Kinh Thủ Lăng Nghiêm Giảng Giải

Chương 02. Tu Đạo



Nội dung:

A-nan và cả đại chúng nghe Phật chỉ dạy, nghi lầm tiêu trừ, tâm ngộ được thật tướng, thân ý nhẹ nhàng, được điều chưa từng có. Lại rơi lệ đảnh lễ dưới chân Phật, quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:

– Đấng bảo vương thanh tịnh Đại bi Vô thượng khéo khai mở tâm chúng con, hay dùng các thứ nhân duyên phương tiện như thế, khuyến khích dẫn dắt những người chìm trong tối tăm ra khỏi biển khổ.

Bạch Thế Tôn, nay con tuy nhờ được nghe pháp âm như thế, biết Như Lai tạng diệu giác minh tâm trùm khắp cả thế giới ở mười phương, gồm chứa các cõi Diệu giác vương thanh tịnh bảo nghiêm, quốc độ của chư Phật mười phương, Như Lai lại trách con nghe nhiều mà không có công phu, không kịp thời tu tập.

Ngài A-nan lặp lại ý trước, nhắc lời Phật quở dù nghe nhớ hết kinh điển của chư Phật mười phương, không bằng một người tu tập pháp vô lậu.

Nay con vẫn như người khách lang thang chợt được nhà vua tặng cho ngôi nhà đẹp, tuy được ngôi nhà lớn, cần phải biết cửa vào. Cúi mong đức Như Lai mở lòng đại bi chỉ cho chúng con là những kẻ còn mờ tối ở trong hội, từ bỏ pháp Tiểu thừa, rốt ráo được Niết-bàn vô dư của Như Lai, đó là con đường phát tâm từ xưa đến nay, khiến cho hàng hữu học biết cách để nhiếp phục tâm phan duyên lâu đời, được pháp tổng trì, vào tri kiến Phật.

Thưa lời đây rồi, năm vóc gieo xuống đất, ở trong hội nhất tâm chờ nghe lời chỉ dạy của đức Phật.

Đoạn trước ngài A-nan và đại chúng được đức Phật chỉ cho thấy rõ tất cả năm ấm, mười hai xứ, mười tám giới cho đến bảy đại, đều từ Như Lai tạng lưu xuất. Tới đó ngài A-nan đại ngộ, rõ được pháp thân mà không cần phải trải qua vô số kiếp tu. Nhìn lại thấy thân này chẳng khác nào hạt bụi ở trong hư không hay như hòn bọt trên biển cả. Như vậy, khi thấy được pháp thân trùm khắp mười phương thì thân này không còn giá trị gì.

Ngài A-nan ngộ rồi, bèn trình bày chỗ ngộ của mình và phát lời thệ nguyện. Nhưng rồi ngài Phú-lâu-na lại khởi nghi. Một là nghi sao Như Lai tạng bản nhiên bỗng sanh ra sơn hà đại địa. Hai là nghi tứ đại đất nước gió lửa vốn chống nhau, tại sao có thể trùm khắp. Ba là nghi vọng từ đâu mà khởi. Sau khi đức Phật giải thích cho ngài Phú-lâu-na và đại chúng nghe, ngài A-nan lại khởi nghi về nhân duyên và tự nhiên.

Ngài A-nan tuy đã ngộ, biết từ Như Lai tạng lưu xuất tất cả, nhưng khi nói đến nhân duyên và tự nhiên thì ngài cũng lại như trước nghi nó là thật. Bởi vậy đức Phật phải một lần nữa giải thích cho ngài A-nan thấy nhân duyên và tự nhiên đều không thật. Từ đây ngài A-nan mới tin chắc mình có cái chân thật quý báu, nhưng lại không biết làm sao mà vào.

Ngộ rồi còn phải Nhập. Nhiều người không hiểu, khi nghe tu hành có phát minh gì, tưởng đâu là xong chuyện. Cho nên tới đây, ngài A-nan ví dụ hết sức cụ thể. Như kẻ đi lang thang không nhà không cửa, chợt được vua thương, ban cho một ngôi nhà quá đẹp mà không biết từ cửa nào vào. Thấy nhà chưa phải là kẻ vào nhà, cũng vậy tu thiền không phải ngộ là xong việc. Vậy mà có người thấy được chút ít gì đó, liền thư thả ăn chơi, cho là mình được tự tại. Đó là bệnh lớn của người tu.

Đến đây ngài A-nan cầu xin đức Phật chỉ cho con đường hay cái cửa để vào trong căn nhà đẹp đó. Ngài A-nan đại ngộ tức là thấy được pháp thân, dụ như được ngôi nhà báu. Được ngôi nhà, biết nó là của mình rồi, nhưng muốn vào không phải đơn giản. Phải từ cửa nào để vào được trong nhà, đó mới là thiết yếu. Tu hành có những giai đoạn, kinh Pháp Hoa nói khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, còn ở đây là khai thị ngộ nhập pháp thân.

Phần trước chúng ta đã học đoạn Thất xứ trưng tâm tức bảy chỗ hỏi tâm, đó là Khai. Khai là mở, tức là dẹp phả chỗ chấp chặt làm đóng bít cửa, không thấy được pháp thân. Phật phá lầm chấp đó để khai Phật tri kiến hay là khai pháp thân.

Phần Thị, từ đoạn đức Phật đưa nắm tay chỉ ra tánh thấy, kế là tám thứ trả về, cho đến chỉ ra năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới… vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh. Ban đầu Phật chỉ cho thấy được nơi mình có tánh thấy tánh nghe chân thật. Từ đó trở về sâu bên trong một chút sẽ nhận được pháp thân trùm khắp. Như vậy phần Thị là chỉ cho rõ được pháp thân.

Do rõ được pháp thân, nên cuối phần này ngài A-nan Ngộ. Căn cứ theo tinh thần kinh A-hàm thì Ngộ là phá được kiến hoặc và Nhập là trừ tư hoặc. Tư hoặc là các mê lầm của ngũ căn đối với ngũ trần, khởi ra lòng tham ái nhiễm trước, mê mờ chẳng tỉnh. Kiến hoặc là các mê lầm của ý căn đối với pháp trần, sanh ra các kiến chấp như chấp có chấp không, chấp thường chấp vô thường…

Phá được kiến hoặc là vào hàng Nhập lưu, tức vào dòng thánh. Ngày xưa những lúc đức Phật thuyết pháp, trong hội thường có người chứng quả Tu-đà-hoàn, tức là nhận được đạo một cách chắc chắn không còn nghi ngờ, đó là Ngộ. Ngộ rồi thì đời đời không còn thối chuyển, nên gọi vào dòng thánh. Chúng ta học đạo nếu có đủ niềm tin thì không bao giờ nghi ngờ nữa, đó là đã thẳng vào. Sở dĩ chúng ta tu mà còn thối chuyển là vì còn nghi ngờ. Nếu xác quyết chắc chắn, một mực đi thẳng, đó gọi là đủ lòng tin.

Tuy ngộ là rõ được pháp thân rồi nhưng làm sao vào, đến đây ngài A-nan xin Phật chỉ cho con đường vào, đó là Nhập.

Nhập dạy cho ngài A-nan có trình tự thứ lớp, khai thị ngộ nhập rất rõ ràng. Nếu chúng ta nắm vững các thứ lớp đó thì trên đường tu không bị lầm lẫn. Ví dụ như chúng ta tu biết vọng, không chạy theo vọng tưởng, tức đang trong giai đoạn phá dẹp vọng, đó là Khai. Chừng nào nhận được pháp thân trùm khắp tức là Ngộ. Nhưng nhận ra pháp thân rồi, còn phải trải qua bao công phu tu tập nữa mới Nhập được. Nên từ đoạn này về sau còn rất dài là nói về Nhập. Nhập cũng cay đắng lắm chứ không phải đơn giản.

Có người không rõ điều này, nghe kinh hiểu được chút ít bèn hài lòng tự mãn, cứ bàn luận nói dóc với nhau. Đó là bệnh lớn. Do chưa vào được chỗ chân thật, đến khi gặp phiền não vẫn cứ phiền não, y như cũ không hơn không kém. Do đó tu phải thấu suốt đến chỗ tột cùng, chứ không phải chỉ một chặng là xong. Nếu không nắm vững những điều này thì trên đường tu chúng ta sẽ lúng túng, không biết đâu là gốc đâu là ngọn, cũng không biết nhân nào đưa đến quả nào. Cho nên ở đây Phật chỉ rành mạch từng phần, để khi tu chúng ta biết cách ứng dụng.

I. HAI NGHĨA QUYẾT ĐỊNH CỦA NGƯỜI MỚI PHÁT TÂM

Khi ấy đức Thế Tôn vì thương xót hàng Thanh văn Duyên giác trong hội, đối với tâm Bồ-đề chưa được tự tại, và những chúng sanh phát tâm Bồ-đề trong đời mạt pháp sau này khi Phật đã diệt độ, mà mở bày con đường tu hành sâu mầu của pháp Vô thượng thừa.

Đức Phật không những thương xót hàng Duyên giác Thanh văn trong chúng hội, mà còn thương tới những chúng sanh phát tâm Bồ-đề trong đời mạt pháp về sau. Những lời này Phật không dạy riêng cho chúng hội ở thời đó mà dạy cả cho chúng ta bây giờ.

Phật chỉ dạy A-nan và cả đại chúng:

– Các ông quyết định phát tâm Bồ-đề, đối với pháp tam-ma-đề nhiệm mầu của chư Phật Như Lai không sanh lòng mỏi mệt, trước cần phải rõ hai nghĩa quyết định lúc bắt đầu phát tâm cầu giác ngộ.

Diệu-tam-ma-đề chỉ cho con đường viên thông đi tới chỗ chân thật của chư Phật, cũng gọi là diệu trang nghiêm lộ. Chúng ta tu cầu giác ngộ thành Phật, nếu không rõ hai nghĩa quyết định thì làm sao thành tựu.

1. Nhân quả tương ưng

Thế nào là hai nghĩa quyết định của người mới phát tâm? A-nan, nghĩa quyết định thứ nhất là, nếu các ông muốn xả bỏ pháp Thanh văn, tu Bồ-tát thừa vào tri kiến Phật, phải nên xét kỹ chỗ nhân phát tâm cùng với chỗ quả giác ngộ là đồng hay khác.

Nhân phát tâm và quả giác ngộ đạt được phải tương ứng nhau. Chúng ta muốn trồng lúa mà gieo hạt mè thì không lên được cây lúa. Nhân và quả phải theo nhau thì sự tu hành mới đạt đến cứu cánh. Nhưng lâu nay chúng ta tu cầu Niết-bàn vô sanh tức không sanh tử, hoặc cầu thành Phật là giác ngộ viên mãn, mà luôn đem tâm phân biệt sanh diệt để cầu. Lấy nhân sanh diệt để cầu quả không sanh diệt để cầu. Lấy nhân sanh diệt để cầu quả không sanh diệt là sai lầm lớn. Do đó Phật dạy chúng ta phải chọn lựa nhân tương ưng với quả thì sự tu mới thành tựu viên mãn.

Này A-nan, nếu nơi nhân dùng tâm sanh diệt làm gốc tu hành mà cầu Phật thừa chẳng sanh chẳng diệt thì thật là vô lý.

Nếu dùng tâm sanh diệt làm nhân tu thì nhất định kết quả là sanh diệt luân hồi. Sanh diệt thiện thì luân hồi được phước lành, sanh diệt ác thì luân hồi khổ, dù lành hay khổ đều vẫn ở trong luân hồi. Đức Phật nêu ra cụ thể cho chúng ta thấy biết rõ để khỏi lầm lẫn khi tu.

Do nghĩa ấy, ông phải xem xét rõ các pháp tạo các của khí thế gian đều theo sự đổi thay hoại diệt.

Thế gian gồm có hữu tình thế gian và khí thế gian. Hữu tình thế gian chỉ cho con người, khí thế gian chỉ cho ngoại cảnh. Phật dạy ngài A-nan phải dùng trí soi sáng thấy rõ các pháp tạo tác trong thế gian này đều thuộc về biến diệt.

Này A-nan, ông xem những pháp tạo tác ở thế gian, có cái gì không hoại, nhưng trọn không nghe nói hư không bị hư hoại. Vì sao? Vì hư không không phải pháp tạo tác do đó trước sau không bị hoại diệt.

Tất cả pháp thế gian, dù to như quả núi cũng đều tan hoại, nhưng chưa bao giờ nghe hư không hoại. Cái gì có tạo tác, có hình tướng cụ thể thì cái đó bị hư hoại, còn hư không không thuộc pháp tạo tác nên trước sau không bị hoại diệt. Khi tu tập, nếu dùng tâm sanh diệt để tu thiện, cũng đều thuộc sanh diệt. Dù là làm phước, tụng kinh cũng trong sanh diệt.

Thế nào là nhân không sanh diệt? Ví dụ như khi thấy cành hoa chỉ là thấy chứ không nghĩ suy, thương ghét. Cái thấy này không do ai làm ra. Có làm ra tức thuộc hư vọng, ngược lại là không hư vọng. Cho đến cái nghe của tai, nếm của lưỡi, xúc chạm của thân… trong đó đều có hai phần, một phần sanh diệt và một phần không sanh diệt. Nếu chúng ta theo phần sanh diệt tức đi trong sanh tử luân hồi, nếu theo phần không sanh diệt thì được vô sanh diệt. Vô sanh đó chúng ta vốn sẵn có, gọi là bản giác, bây giờ tu mới thức tỉnh trở về, gọi là thủy giác. Thủy và Bản hợp nhất là viên mãn.

Khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu trần, nếu hằng sống với tánh bất sanh bất diệt, đó là lấy nhân vô sanh mà tu. Nhân vô sanh này từ đức Phật đến chúng ta ai cũng có, chỉ vì chúng ta không nhớ biết. Ngược lại nếu dùng tâm sanh diệt mà tu thì quả sanh diệt không thể tránh khỏi.

Trong thân ông, tướng cứng là đất, ẩm ướt là nước, hơi ấm là lửa, dao động là gió. Do bốn thứ trói buộc này, phân chia Diệu giác minh tâm trong lặng trùm khắp của ông thành thấy nghe hiểu biết, từ đầu đến cuối tạo nên năm lớp vẩn đục.

Đức Phật chỉ ta nơi bản thân chúng ta cái gì là sanh diệt, rồi tìm ra trong đó cái không sanh diệt để ứng dụng tu. Tứ đại là tướng sanh diệt, ràng buộc tâm thể sáng suốt chân thật, làm cho tâm bị phân chia nơi các căn, có các thấy nghe hiểu biết, năm lớp chất chồng thành ra vẩn đục. Tuy nhiên, những thấy nghe hiểu biết đó gốc đều từ diệu giác minh tâm trong lặng trùm khắp, nên trong đó đều có một phần của tâm giác này.

Tứ đại hoại diệt nhưng phần tâm tánh sáng suốt thì không hoại diệt. Vì vậy nếu chúng ta biết sử dụng cái không hoại diệt mà tu thì đó là dùng nhân không sanh diệt để cầu quả không sanh diệt, nhân quả tương ưng.

Từ đầu đến cuối, năm lớp chồng chất thành ra ô trược. Trong kinh Di-đà có nói đến ngũ trược ác thế, ở đây đức Phật lần lượt giải thích cho thấy rõ những gì gọi là năm thứ ô trược.

Thế nào là vẩn đục? Này A-nan, ví như nước trong vốn sẵn là trong sạch, các thứ bụi đất tro cát kia bản chất là ngăn ngại. Hai pháp thể như vậy, tánh không hợp nhau. Có người thế gian lấy đất bụi kia để vào nước trong thì đất mất tánh chất ngăn ngại, còn nước mất tánh trong sạch. Tướng trạng nhơ bẩn gọi đó là vẩn đục. Năm lớp trược của ông cũng lại như thế.

Trược là vẩn đục chứ không phải là xấu xa hèn hạ. Thế nào là vẩn đục? Do hai thứ, nước trong sạch và bụi bẩn hòa hợp mà mất bản chất sẵn có của nó, gọi là vẩn đục. Đó là năm lớp trược của mỗi người chứ không phải nói thế gian này trược.

Này A-nan, ông thấy hư không khắp cả mười phương thế giới mà chẳng phân ra hư không và cái thấy. Có hư không mà không hình thể, có thấy mà không giác, hai thứ đan dệt với nhau mà vọng thành, ấy là lớp thứ nhất gọi là kiếp trược.

Như chúng ta nhìn khắp bầu trời thấy hư không trống rỗng, cái thấy của mình với hư không hòa vào nhau, bởi hòa nhau nên mới khắp hết. Có hư không mà không hình thể, vì hư không là rỗng rang không tướng. Cái thấy cũng không có tướng mạo và không thấy chỉ là thấy chứ không phải là giác. Cái thấy lẫn với hư không, hai cái không có tướng mạo đó đan kết với nhau vọng thành lớp trược thứ nhất là kiếp trược.

Kiếp trược là kiếp vẩn đục, không còn trong sạch, vì không còn cái thể riêng biệt, do hư không và cái thấy của con người đã hòa lẫn vào nhau. Như trong ví dụ trước, nước và đất hòa nhau nên mất tánh trong của nước và mất chướng ngại của đất. Do không còn thể riêng nên gọi là trược.

Kiếp thuộc về thời gian, thời gian không có hình tướng, chỉ do con người tưởng tượng đặt ra. Kinh Kim Cang nói “quá khứ tâm bất khả đắc”. Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được. Nếu phá được ba thời tức phá được kiếp trược, chưa phá được ba thời là còn mắc kẹt trong kiếp trược.

Thân ông hiện nắm giữ bốn đại làm thể. Thấy nghe hiểu biết bị che lấp khiến thành ngăn ngại, còn đất nước gió lửa lại trở thành có hiểu biết. Hai thứ cùng đan dệt với nhau mà vọng thành, ấy là lớp thứ hai gọi là kiến trược.

Thân ta gom bốn đại làm thành hình tướng, cái thấy nghe hiểu biết bị chúng che đậy khiến cho tứ đại trở lại có những cảm giác hiểu biết. Đất nước gió lửa là vô tri, còn thấy nghe hiểu biết là hữu tri, cái vô tri hòa với cái hữu tri đan kết với nhau mà vọng thành lớp thứ hai, gọi đó là kiến trược. Do bị hòa lẫn không còn nguyên vẹn cái thể riêng biệt nữa nên gọi là trược. Chữ “kiến” là nói chung cho kiến, văn, giác, tri.

Lại nữa, trong tâm ông do nhớ, biết, học tập, tánh phát ra thấy biết, dung hợp với sáu trần hiện tại. Lìa trần thì không có tướng, lìa hiểu biết thì không có tánh. Hai thứ đan dệt với nhau mà vọng thành, đó là lớp thứ ba gọi là phiền não trược.

Ý thức chúng ta nhớ, nghĩ, phân biệt, hoặc lặp đi lặp lại, ôn tới nghĩ lui những sự việc đã xảy ra để ghi nhớ trong lòng, đó là nhớ những tướng của sáu trần. Tánh phát ra thấy biết, dung hợp với sáu trần. Nếu rời sáu trần thì không có tướng, còn lìa hiểu biết thì không có tánh. Như vậy ở ngoài là trần, ở trong là hiểu biết, hai thứ hòa lẫn đan kết với nhau thành lớp trược thứ ba, gọi là phiền não trược.

Tất cả phiền não có đều từ sáu trần: mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý duyên theo pháp trần. Nghe nói trái tai thì giận, thấy việc trái mắt liền giận… Từ thấy nghe mà có phiền não. Như vậy, phiền não là do sáu trần với tâm thức đan kết nhau mà thành. Không đợi giận buồn yêu ghét mà khi nghĩ nhớ quá khứ vị lai cũng thuộc phiền não trược.

Phiền não trược là hư vọng, nhưng nó có mang cái biết, rời tánh giác không có nó, nên khi phiền não lặng xuống, không còn lẫn với sáu trần thì trở về tánh giác. Nên nói “Vô minh thật tánh tức Phật tánh”.

Lại, ông sớm chiều sanh diệt không dừng, cái thấy biết thì muốn lưu lại ở thế gian, mà nghiệp vận chuyển thường đổi dời nơi các cõi. Hai thứ đan dệt với nhau mà vọng thành, đó là lớp thứ tư gọi là chúng sanh trược.

Mới nghe thấy dường như khó hiểu, nhưng nghiệm kỹ thì thật là hay. Thân chúng ta sớm chiều đổi thay, sanh diệt không dừng, nghiệp đẩy đi các cõi, mà tâm thì muốn giữ cho còn mãi ở thế gian. Hai thứ này mâu thuẫn, đan dệt nhau thành chúng sanh trược.

Tâm chúng ta luôn luôn mang tính chất mâu thuẫn, mâu thuẫn nội tại, mâu thuẫn với bản thân. Chúng ta muốn sống hoài, mà mỗi ngày qua thân mỗi già mòn, ngày tháng cứ trôi, tuổi đời chất chồng rồi cái chết đến. Do không được tự tại, muốn sống mà phải chết, đó là nỗi đau khổ của chúng sanh, nên gọi là chúng sanh trược. Khi thân tứ đại tan hoại thì nghiệp lôi đi cõi khác. Cũng do tâm luyến ái muốn giữ thân mà sanh trở lại. Mang thân nào cũng muốn giữ, rồi lại tạo nghiệp để bị nghiệp cuốn lôi. Cứ như vậy mà tạo nghiệp sanh tử hoài hoài, chúng sanh trược mãi mãi không dứt. Như chúng ta có khi hiền lành cũng có lúc hung dữ, có khi nghĩ thiện cũng có lúc nghĩ ác. Hiền và dữ không hợp nhau, thiện ác đối nghịch không thuận chiều. Đó là những hiện tượng mâu thuẫn nội tại không bao giờ hết, đưa đến khổ nên gọi là chúng sanh trược.

Thấy nghe của các ông, tánh vốn không khác, do các trần làm ngăn cách, vô cớ sanh ra khác. Trong tánh thì biết nhau, nhưng trong dụng lại trái nhau. Đồng và khác mất đi chuẩn đích, đan dệt nhau vọng thành lớp thứ năm, gọi là mạng trược.

Các thấy nghe hiểu biết của chúng ta, tánh không khác nhưng vì các trần cảnh làm ngăn cách rồi vô cớ thành khác: mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm… Đoạn sau đức Phật hỏi ngài A-nan: “Nếu sáu căn quyết định là sáu, thì khi ta vì ông nói pháp, trong sáu căn ông lấy cái gì lãnh thọ?” Ngài A-nan trả lời: “Con dùng tai nghe.” Phật bảo: “Nếu tai tự nghe thì đâu quan hệ gì đến thân và miệng. Tại sao miệng lại hỏi nghĩa lý, thân đứng dậy kính vâng?” Như vậy nếu nghe là riêng của lỗ tai thì đâu dính tới mấy căn kia? Nhưng nghe rồi thì mấy căn kia hoạt động theo, như vậy tánh thật đâu có khác.

Như khi thấy người khác nhai trái me. Thấy đó là con mắt, con mắt thèm thì con mắt ra nước mắt, tại sao lưỡi lại chảy nước miếng? Như vậy rõ ràng là có liên hệ với nhau chứ không phải tách biệt. Trên thể tánh là đồng, còn kẹt nơi tướng thì có phân chia, trong tánh thì biết nhau nhưng nơi dụng lại trái nhau, mắt không thể nghe, tai không thể thấy… Mỗi căn có chỗ hợp riêng, rồi có tác dụng khác. Từ đó đồng và khác mất đi chuẩn đích. Hai cái này mâu thuẫn, vừa đồng vừa khác, đan dệt với nhau vọng thành lớp trược thứ năm gọi là mạng trược.

Tóm lại, ngũ trược là năm lớp do hư vọng hòa hợp mà thành: Từ cái thấy và hư không hòa hợp thành kiếp trược. Tứ đại hòa hợp với thấy nghe hiểu biết thành kiến trược. Ý thức ghi nhớ việc này việc kia, hợp với sáu trần mà thành phiền não trược. Nghiệp thì dời đổi, tâm và thân luôn luôn đổi thay, mà trong lòng cứ muốn giữ còn hoài, hai cái đó kết với nhau thành chúng sanh trược. Tánh thì đồng, dụng lại khác, đan kết nhau thành mạng trược.

Giải thích ngũ trược rồi, đức Phật dạy chúng ta tu:

Này A-nan, nay ông muốn khiến thấy nghe hiểu biết xa hợp với Thường Lạc Ngã Tịnh của Như Lai, trước phải chọn ra cội gốc sanh tử, nương nơi tánh chẳng sanh diệt, thành tựu tánh lặng lẽ trùm khắp. Dùng tánh lặng lẽ xoay cái sanh diệt hư vọng kia trở về bản giác. Được tánh giác không sanh diệt sáng suốt sẵn có làm tâm tu nhân, sau sẽ thành tựu viên mãn quả địa tu chứng.

Thân và thức là sanh diệt, nhưng trong đó có mang sẵn tánh viên trạm không sanh diệt. Hiện tại nơi chúng ta ai cũng có thấy nghe hiểu biết, nếu chạy theo vọng thức phân biệt sự vật, đó là hòa hợp với ngoại cảnh, là tướng sanh diệt. Vì vọng thức là phân biệt, mà phân biệt là động, đó là cội gốc của sanh tử.

Bây giờ tu, phải nương tánh giác không sanh diệt tròn lặng sẵn có. Ngay nơi thấy nghe… đều có phần không sanh diệt và phần sanh diệt. Như khi mắt nhìn qua thấy tất cả đại chúng, giai đoạn đó chưa có thức phân biệt, nhìn biết tổng quát đó không động. Rồi khởi phân biệt đây là A là B, là tốt là xấu… lúc đó là động. Không động gọi là viên trạm, động gọi là thức. Thức thì sanh diệt, viên trạm không sanh diệt.

Nếu muốn tu đến chỗ không sanh diệt, phải dùng phần lặng lẽ ở mắt, tai, mũi, lưỡi… làm nhân tu, xoay cái sanh diệt hư vọng trở về với tánh giác ban đầu. Đó là lấy không sanh diệt làm nhân tu hành, thì mới chứng được quả không sanh diệt. Nếu dùng thức sanh diệt để tu, không bao giờ được quả không sanh diệt.

Cho nên các thiền sư thường nói “thấy như mù, nghe như điếc”. Tại sao nghe mà như điếc? Bởi vì nghe mà không khởi phân biệt, tức không có dụng sanh diệt của thức. Nghe chỉ là nghe, đó là tánh viên trạm ở tai. Thấy chỉ là thấy, không khởi phân biệt, đó là tánh viên trạm ở mắt. Các ngài sống với sáu căn trong lặng hồn nhiên, lấy đó làm nhân tu thì mới đến được quả bất sanh bất diệt. Nên nói các thiền sư giống như trẻ thơ, nghĩa là hồn nhiên thấy nghe, đói ăn mệt nghỉ.

Ở đoạn trước Phật có nói mặt trăng thứ hai kế cận với mặt trăng thật, do ấn mắt mà thấy mặt trăng lòe ra có cái thứ hai. Nếu nhìn xuống bóng trăng dưới nước thì không bao giờ thấy mặt trăng thật, còn mặt trăng thứ hai kế cận trăng thật, rất gần. Bóng trăng dụ cho thức phân biệt sanh diệt, còn mặt trăng thứ hai dụ cho tánh sáng suốt trong lặng bị tứ đại phân cách. Từ tánh viên trạm tròn đầy mà phân cách từng phần. Bây giờ lấy từng phần của tánh viên trạm đó, xoay trở về hoàn toàn nguyên thể của nó là được quả chứng. Như vậy nhân với quả mới phù hợp nhau.

Hiểu như vậy mới thấy thiền rất phù hợp với kinh. Học thiền mà không học kinh là một khuyết điểm lớn, không biết tu cách nào, không biết đang tu tới đâu. Chúng ta thường nói tánh thấy tánh nghe là thật, nhưng có khi các thiền sư cũng quở là chưa phải, đó chỉ là cái nhân thôi, chưa phải chỗ cứu cánh. Dù nhận ra mình có cái thấy nghe không sanh diệt, cũng chỉ mới là nhân ban đầu, quả cứu cánh vẫn còn xa.

Khi nói về ngũ trược, đức Phật đã vạch ra trong đó cái gì là hư là thật, là sanh diệt là không sanh diệt, mỗi người chọn lấy một nhân để ứng dụng tu. Đến đây Phật lại chỉ cách tu hết sức đơn giản và cụ thể rõ ràng.

Như lóng nước đục, đựng trong một món đồ để yên, để yên lâu không động thì cát đất tự chìm xuống, nước trong hiện ra, gọi là bước đầu hàng phục khách trần phiền não.

Đây là chặng thứ nhất, dẹp khách trần phiền não. Những thấy nghe hiểu biết đan kết với ngoại trần, thành ra ngàu đục. Tâm duyên theo ngoại cảnh rồi sanh buồn thương giận ghét, đó là phiền não. Do chạy theo ngoại cảnh mà phiền não khởi, nên gọi là khách trần phiền não. Khi tu phải dừng vọng, không chạy theo nữa, để cho nó lặng xuống, yên tĩnh lâu rồi tâm được sáng suốt. Đó là giai đoạn một, dẹp được lớp phiền não ban đầu, không bị ngoại cảnh lôi cuốn nữa.

Khi ta ngồi yên một lát mà không có niệm nào, đó là mới tạm lặng, như bụi đất mới lắng xuống đáy lu thôi, nếu quậy thì nó cũng đục trở lại. Bởi vậy khi ngồi thiền được yên hoặc lúc ở trong thất tâm an tịnh, thấy tánh thiện quá, cả ngày không có tí phiền não nào, tưởng đâu là hay rồi. Nhưng sau đó thì đâu cũng vào đấy, gặp việc vẫn sân si như cũ. Khi không động thì yên lắng, lúc động vọng niệm liền nổi lên, đây mới là giai đoạn một, chưa được trọn vẹn.

Kế lọc bỏ bùn đất, còn toàn là nước trong, gọi là hằng đoạn cội gốc vô minh.

Đây là giai đoạn thứ hai, hằng đoạn cội gốc vô minh. Khi nước đá lóng trong, dưới đáy là bùn đất, chúng ta gạn nước trong qua một món đồ khác, bỏ đi phần cặn đục. Bây giờ nước hoàn toàn trong, dù có quậy cũng không đục lại. Đó mới gọi là dứt được cội gốc vô minh. Đây chỉ cho những người tu tâm đã hoàn toàn thanh tịnh, mọi thứ phiền não đều tiêu sạch.

Tướng sáng suốt tinh thuần, tất cả biến hiện mà không bị phiền não, đều hợp với diệu đức thanh tịnh của Niết-bàn.

Đến giai đoạn thứ ba, nước hoàn toàn trong, hiện rõ cây cối trời mây. Lúc đó dù làm tất cả Phật sự, lo tất cả việc thế gian, tâm vẫn không bị phiền não dấy động, hợp với diệu đức thanh tịnh Niết-bàn. Đây là giai đoạn viên mãn, diệu dụng bất tư nghì.

Như vậy, phải qua ba giai đoạn chứ không phải một. Ngồi tu được yên chưa phải là xong, chừng nào đụng chạm u đầu sứt trán vẫn cười, không một chút phiền não thì khả dĩ được giai đoạn thứ hai. Đến lúc làm tất cả Phật sự, cứu giúp chúng sanh không mệt mỏi, làm gì cũng hợp với diệu đức Niết-bàn mới thật là viên mãn.

Ba giai đoạn như vậy, chúng ta học rồi mới thấy rõ con đường tu của mình, biết mình đang ở chặng nào. Nếu không học, nhiều khi tu được chút ít đã tưởng mình là thánh rồi hài lòng, tự khen. Bao nhiêu người tu lạc lối không đến nơi là tại chỗ đó. Do vậy những ai muốn tu, cần phải học cho thật kỹ lời Phật dạy, để biết rõ đường lối tu, khi tu mới không ngại, không sợ bị lạc.

2. Cội gốc phiền não

Nghĩa thứ hai là, các ông ắt muốn phát tâm Bồ-đề, đối với Bồ-tát thừa sanh đại dõng mãnh, quyết định dẹp bỏ các tướng hữu vi, phải nên xét kỹ cội gốc phiền não. Cội gốc này phát nghiệp và nhuận sanh, từ vô thủy đến nay, ai làm ai chịu? Này A-nan, ông tu đạo Bồ-đề, nếu không xem xét cội gốc phiền não thì không thể nào biết căn trần hư dối điên đảo ở chỗ nào. Chỗ điên đảo còn không biết thì làm sao mà hàng phục để vượt quả vị Như Lai!

Cội gốc phát ra nghiệp là vô minh, gọi là phát nghiệp vô minh, tức do mê lầm mà khởi nghiệp. Khởi nghiệp rồi ái thủ hữu tiếp nối làm cho tương tục gọi là nhuận sanh vô minh, tức thấm ướt hạt giống của quá khứ khiến chúng hiện hành.

Chúng ta phải biết rõ căn bản phiền não từ đâu phát, phát ra như thế nào, ai tạo ra và chịu kết quả của nó? Nếu không biết được cội gốc phiền não thì không thể biết được căn trần hư dối điên đảo ở chỗ nào. Chỗ điên đảo còn không biết huống là hàng phục được điên đảo, không hàng phục được điên đảo thì làm sao đạt quả vị Phật.

Này A-nan, ông xem ở thế gian, người mở gút nếu không thấy được chỗ thắt gút, làm sao biết mở?

Mở là giải, giải được thì thoát. Kết phược tức phiền não cột trói, giải thoát là mở những cột trói đó. Chúng ta tu muốn giải thoát cần phải biết cái gì cột trói, cột trói ở chỗ nào. Nếu không thấy chỗ thắt gút thì không tài nào mở được.

Chẳng từng nghe nói hư không bị ông làm cho tiêu hoại. Vì sao? Vì hư không có hình tướng nên không có thắt mở. Hiện nay mắt tai mũi lưỡi thân ý của ông, sáu thứ đó làm môi giới cho giặc, tự cướp gia bảo của ông. Do đây từ vô thủy chúng sanh trong thế giới sanh ra những trói buộc nơi khí thế gian, không thể nào vượt khỏi được.

Sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý làm môi giới cho giặc, cướp của báu nhà mình. Bản tâm trong sáng của chúng ta bị sáu thứ này dẫn giặc vào cướp. Mắt vừa thấy hình sắc liền khởi phân biệt bị sắc dẫn đi. Tai nghe tiếng khởi phân biệt, mũi lưỡi thân ý duyên theo các trần, bị cột trói nơi trần cảnh quên mất bản tâm viên trạm, nên nói là mất của báu nhà mình.

Sáu căn đuổi theo sáu trần là cội gốc phiền não. Nếu không biết cội gốc phiền não thì làm sao tu được, vì vậy Phật dạy ngay nơi sáu căn mà tu. Mắt thấy sắc không đuổi theo sắc khởi phân biệt là tu về nhãn căn. Tai nghe tiếng không khởi phân biệt theo tiếng là tu về nhĩ căn v.v… Đó là trở về, còn đuổi theo là gốc phiền não.

Người nào đuổi theo sắc thanh hương… thì người đó phiền não dài dài không bao giờ hết. Nghiệm lại xem tất cả chúng ta vui buồn từ đâu mà ra? Vui từ những điều được thỏa mãn, buồn vì không như ý. Như mắt vừa thấy sắc đẹp, ý liền khởi ham muốn được có. Được thì vui, không được thì buồn. Nhưng khi được rồi lại sợ bị mất, nên chăm chăm gìn giữ sanh lo âu phiền khổ. Nếu mất mát thì phiền não nhiều hơn. Chưa được thì phiền não, được rồi cũng phiền não, mất đi càng phiền não, cả ba thời đều phiền não.

Tóm lại, sáu căn là gốc của phiền não nên phải ngay đó mà mở. Do chỗ thắt gút này mà từ vô thủy cho tới ngày nay chúng sanh bị trói buộc nơi khí thế gian không gỡ ra được, cứ quanh đi quẩn lại trong vòng luân hồi, tiếp nối liên tục không dừng, không thể nào vượt ra khỏi.

Này A-nan, thế nào gọi là chúng sanh và thế giới? Thế là dời đổi, giới là phương vị (chỗ nơi). Nay ông nên biết các phương: đông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, phương trên, phương dưới là giới. Quá khứ, hiện tại, vị lai là thế. Phương vị có mười, số lưu chuyển của thời gian có ba. Tất cả chúng sanh đan dệt các hư dối mà cùng thành, trong thân đổi dời, thế và giới liên quan nhau. Tánh giới này tuy đặt ra có mười phương, định vị rõ ràng, nhưng người thế gian chỉ nói phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc. Phương trên, phương dưới vị trí không rõ ràng, còn ở giữa thì không có chỗ nhất định.

Thế là thời gian, có ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Giới là không gian, gồm đủ mười phương, tuy nhiên người thế gian chỉ sử dụng có bốn phương, còn phương trên phương dưới không lập, khoảng giữa thì không có vị trí nhất định. Chúng ta thường nghĩ trên là trời dưới là đất, nhưng trái đất đang quay thì trên và dưới làm sao xác định, cho nên chỉ nói có bốn phương. Như vậy nói thế giới là gồm cả không gian và thời gian.

Số bốn ắt đã rõ, hợp cùng với thế, ba nhân bốn, bốn nhân ba, xoay vần thành mười hai. Chuyển biến ba lớp: từ một thành mười hai, thành trăm, thành ngàn. Tổng quát trước sau, trong sáu căn, mỗi căn có một ngàn hai trăm công đức.

Đức Phật chọn căn cho chúng ta tu, tức là chọn cửa để chỉ chỗ vào. Mỗi căn có một ngàn hai trăm công đức, căn nào đầy đủ gọi là viên mãn.

Này A-nan, trong sáu căn đó, ông lại xét định xem chỗ hơn kém. Như con mắt xem thấy phía sau thì tối, phía trước sáng, phía trước hoàn toàn sáng, phía sau hoàn toàn tối. Nhìn sang hai bên phải trái thì được hai phần ba. Nói chung, công đức tạo thành không được hoàn toàn: ba phần là công, còn một phần không có đức. Nên biết nhãn căn chỉ có tám trăm công đức.

Con mắt chúng ta nhìn phía trước thấy toàn vẹn, phía sau không thấy gì, nhìn ngang hai bên chỉ thấy hai phần ba. Vậy nên nhãn căn chỉ được tám trăm công đức.

Như lỗ tai nghe khắp mười phương không sót, động thì như có gần có xa, tịnh thì không bờ mé. Nên biết nhĩ căn tròn đầy một ngàn hai trăm công đức.

Tiếng động xa nghe nhỏ, gần nghe to, yên tịnh thì nghe không giới hạn, đều nghe được tất cả không bị trở ngại ở phía nào. Vì vậy nhĩ căn đủ một ngàn hai trăm công đức.

Như lỗ mũi ngửi mùi, hơi thở ra vào thông suốt. Có ra có vào mà thiếu khoảng giữa. Nghiệm xét căn mũi ba phần thiếu một. Nên biết tỹ căn chỉ có tám trăm công đức.

Khoảng giữa là chỗ dừng giữa hơi thở ra và hơi thở vào, vì vậy hơi thở ra có vào nhưng thiếu chặng giữa nên tỹ căn chỉ có tám trăm công đức.

Như cái lưỡi tuyên nói tột cùng trí tuệ thế gian và xuất thế gian. Lời nói có chừng hạn nhưng nghĩa lý thì không cùng tận. Nên biết thiệt căn tròn đủ một ngàn hai trăm công đức.

Vì thiệt căn sử dụng được tròn đủ một ngàn hai trăm công đức, nên những vị tu hành thuyết pháp như ngài Phú-lâu-na… đều có công đức lớn.

Như thân cảm giác xúc chạm, biết sự trái thuận, khi hợp thì hay biết, lúc lìa ra không biết. Lìa ra chỉ có một, hợp thì có hai. Nghiệm xét thân căn, ba phần thiếu một. Nên biết thân căn chỉ có tám trăm công đức.

Khi tay nắm bả vai thì tay biết, bả vai cũng biết, đó là hợp thì có hai. Lúc lìa ra không biết nên nói lìa ra chỉ có một. Thế nên thân căn chỉ có tám trăm công đức.

Như ý căn thầm lặng dung chứa tất cả pháp thế gian xuất thế gian trong mười phương ba đời. Dù phàm hay thánh cũng đều bao dung, tột cùng không có bờ mé. Nên biết ý căn tròn đủ một ngàn hai trăm công đức.

Ý nghĩ về Phật liền thấy Phật, nghĩ về chúng sanh liền thấy chúng sanh, ý nghĩ cái gì thì hiện cái ấy nên nói bao dung, tột cùng không có bờ mé. Vì vậy ý căn có đủ một ngàn hai trăm công đức.

Phật phân tích kỹ, tai lưỡi và ý đủ một ngàn hai trăm công đức, còn mắt mũi và thân chỉ có tám trăm công đức, để chúng ta biết rõ mà chọn căn tu tập.

Này A-nan, nay ông muốn ngược dòng sanh tử, trở lại cùng tột cội gốc lưu chuyển, đến chỗ không sanh diệt, thì phải nghiệm xét sáu căn đang thọ dụng này, cái gì hợp cái gì ly, cái gì sâu cái gì cạn, cá gì viên thông cái gì không viên mãn. Nếu hay nơi đây ngộ được căn viên thông, ngược dòng nghiệp hư dối đan dệt từ vô thủy, được theo tính viên thông thì cùng với sự tu tập nơi căn không viên thông kết quả gấp bội, một ngày bằng một kiếp.

Tu căn viên thông một ngày bằng tu căn không viên thông một kiếp, cho nên Phật chỉ ra căn nào viên thông để chúng ta tu không mất thời gian, còn các căn không viên thông tu cũng được nhưng chậm.

Nay ta hiển bày đầy đủ số lượng những công đức vốn có của sáu căn lặng lẽ tròn sáng như thế. Tùy ông khéo chọn lựa cái nào có thể vào, ta sẽ phát minh khiến cho ông tăng tiến.

Học kinh Lăng-nghiêm chúng ta thấy đường hướng tu hành có cội nguồn rõ ràng, Phật và Tổ chỉ dạy không khác, đều lấy nhân vô sanh để đi tới quả vô sanh.

Niệm dấy lên liền thấy biết niệm, niệm là ý sanh diệt còn thấy được niệm là tánh biết. Vọng khởi rồi mất chứ cái biết vọng không mất, đây là trở lại tánh thật của chính mình, đó là tu ngay ý căn. Như vậy thiền mà chúng ta đang tu chính là chọn ý căn viên thông, lấy đó làm nhân để tu cho tới viên mãn hạnh quả.

