Nội dung:
Có bảy:
Có bảy:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Cúi xin vì nói Tam-miệu Tam Phật-đà (Samyak – Sam Buddha Đẳng Chánh Giác), con và các vị đại Bồ-tát khéo nơi Như Lai tự tánh tự giác giác tha. Phật bảo Đại Huệ: Cho ông tùy ý hỏi, ta sẽ vì ông theo chỗ hỏi mà đáp. Đại Huệ bạch Phật; Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác là tác chăng? Là chẳng tác chăng? Là sự chăng? Là nhân chăng? Là tướng chăng? Là sở tướng chăng? Là thuyết chăng? Là sở thuyết chăng? Là giác chăng? Là sở giác chăng? Những câu như thế là khác hay chẳng khác?
Trước tiên muốn hiển bày pháp thân Như Lai nên ngài Đại Huệ đặt câu hỏi. Pháp thân này là có tạo tác hay không có tạo tác? Là sự hay là nhân?… Đây là dùng đối đãi để hỏi pháp thân thuộc về bên nào trong hai bên, nhắm trừ sạch nghi lầm cho chúng sanh đời sau, nên đại diện đưa ra câu hỏi.
Sắp hiển bày giác tánh Như Lai chẳng phải nhân chẳng phải quả cứu kính rành rõ thuần nhất không lỗi.
Thông thường chúng ta cho rằng tu là nhân, thành Phật là quả, tại sao ở đây nói Như Lai cứu cánh chẳng phải nhân chẳng phải quả? Chúng ta nên hiểu rõ nhân và quả, nhân tu mà được kết quả thì kết quả đó là do tạo tác, tướng tạo tác là tướng sanh diệt. Quả Phật không sanh diệt, vì vậy nói chẳng phải quả. Tất cả chúng ta tu không làm gì thêm cho Phật tánh, chúng ta dẹp sạch phiền não thì Phật tánh hiển lộ. Tánh giác nơi mỗi chúng sanh vốn sẵn đủ, chỉ vì bị phiền não khách trần che lấp, nên khi dụng công tu đến rốt ráo là nhận lại Phật tánh của chính mình, không thêm không bớt không như không sạch, nên nói thuần nhất không lỗi.
Tam-miệu Tam Phật-đà dịch là Đẳng Chánh Giác cũng dịch là Chánh Biến Tri, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác là ba trong mười hiệu, Ở đây hỏi về Pháp thân Như Lai nêu ba tức gồm nhiều hiệu. Chữ tác là nghĩa tu khởi, Chỗ y cứ khởi tạo tác là nhân, việc tạo tác thành hình là quả. Chữ sự là quả. Nhân tướng là tướng, quả tướng là sở tướng. Thuyết là người nói, sở thuyết là lý nói ra. Giác là người tri giác, sở giác là cảnh sở tri. Những câu như thế là khác hay chẳng khác, là tác cùng chẳng tác v.v… Nay diệp chấp đều thành bốn câu. Bởi vì muốn hiển bày Pháp thân lìa tứ cú cứu kính rành rõ.
Phật bảo Đại Huệ: Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, đối những câu như thế chẳng phải sự chẳng phải nhân. Vì cớ sao? Vì đều có lỗi vậy. Đại Huệ! Nếu Như Lai là sự thì hoặc tác hoặc vô thường. Vì vô thường nên tất cả sự ưng là Như Lai, đều là chỗ chẳng muốn của ta và chư Phật. Nếu chẳng phải sở tác thì không sở đắc, là phương tiện ắt không, đồng với sừng thỏ và con thạch nữ, vì không thật có.
Nếu Như Lai hay Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là vô thường, thì tất cả việc tạo tác trên thế gian đều là vô thường, đó là chỗ Phật Thích-ca và chư Phật không chấp nhận. Vì nếu tu để đạt đến quả vô thường sanh diệt thì ở thế gian cũng có, chư Phật cũng vô thường không khác thế gian. Nhưng nếu không do phương tiện tạo nên quả Phật thì giống như sừng thỏ và con thạch nữ, tức là hoàn toàn không có.
Đại Huệ! Nếu không sự không nhân thì chẳng phải có chẳng phải không. Nếu chẳng phải có chẳng phải không thì ra ngoài tứ cú. Tứ cú thuộc về ngôn thuyết của thế gian. Nếu ra ngoài tứ cú thì chẳng rơi vào tứ cú. Vì chẳng rơi vào tứ cú nên người trí nhận giữ. Tất cả cú nghĩa của Như Lai cũng như thế, người tuệ nên biết.
Ở đây đức Phật giải thích đoạn trên, phàm cái gì không tạo tác thì không sở đắc. Không sở đắc thì không có phương tiện tạo ra, như vậy là danh từ rỗng, giống như sừng thỏ và con thạch nữ. Pháp thân Như Lai không do tạo tác, không phải pháp nhân quả nhưng không phải không có. Vì chẳng phải có, chẳng phải không nên không nằm trong tứ cú, không nằm trong ngôn thuyết đối đãi thế gian. Đó là chỗ người trí tự nhận, không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt.
Tóm hết các câu hỏi trên không ra ngoài hai nghĩa nhân và quả. Cho nên chỉ nêu sự và nhân để rõ tự tánh pháp thân Như Lai chẳng phải nhân chẳng phải quả. Nếu là sự thì do tạo ra, mà vô thượng chánh chân chẳng đồng với pháp tu tạo vô thường ở thế gian. Nếu chẳng phải tác thì ngại không được, mà tự tánh trang nghiêm lìa chướng hiển bày vô lượng công đức vi diệu, chẳng phải là nghĩa rỗng không. Cho nên biết, chẳng phải sở tác, ấy là không sự. Nhưng chẳng phải chẳng tác thì, phương tiện đạt được phải do nhân mà rõ, Song, giác thể sẵn có là từ liễu nhân được, chẳng phải từ sanh nhân mà được, ấy là không nhân.
Đây là lập luận để cho rõ nghĩa pháp thân Như Lai không phải do tạo tác, không phải là kết quả tu tập. Pháp thân tự thể sẵn có vô lượng công đức trang nghiêm, diệu dụng lợi ích chúng sanh chẳng phải là rỗng không vô nghĩa. Giác thể sẵn có là nghĩa liễu nhân không phải sanh nhân, vì không phải sanh nhân nên nói vô nhân.
Sanh nhân là nhân sanh ra, như nhân hạt giống có cái cây, hạt giống là sanh nhân. Tất cả sanh nhân đều vô thường nên quả cũng vô thường. Phật tánh hay pháp thân chẳng phải vô thường. Mỗi chúng sanh đều sẵn có Phật tánh, như gương vốn trong sáng. Tu là lau lớp bụi phủ để gương hiển lộ, lau bụi không làm gì thêm cho tánh sáng của gương. Phương tiện tạo tác của chúng ta là liễu nhân, nghĩa là không làm cho tánh giác tăng trưởng mà chỉ làm cho vô minh phiền não sạch thì tánh giác hiển lộ. Nếu không có liễu nhân thì tánh giác có hiện ra không? Như vậy khi dẹp phiền não để tánh giác hiển lộ, đó là liễu nhân. Như ngọn đèn không sanh ra đồ vật, nhưng khi đèn sáng hết tối thì đồ vật hiện bày, ánh sáng làm hiển bày vật sẵn có nên nó là liễu nhân. Vì thế ở đây nói Phật tánh không phải sanh nhân, tức là tự tánh không sự.
Không sự (quả) không nhân thì có không chẳng mắc, tử cú chồng lìa. Tứ cú đã lìa là chỗ tất cả ngôn thuyết chẳng đến, củ nghĩa thanh tịnh này người trí chứng được.
Câu này vừa chỉ thể thanh tịnh lìa tứ cú, cũng chỉ cho chúng ta một hướng tu hành đầy đủ. Khi chúng ta ngồi thiền, tâm không chạy theo tứ cú, tức là không khởi nghĩ có không, phải quấy, việc quá khứ tương lai… Vọng tưởng lặng thì pháp thân hiện tiền. Vọng tưởng vừa chạy theo tứ cú là bất bình thường, là tâm lay động. Tuy thấy ngồi yên tưởng như không khởi nói gì, nhưng bên trong thầm vọng động, đó là đã đánh mất thể thường nhiên thanh tịnh. Thiền sư Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền trả lời: “Tâm bình thường là đạo.” Tâm bình thường chính là tâm không dính mắc vào có không, phải quấy… chỉ một mực thản nhiên vô sự. Đạo chính là tâm bình thường đó, không phải ở nơi nào xa xôi, cũng không phải đợi có nhân duyên tạo tác. Vì thế khi ngài Triệu Châu hỏi “Có thể nghĩ hướng đến đạo chăng?” Ngài Nam Tuyền trả lời “Nghĩ hướng đến là trái”. Vừa khởi tâm tìm nghĩ đến đạo là trái xa. Nghĩ về đạo còn bị Tổ quở, huống chi chúng ta cả ngày nghĩ việc thị phi. Cho nên đây nói cú nghĩa thanh tịnh này người trí chứng được.
Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Phật tánh tuy có mà chẳng đồng hư không. Vì cớ sao? Vì hư không ở thế gian tuy dùng vô lượng phương tiện khéo léo mà không thể thấy được, còn Phật tánh có thể thấy. Thế nên tuy có, chẳng phải như hư không. Phật tánh tuy không mà chẳng đồng với sừng thỏ. Vì cớ sao? Vì lông rùa sừng thỏ tuy dùng vô lượng phương tiện khéo léo cũng không thể được sanh. Phật tánh có thể sanh, thế nên tuy không mà chẳng đồng với sừng thỏ.”
Phật tánh tuy có mà chẳng đồng hư không. Phật tánh vô tướng, hư không cũng vô tướng, người ta nghĩ Phật tánh giống hư không. Hư không không thể thấy, cái hiện hữu trống không gọi là hư không, chẳng có tướng mạo gì để chúng ta tìm thấy được. Phật tánh tuy không tướng mạo, nhưng dùng phương tiện khéo chúng ta có thể nhận biết, thí như tánh thấy tánh nghe, khi không có cảnh vật, không có âm thanh, tánh biết vẫn rõ ràng. Cái có của hư không là cái có vô tri trống rỗng, chỗ có của Phật tánh là diệu dụng thường trụ.
Phật tánh tuy không mà chẳng đồng với sừng thỏ, lông rùa chỉ có danh mà không có thể, Phật tánh tuy không có tướng mạo nhưng Phật tánh là nguồn cội của muôn vật. Phật tánh bao trùm và phát sanh tất cả pháp, vô tướng nên không bị vô thường sanh diệt. Nói chỗ vô tướng là nói Phật tánh không có tướng biến hoại, chẳng phải không có tướng như sừng thỏ.
Tóm lại thể tánh chân thật như thế vượt ra ngoài có không, nhân quả, tánh giác hằng hữu không thể dùng suy nghĩ đo lường của thế gian mà nhận được. Như tánh thấy tánh nghe của chúng ta là nhân hay là quả? Nếu có hình sắc mới thấy thì cái thấy là quả, nhưng có hình sắc hay không hình sắc, tánh thấy vẫn đầy đủ không thiếu, chẳng phải có tướng mới thấy, không tướng thì không thấy. Vì thế nói chẳng phải nhân chẳng phải quả, ra ngoài độ lượng.
Đây là mật chỉ về Phật tánh vi diệu, chỉ hàng chân Thánh tự ở trong chứng được. Như thế, thể tánh chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải nhân chẳng phải quả, ra ngoài độ lượng, nên như thế mà biết. Bàn đại dịch là thạch nữ. Bàn đại tử là con thạch nữ.
Như ta đã nói tất cả pháp vô ngã. Phải biết nghĩa này không ngã tánh nói là vô ngã. Tất cả pháp có tự tánh không tha tánh, như trâu ngựa. Đại Huệ! Thí như chẳng phải trâu là ngựa, chẳng phải ngựa là trâu, kỳ thật chẳng phải có chẳng phải không, kia chẳng phải không tự tánh.
Phật giải thích rõ tất cả pháp vô ngã là không có chủ tể độc lập, không phải không có tự tánh. Tất cả pháp có tự tánh không tha tánh, như trong tánh ngựa không có tánh trâu, trong tánh trâu không có tánh ngựa. Kia chẳng phải không tự tánh. Ví dụ như ngựa chẳng phải không có tự tánh của ngựa.
Như thế, Đại Huệ! Tất cả các pháp chẳng phải không tự tướng. Có tự tướng ấy, nhưng chẳng phải chỗ hay biết của hàng vô ngã, ngu phu, vì vọng tưởng vậy. Như thế, tất cả pháp không, vô sanh, không tự tánh nên biết như thế.
Đoạn này giản trạch về chân ngã, tức là có tự tướng. Nhưng pháp thân chân ngã này, hàng Nhị thừa vô ngã không thể thấy. Chúng ta nghe nói tất cả pháp vô ngã thì nghĩ rằng vô ngã là không thực thể, chẳng lẽ tu thành Phật là đến chỗ không có thực thể? Thật ra nói vô ngã là nói trên tính duyên hợp hư giả của thân năm ấm, hàng Nhị thừa chỉ thấy thân năm ấm vô ngã mà không nhận được Phật tánh chân ngã. Đến đây Phật muốn thẳng bày chân ngã thường trụ nên trước chỉ ra chỗ lầm của Nhị thừa.
Như Lai nói tự tánh pháp thân chẳng phải nhân chẳng phải quả, mà chẳng phải đoạn diệt. Cho nên ở đây lại dẫn câu pháp vô ngã để hiển bày Như Lai chân ngã. Bởi Như Lai tự tánh chân ngã thường bị pháp ngã che đậy, anh gi nên nói tất cả pháp vô ngã. Cốt để hiển tự đều nhận đánh Pháp thân chân như tự tướng. Nếu thấy tự của linh tánh pháp thân chân như tự tưởng thì càng biết Đón cơn tất cả pháp Chân như tự tưởng trong ngoài không chướng, trong trẻo thường lặng lẽ. Tất cả các pháp do tự tâm hiện ra, bởi tự tâm hiện nên tất cả các pháp đều không ngã tánh, cho nên nói vô ngã, hiện ra chỉ tại tâm.
Chân ngã Như Lai thường bị pháp ngã che đậy, như chúng ta có tánh giác hiện tiền nhưng không nhận ra vì quen lầm chấp thân này làm thân ta, chấp vọng tưởng làm tâm ta, cho hai cái đó là ngã thì chân ngã bị phủ che. Phật nói thân này vô ngã, tâm vọng tưởng vô ngã để phá chấp ngã. Khi không còn chấp ngã về thân tâm thì chân ngã hiện tiền.
Ví dụ có người ngủ mê, nằm mộng thấy cảnh khổ cảnh vui rồi họ vui buồn theo cảnh mộng, quên con người thật. Người tỉnh thức thấy vậy bèn kêu gọi họ thức dậy, cho biết là tất cả cảnh trong mộng đều không thật. Khi biết rõ cảnh và người trong mộng không thật thì sự mê mờ tan biến, lúc đó sống với con người thực tại không vui buồn theo chiêm bao. Phật là người tỉnh giác nhận ra được tự tánh pháp thân ai cũng sẵn đủ, chúng sanh vì mê mờ theo ngã chấp vọng tình nên không nhận ra. Ngài vạch bày cái chấp ngã không thật để chúng sanh thấy rõ tự tâm chân như trong trẻo thường lặng lẽ. Người nào thật sự hiểu được lý vô ngã, lý vô sanh của các pháp mới nhận được tự tánh chân ngã.
Tức là tất cả pháp có tự tánh, không tha tánh. Song không tha tánh tức là không ngã tánh. Bởi thế tất cả pháp nói vô ngã, vì tất cả pháp do tự tâm nên nói không tha tánh. Cho nên phàm nói tất cả pháp không, vô sanh, không tự tánh đều không có ý chỉ khác. Nên nói “chỉ có chân thức lại không có thức khác”. Đây là chỗ đến tột của người giác tự tâm hiện lượng vậy.
Các pháp nội tâm và ngoại cảnh đều là bóng dáng của tự tâm hiện, vì tự tâm hiện nên vô ngã, vô sanh. Nói các pháp không, vô sanh, không tự tánh là cốt yếu hiển bày tự tâm hiện, Duy Thức học nói chỉ có chân thức, ngoài ra các thức khác đều hư vọng không thật. Chân thức chính là cảnh giới tự tâm hiện lượng, đạt được cảnh giới này gọi là tự giác Thánh trí.
Tánh ngựa không phải trâu, tánh trâu không phải ngựa, để dụ không tha tánh chẳng phải không tự tánh. Không tha thì chẳng phải có, có tự thì chẳng phải không. Chẳng phải có chẳng phải không chân như tự tướng chỉ bậc chân Thánh tự chứng ở trong, kẻ ngu phu phân biệt không có phần vậy.
Trở lại vấn đề tự tánh và tha tánh. Nói tự tánh là tự tâm hiện nên có tự tánh, không tha tánh là không do cái gì khác tạo, nên không tha tánh. Tự tướng chân như chẳng phải có chẳng phải không, chỗ này chỉ có bậc Thánh chứng biết.
Như thế, Như Lai cùng ấm chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Nếu chẳng khác ấm thì ưng vô thường; nếu khác ấm thì phương tiện ắt không; nếu hai thì ưng có khác. Như sừng trâu tương tự nên chẳng khác, dài ngắn sai biệt nên có khác, tất cả pháp cũng như thế. Đại Huệ! Như trâu sừng bên phải khác sừng bên trái, sừng bên trái khác sừng bên phải. Như thế dài ngắn các thứ sắc mỗi mỗi khác. Đại Huệ! Như Lai đối ấm, giới, nhập chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác.
Pháp thân đối hiện nghĩa là pháp thân Như Lai ấn hiện trong thân năm ấm. Pháp thân này cùng với thân năm ấm có khác mà cũng chẳng khác. Nếu không khác thì pháp thân cũng vô thường như thân năm ấm, nhưng nếu pháp thân khác thân năm ấm thì phương tiện ắt không, nghĩa là pháp thân không có, không cảm nhận được thì phương tiện tu chứng trở thành vô ích.
Pháp thân và thân năm ấm là một thì không được, nếu là hai thì khác nhau, như sừng trâu. Tại sao dùng ví dụ như sừng trâu? Sừng trâu, hai bên đều là sừng như nhau, nên nói như sừng trâu tương tự nên chẳng khác. Song nhìn kỹ thì sừng bên trái với sừng bên phải có cao thấp dài ngắn khác nhau, nên nói dài ngắn sai biệt nên có khác.
Dùng ví dụ đó để nói pháp thân và thân năm ấm chẳng phải một chẳng phải khác. Pháp thân và tất cả các pháp ấm, giới, nhập đều như thế. Ngôn ngữ không thể diễn tả được tính cách của pháp thân trong năm ấm, nói là một là khác đều không đúng.
Đây hiển bày Pháp thân đối hiện chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải chỗ biết của phàm ngu. Từ đây về sau thảy đều do thấy Như Lai tự tánh chân ngã, đồng với Báo, Hóa vượt phược và thoát, đồng trí và chướng, tự tánh Niết-bàn ra khỏi số lượng.
Phần này đến phần sau cho thấy Pháp thân Như Lai gồm cả Báo thân Hóa thân, Nhị thừa và phàm phu không thể biết được. Đồng trí và chướng, chúng ta thường cho rằng trí và chướng là hai phương diện, nhưng đây nói trí chướng không hai, Chướng là phiền não và sở tri làm ngăn ngại. Khi chúng ta khởi sanh phiền não về người hay cảnh, thấy người cảnh làm chướng ngại mình, một phút giây nào nhớ lời Phật dạy, biết cảnh người không thật không chấp, liền hết phiền não. Biết không thật đó là trí, vì có chướng nên có trí phát ra để dẹp phiền não. Khi có chướng là có trí, khi hết chướng thì trí cũng không. Trong tự tánh chân ngã thấy trí và chướng đồng nhau, vì không thấy có phiền não hay dẹp phiền não, nên cả hai trí chướng bình đẳng.
Ấm tức chỉ sắc thân Như Lai. Nghĩa là pháp thân cùng sắc thân chẳng phải một chẳng phải khác. Nếu một thì sắc thân diệt pháp thân cũng ưng diệt, diệt thì vô thường. Nếu hai thì pháp thân do phương tiện đạt được thảy đều không, vô nghĩa. Song, thân ngàn trượng Lô-xá-na và tất cả vô lượng ứng hóa tướng tốt vẻ đẹp thật có đối hiện. Nên nói “diệt sắc vô thường được chân sắc thường trụ”.
Nếu pháp thân khác sắc thân thì không có tướng, nhưng từ pháp thân ứng hiện báo thân có tướng vô lượng vẻ đẹp. Như vậy pháp thân có thể mang hình thức năm ấm nhưng vượt ngoài giới hạn năm ấm, đó là ý nghĩa câu diệt sắc vô thường được chân sắc thường trụ.
