết giới hạn cạn sâu của nó, chỉ sắc và không là ranh giới của sắc ấm, chỉ xúc và ly là ranh giới của thọ ấm, chỉ nhớ và quên là ranh giới của tưởng ấm, chỉ diệt bà sanh là ranh giới của hành ấm, lặng lẽ hợp vào lặng lẽ là trở về ranh giới của thức.

Vậy ranh giới này cũng chỉ là những đối đãi với nhau thôi.

Cái gốc của năm ấm này trùng điệp sanh khởi. Sanh nhân thức mà có, diệt từ sắc mà trừ.

Tại sao sanh nhân thức mà có? Tại sao diệt từ sắc mà trừ? Ban đầu chúng ta đến thọ sanh ở bào thai mẹ thì chính thức ấm đến, hành đã đẩy thức đến, nên sanh từ thức mà ra. Sau khi chết thì thân này hoại đi, nên diệt từ sắc mà trừ.

Lý thì chóng ngộ, nương nơi ngộ đều tiêu sạch. Sự chẳng thể chóng trừ, phải nhân nơi thứ lớp mà hết.

Trước đã trả lời về ranh giới của năm ấm, đến đây Phật trả lời câu hỏi cuối Năm ấm là đồng tiêu trừ hay theo thứ lớp mà hết? Về lý thì chúng ta hiểu rằng thân ngũ ấm này là do vọng tưởng làm gốc, nhưng muốn hết chấp thân thì phải chừng bao lâu mới hết? Về lý thì đốn ngộ, ngộ rồi thì những hiểu lầm ngày xưa tiêu hết, biết rõ thân không thật, từ vọng tưởng mà ra; nhưng trên sự tu hành, để không còn chấp nữa thì phải tiệm, theo thứ lớp mà hết.

Tôi đã chỉ dạy ông về cái gút của khăn kiếp-ba, sao ông còn không rõ, lại hỏi chỗ này nữa? Ông nên đem chỗ tâm đã được thông suốt về cội gốc vọng tưởng này, truyền dạy cho những người tu hành trong đời mạt pháp tương lai, khiến họ biết những thứ hư vọng mà tự sanh nhàm chán, biết có Niết-bàn để không lưu luyến ba cõi nữa.

Cái khăn kiếp-ba đã cột thành nhiều gút, nay muốn mở thì phải từng gút mà mở, đâu thể một lần mở hết được. Phật khuyên ngài A-nan nên đem chỗ Phật dạy “cội nguồn năm ấm là vọng tưởng” mà ngài A-nan đã hiểu, dạy cho những người tu hành trong đời mạt pháp, khiến họ biết được thân năm ấm này là hư vọng, nên tự sanh nhàm chán, đồng thời biết có Niết-bàn để không còn quyến luyến tam giới nữa.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.