Ngài Huệ Khả thưa với tổ Bồ-đề-đạt-ma: Tâm con không an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm. Tổ bảo: Đem tâm ra ta an cho. Ngài Huệ Khả sửng sốt, xoay lại tìm tâm bất an không thấy. Tâm lăng xăng bất an ấy là ý. Ý dấy niệm là động, còn cái biết tìm lại nó thì không động. Đây chính là pháp tu ý căn viên thông, nghĩa là thấy rõ những niệm sanh khởi của ý thức, bởi cái thấy này là phần viên trạm của ý.

Các đức Như Lai trong mười phương đối với mười tám giới, mỗi giới tu hành đều được viên mãn Vô thượng Bồ-đề, ở trong các giới kia cũng không có hơn kém. Chỉ vì ông hạ liệt, chưa thể ở trong đó được tròn đủ tuệ tự tại, nên ta mới nêu bày khiến cho ông chỉ cần thâm nhập nơi một căn. Vào được một căn không còn vọng tưởng, thì sáu căn hiểu biết kia đồng thời được thanh tịnh.

Chư Phật trong mười tám giới, giới nào cũng tu được, viên mãn không trở ngại. Ngài A-nan và chúng sanh đời mạt pháp do căn tánh hạ liệt nên phải nương một cửa để vào, nơi một căn không còn vọng tức sáu căn kia đồng thời thanh tịnh. Hiện nay chúng ta tu nhìn thẳng chỗ niệm khởi, khi niệm lặng rồi ý căn thanh tịnh thì năm căn kia cũng đồng thanh tịnh. Như nhà có sáu cửa, không thể vào sáu cửa một lượt nên phải chọn một cửa để vào nhà.

Phật nêu lên hai nghĩa quyết định, người tu không thể thiếu:

– Nghĩa quyết định thứ nhất, phải biết lựa chọn nhân bất sanh bất diệt, tương xứng với quả Bồ-đề bất sanh bất diệt.

– Nghĩa quyết định thứ hai, phải biết căn bản phiền não xuất phát từ sáu căn. Trong sáu căn mỗi căn lại có hai phần, một phần là thức sanh diệt đuổi theo sáu trần, một phần là tánh viên trạm tròn lặng không sanh diệt, gọi là tánh thấy nghe. Nếu chạy theo thức thì sáu căn là cội gốc của phiền não, còn biết tu thì nơi sáu căn xoay lại chỗ viên trạm của nó, tức là lấy nhân không sanh diệt làm chỗ tu chứng trở về giác ngộ, được quả vị Như Lai. Như vậy sáu căn là môi giới của giặc, sáu căn cũng là chỗ để trở về giác ngộ.

Chúng ta thấu hiểu những lời Phật dạy liền thấy rõ đường mình đi. Nếu tu mà không biết được nhân nào đưa đến quả đúng như sở nguyện của mình, không biết cội gốc phiền não ở đâu thì làm sao tu, làm sao dẹp. Không biết tu không biết dẹp vậy tu để thành cái gì? Cho nên nói có đầy đủ Bồ-đề Niết-bàn, chân như Phật tánh… nhưng nếu không biết cội gốc tu hành thì làm sao được Bồ-đề Niết-bàn? Chẳng khác nào nói thức ăn ngon mà không ăn nên bụng vẫn đói. Vì vậy tu hành phải thực tế, phải nắm vững đâu là gốc của sự tu.

Ở những kinh khác, Phật nói cội gốc phiền não là vô minh, tức nhằm vào căn bản vô minh. Trong kinh này Phật nói cội gốc phiền não là sáu căn, tức nhằm vào nhuận sanh vô minh. Nhuận là thấm ướt, sanh là phát sanh, tức những phiền não lầm mê thấm ướt hạt giống của quá khứ, giúp cho tăng trưởng khiến sanh ra hiện hành. Nếu chuyển được sáu căn thì cội gốc phiền não không còn.

A-nan bạch Phật rằng: – Bạch Thế Tôn, thế nào là ngược dòng vào sâu trong một căn, hay khiến cho sáu căn đồng thời thanh tịnh?

Ngược dòng tức không chạy theo duyên trần bên ngoài, mà trở về với tánh nghe tánh biết của mình, khi ngược dòng vào sâu trong một căn thanh tịnh thì sáu căn cũng đồng thời thanh tịnh.

Phật bảo A-nan:

– Nay ông đã được quả Tu-đà-hoàn, đã diệt trừ những mê lầm kiến chấp của chúng sanh và thế gian trong ba cõi, do thấy đạo mà dứt (kiến sở đoạn), nhưng vẫn chưa biết những tập khí hư vọng chứa nhóm trong căn từ vô thủy. Những tập khí hư vọng kia, phải nhân tu mới đoạn được (tu sở đoạn).

Chứng quả Tu-đà-hoàn thấy được đạo nên hết những mê lầm kiến chấp. Ngài A-nan nhờ nghe Phật giảng dạy mà ngộ được pháp thân, đó cũng thuộc về kiến sở đoạn. Nghĩa là những cái thấy điên đảo từ trước đến ngang đây đứt. Như lâu nay chúng ta thường nghĩ thân này vô thường hoại diệt là hết, nhưng bây giờ nghe Phật dạy tánh thấy nghe không mất, chúng ta nhận được liền dứt trừ được chỗ thấy điên đảo, không còn mê lầm. Đó gọi là đoạn kiến hoặc.

Tuy dứt trừ kiến hoặc không còn thấy điên đảo mê lầm, nhưng tập khí tham sân si huân tập từ trước đến nay vẫn chưa hết, tức là tư hoặc chưa đoạn, phải nhờ công phu tu tập mới loại trừ lần lần, đây gọi là tu sở đoạn. Đoạn được kiến hoặc chứng Tu-đà-hoàn còn phải bảy lần trở lại tu tập tiếp nữa mới sạch hết phiền não, chứng A-la-hán.

Huống nữa, trong đây sự phân chia số mục sanh trụ dị diệt còn rất nhiều.

Trong đây chỉ cho ba cõi thế gian, phân chia số mục của những pháp sanh, trụ, dị, diệt còn rất nhiều, ngài A-nan cũng chưa biết.

Nay ông hãy xem xét, sáu căn hiện tiền là một hay là sáu? Này A-nan, nếu nói là một thì lỗ tai sao chẳng thấy, con mắt sao chẳng nghe, đầu sao chẳng đi, chân sao chẳng nói? Nếu sáu căn này quyết định thành sáu, thì như nay ta ở trong hội vì các ông tuyên dương pháp môn vi diệu, vậy trong sáu căn của ông, cái nào đến lãnh thọ?

A-nan thưa: – Con dùng lỗ tai để nghe.

Phật bảo: – Tai ông tự nghe, đâu quan hệ gì đến thân và miệng, mà miệng lại hỏi nghĩa, còn thân đứng lên cung kính?

Nói một không được, sáu cũng không được. Lâu nay chúng ta cứ nhìn một chiều, hoặc là một hoặc là sáu. Nếu sáu căn cách biệt thì cái nào có phận sự cái ấy, nhưng nay tai vừa nghe, miệng liền hỏi, tức cái này có liên hệ với cái kia, làm sao nói sáu căn riêng biệt được.

Thế nên phải biết: chẳng phải một mà trọn là sáu, chẳng phải sáu mà trọn là một. Rốt cuộc các căn của ông vốn chẳng phải một hay là sáu.

Có thể là một mà cũng có thể là sáu, không cố định. Nếu chấp cố định là đã sai lầm.

A-nan, nên biết căn ấy chẳng phải một chẳng phải sáu. Do từ vô thủy đến nay điên đảo trầm luân, nên nơi tánh viên trạm (lặng lẽ trùm khắp) sanh ra nghĩa một và sáu.

Từ vô thủy đến nay, do những điên đảo trầm luân, mà nơi tánh viên trạm chân thật trong sạch sáng suốt của chính mình sanh ra nghĩa sáu. Thế nên phải một cũng không phải sáu. Nói sáu là nói về dụng, còn nói một là nói trên thể. Nhưng sự thật, thể cũng không phải là một.

Ông đã chứng quả Tu-đà-hoàn, tuy đã tiêu được chấp sáu nhưng vẫn chưa quên một. Như hư không rộng lớn lẫn trong các món đồ, do hình trạng các đồ vật sai khác mà nói hư không khác nhau. Nếu bỏ các đồ vật, xem hư không, thì nói hư không là một. Hư không rộng lớn kia làm sao vì ông mà thành đồng hay chẳng đồng, huống nữa lại gọi là một, chẳng phải một! Ắt ông biết rõ sáu căn thọ dụng cũng lại như thế.

Ngài A-nan tuy đối với sáu biết là không thật nhưng vẫn còn nghĩ là một, nên đức Phật dùng ví dụ cụ thể để chỉ. Như hư không rộng lớn, nếu để các đồ vật vuông, tròn, lớn, nhỏ… thì thấy hư không có vuông, tròn, lớn, nhỏ. Hư không vốn không vuông tròn mà trở thành vuông tròn vì bị hạn cuộc trong món đồ. Bởi có năm, sáu món đồ nên thấy năm, sáu hư không khác nhau.

Khi dẹp hết những món đồ ấy, chúng ta lại nghĩ hư không là một. Đó cũng là tưởng chấp của mình. Do đối với sáu nên nói một, chứ khi dẹp hết những món đồ thì hư không trùm khắp, không phải sáu, không phải một. Tánh giác cũng vậy, tròn đầy khắp giáp, nhưng khi bị cột dính với sáu căn trong vòng luân hồi thì tánh giác thênh thang đó biến thành những cái biết khác nhau. Biết ở mắt, biết ở tai, biết ở mũi, biết ở lưỡi v.v… Khi gỡ dính mắc nơi sáu căn rồi thì tánh giác không còn khác nữa. Hiểu được lý này mới biết tại sao sáu căn là một mà cũng là khác.

Do hai thứ sáng tối hiển bày nhau, ở trong tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong lặng phát ra cái thấy. Tánh thấy đó soi rọi nơi sắc kết với sắc thành căn. Gốc của căn gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân đó gọi hình thể con mắt, giống như trái nho. Căn thô phù do bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo sắc.

Do tối và sáng ở bên ngoài bày hiện với nhau, làm dính khắn một phần tánh viên diệu, phát ra thành cái thấy. Như vậy cái thấy có mang một phần của tánh viên diệu. Cái thấy soi sáng sắc, kết hợp thành nhãn căn, khi thành nhãn căn rồi lại đuổi theo các sắc trần. Đây lớp dính khắn thứ nhất.

Do hai thứ động tịnh đối chọi nhau, ở trong tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong lặng phát ra cái nghe. Tánh nghe soi rọi nơi tiếng quyện với tiếng làm thành căn. Gốc của căn gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân đó gọi hình thể lỗ tai, giống như lá non cuộn lại. Căn thô phù do bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo tiếng.

Do hai thứ thông bít phát hiện nhau, ở trong tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong lặng phát ra cái ngửi. Tánh ngửi ánh hiện nơi mùi hương thu nhận mùi mà thành căn. Gốc của căn gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân đó gọi hình thể lỗ mũi, giống như hai ngón tay duỗi xuống. Căn thô phù do bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo mùi.

Do hai thứ lạt và có vị (đắng, ngọt, cay…) xen lẫn nhau, nơi tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong lặng phát ra cái nếm. Tánh nếm rọi sáng nơi vị kết với vị mà thành căn. Gốc của căn gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân đó gọi hình thể của lưỡi, giống như trăng lưỡi liềm đầu tháng. Căn thô phù do bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo vị.

Do hai thứ lìa hợp cọ xát nhau, nơi tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong lặng phát ra cảm giác. Tánh của cảm giác này soi sáng nơi xúc nắm xúc thành căn. Gốc của căn gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân đó gọi thân thể, như dáng cái trống cơm. Căn thô phù do bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo xúc.

Ngày xưa ở phường hát có cái trống cơm, hai đầu lớn giữa eo nhỏ, nên nói thân mình giống cái trống cơm.

Do hai thứ sanh diệt tiếp nối nhau, nơi tánh diệu viên làm dính khắn tánh trong lặng phát ra cái biết. Tánh biết này soi sáng nơi pháp gom pháp trần thành căn. Gốc của căn gọi là tứ đại thanh tịnh, nhân đó gọi ý suy nghĩ, như cái thấy trong nhà tối. Căn thô phù do bốn trần hợp thành này giong ruổi chạy theo pháp trần.

Đó là sáu căn thành hình từ hai cái đối đãi va chạm nhau, làm tánh diệu viên bị dính theo tứ đại phát thành căn. Tuy có chung một tánh sáng suốt tròn đầy nhưng vì bị dính với trần nên mỗi bộ phận có cái biết khác nhau, ở mắt thì thấy, ở tai thì nghe v.v… Còn những ý nghĩ của chúng ta thì thường mờ mờ ảo ảo, như trong nhà tối lờ mờ không thấy rõ.

Qua phần giải thích này, đức Phật chỉ rõ cho thấy nơi sáu căn của chúng ta có dính một phần không sanh diệt của tánh viên trạm. Cho nên đứng về tánh viên trạm thì không phải sáu, nhưng do bị dính khắn nên có thấy nghe riêng biệt thành sáu. Khi mở được sự dính khắn của sáu căn thì không còn sáu, nhưng lại tưởng là một. Sự thật sáu và một là đứng trên đối đãi mà có, về nguyên thể là tánh giác tròn đầy trong lặng.

Phật diễn đạt chỗ này rõ ràng để chúng ta nhận ra nơi mình có tánh viên trạm bị dính khắn ở sáu nơi. Sáu căn không khu biệt từng phần mà có liên hệ bên trong. Do đó gỡ một căn thì mấy căn kia đều thoát được, trở về tánh viên trạm trùm khắp, không còn bị dính khắn nữa. Chúng ta chỉ có một phần nhỏ xíu của tánh viên trạm bị dính khắn nơi sáu căn, gọi là thấy nghe hiểu biết. Vậy mà chúng ta hài lòng tự mãn với cái hiểu biết của mình. Nếu gỡ được cái dính khắn đó, thoát ra thì tánh viên trạm trùm khắp bất khả tư nghì.

Tu không phải là chuyện nhỏ nhoi hẹp hòi, chỉ biết làm chút ít điều lành bỏ chút ít điều ác gọi là tu. Tu không tầm thường như người thế gian thường nghĩ, mà phải làm sao gỡ được cái dính khắn của sáu căn, trở về tánh viên trạm trùm khắp, đó mới là công phu tu hành viên mãn. Nên nói, người tu phi thường ở chỗ làm một việc mà thế gian không bao giờ hiểu nổi.

Người đời cứ hài lòng tự mãn với chỗ thấy nghe hiểu biết của sáu căn, đến khi chết không biết sáu cái đó đi về đâu, rồi tưởng là hết. Còn chúng ta biết rõ nơi sáu căn chỉ dính khắn một phần nhỏ xíu của tánh viên trạm. Từ tánh viên trạm bị dính khắn nên kẹt ở sáu căn mà có ra sáu cái hiểu biết. Nếu gỡ được thì sáu cái trở về thể của nó, lúc đó mới trùm khắp nơi nào cũng có. Vậy mới thấy chỗ cứu cánh của đường tu.

Học kinh Lăng-nghiêm nếu chỉ học suông trên chữ nghĩa thì không thấy cái hay, không biết đường tu, còn hiểu cho thật thấu đáo sẽ thấy Phật dạy hết sức rõ ràng trong từng phần.

A-nan, như thế sáu căn do tánh giác minh kia soi lại minh giác, làm mất cái rõ biết trong sáng kia, dính khắn với vọng mà phát sáng.

Do bỉ giác minh hữu minh minh giác. Giác minh tức tánh biết vốn là bản giác, từ bản giác đó dấy vọng soi lại nó, vì vậy mà có năng sở. Do có năng sở nên mất tánh rõ biết tinh thuần, dính nơi vọng mà phát ra sáng.

Thế nên nay ông lìa tối và sáng thì không có cái thể thấy, lìa động và tịnh vốn không có nghe, không có thông và bít thì tánh ngửi không sanh, khôn có vị và lạt thì cái nếm không từ đâu ra, không có ly và hợp thì cảm xúc vốn không, không có sanh và diệt thì cái rõ biết nương gá vào đâu!

Ông chỉ không theo động tịnh, hợp ly, có vị và lạt, thông bít, sanh diệt, sáng tối, mười hai tướng hữu vi như thế, tùy nhổ được một căn khỏi dính khắn, nhiếp phục vào trong, nhiếp phục trở về tánh chân thật ban đầu, phát ra tánh sáng suốt sẵn có. Tánh sáng suốt được phát minh thì năm căn bị dính khắn khác liền được nhổ sạch, hoàn toàn giải thoát. Không do nơi tiền trần mà khởi thấy biết, cái sáng không theo căn, chỉ nương nơi căn mà sáng phát ra, do đó sáu căn có thể dùng thay lẫn nhau.

Không theo mười hai tướng hữu vi, tức là sáu căn không dính với sáu trần. Nếu nhổ được một căn không chạy theo tiền trần thì trở về tánh viên trạm liền được thanh tịnh. Trở về tánh viên trạm tức là nhổ được cái gốc dính khắn từ trước, hễ một căn thông suốt thì năm căn kia cùng được giải thoát. Lúc đó không đợi tiền trần mới có hiểu biết. Cái sáng đó là tánh chung, không dính ở căn, chỉ gá nơi căn mà phát ra, nên có thể dùng thay thế lẫn nhau. Con mắt có thể nghe, lỗ tai có thể thấy… gọi là lục căn hỗ dụng. Sỡ dĩ hiện nay các căn của chúng ta mỗi cái có phận sự riêng là vì bị dính khắn trong đó. Khi gỡ được dính khắn, xoay trở về thành cái thể chung rồi thì chỉ mượn căn mà phát ra diệu dụng.

Đoạn này đức Phật chỉ cho thấy, toàn thân chúng ta đều bị lệ thuộc vào trần cảnh, khi không có trần cảnh thì nói là không thấy không nghe. Một khi rõ được tánh biết hằng hữu nơi tai, có tiếng thì nghe có tiếng, không tiếng cũng nghe không tiếng, không kẹt trong động và tịnh, đó là thoát ra được cái dính khắn của tai. Đối với mắt cũng như vậy, không lệ thuộc nơi tối và sáng. Ý không lệ thuộc nơi dấy lên hay lặng xuống, lúc nào cũng một tánh biết rõ ràng không sanh diệt. Các căn khác cũng đều như vậy.

Mắt thấy tai nghe mà không lệ thuộc vào động tịnh, khen chê không dính… Sống được như vậy tức ở trong tự tánh định, nghĩa là hằng sống với tự tánh mình. Dù đi đâu, làm việc gì cũng là ở trong định. Không lệ thuộc, không chạy theo trần cảnh cũng không đem trần cảnh vào, hằng sống với tánh nghe tánh thấy của chính mình… gọi là nghịch lưu, tức ngược dòng. Lúc ấy tâm luôn thanh tịnh không còn phiền não, lúc nào cũng là thiền, đó là giải thoát.

A-nan, ông há không biết hiện nay trong hội này, ông A-na-luật-đà không con mắt mà vẫn thấy.

Ngài A-na-luật-đà mắt mù mà xem thấy tam thiên thế giới như xem trái cây trong lòng bàn tay. Con mắt hư rồi làm sao thấy được, vậy ngài thấy bằng cái gì? Không có con mắt vẫn thấy như thường, để chỉ lúc thoát sự dính khắn rồi thì sáu căn hỗ dụng, thiếu căn này vẫn sử dụng được căn khác.

Rồng Bạt-nan-đà không có tai mà vẫn nghe. Thần nữ Căng-già (thần sông Hằng) không có mũi mà vẫn ngửi được hương. Ông Kiều-phạm-bát-đề lưỡi khác người mà biết vị.

Trong kinh nói Kiều-phạm-bát-đề chứng A-la-hán, nhưng do đời trước tạo khẩu nghiệp nên lưỡi ngài giống như lưỡi trâu. Lẽ ra lưỡi trâu thì biết vị theo trâu, vậy mà ngài vẫn biết vị như mọi người.

Thần Thuấn-nhã-đa không thân mà có cảm xúc, ở trong ánh sáng của Như Lai khiến tạm hiện ra thân, chứ bản chất là gió, vốn không có hình thể. Trong hội này những vị Thanh văn đã được tịch tịnh trong diệt tận định, như ông Ma-ha Ca-diếp từ lâu đã diệt sạch ý căn mà vẫn rõ biết tròn sáng, không nhân nơi tâm niệm.

Thần Thuấn-nhã-đa là thần hư không, vốn không có thân, nhờ ở trong hào quang của Phật ánh ra thì tạm thấy có thân hiện, nhưng chỉ toàn là chất gió, vậy mà vẫn có cảm xúc. Có người lo ngại, bây giờ còn suy nghĩ thì còn biết, khi tu hết suy nghĩ chắc hết biết gì. Không ngờ chính do diệt được những sanh diệt của ý căn mà tánh viên minh hằng rõ ràng sáng tỏ.

Này A-nan, nay các căn của ông nếu đã nhổ sạch hoàn toàn thì cái sáng suốt bên trong phát sáng. Như thế các trần thô ở bên ngoài và các tướng biến hóa trong thế gian, giống như nước sôi làm tiêu băng, liền khi ấy hóa thành tri giác Vô thượng.

Như vậy muốn thành Vô thượng giác thì chọn một căn viên thông, tu cho tới chỗ thanh tịnh không còn dính kẹt nữa. Một căn thanh tịnh thì sáu căn kia cũng được thanh tịnh, tức đã nhổ gỡ hết dính khắn, không còn chạy theo ngoại trần. Lúc đó trong tâm phát ra sáng suốt, đối với các tướng biến hóa thế gian đều tiêu biến, giống như nước sôi đổ lên nước đá không có gì chướng ngại ngăn trở, trong một niệm thành tri giác Vô thượng, không phải chờ đợi xa xôi. Đó là lẽ thật của sự tu.

Sở dĩ chóng được giác ngộ là vì nơi sáu căn có niêm một phần tánh giác. Phần chân thật bị niêm đó chính là cái nhân không sanh diệt. Khi tu chúng ta xoay lại gỡ được cái dính khắn đó thì trở về tánh giác ngay.

Đoạn trên, đức Phật ví dụ về chư thần và chư vị A-la-hán, đến đây trở lại là nói về người thế gian.

Này A-nan, như người thế gian kia tụ cái thấy nơi con mắt, nếu bảo họ nhắm mắt lại thì tướng tối hiện ở trước, sáu căn tối mù, đầu và chân giống nhau. Người kia lấy tay rờ khắp ngoài thân, tuy không thấy được mà một khi rờ đầu, chân đều biện biệt rõ, tri giác là đồng.

Người ta thường nói thấy ở mắt, nhưng nếu nhắm mắt lại rồi lấy tay rờ khắp thân, con mắt tuy không thấy nhưng tay rờ tới đầu, tới chân đều biết, mà biết tức cũng như thấy. Cái biết của tay và biết của con mắt không khác nhau. Đức Phật dùng ví dụ đó để chỉ ra ngay nơi sáu căn có hỗ dụng.

Ngài Viên Trí Đạo Ngô hỏi thiền sư Vân Nham:

– Đại Bi ngàn tay mắt, vậy mắt nào là mắt chánh?

Thiền sư Vân Nham bảo:

– Như người ban đêm vói tay ra sau mò chiếc gối.

– Tôi hội rồi.

– Hội thế nào?

– Khắp thân là tay mắt.

Bồ-tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt, hay tất cả mọi người chúng ta đều có ngàn tay ngàn mắt. Khi nhắm mắt rờ đâu cũng thấy biết, như vậy nào phải chỉ mắt mới thấy. Hoặc khi nhắm mắt nhưng nghe phía đông phía tây có tiếng nói vang lại, chúng ta vẫn biết đó là tiếng người nam hay nữ, như vậy cũng là thấy. Hoặc như người mù thường có lỗ tai thính, người điếc thì con mắt nhạy, chỉ cần nhìn miệng người nói là có thể đoán ra, tức nghe bằng cái thấy. Như vậy khi cơ quan này hư thì cái biết phát ra ở cơ quan khác.

Duyên của cái thấy nhân nơi sáng, nên khi tối thành không thấy. Nếu chẳng có sáng mà tự phát cái thấy thì các tướng tối trọn không thể làm mờ tối được. Căn trần đã tiêu thì làm sao tánh giác minh không thành nhiệm mầu cùng khắp?

Chúng ta thấy được cảnh là nhân nơi sáng, nên khi tối gọi là không thấy. Nếu không cần sáng mà tự phát cái thấy, như khi nhắm mắt lại vẫn tự phát ra thấy biết thì thấy biết đó không bị các tướng tối làm che mờ. Như khi chúng ta nhắm mắt, rờ tới đâu mình biết tới đó, dù ở ngoài có đèn hay không đèn chúng ta vẫn biết. Như vậy sáng hay tối cũng không liên hệ gì, không làm mờ hay tỏ hơn cái biết. Đức Phật chỉ rõ ngay nơi mình có cái biết, cái biết đó như là cái thấy, không đợi phải có các trần bên ngoài mới thấy. Khi sáu căn còn đuổi theo trần cảnh thì cái biết hạn chế. Nếu đối với các trần chúng ta không thọ, không lệ thuộc, biết xoay sáu căn trở về thì không mắc kẹt nơi trần cảnh, cái biết không còn bị hạn chế.

Khi căn trần đã tiêu, tức là không còn bị dính kẹt nữa thì tánh giác sáng suốt tròn khắp nhiệm mầu. Sở dĩ cái biết nơi chúng ta bị chia chẻ, mờ tối là vì lệ thuộc vào căn trần. Nếu sống với cái hằng thấy hằng nghe… thì dù sáng hay tối, có tiếng hay không tiếng… tánh biết vẫn thường sáng.

Hiểu chỗ này rồi niềm tin của chúng ta vững chắc, quyết tâm trở về chỗ chân thật không còn nghi ngờ. Nếu không hiểu cứ lo sợ không dùng tâm suy nghĩ e sẽ ngu khờ. Sự thật chính đang suy nghĩ mới là ngu khờ, vì chỉ đuổi theo những tưởng sanh diệt. Khi buông hết không nghĩ nữa, lúc đó mới rõ được tâm bất sanh bất diệt, đồng thời cũng có thể tỏ sáng được tất cả. Như đức Phật, khi cần ngài có thể nhắc lại chuyện quá khứ từ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp cho đến bây giờ.

3. Thể nghiệm tánh chân thường

A-nan bạch Phật rằng:

– Bạch Thế Tôn, như lời Phật đã dạy, muốn cầu quả thường trụ, chỗ phát tâm tu nhân, cần phải hợp với tên gọi của quả vị. Bạch Thế Tôn, như trong quả vị Bồ-đề, Niết-bàn, chân như, Phật tánh, yêm-ma-la thức, Không Như Lai tạng, Đại viên cảnh trí, bảy thứ tên gọi tuy có khác mà thể tánh thanh tịnh viên mãn, bền chắc như Kim cang vương, thường trụ không hoại diệt.

Bồ-đề là giác. Niết-bàn tức vô sanh. Chân như, chân thật như như không biến đổi. Phật tánh tức tánh giác sáng suốt. Yêm-ma-la thức (amala) là âm từ tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Bạch tịnh thức, còn gọi là đệ cửu thức thứ chín. Trong Duy thức, thức thứ tám gọi là a-lại-da tức tàng thức, gồm các chủng tử sanh diệt. Thức thứ chín là Bạch tịnh thức hoàn toàn trong sạch, không còn chủng tử nhiễm tịnh đối đãi, đến đây mới không sanh diệt. Không Như Lai tạng tức Như Lai tạng xuất triền. Như Lai tạng được chia làm hai: Một là Như Lai tạng tại triền, còn bị trói buộc bởi vô minh phiền não. Hai là Như Lai tạng xuất triền, tức ra khỏi vô minh phiền não. Đại viên cảnh trí là trí tuệ tròn sáng như gương. Bảy tên gọi này tuy tên khác nhưng đồng một thế tánh thanh tịnh viên mãn, cứng chắc giống như Kim cang vương thường trụ chẳng hoại.

Như ở đoạn đầu đức Phật đã nêu, nếu muốn cầu quả Vô thượng bất sanh bất diệt thì phải từ nhân không sanh không diệt, tức là nhân địa với quả địa phù hợp nhau. Quả địa thường trụ thì nhân địa cũng phải thường trụ.

Nếu thấy nghe này lìa sáng tối, động tịnh, thông bít, rốt ráo không có tự thể, cũng như tâm niệm rời tiền trần vốn không thể có, tại sao lại đem cái rốt ráo đoạn diệt này dùng làm nhân tu mà muốn được bảy quả thường trụ của Như Lai? 

Phật dạy lấy sáu căn làm nhân tu sẽ được bảy quả thường trụ. Nhưng sáu căn đợi có cảnh mới có thấy nghe…, không cảnh thì liền không. Vậy nó là thứ tiêu mất, là đoạn diệt, làm sao dùng làm nhân tu để đạt được cái không đoạn diệt?

Bạch Thế Tôn, nếu lìa sáng tối thì cái thấy rốt ráo là không, như không có tiền trần thì tự tánh của niệm bị diệt mất, tới lui xoay vần, suy xét thật kỹ, vốn không có tâm và tâm sở của con, vậy đem cái gì để lập làm nhân mà cầu quả Vô thượng giác? Như Lai trước có nói tánh trong lặng tròn đầy thường hằng; lời nói trái hẳn lẽ thật, rốt cuộc thành hý luận, làm sao được gọi là lời nói chân thật của Như Lai? Vậy cúi mong ngài khởi lòng đại từ khai mở chỗ mê lầm cho chúng con.

Ngài A-nan vẫn còn nghi, sáu căn đợi có trần mới biết, rời trần ra không có biết, tức không thật, không thường hằng. Nay đức Phật bảo lấy căn này tu để thành quả Phật bất sanh bất diệt, làm sao có thể lấy cái nhân không thật, không thường để tu thành quả thường trụ chân thật được? Như vậy lời Phật nói nơi mỗi người có tánh trạm viên thường trụ là không đúng lẽ thật, trọn thành hý luận? Xin đức Phật thương xót chỉ dạy cho.

Phật bảo A-nan:

– Ông học rộng nghe nhiều nhưng các lậu hoặc chưa sạch, trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên đảo, còn điên đảo thật ở trước mắt còn chưa thể biết. Ta e ông vẫn chưa thành tâm tin phục, nay thử đem các việc trần tục để trừ nghi cho ông.

Liền đó Như Lai bảo La-hầu-la đánh một tiếng chuông, hỏi A-nan rằng: – Nay ông có nghe chăng?

A-nan và đại chúng đều thưa: – Con có nghe.

Chuông dứt không còn tiếng, Phật lại hỏi rằng: – Nay ông nghe chăng?

A-nan và đại chúng đều thưa: – Không nghe.

Khi ấy La-hầu-la lại đánh một tiếng chuông, Phật lại hỏi: – Nay ông có nghe chăng?

A-nan và đại chúng thưa: Đều nghe.

Phật bảo A-nan: – Thế nào là ông có nghe? Thế nào là ông không nghe?

A-nan và đại chúng đều bạch Phật rằng:

– Tiếng chuông nếu đánh lên thì con được nghe, đánh lâu tiếng chuông hết, âm hưởng đều dứt thì gọi là không nghe.

Trước tiên Phật cho đánh chuông hai lần để thử nghiệm rồi mới hỏi, kế đến Phật hỏi để ngài A-nan phải xác nhận sao gọi là nghe, sao gọi là không nghe.

Như Lai lại bảo La-hầu-la đánh một tiếng chuông, hỏi A-nan: – Hiện giờ có tiếng chăng?

A-nan và đại chúng đều thưa: – Có tiếng.

Giây lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi:

– Hiện giờ có tiếng chăng?

A-nan và đại chúng thưa: – Không tiếng.

Lát sau La-hầu-la lại đánh một tiếng chuông, Phật lại hỏi: – Hiện giờ có tiếng chăng?

A-nan và đại chúng đều thưa: – Có tiếng.

Phật hỏi A-nan: – Ông cho thế nào là có tiếng, thế nào là không tiếng?

A-nan và đại chúng đều bạch Phật rằng:

– Tiếng chuông nếu đánh lên thì gọi là có tiếng, đánh lâu tiếng hết, âm hưởng đều dứt thì gọi là không tiếng.

Phật bảo A-nan và cả đại chúng:

– Nay tại sao các ông nói rối loạn như vậy?

Lại thêm hai lần đánh chuông để xác nhận thật rõ thế nào là có tiếng, thế nào là không tiếng. Nhưng đối với ngài A-nan và cả đại chúng thì nghe và tiếng cũng chỉ là một, cho nên bị Phật quở.

A-nan và đại chúng đồng thời bạch Phật:

– Nay vì sao Thế Tôn bảo chúng con rối loạn?

Phật bảo: – Ta hỏi ông về nghe thì ông đáp rằng nghe. Lại hỏi ông về tiếng thì ông đáp là tiếng. Chỉ nghe với tiếng mà ông trả lời không nhất định, như vậy làm sao chẳng gọi là rối loạn?

Đến đây chúng ta mới thấy chỗ lầm lẫn của tất cả người thế gian chứ không chỉ một người. Chuông đánh boong, hỏi nghe không, nói nghe. Tiếng chuông dứt, hỏi nghe không, nói không nghe. Lại đánh boong, hỏi có tiếng không, nói có tiếng. Tiếng dứt, hỏi có tiếng không, nói không tiếng. Như vậy tức là xác nhận nghe và tiếng là một. Nghe là ở mình, còn tiếng là nơi chuông, nhưng lại lầm hai cái là một, nên Phật quở nói như vậy là rối loạn.

A-nan, tiếng chuông dứt không còn âm hưởng, ông nói rằng không nghe. Nếu thật là không nghe thì tánh nghe đã diệt, đồng với cây khô, đến khi tiếng chuông lại đánh lên, ông làm sao mà biết tiếng? Biết có biết không, tự là thanh trần hoặc có hoặc không, đâu phải tánh nghe kia vì ông mà thành có thành không. Tánh nghe thật là không thì ai biết không tiếng?

Có tiếng hay không tiếng là thanh trần có hoặc không, còn tánh nghe lúc nào cũng hiện hữu. Nếu tánh nghe thật là không thì cái gì biết không có tiếng? Có tiếng thì nghe có tiếng, không tiếng thì nghe không tiếng, chứ đâu phải không có cái nghe. Tánh nghe đó luôn thường trực không lúc nào vắng mặt.

Như khi ngồi thiền, vọng tưởng khởi lên chúng ta biết có vọng tưởng, lúc không vọng tưởng biết không có vọng tưởng. Biết có vọng tưởng là mình biết, vậy biết không vọng tưởng là ai biết? Cũng là mình biết. Vọng tưởng là cái duyên theo bóng của tiền trần, khi không duyên với tiền trần thì không có vọng tưởng, còn cái biết có vọng tưởng và biết không vọng tưởng luôn luôn hiện hữu. Vậy mà khi không có niệm, nhiều người thấy chới với, không biết lúc đó thế nào. Rõ ràng là mình mà lại không biết! Đó là chỗ mê lầm của chúng ta, quên mình theo vật.

Đức Phật cố chỉ cho thấy nơi sáu căn có cái không sanh diệt, hằng hiển lộ mà chúng ta bỏ quên. Như câu chuyện về Tổ thứ mười tám của thiền tông là Già-da-xá-đa. Một hôm Tổ cùng đồ chúng du hóa đến nước Nguyệt Chi, có Bà-la-môn Cưu-ma-la-đa hỏi thị giả: Đây là người gì? Thị giả đáp: Là đệ tử Phật. Cưu-ma-la-đa liền chạy thẳng vào nhà đóng cửa lại, Tổ đi theo đến nơi gõ cửa. Cưu-ma-la-đa ở trong nhà nói vọng ra: Nhà này không có người. Tổ hỏi: Đáp không người đó là ai? Cưu-ma-la-đa nghe nói có vẻ kỳ lạ, nghi là bậc đạo hạnh nên mở cửa ra, thỉnh Tổ vào nhà. Sau đó phát nguyện xuất gia và được truyền trao giáo pháp.

Ở trong nhà mà nói nhà không có người, chúng ta cũng vậy, đang biết không có vọng tưởng mà nói là không có mình. Ai biết không vọng tưởng mà nói là không có mình? Điều này hết sức cụ thể nhưng nhiều khi chúng ta lại quên, nghĩ rằng có vọng tưởng mới có mình, khi không vọng tưởng cho là không có mình. Biết không vọng tưởng là đang có mình hiện hữu, cho nên khi tu chúng ta cần nhận ra được lý chân thật hiện hữu ngay nơi mình, chẳng phải tìm kiếm đâu xa.

Thế nên A-nan, tiếng ở trong cái nghe tự có sanh diệt, chẳng phải vì ông nghe tiếng sanh tiếng diệt khiến cho tánh nghe của ông thành có thành không. Ông còn điên đảo lầm tiếng là nghe, đâu có lạ gì mê mờ cho thường là đoạn. Trọn không nên nói lìa các thứ động tịnh, bít lấp, khai thông, nói cái nghe không tánh.

Như người ngủ mê trên giường gối, trong lúc người kia đang ngủ, trong nhà có người giã gạo, đập sợi. Người kia trong mộng nghe tiếng giã tiếng đập tưởng là tiếng gì khác, cho là tiếng đánh trống  hay tiếng đánh chuông. Chính khi đang mộng, họ lấy làm lạ sao tiếng chuông vang như tiếng cây tiếng đá. Khi ấy chợt thức giấc mới biết đó là tiếng chày, tự nói với người trong nhà là khi tôi còn ở trong mộng lầm tiếng giã gạo cho là tiếng trống.

Trong khi ngủ tuy không theo các trần bên ngoài nhưng tánh nghe vẫn hằng hiện hữu, chỉ không sáng bằng lúc thức mà thôi.

A-nan, người ấy trong mộng đâu có nhớ động tịnh, mở đóng, thông bít. Thân người kia tuy nằm ngủ nhưng tánh nghe không mờ. Dù thân ông có tiêu tan, mạng căn có diệt mất, tánh này làm sao vì ông mà tiêu diệt? Do các chúng sanh từ vô thủy đến nay theo các thứ sắc thanh, chạy đuổi theo vọng niệm mà lưu chuyển, không từng khai ngộ tánh thanh tịnh nhiệm mầu thường trụ, không theo chỗ thường trụ mà đuổi theo các thứ sanh diệt. Do đó mà đời đời bị tạp nhiễm nên phải lưu chuyển.

Nếu bỏ cái sanh diệt, giữ chân thường thì tánh sáng thường hằng hiện tiền, căn trần thức tâm liền đó tiêu mất. Tướng của vọng tưởng là trần, thức tình là cấu nhiễm, cả hai đều xa lìa thì pháp nhãn của ông liền đó được trong sáng, làm sao mà không thành tri giác Vô thượng?

Đến đoạn này chúng ta thấy rõ manh mối của sự tu. Ở trước Phật chỉ tánh thấy, tới đây là chỉ tánh nghe. Tánh thấy tánh nghe thường trụ mà lâu nay chúng ta không nhận ra, chỉ sống với những hình tướng của tưởng và tình thức phân biệt thương ghét v.v… Tướng tưởng của trần, thức tình là cấu. Nếu xa lìa hai thứ trần cấu này thì ngay đó liền được con mắt pháp thanh tịnh, thành tri giác Vô thượng. Thân này dù còn hay mất cũng không thành vấn đề quan trọng, biết trở về mới là giải thoát.

II. SÁU CĂN LÀ ĐẦU GÚT SANH TỬ VÀ BỒ-ĐỀ

A-nan bạch Phật rằng:

– Bạch Thế Tôn, Như Lai tuy nói nghĩa quyết định thứ hai, nay xem trong thế gian, người mở gút nếu không biết chỗ đầu gút kia thì con tin rằng người ấy cuối cùng không thể mở được. Bạch Thế Tôn, con và hàng Thanh văn hữu học trong hội cũng lại như thế, từ vô thủy đến nay cũng với các vô minh đồng sanh đồng diệt. Tuy được căn lành nghe hiểu Phật pháp như thế, gọi là hàng xuất gia, mà giống như người bị bệnh sốt rét cách ngày.

Như người mở gút trước hết phải biết đầu gút ở chỗ nào, nếu không biết thì không tài nào mở được. Ngài A-nan thưa rất thành thật: tuy học nhiều, được xuất gia chứng Tu-đà-hoàn, nhưng vẫn giống như bệnh sốt rét cách ngày, một ngày nóng lạnh một ngày mạnh. Dù đã ngộ đạo vẫn còn bị cái mê lấn áp, nên một giờ tỉnh một giờ mê, chứ chưa hoàn toàn tỉnh hẳn.

Nửa tỉnh nửa mê là Tu-đà-hoàn, dần dần tỉnh nhiều mê ít tiến lên A-la-hán hay Bồ-tát, đến khi tỉnh gần trăm phần là Đẳng giác, hoàn toàn hết sạch mê là Diệu giác tức thành Phật. Ngài A-nan chứng Tu-đà-hoàn còn than như người bị bệnh rét cách nhật, còn chúng ta có lẽ mười ngày sốt rét một ngày mạnh, vậy mà trong khi tu hành được chút ít cứ tưởng mình là thánh rồi. Cho nên khi tu chúng ta cố gắng tỉnh, tuy tỉnh rồi lại mê nhưng dù sao vẫn hơn mê luôn.

Tổ sư thường nói “niệm khởi tức giác”. Niệm khởi là mê, giác đó là tỉnh. Như vậy một ngày trăm lần mê là chúng sanh, thì có trăm lần tỉnh là trăm ông Phật. Chúng sanh và Phật đồng nhau, lần lần chúng sanh ngày một bớt chỉ còn Phật. Đó là sự tu của chúng ta có tiến bộ tốt.

Cúi mong đấng Đại từ thương xót kẻ chìm đắm! Ngày nay chỉ ra nơi thân tâm con thế nào là gút? Từ chỗ nào mở ra? Cũng khiến cho những chúng sanh khổ nạn ở đời vị lai được khỏi luân hồi, không rơi vào ba cõi.

Thưa lời ấy rồi, khắp cả đại chúng năm vóc gieo xuống đất, nước mắt rơi như mưa, thành kính chờ mong đức Như Lai chỉ bày pháp môn vô thượng.

Ngài A-nan không còn nghi về lẽ sanh diệt nữa, lại nghi nơi thân tâm thế nào là gút và làm sao biết chỗ để mở gút đó. Thưa hỏi rồi tự tủi thân buồn khóc, đây là ngộ rồi cũng khóc.