Sừng trâu giống nhau dụ một. Dài ngắn sai biệt dụ hai. Nhưng thảy đều gọi là sừng trâu chẳng phải một chẳng phải khác. Cho nên nói “Như Lai đối ấm, giới, nhập cũng chẳng phải một chẳng phải khác”.
Đoạn trên nói pháp thân cùng ấm giới nhập chẳng phải một chẳng phải khác. Đoạn này nói pháp thân và giải thoát chẳng phải một, chẳng phải khác.
Như thế, Như Lai và giải thoát chẳng phải khác chẳng phải chẳng khác. Như thế, Như Lai lấy giải thoát gọi tên. Nếu Như Lai khác giải thoát thì ưng thành sắc tướng, vì thành sắc tướng nên vô thường. Nếu chẳng khác thì người tu hành được tướng nên không có phân biệt. Song người tu hành thấy phân biệt. Thế nên, chẳng phải khác chẳng phải chẳng khác.
Giải thoát nghĩa là giải thoát sanh tử. Như Lai lấy giải thoát làm tên, nói Như Lai tức là nói đến giải thoát. Ở đây phân tích pháp thân Như Lai cùng với giải thoát lìa khác và chẳng khác. Nếu Như Lai khác với giải thoát thì Như Lai có sắc tướng, bị vô thường chi phối. Nếu Như Lai chẳng khác giải thoát thì đồng là không có tướng, không tướng thì người tu hành có tướng giải thoát không thể phân biệt với người chưa giải thoát. Nhưng thật ra chúng ta có thể phân biệt được người giác ngộ với người chưa giác ngộ. Đó là ý nghĩa câu Người tu hành được tướng nên không có phân biệt. Song người tu hành thấy phân biệt. Người tu hành được tướng là được tướng giải thoát, tướng giải thoát này có thể cảm nhận được, không phải là không ngơ. Đây cũng nêu lên ý nghĩa pháp thân cùng giải thoát lìa tướng và phi tướng.
Niết-bàn có ba đức: Pháp thân, giải thoát, Bát-nhã, như chữ “y” có ba điểm, chẳng ngang chẳng dọc. Song ở đây nói Pháp thân cùng giải thoát chẳng phải một chẳng phải khác. Bởi vì Như Lai do giải thoát được tên. Nếu khác thì Pháp thân Như Lai đã chứng giải thoát đồng với sắc tướng, ưng là vô thường. Đâu biết rằng Pháp thân Như Lai tức là giải thoát, giải thoát tức là Pháp thân, thanh tịnh không nhơ, thể không có hai. Nếu chẳng khác thì người tu hành năng chứng sở chứng ưng không sai biệt, mà thấy có sai biệt. Như Thập chân như, hàng Sơ địa đã đạt, mà đối với chứng hạnh vẫn chưa viên mãn. Vì khiến họ viên mãn nên sau lại dựng lập mỗi địa, mỗi địa có cạn sâu sai biệt thấy khác. Thế nên chẳng phải một chẳng phải khác.
Tôi ví dụ có người bị trói buộc nên mất tự do. Bây giờ mở sợi dây trói thì người đó tự do thảnh thơi. Tự do và người không phải một, không phải khác. Nếu là một thì khi bị trói rõ ràng là mất tự do, nếu là khác thì cũng người đó mà hết trói buộc thì được thảnh thơi. Chúng ta tu cũng vậy, thoát được sự trói buộc của sanh tử gọi là được pháp thân. Cũng là con người đó, giải thoát pháp thân dường như một, khi chưa thoát sanh tử thì thấy pháp thân giải thoát dường như khác. Ngay nơi thân năm ấm này vẫn có thể tánh giải thoát thanh tịnh, nhưng vì bị tình chấp trói buộc nên thấy một thấy khác. Phật đứng trên mặt lý tánh, không cho dùng ngôn ngữ biện biệt, cốt yếu gỡ những vướng mắc về cái chấp hình tướng.
Như thế, trí và sở tri chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Đại Huệ! Trí và sở tri chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác ấy, là phi thường phi vô thường, phi tác phi sở tác, phi hữu vi phi vô vi, phi giác phi sở giác, phi tướng phi sở tướng, phi ấm phi khác ấm, phi thuyết phi sở thuyết, phi một phi khác, phi đồng phi chẳng đồng. Vì phi một phi khác, phi đồng phi chẳng đồng nên đều lìa tất cả lượng.
Trí tuệ và sở tri chướng không phải một, không phải khác. Nói là khác vì có chướng nên dùng trí để phá chướng, trí và chướng dường như hai. Trí và chướng không hai vì chướng hết thì trí hiện, không có chướng thì không có trí. Vì thế nói không phải một, không phải khác, không phải vô thường… ra ngoài tất cả suy nghĩ của chúng ta.
Trước nói Pháp thân cùng giải thoát chẳng phải một chẳng phải khác. Ở đây nói Pháp thân cùng Bát-nhã chẳng phải một chẳng phải khác. Song lại nói Bát-nhã (trí) cùng sở tri chẳng phải một chẳng phải khác ấy, vì Bát-nhã là thỉ giác từ Pháp thân bản giác mà sanh, nói thỉ thì cùng với bản không khác. Nếu sở tri chướng đến Thập nhất địa vẫn còn có hai phần ngu cực vi tế, đến Diệu giác Phật địa mới hay trừ sạch. Đó là trí cùng chướng phân rõ có hai.
Kinh Niết-bàn nói Niết-bàn có ba đức: Pháp thân, Bát-nhã và giải thoát. Ba đức dường như chia riêng, nhưng đoạn kinh vừa rồi cho thấy pháp thân, giải thoát và Bát-nhã không phải một không phải khác.
Đoạn này nói rõ về pháp thân và Bát-nhã chẳng một chẳng khác. Bát-nhã là trí chiếu phá sở tri chướng, là trí thỉ giác, từ pháp thân bản giác lưu xuất, thỉ giác hợp nhất bản giác thì pháp thân và Bát-nhã không khác. Nhưng trí trừ chướng vẫn có tiệm thứ, từng địa vị một mà chiếu phá sở trị, trí chưa trọn vẹn thì pháp thân chưa hiển hiện đầy đủ, vì thế nói Thập nhất địa vẫn còn hai phần sở tri ngu.
Lại nói chẳng phải một chẳng phải khác ấy, bởi vì lìa trí không chướng, lìa chướng không trí, pháp không có ngã tánh nơi đây càng rõ. Song Như Lai tự tánh chân ngã lìa tử cú vượt tất cả số lượng, chẳng phải chỗ biết của tư lương. Kèm nói tác phi tác v.v… đều là lặp lại lời hỏi trước để nhiếp hết trong lĩa tứ cú.
Trí và chướng không thể tách riêng, không pháp nào tồn tại độc lập nên gọi là không có ngã tánh. Pháp thân Như Lai chưa hiển hiện thì có trí có chướng, khi đã hiển hiện thì trí và chướng đều tiêu dung. Bát-nhã pháp thân, giải thoát cùng lìa một khác… Chỗ này chỉ khi tu đến thì tự chứng biết, không thể dùng suy nghĩ thường tình mà hiểu được.
Lìa tất cả lượng thì không ngôn thuyết, không ngôn thuyết thì vô sanh. Vô sanh thì không diệt, không diệt thì tịch diệt. Tịch diệt thì tự tánh Niết-bàn. Tự tánh Niết-bàn thì không sự không nhân. Không sự không nhân thì không phan duyên. Không phan duyên thì ra ngoài tất cả hư ngụy. Ra ngoài tất cả hư ngụy tức là Như Lai.
Tự tánh Niết-bàn tịch diệt vượt ngoài ngôn thuyết. Những gì có suy nghĩ danh ngôn đều thuộc về vọng tưởng, vọng tưởng thì sanh diệt vô thường nên không thể diễn tả được cảnh giới Niết-bàn. Vì thế ngài Đại Huệ dùng 108 câu để hỏi, mà rốt cuộc Thế Tôn đều đáp là phi, là ý chỉ chỗ này.
Ra ngoài tất cả hư ngụy tức là Như Lai. Câu này là thiết yếu của chỗ tu chúng ta. Hư ngụy là vọng tưởng, là tâm duyên không thật. Ra ngoài tất cả hư ngụy là người vô sự, không so đo tính toán, hết phan duyên là hết hư ngụy. Mỗi ngày chúng ta đi làm công tác, vừa làm vừa chăn trâu, ngày nào cũng như vậy thì thành người vô sự, tự tánh Niết-bàn hiện tiền. Khéo biết tu thì ngay trong cảnh sống hàng ngày cũng được rảnh rang vô sự, không có gì bận tâm níu kéo, đó là con đường thẳng đến tự tánh chân thật.
Như Lai tức là Tam-miệu Tam Phật-đà (Samyak- Sam Buddha Đẳng Chánh Giác). Đại Huệ! Ấy gọi là Tam-miệu Tam Phật-đà. Đại Huệ! Tam-miệu tam Phật-đà ấy, là lìa tất cả căn lượng.
Đây là kết tự tánh Pháp thân Như Lai vượt qua tất cả số lượng, tự chứng được ở trong, tất cả danh ngôn đều chẳng phải thể của nó. Người chứng được thể này mới biết sanh diệt đều không, chỉ có tịch tĩnh, nên nói “Tự tánh Niết-bàn”. Tự tánh Niết-bàn chẳng phải nhân chẳng phải quả, hết các động niệm, dứt tâm tư tưởng, tột mé gốc vô minh, cứu kính giải thoát không có hư ngụy, là chân Pháp thân, là bình đẳng thân, hằng lìa tất cả Do cảnh giới các căn. Như Lai nơi hội Bát Niết-bàn khắp bảo đại chúng rằng: “Ta dùng Bát-nhã sâu xa xem khắp tam giới tất cả lục đạo, các núi bể cả, quả đất, hàm sanh. Như thế tam giới căn bản tánh lìa, cứu kính tịch diệt đồng với tướng không, không tên, không biết, hằng hien đoạn các hữu, xưa nay bình đẳng không có tưởng cao thấp, không thấy không nghe không giác không tri, không thể trói buộc, không thể giải thoát, không chúng sanh không thọ mạng, chẳng sanh chẳng khởi chẳng tận chẳng diệt, chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng thế gian. Niết-bàn sanh tử đều không thể được, hai bên bình đẳng. Vì các pháp bình đẳng nên ở yên lặng lẽ, không có chỗ thi vi, cứu kính an ổn, hẳn không thể được. Từ pháp vô trụ mà pháp tánh thi vi đoạn tất cả tướng, một không thể có. Pháp tướng như thế, kẻ biết được nó gọi là người xuất thế. Không biết việc ấy gọi là gốc sanh tử.”
Đoạn này nói tất cả tam giới lục đạo chúng sanh và sự vật đều không có một pháp thật, vì thế lìa năng sở đối đãi, không ngã không nhân. Biết rõ các pháp đối đãi không thật thì tâm thể tự nhiên thanh tịnh, ra ngoài sanh tử. Tâm thể xao xuyến loạn động là gốc của sanh tử, vì thế dẫn kinh Đại Bát Niết-bàn để nói về cảnh giới lìa tất cả suy tưởng loạn động, đạt được tánh chân thật thường trụ.
Đây chính là Như Lai tự tánh giải thoát cùng tất cả pháp đồng trụ chân như bản tế, trong ngoài hằng lìa tất cả lỗi lầm. Tất cả chúng sanh cũng đồng đủ cái này, chỉ vì khách nhiễm che lấp, một niệm giác biết tức đồng sẵn được.
Tất cả chúng sanh đều có sẵn tánh chân như giải thoát, chỉ vì khách trần làm ô nhiễm nên không giác không biết. Ngay nơi mắt nơi tại… đều có sẵn tánh giác. Nhưng vừa thấy người, thấy vật thì tánh biết của mắt bị thức chen vô phân biệt tốt xấu, hay dở… Khi nghe tiếng thì tánh nghe hiện hữu rõ ràng, nhưng vừa nghe thì thức chen vô phân biệt tiếng khen chê, đáng ưa không đáng ưa… Tình thức đã che lấp làm ô nhiễm tánh giác nên tuy có mà không hiện. Một niệm giác biết, ngay một niệm mà tỉnh giác thì liền nhận ra nó là cái đồng sẵn có, không hề thiếu mất.
Khi ấy, Thế tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Thủy lìa các căn lượng
Không sự cũng không nhân
Đã lìa giác sở giác
Cũng lìa tướng sở tướng.
Căn lượng là chỗ thấy nghe hiểu biết khởi niệm. Thể chân thật lìa căn lượng, lìa tất cả nhân quả năng sở.
Ấm duyên Đẳng Chánh Giác
Một, khác chứ hay thấy
Nếu không có thấy đó
Làm sao mà phân biệt.
Thân ngũ ấm do các duyên hợp thành và pháp thân Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác không phải một, không phải khác. Nếu không thấy một khác, tự nhiên tâm dứt phân biệt.
Phi tác phi bất tác
Phi sự cũng phi nhân
Phi ấm phi tại ấm
Cũng phi có dư tập.
Tánh giác không phải năng tác sở tác, không phải nhân, không phải quả, chẳng phải ấm, chẳng lìa ấm, không tất cả tập khí dư thừa.
Giải thoát tất cả lỗi
Chính quán sát ngã thông
Ấy gọi là chánh quán
Cũng phi có các tánh
Như kia vọng tưởng thấy
Nên biết cũng phi vô
Pháp này pháp cũng thế.
Tánh giác cũng không có tánh cố định như chỗ nghĩ tưởng của người ngu. Tuy không có các tánh cố định nhưng không phải không ngơ. Pháp này pháp cũng thế, pháp này là pháp chân thật của tánh giác.
Đây là tổng tụng Pháp thân lìa nhân quả, năng sở, căn khí một khác tứ cú. Không có thấy lìa ấy, cũng không pháp tự tánh, cũng lại phi không pháp, khá gọi thật được pháp thể. Ngộ đây sẽ lặng lẽ tự hết.
Pháp thân chẳng phải tất cả nhưng không phải là không, nhận được pháp thể thì mọi đối đãi phân biệt lặng lẽ tự dứt.
Bởi có nên có không
Bởi không nên có có
Nếu không chẳng nên thọ
Nếu có chẳng nên tưởng.
Hoặc nơi ngã phi ngã
Ngôn thuyết lượng không dứt
Chìm đắm ở hai bên
Tự hoại hoại thế gian.
Chẳng hủy đại Đạo sư.
Pháp thân lìa tất cả tưởng có và không. Hoặc nơi ngã phi ngã, ngôn thuyết lượng không dứt. Dù nói rằng ngã hay chẳng phải ngã đều là ngôn thuyết, rơi trong chấp nhị biên, rốt cuộc không phải cứu cánh. Người chấp hai bên là tự hoại và làm hoại kẻ khác.
Giải thoát tất cả lỗi, chính quán sát ngã thông. Nếu rời được tất cả lỗi kể trên, thường chánh niệm quán sát chỗ thông đạt của ta, lìa tâm, ý, ý thức gọi là chánh giáo, không hủy báng bậc đạo sư.
Nếu không chẳng nên thọ, nếu có chẳng nên tưởng là, không thì cứu kính không chẳng nên lại không, có thì xưa nay có chẳng nên lại có, bởi có không đối đãi nhau, tánh chẳng có không. Chẳng đạt ngã thông thì không có chánh kiến, mắc kẹt hai bên tự hoại hoại người, chê bai Như Lai, đâu còn gì hơn kẻ này. Thế Tôn thường bảo: “Nếu nói có đó, người trí chẳng nên nhiễm; nếu nói không đó, tức là vọng ngữ. Nếu nói có đó chẳng nên lặng thinh, cũng chẳng nên hý luận tranh tụng.” Ý chỉ này tế nhị thay!
Thể tánh chân thật nếu không thì đã trọn vẹn không, chẳng cần lặp lại cái không; nếu có thì có sẵn, cũng chẳng cần lặp lại có. Thể tánh này lìa giả tướng có không đối đãi. Người thấu đạt thể chân thật phải lìa bỏ hý luận về hai bên có không.
Chia làm bốn:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Như Thế Tôn nói kinh điển nhiếp thọ chẳng sanh chẳng diệt. Lại, Thế Tôn nói chẳng sanh chẳng diệt là tên khác của Như Lai.
Bồ-tát Đại Huệ hỏi để cho rõ nghĩa không tánh. Trước dẫn lời Phật nói các kinh đều nhiếp thọ chẳng sanh chẳng diệt. Phật cũng nói chẳng sanh chẳng diệt là tên khác của Như Lai. Chẳng sanh chẳng diệt là không tánh, cũng có nghĩa là không có, như vậy Như Lai có phải là không tánh? Bởi vì trước Phật đã giải thích pháp thân Như Lai lìa ngôn thuyết, lìa năng sở, chẳng phải nhân chẳng phải quả… tất cả đều phi, sợ chúng sanh chấp theo thường tình rằng chỗ không tất cả đó là vô tánh, không có gì; như vậy Như Lai cũng huyễn hóa không thật, vì là không tánh. Bồ-tát Đại Huệ hỏi với mục đích trừ nghi cho chúng sanh.
Thế nào Thế Tôn là không tánh nên nói chẳng sanh chẳng diệt, cho là tên khác của Như Lai? Phật bảo Đại Huệ: Ta nói tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt các loại có không chẳng hiện. Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Nếu tất cả pháp chẳng sanh thì, pháp nhiếp thọ không thể được, vì tất cả pháp chẳng sanh. Nếu trong danh tự có pháp, cúi xin Thế Tôn vì nói.
Phật giải thích tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt là lối nói các pháp có không đối đãi đều không thật. Đại Huệ thưa: Nếu tất cả pháp chẳng sanh thì không có, pháp nhiếp thọ không thể được. Không có pháp thì tại sao gọi là tên khác của Như Lai? Như vậy là Như Lai không có? Ngài hỏi tiếp: Nếu trong danh tự có pháp, cúi xin Thế Tôn vì nói, nghĩa là nếu trong danh từ không tánh đó có thật thể Như Lai, xin Phật chỉ dạy.
Phật bảo Đại Huệ: Lành thay, lành thay! Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, ta sẽ vì ông phân biệt giải nói. Đại Huệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Ta nói Như Lai chẳng phải không tánh, cũng chẳng phải chẳng sanh chẳng diệt nhiếp tất cả pháp, cũng chẳng đợi duyên nên chẳng sanh chẳng diệt, cũng chẳng phải vô nghĩa.
Phật xác nhận Ta chẳng phải không tánh, tức là Như Lai có thật thể. Phật cũng không nói chẳng sanh chẳng diệt nhiếp tất cả pháp, nghĩa là không phải tất cả pháp không có. Nói chẳng diệt là vì không đợi duyên. Các pháp bên ngoài có sanh diệt là do duyên hợp, thể tánh Như Lai không đợi duyên, là thật thể sẵn có lìa nhân duyên tạo tác, nên nói chẳng sanh chẳng diệt. Không thể lầm lẫn như phàm phu chấp cái gì không sanh diệt là không có; pháp không sanh diệt Như Lai nói ở đây lìa ngoài mọi cái thấy về tướng, là pháp có thật chẳng phải vô nghĩa.
Đây là nhằm ngoài tự tâm hiện lượng chấp tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt, lấy đó khởi nạn. Bởi vì người theo danh mất nghĩa nên Phật vì phát minh. Trong kinh kiến lập tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt là vì không tánh nên nói, chẳng vì có tánh nói. Lại nói là tên khác của Như Lai thì chẳng phải không tánh. Ấy là hiện rơi vào có tánh mà nói không pháp thì có không đều đọa. Đây là ý nạn của Đại Huệ.
Người thấu rõ tự tâm hiện lượng thì biết tất cả pháp chẳng sanh diệt. Ở đây vì không giác biết tự tâm hiện lượng, nghe nói chẳng sanh chẳng diệt cho là thật không, đem vấn đề này hỏi Phật. Trong kinh kiến lập tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt, là ý của câu Như Thế Tôn nói kinh nhiếp thọ chẳng sanh chẳng diệt. Nghĩa là kính nói pháp không tánh, không có tánh thật chỉ đợi duyên, vì đợi duyên nên sanh chẳng thật sanh, diệt chẳng thật diệt. Kinh nói như thế vì để phá lối chấp có của chúng sanh. Khi nói chẳng sanh chẳng diệt là tên khác của Như Lai là đứng về mặt thường trụ, chẳng sanh chẳng diệt này không thể so sánh với ý trong kinh. Ngài Đại Huệ hỏi mà ngụ ý muốn phân biệt hai trường hợp về chẳng sanh chẳng diệt.
Thế Tôn bảo: Ta nói tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt những loại có không chẳng hiện. Đại Huệ không biết từ tự tâm hiện lượng, nói chẳng sanh chẳng diệt chóng vượt có không, mà cho là tất cả pháp đã không sanh diệt, không ưng lại nhiếp thuộc có pháp. Nếu bảo tên khác của Như Lai, tên ắt có nghĩa, ấy là nhiếp thuộc có pháp.
Giải thích về chỗ chấp của ngài Đại Huệ. Phật nói tất cả pháp chẳng sanh diệt là pháp vượt ngoài có không, ngài Đại Huệ thì cho rằng nếu các pháp đã không sanh diệt thì không có, mà nói chẳng sanh diệt là tên khác của Như Lai, vậy Như Lai không có ư? Nếu có tên thì phải có nghĩa, vậy Như Lai là có pháp? Đưa ra một câu hỏi đều rơi vào có và không.
Cho nên Thế Tôn lại bảo: Ta nói Như Lai chẳng phải không tánh. Mới biết tâm lượng bản hữu chẳng đồng sừng thỏ, y nghĩa bất giác dường như các pháp hiện, vốn không có sanh cũng không có chỗ diệt. Chẳng sanh diệt này là nói pháp không tự tánh. Chẳng phải nói thảy không các pháp, chẳng nên nhiếp thuộc có, lại đợi duyên hết mới thấy không sanh. Cũng chẳng phải vô nghĩa là, nói nghĩa tự tâm như thật chẳng sanh, chẳng giác nghĩa tự tâm như thật chẳng sanh, chỉ đến trên danh củ chẳng sanh chẳng diệt, vọng chấp không tánh, chẳng ưng nhiếp thuộc về có, tức là có chữ mà không nghĩa. Cho nên văn sau bàn rộng vậy.
Đoạn này giải thích lời đáp của Phật. Ý nói Như Lai chẳng phải không thật có như sừng thỏ lông rùa. Nói không sanh diệt là đứng về mặt bất giác, thấy các pháp dường như có hiện, hiện trong mê nên chẳng thật có sanh diệt. Thí như chiêm bao thấy người và cảnh sanh diệt, điều đó không thật. Các pháp không tự tánh, khi có pháp chẳng nên nói là nhiếp thuộc có, khi không pháp chẳng nên nói là không sanh. Thấy có thấy không là thuộc về đối đãi nông cạn.
Đại Huệ! Ta nói ý sanh Pháp thân danh hiệu Như Lai. Chẳng sanh kia là chẳng phải cảnh giới của tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát thất trụ. Đại Huệ! Chẳng sanh kia là dị danh của Như Lai. Đại Huệ! Thí như Nhân-đà-la Thích-ca, Bất-lan-đà-la những vật như thế, mỗi mỗi vật đều có nhiều tên, cũng chẳng phải có nhiều tên mà có nhiều tánh, cũng chẳng phải không tự tánh.
Phật giải thích Như Lai có nhiều danh hiệu, nhưng chỉ có một thể pháp thân. Đoạn trước nói chẳng sanh chẳng diệt là tên khác của Như Lai, đoạn này nói Như Lai cũng có tên là ý sanh pháp thân, Chẳng sanh, ý sanh pháp thân, hai tên dường như trái ngược nhau, một bên chẳng sanh, một bên ý sanh thân. Cảnh giới này hàng Thanh văn, Duyên giác hay Bồ-tát Thất địa không thể biết. Ý nhắc chúng sanh nên vượt ra ngoài danh từ. Phật nêu ví dụ, trời Đế Thích cũng có tên là Nhân-đà-la Thích-ca hay Bất-lan-đà-la…, nhiều tên nhưng chỉ chung một thể, nên nói chẳng phải có nhiều tên mà có nhiều tánh, cũng không phải vì có nhiều tên mà không có tự tánh.
Đậy tức sanh nói vô sanh để hiển ý chỉ thâm mật, vẫn không nên theo danh mất nghĩa. Bởi ý sanh Pháp thân tức là chẳng sanh, nên nói dị danh Như Lai. Nghĩa chẳng sanh này chẳng phải cảnh giới của Nhị thừa và hàng Thất địa. Thất địa về trước chỉ hết nhân sanh, chớ chẳng đạt được tự tánh vô sanh của Như Lai.
Hàng Nhị thừa và Bồ-tát Thất địa chỉ chấm dứt nhân sanh, chưa đạt được tánh vô sanh của Như Lai Ví dụ chúng ta nhìn ra biển, thấy có gió thổi sóng ầm ầm, thấy mặt biển toàn sóng là thấy nghiệp sanh tử. Khi gió dừng sóng lặng là thấy dứt sanh tử, nhưng chưa nhận được thể của nước vốn không có sóng hay dừng sóng, chưa nhận được thể mênh mông của biển, Hàng Thanh văn sợ gió nghiệp dẫn đi trong sanh tử nên tu dừng nghiệp. Nghiệp nhân sanh tử đã dứt, nhưng thể tánh thật vô sanh, chưa nhận ra.
Tự tánh vô sanh của Như Lai là chân như bình đẳng, tùy chỗ tùy thời không có tướng khởi diệt. Chẳng phải duyên hết mới hiện, cho nên chẳng kẹt nơi vô sanh sở liễu năng liễu. Nhân-đà-la Thích-ca, Bất-lan-đà-la đều là dị danh của Đế Thích. Chẳng phải do nhiều tên mà có nhiều tánh là, thể một mà tên khác. Cũng chẳng phải không tự tánh là, nhiều tên dùng để nói một thể, lại phải nhân tên mà được thể.
Như thế, Đại Huệ! Ta ở thế giới Ta-bà này, trải ba a-tăng-kỳ có trăm ngàn danh hiệu. Kẻ ngu thảy đều nghe, mỗi người nói tên ta mà không hiểu ta, ấy là dị danh Như Lai. Đại Huệ! Hoặc có chúng sanh biết ta là Như Lai, có chúng sanh biết ta là Nhất thiết trí, có chúng sanh biết ta là Phật, có chúng sanh biết ta là Cứu thế, có chúng sanh biết ta là Tự giác, có chúng sanh biết ta là Đạo sư, có chúng sanh biết ta là Quảng đạo, có chúng sanh biết ta là Nhất thiết đạo, có chúng sanh biết ta là Tiên nhân, có chúng sanh biết ta là Phạm, có chúng sanh biết ta là Tỳ-nữu, có chúng sanh biết ta là Tự tại, có chúng sanh biết ta là Thắng, có chúng sanh biết ta là Ca-ty-la, có chúng sanh biết ta là Chân thật biên, có chúng sanh biết ta là Nguyệt, có chúng sanh biết ta là Nhật, có chúng sanh biết ta là Vương, có chúng sanh biết ta là Vô sanh, có chúng sanh biết ta là Vô diệt, có chúng sanh biết ta là Không, có chúng sanh biết ta là Như như, có chúng biết ta là Đế, có chúng biết ta là Thật tế, có chúng biết là Pháp tánh, có chúng biết là Niết-bàn, có chúng biết là Thường, có chúng biết là Bình đẳng, có chúng biết là Bất nhị, có chúng biết là Vô tướng, có chúng biết là Giải thoát, có chúng biết là Đạo, có chúng biết là Ý sanh. Đại Huệ! Trải qua ba a-tăng-kỳ có trăm ngàn danh hiệu như thế, chẳng thêm chẳng bớt, thế giới này và thế giới khác thảy đều biết ta, như mặt trăng trong nước chẳng ra chẳng vào.
Phật nêu ra bao nhiêu danh hiệu của Ngài, chỉ ở một cõi Ta-bà thôi, không kể ở các thế giới khác. Thể tánh chân thật ấy trùm khắp không gian và thời gian, tùy chỗ hiểu của chúng sanh mà đặt tên cho phù hợp căn cơ. Như các Bà-la-môn kính ngưỡng Phạm thiên, Đại tự tại… cũng chính là thể tánh bất sanh này. Như mặt trăng hiện trên hư không, ở dưới có trăm ngàn sông suối ao hồ, đều hiện trăm ngàn bóng mặt trăng. Bóng mặt trăng đó không phải vào nước, hay ra khỏi nước, chỉ tùy duyên hiện, không ngoài một thể mặt trăng. Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói: “Một trăng hiện khắp tất cả nước. Tất cả trăng nước, một trăng nhiếp.” chính là vậy,
Như Lai ở cõi nước Ta-bà có đến vô lượng trăm ngàn dị danh tùy tâm chúng sanh ứng với lượng sở tri, mỗi chúng có lời khác, mà không biết nghĩa tự tánh chân thật Như Lai như trăng trong nước, chẳng ra chẳng vào chẳng phải có chẳng phải không. Chẳng hiểu dị danh của Như Lai là tất cả chúng sanh chỉ biết tức nơi danh nhận nghĩa, mà chẳng hiểu Như Lai tuy có nhiều danh chỉ nói lên một thế. Nên nói tự tánh thanh tịnh Như Lai, chỉ chứng tương ưng, chẳng phải danh nói đến được. Như trăng trong nước chẳng thể nói có không, không thể nói xa gần, không thể chỉ bày, không thể độ lượng, thật chẳng phải không tánh, mà chẳng rơi vào số lượng có không.
Các kẻ ngu kia không thể biết ta, vì rơi vào hai bên. Song thảy cung kính cúng dường nơi ta, mà không khéo hiểu biết câu lời nghĩa thú chẳng phân biệt được danh, chẳng hiểu tự thông. Chấp trước các thứ ngôn thuyết chương cú, nơi chẳng sanh diệt khởi tưởng vô tánh. Chẳng biết danh hiệu sai biệt của Như Lai, biết Nhân-đà-la Thích-ca, Bất-lan-đà-la mà chẳng hiểu tự thông, hội qui về chỗ tột cùng, nơi tất cả pháp tùy chỗ chấp trước.
Tuy nói pháp thân Như Lai ly tứ cú, rời phân biệt, đồng thời nói Phật có nhiều danh xưng, đó là chỗ khéo của Phật để chúng ta không rơi vào chấp có chấp không. Chúng sanh không khéo nhận được thể chân thật, tuy vẫn cung kính không mất phước lành, nhưng chủ ý của Phật không chỉ dừng ở chỗ phước báo. Ngài muốn hướng chúng sanh đến chỗ chân thật, không rơi vào chấp trước ngôn thuyết, vừa có trí tuệ vừa có phước, đạt được tự thông mới là chỗ tột cùng của Phật dạy.
Kẻ ngu không biết tự tánh Pháp thân Như Lai vọng thấy có không dắm trước nơi danh tự, mà đối với câu tất cả pháp chẳng sanh diệt, khởi tưởng không tánh. Đây chính là chẳng hiểu tự thông vọng chấp tất cả pháp là chẳng sanh diệt. Tất cả danh hiệu đều nói một thể, nhân danh đạt thể, đạt thể thì lìa lời nói. Nên nói hội qui về chỗ tột cùng. Chẳng rõ nghĩa này nhưng chỉ nơi danh thuyết riêng sanh lý thú, luống thêm đa văn tăng trưởng ngã kiến.
Tất cả pháp chẳng sanh diệt là lẽ thật của kinh điển, nhưng với người không nhận được tự tánh nghe nói chẳng sanh diệt bèn cho là không có pháp. Vì còn trong vòng kiến chấp có không nên dù nghe nghĩa lý vẫn chỉ nghe trên danh từ, không đạt tự thông. Chúng sanh có bệnh chấp danh từ, như nghe danh từ Như Lai bèn định nghĩa Như Lai là thế này, nghe danh từ Chánh Biến Tri bèn định nghĩa, chú giải danh từ này tiếng Phạn là gì, Trung Hoa dịch là gì… Như vậy vô tình vướng kẹt trong chữ nghĩa giả danh, không nhận được chủ đích của lời Phật dạy, vì thế bị lỗi, luống thêm đa văn tăng trưởng ngã kiến.
Có hai:
Đại Huệ! Những người si kia nói thế này: “Nghĩa như lời nói, nghĩa lời không khác. Vì cớ sao? Vì nghĩa không có thân, ngoài ngôn thuyết lại không có nghĩa khác, chỉ dừng nơi ngôn thuyết.” Đại Huệ! Kia bị trí ác thiêu đốt chẳng biết tự tánh ngôn thuyết, chẳng biết ngôn thuyết sanh diệt, nghĩa chẳng sanh diệt. Đại Huệ! Tất cả ngôn thuyết rơi vào văn tự, nghĩa thì chẳng rơi, vì lìa tánh phi tánh, không thọ sanh cũng không thân. Đại Huệ! Như Lai chẳng nói pháp rơi trong văn tự, vì văn tự có không không thể được, trừ chẳng rơi vào văn tự.
Đây nói người ngu si chẳng đạt tự tánh chân nghĩa, bảo nghĩa không thể tánh, mà lấy ngôn thuyết làm cảnh giới giác tưởng sở hành cho là tột các nghĩa vị. Cho nên nói “chỉ dừng nơi ngôn thuyết”. Đây không những là chẳng biết nghĩa, mà cũng chẳng biết tự tánh ngôn thuyết. Ngôn thuyết y nơi nghĩa vốn không tự thể là tánh sanh diệt. Nên nói “ngôn thuyết tự tánh”. Nghĩa lìa ngôn thuyết, tánh chẳng phải sanh diệt, chẳng thuộc có không.
Người ngu cho rằng lời nói và nghĩa không khác, vì ngoài lời nói thì nghĩa không có thể tánh, chỉ nương ngôn thuyết mà khởi suy nghĩ, cho là cùng tột nghĩa vị. Phật bảo đó là bị trí ác thiêu đốt, không biết được tự tánh ngôn thuyết. Ngôn thuyết thì sanh diệt, nghĩa chẳng sanh diệt. Đây có hai nghĩa:
Một là theo nghĩa thường. Ví dụ chúng ta đến nhà bạn chơi, gặp giờ cơm, chủ nhà mời ăn cơm, Lời mời ăn cơm là ngôn thuyết, còn đưa cơm vào miệng ăn không thuộc ngôn thuyết. Nếu nói chúng là một thì lầm.
Hai là theo nghĩa cứu cánh. Phật nói tất cả pháp không sanh, hay tất cả pháp là chân như. Chỗ chân như bình đẳng không phải là chỗ ngôn thuyết đến được vì ngôn thuyết sanh diệt, chân như không sanh diệt. Nếu nói ngôn thuyết là nghĩa, thì nghĩa này cũng sanh diệt, bị trí ác thiêu đốt vì không biết tự tánh ngôn thuyết sanh diệt, còn nghĩa thì không.
Tất cả ngôn thuyết đều rơi vào văn tự. Nghĩa thì không rơi văn tự, lìa có và không, nên không sanh cũng không thân.
Đã lìa sanh diệt có không cũng lìa cái lìa. Kinh Viên Giác nói: “Biết là không hoa liền không đi luân chuyển, cũng không thân tâm thọ cái sanh tử kia.” Tức ở đây nói “không thọ sanh cũng không thân”. Lại Viên Giác nói: “Cái tri giác kia vẫn như hư không, biết hư không ấy tức là tướng không hoa, cũng không thể nói không có tánh tri giác.” Tức ở đây nói “trừ chẳng rơi vào văn tự”. Tự tánh Pháp thân Như Lai không sanh không thân, chẳng rơi trong văn tự, mà chẳng phải không chẳng rơi. Kẻ ngu si không trí chẳng phân biệt thuyết và nghĩa, vọng tự đắm trước, là dáng thương xót vậy.
Nghĩa lìa sanh diệt có không, lìa luôn cái lìa Ngài Hàm Thị dẫn kinh Viên Giác: “Biết là không hoa liền không luân chuyển, cũng không có thân tâm thọ cái sanh tử kia”, tức là nghĩa không thọ sanh cũng không thân ở đây. Cái tri giác kia vẫn như hư không, biết hư không ấy tức là tướng không hoa, cũng không thể nói không có tánh tri giác, tức ở đây nói trừ chẳng rơi vào văn tự. Tự tánh Pháp thân Như Lai không sanh không thân, chẳng rơi trong văn tự, mà chẳng phải không chẳng rơi, nghĩa là vẫn nương văn tự mà hiển bày nghĩa nhưng không phải là văn tự.
Đại Huệ! Nếu có người nói rằng “Như Lai nói pháp rơi vào văn tự”, người này ắt vọng ngữ, vì pháp lìa văn tự. Thế nên, Đại Huệ! Chư Phật chúng ta và các vị Bồ-tát không nói một chữ chẳng đáp một chữ. Vì cớ sao? Vì pháp lìa văn tự, chẳng phải không nói nghĩa lợi ích. Ngôn thuyết là vọng tưởng của chúng sanh. Đại Huệ! Nếu chẳng nói tất cả pháp thì giáo pháp ắt hoại. Giáo pháp hoại thì không có chư Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn, nếu không thì ai nói và vì ai?
Như Lai nói ra đều vì nghĩa, mượn ngôn thuyết để vào đệ nhất nghĩa. Tức nơi ngôn thuyết nói đệ nhất nghĩa rời ngôn thuyết. Cho nên từ thành Phật cho đến Niết-bàn, ở trong khoảng giữa ấy, Phật chẳng nói một chữ. Nghĩa là không một lời rơi vào tướng văn tự, mà chẳng phải không nhằm lợi ích chúng sanh vì phân biệt nói. Nếu không nhằm lợi ích chúng sanh phân biệt nói thì hàng Nhị thừa, Bồ-tát kia từ đâu dựng lập vào nghĩa chân thật. Như thế thì Thánh giáo diệt hoại, ai dạy cho ai ư? Cho nên biết tất cả ngôn thuyết đều không có thật pháp, vì đệ nhất nghĩa mà có nói bày. Do thuyết mà nhập nghĩa, nghĩa hiển thì thuyết lìa. Thuyết tức không thuyết, chỉ tức không trên chỉ. Cho nên nói “chư Phật, Bồ-tát không nói một chữ”.
Chư Phật và Bồ-tát nói tất cả pháp, ở đây lại nói không nói một chữ, không đáp một chữ, ngầm chỉ cho chúng ta biết pháp của Phật không phải là ngôn thuyết, nhưng nương ngôn thuyết để nói đệ nhất nghĩa rời ngôn thuyết, chỉ nhằm lợi ích chúng sanh. Cho nên thuyết ba tạng kinh điển mà bảo không nói một chữ, do ngôn thuyết mà nhập nghĩa, khi hiển được nghĩa thì lìa ngôn thuyết. Thuyết tức không thuyết, chỉ tức không chỉ, gọi là không nói một chữ.
Thế nên, Đại Huệ! Đại Bồ-tát chớ kẹt ngôn thuyết, tùy nghi phương tiện rộng nói kinh pháp. Vì hy vọng phiền não của chúng sanh chẳng phải một, nến ta và chư Phật tùy các thứ hiểu biết sai khác của chúng sanh mà nói các pháp, khiến lìa tâm ý ý thức, chẳng phải vì được chỗ tự giác Thánh trí.
Đây là dạy bảo Bồ-tát tùy căn thức chúng sanh rộng nói kinh pháp, chẳng nên mắc nơi ngôn thuyết. Nếu có nói ra đều nhân các thứ hy vọng, các thứ phiền não, các thứ hiểu khác của chúng sanh, mà vì phá trừ. Khiến họ lìa cái hư ngụy từ vô thỉ, chuyển tâm ý ý thức, tự biết tự chứng. Quyết không có nói chỉ bày chỗ tự giác Thánh trí. Bởi vì tự giác Thánh trí la tướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm duyên, tự chứng được ở bên trong, chẳng phải chỗ hiển bày của vọng tưởng ngôn thuyết. Cho nên biết, chư Phật nói pháp như thầy thuốc trị bệnh, chỉ có phương pháp dẹp trừ bệnh nhặm, mà không có phương pháp làm tăng thêm ánh sáng. Thuyết cùng với nghĩa có tánh hay không tánh rõ ràng tự thấy.
Phật dạy Đại Bồ-tát nên tùy hy vọng, phiền não, hiểu biết sai khác của chúng sanh mà phương tiện thuyết pháp. Như vậy, thuyết pháp để chúng sanh lìa những hư ngụy từ vô thỉ, chuyển tâm tức là tàng thức, ý là thức thứ bảy, ý thức là thức thứ sáu để họ tự chứng, tự biết; chứ không chỉ bày chỗ tự giác Thánh trí, là chỗ lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm duyên. Chỉ dẹp trừ bệnh nhặm, chúng ta bệnh mắt, thầy thuốc cho thuốc nhỏ mắt. Bệnh mắt hết thì mắt tự sáng, thầy thuốc không làm mình sáng thêm mà chỉ dẹp bệnh cho mình. Phật không làm chúng ta giác, Ngài chỉ dạy chúng ta dẹp phiền não, dứt vô minh thì tánh giác tự hiện. Ngôn thuyết thì không tánh, còn nghĩa thì có thực thể, thấy được rõ ràng.