Khi ấy đức Thế Tôn thương xót A-nan và hàng hữu học hội chúng, cũng vì tất cả chúng sanh đời vị lai muốn tu nhân xuất thế, làm con mắt cho đời sau, Phật duỗi cánh tay sáng chói như vàng Diêm-phù-đàn xoa đảnh A-nan. Liền khi ấy khắp cả thế giới chư Phật trong mười phương, sáu thứ chấn động. Các đức Như Lai số như vi trần, ở thế giới đó, mỗi vị có hào quang báu từ nơi đảnh phát ra. Hào quang ấy từ thế giới kia đồng thời phóng đến rừng Kỳ-đà, chiếu trên đảnh đức Như Lai. Các đại chúng đây được điều chưa từng có.

Khi ấy A-nan và các đại chúng đều nghe chư Phật mười phương như số vi trần, tuy khác miệng nhưng đồng lời bảo A-nan rằng:

– Lành thay, A-nan! Ông muốn biết rõ câu sanh vô minh, cái gốc cột trói khiến ông luân chuyển sanh tử, chỉ là sáu căn của ông chứ không phải vật gì khác. Ông lại muốn biết Bồ-đề vô thượng khiến ông chóng chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh diệu thường cũng là sáu căn của ông, lại không vật gì khác.

Tại sao đức Phật xoa đầu ngài A-nan thì sáu thứ chấn động, chư Phật mười phương đồng soi ánh sáng lên đảnh đức Phật là ý nghĩa gì?

Hào quang tượng trưng cho trí tuệ. Trí tuệ của đức Phật Thích-ca và trí tuệ của chư Phật mười phương đồng nhau, nên đến chỗ chỉ thẳng điều này, không phải riêng đức Phật Thích-ca mà chư Phật mười phương nhiều như số vi trần đồng thấy như vậy, đồng nói như vậy. Lời nói này của đức Phật là chân lý tuyệt đối. Chân lý đó có giá trị ngàn đời chứ không riêng một đời, của khắp tất cả cõi Phật chứ không riêng một cõi nào. Thế nên chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới, cùng khắp cõi nước chư Phật mười phương cũng đều chấn động.

Cội gốc luân hồi là từ sáu căn, mà cội gốc Bồ-đề cũng từ sáu căn. Các kinh A-hàm nói điều này: Từ sáu căn sanh cảm xúc, do cảm xúc mà nhiễm vị. Nếu lìa cấu nhiễm thì được giải thoát Niết-bàn. Như vậy lời chư Phật dạy không hai, từ thấp lên cao đều chỉ rõ gốc từ sáu căn. Nếu sáu căn chạy giong ruổi theo trần cảnh bên ngoài thì đó là gốc phiền não, trầm luân muôn kiếp. Cũng với sáu căn, nếu không bị kẹt vào tiền trần, xoay trở về bản tánh viên trạm thì đó là gốc Bồ-đề tịch tĩnh, giải thoát Niết-bàn.

Lâu nay chúng ta tu thường chỉ lo tụng niệm hoặc trông mong về cõi Phật xa xôi nào, mà không biết gốc Bồ-đề ở đâu, gốc phiền não ở đâu. Bây giờ đã thấy rõ, ngay nơi gốc phiền não là gốc Bồ-đề, không đâu xa xôi. Đoạn này rất thâm trầm, chỉ ra rõ ràng để cho chúng ta biết cội gốc của sự tu.

Trong phần Quyết Nghi ở trước Phật dạy, cội gốc sanh tử là do mê bỏ quên chân tánh chạy theo vọng trần, còn cội gốc Bồ-đề là do bỏ vọng trở về chân. Đến đoạn này Phật lại dạy, cội gốc sanh tử là sáu căn mà cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn. Có mâu thuẫn không?

Phần trước đức Phật chỉ gốc mê từ vô thủy, do quên chân mà khởi vọng, là căn bản vô minh. Phần này thuộc câu sanh vô minh, tức vô minh có mặt cùng lúc với con người khi mới sanh ra, và nhuận sanh vô minh, nghĩa là thấm ướt hạt giống của quá khứ khiến tiếp tục sanh ra hiện hành. Như vậy sáu căn là cội gốc phiền não sanh tử đang tiếp tục trong hiện đời, còn cái gốc mê mờ chân tánh tức vô minh từ vô thủy là thuộc về quá khứ. Hiện nay chúng ta tu không thể đoạn ngay căn bản vô minh từ vô thủy, mà chỉ có thể dứt trừ từ câu sanh vô minh. Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần không chạy theo vọng tưởng phân biệt, đó là trở về thể tánh tinh minh bất sanh bất diệt.

Thiền sư thường dùng hình ảnh uống trà để chỉ dạy điều này. “Uống trà khen ngon chê dở là phàm phu, còn uống trà mà không biết trà thì như cây đá.” Phải uống thế nào? Chỉ là uống trà. Đó là chỗ tế nhị, vừa có dấy niệm phân biệt là sai rồi. Tai nghe tiếng cũng vậy, nếu nghe tiếng mà không biết gì thì như trâu đá, người gỗ; còn nghe mà phân biệt tiếng khen chê tức là phàm phu. Con mắt thấy sắc, khởi phân biệt đẹp xấu là chạy theo trần, nhưng nhắm mắt lại cho khỏi thấy cũng chẳng đúng. Không phải nghe nói sáu căn là lục tặc rồi chúng ta đóng các căn lại gọi đó là tu, mà chính ngay khi sáu căn tiếp xúc sáu trần khéo biết thì luôn luôn ở trong Bồ-đề Niết-bàn.

Chúng sanh đau khổ vì đi theo chiều của nghiệp, chạy theo các phân biệt đẹp xấu, ngon dở v.v… rồi khởi yêu ghét, phải quấy, hơn thua, bị quay cuồng theo nghiệp. Ngay nơi sáu căn nếu chúng ta chuyển được nghiệp, khi thấy nghe… dừng ngang chỗ không đẹp không xấu, không hay không dở… đó là chuyển lục tặc thành lục thông, tâm liền được tịch tĩnh thanh tịnh, là Niết-bàn hiện tại. Đây là cái vui tự tại trong bình thản lặng lẽ, là cái vui vô sanh chân thật giải thoát.

A-nan tuy nghe pháp âm như thế mà tâm vẫn chưa sáng, cúi đầu bạch Phật:

– Tại sao khiến con luân hồi sanh tử hay an lạc diệu thường đều là sáu căn, không phải vật gì khác?

Phật bảo A-nan:

– Căn và trần đồng một nguồn, trói buộc hay cởi mở không hai. Thức tánh hư dối giống như hoa đốm ở hư không.

Trong ba thứ căn trần thức thì thức là gốc cột trói. Nhưng thức vốn không thật, chỉ do chúng ta chạy theo nó nên thấy bị cột trói. Ngài Đạo Tín lúc ấy là một chú sa-di mười bốn tuổi, đến lễ Tam tổ Tăng Xán, thưa: Xin Hòa thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát. Tổ hỏi: Ai trói buộc ngươi? Ngài thưa: Không ai trói buộc. Tổ bảo: Đã không trói buộc, đâu cần cầu giải thoát. Ngay đó ngài Đạo Tín liền đại ngộ.

Câu chuyện nghe lạ lùng tưởng như có thuật gì kỳ đặc, nhưng sự thật đó là chỉ thẳng. Sáu căn nếu cứ giong ruổi theo sáu trần là trói buộc, trầm luân. Cũng ngay nơi sáu căn nếu thức tỉnh biết không có gì trói buộc mình thì liền giải thoát. Giải thoát và sanh tử không hai nguồn. Cho nên ngài Đạo Tín một phen sửng sốt tìm lại, thấy không có ai trói buộc thì ngay đó được giải thoát. Chư Tổ tùy căn cơ, lời các ngài như nhát búa đập cho tan nát chỗ lầm chấp, chứ không như Phật vỗ vê khuyên lơn an ủi.

Này A-nan, do trần mà phát ra cái biết, nhân căn mà có tướng. Tướng và kiến (cái thấy) không có tánh, giống như bó lau. Thế nên nay ông thấy biết mà lập thấy biết là gốc vô minh, thấy biết mà không lập thấy biết, đây tức là Niết-bàn vô lậu chân thật thanh tịnh. Tại sao trong ấy lại còn có vật nào khác!

Lẽ ra do trần có tướng, nhân căn phát ra cái biết. Nhưng sao Phật nói ngược lại, do trần mà phát ra cái biết, nhân căn mà có tướng? Chúng ta biết là biết ngoại cảnh, mắt nhìn thấy vật, tai nghe tiếng v.v… Như vậy thấy vật nghe tiếng là do trần mà phát ra cái biết. Tướng bên ngoài phản ảnh vào căn nên mới nhận ra tướng ấy, biết được tướng ấy. Đó là nhân căn mà có tướng.

Tướng là các trần, kiến là cái thấy, cả hai không có tánh nhất định, giống như lau sậy cột lại thành bó. Khi mở dây ra nó rã rời không có gì cố định. Nếu chia ra từng cây, có còn cái gọi là bó lau không? Không có bó lau thật, chỉ là do duyên hợp tạm có, tạm gọi. Cũng vậy, căn trần không thật, thức như hoa đốm trong không lại càng không thật.

Thấy biết mà lập thấy biết là gốc vô minh, thấy biết mà không lập thấy biết, đây tức là Niết-bàn vô lậu chân thật thanh tịnh. Nguyên văn chữ Hán là “Tri kiến lập tri, tức vô minh bản. Tri kiến vô kiến, tư tức Niết-bàn.”

Tri kiến lập tri là thấy biết mà lập thấy biết. Nghĩa là từ thấy biết của sáu căn, thức liền theo đó để phân biệt lập thêm nhiều hiểu biết. Lập thấy biết là gốc vô minh, là cột trói. Còn thấy biết mà không khởi vọng thức phân biệt, đó là không lập thấy biết, tức là Bồ-đề Niết-bàn vô lậu chân thật thanh tịnh. Cũng ngay thấy biết đó mà một bên là vô minh, một bên là Niết-bàn.

Niết-bàn không ở đâu xa, chỉ thấy biết mà không lập thấy biết thì Niết-bàn ngay đó. Niết-bàn là trở về tánh không sanh diệt của mình, đang bị dính khắn ở mắt tai mũi lưỡi thân ý. Chúng ta không phải đi kiếm tìm cái gì xa vời, mà chính ngay nơi cuộc sống này, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần đừng cho vọng thức dẫn đi, sống với cái thanh tịnh sẵn có đó là trở về Niết-bàn, còn nếu chạy theo thức tình phân biệt là đi trong sanh tử. Hết sức đơn giản!

Như vậy trong sáu cái gút đó thì thức là đầu gút, mở được thức rồi thì căn và trần không có lõi thật. Tri kiến lập tri, tri đó chính là thức. Lập tri là gốc vô minh, không lập tri là Bồ-đề, Niết-bàn. Không lập tri là không khởi phân biệt, chứ không phải bỏ cái thấy biết. Vẫn thấy vẫn biết nhưng không thành vô minh mà thành Niết-bàn. Như vậy, làm sao trong đó có vật nào khác nữa. Không cần tìm cái gì thêm. Bồ-đề Niết-bàn luôn hiện hữu không lúc nào vắng, chỉ tại chúng ta đang mê, chạy theo các trần nên quên nó thôi. Niết-bàn ở ngay đây, khi sáu căn không dính với sáu trần; còn sáu căn dính với sáu trần đó là phiền não.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Chân tánh hữu vi không,

Duyên sanh nên như huyễn.

Vô vi không khởi diệt,

Chẳng thật, như không hoa.

Đứng về mặt chân tánh thì các pháp hữu vi là không, duyên sanh nên có, tuy có mà như huyễn như hóa. Pháp vô vi là đối với các pháp hữu vi, mà hữu vi đã không thật thì vô vi cũng không thật. Pháp vô vi không có khởi diệt, chỉ có tên gọi. Vì vậy mà nó không thật, giống như hoa đốm ở hư không.

Điều này có trái với những gì lâu nay chúng ta học không? Thông thường nói pháp hữu vi là sanh diệt còn pháp vô vi là không sanh diệt. Cái gì sanh diệt là hư dối, cái gì không sanh diệt là chân thật. Pháp vô vi không sanh diệt lẽ ra nó chân thật, tại sao đây nói không chân thật như hoa đốm ở hư không? Như đoạn trên nói: “Sáu mất thì một cũng không còn”. Ví dụ để sáu món đồ vuông tròn dài ngắn khác nhau chúng ta thấy hư không nơi sáu món đồ có tướng trạng khác nhau. Nếu dẹp hết sáu món đồ thì sáu phần hư không đó là một. Nhưng thật ra một cũng không có, vì có sáu nên mất sáu gọi là một. Hư không không phải sáu cũng không phải một, sáu và một chỉ là giả danh không có thật. Hư không trước sau vẫn nguyên vẹn không hề mất, chỉ mất ngôn ngữ lập sáu lập một mà thôi.

Ở đây cũng vậy, do đối với pháp hữu vi sanh diệt mà lập pháp vô vi, chứ thật ra vô vi cũng là giả danh không thật, như hoa đốm trong không. Như vậy pháp hữu vi pháp vô vi đều không thật, do đối đãi giả lập; còn chân tánh là thể trùm khắp, không đối đãi nên không thuộc vô vi hay hữu vi.

Nói vọng để bày chân, 

Vọng, chân đều là vọng.

Bởi có vọng nên mới nói chân, hiển bày chân, nhưng thật ra chân là do đối với vọng mà nói, vọng hết thì chân cũng không còn. Vì vậy cả vọng lẫn chân đều hư dối không thật.

Còn không chân, phi chân,

Sao có kiến, sở kiến?

Chân đối với vọng không thành, mà chân tự lập chân cũng không có thì làm sao còn có cái đối đãi đây là năng kiến, tức người hay thấy, và kia là sở kiến, tức đối tượng bị thấy. Cái hay thấy không thật thì cái bị thấy cũng không thật, ngược lại cái bị thấy không thật thì cái hay thấy cũng không thật.

Khoảng giữa không tánh thật

Thế nên như bó lau,

Lau sậy cột lại thành bó, nếu cắt dây ra thì các cây lau nghiêng ngả rã rời, không có cái gì thật ở bên trong. Như vậy bó lau chỉ là giả tướng tạm hợp, chứ nó không có tướng thật.

Cột mở đồng một nhân,

Thánh phàm không hai lối.

Cái gì gọi là sở nhân? Cột là từ một sợi dây hay từ cái khăn mà cột gút lại, muốn mở cái gút đó ra thì cũng y cứ trên đó mà mở chứ không phải hai. Nói cột hay mở là đứng trên phương diện cái gút, nếu trên sợi dây hay cái khăn thì cột mở cũng đồng một sở nhân.

Sợi dây hay khăn là dụ cho sáu căn. Sáu căn nếu bị cột bị niêm dính khắn thì đi trong luân hồi sanh tử, gọi đó là gốc phiền não. Mở được sáu căn thì gọi là Bồ-đề, giải thoát. Như vậy cột hay mở đều y cứ trên sáu căn.

Do cột và mở đồng một sở nhân nên thánh phàm không hai đường, bởi nơi phàm có sáu căn, nơi thánh cũng có sáu căn. Nếu sáu căn bị cột thì gọi phàm, sáu căn được mở gọi là thánh, chẳng có đường nào riêng khác. Chúng sanh y sáu căn mà cột nên làm kẻ phàm ngu, chư thánh ngay sáu căn mà mở nên giải thoát. Vậy chúng ta muốn thành Phật hay làm chúng sanh? Nếu muốn làm chúng sanh thì cứ cột chặt rồi tha hồ mà đi trong sanh tử.

Ông xem tánh bó lau,

Không cả hai không có.

Tánh của bó lau là không thật. Cột lại thấy có bó lau trước mắt, nhưng nếu cắt bỏ dây ra, lau ngã rã ra từng cây thì tướng bó lau không còn. Vì vậy nói có nói không đều sai, chỉ là tướng duyên hợp hư dối, không có tánh cố định.

Thân chúng ta cũng vậy, thấy hiện có đây tưởng như thật, nhưng khi hơi thở bị cắt đứt thì thân liền tan rã. Chúng ta luôn nhìn sự vật với con mắt phàm phu mê muội, cái không thật mà tưởng là thật. Cho nên phải quán thật kỹ tánh chất của bó lau, chẳng thể nói là có cũng chẳng thể nói là không. Có và không cả hai đều chẳng phải.

Mê tối là vô minh

Phát sáng liền giải thoát.

Mê lầm thì gọi vô minh, nếu phát sáng liền là giải thoát. Giải thoát và vô minh kế cận nhau không xa. Như nơi sáu căn, nếu chấp cảnh thấy nghe là thật rồi chạy theo cảnh thì mê tối. Khi sáu căn duyên với cảnh liền biết cảnh bên ngoài không thật, xoay trở về tánh thấy nghe của chính mình, gọi là phát minh, dần dần được giải thoát.

Cột mở nhân thứ lớp,

Sáu mở, một cũng mất.

Mở gút phải theo thứ lớp, gút thứ nhất đến gút thứ hai, thứ ba… Sáu cái mở thì một cũng không còn. Sáu gút dụ cho sáu căn. Sáu căn mở được rồi, nếu thấy còn một chân tâm, Phật tánh, Bồ-đề, Niết-bàn thì đó là cái thấy giả dối không thật, gọi là còn chấp pháp. Vì vậy cần phải thấy thật rõ, nhận cho đúng.

Chọn lựa căn viên thông

Vào dòng thành Chánh giác.

Phật dạy trong sáu căn đó, lựa chọn một căn viên thông, đi thẳng vào dòng, tức là đi sâu trở về nguồn cội chân thật của nó thì liền thành Phật. Như chúng ta hiện nay đang tu về ý căn, biết vọng tưởng là giả thì cái biết vọng đó không phải giả. Buông hết tất cả vọng tưởng, sống với cái không giả đó tức là nhập lưu. Cái không giả khi đã thuần thục, tức không còn cái giả nào chen lẫn nữa là thành chánh giác.

Thức đà-na vi tế,

Tập khí như dòng thác,

Sợ lầm chân, phi chân,

Ta thường không diễn nói.

Duy thức học gọi thức thứ tám là a-lại-da, cũng có khi gọi là a-đà-na. A-đà-na Trung Hoa dịch là Chấp trì, tức nắm giữ. Gọi a-đà-na hay tàng thức là tùy theo nghĩa. Tàng thức mang nghĩa chứa đựng, còn a-đà-na chỉ cho thức có một phần chân và một phần không phải chân. Thức a-đà-na rất vi tế, những tập khí tức là những chủng tử thiện ác chúng ta đã huân vào trong đó rất nhiều, chảy như dòng thác đổ, sanh diệt liên miên. Nhiều thói quen chừng nào thì dòng thác a-đà-na đổ mạnh chừng nấy, muốn dừng cũng khó.

Thể của thức a-đà-na là chân thật, nhưng nó có hàm chứa những tập khí trôi chảy liên miên trong đó, những tập khí này không phải chân. Như vậy cái chân thật và cái phi chân gần kề với nhau, e người ta hiểu lầm cho nên Phật thường không nói tới.

Tự tâm chấp tự tâm

Chẳng huyễn thành pháp huyễn.

Như đoạn trước nói, do giác minh khởi ra minh giác, tức là khởi soi lại tánh giác. Cũng như chúng ta nghe nói mình có chân tâm, rồi dấy niệm tìm xem chân tâm ra làm sao. Khi tìm như vậy thì chân tâm tự trở thành đối tượng bị tìm kiếm, chẳng khác nào chính tâm mình trở lại tìm và chấp giữ tâm mình. Do đó pháp không phải huyễn trở thành huyễn.

Theo Duy thức thì thức thứ bảy mạt-na chấp kiến phần của thức thứ tám a-lại-da làm ngã, đó cũng là tự tâm giữ tự tâm. Cho nên pháp không phải huyễn mà thành ra pháp huyễn.

Không chấp không phi huyễn,

Phi huyễn còn chẳng sanh,

Pháp huyễn làm sao lập?

Nếu không khởi chấp thì không có cái phi huyễn, phi huyễn còn không thì huyễn làm sao lập? Nếu chúng ta không khởi chấp thủ, không móng tâm vọng tìm kiếm thì pháp phi huyễn không thành. Do có chấp, có khởi niệm mới nói cái này cái kia không, cho nên mới thành huyễn và phi huyễn. Nếu không chấp, không khởi niệm thì có gì là huyễn và phi huyễn. Huyễn và phi huyễn đều không thì pháp huyễn làm sao thành lập được?

Ấy gọi Diệu liên hoa

Bảo giác Kim cang vương

Như huyễn tam-ma-đề,

Búng tay vượt Vô học.

Nếu không khởi chấp như vậy thì gọi là Diệu liên hoa, tức Tri kiến Phật, hay Bảo giác Kim cang vương, đó cũng chính là chánh định Như huyễn, chỉ cần một búng tay liền vượt khỏi bậc Vô học.

Trong Tứ quả Thanh văn thì ba quả đầu thuộc hàng hữu học, quả A-la-hán là hàng vô học. Nếu không khởi chấp thì chỉ trong khoảng khảy móng tay vượt khỏi cả hữu học và vô học, tức lên bậc Bồ-tát.

Đây là pháp vô tỷ,

Một đường đến Niết-bàn

Của chư Phật mười phương.

Phật, tiếng Phạn là Bạc-già-phạm (Bhagavat). Vô tỷ pháp hay đối pháp, tiếng Phạn là A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma) là tạng Luận. Hợp chung với tạng Kinh (Sutra) và tạng Luật (Vinaya) thành ra Tam tạng.

Trí chân thật thấy được chân lý là cửa của con đường đi thẳng tới Niết-bàn của chư Phật mười phương. Đó ngầm ý chỉ, ngài A-nan muốn biết rõ vô minh căn bản, cái gốc cột trói khiến ngài luân chuyển sanh tử chỉ là sáu căn của ngài, lại không có vật gì khác. Ngài lại muốn biết Bồ-đề vô thượng khiến ngài chóng chứng an lạc giải thoát tịch tịnh diệu thường, cũng là sáu căn của ngài, lại không vật khác.

Người tu Phật nếu quyết chí cầu giác ngộ giải thoát như Phật thì phải đi thẳng con đường của chư Phật mười phương đã đi, không có con đường nào khác. Như có vị tăng hỏi thiền sư Càn Phong: Chư Phật mười phương chỉ một con đường thẳng tới Niết-bàn, chưa rõ đầu đường ở chỗ nào? Thiền sư cầm gậy vạch một đường, bảo: Đây! Chỗ này.

Chỗ này là chỗ nào? Ngay cửa sáu căn mà vào, đó là con đường duy nhất chứ không có con đường nào khác. Nhưng đặc biệt của thiền sư là không cần nói, không cần giải. Các ngài không nói bằng lời, vì e chúng ta không tin. Đầu đường Niết-bàn ngay chỗ này sao? Vô lý quá, nhưng đó là thật chỉ đầu đường Niết-bàn.

III. CỘT KHĂN CHỈ GÚT

Khi ấy A-nan và đại chúng nghe lời chỉ dạy từ bi Vô thượng của Phật Như Lai, kệ tụng đều thông suốt, diệu lý thấu triệt, tâm mắt được mở sáng, khen ngợi là pháp chưa từng có.

A-nan chắp tay đảnh lễ bạch Phật:

– Nay con nghe Phật vì lòng đại bi vô ngại dạy câu pháp chân thật, chỉ ra tánh tịnh diệu thường, nhưng tâm vẫn còn chưa thấu suốt được nghĩa sáu mở thì một cũng mất và thứ lớp mở cột. Vậy cúi mong đấng Đại từ lại thương xót chúng con trong hội này và những chúng sanh đời sau, bố thí pháp âm để rửa sạch những cấu nhiễm sâu nặng.

Kỳ-dạ (Geya) là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là trùng tụng. Sau khi Phật nói một đoạn kinh, ngài kết thúc bằng bài tụng lặp lại ý trước. Già-đa dịch là kệ, Phật thấy những lý gì hay, ngài chỉ nói vài câu kệ để diễn đạt riêng lý đó, không phải lặp lại một ý nào trước.

Đức Phật từ bi nói bài kệ trùng tụng tóm lại ý chính và những lời giảng rộng ở trước, làm cho nghĩa lý được rõ ràng sáng sủa. Do đó, tâm mắt ngài A-nan và đại chúng mở sáng, thông hiểu diệu lý, được việc chưa từng có. Tuy nhiên trong tâm vẫn còn chưa thấu suốt được nghĩa sáu mở thì một cũng mất và thứ lớp mở cột, nên xin Phật từ bi chỉ dạy thêm.

1. Cột gút

Liền khi đó Như Lai ngồi trên tòa sư tử, sửa Niết-bàn-tăng, vén y tăng-già-lê, vịn bàn bảy báu, đưa tay lên bàn lấy khăn hoa do trời Dạ-ma (Kiếp-ba-la) dâng cúng. Trước đại chúng, ngài cột thành một gút, đưa lên cho A-nan xem và hỏi:

– Đây gọi là gì?

A-nan và đại chúng đều bạch Phật rằng:

– Đây gọi là gút.

Đây diễn tả lúc đức Phật đang nói pháp, ngài lấy chiếc khăn trên bàn cột lại thành gút. Phật khéo léo sử dụng những hình ảnh cụ thể thực tế để giảng dạy chứ không lý thuyết suông.

Khi ấy đức Như Lai ở trên khăn hoa lại cột chồng thêm một gút nữa, rồi hỏi A-nan:

– Đây gọi là gì?

A-nan và đại chúng lại bạch Phật:

– Đây cũng gọi là gút.

Như thế thứ lớp Phật cột chồng lên khăn hoa, tổng số thành sáu gút. Mỗi khi cột xong một gút, Phật đều cầm cái gút đã cột trong tay đưa lên hỏi A-nan: Đây gọi là gì? A-nan và đại chúng cũng lại thứ lớp đáp lời Phật như vầy: Đây gọi là gút.

Phật bảo A-nan:

– Khi ta mới cột khăn, ông gọi là gút. Khăn hoa này trước thật chỉ có một tấm vải, cột đến lần thứ hai thứ ba, tại sao ông cũng gọi là gút?

Chiếc khăn trước chỉ có một tấm vải, cột một gút thì gọi là gút, cột lần thứ hai, thứ ba… tại sao cũng đều gọi là gút?

A-nan bạch Phật rằng:

– Bạch Thế Tôn! Cái khăn hoa báu do đan dệt mà thành này, tuy vốn là một thể, nhưng theo con suy nghĩ, Như Lai cột một lần được gọi là một gút, nếu cột tới trăm lần thị trọn gọi là trăm gút. Huống chi khăn này chỉ có sáu gút, không đến bảy mà cũng chẳng dừng ở năm. Tại sao Như Lai chỉ nhận cái ban đầu là gút, còn cái thứ hai thứ ba… chẳng gọi là gút?

Phật bảo A-nan:

– Ông biết khăn hoa báu này vốn chỉ là một cái, khi ta cột sáu lần gọi là sáu gút. Ông xem xét kỹ, thể của khăn là đồng, nhân cột các gút mà có khác. Ý ông nghĩ sao? Cái gút ban đầu khi cột thành gọi là gút thứ nhất, như thế cột đến gút thứ sáu, nay ta muốn gọi gút thứ sáu là gút thứ nhất được chăng?

– Thưa không, bạch Thế Tôn! Nếu còn sáu gút thì cái gọi là thứ sáu này trọn không phải là cái thứ nhất. Dù cho con trọn đời biện minh lẽ này, làm sao khiến cho sáu gút này đổi tên được?

Phật bảo: – Đứng thế! Sáu gút chẳng đồng nhau, tuy tìm xét nhân ban đầu là từ một cái khăn tạo ra, nhưng khiến cho các gút lẫn lộn thì trọn không thể được. Sáu căn của ông cũng lại như thế, trong thể rốt ráo đồng sanh ra rốt ráo khác.

Đức Phật khéo dùng ví dụ, cái khăn trước vốn là một, cột thành sáu gút. Sáu gút khi đã thành thì gút một là gút một, gút hai là gút hai, có thứ tự nhất định không thể đảo lộn được. Khi những gút đó mở hết rồi thì không còn sáu gút mà chỉ còn lại một chiếc khăn. Chiếc khăn gọi là một, vậy một đó là đối với cái gì? Như sáu gút, nếu mở hết năm gút thì còn một gút, đó là một đối với năm. Sáu gút mở hết rồi, đâu còn gì để đối mà gọi là một hay sáu? Chiếc khăn chỉ là khăn, không nói là một nữa.

Sáu gút dụ cho sáu căn bị cột, cái khăn dụ cho tánh diệu minh viên trạm. Tánh giác diệu minh nguyên trước không phải một không phải sáu, do bị dính khắn mà thành ra sáu. Lúc thành sáu rồi thì mắt chỉ thấy, tai chỉ nghe… không thể lộn xộn được. Khi chúng ta giải được sáu căn bèn nói là một, nhưng thật ra một cũng không có, chỉ là tánh giác mà thôi.

Sáu căn cũng lại như thế, trong thể rốt ráo đồng sanh ra rốt ráo khác. Rốt ráo đồng, dụ chiếc khăn là một, là đồng. Khi thành sáu gút rồi thì gút một, gút hai, gút ba… khác nhau, gọi là rốt ráo. Tánh giác là đồng nhưng khi bị dính khắn ở sáu căn bèn thành khác. Nếu gỡ sáu cái khác đó thì trở lại thể đồng.

2. Mở gút

Phật bảo A-nan:

– Chắc hẳn ông không muốn sáu gút này thành, nhưng lại mong thành một thể, làm sao có thể được?

Khi sáu hết rồi thì một cũng không còn, nhưng chúng ta quen cho rằng hết sáu gút còn chiếc khăn là còn một. Sáu gút đó là giả tướng cột lại từ chiếc khăn, nếu mở hết sáu gút đó rồi thì khăn nguyên là khăn, không nói một cũng không nói sáu. Ngài A-nan muốn hết sáu mà vẫn nghĩ còn một, đó là chưa thông suốt.

A-nan thưa: – Những gút này nếu còn thì phải quấy đua nhau khởi. Ở trong ấy tự sanh gút này không phải gút kia, gút kia không phải là gút này. Ngày nay Như Lai mở hết các gút, gút nếu chẳng sanh thì không còn kia đây nữa. Còn chẳng gọi là một, sáu làm sao thành?

Khi còn gút thì chia gút một, gút hai, gút ba… mỗi cái có phần vị riêng không thể nào lẫn lộn được, thành ra phải quấy đua nhau khởi. Cũng như nói con mắt không phải lỗ tai, lỗ tai không phải là con mắt. Ví dụ lúc chúng ta đang nhắm mắt, chợt có người ở trước mặt nói chuyện, nghe tiếng biết người đó quen, mình nói: Tôi thấy biết anh quen. Người ấy liền bảo: Anh nhắm mắt đâu thấy gì! Chỉ nghe tiếng, làm sao nói là thấy biết quen. Như vậy người ta cho rằng hình tướng là phải thấy chứ không thể nghe được, nhưng thật ra cái thấy cái nghe đâu có hạn cuộc.

Phật bảo: – Nghĩa mở sáu gút, một mất cũng lại như thế. Do ông từ vô thủy tâm tánh cuồng loạn, vọng phát sanh thấy biết. Bởi phát vọng không dừng nên cái thấy lao nhọc phát ra các trần cảnh, như con mắt mỏi mệt ắt thấy có hoa đốm lăng xăng. Trong chỗ lặng lẽ trong sáng kia, không nhân gì mà dấy khởi lộn xộn, tất cả tướng thế gian nào núi sông đất đai, sanh tử Niết-bàn đều là tướng hoa đốm, do cuồng nhọc điên đảo mà sanh.

Tại sao Niết-bàn cũng từ cuồng nhọc phát ra? Bởi khăn thật không phải một, nói một chỉ là chấp suông. Hết sanh tử nên nói Niết-bàn, Niết-bàn đó cũng chỉ là giả danh không thật. Nên nói sanh tử Niết-bàn cũng đều giả danh không thật. Nên nói sanh tử Niết-bàn cũng đều là tướng hoa đốm, do cuồng nhọc điên đảo phát ra thôi.

A-nan thưa:

– Lao nhọc này giống như cái gút, làm sao cởi bỏ?

Đức Như Lai đưa tay cầm cái khăn có gút, kéo mối bên trái, hỏi A-nan rằng:

– Thế này mở được chăng?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

Phật lại lấy tay kéo đầu mối bên phải rồi hỏi A-nan: – Thế này mở được chăng?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

Hai hình ảnh này thật hay! Kéo mối gút qua bên này hay bên kia chỉ làm gút chặt thêm chứ không thể mở. Phật đâu phải không biết mở gút, nhưng ngài kéo qua bên trái hỏi, kéo lại bên phải hỏi, để chỉ cho thấy nếu nghiêng qua bên này, hay bên kia là gút càng chặt, chẳng thể mở được. Cũng vậy, chúng ta còn chấp bên này, chấp bên kia, có không, phải quấy v.v… càng chấp thì gút càng chặt, không thể nào mở được.

Phật bảo A-nan: – Nay ta lấy tay kéo mối bên trái, bên phải trọn không thể mở gút, ông thử dùng cách nào để mở được?

A-nan bạch Phật rằng: – Bạch Thế Tôn, phải ngay giữa gút mà mở thì bung ra ngay.

Phật bảo A-nan: – Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu muốn mở gút phải mở ngay giữa lòng gút.

Chẳng phải Phật không biết mở, nhưng Phật hỏi ngài A-nan để A-nan xác định rõ ràng cách mở gút. Khi căn tiếp xúc với trần, nghiêng bên cảnh hoặc nghiêng bên căn đều không dẹp được. Như mắt thấy cảnh, muốn dẹp hết cảnh để chúng ta đừng chấp, không được; muốn con mắt đừng thấy cũng không được. Phải ở ngay giữa mà mở, tức dẹp thức, đừng phân biệt theo cảnh. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi… cũng vậy.

Này A-nan, ta nói Phật pháp từ nhân duyên sanh, không phải lấy những tướng thô phù hòa hợp của thế gian mà nói. Như Lai phát minh các pháp thế gian và xuất thế gian, biết rõ nhân gốc kia theo duyên gì mà phát ra. Như thế cho đến một hạt mưa ở ngoài thế giới hằng sa cũng có thể biết rõ số mục. Hiện tiền các thứ, cây tùng thì thẳng, cây gai thì cong, cò thì trắng, quạ thì đen, đều rõ nguyên do của nó.

Đoạn này đức Phật đi sâu hơn nữa, không nói những nhân duyên thô của thế gian, như đất nước gió lửa hòa hợp lại thành thân người, cây cối, các loài… Mà Phật nói đến bản nhân, tức là gốc của nhân duyên.

Nhân duyên là căn cứ trên các pháp thế gian và xuất thế gian mà lập, còn chân tánh không thuộc nhân duyên. Như những gút cột trên khăn, cột là nhân duyên, mở cũng là nhân duyên, nhưng thể của chiếc khăn thì không thuộc nhân duyên, đó là tạm mượn ví dụ để hiểu. Khi mê vọng nên sanh ra tất cả, đó là nhân duyên. Từ sanh ra tất cả, bây giờ muốn trở về không cũng là nhân duyên, nhưng khi thể nhập được vô sanh rồi thì vượt ngoài nhân duyên. Đây là chỗ đức Phật muốn nói.

Bản nhân là nhân gốc của pháp, tức tánh giác tròn đủ. Sáu căn là sở duyên, là phương tiện để quay về tánh giác. Phật chỉ cho chúng ta từ nơi sáu căn biết quay về tánh giác, đó là trở về bản nhân. Trở về bản nhân đó rồi thì diệu dụng không thể lường, thế giới như hằng sa có từng hạt mưa chúng ta cũng biết, tất cả những gì có hình tướng ở thế gian này chúng ta đều biết nguyên do manh mối sanh khởi, không còn nghi ngờ.

Muôn pháp từ Như Lai tạng khởi xuất, cũng trở về Như Lai tạng. Trở về được thể Như Lai tạng trùm khắp thì có gì trong đó mà không biết. Như chủ nhà biết rõ các vật trong nhà của mình, nên nói hạt mưa rơi ngoài hằng sa thế giới cũng rõ sổ mục.

Thế nên A-nan, tùy trong tâm ông chọn lựa sáu căn. Gút căn nếu mở được thì trần tướng tự diệt, các vọng đều tiêu mất, còn đợi gì mà chẳng phải chân!

Rõ ràng khi mở hết các gút, không còn dính cảnh bên ngoài thì các vọng đều diệt mất. Chính lúc đó là chân, không còn tìm cái chân thật nào khác nữa.

Này A-nan, nay ta hỏi ông, cái khăn kiếp-ba-la này hiện có sáu gút, nếu đồng thời mở ra có thể đồng thời trừ dẹp được chăng?

– Thưa không, bạch Thế Tôn! Những gút này trước do thứ lớp mà cột, nay cần phải theo thứ lớp để mở. Sáu gút tuy đồng thể nhưng khi cột không cùng lúc thì khi mở gút làm sao đồng trừ dẹp được!

Phật hỏi A-nan thêm về thứ tự mở gút. Khăn đã cột thành sáu gút rồi, có thể mở hết sáu gút một lượt được không? Ngài A-nan trả lời, khi đã cột thành sáu gút rồi, muốn mở phải theo thứ tự mà mở. Cột từng gút, từng gút thì khi mở cũng phải từng gút từng gút.

Phật bảo: – Cởi mở sáu căn này cũng lại như vậy. Căn này khi bắt đầu mở, trước được nhân không, tánh không tròn sáng thì giải thoát được pháp chấp. Giải thoát pháp chấp rồi, cả hai nhân pháp đều không, tức chẳng sanh. Đó gọi là Bồ-tát từ tam-ma-địa chứng được vô sanh nhẫn.

Đức Phật nói rõ thứ lớp tu tập. Tu hành là khéo từ nơi chỗ gút mà mở, mở được một gút thì các gút kia cũng theo đó hết, tức được Nhân không. Nhân không là quả vị A-la-hán. Tánh không tròn sáng thì được Pháp không. Nhân không, pháp không là quả vị Bồ-tát. Bồ-tát từ nơi chánh định mà được vô sanh nhẫn, tiến lên Phật quả.

Đã rõ ý nghĩa sáu hết thì một cũng không còn, đến đây ngài A-nan cầu xin Phật vấn đề khác.

IV. HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ VIÊN THÔNG

A-nan và đại chúng nhờ Phật chỉ bày, tuệ giác được viên thông không còn gì nghi hoặc, đồng thời chắp tay đảnh lễ sát hai chân Phật và bạch Phật rằng:

– Ngày nay chúng con thân tâm rỗng suốt, vui mừng được điều vô ngại. Tuy ngộ biết nghĩa một và sáu đều mất, nhưng vẫn chưa thấu suốt được bản căn viên thông. Bạch Thế Tôn, bọn chúng con trôi giạt bơ vơ từ nhiều kiếp, tâm nghĩ do đâu mà được dự vào dòng dõi nhà Phật, như đứa bé mất sữa chợt gặp mẹ hiền! Nếu nhân cơ hội này mà được thành đạo, chỗ được nghe những lời dạy sâu kín lại đồng với bản ngộ, thì cùng với người lúc chưa nghe cũng không có sai khác. Cúi mong đấng Đại bi thương bọn chúng con, ban cho pháp trang nghiêm bí mật, thành tựu lời chỉ bày rốt sau của Như Lai.

Thưa lời đây rồi, năm vóc gieo xuống đất, lui ẩn nơi chỗ vi diệu sâu kín, chờ mong được Phật thầm truyền.

Ngài A-nan và đại chúng chưa rõ nên dùng căn gốc nào được viên thông để tu cho thích hợp, nên đoạn này A-nan muốn nhờ Phật chỉ ra căn nào thuộc về viên thông. Ngài vừa than thở mà cũng vừa vui mừng. Đã trôi giạt lang thang nhiều đời, nay không biết do duyên cớ gì được làm đệ tử Phật, như đứa bé mất sữa được gặp mẹ hiền, thật là mừng vui vô kể. Khi ở trong hội này được nhân duyên gặp Phật, nghe Phật nói pháp mà thấu suốt lẽ đạo, nơi những lời nói sâu mầu của Phật ngài nhận ra, đồng với chỗ ngộ gốc chân thường bất sanh bất diệt ắt cùng với người chưa nghe không có gì sai biệt.

Ngài A-nan thấy Phật lấy chiếc khăn cột sáu gút rồi lại dạy cách mở sáu gút ấy. Chiếc khăn trước không có sáu gút, Phật cột sáu gút nay mở rồi cũng trở lại chiếc khăn như ban đầu. Như vậy khăn có cột có mở cũng đồng như khăn không cột không mở. Người ngộ gốc chân thường cũng đồng như chưa ngộ, bởi vì người chưa nghe pháp cũng vẫn có tâm thể đó. Thế nên ngài A-nan xin Phật thương xót chỉ dạy cho pháp bí mật trang nghiêm, để thành tựu được lời dạy rốt sau của Phật.

Trọng tâm ở đây là câu hỏi: Làm sao thấu suốt được trong sáu căn, cái nào viên thông nhất để tu tập.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo khắp các vị đại Bồ-tát và các vị vô lậu đại A-la-hán ở trong chúng rằng:

– Các ông là hàng Bồ-tát và A-la-hán sanh trong pháp của ta, được thành tựu vô học. Nay ta hỏi các ông, lúc ban đầu phát âm, các ông ngộ trong mười tám giới, cái nào là viên thông? Từ phương tiện gì được vào chánh định?

Phật bảo các vị Bồ-tát và A-la-hán trình chỗ sở ngộ ban đầu của các ngài, xem trong mười tám giới: sáu căn, sáu trần và sáu thức, chọn ra căn nào thích hợp.

1. Viên thông về thanh trần

Ông Kiều-trần-na trong nhóm năm vị Tỳ-kheo liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:

– Con nơi Lộc Uyển và Kê Viên được gặp đức Như Lai khi mới thành đạo, chúng con nhân nghe pháp âm của Phật, ngộ được pháp Tứ đế. Phật hỏi trong hàng Tỳ-kheo thì con được gọi là nhận hiểu trước tiên, Như Lai mới ấn chứng cho con tên là A-nhã-đa (Giải đệ nhất). Do diệu âm sâu kín tròn đủ, con từ nơi âm thanh mà được quả A-la-hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, âm thanh là trên hết.

Ngài Kiều-trần-na do nghe pháp âm của Phật mà ngộ đạo, nên cho âm thanh là trên hết. Trong mười tám giới, âm thanh thuộc thanh trần.