Đại Huệ! Đối tất cả pháp không thật có, giác tự tâm hiện lượng, lìa hai thứ vọng tưởng. Các vị đại Bồ-tát y nơi nghĩa chẳng y văn tự. Nếu người thiện nam thiện nữ y văn tự là tự hoại đệ nhất nghĩa, cũng không thể giác ngộ cho người, rơi vào ác kiến tương tục mà vì chúng nói, chẳng khéo rõ biết tất cả pháp, tất cả địa, tất cả tướng, cũng chẳng biết chương cú. Nếu người khéo biết tất cả pháp, tất cả địa, tất cả tướng, thông đạt chương cú, đầy đủ tánh nghĩa thì họ hay dùng chánh lạc vô tướng mà tự vui thích, bình đẳng Đại thừa, dựng lập cho chúng sanh.
Trước nói ngôn thuyết chẳng vì được chỗ tự giác Thánh trí. Ở đây nói người được tự giác Thánh trí thâm đạt Pháp tướng, có dựng lập ra tự nhiên chẳng rơi vào cảnh giới văn tự vọng tưởng. Phàm văn tự hay làm ngu người là, nói ra tất cả pháp theo cảnh giới có, không vọng tưởng. Nếu đạt tất cả pháp không có tự tánh đều duy tâm hiện, lìa cảnh giới vọng tưởng của hai thứ có không thì chỗ chỉ của văn tự xem thế nào? Cho nên y văn tự thì không thể nói đệ nhất nghĩa, mà trái lại hay hoại đệ nhất nghĩa. Bởi không khéo rõ biết tất cả pháp, tất cả địa, tất cả tướng, chân như bản tế, thì cũng không thể biết chương cú của Thánh giáo. Vì thế, dựng lập tất cả pháp, tất cả địa, tất cả tướng đều lìa tướng hiển bày đầy đủ tánh nghĩa, mới tin Thánh giáo ly ngôn, chỉ vì dẹp trừ hý luận, riêng nếu duy tâm, bên trong tự chứng hiện trụ nơi pháp lạc, bên ngoài dựng lập bình đẳng Nhất thừa. Sở hành của tự giác Thánh trí này, Như Lai vì Bồ-tát y nghĩa dạy bảo thâm thiết, đâu phải cạn cợt ư?
Phật xác nhận nếu đạt tất cả pháp không thật có, giác được tự tâm hiện lượng, thì lìa hai thứ vọng tưởng. Các Đại Bồ-tát do đó nương nơi nghĩa chứ không theo văn tự, nếu người nương theo văn tự là phá hoại đệ nhất nghĩa, không thể giác ngộ chúng sanh, vì dạy theo ác kiến của mình, không rõ biết tất cả pháp, tất cả địa (Tất cả địa là giai bậc của Bồ-tát), tất cả tướng, không thông đạt chương cú vì không biết nghĩa. Ngược lại, ai khéo biết tất cả pháp không tự tánh, trải qua tất cả địa, thấu suốt tất cả tướng, thông đạt chương cú, biết đầy đủ tánh nghĩa, trụ vào vui chánh định vô tướng để tự vui và thành tựu cho chúng sanh.
Này Đại Huệ! Nhiếp thọ Đại thừa thì nhiếp thọ chư Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn. Nhiếp thọ chư Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn thì nhiếp thọ tất cả chúng sanh. Nhiếp thọ tất cả chúng sanh thì nhiếp thọ chánh pháp. Nhiếp thọ chánh pháp thì giống Phật chẳng dứt. Giống Phật chẳng dứt thì hay rõ biết được chỗ vào thù thắng. Biết được chỗ vào thù thắng là hàng đại Bồ-tát thường được hóa sanh, dựng lập Đại thừa mười sức tự tại, hiện các sắc tượng, thông đạt các tướng phiền não, hy vọng, hình loại của chúng sanh, nói pháp như thật. Như thật là chẳng khác, như thật là tướng chẳng đến chẳng đi, tất cả hư ngụy đều dứt, ấy gọi là như thật. Đại Huệ! Người thiện nam thiện nữ chẳng nên nhiếp thọ theo lời nói mà chấp trước. Vì chân thật là lìa văn tự.
Đại thừa tức là pháp tự giác Thánh trí nhất thừa. An trụ tự giác Thánh trí nhất thừa tức là chỗ nhiếp thọ của chư Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn. Bởi vì tự giác Thánh trí này là chỗ xuất sanh chư Phật, Bồ-tát. Nếu hay an trụ tức cùng chư Phật, Bồ-tát đồng thể nhiếp nhập; cũng hay nhiếp thọ chúng sanh, chúng sanh y đó mà được lợi lạc; cũng hay nhiếp thọ chánh pháp, chẳng bị tất cả thế luận làm dao động, tất cả ngoại đạo không tìm được chỗ dở, nắm giữ đệ nhất nghĩa pháp ấn tự tánh Như Lai, tức là giống Phật chẳng dứt. Đệ nhất nghĩa tâm tự tánh này tức là tất cả chỗ thù thắng. Nên nói “được đại tổng trì”. Được đại tổng trì tự nhiên tùy chỗ hóa sanh, dựng lập Đại thừa, thành tựu thập lực, đối hiện Sắc thân tùy phiền não chúng sanh mà vì cứu giúp, dùng pháp vị như thật vô tướng an trụ điều phục, dứt các hý luận. Cho nên răn người tu hành không nên nhiếp thọ ngôn thuyết, chỉ phải nhiếp thọ chân thật. Đây là lìa văn tự mà được, chẳng phải cảnh giới giác tưởng. Người trí đối chỗ này nên phải tự nhận.
Nếu chúng ta có thể nhiếp thọ Đại thừa tức là nhiếp thọ pháp tự giác Thánh trí. Pháp này là chỗ nhiếp thọ của chư Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn, nên chúng ta cũng nhiếp thọ chúng sanh. Chúng sanh nương đó được lợi lạc, tức là chúng ta nhiếp thọ chánh pháp và làm cho giống Phật chẳng dứt, vì tâm không bị thế luận lay chuyển, được chỗ vào thù thắng đệ nhất nghĩa tâm thù thắng, được đại tổng trì. Từ đó tùy chỗ hóa sanh, dựng lập Đại thừa, được mười sức tự tại, tùy phiền não của chúng sanh mà hiện thân cứu giúp, an trụ điều phục bằng pháp vị như thật. Như thật là dứt hết mọi hư ngụy, hý luận. Nên khuyên phải lìa văn tự, lìa cảnh giới giác tưởng. Người trí phải khéo nhận chỗ này. Mượn ngôn thuyết để nhập đệ nhất nghĩa chứ đừng kẹt ở ngôn thuyết. Chúng ta đừng lo thành Phật không biết nói pháp, chỉ lo không thành Phật được. Lục Tổ thường được xem là người không biết chữ, nhưng chỉ cần nghe người khác đọc kinh là Ngài giảng thông suốt. Thành Phật rồi, biết được tâm lượng của chúng sanh, nói ra điều gì cũng thành pháp hết. Còn không thì dù nói thao thao vẫn bị chê là đếm bò cho người.
Đại Huệ! Như vì kẻ ngu lấy ngón tay chỉ vật, kẻ ngu nhìn ngón tay mà chẳng thấy vật thật. Như thế kẻ ngu theo ngôn thuyết chỉ bày rồi nhiếp thọ chấp trước, rốt cùng chẳng bỏ, trọn không được đệ nhất thật nghĩa lìa ngôn thuyết chỉ ra. Đại Huệ! Thí như đứa bé nên cho thức ăn chín, không nên cho thức ăn sống. Nếu cho thức ăn sống khiến nó phát cuồng, vì không biết phương tiện thứ tự làm cho chín. Đại Huệ! Chẳng sanh chẳng diệt như thế, nếu chẳng có phương tiện tu hành tức là chẳng khéo. Thế nên phải khéo phương tiện tu hành, chớ theo lời nói như xem ngón tay.
Đây lại nói phải lìa ngôn thuyết được đệ nhất trinh nghĩa. Ngón tay dụ ngôn thuyết. Vật dụ đệ nhất nghĩa. Nghĩa là đệ nhất nghĩa do ngôn thuyết mà vào chẳng phải ngôn thuyết là đệ nhất nghĩa, cũng chẳng phải sở thuyết là đệ nhất nghĩa. Nếu y ngôn thuyết khởi cảnh giới vọng tưởng giác đó là chấp sâu dày. Khiến người phát cuồng tức là cho cảnh giới vọng giác làm đệ nhất nghĩa, mất trí phương tiện, tự lầm làm lầm người. Như nói “tất cả pháp chẳng sanh”, đây là ngôn thuyết. Tự phải phương tiện quán sát pháp nào chẳng sanh, tại sao chẳng sanh? Dùng phương tiện quán sát liền biết tất cả pháp chỉ tự tâm hiện ra. Mê tự tâm thì vọng thấy hiện ra, hiện nhân mê thấy, chẳng có pháp thật. Giác tự tâm lượng thì mê vọng liền dứt, tất cả chẳng phải riêng có, trọn không có lấy bỏ. Chỗ không lấy bỏ ấy là tự tánh chân như, trong ngoài lặng lẽ, tức là đệ nhất thật nghĩa. Đây là khéo phương tiện tu vậy.
Phật dùng ví dụ ngón tay chỉ vật. Ngón tay dụ cho ngôn thuyết, vật chỉ cho nghĩa đệ nhất. Tay chỉ vật mà chúng ta lại nhìn ngón tay không nhìn vật được chỉ thì không biết ngón tay, cũng chẳng biết vật. Đệ nhất nghĩa do ngôn thuyết mà vào, nhưng ngôn thuyết chẳng phải đệ nhất nghĩa. Người ngu vì chấp sâu dày nên y ngôn thuyết mà khởi vọng tưởng, chấp chặt chẳng bỏ thì không được đệ nhất nghĩa. Ví dụ nữa là đứa bé nên cho ăn thức ăn chín, nếu ăn thức ăn sống nó sẽ phát cuồng. Phát cuồng nghĩa là không có trí phương tiện, cho cảnh giới vọng giác là đệ nhất nghĩa, không biết thứ tự, mình đã lầm lại làm lầm người. Như nói tất cả pháp chẳng sanh, đó là ngôn thuyết. Biết nghĩa do tự tâm hiện nên chẳng sanh, không thật có thì dứt mê vọng, không lấy bỏ. Chỗ ấy là tự tánh chân như, trong ngoài lặng lẽ, là đệ nhất nghĩa. Đó là khéo biết tu.
Nếu nghe “tất cả pháp chẳng sanh” liền trên tất cả pháp phân tích thành vị trần đến không có gì, ấy cũng thuộc tướng khác của vọng tưởng. Bởi vì nơi không chấp có, lại nơi có chấp không, thảy đều đối pháp như thật riêng khởi cảnh giới, ấy là tướng khác. Cho đến nghe nói “tâm lượng” rồi dùng vọng tưởng giác, giác nơi Tự tâm chấp là sâu kín, cũng đều do vọng hiện vọng, chẳng lìa vọng tưởng. Y ngôn thuyết mà chấp như xem ngón tay. Cho nên trên có dụ thức ăn sống, nếu không có phương tiện trở lại thêm lớn bệnh cuồng.
Nương ngôn thuyết này cho rằng các pháp không có, do phân tích mà thành vi trần, thành không thì vẫn là tướng khác của vọng tưởng, vì thuộc đối đãi nơi không chấp có, nơi có chấp không. Nghe nói tâm lượng lại chấp là sâu kín, toàn là vọng, như xem ngón tay, như thức ăn chẳng chín, không biết phương tiện thì lớn bệnh cuồng.
Thế nên, Đại Huệ! Nơi nghĩa chân thật phải phương tiện tu. Nghĩa chân thật là lặng lẽ vi diệu, là nhân Niết-bàn. Còn ngôn thuyết là do vọng tưởng hiệp. Vọng tưởng là do gom họp sanh tử. Đại Huệ! Nghĩa chân thật là từ người đa văn mà được. Đại Huệ! Đa văn là giỏi về nghĩa, chẳng phải giỏi về ngôn thuyết. Giỏi nghĩa là không theo các kinh luận ngoại đạo, tự thân chẳng theo cũng không khiến người khác theo, ấy gọi là đại đức đa văn. Thế nên người muốn cầu nghĩa phải thân cận bậc đa văn, nên gọi là giỏi nghĩa. Trái với người này tức là chấp trước ngôn thuyết, nên phải lìa xa.
Nơi nghĩa chân thật phải phương tiện tu, nghĩa là nhận ra được nhân Niết-bàn lặng lẽvi diệu không phải ngôn thuyết do vọng tưởng nhóm họp sanh tử. Người đa văn giỏi về nghĩa chứ không phải giỏi ngôn thuyết, như Lục Tổ. Muốn được vậy phải thân cận người đa văn và xa lìa người chấp trước ngôn thuyết.
Là nhân chẳng phải quả gọi là Phật tánh. Là quả chẳng phải nhân gọi là Niết-bàn. Chẳng phải nhân chẳng phải quả là Phật tánh. Không nhân không quả là Đại bát Niết-bàn. Đây đều là lời nói của Như Lai, lời thì khác mà nghĩa là một. Nghĩa chân thật là, tự tánh thanh tịnh làm nhân, cứu kính lặng lẽ làm quả. Song đây chẳng phải chỗ đến của người giỏi ngôn thuyết. Phải biết cái tịnh của tự tánh chẳng sanh lặng lẽ, không có nhân tướng; lặng nơi tự tánh chẳng từ tu được cũng không có nghĩa quả. Chỗ này người giác tự tâm hiện lượng tự biết tự chứng chẳng theo tất cả cảnh giới ngôn thuyết vọng tưởng. Nếu theo ngôn thuyết thì tăng trưởng vọng chấp, nhóm nhân sanh tử, tức chẳng phải Như Lai nói là đa văn. Như Lai thường nói người chỉ nghe hai chữ “thường trụ” hiểu sâu nghĩa thú gọi là đa văn. Nếu người đọc được tất cả mười hai bộ khế kinh, mà chẳng nghe “thường trụ” gọi là vô văn. Thân cận bậc đa văn nên nói là giỏi nghĩa chẳng phải giỏi ngôn thuyết. Phải tự xét kỹ vậy.
Nhân là Phật tánh, quả là Niết-bàn: Vì tất cả chúng sanh đều có sẵn Phật tánh, nhưng khi nào sạch hết phiền não che đậy mới được Niết-bàn. Như hạt mít có thể trở thành cây mít, nhưng nếu đem vùi trong bếp tro thì không có mít để ăn. Phải đem ươm, tưới, bón phân, vài năm mới có trái. Như vậy có nhân, phải khéo dùng phương tiện mới có quả. Chẳng phải nhân chẳng phải quả là Phật tánh: Vì Phật tánh không sanh diệt. Không nhân không quả là Đại bát Niết-bàn: Vì không phải nhân quả sanh diệt theo thế gian. Phật nói lời khác nhưng nghĩa là một, người theo ngôn thuyết không thể đến được. Cái tịnh của tự tánh vốn lặng lẽ chẳng sanh, không do tu được, chỉ là giác được tự tâm hiện lượng, tự biết tự chứng, không theo ngôn thuyết vọng tưởng nên không có tướng nhân hay quả.
Có sáu:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại nương oai thần của Phật bạch Phật: Thế Tôn! Thế Tôn hiển bày “chẳng sanh chẳng diệt” không có gì kỳ đặc. Vì cớ sao? Vì tất cả ngoại đạo về nhân cũng nói “chẳng sanh chẳng diệt”. Thế Tôn cũng nói hư không, phi số duyên diệt (Phi trạch diệt) và Niết-bàn giới chẳng sanh chẳng diệt? Thế Tôn! Ngoại đạo nói nhân sanh các thế gian. Thế Tôn cũng nói vô minh, ái, nghiệp, vọng tưởng làm duyên sanh các thế gian. Kia nhân, đây duyên chỉ là tên sai biệt thôi? Ngoại vật nhân duyên cũng như thế. Thế Tôn cùng ngoại đạo luận không có sai biệt. Vì trần, thắng diệu, tự tại, chúng sanh chủ v.v.. như thế chín vật chẳng sanh chẳng diệt. Thế Tôn cũng nói tất cả tánh chẳng sanh chẳng diệt, có không, không thể được? Ngoại đạo cũng nói tứ đại chẳng hoại, tự tánh chẳng sanh chẳng diệt, tứ đại thường, tứ đại ấy cho đến châu lưu các thú chẳng bỏ tự tánh. Thế Tôn đã nói cũng lại như thế? Thế nên con nói không có gì kỳ đặc, cúi xin Thế Tôn vì nói chỗ sai biệt, do đó kỳ đặc hơn các ngoại đạo. Nếu không sai biệt thì tất cả ngoại đạo đều cũng là Phật, vì chẳng sanh chẳng diệt. Song Thế Tôn nói trong một thế giới có nhiều Phật ra đời là vô lý. Nếu như trước đã nói thì trong một thế giới lý ưng có nhiều Phật, vì không sai biệt?
Đại Huệ thưa rằng Thế Tôn nói “chẳng sanh chẳng diệt” đâu có gì đặc biệt hơn ngoại đạo. Ngài đưa ra bốn vấn nạn đều nương oai thần của Phật, nghĩa là ngài biết ý của Phật nên gạn hỏi chứ không phải tự ý hỏi.
Đây dùng bốn nạn muốn Như Lai phát minh lý do khác với ngoại đạo.
Một, nạn ngoại đạo chấp tác giả nhân chẳng sanh chẳng diệt, đồng với Như Lai ba pháp vô vi. Hư không tức là hư không vô vi, phi số duyên diệt tức là phi trạch diệt vô vi, Niết-bàn tức là trạch diệt vô vi. Bởi chẳng biết ngoại đạo nói tác nhân là ở trong mê vọng chấp, nhiếp thuộc sanh diệt. Chẳng sanh chẳng diệt cũng là vọng chấp. Nên nói sanh diệt tướng khác, chẳng đồng với ba pháp vô vi. Như Lai giác tự tâm hiện lượng, tự tánh lặng lẽ.
Ngoại đạo nói có tác giả làm nhân tạo thế gian như Thượng Đế, thế gian thì sanh diệt còn Thượng Đế hay tạo hóa thì không sanh diệt. Như Lai nói ba pháp vô ví là hư không vô ví, phi số duyên diệt tức phi trạch diệt vô vi và Niết-bàn tức trạch diệt vô vi chẳng sanh chẳng diệt, vậy đâu khác ngoại đạo? Ngài Hàm Thị bình rằng: Tác nhân của ngoại đạo do vọng chấp, thuộc về sanh diệt, nên chẳng sanh chẳng diệt của họ cũng thuộc vọng chấp. Do đó tướng sanh diệt khác với ba pháp vô vi, do Phật giác tự tâm hiện lượng, tự tánh lặng lẽ không phải tạo tác, không có sanh khởi nên khác.
Hai, nạn ngoại đạo chấp tác giả nhân sanh ảnh trong các thế gian, đồng với Như Lai nói mười hai nhân duyên ba đời tương tục. Bởi không biết kia chấp tánh sanh, đây chỉ vọng duyên. Tất cả duyên sanh thảy do vọng hiện, chẳng phải tự chẳng phải tha, chẳng phải cộng chẳng phải không.
Ngoại đạo chấp tác giả nhân sanh các thế gian thì cũng giống như Phật nói mười hai nhân duyên sanh ba đời tương tục. Ngài Hàm Thị bình: Vì không biết, ngoại đạo chấp thật có tánh sanh, còn Phật nói chỉ do vọng duyên. Tất cả duyên sanh vô minh, ái… do vọng hiện, không phải tự sanh, tha sanh, cộng sanh hay vô nhân sanh, chỉ là hư dối, do đó khác.
Ba, nạn vi trần, thắng tánh như thế chín vật chẳng sanh chẳng diệt, cũng đồng với Như Lai nói tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt. Đâu biết Như Lai nói tự tướng pháp tánh, chân như dù có Phật ra đời hay không Phật, pháp nhĩ như thế, chẳng đồng với ngoại đạo vọng tưởng mà thành không có nghĩa thật.
Ngoại đạo nói chín vật vi trần, thắng diệu, tự tại, chúng sanh chủ chẳng sanh chẳng diệt cũng giống Như Lai nói tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt. Đó là chẳng biết Như Lai nói tự tướng pháp tánh chân như, dù Phật có ra đời hay không cũng vẫn như thế, khác với ngoại đạo dựa vào vọng tưởng mà lập, không có nghĩa thật.
Bốn, nạn ngoại đạo chấp tự tánh tứ đại là thường là một, đồng với Như Lai nói có tứ đại khắp mười phương giới chẳng lưu ngại nhau. Bởi không biết Như Lai nói phi nhân phi duyên, phi hòa phi hợp cũng phi tự nhiên, do vọng tưởng hiện. Chính ở trong kinh Lăng Nghiêm nói rằng: “Kiến cùng kiến duyên và Ta tướng sở tưởng như hoa đốm trong hư không vốn không thật có. Cái kiến và duyên này vốn là Bồ-đề diệu tịnh minh thể.”
Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật nói tứ đại trùm khắp mười phương, không lưu ngại nhau. Ngoại đạo cũng nói tứ đại là thường, là một đâu khác? Vì không biết, ngoại đạo chấp tứ đại thật có, còn Phật nói là do vọng tưởng hiện, không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên, không hòa cũng không hợp. Kiến cùng kiến duyên và tướng sở tưởng như hoa đốm trong hư không vốn không thật có. Cái kiến và duyên này vốn là Bồ-đề diệu tịnh minh thể. Tất cả năng sở đối đãi của thế gian đều như hoa đốm vốn không thật có. Nếu biết rõ như thế thì trở về với Bồ-đề diệu tịnh minh thể, là tánh giác sáng suốt thanh tịnh bất sanh bất diệt. Khác nhau như thế.
Trong một thế giới không có nhiều Phật, Nếu ngoại đạo đồng với Phật tức là có nhiều Phật. Tổng nạn ngoại đạo đồng với Phật để hiển bày sai biệt vậy.
Phật bảo Đại Huệ: Ta nói chẳng sanh chẳng diệt không đồng với ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt. Vì cớ sao? Vì ngoại đạo kia chấp có tánh tự tánh được tướng chẳng sanh chẳng biến, ta chẳng rơi vào loại có không như thế. Đại Huệ! Ta nói lìa loại có không, lìa sanh diệt, chẳng phải tánh chẳng phải không tánh, như các thứ huyễn mộng hiện, cho nên chẳng phải không tánh. Thế nào không tánh? Nghĩa là sắc tướng không tự tánh nhiếp thọ, vì hiện chẳng hiện, vì nhiếp chẳng nhiếp. Bởi lẽ ấy, tất cả tánh không tánh chẳng phải không tánh. Chỉ giác tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sanh an ổn vui vẻ thế sự hằng dứt.
Ngoại đạo mê tự tâm lượng, chỗ từ tâm hiện chấp có tự tánh. Đây vì không biết sanh nhân lưu chú, thấy lưu chủ tương tục được tướng chẳng sanh diệt, gọi là rơi vào bên có. Vì tác giả làm nhân mà chẳng phải nhân, cũng rơi vào bên không. Pháp của Như Lai chẳng phải có chẳng phải không, lìa các thứ sanh diệt. Nên nói “các thứ sắc tướng thảy đều không có tự tánh như mộng huyền”. Mộng huyễn chẳng phải không, vì không tánh nên chẳng phải có; Liberalist có thấy có nhận chẳng thể nói không, không thấy không nhận chẳng thể nói có. Có không đều phi, cả hai đều xa lìa. Duy giác tự tâm hiện lượng, cảnh hiện ra đều là tâm, trọn không có thủ xả. Thủ xả đều quên, an trụ nơi tâm hải, lặng lẽ không lo, dạo đi trong thế gian như vườn nhà của mình.
Phật trả lời chẳng sanh chẳng diệt của Phật không đồng với ngoại đạo. Ngoại đạo do mê nên sắc tướng có hiện, có nhiếp, chấp có chấp không. Lại không biết sanh nhân trôi chảy liên tục, thấy liên tục nên chấp không sanh diệt. Ví dụ như ngọn đèn cháy từ tối đến sáng, bấc lụn, dầu cạn nhưng chúng ta luôn nghĩ là một ngọn đèn duy nhất. Thân mình cũng luôn đổi thay từ bé đến già, mình vẫn nghĩ là một không khác. Dòng sông chảy luôn luôn, nước đổi khác từng giây từng giây mà ta vẫn nghĩ là một. Đó là rơi vào có. Tác giả làm nhân mà chẳng phải nhân thì rơi vào không, như nói Thượng đế tạo muôn loài nhưng Thượng đế chỉ do ngoại đạo vọng tưởng ra, không có thật. Phật lìa có không, lìa sanh diệt, biết các pháp như mộng huyễn không có tự tánh, chỉ do tâm hiện nên không lấy hay bỏ, vọng tưởng chẳng sanh, dứt hẳn thế sự, an trụ nơi biển tâm, vui vẻ không lo, dạo khắp các cõi như dạo vườn nhà.
Phàm phu ngu si vọng tưởng tác sự, chẳng phải chư Thánh Hiền. Vọng tưởng chẳng thật như thành Càn-thát-bà và người huyễn hóa. Đại Huệ! Như thành Càn-thát-bà và người huyễn hóa thấy có các chúng sanh mua bán ra vào. Kẻ ngu vọng tưởng bảo thật có ra vào, mà thật không có người ra người vào, chỉ vì vọng tưởng kia. Như thế, Đại Huệ! Phàm phu ngu si khởi cái lầm chẳng sanh chẳng diệt, kia cũng không có hữu vi vô vi, như người huyễn sanh, kỳ thật không có hoặc sanh hoặc diệt, vì tánh không tánh không thật có. Tất cả pháp cũng như thế, lìa nơi sanh diệt. Phàm phu ngu si rơi vào chẳng như thật, khởi vọng tưởng sanh diệt chẳng phải các Thánh Hiền.
Đây là nói tột chỗ chấp tác nhân của ngoại đạo đồng với huyễn hóa, không có nghĩa thật. Tác sự là tác nhân, tức chỗ chấp có tướng tánh tự tánh. Nói chỗ chấp của kia là có tánh tự tánh thì chẳng phải người trí. Chính là vọng tưởng chẳng thật như thành Càn-thát-bà, như huyễn hóa. Kẻ ngu vọng thấy ra vào, mà thật không có người ra vào. Tánh tự tánh đã không phải thật có, nên cũng không có tướng chẳng sanh diệt. Chính kia khởi chấp chẳng sanh diệt, cũng không thể phân biệt cái gì là hữu vi, cái gì là vô vi. Nói chỗ chấp tự tánh chẳng thật của họ tức là tướng chẳng sanh diệt, cũng thuộc về vọng tưởng, không thể chỉ bày là hữu vi hay vô vị nên dều đồng với huyễn hóa. Lại chính chỗ chấp kia mà xoay lại nói “kỳ thật hoặc sanh hoặc diệt, tánh cùng không tánh đều không thật có. Tất cả pháp cũng như thế, lìa nơi sanh diệt”. Bởi vì muốn cho họ ngay nơi đó mà biết lỗi, được tự tướng như thật, thấy chỗ tịch tĩnh. Văn sau chỉ thẳng tự tướng tịch tĩnh chẳng khác với vọng tưởng mà được chân thật, chỉ cần một phen giác.
Phàm phu ngu si chấp có tướng tánh tự tánh – tác sự – mà không biết chỗ chấp ấy chỉ là vọng tưởng không thật, như thành Càn-thát-bà, như huyễn hóa, thấy như có người ra vào mua bán sinh hoạt mà thật ra không có. Vì không thật có nên tánh tự tánh cũng không có tướng chẳng sanh diệt. Người ngu chấp tánh tự tánh này không sanh diệt thì cũng chỉ là vọng tưởng. Phật nói chẳng sanh chẳng diệt là pháp vô vi. Họ chấp có sanh nhân thì thuộc hữu vi, mà cho là chẳng sanh diệt thì không phân biệt được hữu vi và vô vi, chỉ vọng tưởng thôi, không đúng sự thật. Phật ngay chỗ chấp này của họ, xoay lại nói: Kỳ thật hoặc sanh hoặc diệt, tánh cùng không tánh đều không thật có. Tất cả pháp cũng như thế, lìa nơi sanh diệt, vì muốn cho họ ngay đó biết lỗi, thấy được tự tướng như thật tịch tĩnh.
Chẳng như thật là chẳng thế, như tánh tự tánh, vọng tưởng cũng chẳng khác. Nếu khác với vọng tưởng thì chấp trước tất cả tánh tự tánh, chẳng thấy tịch tĩnh. Người chẳng thấy tịch tĩnh trọn chẳng rời vọng tưởng, Thế nên, Đại Huệ! Vô tướng kiến là thắng, chẳng phải tướng kiến. Tướng kiến là nhân thọ sanh, cho nên chẳng thẳng. Đại Huệ! Vô tướng là vọng tưởng chẳng sanh, chẳng khởi chẳng diệt, ta nói là Niết-bàn. Đại Huệ! Niết-bàn là thấy nghĩa như chân thật, lìa vọng tưởng tâm tâm số pháp trước. Đạt được Như Lai tự giác Thánh trí, ta nói là Niết-bàn.
Tiếp trước nói phàm ngu rơi vào chẳng như đi thật thì không thể như tất cả vọng tưởng tánh tự tánh, cũng chẳng khác. Phàm tất cả tánh như vọng tưởng tánh, không thể ngay đó phát minh được vọng tưởng tự tánh. Theo vọng khởi chấp dường như có pháp khác, tướng và kiến theo đó mà sanh, vì thế chẳng thấy tịch tĩnh. Chẳng thấy tịch tĩnh thì trọn không thể xa lìa vọng tưởng, đều do chẳng biết tự tánh vọng tưởng. Đây chỉ thẳng tự tánh vọng tưởng tức là chân thật.
Phàm phu ngu si không biết như thật thì không thể biết tánh tự tánh không khác vọng tưởng, cho nên không ngay đó phát minh được tự tánh vọng tưởng. Vọng tưởng không thật, biết không thật thì không theo vọng tưởng, tâm liền tịch tĩnh. Tịch tĩnh tức là Niết-bàn. Vậy tự tánh của vọng tưởng chính là tự tánh Niết-bàn. Nếu không quán tất cả pháp đều huyễn hoá mà thấy được bản chất vọng tưởng là hư dối, tâm cũng tịch tĩnh Niết-bàn. Nếu dấy động theo vọng tưởng là thấy như có pháp khác, tướng và kiến liền sanh, không được tịch tĩnh. Chúng ta tu làm sao để được tướng tức cảnh và kiến tức tâm không dấy động thì tâm lặng lẽ. Muốn được như thế, phải biết tự tánh vọng tưởng tức là chân thật. Đó mới là thù thắng.
Chỉ tự rõ biết không có tướng, kiến liền là Niết-bàn. Tướng, kiến là nhân thọ sanh, ngu nơi chân thật thì không thể an trụ. Đây là tất cả chúng sanh xưa nay thanh tịnh, thường bị khách nhiễm làm chướng. Cho nên biết, đoạn chướng bày ra Chân như không hai, tức là tự tánh Niết-bàn. Nói là đoạn chướng tức là đoạn chướng tướng kiến này. Chướng này nếu đoạn liền thấy Thật tánh vọng tưởng. Từ trước tâm tâm số pháp liền đó chóng lìa. Lìa thì tự giác Thánh trí không có thể riêng, Như Lai nói là Niết-bàn.
Tâm thể vốn là thanh tịnh mà mê khởi kiến tướng rồi rong ruổi mãi trong sanh tử. Kiến và tướng tức là khách làm nhiễm ô tâm thể thanh tịnh của mình. Đoạn chướng tướng kiến này thì chân như hiện bày, chóng lìa tâm tâm sở đã có, thấy được thật tánh vọng tưởng, sóng lặng thành nước không hai không khác. Nên nói tự giác Thánh trí không có thể riêng, Như Lai nói là Niết-bàn.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Diệt trừ sanh luận kia
Dựng lập nghĩa chẳng sanh
Ta nói pháp như thế
Kẻ ngu không thể biết.
Ngoại đạo chủ trương có nhân sanh, Phật lập nghĩa chẳng sanh. Pháp này người ngu khó biết được.
Tất cả pháp chẳng sanh
Không tánh không thật có
Càn-thát-bà huyễn mộng
Có tánh ấy không nhân
Chẳng sanh không tự tánh
Vì sao không lại nói?
Bởi lìa nơi hòa hợp
Tánh giác biết chẳng hiện
Thế nên không chẳng sanh
Ta nói không tự tánh.
Tất cả pháp chẳng sanh vì không thật có như thành Càn-thát-bà, người huyễn, cảnh mộng, tuy thấy như có mà không nhân chân thật. Các pháp đã không thật thì có gì để nói? Vì lìa nhân duyên hòa hợp thì không thể giác biết. Cho nên biết là không thì vọng tưởng chẳng sanh, Phật nói không có tự tánh vậy.
Bảo mỗi mỗi hòa hợp
Tánh hiện mà chẳng có
Phân tích không hòa hợp
Chẳng như ngoại đạo thấy.
Nhân duyên hòa hợp thấy có mà thật không, phân tích rõ ràng không giống cái thấy của ngoại đạo.
Tất cả các pháp do mê tự tâm bất giác liền hiện, không có tự tánh. Đây là lý do Như Lai nói chẳng sanh và không. Nói chẳng sanh là vì phá sanh luận. Nói pháp không là vì phá kiến chấp hữu. Kỳ thật tất cả pháp đều không tự tánh. Như thành Càn-thát-bà mộng huyễn, tuy có tánh hiện mà vốn không nhân. Không nhân mà hiện nên không có nghĩa sanh, bởi không có tánh tự sanh. Trong khoảng kia nhân duyên hòa hợp gá tánh giác tri, dường như rõ ràng hiện tiền. Nếu lìa hòa hợp thì giác tưởng không có chỗ gá, hiện lại là trạng thái gì? Trong mộng hòa hợp ngay đó rõ ràng, sau khi có nhân duyên thức giấc thì ghi nhớ cái gì? Cho nên biết, không cùng chẳng sanh là nói tất cả pháp bất giác liền hiện không có tự tánh, mà không phải một bề chẳng sanh trống rỗng thành không. Mỗi mỗi hòa hợp tánh như bóng như vang, hiện mà chẳng phải có, chẳng đồng với ngoại đạo thật có sanh nhân, quyết đợi phân tích rồi sau mới biết nó là chẳng có.
Phật nói chẳng sanh để phá sanh luận, nói pháp không để phá kiến chấp có. Nhưng thật ra tất cả pháp đều do mê tự tâm mà hiện, tuy có hiện nhưng không nhân nên không nghĩa sanh, như mộng huyễn, như thành Càn-thát-bà. Nghĩa là các pháp chẳng sanh do bất giác hiện, không có tự tánh nhưng không phải rỗng không; như bóng như vang, hiện mà chẳng phải có; nên khác ngoại đạo chấp có sanh nhân, đợi phân tích sau mới biết là không.
Mộng huyễn và tóc rũ
Sóng nắng, Càn-thát-bà
Thế gian các thứ việc
Không nhân mà tướng hiện
Bẻ dẹp hữu nhân luận
Nêu bày nghĩa vô sanh.
Nêu bày vô sanh là
Pháp chảy mãi chẳng dứt
Thịnh hành vô nhân luận
Khủng bố các ngoại đạo.
Lặp lại tất cả pháp như mộng huyễn, tóc rũ, sóng nắng, thành Càn-thát-bà không có sanh nhân, mà sanh sự (quả) rõ ràng. Dùng đây để chiết phục nhân luận, chính do đây nên bày vô sanh. Phàm “pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”, pháp nhãn chóng mở thì chỗ nhật dụng của bách tánh cúi ngước xoay quanh đều kham nối tiếp. Cho nên nói “nêu bày vô sanh là pháp chảy mãi không dứt”.
Không có nhân sanh mà có quả rõ ràng, như giấc mộng. Tại sao mộng? Mê! Mê thấy cảnh mà cảnh không thật có. Không thật có thì nhân sanh đâu có thật. Phật nói không có nhân sanh, để chiết phục luận có sanh, do đây bày vô sanh. Nếu mở được con mắt pháp thì trong sinh hoạt hằng ngày cúi ngước xoay quanh đều là đạo, có thể nối tiếp mãi chánh pháp. Nói cách khác khi ta cuốc đất trồng khoai, nhổ cỏ làm vườn… đều là pháp chân thật.
Song lý do chiết phục ngoại đạo cũng chính tại đây. Nghĩa là do ngoại đạo vọng chấp các pháp có sanh nhân nên rơi vào hai lỗi: Một là chẳng phải tự sanh do vọng tưởng hiện, hai là không thể sanh cái khác, vì không có tánh sanh. Nếu có thể sanh nhân thì tất cả pháp đều có cội gốc, không thể chóng liễu. Song có thấy và chẳng thấy, có nhiếp và chẳng nhiếp, chỉ do mê khởi, chẳng phải chẳng chóng liễu. Ngoại đạo không thể giác chỗ này luống nghe không nhân, chẳng rõ biết chỗ trở về mờ mịt không căn cứ. Cho nên biết họ ắt kinh sợ.
Đó cũng là lý do làm ngoại đạo khiếp sợ. Vì cái chấp của ngoại đạo có hai lỗi: Một là các pháp chẳng phải tự sanh mà do vọng tưởng hiện. Hai là không có tánh sanh nên không thể sanh cái khác. Nếu cho là có nhân sanh thì các pháp đều có cội gốc, nghĩa là có thật thì không thể chóng liễu ngộ. Ví dụ như cây mít, nếu để nguyên bảo người xô thì khó. Chúng ta cưa cây mít rồi dựng lên lại, hỏi có ai xô ngã được không? Cưa rồi xô thì cây ngã dễ dàng. Biết các pháp do vọng tưởng mà hiện, không có gốc rễ, không thật thì liễu ngộ ngay. Ngoại đạo không giác được điều này, nghe không nhân thì hoang mang, mờ mịt.
Có hai:
Khi ấy, Đại Huệ dùng kệ hỏi Phật:
Thế nào do nhân gì
Kia do cớ gì sanh.
Ở chỗ nào hòa hợp
Mà làm vô nhân luận?
Đây là nhân Như Lai ở trước nói vô nhân luận, nên lại hỏi tất cả các pháp rốt ráo nhân gì, chỗ nào được hòa hợp, mà Như Lai nói vô nhân.
Thế Tôn lại dùng kệ đáp:
Quán sát pháp hữu vi
Phi vô nhân hữu nhân
Kia thuộc sanh diệt luận
Chỗ thấy từ đó diệt.
Ngoại đạo nói nhân thảy do vọng kiến. Người trí nếu hay quán sát tất cả pháp hữu vi đều do tự tâm bất giác vọng hiện, như mộng như huyễn không có nhân tướng, cũng không vô nhân. Cái thấy này chóng dứt liền hiệp vô sanh.
Ngài Đại Huệ hỏi vì sao Phật làm luận vô nhân. Phật đáp do quán sát pháp hữu vi, chúng không phải có nhân hay không nhân. Nếu có nhân hay không cũng đều thuộc sanh diệt. Biết như thế thì dứt được cái thấy, hợp với vô sanh.
Đại Huệ nói kệ hỏi:
Thế nào là vô sanh
Là phải vô tánh chăng?
Là đoái xem các duyên
Có pháp tên vô sanh
Tên chẳng lẽ không nghĩa
Xin vì phân biệt nói.
Đây hỏi vô sanh là thảy không pháp hay là đợi duyên hội. Đã có tên vô sanh, có tên ắt phải có nghĩa.
Ngài Đại Huệ lại hỏi thế nào là vô sanh? Vô sanh là không có hay là do duyên hợp không có chủ, nên gọi là vô sanh? Nghĩa của vô sanh là sao xin Phật giản trạch.
Thế Tôn lại dùng kệ đáp:
Phi vô tánh vô sanh
Cũng phi đoái các duyên
Chẳng tánh mà có tên
Tên cũng chẳng không nghĩa.
Tất cả các ngoại đạo
Thanh văn và Duyên giác
Phi cảnh giới thất trụ
Ấy gọi tướng vô sanh.
Tất cả các pháp đều do tâm hiện, hiện chẳng phải không tánh, hiện chẳng đợi duyên, hiện chẳng phải tự tánh, song cũng chẳng phải không nghĩa tâm lượng. Đây là nghĩa tâm lượng vô sanh, còn chẳng phải cảnh giới của Nhị thừa, Thất trụ huống là ngoại đạo.
Phật dạy không phải không có thực thể, cũng chẳng phải do duyên. Tuy không thật mà có tên, tên này chẳng phải không có nghĩa. Nghĩa của nó chính là tướng vô sanh, không phải cảnh giới của Nhị thừa, ngoại đạo. Bồ-tát Thất trụ cũng chưa rõ được.
Xa lìa các nhân duyên
Cũng lìa tất cả sự
Chỉ có vị tâm trụ
Tưởng sở tưởng đều lìa
Thân kia tùy chuyển biến
Ta nói là vô sanh.