2. Viên thông về sắc trần

Ông Ưu-ba-ni-sa-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:

– Con cũng được gặp Phật khi mới thành đạo. Con quán tướng bất tịnh, sanh lòng rất nhàm chán muốn xa lìa, ngộ được tánh các sắc; do từ quán bất tịnh, tướng xương trắng, vi trần, đều trở về hư không, sắc và không không hai, thành được đạo vô học. Như Lai ấn chứng cho con tên là Ni-sa-đà. Do trần sắc đã hết thì diệu sắc sâu kín tròn đủ. Con từ sắc tướng mà được quả A-la-hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì nhân nơi sắc trần là trên hết.

Quán bất tịnh là quán thân này gồm ba mươi sáu phần: tóc, lông, móng, răng, da v.v… cái nào cũng ô uế bất tịnh. Hoặc dùng Cửu tưởng quán: thân chết sình trương, máu mủ hôi thối, dòi bọ đục khoét v.v… Quán cho đến khi thấy rởn người thì chuyển qua quán xương trắng: lấy một phần trong cơ thể, như sống mũi, xương đầu… tưởng xẻ ra, quán từ lúc màu ngà ngà, đến trong, rồi phát hào quang… Quán xương trắng xong thì quán tất cả thành tro bụi… Từ quán bất tịnh, xương trắng, bụi nhỏ, rốt cuộc trở thành không. Lúc đó, sắc và không không hai, rốt cuộc trở thành A-la-hán. Đó là nơi sắc trần cũng có thể ngộ đạo, không phải ngoài những thứ ấy mà tìm được đạo.

3. Viên thông về hương trần

Đồng tử Hương Nghiêm liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:

– Con nghe đức Như Lai dạy con phải quán sát kỹ các tướng hữu vi. Khi ấy con từ giã Phật, đêm về ngồi yên ở phòng thanh trai, thấy các thầy Tỳ-kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương lặng lẽ bay vào trong mũi con. Con quán mùi hương này không phải từ cây, không phải từ hư không, không phải từ khói cũng không phải từ lửa, đi không dính mắc chỗ nào, đến cũng không từ đâu. Do đây mà ý niệm được tiêu sạch, phát minh tánh vô lậu. Như Lai ấn chứng cho con hiệu là Hương Nghiêm. Trần khí (hương trần) đã tiêu diệt, diệu hương sâu kín tròn đủ. Con do mùi hương trang nghiêm được chứng A-la-hán. Phật hỏi về viên thông thì như chỗ chứng của con, lấy mùi hương để trang nghiêm là trên hết.

Mùi hương thuộc về sáu trần nên nói là trần khí. Đồng tử thường là chỉ cho trẻ con khoảng mười hai mười ba tuổi, nhưng đồng tử ở đây là chỉ cho Bồ-tát mới giác ngộ ít phần, chưa được tròn đủ. Đứng về mặt giác ngộ thì Phật là bậc giác ngộ viên mãn, còn Bồ-tát chỉ mới có phần giác. Giác ngộ viên mãn dụ như ông già, phần giác ví như đứa trẻ.

Sao gọi là lấy mùi hương để trang nghiêm? Bởi vì khi ngửi thấy mùi hương, ngài liền dùng trí tuệ quán: Mùi hương này không phải từ cây, không phải từ hư không, không phải từ khói, không phải từ lửa, đi không có mục tiêu, đến cũng không có chỗ nơi. Như vậy, mùi hương này không thật, không nơi chốn, không cố định. Quán như vậy rồi liền tiêu hết những vọng tưởng, phát minh được tánh vô lậu.

Người xưa ngửi mùi hương cũng tu được, còn chúng ta không biết dùng trí tuệ quán chiếu là hư dối không thật, trái lại cứ tìm kiếm phân biệt. Căn bệnh đó làm chúng ta khó ngộ đạo, chỉ tăng thêm vọng tưởng, ở trong vọng thức chứ không đi đến vô lậu.

4. Viên thông về vị trần

Hai vị Pháp vương tử là Dược Vương và Dược Thượng, cùng với năm trăm vi Phạm thiên ở trong hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:

– Chúng con từ kiếp vô thủy làm lương y ở thế gian, trong miệng thường nếm vàng, đá, cỏ cây ở thế giới Ta-bà này, danh số có tới mười muôn tám ngàn (108.000) vị. Như thế thảy đều biết các vị đắng, chua, mặn, lạt, ngọt, cay v.v… cùng với các thứ vị câu sanh hòa hợp, biến đổi là lạnh, là nóng, có độc, không độc, con đều biết rõ cả.

Câu sanh là bản chất của nó sẵn như vậy. Ví dụ huỳnh liên bản chất có vị đắng, gừng bản chất là cay. Hòa hợp nghĩa là vị này vị kia hòa hợp lại thành một vị khác. Biến dị là đổi thay, trước chưa có vị sau khi pha chế rồi vị đó mới thành.

Chúng con vâng theo lời dạy của Như Lai, rõ biết tánh của vị chẳng phải không, chẳng 

phải có, chẳng phải tức nơi thân tâm, chẳng phải lìa thân tâm. 

Vị chẳng phải không, vì nếm biết rõ ràng làm sao nói không được. Chẳng phải có, vì vị đắng chua… đợi để vào lưỡi mới biết, còn riêng nó không tự biết đắng chua. Chẳng phải tức thân tâm, vì nếu nó ở thân tâm thì thân tâm tự ra vị, đâu đợi phải có cây cỏ. Chẳng phải lìa thân tâm, vì nếu lìa thân tâm thì ai biết đắng, ai biết ngọt. Các thứ vị đều là duyên hợp hư dối, không có tự thể, không phải từ cái này, không phải từ cái kia. Do biết rõ ràng vị không thật có nên được khai ngộ.

Do phân biệt nhân của vị trần, từ đây mà được khai ngộ, nhờ Phật Như Lai ấn chứng cho anh em chúng con danh hiệu Bồ-tát Dược Vương và Dược Thượng, nay trong hội này làm Pháp vương tử. Chúng con nhân nơi vị mà được giác ngộ sáng suốt, tiến lên bậc Bồ-tát. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, nhân vị trần là hơn cả.

Trong thời quá khứ, hai vị Bồ-tát này do nhân duyên cúng dường thuốc cho chúng tăng và tất cả mọi người, nên được hiệu là Dược Vương và Dược Thượng. Bây giờ Phật lại lấy hiệu ấy mà gọi tên hai ngài.

Pháp vương tử là con của đấng Pháp vương. Do các ngài chuyên môn về vị, nên trong chỗ tu chứng vị trần là trên hết. Như vậy, tu hành tùy theo thói quen, tùy theo sở tập. Người nào tập quen cái gì, tu theo đó thì mau ngộ đạo, không phải cố định ai cũng tu giống như nhau.

5. Viên thông về xúc trần

Bạt-đà-bà-la cùng đồng bạn là mười sáu vị khai sĩ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng: 

– Trước kia ở chỗ đức Phật Oai Âm Vương, chúng con do nghe pháp mà xuất gia. Vào giờ tắm của chúng tăng, con theo thường lệ vào nhà tắm, chợt ngộ được nhân của nước không phải rửa bụi cũng không phải rửa thân, trong khoảng giữa đó an nhiên, được không có gì. Do chỗ tu tập xưa không quên, cho đến ngày nay theo Phật xuất gia được quả vô học. Đức Phật ấy gọi con là Bạt-đà-bà-la, do diệu xúc phát sáng, được ở trong hàng Phật tử. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, nhân xúc trần là hơn cả.

Chúng ta thường nói nước là để rửa, nhưng nước là nước, không phải để rửa bụi, cũng chẳng để rửa thân. Vì bụi dính nơi thân nên lấy nước dội lên, rồi nước trôi đi cuốn theo bụi, chứ nước không phải dành để rửa bụi. Chỉ do quan niệm của mọi người, cứ nghĩ cái gì cũng để cho mình dùng, nước để uống, để tắm, để rửa… Tùy chỗ sử dụng của mỗi người mà thấy có những công dụng ấy. Đây là quan niệm chủ quan điên đảo của con người. Sự thật nước chỉ là nước, chứ nước không để cho mình làm gì. Thể của nước là lặng lẽ.

Lại nữa, đất nước gió lửa gọi là tứ đại, tứ đại thuộc về trần. Nước thuộc tứ đại, tức cũng là trần. Chẳng lẽ lấy bụi rửa bụi? Nhưng tại sao chúng ta phải tắm? Chẳng qua là vì trong chỗ đối đãi tạm dùng vậy thôi, chứ trên lẽ thật thì nước không phải để rửa cũng không phải để tắm. Nước là nước chứ nó không để làm cái gì. Khi quán như vậy, ở trong khoảng giữa đó tâm an nhiên lặng lẽ, được chỗ không có gì là thật.

Như vậy, khi tắm các ngài cũng quán tưởng, thấy được đạo ngay trong khi tắm. Thấy lẽ thật của các pháp gọi là ngộ đạo, rõ được các pháp thế gian đều do tâm mê vọng hư dối của chúng sanh biến hiện. Thể của các pháp vốn tịch nhiên lặng lẽ, không có cái dụng gì riêng cho ai.

Ngài Bạt-đà-bà-la đã xuất gia từ thời đức Phật Oai Âm Vương là vị Phật đầu tiên ở thế giới này. Trải qua không biết bao nhiêu đức Phật rồi, nay mới gặp Phật Thích-ca được quả vô học. Tuy rất lâu xa nhưng nhân đời trước không mất, chỗ tu tập đời trước không quên. Do vậy ngày nay chúng ta tu hành, dù không thể thành Phật liền cũng phải dài lâu, nhưng xưa tu hạnh gì thì nay cứ tiếp nối, trải qua bao nhiêu đời kiếp cũng không quên. Đi một bước là gần một bước. Cứ vậy mà bước tiếp tục, càng tiếp tục càng gần. Tuy lâu xa nhưng có ngày sẽ tới không nghi ngờ.

6. Viên thông về pháp trần

Ma-ha Ca-diếp và Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Ở kiếp xa xưa trong thế giới này có đức Phật ra đời tên là Nguyệt Đăng, chúng con được thân cận nghe pháp, tu học. Sau khi Phật diệt độ, chúng con cúng dường xá-lợi, đốt đèn sáng liên tục, dùng vàng tía sáng bóng để tô thếp hình tượng Phật. Từ đó đến nay đời nào sanh ra thân thể cũng thường sáng ngời viên mãn như vàng tía. Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang này là quyến thuộc của con, đồng thời phát tâm.

Con quán sát sáu trần ở thế gian đều biến đổi, chỉ dùng không tịch tu mà được diệt tận, thân tâm mới có thể vượt trăm ngàn kiếp như là khảy móng tay. Con do quán pháp không mà thành A-la-hán. Thế Tôn bảo con là người tu hạnh đầu-đà bậc nhất, diệu pháp khai sáng tiêu diệt các lậu. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, nhân pháp trần là hơn cả.

Ngài Ca-diếp là vị Tổ ban đầu của Thiền tông. Ngài quán về pháp trần thấy không thật, hư dối, do đây tâm được thanh tịnh. Pháp trần là bóng của năm trần còn rơi rớt lại trong tâm thức, nó là tướng biến hoại, là không, rỗng lặng. Sau khi quán pháp trần được không rồi thì thành bậc A-la-hán. Pháp trần là nhân hữu lậu, do khéo tu mà diệt hết. Vì vậy ngài nói nhân nơi pháp trần là hơn cả.

Nhân tu của ngài Ca-diếp có liên hệ với chỗ tu của chúng ta. Thay vì gọi pháp trần, chúng ta gọi là vọng tưởng. Vọng tưởng là hư dối, do chạy theo bóng của năm trần mà có. Hiện nay chúng ta tu ý căn, dẹp hết những pháp trần lăng xăng, tức cũng nương theo hướng của ngài Ca-diếp.

7. Viên thông về nhãn căn

A-na-luật-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Khi con mới xuất gia thường thích ngủ nghỉ, Như Lai quở con là loài súc sanh. Con nghe Phật quở khóc lóc tự trách, suốt bảy ngày không ngủ, mù cả hai mắt.

Một hôm Phật đang thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo nghe, thấy ngài A-na-luật-đà ngủ gục. Phật bảo:

– A-na-luật, Thầy sợ phép vua và sợ giặc cướp mà tu hành chăng?

– Thưa không, bạch Thế Tôn.

– Vì sao Thầy xuất gia học đạo?

– Con chán ngán sanh lão bệnh tử, sầu lo khổ não nên muốn bỏ nó, vì thể xuất gia học đạo.

Phật bảo:

– Thầy là con nhà quý tộc, có lòng tin kiên cố, xuất gia học đạo. Hôm nay đích thân ta thuyết pháp, tại sao Thầy ngủ gục giống như con sò, con hến?

Tôn giả A-na-luật liền từ chỗ ngồi đứng dậy bày vai bên phải, quỳ xuống chắp tay bạch Phật:

– Từ nay về sau, dù thân hình tan nát, con trọn không ở trước Như Lai ngủ gục.

Tôn giả A-na-luật suốt bảy ngày không ngủ, mắt bị hư, Phật bảo:

– Người chuyên cần tinh tấn thì cùng trạo cử tương ưng, còn nếu giải đãi lại cùng kiết sử tương ưng. Nay Thầy nên hành vừa chừng ở giữa.

A-na-luật bạch Phật:

– Khi trước con đã ở trước Như Lai phát thệ, nay không thể làm trái bản nguyện mình.

Phật cho mời thầy thuốc nổi tiếng ở nước Ma-kiệt-đà là ngự y Kỳ-bà đến trị liệu cho Tôn giả. Kỳ-bà thưa:

– Nếu thầy A-na-luật chịu ngủ một chút, con sẽ trị mắt được.

Phật khuyên tôn giả A-na-luật nên ngủ một chút thì trị mới lành bệnh, nhưng Tôn giả cương quyết không ngủ nên mắt bị mù luôn.

Đây là một hình ảnh về sự cương quyết của một người học đạo. Ban đầu ngài cũng không hơn gì chúng ta, khi nghe pháp có lúc cũng ngồi lim dim, cũng ngủ. Tuy nhiên, một lần ngài bị rầy thì từ đó về sau nhất định không tái phạm, chết cũng không phạm, chấp nhận bị mù chứ không đổi lời hứa. Đó là từ dở mà chuyển thành hay. Còn chúng ta ngày nay cũng dở mà ít chịu chuyển nên cứ dở hoài. Chúng ta phạm lỗi, được nhắc nhở rồi ít ngày lại phạm nữa, là vì mình không tôn trọng lời hứa, thiếu cương quyết, thiếu nghị lực để thực hiện điều mình hứa, đó là cái dở. Ai cũng có dở, nhưng nếu biết chuyển thì thành hay. Câu chuyện này là một kinh nghiệm lớn, cho chúng ta thấy người học đạo phải có ý chí như vậy.

Đức Thế Tôn dạy con tu chánh định Kim cang nhạo kiến chiếu minh. Con không do con mắt mà xem thấy mười phương, rỗng suốt tinh tường, như xem trái cây ở trong lòng bàn tay.

Nhạo kiến chiếu minh là ưa thấy sáng, đây không phải là thấy sáng ở con mắt mà thấy sáng từ trong tâm. Khi ngài A-na-luật đắc đạo rồi, tuy không có mắt sáng mà ngài nhìn khắp cả tam thiên đại thiên thế giới rõ ràng, rỗng suốt như xem trái cây ở trong lòng bàn tay. Như vậy là thấy bằng tâm, thấy trùm khắp.

Một hôm ngài ngồi vá chiếc y rách, không thấy đường xỏ kim, ngài nghĩ: “Chư A-la-hán đắc đạo trong thế gian hãy xâu kim giúp tôi.” Bấy giờ Phật dùng thiên nhĩ nghe được, đi tới nói:

– Thầy đưa kim đây ta xâu cho.

A-na-luật bạch Phật:

– Vừa rồi con gọi các vị muốn cầu phước ở thế gian xâu kim cho con.

– Người cầu phước ở thế gian không ai hơn ta.

– Thân Như Lai là thân chân pháp, lại còn muốn cầu pháp nào nữa? Như lai đã qua khỏi biển sanh tử, lại thoát khỏi ái trước, nay còn cố cầu làm phước.

Phật bảo:

– Đúng vậy, A-na-luật, đúng như lời Thầy nói.

Qua câu chuyện, chúng ta mới thấy chỗ mình không biết kiệm phước. Đức Phật phước đức vô lượng vô biên vẫn còn bòn mót từng chút phước xỏ kim, chúng ta thiếu phước mà còn xài phí, để đồ đạc hư hao là hủy hoại phước đức của mình. Của Tăng chúng làm ra là của chung, của Phật tử cúng là của đàn-na thí chủ, chúng ta phải ráng cẩn thận dè dặt đừng phí phạm mà tổn đức. Bởi vậy người tu phải luôn tỉnh táo sáng suốt, cần mẫn, tiết kiệm.

Như Lai ấn chứng cho con thành A-la-hán. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, xoay cái thấy trở về nguồn gốc, đây là đệ nhất.

Không phải thấy ra ngoài mà xoay trở về tánh thấy trạm viên, đó là bậc nhất.

8. Viên thông về tỹ căn

Châu-lợi-bàn-đặc-ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Do con thiếu sự trì tụng, không có tánh đa văn, lúc đầu con gặp Phật, nghe pháp xuất gia, cố ghi nhớ một câu kệ của Như Lai, mà trong một trăm ngày nhớ được câu trước thì quên câu sau, nhớ sau thì quên trước, Phật thương con ngu tối mới dạy con an cư điều hòa hơi thở ra vào. Khi ấy con quán hơi thở vi tế, cùng tột sanh trụ dị diệt biến đổi trong từng sát-na, tâm con rỗng suốt được đại vô ngại, cho đến sạch hết các lậu, thành A-la-hán. Dưới tòa của Phật được ấn chứng thành bậc vô học. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, xoay hơi thở trở về không, đây là trên hết.

Ngài Châu-lợi-bàn-đặc-ca còn chậm lụt hơn mình, một câu kệ học hoài không thuộc. Phật dạy ngài quán hơi thở ra vào, khi mới sanh khởi, dừng trụ, biến đổi, đến khi lặng mất, từng sát-na đều thấy rõ ràng, lâu ngày bỗng dưng tâm sáng ra, được đại vô ngại.

Như vậy không chỉ người thông minh mới tu được, người dù chậm lụt ngu tối bao nhiêu, nếu khéo tu khéo quán cũng có thể tiến lên đạt được đạo quả. Những người đời trước có duyên học tập nhiều thì đời này thông minh nhớ lâu, ai đời trước học hỏi sơ sài thì nay học chậm mà mau quên, nhưng vẫn có thể tu bằng phương tiện khác. Quan trọng là ý chí và sự bền bỉ tu hành rồi cũng tới chỗ giác ngộ.

Người tu cần đủ niềm tin, tu một pháp tức thông tất cả pháp. Người không có niềm tin dù tu cả ngàn pháp cũng không thành tựu được pháp nào. Cho nên khi tin nhận được một pháp môn nào, cứ như vậy mà tiến, đừng sợ mình tối dốt hoặc thua sút người khác. Chú tâm tu hoài sẽ ngộ đạo, được lậu tận A-la-hán.

Chuyện ở đây khác trong kinh Tăng Nhất A-hàm. Kinh nói ngài tối dốt, anh của ngài là Đại Bàn-đặc bảo:

– Nếu em không thể tu được thì trở về làm cư sĩ.

Ngài nghe lời này xong, đến ngoài cửa tinh xá Kỳ-hoàn khóc ròng. Đức Phật thấy hỏi, ngài nói bị anh đuổi không cho tu nữa nên buồn khóc. Phật bảo ngài chớ lo sợ, rồi nắm tay dẫn đến tịnh thất, dạy cầm chổi quét. Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc nhớ chữ “quét” lại quên chữ “chổi”, nhớ chữ “chổi” lại quên chữ “quét”. Trải qua mấy ngày, ngài sực nghĩ Phật dạy mình quét là quét những bụi bặm phiền não sâu xa trong tâm mình. Tôn giả lại nghĩ: “Buộc kết là dơ, trí tuệ là trừ. Nay ta có thể lấy chổi trí tuệ quét trói buộc này.” Ngài tiếp tục quán sát cho đến khi chứng được trí giải thoát, thành A-la-hán.

9. Viên thông về thiệt căn

Kiều-phạm-bát-đề từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Con mắc khẩu nghiệp từ kiếp quá khứ, do khinh chê chế giễu các vị Sa-môn nên nhiều đời sanh ra bị bệnh lưỡi giống lưỡi trâu. Như Lai chỉ dạy con pháp môn tâm địa “một vị trong sạch”. Con diệt được thức tâm, vào chánh định, quán cái biết vị không phải thân thể, không phải vật, liền đó được vượt khỏi các lậu của thế gian. Trong thì giải thoát thân tâm, ngoài thì vượt khỏi thế giới, xa lìa ba cõi, như chim ra khỏi lồng. Xa lìa cấu nhiễm, tiêu diệt hết các trần, được pháp nhãn thanh tịnh, thành A-la-hán. Chính Như Lai ấn chứng cho con được đạo vô học. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, xoay các vị trở về tánh biết, đây là bậc nhất vậy.

Ngài Kiều-phạm-bát-đề quán biết các vị không phải thân cũng không phải là vật. Nếu vị từ thân ra thì lưỡi tự biết ngon, đâu cần phải có đồ ăn ngon để vào. Nếu vị có từ vật thì vật tự biết ngon, đợi gì cái lưỡi nếm. Do đó vị không cố định, không có thật. Ngài liền đó siêu việt các lậu ở thế gian. Như vậy từ một phương tiện này hoặc một phương tiện khác, nếu khéo tu đều được ngộ đạo.

10. Viên thông về thân căn

Tất-lăng-già-bà-ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Khi con mới phát tâm theo Phật vào đạo, thường nghe Như Lai nói các việc không vui ở thế gian. Lúc con đi khất thực trong thành, tâm suy nghĩ về pháp môn Phật dạy, bất chợt giữa đường bị gai độc đâm vào chân, toàn thân đau nhức. Con nghĩ về pháp môn Phật dạy, bất chợt giữa đường bị gai độc đâm vào chân, toàn thân đau nhức. Con nghĩ có cái biết, biết được cái rất đau này. Tuy biết được cảm giác đau nhức, nhưng tâm biết thanh tịnh không đau mà biết được đau. Con lại suy nghĩ, như thế một thân đâu thể lại có hai cái biết. Nhiếp niệm chưa bao lâu, thân tâm con bỗng nhiên rỗng không. Trong khoảng hai mươi mốt ngày, các lậu đều dứt sạch thành A-la-hán. Chính Phật ấn ký cho con thành bậc vô học. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, thuần một tánh biết thì quên thân, đây là bậc nhất vậy.

Ngài Tất-lăng-già-bà-ta nhân đạp gai đau nhức mà ngộ đạo. Ngày nay chúng ta nhức răng hay đạp gai có ngộ không? Khi chúng ta đau quá thì rên la, kêu người nhổ răng hoặc lấy gai ra giùm v.v… chứ không dùng trí quán. Ngài Tất-lăng-già-bà-ta khi đạp gai đau liền khởi quán: mình có cái biết biết được cảm giác đau. Như vậy thành ra có hai cái biết: cảm giác đau đó là của thân, còn biết được cảm giác đau đó là tâm thanh tịnh. Nếu chúng ta sống với cái biết được cảm giác đau đó thì thanh tịnh, bằng không mình sẽ rên la. Như vậy hiện nay chúng ta đang sống với cái nào?

Thiền sư Đức Sơn có bệnh, Tăng hỏi: Lại có cái chẳng bệnh chăng? Sư đáp: Có. Tăng hỏi: Thế nào là cái chẳng bệnh: Sư bảo: Ôi da! Ôi da!

Như vậy cái biết được cảm giác bệnh, cái đó không bệnh; cũng như cái biết được cảm giác đau, cái đó không đau. Vậy khi đang đau, chúng ta sống với cái biết được cái đau tức là sống với cái không đau, tự nhiên ra khỏi đau khổ.

Như thế giả sử có những bệnh chướng của thân thì coi như trò chơi, không có gì quan trọng. Đó là cảm giác đau của tứ đại, còn mình thật thì không đau. Ngược lại nếu thấy cái đau là mình, có gì hơi chạm đến thân thì không chịu nổi. Chính do không coi cái đau là mình, mà bệnh gì rồi cũng qua. Biết thân giả hợp thì không thấy gì quan trọng. Trở về tánh giác chân thật thì quên thân. Nếu gan dạ chúng ta chuyển được nghiệp, yếu đuối quá thì nghiệp chuyển mình.

Mỗi vị đều có một công hạnh riêng, tùy theo cảnh duyên, lợi dụng cảnh duyên đó để tu, để quán chiếu thì trí tuệ phát sáng. Do trí tuệ phát sáng nên được giác ngộ, thoát khỏi mê lầm, ra khỏi trầm luân trong tam giới.

11. Viên thông về ý căn

Tu-bồ-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Từ nhiều kiếp đến nay, tâm con được vô ngại, tự nhớ thọ sanh nhiều như số cát sông Hằng. Khi còn trong thai mẹ, con liền biết được lý không tịch. Như thế cho đến mười phương đều thành rỗng không, cũng khiến cho chúng sanh chứng được tánh không. Nhờ Như Lai chỉ dạy con phát minh tánh giác là chân không, tánh không tròn sáng, được quả A-la-hán, chóng vào biển Không Bảo Minh của Như Lai, thấy biết đồng như Phật. Phật ấn chứng cho con thành bậc vô học, về tánh rỗng không giải thoát, con là bậc nhất vậy. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, các tướng đều vào Không, năng không và sở không đều hết, xoay các pháp trần trở về Không, đó là trên hết.

Lúc ngài Tu-bồ-đề còn ở trong thai mẹ đã thâm nhập lý không, biết được các pháp là không nên khi sanh ra trong nhà tự nhiên trống rỗng. Đây là nói về căn ý, ý duyên với pháp trần, biết được các pháp không nên ý cũng không.

12. Viên thông về nhãn thức 

Xá-lợi-phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Từ nhiều kiếp đến nay, tâm thấy (nhãn thức) của con thanh tịnh. Tuy con thọ sanh nhiều đời như số cát sông Hằng như vậy, nhưng đối với tất cả sự biến hóa của thế gian hay xuất thế gian, một phen thấy liền được thông suốt không chướng ngại. Ở giữa đường con gặp anh em Ca-diếp-ba, cùng đi theo nghe họ tuyên nói về lý nhân duyên, con ngộ được tâm không bờ mé. Con theo Phật xuất gia, kiến giác tròn sáng, được đại vô úy, thành A-la-hán, làm trưởng tử của Phật, từ miệng Phật sanh, do pháp Phật hóa sanh. Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con, do tâm thấy phát sáng, sáng cùng tột tri kiến, đây là bậc nhất vậy.

Phật tử là con Phật. Đây là con trong chánh pháp, khác với con ngoài đời. Nhân nghe pháp từ miệng Phật nói mà hiểu đạo tu hành, được sanh trong chánh pháp nên gọi là con Phật, do từ miệng Phật sanh, từ pháp của Phật mà hóa sanh.

Nhiều người thắc mắc tại sao trong đạo có nhiều vị lớn tuổi hơn Thầy mà vẫn xưng con với Thầy. Như ngài Xá-lợi-phất lớn tuổi hơn Phật, lại nói là trưởng tử của Phật. Cũng như bây giờ, tăng ni do nghe quý thầy dạy rồi làm đệ tử xuất gia cũng gọi là con. Đây là con trong chánh pháp. Vì từ lời nói của Thầy mà mình ngộ hiểu, nhờ Thầy chỉ dạy dẫn đường mà mình sáng phần nào, được khai mở trí tuệ. Trí tuệ người học mới được khai mở là nhỏ, còn trì tuệ của người thầy dạy mình là lớn, trí tuệ nhỏ đối với trí tuệ lớn xem như là con, là mới sanh.

13. Viên thông về nhĩ thức

Bồ-tát Phổ Hiền liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Con đã từng làm Pháo vương tử của các đức Như Lai nhiều như số cát sông Hằng. Như Lai mười phương dạy những đệ tử có căn cơ Bồ-tát, tu hạnh Phổ Hiền, do tên con mà lập hạnh. Bạch Thế Tôn! Con dùng tâm nghe (nhĩ thức) phân biệt những thấy biết của chúng sanh. Nếu ở phương khác, cách ngoài thế giới như cát sông Hằng, có một chúng sanh trong tâm phát minh hạnh Phổ Hiền, khi ấy con liền cỡi voi sáu ngà, phân thân thành trăm ngàn, đến chỗ người kia. Dù người kia nghiệp chướng sâu dày chưa thể thấy được con, cong cũng thầm xoa đảnh, ủng hộ an ủi họ, khiến cho họ thành tựu được hạnh Phổ Hiền. Phật hỏi về viên thông, con nói về bản nhân của con, do tâm nghe mà được phát minh, phân biệt tự tại, đây là bậc nhất vậy.

Hạnh Phổ Hiền là lấy tên của Bồ-tát Phổ Hiền mà đặt. Đối với những người còn nghiệp chướng sâu dày, không thể trực tiếp thấy Bồ-tát được thì ngài có thể thầm xoa đầu an ủi ấn chứng cho họ.

14. Viên thông về tỹ thức

Tôn-đà-la-nan-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Khi con mới xuất gia theo Phật vào đạo, tuy giữ đủ giới luật, nhưng khi tu chánh định tâm con thường tán loạn chưa được vô lậu. Thế Tôn dạy con và Câu-hy-la quán chót mũi trắng. Ban đầu con quán sát kỹ, trải qua hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói. Thân tâm bên trong sáng suốt, soi khắp cả thế giới, trong sạch rỗng không giống như lưu ly.

Đây là những chặng tu quán tướng trắng chót mũi. Ngài Tôn-đà-la-nan-đà quán suốt hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở vô ra tinh tế như làn khói, tâm ngài rỗng sáng thấu suốt như lưu ly. Lúc này tâm đã vào định.

Tướng khói dần tiêu mất, hơi thở ở mũi thành màu trắng. Tâm con khai ngộ, các lậu hết sạch. Các hơi thở ra vào hóa thành hào quang, sáng soi khắp cả thế giới mười phương, được quả A-la-hán. Thế Tôn ấn ký cho con sẽ được quả Bồ-đề. Phật hỏi về viên thông, con do tiêu dung được hơi thở, dừng lặng lâu được phát sáng, sáng suốt tròn đầy, diệt hết các lậu, đây là bậc nhất vậy.

Đây tới chặng thứ hai, hơi thở hóa thành màu trắng, dứt hết các lậu. Rồi dần dần thấy hơi thở như hào quang sáng chiếu khắp, chứng quả A-la-hán.

15. Viên thông về thiệt thức

Phú-lâu-na-di-đa-la-ni Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Từ nhiều kiếp đến nay, con có biện tài vô ngại, tuyên nói về lý khổ, không, thấu suốt được thật tướng. Như thế cho đến pháp môn bí mật của Như Lai nhiều như số cát sông Hằng, con ở trong chúng khéo léo chỉ bày, được không chút sợ sệt. Thế Tôn biết con có đại biện tài, nên đem âm thanh pháp luân dạy con tuyên dương. Con ở trước Phật, giúp Phật chuyển pháp luân, nhân phát tiếng sư tử rống mà thành A-la-hán. Thế Tôn ấn chứng cho con là thuyết pháp hơn cả. Phật hỏi về viên thông, con dùng pháp âm để hàng phục ma oán, tiêu diệt các lậu, đây là đệ nhất vậy.

Trong thời Phật còn tại thế, ngài Phú-lâu-na thường trợ giúp Phật trong việc giáo hóa. Những khi đức Phật giảng tóm tắt quá, đại chúng thường thưa hỏi ngài để được giải thích rộng thêm. Sau khi ngài hoặc ngài Xá-lợi-phất triển khai thành một bài giảng cho chúng, được Phật ấn chứng là đúng, thì bài kinh đó được lưu truyền như chính lời Phật dạy.

Như vậy, thuyết pháp cũng được đắc đạo. Nhưng ở đây thuyết pháp có hai mặt, hàng phục ma oán ở ngoài và hàng phục ma oán bên trong. Trong ngoài đều hàng phục hết mới đắc đạo. Bởi vậy nên nói tiêu hết các lậu mới thành A-la-hán.

16. Viên thông về thân thức

Ưu-ba-ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Chính con theo Phật vượt thành xuất gia. Chính con xem thấy Như Lai sáu năm siêng tu khổ hạnh. Chính con thấy Như Lai hàng phục ma quân, chế phục các ngoại đạo, giải quyết khỏi các lậu tham dục ở thế gian. Con nhờ Phật dạy răn, như thế cho đến ba ngàn oai nghi tám muôn tế hạnh, tánh nghiệp giá nghiệp thảy đều thanh tịnh.

Theo kinh điển Pa-li, ngài Ưu-ba-ly là thợ hớt tóc cho Phật khi ngài đang là thái tử, còn theo Phật vượt thành xuất gia là Xa-nặc.

Trong năm giới, tánh nghiệp là sát sanh, trộm cướp, tà dâm và nói dối. Khi được sanh ra, con người đã mang sẵn những tánh chất đó rồi, nên gọi là tánh nghiệp. Như tánh thích sát hại, thấy chim thì muốn bắn, thấy con vật gì cũng muốn lấy đá chọi, đó là tánh ác đã sẵn.

Giá nghiệp là nghiệp sáu này mới tạo. Giống như uống rượu. Con nít ba bốn tuổi không biết ghiền rượu, uống rượu là do mình mới tập. Cho nên Phật cấm không cho tạo, gọi là giá, nghĩa là ngăn lại.

Thân tâm được tịch diệt, thành quả A-la-hán. Con là người kỷ cương ở trong chúng của Như Lai. Chính Như Lai ấn chứng cho tâm con, về trì giới tu thân, con là trên hết trong chúng. Phật hỏi về viên thông, con do giữ thân, thân được tự tại, kế đó giữ tâm, tâm được thông suốt. Về sau, tất cả thân tâm đều thông suốt, đây là bậc nhất.

Ngài Ưu-ba-ly ban đầu giữ thân thanh tịnh, kế xoay về giữ tâm, tâm được không động, sáng suốt mới chứng quả A-la-hán. Nếu chỉ biết giữ giới ở thân mà không xoay về giữ tâm thì cũng khó chứng quả.

17. Viên thông về ý thức

Đại Mục-kiền-liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Lúc ban đầu, con đang đi khất thực ngoài đường bỗng gặp ba anh em ông Ca-diếp-ba là Ưu-lâu-tần-loa, Già-gia và Na-đề tuyên nói nghĩa nhân duyên sâu xa của Như Lai. Con chóng phát tâm, được rất thông suốt. Như Lai ban cho con chiếc y ca-sa để đắp vào thân, râu tóc tự rụng. Con dạo đi mười phương được không chướng ngại, thần thông phát sáng, trong chúng con được suy tôn là bậc nhất, thành quả A-la-hán. Đâu chỉ có Thế Tôn, mà Như Lai mười phương đều khen thần lực của con, tròn sáng thanh tịnh, được tự tại không sợ sệt. Phật hỏi về viên thông, con do xoay tâm về chỗ yên lặng, tâm phát ra sáng suốt, như là lóng dòng nước đục, lâu ngày thành trong sáng, đây là bậc nhất.

Thần thông của ngài Đại Mục-kiền-liên là do thiền định mà được, nên ngài nói do xoay tâm trở về chỗ yên lặng mà tâm phát sáng. Như vậy do ý thức yên định, phát ra được ánh sáng, thành diệu dụng, gọi đó là thần thông.

18. Viên thông về hỏa đại

Ô-sô-sắt-ma đối trước đức Như Lai chắp tay đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Con thường nhớ trước kia nhiều kiếp lâu xa, tánh nhiều tham dục. Có đức Phật ra đời hiệu là Không Vương, nói người nhiều dâm dục sẽ thành đống lửa lớn, dạy con quán khắp thân, các hơi lạnh nóng nơi trăm vóc tứ chi. Nhờ quán vậy, thần quang bên trong ngưng đọng, hóa tâm đa dâm là Hỏa Đầu. Con do sức Hỏa quang tam-muội mà thành A-la-hán, trong tâm phát đại nguyện khi chư Phật thành đạo, con sẽ thân cận làm lực sĩ để hàng phục ma oán. Phật hỏi về viên thông, con do quán kỹ các cảm xúc hơi ấm nơi thân tâm, lưu thông không chướng ngại, các lậu đã tiêu hết, sanh ra ngọn lửa trí tuệ quý báu lớn, lên bậc Vô thượng giác, đây là bậc nhất vậy.

Tâm da dâm như đống lửa mạnh, nếu khéo quán trở lại nơi thân, để cho thần quang lóng đứng, thì tâm nhiều dâm dục đó thành lửa trí tuệ. Do khéo quán mà các lậu hết, sanh ra ngọn lửa trí tuệ sánh lớn thành bậc giác ngộ. Như vậy tất cả xấu dở nếu khéo tu biết chuyển đều có thể từ xấu thành hay tốt. Con người thường chỉ chấp nơi xấu tốt, chạy theo lấy bỏ, không biết khéo chuyển, lóng gạn nước đục để thành nước trong.

Phật pháp không rời thế gian. Hiểu rõ và khéo chuyển thì tất cả pháp đều là Phật pháp. Không biết chuyển, dù suốt năm này tháng nọ đi tìm Phật pháp cũng không thể gặp. Cho nên người xưa không sợ những xấu dở, chỉ sợ không biết tu. Con người do duyên nghiệp nhiều đời, hoặc nặng về bệnh này, hoặc nặng về bệnh nọ. Nếu biết tu thì bệnh chướng chuyển thành giác ngộ, phiền não thành Bồ-đề.

19. Viên thông về địa đại

Bồ-tát Trì Địa liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Con nhớ thuở xưa khi đức Như Lai Phổ Quang ra đời, con là Tỳ-kheo, thường ở nơi tất cả những con đường quan yếu, bến đò và những chỗ đất hiểm trở eo hẹp, có các việc trở ngại, làm tổn hại ngựa xe, con đều đắp cho bằng phẳng, hoặc là bắc cầu, hoặc gánh đất cát.

Ở những con đường quan trọng, mọi người qua lại nhiều, nếu bị lở hay lầy lội v.v… thì Bồ-tát Trì Địa đổ thêm đất, sửa sang cho bằng phẳng. Nơi những bến đò nếu bị gập ghềnh thì ngài sửa sang cho an toàn dễ đi. Chỗ đất đai hiểm yếu trở ngại, như những chỗ bị đá lăn, ngăn trở đường sá, ngài đều dọn dẹp cho xe ngựa tới lui được yên ổn.

Như thế siêng năng khổ nhọc, trải qua vô lượng đức Phật ra đời. Hoặc có chúng sanh ở chỗ chợ búa cần người khuân vác đồ vật, trước tiên con vì họ mang vác đến nơi, để đồ vật xuống liền đi, không lấy tiền thù lao. Khi đức Phật Tỳ-xá-phù ra đời, người đời phần nhiều bị đói kém, con gánh vác giùm, chẳng kể xa gần chỉ lấy một tiền. Hoặc có xe, trâu bị mắc lầy, con dùng thần lực đẩy bánh xe lên, cho thoát khổ não.

Vị Đại vương trong nước thời đó thiết trai cúng dường Phật, khi ấy con làm đường bằng phẳng chờ Phật đi qua. Đức Phật Tỳ-xá-phù xoa đảnh đầu con, bảo rằng: “Phải bình đất tâm thì tất cả đất trong thể giới đều bình.” Tâm con liền được khai mở, thấy vi trần nơi thân cùng với vi trần tạo thành thế giới đều bình đẳng không sai biệt. Tự tánh vi trần không xúc chạm nhau, cho đến đao binh cũng không thể xúc chạm. Con nơi pháp tánh ngộ được vô sanh nhẫn thành A-la-hán, ngày nay hồi tâm vào vị Bồ-tát.

Đức Phật Tỳ-xá-phù dạy Bồ-tát Trì Địa quan trọng là đất tâm, đất tâm bằng phẳng thì đất trên thế giới tự nhiên bằng phẳng. Tâm ngài khai mở, thấy đất bên ngoài và đất trong thân không khác. Giả sử chúng ta ra vườn hái rau trái vào ăn, rau trái đó chính do rễ cây hút các dưỡng chất từ đất nuôi sống. Tuy chúng ta không trực tiếp ăn đất, nhưng gián tiếp ăn những thứ rau trái có từ đất, đem tất cả những thứ ấy vào thân, bồi đắp cho thân. Rồi cũng chính nơi thân mình cho ra những thứ bồi lại cho đất, cứ thế đảo đi lộn lại. Vậy mà chúng ta vẫn thấy đất nơi mình là quý, còn đất bên ngoài không sạch, nên khi thân mình dính một chút đất, vội phủi lia phủi lịa hoặc kiếm nước rửa, không ngờ mình cũng là đất. Đất mà lại chê đất!

Khi tâm ngài đã được khai mở, giả sử có người cầm dao bén đâm ngài cũng không thể làm hại được. Vì ngài đã thấy được các trần là bình đẳng, tự tánh vi trần không xúc chạm nhau. Ngài chứng A-la-hán, rồi hỏi tâm về Bồ-tát thừa nên gọi Bồ-tát.

Khi nghe chư Phật nói về tri kiến Phật trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, con sáng tỏ chứng ngộ trước tiên, nên làm thượng thủ. Phật hỏi về viên thông, con do quán sát kỹ hai thứ vi trần nơi căn thân và thế giới đều bình đẳng không sai biệt, vốn là Như Lai tạng; do hư vọng mà phát sanh ra trần, trần tiêu hết thì trí tuệ tròn đủ, thành tựu đạo Vô thượng, đây là bậc nhất vậy.

Như vậy do quán đất mà ngài ngộ đạo. Quán đất là quán các vi trần của thân và thế giới bình đẳng không sai biệt, là Như Lai tạng, do đó mà thấy đạo.

20. Viên thông về thủy đại

Đồng tử Nguyệt Quang liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Con nhớ nhiều kiếp xa xưa như số cát sông Hằng có đức Phật ra đời hiệu là Thủy Thiên, dạy các Bồ-tát tu tập quán về nước để vào chánh định. Quán tánh nước ở trong thân không lấn đoạt nhau. Ban đầu từ nước mũi nước miếng, như thế tất cả các thứ tân dịch, tinh huyết, đại tiểu tiện, xoay vần trong thân đồng là một tánh nước. Thấy nước trong thân cùng với nước trong các biển Hương Hải, nơi cõi Phù Tràng Vương ở ngoài thế giới, đều bình đẳng không có sai biệt.