Nhân duyên tức là thế gian nhân duyên hòa hợp. Tất cả sự tức là tất cả quả. Nghĩa là lìa kiến chấp nhận duyên hòa hợp nhân quả có không ở thế gian. Chỉ có niệm hiện tiền vi mật an trụ tịch tĩnh, chuyển năng sở tất cả thân vọng tưởng, mà làm tự giác Thánh trí. Mê, ngộ dụng khác mà không có thể khác, nên nói tâm vốn vô sanh.
Cái vô sanh này lìa nhân duyên, lìa tất cả sự, nghĩa là lìa kiến chấp về nhân duyên hòa hợp, nhân quả có không của thế gian. Các pháp chỉ từ tâm mê hiện, không thuộc nhân duyên, cũng không thật có. Chỉ trụ vào tâm vi mật thì tưởng và sở tưởng đều lìa, thân theo đó chuyển biến thành tự giác Thánh trí, Phật nói là vô sanh. Chúng ta tu muốn được như thế thì chỉ có niệm hiện tiền. Niệm mà vô niệm, nghĩa là hiện tại thấy nghe mà không dính mắc, vi mật an trụ tịch tĩnh, thì mới chuyển tất cả vọng tưởng, chuyển rồi thì tự giác Thánh trí hiện tiền. Ở đây chỉ thẳng thật thể hiện tại đang hiển lộ nơi sáu căn của chúng ta, chỉ cần tiếp xúc cảnh đừng thêm niệm thứ hai, thứ ba nghĩa là vọng tưởng không sanh, tâm liền tịch tĩnh vô sanh. Chỗ này không phải dễ, chúng ta vừa thấy nghe là khởi phân biệt đẹp xấu, hay dở liền. Phật Tổ dạy nhiều cách giúp ta tỉnh thức, chẳng hạn như đi đứng nằm ngồi, súc miệng rửa tay phải tụng kệ Tỳ-ni nhật dụng; hay dạy chúng ta thân đâu tâm đó, nghĩa là làm gì biết mình làm nấy, đi biết đi, đứng biết đứng, co biết co, duỗi biết duỗi. Đó là giúp mình sống hiện tiền chứ gì? Ở đây nói niệm hiện tiền là thấy nghe không thêm gì nữa. Lục Tổ nói niệm mà vô niệm là chỗ này. Như thế chỉ một thể mà do mê ngộ nên thấy khác, ngộ thì ngay đó vô sanh còn mê thì thành sanh diệt.
Không ngoại tánh vô tánh
Cũng không tâm nhiếp thọ
Đoạn trừ tất cả kiến
Ta nói là vô sanh.
Như thế không tự tánh
Không, thảy nên phân biệt
Chẳng không, nên nói không
Vô sanh nên nói không.
Đây nói giác tự tâm hiện lượng, chỉ rõ tất cả ngoại pháp không tánh, không tâm thủ cảnh, tất cả kiến chấp dứt tức là vô sanh. Câu vô sanh này cùng nghĩa không, không có tự tánh đều nói chính khi sanh là chẳng sanh, chẳng phải thảy đều không có pháp. Cho nên nói “chẳng không, nên nói không, vô sanh nên nói không”.
Phật định nghĩa vô sanh lần nữa. Vô sanh là tất cả pháp bên ngoài không có thật tánh, cũng không đem tâm chấp giữ, dứt hết các kiến chấp. Như thế vì các pháp không có tự tánh nên nói không, chứ chẳng phải không có pháp, ngay nơi sanh nói vô sanh. Vô sanh là không còn kiến chấp.
Nhân duyên số hòa hợp
Ắt có sanh có diệt
Lìa các nhân duyên số
Không riêng có sanh diệt
Bỏ lìa nhân duyên số
Lại không có tánh khác
Nếu nói một khác ấy
Là ngoại đạo vọng tưởng
Có không tánh chẳng sanh
Chẳng có cũng chẳng không
Trừ số kia chuyển biến
Ấy thảy không thể được.
Trên nói vô sanh tức ở đương sanh, chính là Như Lai chỉ bày lý vô sanh. Đây nói sanh diệt gốc nơi nhân duyên để rõ cái cớ chúng sanh lưu chuyển. Chỉ đạt lưu chuyển chính ở duyên sanh thì bỏ nhân duyên, lại không nói một khác, có không, như tứ cú của ngoại đạo vọng tưởng. Mới biết mê nhân duyên nên thấy sanh diệt, ngộ nhân duyên là hợp với vô sanh. Nếu lìa nhân duyên riêng có sanh diệt thì luận vô sanh cũng phá hoại nghĩa nhân duyên, mà chẳng phải đương sanh chẳng sanh, văn sau sẽ nói rõ.
Phật dạy ngay sanh là vô sanh, vì sanh là do nhân duyên hòa hợp tạm thấy tạm có mà chẳng thật. Ngoài nhân duyên thì không sanh diệt, cũng không có tánh khác nào cố định. Ngoại đạo vọng tưởng cho rằng có một thật thể sanh ra các pháp, không biết các pháp như mộng huyễn, vốn vô sanh, không thuộc có không, chỉ do duyên chuyển biến.
Chỉ có các tục số
Lần lượt làm xiềng xích
Lìa xích nhân duyên kia
Nghĩa sanh không thể được.
Sanh không tánh chẳng khởi
Lìa các lỗi ngoại đạo
Chỉ nói duyên xiềng xích
Phàm ngu không thể hiểu.
Các tục số như mười hai nhân duyên móc nối với nhau làm xiềng xích, lìa nhân duyên này thì không có nghĩa sanh. Sanh không có tự tánh, không mắc lỗi như ngoại đạo chấp. Nhưng chỉ nói nhân duyên xiềng xích thì phàm ngu không hiểu được.
Nếu lìa duyên xiềng xích
Riêng có tánh sanh ấy
Tức là vô nhân luận
Phá hoại nghĩa xiềng xích.
Như đèn bày các tướng
Xiềng xích hiện cũng vậy
Ấy là lìa xiềng xích
Riêng lại có các tánh.
Các tục số tức là chỉ chúng sanh do nhân duyên sanh diệt, như xiềng xích liên hoàn chẳng dứt. Nếu chính nhân duyên kia chóng lìa xiềng xích liền không có sanh diệt có thể được. Liền đây vô sanh, một lúc phát kiến chẳng khởi, tự lìa lỗi của ngoại đạo. Chỉ dùng thuyết nhân duyên này, vẫn chẳng phải phàm ngu hay hiểu. Bởi vì lìa xiềng xích tức không sanh diệt, lìa xiềng thể xích tức không vô sanh. Mê ngộ đồng đường mà dễ sanh thấy khác. Nếu lìa xiềng xích (nhân duyên) riêng có sanh diệt thì Như Lai luận vô nhân. Cũng phải phá hoại nhân duyên mà lại có chỗ chỉ, như đèn bày các tướng, chẳng phải đèn tức các tướng. Sự hiện của nhân duyên nếu quả như vậy thì ngoài nhân duyên riêng có tánh khác, đã thành thuyết của ngoại đạo. Thế thì, nghĩa dương sanh mà chẳng sanh của Như Lai lại có chỗ nào được sáng sủa?
Nếu lìa nhân duyên mà nói có tánh sanh tức thuộc vô nhân luận, phá nghĩa nhân duyên. Nghĩa là khi lìa nhân duyên tức không sanh diệt mà lại có tánh sanh thuộc sanh diệt thì tánh sanh này không do nhân duyên, tức vô nhân. Như vậy là ngoài nhân duyên có tánh khác như đèn làm hiện các vật mà đèn chẳng phải vật. Làm sao nói được là ngay nơi sanh mà vô sanh?
Không tánh không có sanh
Như tự tánh hư không
Nếu lìa các xiềng xích
Tuệ không chỗ phân biệt.
Lại có các vô sanh
Pháp Hiền Thánh sở đắc
Kia sanh mà vô sanh
Ấy là vô sanh nhẫn.
Đây hiển bày nghĩa đương sanh là chẳng sanh. Bởi vì tức nơi tánh mà không tánh, tức nơi sanh mà vô sanh. Hiện tại trong nhân duyên xiềng xích rõ ràng như tự tánh hư không chẳng lìa chính nơi đây mà tự chứng tự biết. Chư Hiền Thánh đạt được pháp nhẫn đều không có hai ý chỉ.
Mười hai nhân duyên nương nhau mà có, không có tự tánh riêng nên như hư không, không sanh không diệt. Ngay nơi nhân duyên mà chứng biết vô sanh, nếu lìa nhân duyên xiềng xích thì trí tuệ không chỗ phân biệt. Chư Hiền Thánh đắc các pháp vô sanh là ngay nơi sanh mà vô sanh, gọi là vô sanh nhẫn.
Nếu khiến các thế gian
Người quán sát xiềng xích
Tất cả lìa xiềng xích
Từ ấy được tam muội.
Si ái các nghiệp thủy
Ấy là xiềng xích trong
Dùi, gỗ, đất, bánh xe
Chủng tử thảy bên ngoài.
Nếu khiến có tha tánh
Mà từ nhân duyên sanh
Kia không nghĩa xiềng xích
Ấy là chẳng thành tựu.
Nếu sanh không tự tánh
Kia lấy gì xiềng xích
Vì lần lượt sanh nhau
Nên biết nghĩa nhân duyên.
Lại khuyên thế gian chỉ hay quan sát xiềng xích (nhân duyên) không có tự tánh, chẳng sanh pháp khác, chính nơi đây bỗng nhiên không còn ngăn ngại, sẵn có chánh định liền khi ấy hiện tiền. Mới biết tất cả vô minh hoặc nghiệp, cây dùi, thanh gỗ, bùn, bánh xe, khi mê dường như có pháp, lúc ngộ chẳng từ nơi khác, lần lượt sanh nhau cái gì là tác giả? Nên nói “tướng kiến không tánh đồng như bó lau”. Nghĩa nhân duyên pháp vốn như thế.
Người thế gian nếu hay quán sát nhân duyên không tự tánh, lìa nhân duyên sẽ được chánh định. Nhân duyên gồm hai thứ: Trong và ngoài. Nhân duyên bên trong như si ái và các nghiệp; nhân duyên bên ngoài như các chủng tử, dùi, gỗ, đất, bánh xe.. là các pháp do nhiều duyên hợp lại, lần lượt sanh lẫn nhau, không có người tạo tác. Nếu có người làm ra tha tánh – không phải nhân duyên sanh, không có nghĩa xiềng xích thì không thể được. Sanh không có tự tánh, các pháp lần lượt sanh nhau mới thành nghĩa nhân duyên, pháp vốn không có thật, chỉ mê mới hiện, nên nói tướng kiến không tánh đồng như bó lau, gá vào nhau mà tạm có.
Pháp cứng ướt ấm động
Phàm phu sanh vọng tưởng
Lìa số không pháp khác
Ấy là nói không tánh.
Nêu cứng ướt ấm động để lệ tất cả pháp thảy từ vọng tưởng, dường sanh tương tục, lìa đây thì riêng không có, là nói không tánh.
Như thầy trị các bệnh
Không có bao nhiêu luận
Vì bệnh có sai biệt
Nên lập các thứ trị.
Ta vì chúng sanh kia
Phá hoại các phiền não
Biết căn kia hơn kém
Vì kia nói độ môn.
Phi gốc phiền não khác
Mà có các thứ pháp
Chỉ nói pháp Nhất thừa
Ấy tức là Đại thừa.
Phật như thầy thuốc, vì bệnh có nhiều sai biệt nên phải lập nhiều thuốc trị liệu. Chúng sanh nhiều phiền não, Phật nói nhiều pháp môn để độ tùy theo từng căn cơ. Tuy có các bệnh phiền não sai biệt nhưng cũng từ một gốc vô minh bất giác, Phật nói tất cả pháp rốt cuộc cũng quy về Nhất thừa, tức là Đại thừa.
Kết nói Như Lai vì các chúng sanh rộng nói nhân duyên để phá hoại phiền não dựng lập độ môn. Tuy nhân căn dục có các thứ khác, dường như Phật cũng có các thứ giáo lý mà chẳng biết Như Lai chỉ có Nhất thừa. Nên nói “Tự tâm hiện lượng, phương tiện nhiều môn, về nguồn không hai”.
Chia làm hai:
Khi ấy, đại Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Tất cả ngoại đạo đều khởi vọng tưởng vô thường. Thế Tôn cũng nói tất cả hạnh vô thường là pháp sanh diệt. Nghĩa này thế nào? Là tà hay chánh? Là có bao nhiêu thứ vô thường?
Nhân trước Phật nói chẳng sanh diệt là thường đã cùng ngoại đạo chẳng đồng, đây lại do pháp vô thường cũng có tà chánh nên khởi hỏi này. Đứng về tự tâm mà nói thì chẳng phải thường và vô thường. Bởi bất giác tự tâm vọng có hiện ra thì niệm niệm chẳng dừng, không có chủ tể. Thế thì, tất cả pháp sắc tâm trong ngoài như ngọn đèn, như đống lửa, như điện chớp, như bóng dáng, mé trước mé sau mỗi mỗi chẳng đến nhau, đây là chánh pháp nói vô thường. Phàm tự tánh như thật khó mà chóng giác nên vì nói vô thường khiến họ lần lần ngộ. Ngoại đạo luống ở ngoài tâm thấy tất cả pháp thật có sanh ra, thật có diệt mất, chấp thường mà vẫn chẳng phải nhân chân thật, chấp vô thường cũng chẳng phải chân tịch. Đây là lý do ngài Đại Huệ gấp cầu phát minh.
Câu hỏi của ngài Đại Huệ rất lý thú. Ngoại đạo nói tất cả pháp vô thường. Bây giờ Phật cũng nói tất cả hạnh vô thường sanh diệt. Vậy đâu có khác gì nhau? Vô thường như thế là tà hay chánh? Có bao nhiêu loại? Chúng ta thường chỉ nghĩ đơn giản là cái gì ngày nay mới, đến lúc cũ hư là vô thường, nhưng muốn hiểu cho rõ ràng là điều không phải dễ.
Đứng về tự tâm mà nói thì chẳng phải thường hay vô thường, nhưng vì bất giác mà hiện thì niệm niệm chẳng dừng đâu có chủ tể. Các pháp trong ngoài như đèn, lửa, điện chớp, bóng dáng… mé trước mé sau không đến nhau, niệm sau không biết niệm trước… dụ như ngọn đèn, từng giọt dầu thấm vào bấc rồi cháy, đến giọt khác liên tiếp nhau. Gọi là một ngọn đèn nhưng không thật có, chỉ là sanh diệt tiếp nối không dừng. Thân và tâm mình cũng thế, nếu chấp là thật thì sai lầm. Đó là vô thường theo chánh pháp. Hơn nữa tự tánh thật khó nhận biết, nên Phật nói vô thường cho phàm ngu bỏ chấp thân tâm dần dần ngộ được tự tánh. Ngoại đạo không biết, ngoài tâm chấp các pháp thật sanh thật diệt. Chấp thường mà chẳng phải nhân chân thật, chấp vô thường cũng chẳng phải chân tịch.
Chia ra mười một:
Phật bảo Đại Huệ: Tất cả ngoại đạo có bảy thứ vô thường, chẳng phải pháp của ta. Những gì là bảy? Kia có nói rằng “làm rồi mà bỏ”, ấy gọi vô thường; có nói “hình xứ hoại, ấy gọi vô thường; có nói tức sắc là vô thường; có nói trong khoảng giữa sắc chuyển biến, ấy là vô thường, không xen hở tự nó tan hoại như sự chuyển biến của sữa thành lạc, trong khoảng giữa không thể thấy, vô thường hủy hoại tất cả tánh chuyển; có nói tánh vô thường; có nói tánh không tánh vô thường; có nói tất cả pháp chẳng sanh vô thường vào tất cả pháp.
Làm rồi mà bỏ là, có tánh vô thường hay làm các đại, các đại là thường, cái hay làm, làm rồi lại bỏ là vô thường. Hình xứ hoại là, chấp tứ đại và tứ đại tạo sắc năng tạo sở tạo chẳng hoại, chỉ phân tích thấy hình trạng dải ngắn hoại thôi. Tức sắc là, tứ đại năng tạo là thường, tứ đại sở tạo là vô thường. Trong khoảng giữa sắc chuyển biến là, năng tạo sở tạo trong khoảng giữa có tánh vô thường luôn luôn chuyển biến như sữa biến thành lạc v.v… tự nhiên biến đổi. Tánh vô thường là, có tự tánh vô thường chẳng hoại mà hay hoại các pháp, như cây gậy, gạch, đá có tánh hay hoại. Tánh không tánh vô thường là, tánh chỉ năng tạo, không tánh chỉ sở tạo, tánh của năng tạo tạo xong liền hoại, pháp sở tạo cũng lại tùy hoại, đây là chấp năng sở đều hoại. Tất cả pháp chẳng sanh vô thường, là phân biệt tất cả pháp chẳng sanh, mà cho chẳng sanh khắp tất cả là vô thường. Đây là bày bảy thứ, văn sau rộng phá, trước sau không nhất định.
Bảy thứ vô thường của ngoại đạo:
1) Làm rồi bỏ: Các pháp được tạo ra, bỏ đó lần lần hoại đi. Ví dụ như những dụng cụ không được bảo quản sẽ bị hư hỏng. Đó là vô thường.
2) Hình xứ hoại vô thường: Chấp tứ đại và tứ đại tạo sắc tức năng tạo và sở tạo không hoại, chỉ hình tướng dài ngắn biến hoại mà thôi.
3) Tức sắc là vô thường: Chấp tứ đại năng tạo là thường, tứ đại sở tạo là vô thường.
4) Trong khoảng giữa sắc chuyển biến: Chấp sự vật có chuyển biến ngầm ở bên trong, như từ sữa biến thành bơ. Chuyển biến ngầm đó gọi là vô thường.
5) Tánh vô thường: Tự tánh vô thường chẳng hoại mà hay hoại các pháp, nghĩa là luật vô thường là thường, còn tất cả pháp là vô thường.
6) Tánh không tánh vô thường: Chấp có tức năng tạo và không tức sở tạo, đều vô thường.
7) Tất cả pháp chẳng sanh là vô thường: Phân biệt tất cả pháp chẳng sanh mà chấp chẳng sanh khắp tất cả là vô thường.
Đại Huệ! Tánh không tánh vô thường là, tứ đại và sở tạo tự tướng hoại, tứ đại tự tánh không thể được, chẳng sanh.
Tứ đại là năng tạo. Sở tạo là tất cả pháp. Kia chấp năng tạo sở tạo tự tướng, tạo xong thảy đều hoại, mà tứ đại tự tánh chẳng phải hình tướng có thể được, chẳng sanh. Chẳng biết tứ đại chủng do vọng tưởng mà thành, vọng vốn chẳng sanh cũng không có chỗ diệt, tức ở nhân duyên xiềng xích đều không có tác giả. Đâu thể khi năng tạo, sở tạo hoại lại có tứ đại tự tánh chẳng sanh ư?
Phật giải thích không theo thứ tự nêu trên. Trước hết giải thích tánh không tánh vô thường. Tứ đại tạo ra tất cả pháp. Ngoại đạo chấp tạo xong thảy đều hoại mà tự tánh của tứ đại không có hình tướng nên vô sanh. Đó là chẳng biết tứ đại do vọng tưởng mà thành vốn như huyễn, chẳng sanh chẳng diệt theo nhân duyên mà hiện đâu có tác giả, làm sao khi năng tạo sở tạo diệt lại có tự tánh tứ đại không sanh? Đây là loại vô thường thứ sáu trên.
Kia chẳng sanh vô thường là, chẳng phải thường vô thường, tất cả pháp có không chẳng sanh, phân tích cho đến vị trần thì không thể thấy, ấy là nghĩa chẳng sanh. Phi sanh, ấy gọi là tướng chẳng sanh vô thường. Nếu chẳng giác được chỗ này thì rơi vào nghĩa sanh vô thường của tất cả ngoại đạo.
Chẳng phải thường vô thường chính là chỗ chấp của ngoại đạo. Kia cho là tất cả pháp có không chẳng sanh, phân tích cho đến vi trần thì không thể thấy, ấy là nghĩa chẳng sanh. Phí sanh, bèn cho là chẳng sanh vô thường, mà không biết pháp của ta nói chẳng sanh, bởi do tự tâm bất giác vọng hiện như bóng như điện, không thể nói có không, mà chẳng phải phân tích không thấy, Vả lại, đã nói có tánh chẳng sanh vào tất cả pháp, đây tức là sanh, vì gọi là tác giả. Lẽ ưng nói sanh vô thường, mà lại nói chẳng sanh vô thường. Thế thì, cho sanh là chẳng sanh, là không biết nghĩa chẳng sanh; mà cho chẳng sanh là vô thường, lại chẳng biết nghĩa vô thường. Nếu chẳng giác chỗ này tức rơi vào nghĩa sanh vô thường của ngoại đạo mà lầm cho là chẳng sanh vô thường.
Đem một cục đất to, đập nhỏ ra, đập mãi thành bụi, thành vi trần, thành lân hư trần rồi thành không. Khi không thấy nữa gọi là chẳng sanh, rồi cho chẳng sanh là vô thường. Đây là chỗ chấp của ngoại đạo, cho rằng tất cả pháp có không đều chẳng sanh vì phân tích đến tận cùng chẳng có gì. Đó không phải nghĩa Phật nói. Đã nói có tánh chẳng sanh vào tất cả pháp thì là có tác giả, có sanh, đúng ra phải nói là sanh vô thường chứ đâu được nói chẳng sanh vô thường? Vậy là chẳng biết nghĩa chẳng sanh, cũng không biết nghĩa vô thường. Phật thì ngay sanh nói chẳng sanh vì tất cả đều từ tâm hiện không thật, không thường. Nếu không rõ thì chấp theo ngoại đạo. Đây là loại vô thường thứ bảy trên.
Đại Huệ! Tánh vô thường ấy, là tự tâm vọng tưởng chẳng phải tánh thường vô thường. Vì cớ sao? Vì vô thường tự tánh chẳng hoại. Đại Huệ! Đây là việc tất cả tánh không tánh vô thường. Trừ vô thường ra không có cái gì hay khiến tất cả pháp tánh không tánh, như gậy, gạch, đá hay phá hoại các vật.
Tánh vô thường là, ngoại đạo chấp tự tánh vô thường hay phá hoại các pháp. Trước xét cái tệ kia, là đối chỗ chẳng phải tánh thường vô thường mà vọng sanh phân biệt, bảo có vô thường tự tánh chẳng hoại. Dưới bèn nêu cái chấp kia, bảo việc tất cả tánh không tánh vô thường, chẳng phải có vô thường tự tánh hay hoại các pháp thì quyết không thể khiến tất cả pháp tánh không tánh vô thường. Như gậy, gạch, đá là dụ có sức hay phá hoại. Đây tức là năng hoại sở hoại rõ ràng có hai vật, cho nên ở sau phá đó.
Đây là loại vô thường thứ năm trên. Lỗi của lối chấp này là chỗ chẳng phải tánh thường hay vô thường mà khởi phân biệt rằng có tự tánh vô thường chẳng hoại, nghĩa là nếu không có tự tánh vô thường này phá hoại các pháp thì không có pháp nào vô thường cả. Như vậy có hai thứ năng hoại và sở hoại riêng biệt như có gậy, gạch, đá… đập nát vật khác.
Hiện thấy mỗi mỗi chẳng khác tánh ấy vô thường sự, chẳng phải tác, sở tác có sai biệt, đây là vô thường, đây là sự. Tác và sở tác không khác là, tất cả tính thường, không nhân tánh. Đại Huệ! Tất cả tánh không tánh có nhân, chẳng phải chỗ biết của phàm ngu.
Nhân ở trên nói có cái vô thường tự tánh chẳng hoại mà hay hoại tất cả pháp thì nên có hai vật sai biệt. Cho nên phá rằng “hiện thấy trước mắt tất cả tánh (pháp) vô thường sự không có năng hoại sở hoại tướng sai biệt khác, thật có thể chỉ bày, bảo đây là vô thường tánh hay hoại, đây là vô thường sự bị hoại”. Đã năng sở chẳng khác thì tất cả tánh là thường không có nhân tánh. Nghĩa là tất cả pháp thường tự tịch diệt không có nhân tánh năng hoại. Như Lai lại chuyển ngữ nói “tất cả tánh không tánh vô thường sự cũng có nhân, song chẳng phải chỗ biết của phàm ngư”. Sao gọi là có nhân? Nghĩa là tất cả các pháp nhân vô thỉ bất giác vọng có hiện ra không có tự tánh, sát-na sát-na niệm niệm chẳng dừng, nên nói “các pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”, đây không phải chỗ biết của phàm ngu.
Hiện thấy trước mắt, không thể chỉ đâu là tánh vô thường hay làm hoại và đâu là việc vô thường bị hoại. Như thế thì năng sở không khác, tất cả tánh là thường, tịch diệt, không có nhân tánh hay phá hoại. Phật lại nói tất cả pháp có và không vô thường cũng có nhân mà phàm ngu không biết được. Nhân này chính là vô thỉ bất giác mà vọng hiện tất cả các pháp, chúng không có tự tánh, niệm niệm không dừng, Kinh nói; Các pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ, là vậy.
Chẳng phải nhân chẳng tương tợ sự sanh. Nếu sanh, tất cả pháp thảy đều vô thường. Là chẳng tương tợ sự thì tác và sở tác không có sai khác, mà thảy thấy có khác. Nếu tánh vô thường, rơi vào tác nhân tánh tướng. Nếu rơi thì tất cả tánh chẳng cứu kính. Tất cả tánh tác nhân tướng rơi thì, tự vô thường nên vô thường. Vì vô thường là vô thường nên tất cả tánh chẳng vô thường ưng là thường.
Nếu nhân và quả (sự) không giống nhau – tất cả pháp đều vô thường do có tự tánh vô thường phá hoại, tức là dùng nhân khác mà sanh quả khác – thì không thể được. Chỗ không khác mà thấy có khác chỉ là vọng chấp, không biết năng sở đều không, ngay nơi tánh tướng là vô sanh. Tất cả pháp nếu vô thường là tự vô thường, nếu có tự tánh vô thường là tác nhân thì chẳng phải cứu cánh. Không có tự tánh vô thường phá hoại, lẽ ra các pháp là thường. Đó là lỗi tự nói trái của ngoại đạo. Cho nên không thể có nhân tánh, chỉ là vọng chấp mà thôi.
Đây nhân ở trên tất cả tánh không tánh có nhân mà nói, để rõ vọng chấp nhân khác không thể sanh quả khác.
Ngoại đạo vọng chấp có vô thường tự tánh hay hoại các pháp, ấy vẫn dùng nhân khác mà sanh quả khác. Nếu sanh thì, nhân đã vô thường, tất cả pháp chẳng tương tợ pháp khác cũng là vô thường, như người cũng có thể sanh súc, súc cũng có thể sanh người, năng sanh và sở sanh thảy đều lẫn lộn không có sai biệt. Song, người sanh người, súc sanh súc hiện thấy sai biệt thì nhân khác làm sao mà sanh quả khác? Đây chỉ theo vọng chấp nhận quả chẳng tương tợ, bẻ cái tự nói trái nhau của kia, mà ý thật ở chỗ nêu lên năng sở kia đều không, để hiển bày tất cả tánh tướng ngay nơi ấy là vô sanh. Cho nên lại nói “nếu tánh vô thường, rơi vào tác nhân tánh tướng v.v..” nghĩa là vô thường nhân tánh đã nói hay hoại tức là rơi vào tác nhân, bèn chẳng phải cứu kính thường trụ. Song tất cả tánh đều chẳng phải cứu kính thường trụ, do có vô thường hay hoại nhân tướng, ấy là tự vô thường. Thế thì, tất cả nên vô thường, tự vô thường, tất cả vô thường mà đã thấy tất cả lại chẳng phải vô thường, nên ưng là thường. Tất cả tánh thường tự tịch diệt, tác sở tác không sai biệt, nên nói “tất cả tánh thường, không nhân tánh”.
Nếu vô thường vào tất cả tánh, ưng rơi vào ba đời. Sắc quá khứ kia cùng cái hoại chung thì, vị lai chẳng sanh, vì sắc chẳng sanh, sắc hiện tại cùng tướng hoại chung. Sắc là tứ đại nhóm họp sai biệt. Tứ đại và tạo sắc tự tánh chẳng hoại, vì lìa khác và chẳng khác. Tất cả ngoại đạo chấp tất cả tứ đại chẳng hoại. Tất cả tử đại và tạo sắc ở trong ba cõi tại sở tri thì có sanh diệt. Lìa tứ đại tạo sắc, tất cả ngoại đạo nơi chỗ nào suy nghĩ tánh vô thường? Tứ đại chẳng sanh, vì tự tánh tướng chẳng hoại.
Đây do ngoại đạo chấp có vô thường tự tánh chẳng hoại vào tất cả pháp. Cho nên lại nói tất cả sắc pháp thảy rơi vào ba đời, ba đời sắc pháp đều thuộc hoại tướng, thì chỗ vào tự tánh chẳng hoại sẽ ở chỗ nào? Lại ngoại đạo thường chấp tứ đại chủng thể tánh chẳng hoại, nhân đây mà phá, bảo kia chấp sắc tức tứ đại chứa nhóm sai biệt, năng tạo sở tạo, lìa khác và chẳng khác, chẳng biết hiện tiền ba cõi tất cả tứ đại và tạo sắc là nhiếp về sanh diệt. Nếu lìa tứ đại tạo sắc, kia lại nương vào đâu suy nghĩ riêng có tánh vô thường vào nơi tứ đại, mà nói tự tánh chẳng hoại? Trên là tột kia không có pháp năng hoại, đây cùng tột kia cũng không tự tánh chẳng hoại. Năng sở đều không, nên nói “tất cả tánh tướng chính nơi đó là vô sanh”.
Ngoại đạo chấp tự tánh vô thường chẳng hoại mà hay hoại tất cả pháp. Tất cả pháp ba đời đều hoại thì tự tánh vô thường ở chỗ nào? Lại chấp thể tánh của tứ đại chẳng hoại, không biết rằng tứ đại và tạo sắc đều thuộc sanh diệt. Lìa tứ đại và tạo sắc là lìa năng tạo và sở tạo, thì ngoại đạo nương vào đâu để suy nghĩ có tự tánh vô thường vào tứ đại mà bảo nó chẳng hoại? Phải biết năng sở đều không, ngay nơi tánh tướng là vô sanh.
Lìa mới tạo vô thường là, chẳng phải tứ đại lại có tứ đại khác. Vì mỗi mỗi tướng khác, tự tướng chẳng phải sai biệt có thể được. Kia không sai biệt, đây thủy chẳng lẫn tạo. Hai phương tiện chẳng làm, nên biết là vô thường.
Đây ngoại đạo chấp có vô thường tánh làm tác giả hay tạo tứ đại, tạo rồi liền bỏ là vô thường. Chẳng phải tứ đại lại có khác với tứ đại đó, nói không thể lẫn nhau tạo. Lẫn nhau tạo như lửa tạo nước, nước tạo đất, mỗi mỗi tướng khác không thể lẫn nhau tạo. Cũng chẳng phải tự tạo, vì tự tướng không có sai biệt. Đây thảy cũng chẳng lẫn tạo, lẫn tạo tức là chung tạo. Hai phương tiện chẳng làm là, lửa cùng nước hiệp sanh. Thể tánh trái khác, rõ chẳng chung tạo. Phàm chẳng lẫn tạo, chẳng tự tạo, lại chẳng chung tạo, nên biết đại chủng nhân mê hư vọng chóng hiện, trung gian không chủ là chân tịch diệt. Chẳng nên dùng mới tạo lại bỏ là vô thường.
Đây là loại vô thường thứ nhất trên. Ngoại đạo chấp có tánh vô thường tạo tứ đại rồi bỏ. Nhưng tứ đại không thể có cái khác với tứ đại được tạo. Tứ đại lại không thể tạo lẫn với nhau như lửa và nước, nước và đất khác tướng không thể tạo chung với nhau. Mỗi thứ lại không thể tự tạo vì tự tướng không có sai biệt như đất không thể do đất tạo vì đất tạo này từ đâu ra? Cả hai phương tiện chung tạo và tự tạo này đều chẳng được, vậy nên biết tứ đại chủng nhân mê hư vọng mà thoạt hiện, không chủ, vốn tịch diệt.
Hình xứ kia hoại vô thường là, tứ đại và tạo sắc chẳng hoại, đến tột chẳng hoại. Đại Huệ! Tột là, phân tích cho đến vị trần quán sát hoại, tứ đại và tạo sắc hình xứ khác, thấy dài ngắn không thể được chẳng phải tứ đại. Tứ đại chẳng hoại, hiện hình xứ hoại, rơi vào số luận.
Hình xứ là, hình xứ dài ngắn của tứ đại. Thấy hình xứ dài ngắn của tứ đại diệt, mà sắc thể tứ đại năng tạo sở tạo chẳng diệt. Đây là Tăng-khư (Số luận) chấp tứ đại là thường luận. Phân tích tột cùng cho đến vị trần quán sát, chỉ hay hoại cái tướng có thể thấy là hình xứ dài ngắn của tứ đại tạo sắc, mà không phải tứ đại, nghĩa là thể tánh của tứ đại tạo sắc ắt không thể hoại, chỉ hình xứ hoại. Như Lai nơi đây chỉ nói “rơi vào số luận”, bởi trước sau đã phá tứ đại tạo sắc không có tác giả, đã tột rõ ràng.
Đây là loại vô thường thứ hai ở trên. Ngoại đạo Số Luận chấp tứ đại là thường. Hình tướng dài ngắn bên ngoài của tứ đại có thể hoại nhưng thể tánh tứ đại thì không hoại. Có thể nói ví dụ như thân mình, từ trẻ đến già hình tướng luôn biến đổi, lớn lên rồi lại tóp dần, nhưng tứ đại thì không đổi, lúc mập là tứ đại bên ngoài bồi thêm vào, lúc ốm là tứ đại trả lại ra ngoài, chứ không tiêu mất. Đây cũng là chấp thường không đúng lẽ thật, ở trên đã nói tứ đại và tạo sắc vốn không, do mê nên hư vọng hiện, không có tác giả.
Sắc tức vô thường là, sắc tức là vô thường, Kia là hình xứ vô thường, chẳng phải tứ đại. Nếu tứ đại vô thường thì chẳng phải số ngôn thuyết của thế tục. Ngôn thuyết của thế tục không phải tánh, ắt rơi vào thế luận. Thấy tất cả tánh chỉ có ngôn thuyết, chẳng thấy tự tướng sanh.
Tất cả sắc pháp duy tâm hiện ra, thảy là tánh vô thường, đây là Như Lai nói. Ngoại đạo chấp vi sắc này tức vô thường, chỉ dùng hình xứ mà – chẳng phải tứ đại. Nếu tứ đại vô thường bèn chẳng phải số ngôn thuyết của thế tục. Tục số nói ra chẳng phải tánh, mới thật không pháp. Nếu vậy tức rơi vào đoạn kiến thế luận, bởi chỉ có ngôn thuyết không có pháp tự tướng. Cho nên biết, tất cả các pháp tự tướng như thật chân lý, chỉ giác tự tâm hiện lượng nội chứng nhận được. Đây không phải khả năng của ngoại đạo đến được.
Đây là loại vô thường thứ ba. Là lối chấp của Thế Luận Sư ngoại đạo, rơi vào đoạn kiến. Chấp sắc vô thường là nói về hình xứ không phải nói tứ đại, chỉ có ngôn thuyết không có pháp tự tướng. Chỉ giác tự tâm hiện lượng mới chứng được tự tướng các pháp là chân lý như thật.
Chuyển biến vô thường là, sắc khác tánh hiện chẳng phải tứ đại. Như vàng làm các món đồ trang sức chuyển biến hiện ra, chẳng phải tánh vàng hoại, chỉ những món đồ trang sức bị hoại. Như thế, các tính chuyển biến v.v… cũng như vậy.
Ngoại đạo chấp năng tạo sở tạo trung gian có tánh vô thường luôn luôn chuyển biến, như sữa biến thành lạc, sắc khác tánh hiện ra. Chẳng phải tứ đại là, cũng như trên hình xứ tứ đại thấy diệt, mà thể tánh tử đại chẳng diệt. Như vàng làm đồ trang sức, chỉ chuyển biến hiện, chẳng phải tánh vàng hoại. Các tánh là, tất cả pháp chuyển biến cũng đều như thế.
Đây là loại vô thường thứ tư mà ngoại đạo chấp, cũng giống lối chấp hình xứ ở trên.
Như thế thảy, các thứ ngoại đạo chấp vô thường, vọng tưởng khi lửa đốt tứ đại, tự tướng chẳng đốt. Mỗi mỗi tự tướng tướng hoại thì tứ đại tạo sắc ưng đoạn.
Đây là nói chung bảy thứ hư vọng phân biệt. Đại lược đều cho ngoài hiện hình của tứ đại riêng có tự thể tứ đại, lửa không thể đốt. Nếu hay đốt được thị năng tạo sở tạo đều đoạn diệt. Đây là phân nửa sanh diệt phân nửa chẳng sanh diệt. Bởi do chẳng giác tự tâm hiện lượng, chẳng đạt các pháp duy tâm, vốn không có sanh cũng không chỗ diệt. Vọng thấy sanh diệt, vọng phân tánh tướng, thường chấp vô thường, vô thường chấp thường, trọn thành điên đảo.
nn Lửa đây là chỉ lửa vô thường hay hoại các pháp. Hình tướng tứ đại có thể hoại mà tự thể tứ đại chẳng hoại. Bảy thứ chấp của ngoại đạo tựu trung chỉ có thế. Chỉ vì chẳng biết các pháp do tâm tạo nên chấp thường vô thường đều điên đảo cả.
Đại Huệ! Pháp duyên khởi của ta phi thường phi vô thường. Vì cớ sao? Vì ngoại tánh không quyết định, chỉ nói ba cõi duy tâm, chẳng nói các thứ tướng có sanh có diệt. Tứ đại hội hiệp sai biệt, tứ đại và tạo sắc, nên vọng tưởng hai thứ năng nhiếp sở nhiếp. Biết hai thứ vọng tưởng, lìa hai thứ chấp ngoại tánh không tánh, giác tự tâm hiện lượng. Vọng tưởng là, tư tưởng tác hành sanh, chẳng phải chẳng tác hành. Lìa tâm vọng tưởng tánh không tánh thì thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng tất cả pháp phi thường phi vô thường… Chẳng giác tự tâm hiện lượng rơi vào hai bên ác kiến tiếp nối. Tất cả ngoại đạo chẳng giác vọng tưởng mình, phàm phu này không có căn bản. Nghĩa là thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng nói từ vọng tưởng sanh, chẳng phải chỗ giác của phàm ngu.
Như Lai đã nói các pháp phi thường vô thường, vì chẳng chấp nhận ngoại tánh có sanh diệt, chỉ nói ba cõi duy tâm, đây là ba đời chư Phật đồng một chỉ thú. Bởi vì các thứ sanh diệt do tứ đại và tạo sắc nhân duyên hội hiệp dường như có sai biệt. Song thật không có năng tạo sở tạo, do vô thỉ bất giác một lúc liền hiện, nên nói “ba cõi duy tâm”. Không thể liễu đạt duy tâm mà khởi hai thứ vọng tưởng năng tạo sở tạo tức rơi vào kiến chấp có không, liễu đạt thì chóng lìa, chỉ một tâm lượng. Cho nên biết, tất cả tứ đại trong ngoài, sắc tâm các pháp đều do vọng tưởng phân biệt mà sanh tất cả hạnh nghiệp. Các hạnh nghiệp ấy chẳng thật có sanh thì chẳng lại đợi không. Chỉ lìa hai thứ phân biệt có không thì tự tâm hiện lượng thẳng đó hiện tiền, do đó Như Lai nói phi thường vô thường vậy. Nhân vọng tưởng mà bày hiện thế, xuất thế, xuất thế thượng thượng ba thứ pháp phân biệt, không thể nói là thường. Tức nhân vọng tưởng mà bày hiện thế, xuất thế, xuất thế thượng thượng ba thứ trí vô phân biệt, không thể bảo vô thường. Ngoại đạo có hai thứ ác kiến bởi do chẳng giác tự tâm hiện lượng, nơi vọng tưởng phân biệt không thể chính đó phát minh, được vô phân biệt căn bản tánh trí. Cho nên Như Lai ba thứ pháp theo chúng sanh phân biệt mở nói phương tiện, chẳng phải chỗ giác của phàm ngu.
Như Lai nói các pháp phi thường phi vô thường vì tất cả đều do vọng tưởng phân biệt mà hiện ra ba thứ pháp hiện thế, xuất thế và xuất thế thượng thượng. Ba pháp này không thể nói là thường vì năng tạo sở tạo do bất giác dường như có sai biệt, nhưng vốn không thật có, chỉ duy tâm. Lìa phân biệt có không thì tự tâm hiện lượng hiện tiền. Thế là cũng ngay nơi nhân vọng tưởng mà bày ba thứ trí vô phân biệt thế gian, xuất thế gian và xuất thế gian thượng thượng, không thể nói là vô thường. Đây là phương tiện của Như Lai theo sự phân biệt của chúng sanh mà lập, chẳng phải chỗ giác của phàm ngu.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Xa lìa nơi mới tạo
Và cùng hình xứ khác
Tánh cùng sắc vô thường
Ngoại đạo ngu vọng tưởng.