Lối quán này có chỗ đặc biệt. Bồ-tát không quán nước ở ngoài mà quán nước ở ngay trong thân mình. Nghĩa là quán sát trong thân từ nước miếng nước mũi đến mồ hôi máu mủ… những chất ướt đều thuộc về nước, đồng một thể tánh trong mát, chứ không có tướng sai biệt như máu là đỏ, nước miếng là trắng… Kế đó quán nước ngoài biển cả, thể tánh cũng đồng như ở trong thân. Đó là giai đoạn thứ nhất về quán nước.

Khi ấy con mới thành tựu pháp quán này, chỉ thấy được nước mà chưa được không thân. Con đang làm Tỳ-kheo, ngồi thiền trong thất, có đứa đệ tử ngó qua cửa sổ nhìn vào thất, thấy khắp cả thất chỉ toàn nước trong, trọn không thấy gì khác. Nó nhỏ dại không biết, lấy hòn gạch ném vào trong nước nghe tiếng bõm, ngó qua rồi bỏ đi. Sau khi con xuất định, chợt thấy đau tim, như ngài Xá-lợi-phất bị quỷ Vi Hại đánh.

Một lần nọ ngài Xá-lợi-phất ngồi thiền nơi chỗ trống với cái đầu vừa cạo. Có con quỷ Vi Hại đi ngang, đánh trên đầu ngài một cái. Lúc ấy ngài đang nhập định. Ngài Mục-kiền-liên ngồi thiền gần đó trông thấy giật mình, vì cái đánh của quỷ có sức làm bể hai trái núi. Vậy mà sau khi ngài Xá-lợi-phất xả thiền, ngài Mục-kiền-liên hỏi thăm, ngài nói chỉ nghe hơi ê đầu.

Con tự suy nghĩ, nay mình đã được đạo A-la-hán, đã lâu xa lìa duyên bệnh, tại sao ngày nay chợt sanh ra đau tim, không lẽ bị thối thất chăng? Khi ấy, chú đệ tử nhỏ liền đến gặp con thuật lại việc như trên. Con liền bảo rằng: Nếu sau ngươi lại thấy nước thì mở cửa vào, lấy hòn gạch trong nước ra. Chú đệ tử nhỏ vâng lời. Sau đó khi con nhập định, lại thấy nước và hòn gạch rõ ràng, chú đệ tử liền mở cửa vào lấy hòn gạch ra. Sau khi xuất định, thân con trở lại như cũ.

Theo pháp quán thông thường thì chỉ người đang quán thấy nước, nhưng khi sức quán mạnh thì người đang quán tưởng cái gì, người ngoài cũng thấy cái ấy. Khi ngài Nguyệt Quang quán nước thì cả thất thấy đầy nước. Nước này ở đâu lại đây? Rồi khi ngài xuất định nước không còn nữa, vậy nước đi đâu? Rõ ràng tất cả từ tưởng mà ra.

Trước đây chúng ta đã học về tưởng uẩn, khi nghe nói me chua, tâm tưởng đến me thì nước miếng trong miệng tươm ra. Ở đây khi tưởng nước trong thân đầy khắp thì đất, lửa, gió mất, chỉ còn thuần là nước, nước tràn đầy cả thất. Đây là được định. Vậy mà vẫn chưa quên thân, nên chú đệ tử ném hòn gạch vào, khi xuất định ngài bị đau tim. Phải qua một thời gian lâu sau nữa mới được quên thân, thấu rõ tánh nước là chân không, tánh không là nước thật (tánh thủy chân không, tánh không chân thủy).

Ngài Nguyệt Quang tu pháp quán nước đến mức ấy vẫn chưa quên thân, vậy mà ngày nay có người tu, quán thấy một chút gì, đã nói tôi được đạo rồi, rất là sai lầm! Đó là lạm xưng, chưa tới mà tưởng mình đã tới, nói là Phật Bồ-tát, vỗ ngực xưng tên… toàn là tưởng tượng chứ chưa tới đâu cả. So với các ngài, trong triệu phần chúng ta chưa được một, tự xưng này kia là tai họa. Người đời không biết vì họ không học, chúng ta có học rồi mới thấy công phu tu phải rất lâu dài.

Con được gặp vô lượng đức Phật, như thế cho đến đức Phật Sơn Hải Tự Tại Thông Vương, mới được quên thân, cùng với nước của các biển Hương Thủy ở thế giới mười phương, tánh hợp với chân không không hai không khác. Nay ở nơi Như Lai được tên là Đồng Chân, dự vào hội Bồ-tát. Phật hỏi về viên thông, con do quán tánh nước một vị lưu thông, được vô sanh nhẫn viên mãn đạo Bồ-đề, đây là bậc nhất vậy.

Hợp với thể tánh chân không tức là Như Lai tạng. Đến đây Đồng tử Nguyệt Quang mới thành Bồ-tát, viên mãn đạo Bồ-đề. Chúng ta thấy các vị A-la-hán và Bồ-tát đều nói: “Con nhở thuở xưa, trải qua số kiếp như cát sông Hằng…” Mới biết các ngài tu rất nhiều đời mới viên mãn công hạnh. Bởi vậy mỗi người phước duyên không đồng, kẻ mỏng người dày, kẻ sâu người cạn nên hiện đời có người học ít mà biết nhiều, kẻ học nhiều mà quên hết. Đó đều do duyên đời trước mình tạo mỏng hay dày mà có sai biệt. Tuy nhiên, chỗ tu tập không hề quên mất, bao nhiêu đời vẫn tiếp tục công phu của mình cho đến ngày viên mãn.

Các vị tu Nguyên thủy cũng có lối tu quán nước. Lấy một bát nước trong vừa đầy, để trong thất hay một nơi kín đáo yên tịnh. Ngồi an ổn chú tâm vào bất cứ danh từ nào chỉ “nước”, cho đến khi tướng nước hiện ra như quạt lớn bằng pha lê, như mặt gương tròn lớn giữa hư không, tức là được định. Đây là quán nước ở ngoài, khác với Bồ-tát quán nước ở trong thân mình, cùng với nước ở các biển mười phương đồng một thể chân không, mới được đạo Bồ-tát.

21. Viên thông về phong đại

Lưu Ly Quang pháp vương tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Con nhớ thuở xưa trải qua số kiếp như cát sông Hằng, có đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Thanh, chỉ dạy Bồ-tát về bản giác sáng suốt nhiệm mầu, quán thấy thế giới này và thân chúng sanh đều là do sức gió vọng duyên chuyển. Con khi ấy quán sát sự an lập của thế giới, quán sự chuyển đổi của thời gian, quán sự động dừng nơi thân, quán những động niệm nơi tâm. Quán các thứ động không hai bình đẳng không sai khác.

Pháp quán này rất đặc biệt. Người ta thường nói sống là động, không động là không sống. Cái động này từ gió mà ra: hít hơi vào thì phổi nở, thở ra thì xẹp, rồi quả tim đập, mạch chảy máu huyết mới lưu thông… Như vậy cuộc sống của con người do động mà ra. Động đó là từ gió, vậy gió là chủ của sự sống. Không có gió thì không có động, không động là không có sự sống. Không có gió thì không có động, không động là không có sự sống. Như vậy thân này là từ vọng duyên, do sức gió chuyển chứ không có thật. Cho nên khi gió trong thân dừng, thở ra mà không hít vào là tắt thở chết. Rõ ràng sự sống là từ gió chứ không có gì thật. Vậy mà chúng ta cứ cho là thật, nói tôi sống thế này thế nọ, thật ra chỉ là một mớ vọng duyên hư dối, do sức chuyển.

Sau đó ngài khởi quán thế giới an lập, quán thời gian đổi dời, quán sự động dừng nơi thân, những động niệm trong tâm. Tất cả cái động đó đều là một, bình đẳng không sai biệt.

Khi ấy con giác ngộ rõ ràng các thứ động này, đến không từ đâu, đi không chỗ đến. Những chúng sanh điên đảo như số vi trần trong mười phương, đều đồng một hư vọng. Như thế cho đến có những chúng sanh trong một thế giới của tam thiên đại thiên thế giới của tam thiên đại thiên thế giới, như trong một món đồ chứa hàng trăm muỗi mòng kêu vo ve loạn xạ, ở trong phân tấc mà ầm ỹ cuồng náo.

Các thứ động này vốn không thật, như cái động của hơi thở, hít vào không biết nó từ đâu đến, thở ra không biết nó đi về đâu, chỉ là duyên hợp hư dối. Mọi sinh hoạt trong thế giới này, ngài thấy như là ruồi muỗi kêu trong chai hũ vậy thôi. Chỉ là những cuồng náo trong một phân một tấc, không có nghĩa lý gì.

Con gặp Phật chưa bao lâu, được vô sanh nhẫn. Khi ấy tâm con được khai ngộ, mới thấy cõi Phật Bất Động ở phương đông, làm Pháp vương tử phụng thờ chư Phật mười phương, thân tâm con phát sáng, rỗng suốt không ngăn ngại. Phật hỏi về viên thông, con do quán sát sức gió không có chỗ nương, ngộ được tâm Bồ-đề, vào chánh định, hợp với một diệu tâm của chư Phật mười phương đã truyền, đây là bậc nhất vậy.

22. Viên thông về không đại

Bồ-tát Hư Không Tạng liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Con ở chỗ Phật Định Quang Như Lai chứng được vô biên thân. Khi ấy tay con cầm bốn hạt châu báu lớn chiếu sáng cõi Phật khắp mười phương như số vi trần, hóa thành hư không. Lại nơi tự tâm hiện ra Đại viên cảnh, trong phóng ra mười thứ hào quang báu vi diệu, chiếu tột cùng hư không khắp mười phương. Các cõi Tràng Vương đều hiện trong gương và nhập vào thân con. Thân con đồng như hư không, không có chướng ngại nhau. Thân con hay khéo vào các cõi nước như số vi trần, làm nhiều Phật sự, được đại tùy thuận.

Đại viên cảnh trí là trí tròn sáng như gương lớn. Do Bồ-tát Hư Không Tạng dùng trí tuệ quán tất cả cõi nước đều không có tự tánh, không có tướng thật, nên nói tất cả cõi nước hòa thành trống không, vào trong gương của ngài và lẫn hòa trong thân ngài.

Thần lực lớn này là do con quán kỹ tứ đại không có chỗ nương, vọng tưởng sanh diệt và hư không không có hai, cõi Phật cũng vốn đồng, con do phát minh được tánh đồng mà chứng vô sanh pháp nhẫn. Phật hỏi về viên thông, con do quán sát hư không vô biên mà vào chánh định, diệu lực được tròn sáng, đây là bậc nhất.

Bồ-tát Hư Không Tạng cầm bốn hạt châu lớn, soi các cõi Phật đều hóa thành hư không, rồi từ đại trí tuệ nơi tự tâm soi tột hư không, lẫn với thân ngài cũng đồng hư không. Sức đại thần lực này là do khéo quán bốn đại không chỗ nơi. Cả thế giới và thân này đều từ tứ đại, mà tứ đại thì không có chỗ tựa, không có căn cứ nên giống như hư không. Những vọng tưởng sanh diệt cùng với hư không là không hai, vọng tưởng cũng không chỗ tựa, giống như hư không. Như vậy các cõi Phật, vọng tưởng, tứ đại và hư không cũng đồng là không thật. Do quán tứ đại, vọng tưởng, hư không và cõi Phật tất cả đồng nhau, không hai không khác mà ngài đạt được vô sanh nhẫn, thành Bồ-tát.

23. Viên thông về thức đại

Bồ-tát Di-lặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Con nhớ thuở xưa trải qua số kiếp như vi trần, có đức Phật ra đời hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Con được theo đức Phật kia xuất gia, nhưng tâm con còn nặng danh lợi thế gian, ưa giao du với nhà quyền quý. Khi ấy đức Thế Tôn dạy con tu tập về định Duy tâm thức, được chánh định. Trải nhiều kiếp đến nay, dùng chánh định này thờ phụng chư Phật nhiều như số cát sông Hằng, tâm cầu danh thế gian tiêu diệt không còn.

Đây là lối tu Duy thức quán của ngài Di-lặc. Ngài kể, thuở xưa tuy xuất gia mà còn tâm cầu danh thế gian nên Phật dạy quán Duy thức, là pháp quán về các thứ danh tướng. Ngài quán mãi thành định, tâm cầu danh tự hết.

Tương truyền ngài Vô Trước mộng thấy lên cung trời Đâu-suất, được Bồ-tát Di-lặc dạy cho Luận Du-già Sư Địa. Sau ngài đem những điều đã học được giảng dạy lại cho đại chúng. Hai anh em Vô Trước và Thế thân đã trước tác nhiều bộ luận Duy thức, có công lớn trong việc phát triển tông này.

Đến khi đức Phật Nhiên Đăng ra đời, con mới thành tựu được chánh định Vô thượng diệu viên thức tâm. Cho đến cõi nước của chư Phật cùng tận hư không, sạch dơ, có không đều do tâm thức của con biến hóa hiện ra. Bạch Thế Tôn! Vì con rõ Duy tâm thức như thế, từ thức tánh lưu xuất vô lượng Như Lai. Nay được Phật thọ ký, kế đây sẽ được bổ xứ làm Phật cõi này. Phật hỏi về viên thông, con nhờ quán sát kỹ mười phương đều do thức, thức tâm tròn sáng, vào được tánh viên thành thật, xa lìa tánh y tha khởi và biến kế chấp, được vô sanh nhẫn, đây là bậc nhất.

Các cõi nước chư Phật cùng khắp hư không, những thứ tịnh uế, có không, tất cả đều từ tâm thức biến hóa ra chứ không thật. Đây là lý Duy thức. Chẳng những thế giới của chúng ta, mà thế giới của chư Phật trong mười phương nhiều vô số trong hư không cũng đều do tâm thức biến ra. Do quán duy thức ngài phá chấp biến kế, lìa được y tha khởi mà vào viên thành thật tánh.

Chúng ta xét kỹ tất cả các pháp sạch dơ… trên thế gian có thật không? Ví dụ như máu trong thân là quý. Nhưng giả sử có ai chích máu nhỏ ra chén rồi uống lại thì có gớm không? Như vậy ở trong thân là quý mà ra ngoài là tiện. Vậy thì quý hay tiện do từ đâu? Do tâm tưởng tượng mà ra, nên nói tất cả đều từ thức tâm biến hiện, chứ không có thật. Chúng ta luôn cho mọi thứ là thật, chấp sai lầm nên không thấu được lẽ thật.

Biến kế sở chấp tánh là lối chấp sai lầm, do thấy lầm rồi khởi ra chấp trước. Y tha khởi tánh là phân biệt nơi các duyên khác mà phát ra. Viên thành thật tánh là tánh tròn sáng hoàn toàn chân thật, do xa lìa biến kế sở chấp và y tha khởi mà hiện. Như vậy, biến kế sở chấp là chấp sai lầm, y tha khởi là chấp theo nhân duyên, đến viên thành thật mới trở về chỗ chân thật viên mãn.

Ví dụ ban đêm trên đường có một đoạn dây nuộc nằm ngoằn ngoèo, vì không có đèn chúng ta nghĩ đó là con rắn nên hoảng sợ la lên bỏ chạy. Sợi dây mà tưởng lầm là con rắn. Cái hiểu biết này không đúng, tức là chấp sai lầm, gọi là biến kế sở chấp. Khi đốt đèn soi ra mới biết đó là sợi dâu. Sợi dây đó không tự có, mà do xơ dừa hoặc gai bố bện lại mà thành. Đây gọi là y tha khởi, tức là biết do nhân duyên mà tạo thành sợi dây. Biến kế và y tha là hai tánh còn ở trong chặng đường của phàm phu. Đến giai đoạn sau cùng là biết tất cả những nhân duyên hòa hợp mà thành đó cũng không thật, tánh nó là không, đó là viên thành thật hoàn toàn chân thật.

Hiện giờ chúng ta đang sống với cái nào? Biến kế sở chấp! Tại sao? Do vì chúng ta thường không thấy được chỗ duyên khởi, chỉ chấp sự vật một cách sai lầm. Tại sao chấp sai lầm? Vì mê tối. Như trong ví dụ kia, vì ban đêm nên sợi dây tưởng là con rắn. Ban đêm tượng trưng cho sự mê tối. Khi còn mê tối thì nhận lầm không đúng với lẽ thật, gọi là biến kế sở chấp.

Chúng ta nhận lầm một cách điên đảo về thân. Nói thân này là thân của mình, đó là nhận lầm, vì thân này là tứ đại hòa hợp, đâu có cái gì của mình. Lại mang một cái tên Nguyễn Văn Mít hay Nguyễn Thị Xoài gì đó, tự thấy tên đó là mình. Nếu ai động tới tên thì nổi sân si lên ngay. Như vậy thân này thực chất ra sao chúng ta không biết, chỉ biết bám vào những giả tướng, những ngôn ngữ hư dối, chấp làm thân mình.

Biến kế sở chấp làm chúng ta sống hết sức sai lầm. Ví dụ có người nói sẽ cho mình một thỏi vàng, nói hoài nhưng không cho, chúng ta sẽ đánh giá lời nói này là vô nghĩa, có ngữ mà không có nghĩa. Dù họ nói trăm ngàn lần, mình cũng cười thôi, biết lời nói đó không có giá trị. Nhưng ngược lại, nếu có người nói mình là con chó, có giận không? Người ta nói mình là con chó, mà có thành chó đâu. Lời kia chỉ có ngữ, không có nghĩa cũng là lời không giá trị. Vậy mà nếu ai nói mình là chó một lần thì giận ít, hai lần giận nhiều, tới mười lần thì giận hết cỡ.

Lời vô nghĩa dù nói một ngàn lần cũng là vô nghĩa, tại sao lại giận? Đây là biến kế sở chấp. Lời nói không có lẽ thật nhưng do chấp nên cứ giận nhau đùng đùng, mới thấy mình ngu si đáo để. Những ngôn ngữ người đời nói qua nói lại trong lúc cuồng dại nóng nảy đều là vô nghĩa. Vậy mà do chấp những lời đó rồi sân si với họ. Rõ ràng chúng ta đang sống trong sự lầm chấp, không có lẽ thật. Cái không đáng chấp mà chấp, thật quá dại khờ. Ba chặng đường mà chúng ta giậm chân hoài ở chặng số một, bước qua không nổi.

Kế đến, khi biết các pháp do nhân duyên sanh là đã tiến bộ hơn, có được một chút sáng suốt. Tuy nhiên cũng chưa tới nơi, chừng nào thấu suốt được duyên sanh này cũng không thật, lúc đó mới đi tới chỗ viên mãn chân thật. Như vậy lý Duy thức đưa chúng ta từ chỗ nhận định sai lầm đến lý nhân duyên, từ lý nhân duyên đến chỗ chân thật cứu cánh, gọi là viên thành thật, được vô sanh nhẫn.

24. Viên thông về kiến đại

Đại Thế Chí pháp vương tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng tu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng: 

– Con nhớ những kiếp xa xưa nhiều như số cát sông Hằng có đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Quang, tiếp tục có mười hai đức Như Lai ra đời trong một kiếp, đức Phật rốt sau hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, Ngài dạy con niệm Phật tam-muội.

Đức Phật Di-đà cũng gọi là Vô Lượng Thọ Phật hay Vô Lượng Quang Phật. Chữ “niệm” ở đây có nghĩa là nhớ. Niệm Phật tức là nhớ Phật. Mình nhớ Phật như đức Phật nhớ mình.

Ví như có hai người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên. Hai người như thế dù gặp nhau cũng như không gặp, dù thấy cũng như không thấy. Nếu hai người cùng nhớ nhau, cả hai nhớ nhau sâu đậm, như thế từ đời này cho đến đời khác, giống như hình với bóng không hề cách xa. Chư Như Lai mười phương thương xót nhớ nghĩ đến chúng sanh nhớ Phật niệm Phật thì hiện giờ và đời sau nhất định sẽ thấy Phật, cách Phật không xa, không nhờ phương tiện mà tự tâm được khai mở. Như người ướp hương, thân có mùi thơm. Đây gọi là dùng hương quang để trang nghiêm.

Bồ-tát Đại Thế Chí ứng dụng phương pháp nhớ Phật niệm Phật. Chư Phật không bao giờ bỏ chúng sanh, nhưng nếu chúng sanh bỏ Phật thì dù Phật có nhớ cũng không làm gì được. Cũng như mẹ thương con mà con bỏ mẹ thì mẹ không làm gì được. Trong pháp tu niệm Phật, phải luôn luôn có cảm ứng với nhau, sự tu mới có kết quả. Phật thương chúng sanh thì chúng sanh cũng phải thiết tha hướng về Phật. Cũng như thầy tổ thương mình, mình cũng thiết tha hướng về thầy tổ thì mọi việc mới kết quả tốt.

Phật không quên chúng sanh, chỉ là chúng sanh quên Phật. Có hai ông Phật, một ở trong và một ở ngoài. Chúng ta từ xưa bỏ quên ông Phật bên trong nên cho là mất Phật. Như chàng Diễn-nhã-đạt-đa ở đoạn trên, trong khi phát cuồng cho đầu mình là yêu quái, chạy lang thang đầu này đầu kia, nhưng cái đầu thật nào có giận mà bỏ đi. Nó vẫn nguyên vẹn ở đó, cho đến bao giờ Diễn-nhã-đạt-đa thức tỉnh hết cuồng, nhìn lại thấy đầu hiện còn không mất.

Khi chúng ta nhớ Phật, muốn trở về thì sớm muộn gì cũng gặp Phật. Niệm là nhớ, còn Phật là tánh giác. Niệm Phật tức là nhớ tánh giác vậy.

Bản nhân của con do tâm niệm Phật vào được vô sanh nhẫn. Nay ở thế giới này con nhiếp độ những người niệm Phật trở về cõi Tịnh độ. Phật hỏi về viên thông, con không có chọn lựa, đều do nhiếp sáu căn, niệm thanh tịnh liên tục được vào chánh định, đây là bậc nhất.

Chữ nhiếp là dẫn dắt. Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí là hai vị trợ hóa với đức Phật A-di-đà dẫn dắt những người niệm Phật về cõi Cực lạc. Phương pháp niệm Phật của Bồ-tát Đại Thế Chí là phải nhiếp cả sáu căn khiến cho niệm thanh tịnh liên tục không dừng, như vậy mới được vào chánh định. Vậy Bồ-tát Đại Thế Chí tu phương pháp gì? Ngài dùng niệm Phật tâm mà nhập vô sanh nhẫn. Niệm Phật tâm là niệm Phật của tự tâm chứ không niệm Phật bên ngoài. Giờ chúng ta có niệm Phật tâm không? Tuy mình không chủ trương niệm Phật, nhưng luôn nhớ tánh giác của mình là niệm Phật chứ gì!

25. Viên thông về nhĩ căn

Khi ấy Bồ-tát Quán Thế Âm liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, bạch Phật rằng:

– Bạch Thế Tôn, con nhớ thuở xưa vô số kiếp như cát sông Hằng, khi đó có đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm. Con ở chỗ đức Phật kia phát tâm Bồ-đề, đức Phật kia dạy con tu từ văn, tư, tu mà vào chánh định.

Nhân tu của Bồ-tát Quán Thế Âm là văn tư tu, gọi là Tam tuệ học. Đối với chúng sanh ở cõi Ta-bà, tất cả phương pháp tu hành đều không qua ba môn này. Người học đạo đều bắt đầu từ nghe, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp qua sách vở, đây gọi là Văn tuệ. Nghe rồi dùng trí tuệ suy xét thấu đáo, xem có hợp lý lẽ, đúng chân lý không rồi mới tin nhận, gọi là Tư tuệ. Khi thấu đúng liền đem ứng dụng tu, đó là Tu tuệ. Văn tư tu là ba điều thiết yếu, được đầy đủ mới đi đến công hạnh viên mãn. Ba môn này không những quan trọng đối với người học đạo mà cả thế gian.

Văn mà thiếu tư, nghe mà không suy xét sẽ đưa đến mê tín, thiếu tinh thần khoa học. Nếu cứ người xưa nói người nay làm, không biết nói trong trường hợp nào thì sự học không chín chắn. Người thấu đáo nói, mình nghe theo có thể tiến được, người không thấu đáo nói bướng, mình nghe theo rồi sau mang họa. Tu mà không học, không suy nghĩ kỹ, mười người dễ lầm hết chín, vì không biết đường mà cứ đi thì làm sao khỏi lạc. Người biết rõ đường ít khi bị lầm. Nếu văn tư đầy đủ mà không chịu ứng dụng thì chỉ là học suông.

Bồ-tát Quán Thế Âm trình chỗ tu nhân đưa đến kết quả giác ngộ giải thoát, có được ba mươi hai ứng thân. Chúng ta nếu muốn được như ngài thì phải tu tập theo đó.

Ban đầu ở trong tánh nghe, vào dòng rồi thì quên tiếng, chỗ vào đã lặng lẽ thì hai tướng động tịnh rõ ràng chẳng sanh. Như thế lần lần tăng lên, năng văn và sở văn đều hết. Không dừng ở chỗ hết năng văn sở văn mà tiến đến năng giác cũng không. Không giác tròn đầy cùng tột thì năng không và sở không đều diệt. Sanh diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền. Bỗng nhiên vượt khỏi thế gian và xuất thế gian, mười phương đều tròn sáng, được hai việc thù thắng. Một là trên hợp với tâm bản giác sâu mầu của chư Phật mười phương, cùng với chư Phật Như Lai đồng một sức từ. Hai là dưới hợp tất cả chúng sanh trong sáu đường ở khắp mười phương, cùng các chúng sanh đồng một bi ngưỡng.

Khi thấy trong kinh đức Phật khen ngợi pháp tu này hoặc ngài Văn-thù tán thán, nhiều người đã ứng dụng tu pháp này. Nhưng do không biết được cội nguồn sự tu nên có khi sanh ra bệnh hoạn hoặc tu mà không đạt kết quả gì.

Bồ-tát Quán Thế Âm, ban đầu ở trong tánh nghe, khi vào được dòng của tánh nghe (nhập lưu) thì quên các tiếng ở ngoài. Thói quen của mọi người là khi nghe liền chạy theo tiếng bên ngoài. Nay tu là không chạy theo tiếng mà nhớ lại tánh nghe. Ở đoạn trên đức Phật dạy phải lựa nhân không sanh diệt mà tu thì mới đạt được quả không sanh diệt, đó là nghĩa quyết định thứ nhất. Hiện nay ngay nơi tai mình có tánh nghe không sanh diệt, nếu sống trở về với nó gọi là nhập lưu. Khi sống với tánh nghe thuần thục thì không còn chạy theo tiếng nữa, lần lần quên các tiếng bên ngoài, gọi là vong sở. Sở là tiếng bị nghe, gọi là sở văn, còn hay nghe là tánh nghe, gọi là năng văn. Như vậy chỉ một chút này đã là vấn đề tu hành quan trọng rồi.

Khi tâm được lặng lẽ thì hai tướng động và tịnh (tức sở văn) chẳng sanh. Đây là chặng thứ nhất quên trần, không còn bị thanh trần ở ngoài quấy nhiễu nữa, chỉ còn một tánh nghe. Qua chặng thứ hai, như ở đoạn trước Phật đã nói, cái nghe này là một bộ phận nhỏ của tánh viên trạm bị dính khắn lại ở tai, chứ không phải là toàn bộ. Cho nên đến đây cũng phải phá vỡ năng văn và sở văn. Ở chặng một chỉ là quên tiếng, nhớ lại cái nghe, bây giờ cũng thoát luôn cái nghe đó (gọi là thoát niêm), không còn dính ở cái nghe nữa, tức được sáu căn đồng dùng.

Ngang đây cũng không dừng, cần tiến lên bước thứ ba là năng giác và sở giác đều không. Do thoát được cái dính ở căn, trí tuệ phát sáng, rõ được tánh giác. Rõ tánh giác tức có năng giác và sở giác, vẫn còn trong đối đãi giới hạn nên cũng chưa phải là cứu cánh. Năng giác và sở giác cũng phải đều không, đó là chuyển vị.

Cái không đó cũng không kẹt, thì năng không và sở không đều diệt. Đến đây tánh giác tròn đầy cùng tột trùm khắp mười phương, năng không và sở không diệt hết, trở về bản giác. Cuối cùng, khi tất cả cái sanh diệt không còn thì tướng tịch diệt hiện tiền, lặng lẽ thênh thang, vượt lên cả thế và xuất thế gian, mười phương tròn sáng viên mãn pháp thân. Đến đây trên đối với chư Phật thì luôn kính thờ, dưới đối với chúng sanh thì có lòng từ bi giống như chư Phật. Đó là tâm của người đạt đạo viên mãn.

Đoạn này hết sức hệ trọng mà người học Phật ít chịu học tới nơi. Do đó khi tu được chút ít liền tự mãn, khoe mình có thần thông, phép lạ. Đó đều là bệnh, chẳng tròn đủ mấy chặng đường như trên mới khỏi bị lỗi lạm xưng, tức là chưa chứng mà tưởng mình chứng. Người biết đạo rất dè dặt, chín chắn nhìn từng chặng đường tu hành của những vị Bồ-tát trước, xem mình đang đứng ở đâu, đã được cái gì. Biết rõ rồi mới khiêm tốn, còn không biết rõ nhiều khi tự hào tưởng mình đã tới nơi nên nói ra những lời quá đáng.

Có nhiều người tu lầm lẫn, ngồi quán tánh nghe hoặc nhớ cái nghe trong lỗ tai. Hậu quả là bị nặng đầu, ù tai, tim đập… Dồn tinh thần trở vào trong quá sức đều là bệnh. Lại có người quán tánh nghe trùm khắp mười phương, đó là tưởng, chẳng phải là phản văn. Những lối này đều sai, không phải pháp tu Phật dạy.

Đoạn trên, sau khi ngài A-nan thấy được ngôi nhà, tức thấy pháp thân trùm khắp mười phương, mới xin Phật chỉ cho cửa vào. Chúng sanh chưa thấy nhà mà muốn vào, đó là bệnh. Cho nên điều kiện số một khi muốn vào nhà là phải giác, tức là phải ngộ được pháp thân trùm khắp. Điều kiện thứ hai là nhận ra nơi mình có tánh nghe, tức là một phấn của tánh viên trạm chân thật đang gá ở tai. Sống với tánh nghe là trở về với tánh thật đang hiện hữu, chứ không phải ngó vô trong chăm chăm, cũng không phải ngó ra ngoài tưởng trùm khắp.

Pháp tu này là pháp tiến tới giác ngộ chứ không phải tầm thường. Chúng ta phải ứng dụng thấu đáo, biết được ngọn ngành mới khỏi bị lầm lẫn.

1. Ba mươi hai ứng thân

Bạch Thế Tôn, do con cúng dường đức Quán Âm Như Lai, nhờ đức Như Lai kia trao cho chon chánh định Kim cang như huyễn văn huân tu, cùng với Phật Như lai đồng một từ lực, khiến thân con thành ba mươi hai ứng thân vào các cõi nước.

Nhờ Phật chỉ dạy, Bồ-tát Quán Thế Âm tu trở về được với thể giác tròn sáng cùng tột mười phương, nên mới có diệu dụng ba mươi hai ứng thân, lấy lòng từ làm gốc, tùy loại chúng sanh mà giáo hóa không chướng ngại. Giả sử người nào có lòng từ mạnh mẽ, có đủ sức tự tại, khi cần làm Tăng giáo hóa thì làm Tăng, khi cần làm cư sĩ giáo hóa thì làm cư sĩ v.v… Như vậy ngay trong đời này cũng có thể tùy duyên ứng hiện theo sở thích của người để giáo hóa độ sanh.

Bạch Thế tôn, nếu các vị Bồ-tát vào chánh định, tiến tu vô lậu, thắng giải hiện được tròn đủ, con liền hiện thân Phật vì họ mà nói pháp khiến họ được giải thoát.

Nếu các Bồ-tát có khả năng tu hành vô lậu, thắng giải được viên mãn thì ngài liền hiện thân Phật thuyết pháp, khiến cho họ được giải thoát.

Nếu các hàng hữu học tâm lặng lẽ sáng suốt nhiệm mầu, chỗ thắng diệu hiện tròn đủ, con liền ở trước họ hiện thân Độc giác vì họ mà nói pháp khiến cho được giải thoát.

Nếu các hàng hữu học đoạn mười hai nhân duyên, do các duyên đã đoạn mà được thắng tánh, họ hiện thân Duyên giác vì họ nói pháp khiến cho được giải thoát.

Nếu các hàng hữu học được pháp không của Tứ đế, tu Đạo đế nhập được Diệt đế, thắng tánh hiển hiện tròn đủ, con liền ở trước họ hiện thân Thanh văn vì họ nói pháp khiến cho được giải thoát.

Nếu các hàng hữu học đoạn mười hai nhân duyên, do các duyên đã đoạn mà được thắng tánh, chỗ thắng diệu hiển hiện tròn đủ, con liền ở trước họ hiện thân Duyên giác vì họ nói pháp khiến cho được giải thoát.

Nếu các hàng hữu học đoạn mười hai nhân duyên, do các duyên đã đoạn mà được thắng tánh, chỗ thắng diệu hiển hiện trò đủ, con liền ở trước họ hiện thân Duyên giác vì họ nói pháp khiến cho được giải thoát.

Nếu các hàng hữu học được pháp không của Tứ đế, tu Đạo đế nhập được Diệt đế, thắng tánh hiển hiện tròn đủ, con liền ở trước họ hiện thân Thanh văn vì họ nói pháp khiến cho được giải thoát.

Quán Tứ đế đến chỗ không còn chấp nữa gọi là dược không của Tứ đế.

Nếu các chúng sanh muốn tâm được sáng suốt giác ngộ, không phạm những dục trần, muốn thân được thanh tịnh, con liền ở trước họ hiện thân Phạm vương vì họ nói pháp khiến cho được giải thoát.

Thông thường, do tu hạnh thanh tịnh không ưa dục, được sanh lên cõi trời Phạm thiên. Phạm vương hay Đại Phạm thiên là vị trời ở tầng ba thuộc Sơ thiền hay cõi Sắc.

Nếu các chúng sanh muốn làm Thiên chủ để thống lãnh chư thiên, con liền ở trước họ hiện thân Đế-thích vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu các chúng sanh muốn thân tự tại dạo đi khắp mười phương, con liền ở trước họ hiện thân trời Tự Tại vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu các chúng sanh muốn thân tự tại, bay đi trong hư không, con liền ở trước họ hiện thân trời Đại Tự Tại, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu các chúng sanh ưa thống lãnh quỷ thần, cứu hộ cõi nước, con liền ở trước họ hiện thân Thiên đại tướng quân vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu các chúng sanh ưa thống lãnh thế giới, bảo hộ chúng sanh, con liền ở trước họ hiện thân Tứ thiên vương, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu các chúng sanh ưa sanh ở thiên cung, sao sử quỷ thần, con liền ở trước họ hiện thân thái tử cõi Tứ thiên vương, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu các chúng sanh ưa làm vua cõi người, con ở trước họ hiện thân vua vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu các chúng sanh ưa làm chủ gia tộc lớn, được người đời kính nhường, con ở trước họ hiện thân trưởng giả vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu các chúng sanh ưa bàn nói những lời hay, tự ở yên thanh tịnh, con ở trước họ hiện thân cư sĩ vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu các chúng sanh ưa trị nước, phân chia các bang các ấp, con ở trước họ hiện thân tể quan vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu các chúng sanh ưa các số thuật, ở yên gìn giữ Vệ-đà, con ở trước họ hiện thân Bà-la-môn vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có người nam ưa học hạnh xuất gia, giữ các giới luật, con ở trước họ hiện thân Tỳ-kheo vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có người nữ muốn học hạnh xuất gia, giữ gìn các cấm giới, con ở trước họ hiện thân Tỳ-kheo-ni vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có người nam ưa giữ năm giới, con ở trước họ hiện thân ưu-bà-tắc vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có người nữ tự giữ gìn năm giới, con ở trước họ hiện thân ưu-bà-di vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có người nữ lập thân trong nội chính để sửa trị nước nhà, con ở trước họ hiện thân nữ chúa hoặc quốc phu nhân, mệnh phụ, người giàu có, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có chúng sanh không hoại nam căn, con ở trước họ hiện thân đồng nam vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có người nữ trinh bạch ưa giữ thân trong sạch, chẳng muốn người xâm phạm, con ở trước họ hiện thân đồng nữ vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có chư thiên muốn ra khỏi loài trời, con liền hiện thân trời vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có các loài rồng muốn thoát khỏi loài rồng, con liền hiện thân rồng vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có các dược-xoa thoát khỏi gốc dược-xoa, con ở trước họ hiện thân dược-xoa vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có càn-thát-bà muốn ra khỏi dòng càn-thát-bà, con ở trước họ hiện thân càn-thát-bà vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có a-tu-la muốn ra khỏi loài a-tu-la, con ở trước họ hiện thân a-tu-la vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có các khẩn-na-la muốn ra khỏi loài khẩn-na-la, con liền ở trước họ hiện thân khẩn-na-la, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có các ma-hô-la-già muốn ra khỏi loài ma-hô-la-già, con ở trước họ hiện thân ma-hô-la-già, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có các chúng sanh muốn làm người, tu hành để được làm người, con ở trước họ hiện thân người vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có các chúng sanh muốn làm người, tu hành để được làm người, con ở trước họ hiện thân người vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Nếu có phi nhân có hình, không hình, có tưởng, không tưởng muốn ra khỏi loài của họ, con ở trước họ hiện các thân kia, vì họ nói pháp khiến cho được thành tựu.

Ấy gọi là ba mươi hai ứng thân thanh tịnh nhiệm mầu, vào trong các cõi nước, đều do chánh định Văn huân văn tu, sức mầu vô tác, thành tựu tự tại.

Sở dĩ Bồ-tát Quán Thế Âm được ba mươi hai ứng thân, tùy loại ứng hiện giáo hóa chúng sanh là do ngài tu ba hạnh Văn Tư Tu. Từ đó vào được chánh định nên có hiệu dụng tự tại như vậy.

Chúng ta học kinh mới thấy các chặng đường tu học đều được chỉ dạy tường tận, đi từ thấp đến cao. Học kinh Lăng-nghiêm chủ yếu là phải biết điều căn bản: nhân tu khế hợp với quả chứng. Muốn tu quả vô sanh thì phải chọn nhân vô sanh. Khi nói “phản văn tự tánh” nghĩa là phải nhận ra nhân vô sanh ở tai. Từ nhân vô sanh đó tiến lần lên, cho đến khi thoát khỏi các dính khắn của nhân đó thì mới được thấu suốt.

Cũng như khi tu biết vọng thì không phải chỉ biết vọng là đủ. Vọng tưởng tức là pháp trần, là sở, còn cái hay biết là năng. Không theo vọng tưởng, nhưng cái hay biết đó cũng còn là cái vô sanh đang bị dính khắn chứ chưa tròn đầy.

Hạnh tu của đức Quán Âm rõ ràng ứng hợp với mười mục chăn trâu trong nhà thiền. Người ứng dụng tu phản văn này đã thấy được pháp thân, nên không còn những mục ban đầu Tìm trâu, Thấy dấu, Mới chăn v.v…

– Trâu đã hết lung lăng nên chỗ đầu tiên ở đây là nhập lưu, vong sở (vào dòng rồi thì quên tiếng), sở đó là trâu, tương đương mục thứ sáu là Quên trâu.

– Quên trâu nhưng còn chăn, là mục thứ bảy.

– Đến giai đoạn kế, trâu và chăn không còn tức là năng văn và sở văn đều hết, năng giác sở giác đều không, là mục thứ tám, cái vòng tròn không.

– Cái không đó cũng phải vượt qua nữa. Đến sanh diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền, vượt khỏi thế gian và xuất thế gian, mười phương đều tròn sáng là nhập Phật quốc, thể nhập pháp thân, tức mục thứ chín.

– Rốt sau, trên đồng sức từ, dưới đồng một lòng bi ngưỡng, tức là mục thứ mười, xách con cá chép, bầu rượu đi vào trần lao. Ở đây Bồ-tát ứng thân chỗ này chỗ kia, hoặc những vị ngộ đạo được đại từ đại bi có thể làm đủ các hạnh, bửa củi gánh nước đều là ứng thân để giáo hóa chúng sanh.

Như vậy, tu hành thứ lớp rất rõ ràng chứ không phải chuyện mơ màng. Hiểu thấu đáo thì tu không sai lệch, bằng không dễ bị lầm lạc. Có khi tu lầm không biết lại tưởng là đắc đạo. Tự mình lầm còn có thể, làm lầm người khác là họa lớn, cho nên phải dè dặt.

Kiểm qua hai mươi lăm vị Bồ-tát và A-la-hán, mỗi vị đều có nhân tu riêng, từ ban đầu phát tâm tu, dần dần tiến lên thành Bồ-tát hay A-la-hán. Tuy từ chúng sanh tiến tới Phật lâu xa, nhưng nếu chúng ta gieo nhân nào thì từ từ quả sẽ đến, chứ không đi đường khác. Đó là một nguồn an ủi lớn lao cho chúng ta, vì nếu tu mà không biết đời sau có còn tiếp tục tu được nữa không, điều đó sẽ làm mình hoang mang lo lắng.

2. Mười bốn công đức vô úy

Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa có nói đến mười bốn thứ công đức vô úy nhưng không giải thích. Kinh Lăng-nghiêm này Bồ-tát Quán Thế Âm giải thích rõ ràng từng phần.

Bạch Thế Tôn, lại con do sức mầu vô tác của chánh định Kim cang văn huân văn tu này, cùng với mười phương ba đời tất cả chúng sanh trong sáu đường đồng một  bi ngưỡng, khiến các chúng sanh ở nơi thân tâm con được mười bốn thứ công đức vô úy.

Văn huân là huân tập ở tánh nghe, văn tu là tu tập tánh nghe, do đây mà được chánh định vững chắc như kim cang và có sức mầu nhiệm không do tạo tác mà được. Do Bồ-tát tu phản văn tự tánh thành tựu nên đối với chúng sanh trong lục đạo đồng một bi ngưỡng, tức là lòng hâm mộ kính thờ. Do vậy chúng sanh ở nơi thân tâm ngài được mười bốn công đức không sợ sệt.

Một là, do con không tự quán âm thanh mà dùng quán để quán trở lại tánh nghe của mình, khiến cho những chúng sanh khổ não trong mười phương kia quán âm thanh liền được giải thoát.

Sở dĩ Bồ-tát có được diệu dụng khi chúng sanh khổ não, là do ngài không đuổi theo âm thanh mà xoay lại tánh nghe, nhớ mình đang nghe.

Thói quen của chúng ta, nghe là đuổi theo âm thanh. Nay tu là nghe tất cả âm thanh mà không đuổi theo tiếng, chỉ nhớ mình đang nghe. Người ta nói gì làm gì, động tịnh gì ở ngoài cũng mặc, nghe tất cả nhưng không chú ý, chỉ nhớ mình đang nghe. Đuổi theo tiếng bên ngoài gọi là chạy theo thanh trần, còn nhớ mình có cái đang nghe gọi là phản văn, là nghe trở lại.

Chúng sanh khổ não là vì đuổi theo trần cảnh ở ngoài. Nay không đuổi theo trần cảnh nữa mà luôn xoay lại thì mọi khổ não liền hết. Cho nên những chúng sanh khổ não kia nếu biết quán âm thanh liền được giải thoát. Quán âm thanh là nhớ lại tánh nghe của mình. Như vậy cùng nghe tiếng mà một bên giải thoát, còn một bên trầm luân.

Ví dụ có người nói nặng mình, mình nhớ cái đang nghe, họ nói gì mặc kệ, không chú ý lời đó, thì tuy có nghe mà không giận. Bởi không giận nên trở về tánh thanh tịnh, gọi là giải thoát. Trái lại, nghe nói nặng liền phân biệt suy nghĩ rồi nổi sân lên, đó là chạy theo tiếng, đưa tới sân hận là nhân trầm luân. Như vậy cùng một cái nghe mà đuổi theo tiếng thì làm chúng sanh khổ não, còn biết quán lại tánh nghe liền được giải thoát. Khác nhau ở chỗ biết tu hay không biết tu.

Nếu hướng về nội tâm mà nói, những chúng sanh khổ não này là những chúng sanh vọng tưởng. Khi không chạy theo trần cảnh, trở về với chân tánh thì các vọng tưởng sanh diệt nhiều vô số liền tự mất, tức được giải thoát.

Hai là, do con xoay thấy biết trở lại, khiến các chúng sanh dù vào trong lửa lớn, lửa cũng không thể đốt cháy.

Ngài tu hạnh xoay hiểu biết trở về tự tánh, không chạy theo các trần ở ngoài. Tánh thấy tánh nghe không có tướng mạo cho nên lửa không thể đốt cháy. Vì vậy chúng sanh nào gặp lửa lớn muốn không bị hại, niệm danh hiệu ngài thì lửa không thể đốt.

Thân chúng ta là tướng tứ đại, còn lửa là tướng lửa, nên tướng lửa đốt tướng tứ đại. Nếu xoay hiểu biết trở về tự tánh thì trong Như Lai tạng, tánh lửa là chân không, tánh không là thật lửa, thanh tịnh bản nhiên, khắp giáp cả pháp giới. Tánh tứ đại đều là chân không nên không lấn đoạt nhau mà trùm khắp mười phương, không cái nào xâm hại cái nào.

Ba là, do con quán cái nghe xoay trở lại tánh nghe, khiến các chúng sanh bị nước lớn cuốn trôi, nước không thể làm chìm.

Chúng sanh trôi trên mặt nước mà nước không làm chìm. Như vậy lửa lớn không đốt cháy được, nước lớn không làm chìm được, đó đều do xoay cái nghe, xoay cái thấy biết trở lại thể tánh của nó, cho nên mọi thứ lửa nước bên ngoài đều không hại được.

Bốn là, do con đoạn diệt các vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến cho chúng sanh vào trong các nước quỷ, quỷ cũng không thể hại.

Nếu dứt vọng tưởng thì quỷ không thể phá. Giả sử ban đêm chúng ta đi trên đoạn đường vắng, nhớ lại người ta đồn ở đây có ma, liền tưởng tượng ra con ma rồi hoảng sợ bỏ chạy. Như vậy mọi sợ hãi về ma quỷ gốc từ vọng tưởng mà ra. Tưởng ma nên sợ ma, không tưởng thì không sợ. Dẹp hết vọng tưởng thì ma quỷ làm sao hại mình được.

Khi dẹp hết vọng tưởng, tâm không còn niệm sát hại ai, nhân không còn thì quả không có, nên dù đến những nước ma quỷ cũng không bị hại. Chúng ta phải niệm Bồ-tát Quán Thế Âm theo đúng chỗ tu nhân của ngài, tức xoay sáu căn trở về tự tánh, sống với Như Lai tạng tánh. Đây à ý căn bản của kinh. Không nên chấp theo ngôn ngữ, niệm suông danh hiệu ngài, mà cần phải tu theo nhân tu của ngài mới có hiệu dụng.

Năm là, do con huân cái nghe thành tựu tánh nghe, sáu căn đều được tiêu dung, đồng với tiếng về cái nghe, hay khiến cho chúng sanh đang khi bị hại, đao kiếm kia gãy từng đoạn, hoặc khiến cho binh khí của kẻ hại như chặt dưới nước, cũng như thổi ánh sáng, tánh nghe không dao động.

Bồ-tát huân cái nghe trở về bản tánh thành tựu rồi thì những căn kia cũng tiêu dung như vậy, nên nói cũng đồng như tiếng và cái nghe. Do thoát được niêm hay dính khắn của sáu căn nên không bị sắc thanh hương vị xúc pháp làm rối loạn hay lôi kéo nữa. Vì vậy chúng sanh niệm tới danh hiệu ngài thì đao kiếm muốn hại họ sẽ gãy từng đoạn, và nếu có chặt hay chém thì cũng như chặt chém xuống nước, hoặc giống như thổi ánh sáng, chẳng xao động chút nào. Như vậy kết quả của người niệm danh hiệu Bồ-tát là quả thừa do công tu của ngài một căn thành tựu, sáu căn đều tiêu dung.

Sáu là, do con huân tánh nghe được thuần thục sáng suốt, sáng khắp cả pháp giới thì các tối tăm không thể còn. Hay khiến cho chúng sanh, các loài quỷ dược-xoa, la-sát, cưu-bàn-trà, tỳ-xá-giá, phú-đơn-na v.v… tuy ở gần bên cạnh mà mắt chúng không thể xem thấy.

Khi trở về được tánh nghe hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt trùm khắp pháp giới, thì ma quỷ là những loài u tối, không hợp với cái sáng nên không thể thấy, không làm hại được.

Bảy là, do các âm thanh hoàn toàn tiêu hết, quán cái nghe xoay trở vào, lìa các trần cảnh hư vọng, hay khiến cho chúng sanh, gông cùm xiềng xích không thể trói buộc.

Do vì Bồ-tát Quán Thế Âm biết tiêu dung hết những âm thanh bên ngoài, trở về tánh nghe sáng suốt, không bị ngoại cảnh hay sáu trần chi phối, nên người bị xiềng xích gông cùm niệm danh hiệu ngài thì tức có khả năng thoát khỏi các trần cảnh, nên hay khiến cho chúng sanh không còn bị cùm chân hay trói tay gì nữa.

Tám là, do con diệt các âm thanh ở ngoài, tánh nghe được tròn đầy nên phát sanh sức từ cùng khắp, hay khiến cho chúng sanh khi đi qua những con đường hiểm giặc không thể cướp.

Đây là công tu diệt hết các thanh trần ở ngoài, trở về với tánh nghe tròn đủ, lúc đó mới sanh ra từ lực cùng khắp. Nhờ vậy nên chúng sanh đi qua đường hiểm gặp giặc cướp cũng không bị chúng làm hại.

Chín là, do con huân cái nghe lìa các trần, không bị sắc trần cướp hại, hay khiến cho tất cả chúng sanh có nhiều dâm dục xa lìa tham dục.

Sở dĩ bị dâm dục lôi cuốn là vì chạy theo sắc bên ngoài. Nay Bồ-tát đã lìa được các trần nên sắc trần không còn cướp hại được. Vì vậy những người có tâm tham dâm muốn xa lìa nó, niệm danh hiệu ngài thì liền được xa lìa.

Mười là, do con thuần thục được các âm thanh không theo trần cảnh, căn và cảnh viên dung không còn năng đối sở đối, hay khiến cho tất cả chúng sanh sân giận xa lìa được các nóng giận.

Bồ-tát do đối với âm thanh đã được thuần thục nên không còn dính mắc các trần cảnh. Căn và trần đã viên dung thì không còn hai bên năng và sở đối đãi. Công năng tu hành của Bồ-tát ảnh hưởng tới chúng sanh ở bên ngoài, do đó những chúng sanh nào hay nóng giận, niệm danh hiệu ngài liền lìa được nóng giận.

Thường chúng ta hay nóng giận là tại sao? Vì thấy có đối tượng dễ ghét, dễ bực. Nếu không còn đối tượng để cho mình giận ghét thì còn gì nóng giận. Còn năng và sở đối đãi thì còn sân hận, nếu dung được mình và người không hai thì tâm sân không thể sanh. Ví dụ như có lúc chúng ta làm điều quấy, khi bình tâm lại giật mình hối hận, tự trách mình ngu si, sao lại làm những việc đáng chê trách như vậy. Mình tự rầy mình nên không giận những lời rầy mắng đó. Nên nói khi căn và cảnh viên dung, năng sở đối đãi không còn thì tâm sân hận không còn.

Mười một là, do con tiêu hết các trần, xoay về tánh giác tròn sáng nên thân tâm và pháp giới đều như lưu ly sáng suốt không chướng ngại, hay khiến cho tất cả những kẻ ngu tối ám chướng xa lìa được sự si mê tăm tối.

Do Bồ-tát tu thuần thục rồi, không còn dính mắc nơi trần cảnh, trở về tánh giác sáng suốt, nên thân tâm cùng cả pháp giới đều rỗng suốt như lưu ly, có công năng khiến những kẻ bị si mê nghiệp chướng che đậy nhưng vừa niệm danh hiệu ngài, si mê ám chướng liền tiêu tan.

Mười hai là, do con tiêu dung các hình tướng, trở về tánh nghe, không rời khỏi đạo tràng mà lẫn vào trong thế gian nhưng không làm hoại thế giới, cúng dường chư Phật Như Lai ở khắp mười phương như số vi trần, gần bên mỗi đức Phật làm Pháp vương tử, hay khiến cho những chúng sanh không có con ở trong pháp giới muốn cầu con trai liền sanh được con trai có phước đức trí tuệ.

Do tiêu dung tất cả các hình tướng đối đãi, tâm rỗng suốt không còn bị chướng ngại bởi sắc tướng, nên Bồ-tát có thể vào tất cả thế giới mà không làm hoại thế giới. Thông thường muốn đi vào các thế giới phải rời đạo tràng, đây không cần rời đạo tràng mà cũng có thể đi vào trong thế gian được. Lại cúng dường chư Như Lai khắp mười phương như số vi trần, ở bên mỗi đức Phật làm con của đấng Pháp vương, nên hay khiến cho những chúng sanh không con muốn cầu con trai liền sanh con trai đầy đủ phước đức, trí tuệ.

Mười ba là, do sáu cắn được viên thông, soi sáng không hai, trùm cả mười phương thế giới, lập thành Đại viên cảnh Không Như Lai tạng, vâng theo pháp môn bí mật của Như Lai ở mười phương như số vi trần, nhận lãnh không thiếu sót, hay khiến những chúng sanh không con trong pháp giới muốn cầu con gái liền sanh được con gái, có tướng tốt đoan chánh phước đức nhu thuận, mọi người đều yêu kính.

Bồ-tát áp dụng phương pháp tu sáu căn viên thông không còn ngăn ngại, mình chỉ cho thể tịch và chiếu không hai, thấy mười phương thế giới đều ở trong Đại viên cảnh trí hay Không Như Lai tạng tức kho Như Lai trống rỗng, tuy thể không mà hàm dung tất cả. Ngài thuận theo những pháp môn bí mật của tất cả mười phương Như Lai. Do tánh tùy thuận đó mà người nào muốn cầu con gái thì sanh được con gái đoan chánh dịu dàng…

Mười bốn là, trong tam thiên đại thiên thế giới này có trăm ức mặt trời mặt trăng, có những vị pháp vương tử hiện ở thế gian, nhiều như số cát sáu mươi hai sông Hằng, tu theo Phật pháp, làm gương mẫu để giáo hóa chúng sanh, tùy thuận chúng sanh, phương tiện và trí tuệ mỗi vị không đồng nhau. Do con được bản căn viên thông, phát ra tánh nhiệm mầu của nhĩ căn, về sau thân tâm nhiệm mầu dung chứa khắp cả pháp giới, hay khiến cho chúng sanh trì danh hiệu con, với người trì danh hiệu tất cả các vị Pháp vương tử nhiều như số cát sáu mươi hai sông Hằng kia, hai người đó phước đức bằng nhau không khác.

c. Bốn Đức Vô Tác

Bạch Thế Tôn, do con được viên thông, tu chứng đạo Vô thượng, lại khéo được bốn đức vô tác nhiệm mầu không thể nghĩ bàn.

Một là, ban đầu do con đạt được tâm nghe rất mầu nhiệm, tâm đó tinh thuần, bỏ cái nghe; thấy nghe hiểu biết không còn phân cách, thành một Bảo giác thanh tịnh viên dung.

Chúng ta khi nghe thường chạy theo trần, bỏ quên tánh nghe. Còn ngài, tâm nghe được nhiệm mầu, đến chỗ tinh ba sáng suốt thì bỏ cái nghe, đó gọi là thoát niêm.

Có hai chặng đường khi tu chúng ta hay bị mắc kẹt:

– Chặng thứ nhất, phàm phu cứ chạy đuổi theo các trần, nghĩa là tai đuổi theo thanh trần, mắt theo sắc trần… Nay Phật dạy phải phản quan, nghĩa là đừng chạy theo thanh sắc bên ngoài nữa mà trở về tánh nghe tánh thấy của mình. Sống bằng tánh nghe tánh thấy tức là khi nghe tiếng không chạy theo tiếng mà nhớ mình đang nghe, khi thấy cảnh không chạy theo cảnh mà nhớ mình đang thấy. Nhớ cái đang nghe đang thấy của mình hiện hữu, gọi là trở về tánh nghe tánh thấy, quên hết các trần cảnh bên ngoài.

Đây là một bước tiến vượt bậc, nhưng tánh biết không sanh diệt vẫn còn bị dính khắn ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, còn riêng từng bộ phận chứ chưa phải là thể chung.

– Chặng thứ hai là gỡ cái dính khắn đó, tức trở về bản tâm sáng suốt, không bị dính khắn bởi thấy nghe hiểu biết riêng nữa, mà chỉ còn một tánh giác chung. Tánh giác chung đó gọi là Bảo giác thanh tịnh viên dung. Lúc này sáu căn hỗ dụng, có thể sử dụng chung với nhau chứ không còn riêng rẽ nữa. Đây là đến chỗ thâm nhập sâu xa của người đạt đạo.

Cho nên con có thể hiện ra rất nhiều hình dung nhiệm mầu, hay nói vô số thần chú bí mật. Trong ấy hoặc hiện một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười một đầu, như thế cho đến một trăm lẻ tám đầu, ngàn đầu muôn đầu, tám muôn bốn ngàn đầu kiên cố. Hoặc hai tay, mười bốn, mười sáu, mười tám, hai mươi, cho đến hai mươi bốn tay, như thế nhẫn đến một trăm lẻ tám tay, ngàn tay muôn tay, tám muôn bốn ngàn tay bắt ấn. Hoặc hai mắt, ba mắt, bốn mắt, một ngàn mắt, một muôn mắt, tám muôn bốn ngàn mắt báu thanh tịnh. Hoặc hiện từ, hoặc uy, hoặc định, hoặc tuệ, để cứu hộ chúng sanh được đại tự tại.

Bồ-tát Quán Thế Âm hiện nhiều đầu, nhiều mắt, nhiều tay để cứu độ chúng sanh khỏi những khổ ách đau đớn, đều được tự tại. Ngài hiện được như vậy do vì đã thoát được cái niêm của sáu căn, trở về tánh giác hay là bảo giác, có đầy đủ diệu dụng. Trong bài chú Đại Bi, câu mở đầu là “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi”, tức ngàn tay ngàn mắt, tất cả chỗ đều là tay là mắt. Đây là ý nghĩa thoát được cái niêm của sáu căn, toàn thân là giác.

Bồ-tát đã viên dung được sáu căn, không còn phân cách riêng rẽ nữa, cho nên tùy ý muốn mà hiện, tự tại vô ngại. Còn chúng ta hiện nay bị ngại là do không biết trở về với tánh thấy tánh nghe, cứ chạy theo trần, bị cột dính trong đó nên không được vô ngại. Như vậy tay, mắt, đầu của ngài nhiều vô số là để nói lên tánh giác viên dung không chướng ngại. Ở đâu cũng là tánh giác, ở đâu cũng là mắt là tay.

Trong nhà thiền có câu chuyện. Thiền sư Đạo Ngô Viên Trí hỏi thiền sư Vân Nham Đàm Thạnh:

– Đức Đại Bi ngàn tay ngàn mắt, con mắt nào là mắt chánh?

Sư Vân Nham đáp:

– Như ban đêm người vói tay lại sau mò chiếc gối.

Sư Đạo Ngô nói:

– Tôi hội rồi!

Quý vị hội chưa? Ngàn tay ngàn mắt để làm gì? Tay nào chánh? Mắt nào chánh? Tay thì có cảm giác, mắt thì thấy, cả hai đều biết. Ban ngày chúng ta mở mắt thì thấy cái gối, trong đêm tối mình vói tay lại phía sau, cũng biết cái gối ở chỗ nào để lấy. Vậy tay có thấy không? Nếu không thì sao biết để lấy cái gối? Như vậy nói nhiều tay nhiều mắt để tượng trưng rằng khi tu tới chỗ thoát sự dính khắn của sáu căn, lúc đó khắp thân đều là tai mắt, đều giác biết, chứ không phải chỉ có một phần nơi đầu mới giác biết. Nơi thân chỗ nào cũng giác, chỗ nào cũng tri. Đây là diệu dụng toàn phần chứ không phải một bộ phận hay cục bộ nữa.

Hai là, do cái nghe và suy nghĩ của con thoát khỏi sáu trần, như tiếng qua tường vách không bị chướng ngại, nên con khéo hay hiện mỗi mỗi thân hình, tụng mỗi mỗi chú. Hình kia chú kia hay dùng sức vô úy bố thí cho các chúng sanh. Thế nên cõi nước ở mười phương như số vi trần, đều gọi con là người bố thí vô úy.

Bồ-tát do cái nghe, suy nghĩ đã thoát khỏi sáu trần, nên trùm khắp không chướng ngại. Ngài hiện ra nhiều thân, tụng các thần chú là vì muốn bố thí vô úy để cứu độ chúng sanh. Vì vậy chúng sanh ở nhiều cõi đều tán thán, gọi ngài là Người bố thí vô úy.

Ba là, do con tu tập bản căn (nhĩ căn) thanh trần vốn mầu nhiệm viên thông, nên dạo đi trong thế giới nào, điều khiến chúng sanh xả trân bảo nơi thân để cầu con thương xót.

Trong kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn, khi Bồ-tát Quán Thế Âm kể những diệu dụng của ngài cho Phật và chúng Bồ-tát nghe rồi, Bồ-tát Vô Tận Ý liền cởi xâu chuỗi anh lạc cúng dường, xin ngài Quán Thế Âm thương xót mà nhận cho. Do Bồ-tát Quán Thế Âm tu tập đến được chỗ diệu viên thông, tức trở về tánh viên trạm, nhĩ căn được thanh tịnh, nên ngài dạo đi trong các thế giới không có gì chướng ngại, hay cảm được những chúng sanh nào gặp ngài, thường đem của báu nơi thân cúng dường, cầu xin thương xót.

Bốn là, con được tâm Phật chứng được cứu cánh, hay dùng các thứ trân bảo cúng dường chư Như Lai ở mười phương, cả đến những chúng sanh trong sáu đường ở khắp pháp giới, nếu cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu chánh định được chánh định, cầu sống lâu được sống lâu, như thế cho đến cầu Đại Niết-bàn được Đại Niết-bàn.

Bồ-tát Quán Thế Âm có hạnh tu, hạnh nguyện thường đem trân bảo cúng dường chư Như Lai. Như khi ngài Vô Tận Ý cúng dường chuỗi anh lạc, ngài đem chia hai: phân nửa cúng dường đức Phật Thích-ca, phân nửa cúng dường tháp Phật Đa Bảo. Do hạnh nguyện của ngài như vậy, cảm đến những người chung quanh đều được hưởng phước theo. Nên những chúng sanh niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì cầu gì được nấy. Tu là nhân, đạt được diệu dụng là quả. Công tu thế nào thì quả chứng cũng tương ưng theo đó, do công ngài tu như vậy nên đưa tới kết quả như sở nguyện.

Chúng ta đọc trong kinh thấy nói cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái v.v… Dễ quá! Nhưng đây là diệu dụng của ngài, ân đức của ngài phụ trợ cho mình. Nếu chúng ta không chịu tập theo hạnh, y theo pháp của ngài mà tu, chỉ cầu suông phước thừa, đợi ơn huệ của Bồ-tát thì không bảo đảm.

Cầu vợ con được như sở cầu thì còn dễ tin, nhưng cầu Đại Niết-bàn được Đại Niết-bàn thì thế nào? Bây giờ mình niệm Bồ-tát Quán Thế Âm cầu Đại Niết-bàn có được không? Nếu niệm đến nhất tâm bấn loạn thì chắc chắn sẽ được.

Phật hỏi về viên thông, con từ nơi nhĩ căn được chánh định chiếu soi tròn đầy, duyên tâm tự tại, nhân tướng nhập lưu mà được chánh định, thành tựu quả Bồ-đề, đây là bậc nhất.

Bồ-tát Quán Thế Âm được viên thông từ nhĩ căn. Từ nhĩ căn, ngài nhập lưu rồi vào được chánh định, đây là bậc nhất vậy.

Bạch Thế Tôn, đức Phật kia (đức Phật Quán Thế Âm) khen ngợi con khéo được pháp môn viên thông, ở trong đại hội thọ ký cho con hiệu là Quán Thế Âm. Do con quán tánh nghe tròn sáng khắp mười phương, nên danh Quán Âm cũng khắp cả thế giới mười phương.

Đây nói về diệu dụng Bồ-tát đã đạt được từ của nghe. Từ cửa nghe, do không chạy theo tiếng, ngài trở về dòng bất sanh bất diệt của căn tai. Rồi sau thoát luôn cái giới hạn của căn mà đi thẳng vào tánh giác sáng suốt trùm khắp cả thế giới mười phương.

Như vậy, qua hai mươi lăm vị thánh, mỗi vị trình bày chỗ ngộ của mình. Các ngài chứng ngộ từ sáu căn, sáu trần, sáu thức và bảy đại. Mỗi vị tu chứng từ mỗi căn cảnh riêng biệt.

V. CHỈ PHÁP VIÊN TU

1. Phóng quang hiện điềm lành

Khi ấy đức Thế Tôn nơi tòa sư tử, từ năm vóc của ngài đồng phóng hào quang báu, xa rọi đến trên đảnh chư Như Lai mười phương nhiều như số vi trần và trên đảnh các vị Pháp vương tử, các vị Bồ-tát. Chư Phật kia cũng từ năm vóc đồng phóng hào quang báu, từ các cõi nước như vi trần kia rọi đến trên đảnh Phật cùng rọi trên đảnh những vị đại Bồ-tát và A-la-hán trong chúng hội. Rừng cây, ao hồ đều diễn nói pháp. Hào quang xen lẫn nhau như lưới tơ báu. Các đại chúng nơi đây được điều chưa từng có, tất cả đều được Kim cang tam-muội.

Liền khi đó trời mưa hoa sen trăm báu, màu xanh vàng đỏ trắng xen lẫn nhau, hư không mười phương thành sắc bảy báu. Thế giới Ta-bà này: đất liền, núi sông đều đồng thời chẳng hiện, chỉ thấy có các cõi nước mười phương như số vi trần hợp thành một thế giới. Những tiếng ca hát chúc tụng tự nhiên cất lên.

Từ đầu kinh tới đây, Phật đã phóng quang:

– Lần thứ nhất ở cửa mặt, tức giữa hai chân mày, tượng trưng cho trí tuệ, khi ngài sắp chỉ tánh thấy.

– Lần thứ hai từ chữ Vạn trên ngực, tượng trưng cho Như Lai tạng tâm, soi rọi khắp cả chư Phật, chỉ cho tâm thể trùm khắp.

– Lần thứ ba, chư Phật mười phương phóng quang từ đảnh đầu, đồng nói: sáu căn là gốc sanh tử, cũng là gốc Bồ-đề.

– Lần thứ tư, Phật phóng quang từ năm vóc (đầu, hai tay và hai chân), tức phóng quang toàn bộ. Trước kia là phóng quang bộ phận: ở cửa mặt, hoặc ở ngực, trên đảnh; còn đây là phóng quang toàn bộ, tức sắp nói pháp viên thông. Hào quang của chư Phật bên này phóng qua, bên kia phóng lại xen lẫn nhau như lưới tơ báu sáng rỡ, là điều mà đại chúng chưa từng thấy, và mọi người đều được chánh định cứng chắc như kim cương.

Từ trời, mưa rơi các hoa sen đủ màu, khắp mười phương đều là hình sắc bảy báu. Những lời ca, tán tụng trong trẻo tự nhiên phát ra vang rền, không phải do dụng công sức. Thật là một cảnh tượng huy hoàng! Cảnh tượng đó cho thấy khi đến chỗ viên thông rồi, không còn chướng ngại nhau, đồng một trí tuệ không khác. Chỗ cứu cánh của sự tu hành kế đây sẽ được chọn lựa, cũng là chỗ mà chư Phật chư Bồ-tát mười phương đồng đi, đồng đến. Cho nên ở sau mới nói đây là “đường vào cửa Niết-bàn“.

Hào quang chỉ rọi trên đảnh chư Phật Bồ-tát và A-la-hán mà không rọi hết cả chúng hội, vì hàng phàm phu sáu căn chưa viên thông, chưa hỗ dụng, chưa trở về tánh chân. Thế giới Ta-bà không còn hiện nữa, thấy mười phương thế giới như số vi trần hợp thành một thế giới, nghĩa là tới chỗ tột cùng, không còn những tướng riêng biệt, tất cả đồng một thể. Pháp sắp nói ở đây là pháp viên thông nhất trong hai mươi lăm vị tu chứng. Viên là tròn, thông là suốt, viên thông là tròn suốt, không riêng biệt, cho nên chỉ còn thấy một thế giới.

2. Bồ-tát Văn-thù chọn căn viên thông

Khi ấy đức Như Lai bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử rằng:

– Nay ông xem trong hai mươi lăm vị vô học thuộc hàng Bồ-tát và A-la-hán, mỗi người trình bày phương tiện ban đầu đưa đến thành đạo, đều nói tu tập pháp chân thật viên thông. Những phương tiện tu hành kia trước sau khác nhau, thật không có hơn kém. Nay ta muốn khiến A-nan được khai ngộ, trong hai mươi lăm hạnh phúc đó, hạnh nào sẽ thích hợp với căn cơ kia? Cùng với sau khi ta diệt độ, chúng sanh ở thế giới này muốn vào Bồ-tát thừa cầu đạo Vô thượng, dùng cửa phương tiện nào được dễ thành tựu?

Đức Phật ủy thác cho Bồ-tát Văn-thù chọn lựa trong hai mươi lăm pháp tu của chư Bồ-tát và A-la-hán đã trình bày ở trước, coi pháp nào, phương tiện nào tu dễ thành tựu, chứng quả, thích hợp với căn cơ ngài A-nan và cũng hợp căn cơ chúng sanh sau này, khi Phật đã diệt độ, muốn được vào Bồ-tát thừa, cầu đạo Vô thượng.

Ở phần mở đầu quyển kinh, ngài Văn-thù đã xuất hiện, đem thần chú đến cứu ngài A-nan mắc nạn Ma-đăng-già. Lần thứ hai ở đoạn: Văn-thù là Văn-thù chứ không phải thật là Văn-thù hay không Văn-thù (phần Chỉ ra tánh thấy không hai). Lần thứ ba này Bồ-tát Văn-thù xuất hiện để chọn lựa căn viên thông. Ngài Văn-thù tượng trưng cho trí căn bản. Chính trí căn bản cứu chúng ta ra khỏi biển ái. Cũng chỉ có trí căn bản mới có thể gạn lọc, chọn lựa đúng, giúp chúng ta dễ giác ngộ, trở về chỗ chân thật.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi vâng lời chỉ dạy từ bi của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, nương oai thần của Phật, nói kệ đáp lại:

Chúng ta thấy sự khiêm nhường của các vị Bồ-tát đối với Phật. Khi Phật bảo ngài Văn-thù chọn lựa căn viên thông, đáng lý tự ý ngài chọn, nhưng lại nói nương oai thần của Phật, nói bài kệ đáp lại, nghĩa là các vị có làm việc gì đều là nương sức của chư Phật. Cũng như chư tăng ni khi đi giảng dạy thường nói: Nhờ sự giáo hóa của Thầy nên chúng tôi mới hiểu biết được đạo lý. Nếu tự cao ngạo mạn vỗ ngực xưng tên “tôi thông minh, tôi thông thái, tôi tự thấy biết” thì thiếu tư cách của người tu hành, rất trái với đạo lý đã được hấp thụ đã được giáo huấn.

Bài kệ dưới đây tóm tắt từ thủy tới chung, từ khi đức Phật nói về nguyên do sanh ra thế giới chúng sanh cho đến lựa chọn sáu căn viên thông.

Biển giác tánh lặng tròn,

Tròn lặng, giác vốn mầu.

Nguyên minh, chiếu sanh sở,

Sở lập, tánh chiếu mất.

Từ ban đầu, thể gốc của tất cả chúng sanh là tánh giác thênh thang như biển, lóng lặng tròn sáng. Các thiền sư muốn diễn bày chân tánh thường vẽ một vòng tròn là do ý này. Bởi lóng lặng tròn sáng nên tánh giác vốn nhiệm mầu.

Rồi từ cái sáng đó chiếu soi lại tánh giác, sanh ra có năng chiếu và sở chiếu. Một khi sở đã lập thì tánh chiếu mất đi. Đây là mầm lưu chuyển trong tam giới. Như chúng ta nghe Phật nói mình có tánh giác có chân tâm. Vậy tánh giác, chân tâm hiện giờ ở đâu? Vừa khởi nghĩ tìm tánh giác, chân tâm thì tánh giác, chân tâm đã thành cái bị tìm, còn tâm mình thánh cái hay tìm. Như vậy tánh giác biến thành sở mất rồi, mà đã biến thành sở thì tánh sáng không hiện, nên nói sở lập thì tánh chiếu mất. Đó là diễn tả buổi ban đầu, từ tánh giác trùm khắp, do vọng khởi chiếu soi lại nó nên tánh giác bị ẩn, bị mờ đi. Nếu không tìm thì vọng tưởng không dấy, chân tâm hiện tiền.

Mê vọng có hư không,

Nương không lập thế giới.

Do quên tánh giác nên mê vọng mà có hư không, rồi nương nơi hư không mới sanh ra thế giới. Như vậy hư không có sau tánh giác, do mê vọng mà có, còn tánh giác là thể trùm khắp. Hư không chỉ là một phần nhỏ xíu ở trong tánh giác.

Tưởng lặng thành cõi nước,

Hiểu biết là chúng sanh.

Những cái tưởng lặng xuống, cô đọng kết tụ lại thành ra cõi nước; còn tri giác, tức hiểu biết thì làm chúng sanh.

Hư không sanh trong giác

Như bọt nổi trong biển.

Cõi hữu lậu vi trần

Đều nương không mà sanh.

Trước nói về tánh giác, kế đó là hư không, kế là thế giới, rồi chúng sanh. Bây giờ mới so sánh lại: Hư không sanh ở trong tánh đại giác, giống như một hòn bọt ngoài biển, huống là các cõi nước hữu lậu như số vi trần từ hư không mà ra. Ví dụ như thân thể mình sánh với đất nước Việt Nam thì cân lượng chỉ như hạt bụi. Nếu đem thân so với bao nhiêu cõi nước trong hư không, chứ đừng nói là so với hư không thì thân này không có nghĩa lý gì hết. Mà hư không ở trong tánh giác chỉ như là một hòn bọt thôi. Như vậy tánh giác rộng lớn cỡ nào?

Vậy mà chúng ta đành bỏ quên, không chịu sống với cái to lớn dường ấy, lại nhận cái nhỏ bé dường này, để rồi tiếc từng cái nhà, từng mảnh đất, tiếc từng cái nhỏ tí ti… Bởi vậy, nên con ông trưởng giả khi trở về nhà, kêu hốt phân thì chịu, chứ không dám nghĩ mình là con trưởng giả. Vì điều đó quá sức tưởng tượng.

Do đó Phật dạy phải gỡ được cái dính khắn của sáu căn mới thể nhập tánh giác. Tánh giác thênh thang, không phải đồng như hư không mà là trùm cả hư không. Hư không ở trong tánh giác chỉ như hòn bọt trên biển. Thật là quá sức tưởng tượng! Chúng ta sẵn có cái thênh thang không thể nghĩ lường mà lại bỏ quên, đi nhận một chút xíu sanh diệt lăng xăng, xẹt lên rồi mất như dòng điện, không có gì thật, cho là tâm mình. Từ đó mà giành hơn thua, nói phải quấy, tranh chấp lẫn nhau nên đi mãi trong lục đạo, vui ít mà khổ nhiều. Thật là đáng thương!

Như vậy hư không, thế giới, cõi nước, chúng sanh gốc vốn từ mê vọng mà ra, chẳng khác nào một giấc chiêm bao! Chiêm bao là do ngủ mê thất có người có cảnh đủ thứ, đến khi thức giấc thì cảnh chiêm bao không còn. Các cảnh hiện có của chúng ta đây cũng từ gốc mê. Hai cái mê này không khác gì nhau. Do đó người nào thâm ngộ được lý này thì biết rõ thân này cảnh này, hư không thế giới đều là một chuỗi mê vọng mà thành, chứ không có gì thật. Nên nói: một người trở về nguồn chân thì cả đại địa không còn tấc đất.

Bọt tan, hư không mất,

Huống lại là ba cõi.

Hòn bọt dụ cho hư không, tánh giác dụ cho biển cả, hư không đối với tánh giác như hòn bọt trong biển cả. Nói bọt tan tức là hư không chẳng còn. Hư không còn là không huống chi bao nhiêu cõi nước ở trong hòn bọt hư không đó! Ba cõi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới đều không có nghĩa lý gì.

Về nguồn, tánh không hai,

Phương tiện có nhiều cửa.

Nay chúng ta trở về cái gốc ban đầu thì tánh vốn không hai, nhưng phương tiện tu hành có nhiều cửa.

Tánh thánh đâu chẳng thông,

Thuận nghịch đều phương tiện.

Đối với các vị thánh thì cửa nào cũng thông, nhưng nói thuận hay nghịch, cửa này tiện hơn cửa kia, đều là phương tiện.

Sơ tâm vào chánh định

Nhanh chậm không giống nhau.

Các vị thánh tu pháp nào cũng vào chánh định được, nhưng người mới tu muốn vào chánh định thì nhanh chậm không đồng, nên phải chọn pháp phù hợp. Do đó tùy theo công đức các căn mà chọn lựa. Căn nào đầy đủ công đức thì tu mau, căn nào kém thiếu thì chậm.

a. Lựa ra những căn không viên thông

Sáu trần:

Sắc tưởng kết thành trần,

Tinh thuần không thể thấu.

Làm sao không rõ suốt

Tu hành được viên thông?

Sắc do tưởng kết lại mà thành trần. Vì là trần nên phần thuần túy sáng suốt không thể thấu triệt được. Không thấu triệt, không sáng thì làm sao mà được viên thông! Đây là pháp tu về sắc trần của ngài Ưu-ba-ni-sa-đà. Bồ-tát Văn-thù không chọn vì không viên thông.

Âm thanh lẫn ngôn ngữ,

Chỉ nương tên, câu, vị.

Một chẳng gồm tất cả

Sao tu được viên thông?

Đây nói về thanh trần. Âm thanh cùng lời nói, nương tên gọi, câu lời mà kết thành. Mỗi câu riêng, mỗi lời riêng, nên một không thể gồm tất cả, thì làm sao được viên thông?

Hương do hợp mới biết

Lúc lìa vốn chẳng có

Chỗ hay biết không thường, 

Làm sao được viên thông?

Về hương trần, do chỗ hợp mà biết, vì mùi phải liên hệ, tiếp xúc với lỗ mũi mới biết mùi thơm hôi. Nếu lìa thì không có cái biết của mũi. Do không có cái biết thường xuyên thì làm sao được viên thông?

Tánh vị không có sẵn,

Cần nếm mới có vị,

Cảm giác không hằng nhất,

Làm sao được viên thông?

Về vị trần, tánh vị không phải sẵn có, khi có vị tới lưỡi thì mới biết ngon dở. Cảm giác không thường hằng, duy nhất, cho nên không phải là viên thông.

Xúc do chỗ chạm biết

Không chạm không rõ xúc.

Tánh hợp lìa chẳng định

Làm sao được viên thông?

Về xúc trần, có xúc chạm mới biết, ví dụ như tay mình tiếp xúc chạm với lửa mới biết là nóng, chạm với nước đá mới biết là lạnh. Như vậy đợi có sở xúc, do chỗ xúc chạm mới biết cảm giác. Hợp hay lìa, tánh không nhất định, thì làm sao được viên thông?

Pháp gọi là nội trần,

Nương trần ắt có sở, 

Năng sở không dung khắp, 

Làm sao được viên thông?

Pháp trần gọi là nội trần, vì những hình bóng do mắt tai mũi lưỡi thân, duyên vào còn lưu lại trong tâm thức, mỗi khi nhớ lại thì cảnh đó hiện ra. Cảnh đó là bóng của tiền trần còn lưu lại trong tâm, là sở, tức đối tượng để vọng tưởng duyên theo. Như vậy sở (bóng dáng sáu trần) là bị biết, còn năng là hay biết, tức ý. Ý hay biết pháp trần. Hai thứ năng và sở này không dung nhau khắp thì làm sao mà được viên thông?

Năm căn:

Cái thấy tuy rỗng suốt,

Thấy trước chẳng thấy sau,

Bốn phía thiếu một nửa

Làm sao được viên thông?

Cái thấy này chỉ cho nhãn căn. Tuy nó rỗng suốt nhưng chỉ thấy phía trước mà không thấy phía sau; ngó bên này thì chỉ nhìn được nửa bên này, ngó bên kia cũng vậy, nên nói thiếu phân nửa. Vì vậy mà căn mắt không được viên thông.

Mũi thở ra vào thông, 

Hiện tiền không khoảng giữa,

Tách rời không dung nhập,

Làm sao được viên thông?

Đến tỹ căn, hơi thở ra vào thông suốt nhưng hiện tiền không có khoảng giữa. Lẽ ra có ba chặng: chặng ra, chặng vào, chặng giữa, nhưng chúng ta chỉ thấy chặng ra chặng vào, không thấy chặng giữa. Hít vô rồi dừng lại, thở ra, cái khoảng giữa đó không được thông. Hơi thở ra hơi thở vào riêng biệt, tách rời nhau, không lẫn vào nhau, thì làm sao mà được viên thông?

Lưỡi không vị, không duyên,

Nhân vị sanh rõ biết,

Vị mất, cái biết không,

Làm sao được viên thông?

Về căn lưỡi, nếu không có vị để vào thì không có duyên để biết. Nhân nơi vị mới sanh rõ biết. Nếu vị mất thì cái biết về vị không có. Như lưỡi mình lúc không nếm thì đâu có biết vị. Vậy làm sao mà được viên thông.

Thân cùng sở xúc đồng,

Đều chẳng biết thông suốt,

Chừng hạn, không thầm hợp,

Làm sao được viên thông?

Thân căn cùng với đối tượng xúc chạm là giống nhau, đều không thể quán viên giác, tức không biết tròn suốt, vì khi có chạm mới có cảm xúc, không chạm thì không cảm xúc. Do đó, cảm xúc có chừng hạn chứ không thầm hợp với nhau. Ví dụ, như chân mình đạp gai thì có cảm giác ở chân, hoặc tay mình bị phỏng thì có cảm giác nơi tay. Cái xúc chạm, cảm giác có chừng ngằn, có nơi chốn chứ không thầm hợp tất cả. Vậy nên không phải là viên thông.

Ý căn xen loạn tưởng,

Dừng lặng trọn chẳng thấy.

Tưởng niệm không giải thoát,

Làm sao được viên thông?

Ý căn lẫn lộn với suy nghĩ loạn tưởng. Khi ý dấy lên lăng xăng, chúng ta nói ý tôi nghĩ thế này, ý tôi nghĩ thế kia, nhưng khi lặng xuống hết thì trọn không thấy có ý. Còn tưởng niệm thuộc sanh diệt, không phải là giải thoát, vậy nên chẳng phải viên thông.

Sáu thức:

Nhãn thức lẫn ba hòa, 

Tìm gốc không có tướng,

Tự thể không nhất định,

Làm sao được viên thông?

Ba cái hòa hợp là căn, trần và thức. Ngoài có sắc trần, trong có căn là con mắt, thức nương đó mà khởi. Thức do hòa hợp mới có nên không thật. Gạn tìm nguồn gốc thì không có tướng, vì hòa hợp làm sao thành tướng riêng được. Tự thể trước đã không nhất định, làm sao được viên thông?

Tâm nghe suốt mười phương

Sanh từ sức nguyện lớn,

Sợ tâm không thể vào,

Làm sao được viên thông?

Tâm nghe chỉ cho nhĩ thức, rỗng khắp mười phương. Ngài Phổ Hiền tu về tâm nghe, trong mười phương nếu có người nào tu hạnh này, ngài đều đến để ủng hộ. Pháp này người phàm tu không nổi, nên nói phải từ nhân đại nguyện mới được. Người sơ tâm không thể vào, làm sao được viên thông?

Tưởng mũi, phương tiện tạm,

Chỉ để nhiếp tâm trụ.

Trụ thành tâm sở trụ

Làm sao được viên thông?

Đây nói về tỹ thức. Ngài Tôn-đà-la Nan-đà quán chót mũi trắng, chỉ là phương tiện tạm để nhiếp tâm an trụ. Nếu có trụ thì thành ra tâm sở trụ. Như khi quán chót mũi trắng, dùng nó để trụ tâm, liền có năng trụ và sở trụ. Vậy làm sao được viên thông?

Thuyết pháp dùng lời tiếng,

Trước người được khai ngộ.

Câu chữ chẳng vô lậu,

Làm sao được viên thông?

Do thiệt thức mới phát được lời lẽ hay, là phương tiện ban đầu để cho người khai ngộ, thành tựu. Khai ngộ tiên thành giả là muốn khai ngộ cho người thì lời và tiếng đi trước để thành tựu. Nhờ nghe thuyết pháp họ mới hiểu đạo và tu, văn rồi mới tư, tu. Đó là phương tiện ban đầu để được ngộ đạo. Nhưng danh cú, câu lời không phải là vô lậu, thì làm sao được viên thông?

Giữ giới chỉ buộc thân,

Không thân chẳng chỗ buộc,

Vốn chẳng khắp tất cả,

Làm sao được viên thông?

Trì giới chỉ là phương tiện thúc liễm thân. Nếu không có thân thì không có chỗ thúc liễm, nghĩa là nếu thấy thân không thật thì còn gì thúc liễm. Vốn không phải khắp tất cả, làm sao được viên thông?

Thần thông, nhân đời trước,

Dính gì pháp phân biệt.

Niệm duyên chẳng lìa vật

Làm sao được viên thông?

Thần thông đây chỉ cho ngài Mục-kiền-liên thần thông đệ nhất. Đó vốn là nhân đời trước, không quan hệ gì pháp thân phân biệt. Do ý thức, niệm tưởng duyên ngoại cảnh, chú tâm duyên vào cảnh đó nên nó không lìa vật, thì làm sao được viên thông?

Bảy đại:

Nếu quán tánh của đất,

Cứng ngại không thông suốt,

Hữu vi chẳng tánh thánh

Làm sao được viên thông?

Nếu quán tánh của đất, thì đất là cứng chắc, ngăn ngại, không thông suốt. Đất là tướng bị sanh diệt nên thuộc về hữu vi, không phải tánh thánh, thì làm sao được viên thông?

Nếu quán tánh của nước,

Tưởng niệm không chân thật,

Như như chẳng giác quán,

Làm sao được viên thông?

Dùng nước để quán là do tưởng niệm, tưởng niệm thì không phải chân thật. Vì chỗ như như chân thật đó không có tưởng, không có quán, không phải do giác quán mà được, vậy làm sao được viên thông?

Nếu quán tánh của lửa,

Chán có, chẳng thật lìa,

Cách không hợp sơ tâm,

Làm sao được viên thông?

Ngài Ô-sô-sắt-ma quán lửa mà được thần quang bên trong ngưng đọng, hóa tâm đa dâm thành lửa trí tuệ. Đây là từ chác các pháp hữu vi hữu lậu mà được lìa. Chán cái này mong cầu cái kia, cũng chưa phải chân thật xa lìa, không phải là phương tiện của người mới tu, làm sao được viên thông?

Nếu quán tánh của gió,

Động tịch là đối đãi,

Chẳng phải Vô thượng giác

Làm sao được viên thông?

Nếu quán về tánh gió là do có động có dừng, chẳng phải là không đối đãi. Do có đối đãi nên không phải Vô thượng giác, thì làm sao được viên thông?

Nếu quán tánh của không,

Mờ tối không có giác,

Không giác, khác Bồ-đề, 

Làm sao được viên thông?

Hư không vốn mờ tối, vô tri vô giác. Không giác tức trái với Bồ-đề, làm sao được viên thông?

Nếu quán tánh của thức,

Quán thức chẳng thường trụ,

Còn tâm là hư vọng

Làm sao được viên thông?

Nếu quán về thức thì thức không phải thường trụ. Còn tâm, còn quán cũng là hư vọng. Đã hư vọng không thật thì làm sao được viên thông?

Các hạnh là vô thường

Tánh niệm vốn sanh diệt

Nhân quả nay cảm ứng

Làm sao được viên thông?

Đây là hạnh niệm Phật của Bồ-tát Đại Thế Chí. Niệm vốn là sanh diệt, như niệm Nam-mô A-di-đà Phật, vừa có chữ Nam thì tới chữ Mô, chữ A… vừa có chữ này sanh thì chữ kia diệt, nên nó thuộc về sanh diệt, mà sanh diệt thì vô thường. Nhân là chỉ cho người niệm, quả chỉ cho Phật độ; hoặc nhân chỉ cho sự phát tâm tu hành của mình, quả là Phật nhớ lại mình. Nhân quả có cảm ứng qua lại như nói mẹ nhớ con, con nhớ mẹ, chúng ta nhớ Phật, Phật nhớ chúng ta. Có Phật có mình là còn đối đãi, vì vậy không được viên thông.

b. Nhĩ căn viên thông nhất

Nay con bạch Thế Tôn

Phật xuất hiện Ta-bà,

Chân giáo thể phương này,

Thanh tịnh nơi tiếng, nghe.

Muốn vào được chánh định,

Thật do nơi nghe vào.

Bồ-tát Văn-thù nói hết phần của hai mươi bốn vị thánh rồi, trước khi nói tới vị thứ hai mươi lăm là Bồ-tát Quán Thế Âm. Ngài bạch Phật trước, Phật ra đời ở thế giới Ta-bà, giáo thể chân thật ở cõi này thanh tịnh từ cái nghe và tiếng. Tại sao? Dù chúng ta không tu phản văn tự tánh đi nữa, nếu muốn học đạo hiểu đạo thì cũng phải từ Văn Tư Tu, chính là phương tiện tu của Bồ-tát Quán Thế Âm. Muốn tu thì trước phải nghe, nghe rồi suy nghĩ, suy nghĩ rồi mới tu hành. Sở dĩ tu được thanh tịnh là trước nhờ nghe. Muốn vào chánh định thì phải từ nghe mà vào.

Có những thế giới dùng hào quang làm Phật sự, có thế giới dùng việc ăn cơm làm Phật sự. Còn thế giới này là do giảng kinh thuyết pháp làm Phật sự, cho nên người nhập đạo là từ nghe mà vào đạo, từ nghe mà quên tiếng, trở về nguồn.

Lìa khổ được giải thoát,

Hay thay! Quán Thế Âm,

Trong hằng sa số kiếp

Vào cõi Phật vi trần,

Được sức đại tự tại,

Vô úy thí chúng sanh.

Đó là tán thán Bồ-tát Quán Thế Âm có thần lực tự tại lớn, bố thí vô úy cho chúng sanh.

Diệu âm, Quán thế âm,

Phạm âm, Hải triều âm,

Cứu đời thảy an ổn,

Xuất thế, được thường trụ.

Diệu âm là tiếng nhiệm mầu. Quán thế âm là xem xét các tiếng của thế gian. Phạm âm là tiếng trong sạch. Hải triều âm là tiếng vang lên như sóng biển. Đối với người đời thì Bồ-tát cứu giúp cho họ được an ổn, còn với người tu giải thoát thì đưa họ tới chỗ thường trụ bất sanh bất diệt. Đó là tán thán hạnh tu của ngài Quán Thế Âm. Đây là cửa phương tiện thích hợp với cõi đời này, hạnh tu của đức Quán Thế Âm làm lợi ích cho cả thế gian và xuất thế gian.

Đoạn trên khen ngợi Bồ-tát Quán Thế Âm, mà nói về ngài Quán Thế Âm tức là nói về ai? Quán Thế Âm nghĩa là xem xét các tiếng của thế gian. Tai hằng nghe tiếng thế gian, để xoay trở lại tánh viên trạm, như vậy chính mình có phải là Quán Thế Âm hay không? Học theo phương pháp của ngài Quán Thế Âm là xoay cái nghe trở về tự tánh, tức là nơi căn tai thể nhập chân tánh thường trụ, phát sanh diệu dụng. Đó là hết khổ, gọi là được Bồ-tát Quán Thế Âm cứu độ.

Nay con bạch Như Lai,

Như Quán Âm đã nói:

Ví như người chỗ vắng,

Mười phương đồng đánh trống,

Mười chỗ đồng thời nghe,

Đây viên thông chân thật.

Ví dụ chúng ta ở đây mà mười phía trên dưới chung quanh người ta đều đánh trống, cùng một lúc chỗ nào cũng nghe. Vì vậy, gọi là viên thông chân thật. Như vậy, xác nhận lời của Bồ-tát Quán Thế Âm nói lúc ban đầu, để thấy rằng chỉ có nhĩ căn là viên thông.

Kế đây Bồ-tát Văn-thù tạm so sánh lại với các pháp tu trước.

Mắt bị ngăn chẳng thấy,

Miệng, mũi cũng như thế.

Thân do hợp mới biết,

Tâm lăng xăng không mối.

Con mắt không thể thấy phía ngoài vật che ngăn. Ví dụ, phía trước chúng ta có che một tấm màn, mình không thấy gì bên ngoài tấm màn. Rồi miệng, mũi cũng thế, cũng bị những chướng ngại. Thân thì có hiệp mới biết, còn tâm niệm lăng xăng không có mối manh. Như vậy năm căn này đều bị giới hạn, không viên thông.

Cách vách vẫn nghe tiếng,

Xa gần đều nghe được,

Năm căn không thể bằng,

Đây viên thông chân thật.

So sánh với các căn kia thì nhĩ căn có thể nghe được âm vang ngoài tấm vách và chỗ xa chỗ gần cũng đều nghe, năm căn kia không thể bằng được. Như vậy nhĩ căn là viên thông chân thật.

Âm thanh có động tịnh, 

Trong nghe thành có không,

Không tiếng gọi không nghe,

Chẳng phải không tánh nghe.

Tiếng thì có động và tịnh, nên trong cái nghe thành ra có và không. Khi có tiếng động thì có nghe gọi là có, khi không có tiếng động thì không nghe gọi là không. Không có tiếng, nghe không có tiếng chứ chẳng phải không nghe. Tiếng có sanh có diệt, sanh là động, diệt là tịnh, còn cái nghe không có động không có tịnh. Tánh nghe trùm cả động và tịnh, hằng hữu không sanh không diệt.

Không tiếng đã không diệt,

Có tiếng cũng chẳng sanh.

Sanh diệt thảy trọn lìa,

Đây hẳn thường chân thật.

Khi không có tiếng thì tánh nghe cũng không mất. Khi có tiếng cũng không phải tánh nghe mới sanh. Tánh nghe hoàn toàn lìa cả hai sanh và diệt, nó thường trụ, nên nói tánh nghe thường chân thật.

Dù là trong mộng tưởng,

Không chẳng nghĩ mà không,

Giác quán ngoài suy nghĩ, 

Thân tâm không bì kịp.

Trong lúc chúng ta ngủ mơ mộng tưởng, chẳng phải vì lúc ấy không làm gì, không nghĩ gì mà không tánh nghe. Như đoạn trước nói, dù trong mộng tánh nghe vẫn không mất. Giác quán, tức cái biết, chỉ cho tánh nghe, vượt ngoài sự suy nghĩ. Thân tâm không thể bì kịp nó.

Đây là phương tiện ngài Văn-thù chọn lựa. Đứng về mặt phương tiện thì nói nhĩ căn là viên thông, nên chọn nhĩ căn mà tu. Nhưng sự thật, tu thiền chân chánh thì sáu căn đều phải nhiếp phục. Sáu căn đều nhiếp phục là sao? Ví dụ, đang ngồi chợt nghe tiếng ca hát hoặc tiếng nói chuyện xa xa, chúng ta đừng lệ thuộc vào tiếng, mà chỉ lắng lặng, không để nó lôi cuốn. Đang ngồi mà ngửi mùi hương lạ, tâm phóng theo mùi hương cũng liền phải tu. Hoặc khi thấy dáng người mình ưa thích đi qua, vừa sanh tâm thì cũng phải liền đó tu. Khi năm căn bên ngoài không hoạt động, chúng ta tu nơi ý căn đang duyên với pháp trần.

Nếu nghĩ chỉ tu ở tai thôi, đến khi mắt thấy cảnh gì là lạ, cảnh đó cứ vương theo mình hoài, nếu cư lấy căn tai để tu thì làm sao điều phục! Cho nên sáu căn đều phải nhiếp phục.

Chúng ta thường bị ám ảnh bởi ngôn ngữ. Bồ-tát Văn-thù chọn nhĩ căn làm phương tiện là vì chúng sanh cõi Ta-bà đa số nhân tai nghe pháp mà ngộ đạo. Khi đức Phật còn tại thế, ngài cũng giảng kinh thuyết pháp, năm vị Tỳ-kheo đầu tiên ngộ đạo cũng là nhờ nghe Phật giảng dạy. Đây là nhân đầu tiên, cũng là gốc của sự tu hành, do đó chọn nhĩ căn là viên thông. Tuy nhiên cả sáu căn đều sẵn đủ tánh trạm viên, tức là tánh giác thường hằng. Người tu thiền không chỉ riêng hướng vào nhĩ căn, mà vận dụng hết các căn để trở về tánh viên trạm của nó, nhất là ý căn. Đó là đồng thời trở về nguồn. Nơi sáu căn biết trở về nguồn tức là biết tu. Tuy nhiên, sáu căn cũng là sáu đứa giặc, hễ không có duyên thì nó tạm yên, đến khi có duyên nó dẫn giặc vào nhà. Do đó, không chỉ riêng phản văn – xoay trở lại cái nghe – đối với tai tiếng, mà khi mắt thấy hình sắc, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị… cũng đều phải xoay trở lại tánh biết.

Nay cõi Ta-bà này,

Dùng tiếng luận bàn rõ,

Chúng sanh quên gốc nghe

Theo tiếng nên lưu chuyển.

Ngày nay, ở thế giới Ta-bà này, chúng ta dùng âm thanh để bàn luận, nhờ đó mà rõ được các lý lẽ. Chúng sanh sở dĩ lưu chuyển là do quên gốc nghe mà chạy theo thanh trần ở bên ngoài. Trần cảnh là tướng sanh diệt, tiếng thì có động có tịnh, động là sanh, tịnh là diệt, còn tánh nghe là hằng hữu. Thế nhưng chúng ta lại chạy theo động tịnh mà quên tánh nghe. Chạy theo động tịnh là theo sanh diệt nên phải trầm luân.

A-nan dù nhớ giỏi,

Không khỏi mắc tà niệm

Đâu chẳng theo chỗ chìm,

Xoay dòng được không vọng.

Đây là chê ngài A-nan, dù cho có nhớ giỏi cũng không khỏi rơi vào những suy nghĩ tà, đâu chẳng phải theo chỗ trầm luân! Nếu cứ ghi nhớ những thứ bên ngoài, thì suy nghĩ đó cũng là tà thôi, cũng bị chìm đắm. Dù nghĩ thiện cũng là nghĩ tà, vì còn nằm trong cái động, sanh diệt. Vậy nghĩ thế nào mới gọi là chánh? Trở về tánh viên trạm trong lặng tròn khắp nơi mình mới là chánh. Tức xoay trở về dòng chân thật của tánh nghe, chừng đó mới hết vọng tưởng.

A-nan! Ông lắng nghe,

Tôi nương oai lực Phật

Tuyên nói Kim cang vương

Như huyễn chẳng nghĩ bàn

Chân tam-muội, Phật mẫu.

Đây là chánh định chân thật, mẹ của chư Phật. Tại sao gọi chánh định này là mẹ chư Phật, lớn hơn Phật quá vậy? Bởi vì muốn thành Phật thì từ đó mà ra. Từ đó là từ đâu? Từ trở về dòng của tánh nghe. Chư Phật đều do trở về tánh nghe, không chạy theo các tướng sanh diệt của sáu trần mà được thành Phật, nên gọi là mẹ của chư Phật.

Ông nghe môn bí mật

Chư Phật như vi trần,

Trước không trừ dục lậu

Chứa nghe thành lỗi lầm.

Dù có nghe được tất cả pháp môn bí mật của chư Phật nhiều như số vi trần, mà trước không dẹp trừ các dục lậu, thì tích chứa cái nghe chỉ thành ra lỗi lầm. Dục lậu là tâm sanh diệt, chúng sanh ta dù nghe thuộc bao nhiêu kinh sách, mà tâm sanh diệt không trù thì càng nghe càng thêm lỗi lầm.

Dùng nghe nhớ lời Phật,

Sao không nghe tánh nghe?

Dùng cái nghe ghi nhớ pháp môn bí mật của bao nhiêu đức Phật mười phương, đâu bằng tự nghe lại tánh nghe. Như vậy, thuộc kinh nhiều tốt hơn hay là trở về tánh nghe mình tốt hơn? Trở về nghe lại tánh nghe hay hơn. Nghe lại bằng cách nào? Lắng nghe nó, phải không? Tánh nghe có tiếng không mà lắng? Như vậy nghe lại là nhớ lại tánh nghe của mình, gọi đó là văn văn, vương tử là phản vănỞ đây ngài Văn-thù chỉ rõ, dù có nhớ giỏi bao nhiêu lời chư Phật dạy, không bằng tu trở lại tánh nghe của mình, nhập vào dòng đó rồi mới thoát ly được vọng tưởng.

Ngồi nghe kinh hai giờ và ngồi thiền tỉnh táo không vọng hai giờ, giá trị có khác nhau không? Dù nghe vô lượng pháp môn của chư Phật cũng là nghe cái bên ngoài, tức thuộc sanh diệt. Còn ngồi thiền thấy như không làm gì, không lợi ích cho ai, nhưng nghe lại tánh nghe của mình, thể nhập được rồi tức là vô sanh.

Nếu ngồi thiền trong một giờ mà tâm loạn động liên miên, chỉ được chừng ba phút lặng lẽ không một niệm sanh diệt nào, tuy chỉ ba phút trong một giờ ngồi thiền, nhưng đó là ba phút vô sanh. Trái lại, ngồi nghe giảng kinh hay tụng kinh liên miên hết niệm này đến niệm kia. Chỉ khi ngồi thiền chúng ta mới thấy rõ các tâm niệm thô và tế. Chừng nào không còn niệm thô niệm tế, thật là yên lặng, lúc đó mới thấy vô sanh.

Có người ngồi thiền thấy vọng tưởng lăng xăng liên tục, tưởng đâu khi làm việc không có vọng, ngồi thiền mới có. Sự thật là khi làm việc quá lăng xăng, những vọng tưởng nho nhỏ liên tục mình khó thấy. Do không thấy nên tưởng như không có. Trái lại khi chúng ta ngồi thì yên lắng hơn, nên những dấy động trong tâm đều thấy rõ. Cũng như ban ngày tiếng xe chạy ầm ầm nên mình không nghe những tiếng côn trùng, tiếng đồng hồ… Đến nửa đêm yên tịnh, tiếng đồng hồ tích tắc, tiếng thằn lằn chắt lưỡi, dế gáy… thảy đều nghe rõ. Ban ngày những tiếng ấy chẳng phải không có, chỉ vì quá ồn nên không thể nghe. Cho nên ngồi yên lặng lẽ mới biết tâm mình động nhiều hay ít, từ đó mới chế ngự, điều phục, dần dần sẽ thanh tịnh. Nếu không tự điều phục thì không bao giờ được thanh tịnh. Không có đức Phật Thích-ca tự nhiên và cũng không có đức Phật Di-lặc trời sanh. Tất cả đều do dụng công huân tu mới được.

Tu là trở về tự tánh chân thật. Khi ngồi thiền hoặc làm việc gì mà tâm không chạy theo sáu trần chính là trở về tự tánh. Nên nói “một niệm hiện tiền”, nghĩa là đang ở ngay đây, chỉ cần không theo ngoại cảnh thì tự tánh hiển lộ; chẳng phải là xoay vào tìm tự tánh trong tim trong phổi… Tự tánh vốn không ở trong không ở ngoài không ở chặng giữa, làm gì có trong tim phổi. Nghe các tiếng bên ngoài, khen cũng mặc chê cũng mặc, đều không dính mắc, không nhân nơi tiếng mà động tâm, đó là trở về nghe lại tánh nghe.

Nghe chẳng tự nhiên sanh,

Nhân tiếng có danh tự.

Xoay nghe thoát được tiếng,

Hay thoát, gọi tên gì?

Một căn đã về nguồn,

Sáu căn thành giải thoát.

Tánh nghe là hằng như vậy, không phải tự nhiên sanh. Do âm thanh bên ngoài mới thành tên này tên nọ. Xoay cái nghe trở về tự tánh, liền thoát được, không còn lệ thuộc vào tiếng bên ngoài nữa. Cái hay thoát được thanh trần, nay muốn gọi đó là gì? Cái đó không có danh tự. Nó là thể tánh chân thật của mình chứ không phải danh tự bên ngoài. Nếu lúc nào cũng nhớ tánh nghe, thành tựu được vậy rồi thì tâm thênh thang, không còn dính mắc gì. Cho nên nói một căn đã trở về nguồn thì sáu căn đều được giải thoát.

Thấy nghe, bệnh mắt huyễn,

Ba cõi như không hoa.

Thấy, nghe, hiểu, biết của chúng ta từ sáu căn mà phát lộ, cộng thêm vọng thức phân biệt. Do bị vọng thức chi phối, những thấy nghe hiểu biết thông thường theo phàm tình của sáu căn này, giống như bị bệnh nhặm mắt thấy hoa đốm huyễn hóa. Ba cõi này không thật cũng giống như hoa đốm trong hư không.

Nghe lại, bệnh mắt trừ,

Trần tiêu, giác viên tịnh.

Bệnh của con mắt này vừa là dụ vừa là pháp. Chạy theo thanh trần hay sắc trần, cũng giống như người bệnh mắt nhìn thấy hoa đốm nhưng không có thật. Nếu xoay cái nghe lại thì bệnh mắt hết, không còn thấy hoa đốm trong hư không. Các trần đã tiêu hết thì tánh giác hoàn toàn tròn sạch tức là viên mãn thanh tịnh.

Sạch tột, sáng thông suốt,

Tịch chiếu trùm hư không.

Khi hoàn toàn trong sạch thì ánh sáng thông suốt, lặng lẽ mà hằng sáng suốt chiếu soi, trùm khắp cả hư không.

Trở lại xem thế gian

Giống như việc trong mộng.

Khi được giác ngộ thanh tịnh rồi, nhìn lại thế gian thấy giống như việc trong mộng, không có gì quan trọng hết.

Ma-đăng-già trong mộng,

Ai giữ được thân ông?

Như vậy, Ma-đăng-già cũng là người ở trong giấc mộng thôi, làm sao giữ được thân ngài A-nan được. Khi trở về được tánh giác, nhìn lại thế gian như mộng. Thế gian còn như mộng huống nữa Ma-đăng-già! Ma-đăng-già chỉ là người huyễn mộng. Đã là người huyễn mộng làm sao mà bắt được ông!

Do thấy các pháp là thật nên có cái này chướng cái kia. Nếu thấy tất cả là mộng ảo thì còn cái gì hại được cái gì. Đây là lời ngài Văn-thù chỉ cho chúng ta thấy tường tận sự tu hành.

Huyễn sư giỏi ở đời

Huyễn tạo ra nam nữ.

Tuy thấy các căn động,

Cốt do một máy giật.

Như ông thầy huyễn giỏi khéo làm ra người nam người nữ, tuy thấy các bộ phận cử động, nhưng cốt tại máy giật sợi dây. Hồi xưa tổ chức những trò vui chơi, người ta làm những hình nộm có sợi dây, khi nào muốn hình nộm múa may thì người ta giật sợi dây đó. Như vậy cử động múa may là do sự điều khiển sợi dây mà ra chứ không có gì thật hết.

Máy dừng, về yên lặng,

Các huyễn thành không tánh.

Khi ngộ rồi thấy rõ các pháp thế gian là huyễn hóa, như các vật huyễn sư biến ra đều không thật. Các huyễn dứt rồi, lặng rồi, rốt cuộc không còn gì là thật.

Con người cũng là một cái huyễn, khi tắt nút trở thành vô dụng. Lúc ấy còn nói gì nam nữ. Vậy mà khi các bộ phận còn hoạt động thì phân biệt phải quấy đủ thứ. Một khi tắt máy, mọi việc trở thành không, không còn gì. Tuy nói thân mình là quan trọng, nhưng khi lỗ mũi không còn hơi thở ra vào thì tất cả đều hết, Cũng như cái máy khi hết nổ là chấm dứt!

Vậy cái gì là mình? Cái gì là quý? Cái gì đẹp? Tất cả chỉ là trò mộng ảo, không có gì thật. Còn hơi thở thì còn nói hơn nói thua, trọng mình khinh người, tính phải tính quấy… Đến khi hơi thở khì khịt trong lỗ mũi không còn thì mọi việc đều buông hết, tất cả là không.

Sáu căn cũng như thế,

Vốn nương một tinh minh

Phân thành sáu hòa hợp,

Một thôi dứt trở về

Sáu dụng không thành lập.

Một tinh minh chỉ có thể giác tròn đầy trùm cả hư không. Hư không sanh trong biển đại giác như hòn bọt. Từ một thể hoàn toàn sáng suốt đó, lại bị dính khắn ở sáu căn mắt tai mũi lưỡi… trở thành sáu hòa hợp. Sáu hòa hợp này cũng là thật, không sanh không diệt, nhưng nó chỉ là mỗi bộ phận nhỏ của một tinh minh thôi. Nếu trong sáu hòa hợp, một căn thôi dứt được, không còn dính mắc với trần, trở về chỗ chân thật của nó thì sáu dụng ngay đó không còn riêng biệt nữa. Bây giờ sở dĩ thấy khác với nghe, ngửi khác với nếm v.v… là vì sáu căn của mình còn bị niêm ở sáu chỗ. Nếu một căn gỡ được cái dính khắn đó rồi thì các căn kia cũng đồng thời trở thành viên dung hay viên thông, không còn chướng ngại nhau. Vì vậy mà không còn cái dụng riêng của sáu chỗ.

Như vậy, chỗ này Phật dạy tu gỡ cái dính khắn của sáu căn để trở về một tinh minh. Nếu còn thấy sáu dụng riêng, dù là thấy tánh thật của nó cũng chưa đúng, mà phải trở về thể chân thật. Nên nói, trở về được một thể chân thật rồi thì sáu dụng không thành nữa.

Trần cấu liền đó tiêu,

Thành tròn sáng sạch mầu,

Còn trần còn hữu học

Sáng tột là Như Lai.

Nếu trở về được một căn rồi, sáu dụng đều thông suốt. Ngay đó các trần cấu đều tiêu hết, thành tựu thể tròn sáng trong sạch nhiệm mầu. Nếu còn một chút trần nào tức còn trong vòng hữu học, vì còn trần là còn tu, còn tu thì còn học. Nếu sáng đã tột thì đó là Phật chứ không gì khác.

Như vậy chúng ta thấy rõ, còn là phàm hay vào hàng thánh tùy theo trần cấu còn hay hết. Nếu còn trần cấu thì còn phải tu hành, hết trần cấu thì đó là thánh, là sáng.

Đại chúng và A-nan,

Xoay ngược lại máy nghe

Nghe lại tự tánh nghe,

Tánh thành, đạo Vô thượng.

Viên thông thật như vậy.

Đây là ngài dạy: Phải khéo xoay ngược lại cái nghe trở về nghe lại tánh nghe của mình. Tánh nghe mà thành tựu rồi, tức đi vào dòng thanh tịnh của tánh nghe, thì đó là đạo Vô thượng chứ không gì khác. Viên thông thật là như thế.

Có người nghe nói xoay lại, tưởng đâu thay vì nghe ra ngoài, nay nghe ngược vô trong. Đó là lầm! Xoay lại nghĩa là trước đây chúng ta chạy theo ngoại trần, nay dừng lại không chạy theo ngoại trần mà nhớ tánh nghe của mình. Bởi vì chạy theo trần là phóng ra ngoài, nhớ lại tánh nghe của mình là trở về trong. Nên gọi là phản vănnghe trở lại tánh nghe của mình.

Đường vào của Niết-bàn

Của chư Phật vi trần.

Cửa phương tiện này không riêng cho một ai, chư Phật nhiều như số vi trần cũng từ con đường này mà vào cửa Niết-bàn, chứ không có con đường nào khác.

Chư Như Lai quá khứ

Từ cửa này thành tựu.

Chư Bồ-tát hiện tại

Nay đều vào viên minh.

Người tu học vị lai

Phải y pháp như thế.

Tôi cũng trong ấy chứng,

Không chỉ Quán Thế Âm.

Chư Phật quá khứ, chư Bồ-tát hiện tại, những người tu học vị lai đều từ cửa này mà được thành tựu. Bồ-tát Văn-thù xác chứng là ngài cũng từ đó mà chứng, chứ không riêng gì Bồ-tát Quán Thế Âm. Nhưng ngài Văn-thù có tu phản văn tự tánh không, mà nói từ đò chứng? Thật ra trong các căn, căn nào nếu xoay lại như vậy thì đều chứng được, nên các ngài tuy tu có khác nhưng cũng trở về đó.

Thật như Phật Thế Tôn

Hỏi con các phương tiện,

Để cứu người mạt pháp

Cầu ra khỏi thế gian,

Thành tựu tâm Niết-bàn,

Quán Thế Âm bậc nhất.

Đức Thế Tôn dạy con tìm các phương tiện để cứu độ những người trong đời mạt pháp, cầu ra khỏi cõi thế gian này, những người tu thành tựu tâm Niết-bàn, thì pháp tu của Quán Thế Âm là cửa vào hơn hết.

Còn các phương tiện khác

Đều nhờ oai thần Phật.

Ngay sự, bỏ trần lao,

Chẳng phải thường tu học.

Sâu cạn đồng nói pháp.

Chỉ cửa này là chính. Ngoài môn này ra, những phương tiện khác đều do oai thần của Phật tạo ra. Ngay nơi sự việc mà xả bỏ trần lao, như ngài Tất-lăng-già-bà-ta đi giữa đường bị gai độc đâm vào chân, toàn thân đau nhức, ngay đó quán chiếu liền sạch lậu hoặc, thành A-la-hán. Đó chẳng phải là pháp tu học lâu dài. Trong khi Phật dạy pháp tu có sâu có cạn khác nhau, nhưng phương tiện của Quán Thế Âm là tối thắng.

Đảnh lễ Như Lai tạng

Vô lậu chẳng nghĩ bàn,

Nguyện gia bị đời sau

Nơi môn này không lầm.

Phương tiện dễ thành tựu

Đem chỉ dạy A-nan,

Người trầm luân mạt kiếp

Chỉ dùng căn này tu,

Viên thông hơn tất cả,

Tâm chân thật như thế.

Như vậy ngài Văn-thù nghe lời Phật dạy, trong hai mươi lăm vị thánh, ngài chọn Bồ-tát Quán Thế Âm tu về phản văn tự tánh, tức là trở lại tánh nghe của mình. Tánh nghe là sẵn có, không phải đợi có tiếng mới nghe. Nó không do tiếng mà sanh, không do tiếng mà diệt. Cái không sanh không diệt đó là thể đưa mình tới Niết-bàn. Bất cứ ai tiến vào cửa đó đều có thể đi tới Niết-bàn. Do vậy mà Bồ-tát Văn-thù chọn nhĩ căn là viên thông. Chẳng những ngài A-nan mà chúng sanh đời mạt pháp cũng nương phương tiện đó tu được.

Khi ấy A-nan và đại chúng thân tâm sáng tỏ, nhận được sự chỉ bày rõ ràng, xem Đại Niết-bàn và Bồ-đề của Phật cũng giống như người có việc đi xa chưa trở về được, nhưng đã biết rõ con đường về nhà rồi. Khắp cả đại chúng, thiên long bát bộ, hàng Nhị thừa hữu học và tất cả những người mới phát tâm Bồ-tát, số lượng bằng mười số cát sông Hằng đều được bản tâm, xa lìa trần cấu được pháp nhãn thanh tịnh.

Ngài A-nan và đại chúng nghe Phật và ngài Văn-thù chọn lựa, chỉ dạy căn viên thông rồi, các ngài giống như kẻ đi xa lạc đường không biết lối về, bây giờ được chỉ rõ con đường về nhà, tuy chưa về tới nhưng thấy rõ con đường đó không còn nghi ngờ nữa, nên gọi là được pháp nhãn thanh tịnh.

Ví dụ như kẻ đi rừng lạc đường, loanh quanh lẩn quẩn trong rừng tìm lối ra để về nhà, mà không biết lối nào nên khổ sở điêu đứng. Bất chợt có ai đó biết đường chỉ cho lối về. Người lạc đường mừng vô kể, biết được lối đi về không còn nghi ngờ nữa. Nhưng lúc đó tới nhà chưa? Biết lối về chưa phải là kẻ tới nhà. Nhớ vậy! Cho nên bây giờ tu, giả sử có ai đó bất chợt phát minh được tâm địa, thấy nó, biết nó có, chẳng qua cũng là kẻ thấy đường về chứ chưa phải đã tới nhà. Do vậy phải dùng nhiều công sức tu hành nữa mới có ngày về đến nhà.

Tuy nhiên, thấy đường là đã mừng vì khỏi bị lạc, không còn bị đau khổ như lúc trước nữa và có hy vọng một ngày nào đó sẽ về tới nơi. Đó là chỗ ngài A-nan và đại chúng trong hội gọi là được con mắt pháp trong sạch. Chúng ta thấy những cảnh vật trước mắt, đó là mắt thịt, còn ngộ bằng trí tuệ, hiểu được chánh pháp rõ ràng gọi là mắt pháp thanh tịnh.

Thấy đường về tức là hiểu một cách đúng đắn không còn ngờ vực nghi ngờ gì nữa, nhưng chưa đi được bao nhiêu. Mới thấy rõ đường về là đã được pháp nhãn tịnh. Khi nghe nói pháp nhãn tịnh, chúng ta tưởng như cái gì cao lắm nhưng không phải, chính là thấy được đường về không còn nghi, đối với sự tu hành sáng tỏ không có gì che mờ nữa.

Bây giờ quý vị nghe Phật dạy, nghe Bồ-tát giải thích, chọn lựa rồi, đã biết con đường về nhà mình không còn ngờ vực, chỉ còn có mỗi việc là phải đi. Đi thì mới tới, chứ chỉ biết rồi hài lòng ngồi đó vui chơi thì dù mười năm hai mươi năm cũng không thể tới nhà.

Tánh Tỳ-kheo-ni nghe nói bài kệ rồi, liền được quả A-la-hán. Chúng sanh vô lượng đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tánh Tỳ-kheo-ni là bà Ma-đăng-già.

Nghe xong bài kệ chọn lựa các căn của ngài Văn-thù rồi, những vị lớn trong hội chúng thì thấy rõ được con đường về, còn những người thấp nhất cũng phát tâm Bồ-đề, thảy đều được kết quả tốt.

VI. KHUÔN PHÉP TU HÀNH

A-nan chỉnh sửa y phục, ở trong đại chúng chắp tay đảnh lễ Phật, dấu tâm tròn sáng, buồn vui lẫn lộn, vì muốn làm lợi ích cho các chúng sanh đời sau, cúi đầu bạch Phật:

Thường tâm chúng ta tự sáng, nhưng tại sao đây lại nói dấu tâm tròn sáng? Bởi vì ngài A-nan trước kia đã quên, đã bỏ sót nó, giờ đây thấy lại dấu tâm tròn sáng. Được vậy lẽ ra phải mừng vui chứ sao lại có buồn? Vui là thấy được đường về, không nghi ngờ gì nữa. Còn buồn là tủi thân bấy lâu nay chỉ lo học không chịu tu, cho nên tới bây giờ mới thấy đường về, chưa đi được bước nào.

– Bạch Thế Tôn đấng Đại bi, nay con đã ngộ được pháp môn thành Phật, trong ấy tu hành không còn nghi ngờ gì nữa. Con thường nghe Như lai nói thế này: mình chưa được độ, trước lo độ người là Bồ-tát phát tâm; còn chính mình đã được giác ngộ viên mãn, rồi hay giác ngộ cho người khác là Phật ra đời. Con tuy chưa được độ mà nguyện độ tất cả chúng sanh ở đời mạt pháp.

Bạch Thế Tôn, các chúng sanh này cách phật dần xa, tà sư nói pháp nhiều như số cát sông Hằng. Muốn nhiếp tâm người kia vào chánh định, làm sao khiến họ an lập được đạo tràng, xa lìa các ma sự, đối với tâm Bồ-đề được không thối chuyển?

Đó là ngài A-nan chưa được độ mà nghĩ tới độ người. Câu này rất hay những cũng thường bị người ta lạm dụng. Ngài A-nan tuy nói chưa được độ nhưng ngài đã ngộ được pháp thân, đường đi đã thấy rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa. Biết được pháp thân là thấy nhà rồi nhờ Phật chỉ, ngài còn thấy rõ từ cửa nào vào nhà nữa. Như vậy ngài là người đã ngộ mà chưa được viên mãn, chưa về đến nhà, nên nói là chưa được độ. Tuy đi chưa đến nơi nhưng đã rõ đường, nên có thể chỉ cho người khác đi được.

Do vậy, ngài A-nan thương chúng sanh đời sau này, những người chưa ngộ bị tà sư gạt gẫm, chỉ dạy sai lầm, nên yêu cầu Phật chỉ cho lối tu thế nào, lập đàn tràng ra sao để khỏi phải lầm lẫn, đó gọi là độ người. Còn người bây giờ hau mượn câu nói Mình chưa được độ mà độ người là Bồ-tát phát tâm, rồi đường tu còn mù mịt, sáu căn dính đầy sáu trần mà lo độ người, rốt cuộc bị người ta độ mình! Cũng chẳng khác nào chưa biết lội mà cứu người chết đuối, có đúng là Bồ-tát chưa? Như vậy là mình ứng dụng câu nói của người xưa vào trường hợp không đúng.

Chúng ta cũng có quyền chọn câu nói khác: Chính mình đã được giác ngộ viên mãn, rồi hay giác ngộ cho người khác là Phật ra đời. Giả sử mình không làm Bồ-tát mà làm Như Lai thì càng tốt. Vì có nhiều người nói ai chỉ lo ngồi tu là ích kỷ, không phải Bồ-tát hạnh. Tuy chưa độ người mà muốn làm Phật viên mãn rồi mới độ người thì có lỗi gì? Như vậy hiểu cho thấu đáo chúng ta khỏi nghi và cũng khỏi lầm lời nói của người xưa.

Khi ấy đức Thế Tôn ở trong đại chúng khen ngợi A-nan:

– Lành thay! Lành thay! Như lời ông hỏi về cách an lập đạo tràng để cứu độ chúng sanh chìm đắm ở trong đời mạt kiếp. Nay ông lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.

A-nan và đại chúng lặng yên chờ nghe Phật dạy.

Như vậy do lời hỏi của ngài A-nan, từ đây Phật mới chỉ dạy.

1. Nghĩa quyết định về đoạn tâm dâm

Phật bảo A-nan:

– Ông thường nghe ta ở trong giới luật tuyên nói tu hành có ba nghĩa quyết định, đó là: nhiếp tâm là giới, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ. Đây gọi là ba Vô lậu học.

Tỳ-nại-da là tiếng Phạn, dịch là luật nghi, cũng dịch là điều phục. Ba Vô lậu học này là ba nghĩa quyết định mà trong giới luật đức Phật thường nói tới. Người tu Phật nếu thiếu một trong ba thì quyết định không thể tiến tới chỗ viên mãn đạo quả được. Vì vậy mà nói ba nghĩa quyết định:

– Thứ nhất là Giới.

– Thứ hai là Định.

– Thứ ba là Tuệ.

Này A-nan, thế nào là nhiếp tâm, ta gọi là Giới?

Đây nói về giới ở tâm chứ không phải giới nơi thân nữa. Các phần trước dạy giữ giới nơi thân, đó là phần thô thuộc giới tướng, đến đây là phần tế thuộc giới tánh, tức đi tới chỗ giải thoát nên nói giới ở tâm. Nếu tâm niệm không thanh tịnh thì mầm ô nhiễm trầm luân vẫn còn, có cơ hội thuận tiện liền nảy mầm, sanh khởi. Do vậy muốn được giải thoát hoàn toàn thì mầm nhân phải dứt sạch.

Nếu chúng sanh trong sáu đường ở các thế giới, tâm họ chẳng khởi dâm dục thì không theo đó mà sanh tử tiếp nối.

Tâm thật không có dâm. Niệm khởi về ái dục gọi là tâm dâm. Nếu tâm đó dứt thì nhất định không còn tiếp tục sanh tử.

Ông tu chánh định, vốn để ra khỏi trần lao, nếu tâm dâm dục không trừ thì không thể ra khỏi được.

Phật dạy phải dứt tâm dâm, vì dâm gốc từ ái, mà ái là trói buộc. Chúng ta muốn thoát ra mà lại buộc thì làm sao ra! Cho nên Phật chỉ rõ: nếu muốn ra khỏi trần lao thì phải dứt tâm dâm.

Dù có nhiều trí tuệ, thiền định hiện tiền, nếu như chẳng đoạn tâm dâm thì chắc hẳn rơi vào đường ma. Hạng trên là ma vương, hạng giữa là ma dân, hạng thấp là ma nữ.

Tôi nhớ lại những năm dạy học ở Trà Vinh 1958 – 1959, chùa Lưỡng Xuyên cũng có một số chúng tăng ở. Ma nữ nhập vào một thầy, nó tuyên bố dứt khoát rằng: Ở chỗ nào nhiều chư tăng thì ma nữ tới phá, còn chỗ nào có chư ni thì ma nam tới phá, bởi vậy, nay ma nữ theo phá mấy thầy. Nó nói rõ ràng như vậy. Do đây, chúng ta thấy trong kinh nói ma nữ không phải là không có.

Có hai kiểu ma nữ: ma vô hình và ma hữu hình. Về ma hữu hình, nhiều thanh niên ở thế gian có dáng vẻ tốt đẹp mà ít ai theo đuổi, trái lại có nhiều thầy, dầu xấu xí vẫn bị người theo. Tại sao? Đó là do ma nữ dựa vào những cô gái kia, xúi giục họ. Vậy nên khi thấy người ta theo đuổi đừng vội mừng, tưởng người ta thương mình, phải biết đó là ma phá.

Vì vậy rất khó cho người tu, nhất là mấy ông thầy trẻ. Nếu bị ma nữ phá, nó dựa vào người này người kia nói ra thì mình còn biết để sợ. Còn ma dựa mà không nói, cứ xúi người đó thương, đó mới thật là khó lường. Nhiều khi mình hãnh diện, tưởng đâu mình có duyên được người thương, không ngờ chính đó là họa. Ma nó muốn lôi mình đi, làm chướng con đường Bồ-đề của mình. Hiểu vậy rồi phải cẩn thận dè dặt.

Như vậy có những loài ma phá phách ngăn trở con đường Bồ-đề, khiến cho người tu khó thành đạo quả.

Những loại ma kia cũng có đồ chúng. Mỗi mỗi loại ma đều tự cho là thành đạo Vô thượng rồi.

Ma cũng có đồ đệ. Hiện nay vẫn có những con ma đang kiếm mấy ông thầy trẻ dụ dỗ phá phách. Nó nói đạo rất hay, mình khó bẻ nổi. Nó thương mấy ông thầy, thường nói “Thầy tu còn trẻ sợ gặp khó khăn nên đi theo ủng hộ mọi mặt”. Đó là loại ma nữ hiện tại vẫn có. Loại ma này đẹp đẽ, dễ coi chứ không xấu xí. Vì vậy quý vị muốn đi đến nơi đến chốn trên đường Bồ-đề phải ráng dè dặt, đừng xem thường mà có khi bị ma lẫn vào trong đó lôi kéo, rồi nguyện lớn của mình không thành.

Sau khi ta diệt độ, trong thời mạt pháp có nhiều loại ma dâm này hưng thịnh ở thế gian. Phần nhiều làm việc tham dâm mà cho là thiện tri thức, khiến các chúng sanh rơi vào hầm ái kiến, mất con đường Bồ-đề.

Những loại ma này đầy tràn ở thế gian chứ không phải ít. Nó khen những người làm việc tham dâm, cho đó là thiện tri thức, khiến cho những chúng sanh phát tâm tu hành rơi vào ái kiến, mất con đường Bồ-đề.

Ông dạy người đời tu về chánh định, trước phải đoạn tâm dâm. Đây gọi là lời dạy sáng suốt thanh tịnh, quyết định đệ nhất của Như Lai, Phật Thế Tôn trước.

Nêu ba danh hiệu để nói lên sự quan trọng: Phật, Thế Tôn, Như Lai đều dạy như vậy. Chư Phật đời này đời trước đều chỉ dạy như vậy.

Thế nên A-nan, nếu người không đoạn dâm mà tu thiền định thì giống như nấu cát đá mà muốn thành cơm. Dù trải qua trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là cát đá nóng thôi. Vì sao? Vì đó là cát đá, không phải là bản nhân của cơm. Ông dùng thân dâm để cầu diệu quả Phật thì dù được diệu ngộ cũng đều là gốc dâm mà thôi. Cội gốc đã thành dâm thì phải luân chuyển trong ba đường ắt không thể ra khỏi, vậy quả Niết-bàn của Như Lai do con đường nào mà tu chứng?

Nếu đã đi trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì không còn có con đường nào để tiến đến được Niết-bàn của Như Lai.

Hẳn phải khiến thân tâm đều đoạn hết gốc dâm, tánh đoạn cũng không thì đối với Bồ-đề Phật, người này có thể hy vọng được.

Đoạn đây nói không chỉ đoạn ở thân mà cả nơi tâm. Muốn trừ sạch tâm dâm phải dùng trí quán, luôn nỗ lực chiếu soi thấy thân mình, thân người đều là huyễn ảo, thân nam thân nữ cũng chỉ là cái máy thôi. Cái máy còn động thì còn sinh hoạt, hết động thành thây chết không nghĩa lý gì, có gì mà gọi là nam là nữ để sanh ra ái. Do quán sát như vậy, có thể dứt được niệm tham ái.

Thân và tâm đều đoạn dứt, rồi ý nghĩ đoạn đó cũng không còn nữa. Ví dụ như có người do tham tiền tham của nên nghĩ đến trộm cắp. Khi tay lấy của người, đó là thân phạm giới trộm. Do còn lòng tham nên thân hoặc tâm có phạm giới ăn trộm. Nhưng nếu người kia biết tu, nghĩ phải dứt tâm tham đó, nên vừa dấy niệm khởi tham là rầy nó chặn nó. Khởi niệm dứt đó để chặn đứng tâm tham, khi tâm tham hết rồi thì ý nghĩ chặn đứng đó cũng không còn. Nếu còn nghĩ chặn đứng là vẫn còn tâm tham. Cho nên khi tâm tham hoàn toàn không khởi nữa thì ý nghĩ chặn đứng cũng dứt không còn, gọi là tánh đoạn cũng không.

Như vậy để thấy, ban đầu là bỏ lỗi lầm, xa lìa được lỗi lầm rồi thì niệm xa lìa cũng phải hết. Khi chúng ta còn dấy niệm răn nhắc mình, tức là còn có cái dở nhỏ nhiệm ở trong, đến khi thật sạch rồi thì không còn có niệm nào gọi là xa lìa nữa, vì tới chỗ đó đã hoàn toàn tự tại. Được như vậy người đó mới hy vọng có phần đối với Bồ-đề Phật.

Như lời ta nói đây gọi là Phật nói, không như lời nói này tức là ma Ba-tuần nói.

Chúng ta tu phải lấy lời Phật dạy làm gương soi. Điều nào đúng như Phật dạy thì tin, không đúng thì không tin. Người học Phật phải lấy kinh luật làm dây mực, không thể làm sai rồi ngụy biện cho việc làm của mình là ngoại lệ. Trong kinh luật Phật không có những trường hợp ngoại lệ đó. Dù người nói Phật pháp hay thế nào mà phạm những lỗi này thì cũng không thể gọi là thuần chất Phật pháp được.

Trong giới của cư sĩ, giới thứ nhất là giới sát, còn trong giới của người xuất gia, thứ nhất là giới dâm. Do vì xuất gia là để giải thoát sanh tử, muốn dứt mầm sanh tử luân hồi thì đừng gieo nhân sanh tử nên trước cần dứt tâm dâm.

2. Nghĩa quyết định về đoạn tâm giết hại

Này A-nan, lại chúng sanh trong sáu đường trên các thế giới, không có tâm sát hại thì không theo đó mà tiếp tục sanh tử. Ông tu chánh định vốn muốn ra khỏi trần lao, không trừ tâm sát hại thì không thể ra khỏi trần lao. Dù có nhiều trí tuệ, thiền định hiện tiền, nếu không dứt trừ tâm sát ắt rơi vào thần đạo. Người bậc trên thành đại lực quỷ, bậc giữa làm phi hành dược-xoa, các loài quỷ soái v.v…, bậc dưới làm địa hành la-sát.

Đây cũng là quỷ nhưng gọi là thần. Thần và quỷ đều là người âm, nếu ít phước thì gọi là quỷ, còn có phước và có uy lực hơn gọi là thần. Ví dụ những người đi đánh giặc thắng trận chết được phong thần. Đó cũng là quỷ thôi, ở trong nghiệp quỷ nhưng có uy lực, có đồ đệ sai khiến được.

Phi hành dược-xoa là loài dược-xoa bay đi trong không. Địa hành la-sát là loài la-sát đi dưới đất không bay được.

Các loài quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều tự cho là đã thành đạo Vô thượng. Sau khi ta diệt độ, ở trong đời mạt pháp, phần nhiều các loại quỷ thần này hưng thịnh ở thế gian, tự nói ăn thịt được đạo Bồ-đề.

Qua những kinh nghiệm trên thế gian, chúng ta thấy có những người tu thành quỷ thần, người ta hay gọi là bề trên, ở cõi trên. Những người đó tự cho mình đã được đạo, họ tự mãn trong cảnh của họ chứ không thấy rằng mình là quỷ thần. Do vậy họ cũng thâu đồ đệ, khi dựa ai, bắt ai, phá ai, họ cũng nói đi theo con đường của họ sẽ được an vui sung sướng.

Như hôm rồi, có một cô tự xưng là mẹ trên sai xuống, dựa vào một người đàn bà, đến chỗ tôi nói rằng cô muốn đi giáo hóa những người này người kia, hướng dẫn họ về hầu mẹ. Như vậy những người trên kia sai đồ đệ họ xuống. Họ tưởng là họ đang giáo hóa mọi người, cho về trên kia hưởng cảnh thanh nhàn sung sướng, chứ không nghĩ họ cũng đang đi trong đường quỷ thần. Vì vậy rất dễ bị lầm. Quý vị nào có nghiên cứu kỹ các tôn giáo ở Việt Nam, sẽ thấy có những lối tu này.

Này A-nan, ta cho phép các thầy Tỳ-kheo ăn ngũ tịnh nhục. Thịt này đều do thần lực của ta biến hóa mà sanh ra, vốn không có mạng căn. Xứ Bà-la-môn các ông đất phần nhiều nóng ướt, lại thêm cát sỏi nên rau cỏ không thể sanh sống. Ta do lòng đại bi, dùng sức thần lực mà gia bị. Nhân lòng đại từ bi giả gọi là thịt, các ông mới được cái vị kia.

Trong giai đoạn ban đầu Phật mới thành đạo, có một số thầy Tỳ-kheo đi khất thực, Phật cho ăn ngũ tịnh nhục là năm thứ thịt thanh tịnh: không thấy giết, không nghe giết, không nghi giết cho mình ăn, con vật tự chết, thịt còn thừa do những con thú khác giết ăn còn dư lại. Do các thầy Tỳ-kheo đi tới xứ của Bà-la-môn, đất đai khô cằn. Những vùng ở gần sa mạc không có rau cải nên không có đồ chay để ăn, Phật mới hóa ra những con cá chết, nai chết, dân lấy đó xẻ thịt cúng dường chư tăng. Chư tăng tuy ăn thịt cá, nhưng đó là do oai thần của Phật hóa hiện chứ không phải thật.

Tại sao, sau khi Như Lai diệt độ, người ăn thịt chúng sanh mà gọi là Thích tử! Các ông phải biết, người ăn thịt ấy dù tâm được khai mở, giống như được chánh định, đều là đại la-sát. Khi báo thân mạng chung, ắt chìm trong biển khổ sanh tử, không phải là đệ tử của Phật. Người như thế giết nhau, ăn nuốt lẫn nhau chưa thôi dứt, làm sao người ấy được ra khỏi tam giới?

Phật quở nặng quá! Người ăn thịt chúng sanh sẽ chìm trong biển sanh tử. Vì còn giết nhau, ăn nuốt nhau chưa thôi thì làm sao ra khỏi tam giới. Do vì nợ trả không xong, làm sao ra khỏi ba cõi.

Kinh này nặng về Đại thừa, lấy đại bi làm trên. Do lòng đại bi, đối với tất cả chúng sanh đều thương, muốn cho chúng sanh thảy được giải thoát an lạc. Vì vậy không vì sự sống của mình mà dùng tới sinh mạng hay dùng thịt của chúng sanh. Đức Phật đại bi nên đệ tử Phật cũng học theo tâm đại bi đó.

Ông dạy người đời tu chánh định, kế đó phải dứt trừ sát sanh. Đây gọi là lời dạy rõ ràng, thanh tịnh, quyết định thứ hai của Như Lai, Phật Thế Tôn trước. Thế nên A-nan, nếu người không dứt trừ giết hại mà tu thiền định, cũng giống như có người tự bít kín lỗ tai của mình rồi lớn tiếng kêu to mà mong người khác chẳng nghe. Những người này gọi là muốn ẩn mà càng lộ ra.

Lấy tay bít hai tai lại rồi la lớn, mình không nghe lại tưởng mọi người không nghe, đây gọi là muốn ẩn lại càng lộ, muốn kín mà lại bày.

Những Tỳ-kheo thanh tịnh và các vị Bồ-tát đi trên con đường nhỏ còn không đạp cỏ tươi, huống là lấy tay nhổ. Tại sao người có lòng đại bi lại lấy máu thịt của chúng sanh mà ăn cho no?

Nếu các vị Tỳ-kheo không mặc tơ lụa phương đông và dùng những giày dép, áo lông cừu, sữa, tô lạc, đề-hồ v.v… cõi này, những Tỳ-kheo như thế ở trong đời này thật là giải thoát, trả xong nợ đời trước rồi thì không còn đi trong tam giới nữa.

Ở Ấn Độ, nói phương đông tức chỉ Trung Hoa. Ngày xưa tơ lụa làm bằng tơ tằm, là sanh mạng của chúng sanh. Giày dép làm bằng da súc vật, cho tới sữa, tô lạc… cũng là những phần trong thân chúng sanh.

Vì sao? Dùng những phần của thân chúng sanh đều chịu duyên nợ với chúng. Như những người ăn trăm thứ cốc gạo ở trong đất thì chân họ cũng không rời đất. Quyết khiến thân tâm đối với các chúng sanh, hoặc toàn thân hoặc bộ phận của thân, hai đường thân tâm đều không mặc không ăn, ta nói người ấy thật là giải thoát.

Như lời ta nói đây gọi là Phật nói, không như lời nói này tức là ma Ba-tuần nói.

Khi tu phải lấy lời Phật dạy làm kỷ cương. Nếu người nào làm trái lời Phật, dù họ cho là hay mình cũng đừng vội theo. Vì tin theo thì một ngày nào đó sẽ bị dẫn vào đường tà. Muốn giải thoát khỏi trần lao, ra khỏi ba cõi thì đừng có nợ gì trong cõi này, cũng như muốn dứt sanh tử thì đừng gieo mầm sanh tử. Ăn thịt chúng sanh tức là vay nợ chúng sanh, đền trả mãi không thôi, làm sao thoát ly được!

Tuy nhiên, bên Phật giáo nguyên thủy, các sư ăn mặn cũng có lý do. Trong sử nói, lúc ban đầu Phật không bắt buộc ăn chay, nên ngày nay các ngài tu theo những hạnh ban đầu đó. Hơn nữa  các ngài lấy điều này làm y cứ rất vững chắc: Đề-bà-đạt-đa đưa ra năm điều yêu cầu Phật thực hành, trong đó có điều “không ăn thịt cá”, Phật không chấp nhận lời đề nghị đó. Do vậy các ngài cho rằng ăn chay là theo Đề-bà-đạt-đa, chứ không phải theo Phật.

Có nhiều gia đình Phật tử nhà ở thôn quê. Họ cũng tu nhưng lâu lâu có khách tới, nhà không có sẵn thức ăn mà có nuôi gà vịt, nên phải giết gà vịt để làm cơm. Người giữ giới nói: “Tôi không cắt cổ gà vịt, ai cắt thì người đó phạm giới.” Tuy nhiên, nấu nướng xong thì cùng ăn. Mình không tự tay cắt cổ chúng nhưng người khác làm rồi mình hưởng. Như vậy người cắt cổ chịu tội hết còn những người cùng ăn không có tội gì, vậy thì có công bình và hợp đạo lý không?

Bởi vậy nếu chúng ta không muốn cho người ta cắt cổ gà vịt, tốt hơn hết là mình đừng ăn. Còn nếu đã đồng ý ăn thì phải chia sớt với người ta một phần tội lỗi. Người ta làm cho mình ăn, để rồi phải chịu tội hết thì lòng từ bi bình đẳng đâu có. Mình muốn thảnh thơi mà để ai khổ mặc họ thì không được. Không thể nói rằng “Ai làm gì không biết, miễn đem lên thì tôi ăn, không có tội”, e chưa được hợp lý lắm.

3. Nghĩa quyết định về đoạn tâm trộm cắp

Lại nữa này A-nan, chúng sanh trong sáu đường trên các thế giới, tâm họ không trộm thì không theo đó mà tiếp tục sanh tử. Ông tu chánh định vốn muốn ra khỏi trần lao, nếu không trừ tâm trộm thì không thể ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí tuệ, thiền định hiện tiền, nếu không dứt trừ tâm trộm cắp ắt rơi vào đường tà. Hạng trên làm tinh linh, hạng giữa làm yêu mỵ, còn hạng dưới làm người tà, bị các loài quỷ mỵ dựa. Những bọn tà kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự bảo là thành đạo Vô thượng.

Phật dạy đoạn lòng trộm cắp, là không có tâm gian tham lừa dối để lấy của người. Gian tham lừa dối bằng cách này cách nọ, cho tới trá hình người tu để lừa gạt thế gian. Như bậc dưới chúng ta dễ thấy, có nhiều người ợ ngáp mà cũng có đồ đệ, người ta cũng kính nể quỳ lạy, cũng theo cũng phục. Nếu căn cứ theo kinh Lăng-nghiêm này thì đó là do họ tu mà không giữ giới trộm. Bởi không giữ giới trộm tức tâm còn tham lam nên bị ma quỷ dựa, lại cho là mình hay, có những điều mầu nhiệm, có đồ đệ theo, tự cho mình được Vô thượng đạo. Họ không bao giờ nói tu theo họ là sai, là lạc đường tà.

Sau khi ta diệt độ, trong đời mạt pháp phần nhiều loài yêu tà này hưng thịnh ở thế gian. Chúng ẩn nấp gian dối xưng là thiện tri thức, mỗi người tự nói đã được pháp thượng nhân, lừa gạt người không biết, khủng bố khiến cho tâm sợ sệt. Chỗ họ đi qua, những nhà kia thường hao tài tốn của.

Pháp thượng nhân là pháp cao hơn người, là pháp thánh. Những người bị loài yêu mỵ dựa đi tới nhà nào, nhà đó đang bình an nhưng bọn họ dọa nhà này nếu không cúng rồi đây sẽ bị tai nạn… Họ khủng bố cho người ta sợ phải cúng, rồi bày ra mua sắm đủ thứ đồ cúng, làm hao tài tốn của. Những điều này trong thế gian xảy ra khá nhiều, người ta cũng dễ tin theo. Bọn này thường ăn mặc sang trọng ra vẻ bà này ông kia.

Chúng ta nên hiểu thật kỹ, dạy Phật tử biết rõ ràng, đừng lầm những việc này. Phải biết đó là có những loài tà mỵ dựa vào rồi xưng thánh xưng thần này nọ. Như Tề Thiên Đại Thánh là nhân vật tiểu thuyết, nhưng những người lên đồng có khi cũng xưng là Tề Thiên Đại Thánh. Vậy đâu có gì là thật, chỉ là mạo xưng. Lại còn xưng Phật Di-lặc, Phật Bà Quan Âm v.v… Phật và Bồ-tát đủ ba mươi hai ứng thân, khi nào cần độ người thì ứng hiện thân người để độ chứ đâu cần dựa ai, dựa vào cái thân hôi hám làm gì? Chỉ có ma mỵ không tự ứng thân được, mới dựa vào người khác rồi xưng là những bậc trên, khủng bố cho người ta sợ.

Bọn ma này thường nói, theo ta thì ta cứu cho sống, không theo ta thì chết. Nó cũng bảo phải ăn chay phải tu hành, nói một vài câu nghe có vẻ đạo lý. Người đời nghe vậy tưởng là hay, vì thấy họ cũng dạy làm lành, chứ không ngờ đó là bọn phá hoại, làm cho mọi người mất hết tâm chân chánh, rồi phải đọa trong đường tà. Đó là mối hiểm họa của người tu hiện giờ.

Chúng ta không biết thì thôi, nếu biết thì ráng chỉ dạy, nhắc nhở cho người thế gian hiểu điều sai điều bậy, điều tà. Dầu cho chúng xưng ông bà gì đi nữa cũng là mạo xưng. Người ta hay nói “mưu thần chước quỷ”, nghĩa là mưu phá hay là mưu của mấy ông thần, còn mẹo chước tài tình nhất là của quỷ, nó dùng mọi cách khéo léo để lường gạt mà mình không biết.

Ví dụ như có người cầu cơ, mới vô luôn xưng là bậc cao, hoặc là thánh, hoặc là nhà thơ… cho người ta quý. Có khi họ nói lành cũng có khi nói dữ, phần nhiều nói những chuyện sắp tới, hoặc nói “sắp tận thế rồi ráng mà tu”… Nhưng thỉnh thoảng lại bảo phải làm theo họ để được cứu. Chúng lại còn phong chức phong tước cho. Người theo họ, thấy mình tu chưa bao lâu mà được phong chức phong thánh thì rất thích. Có nhiều người không bị cái danh ở thế gian lừa mà lại bị danh của quỷ thần lừa. Có nhiều điều rất sai lầm, không thể nào nói hết cho mọi người được.

Ở thế gian, dầu cho người khôn ngoan mấy cũng vẫn bị gạt như thường. Còn đường đạo thì chỉ cho chúng ta lẽ thật, không bị người gạt gẫm. Ma quỷ thường tìm cách này mưu kia để lường gạt mọi người. Với kẻ hiếu danh, nó nói cũng như vậy thì chức quyền không mất, người hiếu sắc thì nó đưa sắc ra dụ, kẻ ham tài lợi thì đem tài lợi lừa… Những trường hợp này không thiếu. Rất nhiều người vì kẹt trong danh lợi tài sắc mà bị chúng lừa gạt dẫn đi.

Ta dạy các thầy Tỳ-kheo theo thứ lớp đi khất thực, khiến bỏ lòng tham để thành đạo Bồ-đề.

Người đi khất thực thì không chứa chấp, tức bỏ lòng tham để được đạo Bồ-đề; còn người cúng, nhường phần ăn của họ cũng bỏ lòng tham. Phật sợ mọi người nghi chư Tỳ-kheo đi đến đâu thí chủ cũng hao tài tốn của, vậy cũng giống như bọn ma mỵ sao? Cho nên Phật giảng rõ đệ tử Phật là những Tỳ-kheo đi khất thực, thí chủ cúng dường cũng phải hao tốn, nhưng hao tốn để bỏ lòng tham, thành đạo Bồ-đề. Người làm việc bố thí, do bỏ lòng tham mới đem ra bố thí được; còn cúng cho quỷ thần là tăng thêm lòng tham, nghĩ cúng sẽ được cái này cái kia.

Các thầy Tỳ-kheo không tự nấu ăn, gửi đời tàn này làm người khách tạm đi trong tam giới, hiện thân một lần qua lại, đi rồi không trở lại. Tại sao kẻ giặc giả mượn y phục của ta mà mua bán Như Lai? Tạo các thứ nghiệp đều nói là Phật pháp, lại chê bai những người xuất gia thọ giới Cụ túc làm Tỳ-kheo là đạo Tiểu thừa. Do đó làm vô lượng chúng sanh nghi lầm, đọa trong địa ngục Vô gián.

Câu này Phật quở nặng quá: Người xuất gia rồi, chỉ mượn gá cái thân tàn, tạm đến cõi này để tu một đời cuối, nghĩa là tới đây một phen không còn trở lại nữa, chứ không phải ở đây đời đời để lập sự nghiệp trong tam giới. Vậy thì tại sao được đắp y ca-sa đàng hoàng mà lo tính toán chuyện làm giàu, thấy chỗ nào có thí chủ đạo tâm kha khá thì tới đó xin, hoặc tổ chức cái này cái kia để cầu lợi. Gây những việc tội lỗi lại nhân danh người tu để làm. Đó là mượn y phục của Như Lai mà mua bán Phật.

Nhiều người nói mình làm việc này việc kia là vì đạo, trong khi ngầm tính tiền lời lỗ. Đó là bệnh của chúng sanh bây giờ, mượn danh Phật pháp, mượn chiếc áo của Phật mà làm chuyện buôn bán. Lại chê bai người xuất gia, làm Tỳ-kheo thọ giới Cụ túc là đạo Tiểu thừa, còn ta đây mới là Đại thừa. Ngày nay gạt được mọi người nhưng sau sẽ lãnh quả báo.

Sau khi ta diệt độ, nếu có những Tỳ-kheo phát tâm quyết định tu thiền định, hay ở trước hình tượng Như Lai, đốt thân làm một ngọn đèn, hoặc đốt một ngón tay hay ở trên thân đốt một liều hương. Ta nói người ấy, nợ trước từ vô thủy một lúc đều trả xong, từ biệt thế gian, vĩnh viễn thoát khỏi các lậu.

Đức Phật muốn cho chúng ta biết người quyết tu thì coi thường thân này. Thân còn không tiếc huống là ăn mặc hay những nhu cầu khác. Cho nên nói đốt thân, đốt ngón tay, đốt liều, ý là không tiếc thân, người đó mới là người xá dài thế gian, từ giã ba cõi mà đi luôn.

Người có tinh thần xả thân sẽ ra khỏi tam giới một cách dễ dàng, người nào còn nặng về thân, quý tiếc thân thì khó ra khỏi tam giới. Có người nghe nói vậy liền phát tâm đốt thân, đốt thì đốt mà động tới thân vẫn còn quý tiếc, đó là chưa phải. Hoặc bị bắt buộc đốt liều, đốt để cho mình thành Tỳ-kheo, không đốt thì bị hiểu lầm mình không phải Tỳ-kheo, đều là những quan niệm không đúng lẽ thật.

Người ấy tuy chưa sáng tỏ con đường Vô thượng giác, nhưng đối với pháp đã có tâm quyết định. Nếu chẳng làm cái nhân nhỏ xả thân này thì dù có thành tựu vô vi ắt cũng còn trở lại sanh làm người để trả nợ đời trước, như ta bị nạn mã mạch, thật không sai khác. Ông dạy người thế gian tu về chánh định, sau khi phải dứt trừ trộm cắp. Đây gọi là lời dạy rõ ràng, thanh tịnh, quyết định thứ ba của Như Lai, Phật Thế Tôn trước.

Đức Phật cũng còn phải trả quả báo ăn lúa ngựa. Có Bà-la-môn tên A-kỳ-đạt rất giàu có, được Tu-đạt giới thiệu đến gặp Phật và nghe thuyết pháp. A-kỳ-đạt vui mừng thỉnh Phật và chư tăng đến chỗ ông là xứ Tùy Lan Nhiên giáo hóa trong ba tháng. Nhưng khi Phật cùng năm trăm vị Tỳ-kheo đến đó, A-kỳ-đạt bị thiên ma mê hoặc, chìm đắm trong ngũ dục, không tiếp khách trong ba tháng.

Vùng đó đang bị đói kém nên Phật và chư tăng không khất thực được thức ăn. Có một người làm nghề huấn luyện ngựa, lấy bớt phần lúa mạch của ngựa dâng cúng Phật và chư tăng. Sau ba tháng, Phật dạy tôn giả A-nan đến nhà ông Bà-la-môn báo tin sẽ đi nơi khác. A-kỳ-đạt ân hận, đến chỗ Phật xin sám hối vì bị si ám không nhớ lời hứa và xin Phật ở lại bảy ngày để được cúng dường. Phật nhận lời và kể cho các Tỳ-kheo nghe nhân duyên trước.

Trong thời quá khứ có vua Tần Đầu, chuẩn bị trai lễ hết sức trang nghiêm để cúng dường đức Phật Duy Vệ. Có vị Phạm chí cùng năm trăm đệ tử trông thấy sanh tâm tật đố, vị Phạm chí nói: “Người đời thật mê muội, dâng món ăn cao sang cho người ấy làm gì. Ông ấy chỉ xứng được ăn lúa mạch của ngựa.” Năm trăm đệ tử cũng nói theo thầy.

Vị Phạm chí thuở ấy chính là tiền thân Phật, năm trăm đệ tử là năm trăm Tỳ-kheo cùng bị ăn lúa ngựa. Do nhân xấu xưa, dù đã thành đạo đức Phật vẫn phải trả quả báo trước.

Thế nên A-nan, nếu không dứt trừ trộm cắp mà tu thiền định thì giống như có người rót nước vào cái chén lủng, mong cho nó được đầy, dù trải qua số kiếp như vi trần trọn không thể đầy được.

Phật xác định rõ ràng người tu thiền định phải đoạn tâm trộm cắp.

Nếu các Tỳ-kheo, ngoài y bát ra, một phân một tấc gì cũng không được tích chứa. Khất thực phần còn dư, nên bố thí cho các chúng sanh đói. Ở những chỗ chúng tăng nhóm họp đông đảo thì nên chắp tay lễ cúng. Nếu có người đánh chửi mình thì coi như là khen ngợi.

Phật dạy Tỳ-kheo chỉ có ba y và một bình bát, nếu có dư một phân một tấc cũng không chứa, khất thực nếu có dư thì cho chúng sanh ăn. Chúng ta phải biết rõ để bớt lòng tham. Ngày nay không thể hành hạnh khất thực như thời Phật, là vì có chùa, có nơi chốn ăn ở, do đó phải để dành. Nhưng phải giữ tâm mình, thấy đó là của đại chúng, của chung chứ không phải của riêng. Mình giữ cho chúng chứ không phải giữ cho mình. Khi xài cũng tiết kiệm, vừa phải vừa đủ, không phung phí, đó cũng là biết giữ theo lời Phật dạy.

Chúng ta đừng hiểu lầm, nghe Phật dạy như vậy, nhìn lại bây giờ mình có chùa chiền, có lúa gạo sẵn, cho là trái với đạo hoặc đi sai đường. Thật ra thời đức Phật, tại Ấn Độ người dân không trọng những người tu có chùa ở, nấu ăn tại chỗ mà lại trọng những người đi khất thực. Hai hoàn cảnh khác nhau. Nếu chúng ta lấy đó làm mẫu thì không được. Phải cần thấu rõ trọng tâm của lời dạy đó, hiểu đúng tinh thần Phật dạy chúng ta là đừng tham, đừng chất chứa, đừng lo riêng cho mình.

Khi chúng tăng nhóm họp đông đảo, chúng ta trông thấy phải chắp tay đảnh lễ đại chúng chứ không nên ngạo mạn. Chúng ta hay có bệnh tự cao, coi thường người khác, nên Phật dạy phải khiêm hạ đối với mọi người, trong chỗ đông đảo luôn luôn kính nhường. Ai đánh đập mắng chửi mình thì coi như là lời tán thán khen ngợi chứ đừng thù giận. Điều này mình làm được chưa? Đừng nói đánh, chỉ mắng chửi thôi mà mình không giận không thù cũng là bậc ưu rồi.

Bây giờ chúng ta tu, những gì Phật dạy phải cố gắng làm, được tới đâu mừng tới đó, chứ đừng cho rằng làm không nổi rồi bỏ luôn. Dù chưa làm được trọn vẹn cũng phải gắng hết sức. Giả sử người ta mắng chửi nhè nhẹ thì mình ráng nhịn, còn họ mắng chửi hơi nặng, nếu có cãi lại cũng ít ít thôi. Khi họ đánh đập mình thì chạy đi, chứ đừng phản ứng hung dữ với họ.

Quyết buông bỏ cả thân và tâm. Xem thân thịt xương máu mình cùng giống với chúng sanh. Không đem lời dạy bất liễu nghĩa của Như Lai lại làm chỗ hiểu của mình, khiến người mới học lầm lạc. Phật ấn chứng người này được chánh định chân thật. Như lời ta nói gọi là Phật nói, không như lời này tức là ma Ba-tuần nói.

4. Nghĩa quyết định về đoạn trừ đại vọng ngữ

Này A-nan, như thế những chúng sanh trong sáu đường trên các thế giới, tuy thân tâm không sát sanh, trộm cắp, dâm dục, ba hạnh đã tròn, nếu đại vọng ngữ tức chánh định không được thanh tịnh, thành ma ái kiến, mất hạt giống Như Lai. Nghĩa là chưa được nói đã được, chưa chứng nói đã chứng. Hoặc mong người thế gian tôn trọng mình bậc nhất, ở trước người, nói: Nay ta đã được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, đạo A-la-hán, thừa Bích-chi Phật, hoặc các vị Bồ-tát Thập địa, trước Thập địa… Mong những người kia lễ sám, tham sự cúng dường của họ. Đây là một kẻ ngu si, tiêu diệt hạt giống Phật. Như người dùng dao chặt cây đa-la, Phật ấn ký người này mất hẳn căn lành, không còn chánh tri kiến, chìm trong ba biến khổ, không thành được chánh định.

Đại vọng ngữ là chưa được nói được, chưa chứng nói chứng… Ví dụ như trong chúng bốn năm mươi người, gặp ai mình cũng khoe là tôi đắc đạo, đắc Tu-đà-hoàn v.v… để mọi người thấy trong chúng này chỉ có mình là người đắc đạo số một, muốn mọi người tôn trọng mình hơn cả. Đây là một bệnh lớn.

Trong các bậc tu của Bồ-tát có: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, và Tứ gia hạnh gọi là địa tiền, nghĩa là trước Thập địa, và từ Sơ địa trở lên là địa hậu.

Cây đa-la như cây dừa cây cau, chặt ngang ngọn thì không còn lên lại nữa. Người gạt gẫm người khác bằng cách tự xưng mình là thánh để được cung kính, sẽ mất đi hạt giống Phật, không thể có căn lành trở lại. Những người này chìm trong ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Ta dạy các Bồ-tát và A-la-hán sau khi ta diệt độ, ứng thân sanh trong đời mạt pháp kia, hiện các hình tướng để độ những người trầm luân. Hoặc làm Sa-môn, bạch y cư sĩ, vua quan, đồng nam đồng nữ, như thế cho đến làm dâm nam dâm nữ, quả phụ, kẻ gian dối, trộm cắp, đồ tể, buôn bán, cùng làm việc với họ, nhưng tán thán Phật thừa khiến cho thân tâm những người kia được vào chánh định. Trọn không tự nói ta thật là Bồ-tát, thật là A-la-hán, tiết lộ mật nhân của Phật, khinh xuất nói với những người chưa học, chỉ trừ khi sắp chết thầm có những lời di chúc, làm sao nói người này lừa gạt chúng sanh, thành tội đại vọng ngữ?

Như vậy trong mọi trường hợp mọi hoàn cảnh, các vị Bồ-tát, A-la-hán có thể thị hiện làm hạnh đồng sự, tức cùng làm chung một công việc với đủ hạng người mà không bị nhiễm, cốt làm sao thức tỉnh cho mọi người biết có Phật thừa để phát tâm tu hành đạt được chánh định. Những người đó làm như vậy mà không bao giờ tự xưng mình là Bồ-tát là A-la-hán, tiết lộ mật nhân, tức để lộ nhân duyên Phật thầm giao phó, nói với những người chưa học. Chỉ khi nào sắp chết mới để lại một vài câu gì đó cho người đời biết.

Vậy nên trên đời này, có ai xưng Bồ-tát hoặc xưng này nọ thì chúng ta biết thuộc loại gì rồi. Bồ-tát thật thì khi vừa bị khám phá là đi liền chứ không ở lại. Trong sử có câu chuyện Hàn Sơn và Thập Đắc. Ngài Hàn Sơn từ trong núi lạnh Thiên Thai chạy ra, xin ở chùa Quốc Thanh. Vì không rõ tên ngài nên người ta gọi là Hàn Sơn (núi lạnh). Sa-môn Phong Can ở chùa Quốc Thanh, nhân đi qua Xích Thành gặp một đứa bé bị bỏ rơi, ngài đem về và đặt tên là Thập Đắc (Thập là lượm, Đắc là được).

Chùa Quốc Thanh thời đó rất thịnh, có cả trăm chúng. Hàn Sơn Thập Đắc rất thân nhau, thường ngày hai vị tỏ ra khờ khờ khạo khạo giống như kẻ điên khùng không ra gì. Đến bữa ăn, hai vị tự xưng xuống bếp kiếm cơm thừa canh cặn. Hôm nào không có thì lượm cơm rơi rớt ở sàn nước mà rửa ăn, khiến ai cũng khinh thị, cho là hai ngài bị điên. Suốt mấy năm trời như vậy. Thỉnh thoảng hai ngài nói hoặc làm thơ rất hay, ý nghĩa hợp đạo lý mà cũng không ai biết.

Trong chùa có thờ thần hộ trì già-lam, hàng ngày cúng thức ăn đều bị chim ăn hết. Thập Đắc dùng gậy đánh tượng thần, nói: “Đồ ăn của ông, ông còn không giữ được thì làm sao giữ được già-lam?” Đêm đó thần báo mộng cho tăng chúng cả chùa biết: “Thập Đắc đánh tôi.” Đến sáng, chúng tăng kể lại mộng đều giống như nhau. Bèn đến xem tượng thần thấy có chỗ bị bể, ai nấy đều hoang mang.

Sau đó ngài Phong Can tịch, theo giả thuyết thì cho ngài là Di-lặc thường cỡi cọp đi đây đó, có chỗ nói là Di-đà. Thứ sử Lư Khâu Dận bị bệnh nan y, các thầy thuốc đều bó tay. Một hôm ông ngủ nằm mộng thấy ngài Phong can cho ông bài thuốc và dặn sau khi lành bệnh nên vô chùa Quốc Thanh đảnh lễ hai vị Bồ-tát Văn-thù Phổ Hiền, hiện là Hàn Sơn và Thập Đắc. Thức dậy, ông theo lời ngài Phong Can chỉ dẫn, uống thuốc liền hết bệnh.

Sau khi hết bệnh ông đến chùa, được thầy trụ trì tiếp rước đàng hoàng. Ông nài nỉ cho gặp hai ngài Hàn Sơn và Thập Đắc. Thầy trụ trì không muốn cho Thứ sử gặp gai gã điên này, nhưng ông cứ nài nỉ nhất định phải cho gặp. Túng quá, thầy trụ trì cho người xuống nhà sau kêu hai vị ra. Gặp hai ngài, Lư Khâu Dận liền quỳ lạy. Hai vị nói: “Phong Can lắm lời, Di-đà đó mà chẳng biết, đến lạy ta làm gì!” Hai vị nắm tay nhau cười vang, chạy ra khỏi chùa, sau không ai biết tịch ở đâu.

Như vậy, khi mật nhân bị bày lộ các ngài liền đi. Bồ-tát ở với mình, mình không biết, tới chừng biết thì đã đi mất. Do đó chúng ta phải có tâm kính những người chung quanh như Bồ-tát, để lỡ khinh Bồ-tát thì có tội. Các vị Bồ-tát đôi khi giả những hạnh làm cho người ta khinh, đó là do không muốn bày mật nhân. Vậy mình cứ cung kính mọi người để giữ phần chắc, chứ đừng để sau hối hận không kịp.

Như chuyện ngài Hàn Sơn và Thập Đắc, nếp sống các ngài như vậy là để cảnh tỉnh chư tăng đừng phung phí của Tam bảo, nên các ngài ăn mót cơm rồi cơm đổ. Đến lúc biết rồi chúng tăng mới giật mình hối hận, sống với Bồ-tát bao nhiêu năm mà không biết, tưởng đâu là kẻ tầm thường không ra gì. Nên nói chỉ trừ khi sắp chết thầm có những lời di chúc. Như Hòa thượng Bố Đại khi sắp tịch để lại một bài kệ:

Di-lặc chân Di-lặc

Hoá thân thiên bách ức

Thời thời thị thời nhân

Thời nhân thường bất thức.

Dịch:

Di-lặc thật Di-lặc

Hóa thân trăm ngàn ức

Thường thường dạy người đời

Người đời lại chẳng biết.

Nói kệ xong ngài an nhiên thị tịch. Người đương thời cho ngài là hóa thân của Bồ-tát Di-lặc. Hồi còn sống thì không ai biết, đọc bài kệ mới biết là Di-lặc. Đó là chỗ đặc biệt của các ngài.

Tuy nhiên, nếu ai tự xưng là Bồ-tát thì chúng ta nên bái họ rồi lui đi, vì coi chừng đó là giả hiệu. Cho nên người xưng Bồ-tát thì mình tránh, còn những người không xưng Bồ-tát mà có tật này tật kia thì phải dè dặt, biết đâu là Bồ-tát thật, đừng vội khinh thường, chừng biết thì Bồ-tát đã đi mất, hối hận không kịp.

Ông dạy người đời tu chánh định, về sau lại đoạn trừ các đại vọng ngữ. Ấy gọi là lời dạy rõ ràng, thanh tịnh, quyết định thứ tư của Như Lai, Phật Thế Tôn trước. Thế nên A-nan, nếu không đoạn đại vọng ngữ kia thì như kẻ lấy phân người làm hình chiên-đàn, mong muốn có mùi thơm, điều đó không bao giờ được.

Lấy phân người phơi khô rồi nhồi nặn thành hình cây chiên-đàn, để mong được mùi thơm thì chẳng bao giờ được. Cũng như mình là phàm phu mà tự xưng là Bồ-tát, A-la-hán… mong cho người ta cúng dường cung kính, điều đó là ngu si.

Ta dạy các thầy Tỳ-kheo tâm ngay thẳng là đạo tràng. Nơi bốn oai nghi, trong tất cả hạnh còn không được giả dối, thì làm sao tự xưng đã được pháp thượng nhân?

Thế nào là bốn oai nghi giả dối? Ví dụ khi không có ai thì vừa đi vừa nhảy nhót, vừa thấy khác quý liền đi nghiêm chỉnh, ra vẻ đạo đức lắm vậy. Đó là những oai nghi giả dối. Hoặc khi không có ai thì thổi sáo ca hát, có Phật tử tới thì lấy kinh ra đọc nghiêm chỉnh. Đó là những việc giả dối để cho người khác lầm tưởng mình tu nhiều.

Ví như người nghèo khó mà dối xưng mình là đế vương, tự chuốc tội tru diệt, huống là Pháp vương, vì sao mà dám dối xưng? Nhân không chân chánh thì phải chuốc lấy quả cong vạy. Những người đó mà cầu Bồ-đề của Phật thì giống như người muốn cắn rốn mình, làm sao mà thành tựu! Nếu các Tỳ-kheo tâm như sợi dây đàn thẳng, tất cả đều chân thật vào chánh định, hằng không có các ma sự. Ta ấn chứng cho người này sẽ thành tựu tri giác Vô thượng của Bồ-tát. Như lời ta nói gọi là Phật nói, không như lời này tức là ma Ba-tuần nói.

Người tu hành tâm phải thẳng như dây đàn, tất cả đều chân thật: nói chân thật, làm chân thật, không lừa dối ai. Tuy nói chân thật có những trường hợp không tốt cho mình nhưng vẫn nói thật. Người chân thật tu về chánh định được an ổn, không bị trục trặc do những ma sự. Người gặp nhiều ma sự là do trước tạo những nghiệp không ngay thẳng, không chân thật nên bây giờ mới bị các chướng đó. Bởi vậy cùng tu mà có người rất thuận duyên, êm xuôi không trở ngại gì, lại có người tu nay bị chướng này mai tật nọ, ba hồi đau bốn hồi sợ, đủ thứ bệnh tật là tại sao? Tại tâm không thẳng như dây đàn nên mới bị ma sự rối rắm. Đó là vì nhân không chánh nên khi tu có những việc điên đảo xảy đến. Như vậy, tu hành phải ngay thẳng đừng cong vạy. Nhiều khi hình thức là người tu mà tâm không chân thật, điều này có xảy ra trong hiện tại. Vậy nên người tu phải vì đạo Bồ-đề chứ không vì lợi dưỡng quanh co.

Trong năm giới, ở đây Phật chỉ nói bốn giới: dâm, sát, trộm và đại vọng ngữ. Không chỉ giới ở thân mà luôn cả giới tâm, nghĩa là muốn được hoàn toàn thanh tịnh thì chẳng những thân không phạm lỗi mà tâm cũng phải thanh tịnh. Được như vậy thân tâm đều thanh tịnh, người đó tu hành không bị chướng. Trái lại trong bốn giới này, người nào chưa được thanh tịnh thì tu có nhiều chướng, vì nghiệp chưa trong sạch, ma chướng sẽ hiện ra.

Như vậy, trên đường tu muốn được đến nơi đến chốn thì giới luật là đầu. Đây không nói những giới chi tiết mà là giới căn bản. Bốn giới này gọi là giới tánh sẵn ở mọi người, có mặt mình là có nó rồi. Vậy nên bốn điều này rất sâu đậm, thấm trong xương trong máu thịt mỗi người, loại ra rất khó. Vì vậy Phật dạy phải tập bốn điều này cho thanh tịnh thì sự tu hành mới chóng được giải thoát, không có gì khó khăn.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.