Các tánh không có hoại
Đại đại tự tánh trụ
Ngoại đạo tưởng vô thường
Chìm tại các thứ chấp.
Ngoại đạo bị đắm sâu trong các thứ chấp cho là có pháp vô thường và tự thể thường, không biết các pháp từ tâm hiện, không thật thì không sanh không diệt.
Các chúng ngoại đạo kia
Không hoặc sanh hoặc diệt
Đại đại tánh tự thường
Sao nói tưởng vô thường?
Đã không sanh diệt, sao nói vô thường?
Tất cả duy tâm lượng
Hai thứ tâm lưu chuyển
Nhiếp thọ và sở nhiếp
Không có ngã ngã sở.
Phạm thiên là cội cây
Cành nhánh trải khắp giáp
Như thế ta nói ra
Chỉ là tâm lượng kia.
Hai kiến chấp lưu chuyển là nhiếp thọ và bị nhiếp thọ chỉ do tâm lượng, không có ngã tức người và ngã sở tức cảnh. Ngoại đạo cho Phạm thiên là năng tạo như cội cây, sanh các pháp như cành nhánh. Phật nói tất cả chỉ do tâm lượng.
Tụng nói ngoại đạo chấp tất cả vô thường đều bị vọng tưởng làm ngu, kỳ thật tất cả pháp không có tướng hoại. Chủng tánh các đại mỗi thứ trụ nơi pháp vị, tất cả sanh diệt là tự tướng chân như. Bởi do chẳng biết tâm lượng lầm cung cho là vô thường bị kiến chấp làm chìm. Nếu biết tất cả duy tâm thì hai kiến chấp lưu chuyển cũng duy tâm hiện, thẳng đó năng nhiếp sở nhiếp không, không có tác giả, toàn vọng là toàn chân, dâu lại có riêng. Cho nên chính ngay chỗ chấp kia cho Phạm thiên là cội cây hay sanh tất cả hữu tình khắp giáp ba cõi, các thứ tà vọng. Như Lai nói đều duy tâm lượng, giác tức Bồ-đề chẳng nhọc chuyển biến. Đây là đến chỗ vọng chấp của ngoại đạo khiến họ thoạt nhiên biết quấy liền đồng bản đắc. Như Lai dạy người có thể gọi là từ bi cùng tột vậy.
Biết chỉ do tâm tạo thì tất cả pháp hư vọng đều không, trở lại bản đắc. Ngay vọng tức chân, ly huyễn tức giác, giác tức Bồ-đề không nhọc chuyển biến.
Để kết thúc, tôi nói rộng một chút để thấy thêm ý của Phật. Kinh điển ngôn ngữ văn tự tuy nhiều, rườm rà, nhưng tâm rất đơn giản. Như trên Phật nói do vọng tưởng tạo thành hạnh nghiệp, do hạnh nghiệp mới có ba cõi. Như vậy ba cõi do vọng tưởng tạo, vọng tưởng tạo hạnh nghiệp lành thì sanh cõi trời, cõi người; hạnh nghiệp ác thì sanh cõi dữ. Vậy vọng tưởng chính là chủ, là tạo hóa sanh ra ba cõi chứ không gì khác. Chúng ta khởi vọng tưởng tu thì thành đầu tròn áo vuông. Nếu đang tu lại khởi vọng tưởng mê theo thế gian thì lại cởi y để tóc thành người thế gian. Vậy thì hạnh nghiệp rõ ràng do vọng tưởng mà có. Nó dẫn dắt chúng sanh đi suốt ba cõi, Phật dạy tam giới duy tâm là đây. Tâm là gốc, khởi vọng tưởng thì luân hồi. Muốn thoát luân hồi thì dứt vọng tưởng là xong. Hết vọng tưởng thì trí vô phân biệt hiện tiền, là giải thoát khỏi sanh tử. Rất đơn giản! Tu là sống trở lại cái chân thật sẵn có chứ không tìm kiếm đâu xa. Đừng theo vọng tưởng cuồng loạn vô nghĩa mà phải lặn hụp mãi trong biển sanh tử không có ngày dừng. Vọng tưởng cuồng loạn vô nghĩa mà bảo buông nó, bỏ nó lại làm không được là sao? Nó là chủ chốt tạo khổ cho mình, tại nó mà chúng ta không giải thoát, nó là thứ đáng ghét, thứ làm mình điên đảo. Các kinh đều đề cập đến vọng tưởng này, Phật luôn nhắc nhở mình đừng mê lầm theo nó. Chúng ta ngồi thiền cũng để dừng vọng tưởng này thôi, vậy mà không chịu nhớ!
Có năm:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Cúi xin vì nói tất cả Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác diệt chánh thọ (diệt tận định) thứ lớp tương tục. Nếu giỏi nơi tướng diệt chánh thọ thứ lớp tương tục, con và các Bồ-tát trọn chẳng vọng bỏ diệt chánh thọ lạc môn, chẳng rơi vào tất cả Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo ngu si.
Ngài Đại Huệ dạy thứ lớp tương tục của diệt thọ tưởng định thuộc tất cả Bồ-tát, Thanh Văn, Duyên Giác để chúng Bồ-tát khéo ở thứ lớp tương tục này không bỏ chánh định diệt thọ tưởng mà không rơi vào Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo.
Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe. Khéo suy nghĩ đó, ta sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Cúi xin vì nói. Phật bảo Đại Huệ: Đại Bồ-tát đệ lục địa và Thanh văn, Duyên giác nhập diệt chánh thọ; đại Bồ-tát đệ thất địa niệm niệm chánh thọ, lìa tất cả tướng tánh tự tánh chánh thọ, chẳng phải Thanh văn, Duyên giác. Thanh văn, Duyên giác rơi vào có hành giác, tướng năng nhiếp sở nhiếp diệt chánh thọ. Thế nên, Bồ-tát Thất địa phi niệm chánh thọ, được tất cả pháp tướng không sai biệt, chẳng phải được từng phần các thứ tướng tánh, giác tất cả pháp thiện chẳng thiện tánh tướng chánh thọ. Thế nên Bồ-tát Thất địa không thiện niệm chánh thọ. Đại Huệ! Bồ-tát Bát địa và Thanh văn, Duyên giác tâm ý ý thức tướng vọng tưởng diệt.
Nhập diệt tận định Tam thừa đều có. Thảy vì đối trị tâm ý ý thức của phàm phu, lìa tất cả tâm niệm phân biệt ngã và ngã sở. Chỉ vì Nhị thừa chẳng giác tự tâm hiện lượng như huyễn như mộng, vì đối trị nên thành thật pháp, nơi pháp chánh định chưa quên năng sở, có giác có hạnh, cho nên chẳng bằng Bồ-tát Thất địa niệm niệm chánh thọ. Sơ địa đến Lục địa vẫn không thể như Bồ-tát Thất địa niệm niệm chánh thọ. Song do Đại thừa vào phần kiến đạo, tuy có đối trị chưa lìa giác hạnh, nhưng đều thuộc phương tiện không cho là thật pháp. Mới biết lý do Thất địa được niệm niệm chánh thọ, do giác tự tâm hiện lượng rồi xả phương tiện, lìa tất cả tướng tánh tự tánh, được tuệ vô sai biệt, đây là nguyên nhân Nhị thừa chẳng có phần. Được các thứ tướng của tánh, giác tất cả pháp tánh tướng thiện chẳng thiện chánh thọ là, chính chỉ Nhị thừa sợ rơi vào tướng vô sai biệt, muốn được các thứ tánh tướng thiện chẳng thiện mà vào chánh thọ, bỏ sanh đến diệt, phân biệt chưa quên, nên nói “dùng trạm hiệp trạm về tột mé thức”, cho nên không có thiện niệm chánh thọ của Thất địa. Thiện niệm tức là niệm niệm, cũng tức là phi niệm. Nói Đệ Bát địa mới hay diệt vọng tưởng tâm ý ý thức Nhị thừa là, đến đệ Bát địa được pháp vô ngã, tâm thức mới hết. Sơ địa đến Thất địa tuy giác tự tâm hiện lượng đều hay lìa tâm ý ý thức, nhưng đến Bát địa mới hết, nên nói “Bát địa diệt”. Thất địa đã không phương tiện giác hạnh được niệm niệm chánh thọ, mà chẳng nói Thất địa diệt, bởi chánh thọ sức thắng, pháp vô ngã chưa hiện, bản nguyện đại bí vẫn đợi nhớ niệm, cho nên chẳng nói cứu kính diệt. Song đến Bát địa vẫn nhờ chánh định, giác tâm gia trì, mới hay cứu kính viên mãn Như Lai địa, huống là Thất địa. Đại Huệ nhân ở trên tướng thường vô thường đã biện là chánh, nơi đây lại thỉnh nói về các địa chánh thọ, muốn rõ được chỗ sai biệt của Đại thừa và Nhị thừa, cùng chỗ sai biệt của mỗi địa Bồ-tát, vì những người tu hành phát minh để tăng tấn.
Phật giản trạch sự khác biệt về diệt chánh thọ của Bồ-tát với Thanh văn, Duyên giác. Diệt chánh thọ của Bồ-tát Lục địa giống của Thanh văn, Duyên giác, nhưng chánh định này của Thanh văn, Duyên giác là chánh định do còn có hạnh có giác, năng sở chưa quên, có năng nhiếp sở nhiếp muốn được các thứ thiện chẳng thiện mà vào, nhưng chưa giác tự tâm hiện lượng nên cho pháp đối trị tâm ý ý thức là thật. Bồ-tát nhập địa từ Sơ địa đến Lục địa tuy cũng có hạnh có giác, có đối trị mà không cho là pháp thật vì đã vào phần kiến đạo; Bồ-tát Thất địa thì niệm niệm chánh thọ, là chánh định trong mỗi niệm vì lìa tất cả tướng tánh tự tánh, biết tất cả không có thực thể, đã nhận được tự tâm hiện lượng, xa lìa tâm ý ý thức, an trụ trong chánh thọ được tâm bất động. Niệm niệm còn gọi là phi niệm, Bồ-tát Thất địa không còn đối trị, chỉ niệm niệm sống với tự tâm hiện lượng, tuy không còn giác hạnh, chánh thọ mạnh mẽ nhưng tâm thức chưa hết hẳn, pháp vô ngã chưa hiện. Đến Đệ bát địa mới dứt tâm thức nên nói Bát địa diệt. Nhưng Bát địa vẫn còn nhờ chánh định, có tâm giác gìn giữ thêm mới có thể đạt được cứu cánh viên mãn Như Lai địa.
Đại Bồ-tát từ Sơ địa đến Thất địa quán tam giới lượng tâm ý ý thức, lìa ngã ngã sở, tự vọng tưởng tu, rơi vào ngoại tánh các thứ tướng. Ngu phu hai thứ tự tâm nhiếp sở nhiếp thảy không biết, chẳng giác vô thì lỗi ác hư ngụy tập khí huân nên.
Sơ địa đến Thất địa, bản Đường, Ngụy dịch đều nói “Sơ địa đến Lục địa, do Bồ-tát đã có chánh thọ cùng Nhị thừa đồng, duy đến Lục địa”. Bản dịch này nói chỗ thấy của Bồ-tát cùng Nhị thừa khác, nên nói Thất địa. Văn sau liền chỉ ra hành tướng Bát địa. Bồ-tát đạt tự tâm lượng nên hay quán tam giới trong ngoài đều do tâm ý ý thức bất giác hiện ra, vốn không có ngã sở, chỉ tự vọng tưởng nên ngoài thấy có tánh tướng. Nhị thừa chẳng đạt tự tâm rơi vào hai bên có không, khởi cảnh giới năng thủ sở thủ. Cho nên tuy cùng Lục địa đồng một chánh thọ mà Bồ-tát liễu đạt tất cả tánh không có tướng tự tánh mà vào chánh thọ. Nhị thừa giác các thứ tướng khác hi vọng mà vào chánh thọ. Một bên dùng sức phương tiện trừ sạch hiện tập. Một bên do chẳng giác chẳng biết bị vô thỉ hư ngụy tập khí chuyển. Một quyền một thật đã chứng rõ ràng.
Như thế Bồ-tát từ Sơ địa đến Thất địa cùng Nhị thừa:
– Đồng: chánh thọ.
– Khác
+ Bồ-tát đạt tự tâm lượng, quán ba cõi trong ngoài đều do tâm ý ý thức bất giác hiện, không ngã sở; liễu đạt tất cả tánh không có tướng tự tánh mà vào chánh thọ, chỉ dùng sức phương tiện trừ sạch hiện tập (tập khí hiện có), thuộc Thật.
+ Nhị thừa không đạt tự tâm lượng, rơi vào có không, khởi năng thủ sở thủ, bị tập khí hư ngụy từ vô thỉ chuyển, thuộc Quyền.
Đại Huệ! Đại Bồ-tát Bát địa là Thanh văn, Duyên giác Niết-bàn. Bồ-tát là do tam muội giác gia trì, nên tam muội môn lạc chẳng vào Niết-bàn. Nếu chẳng gia trì thì Như Lai địa chẳng đầy đủ, vì ném bỏ tất cả việc hữu vi của chúng sanh, hạt giống Phật ắt phải đoạn. Chư Phật Thế Tôn vì chỉ vô lượng công đức bất khả tư nghì của Như Lai. Thanh văn, Duyên giác nơi tam muội môn được vui, bị dẫn, nên khởi tưởng Niết-bàn.
Bồ-tát Bát địa cũng có tam muội lạc môn của Nhị thừa, do sức bản nguyện, tuy ở trong tam muội do giác gia trì nên chẳng vào Niết-bàn. Nếu chẳng gia trì thì không thể đầy đủ địa Như Và Lai, dẹp bỏ chúng sanh thì hạt giống Phật ắt phải đoạn. Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Bát địa được mười phương Như Lai đồng thanh khuyến phát, bảo: “Chỗ sở đắc của ông Nhị thừa cũng có, phải nhớ vô lượng bất khả tư nghì công đức.” Thế nên biết, Bát địa phát khởi thảy do thần lực chư Phật, chẳng bị say cái tam muội lạc của Nhị thừa. Thần lực chư Phật mà nói tam muội giác gia trì, là Bồ-tát sơ phát tâm trụ do giác tự tâm hiện lượng vào Như Lai giác, đồng thể nhiếp trì cảm ứng đạo giao, dùng Phật giác tự giác, ở trong tam muội tự nhiên thức tỉnh không thể nghĩ bàn.
Niết-bàn của Thanh văn, Duyên giác ngang với Đệ bát địa. Nhị thừa đắm trong cái vui Niết-bàn, an trú luôn trong đó. Vì còn tâm ý ý thức thì còn tạo nghiệp, mà tạo nghiệp thì còn sanh tử. Nay tâm ý ý thức đã lặng rồi, không còn tạo nghiệp thì hết sanh tử. Nhưng như thế thì đoạn hạt giống Phật, mình chưa đủ công hạnh để được gọi là Phật, cũng không có tâm độ sanh. Bồ-tát thì nhờ giác gia trì nên không vào Niết-bàn bỏ chúng sanh, thường được chư Phật mười phương khuyến phát. Nếu không phát nguyện độ sanh thì đoạn hạt giống Phật, phải nhớ vô lượng bất khả tư nghì công đức. Bồ-tát mới phát tâm nhờ giác tự tâm hiện lượng vào Như Lai giác, đồng thể nhiếp trì, cảm ứng đạo giao, dùng giác của Phật mà tự giác, ở trong chánh định được thức tỉnh không thể nghĩ bàn, gọi đó là thần lực của Phật hay tam muội giác gia trì.
Đại Huệ! Ta phân bộ Thất địa khéo tu tướng tâm ý ý thức, khéo tu ngã ngã sở nhiếp thọ, nhân pháp vô ngã, tự tướng cộng tướng sanh diệt, khéo được tứ vô ngại, sức quyết định tam muội môn địa thứ lớp tương tục, vào pháp đạo phẩm. Chẳng khiến đại Bồ-tát chẳng giác tự tướng cộng tướng, chẳng rành về Thất địa, rơi vào lối tà của ngoại đạo, cho nên lập địa thứ lớp. Đại Huệ! Kia thật không có hoặc sanh hoặc diệt, trừ tự tâm hiện lượng, nên nói “địa thứ lớp tương tục và tam giới các thứ hạnh”, chỗ kẻ ngu không thể giác. Chỗ kẻ ngu không thể giác là, ta và chư Phật nói địa thứ lớp tương tục và nói tam giới các thứ hạnh.
Phân bộ là phân biệt diễn nói. Như Lai nơi Thất địa phân biệt diễn nói. Nghĩa là Thất địa sanh nhân đã đoạn đồng với Nhị thừa, rất dễ đắm nhiễm nên vì phân biệt. Nếu khéo phân biệt tâm ý ý thức đều tự tâm hiện không có ngã ngã sở. Không ngã thì nhiếp thọ không người. Không sở thì nhiếp thọ không pháp. Không người không pháp thì lìa hy vọng đồng tướng và dị tướng. Bởi Nhị thừa giác các thứ dị tướng hy vọng chánh định nên dễ chấp lấy Niết-bàn. Nếu hay khéo biết chỗ này thì hay hiểu rộng pháp nghĩa Nhất thừa, giỏi tứ vô ngại, nơi tam muội môn được sức quyết định tự giác gia trì, dùng đây để soi sáng các địa, tăng tiến đạo phẩm. Cho nên nói “chẳng khiến Bồ-tát chẳng giác tự tướng cộng tướng, chẳng rành về Thất địa, rơi vào lối tà của ngoại đạo”.
Phật phân tích Thất địa khéo tu tướng tâm ý và ý thức, bỏ được ngã và ngã sở, nhân và pháp đều không, tự tưởng cộng tướng tức dị tướng đồng tướng sanh diệt đều lìa. Nhị Thừa thì cho sanh tử là khổ đau, Niết-bàn là thanh tịnh vô sanh, là an lạc. Thấy có khổ có lạc là dị tướng, mới sanh hy vọng được chánh định, nhập Niết-bàn; cho Niết-bàn là chỗ chân thật. Nếu ngay nơi đây hiểu được tất cả pháp không thật, do tâm ý ý thức biến hiện thì thấu suốt được nghĩa nhất thừa, được tứ vô ngại, lần đến viên mãn đạo phẩm, không rơi lối tế.
Đây là chỉ thú Như Lai lập địa, mà nơi Thất địa rất phải dè dặt e rơi vào lối tẽ. Lại nói “kia thật không có hoặc sanh hoặc diệt, trừ tự tâm hiện lượng”. Nên nói “địa thứ lớp tương tục và tam giới các thứ hạnh”. Như Lai trước sau nêu cao bảo vệ pháp môn duy tâm. Nghĩa là duy tự tâm không có các địa thứ lớp. Lại cùng tất cả hành tướng trong tam giới, khi giác tự tâm hiện lượng thì được không thật có. Từ không thật có kiến lập tất cả pháp, vì độ kẻ bất giác chẳng phải vì người giác.
Theo Thập Mục Ngưu Đồ của Thiền tông, Thất địa tương đương chỗ chỉ còn mục đồng, Bát địa là chỗ trâu và mục đồng đều mất. Nhị thừa kẹt vào đây cho là Niết-bàn. Tam giới không thật, do mê hoặc sanh, chỉ tự tâm hiện lượng mới thật. Các địa thứ lớp và các hạnh nghiệp tam giới khi giác tự tâm hiện lượng thì đều không. Hạnh nghiệp do tâm nên không thật, Tam giới cũng không thật thì không ngã, ngã sở. Thứ lớp các địa cũng thế, do sức giác mà đặt tên nhưng chỉ là một tánh giác thôi. Ví dụ học sinh đi học từ lớp một đến lớp mười hai, tuổi nào lớp nấy, nhưng trong đầu mình đâu có chia vùng chỗ nào lớp nào? Phật kiến lập phương tiện chỉ vì muốn dẫn dắt người bất giác.
Lại nữa, Đại Huệ! Thanh văn, Duyên giác Bồ-tát đệ bát địa diệt tam muội môn lạc say bị say, chẳng rành tự tâm hiện lượng, bị tập khí tự tướng cộng tướng làm chướng, rơi vào nhân pháp vô ngã, kiến chấp pháp nhiếp thọ, vọng tưởng khởi tưởng Niết-bàn, chẳng phải trí tuệ giác tịch diệt. Đại Huệ! Bồ-tát thấy diệt tam muội môn lạc, bản nguyện thương xót, đại bi thành tựu, biết phân biệt mười câu vô tận, chẳng vọng tưởng khởi tưởng Niết-bàn. Kia đã Niết-bàn, vì vọng tưởng chẳng sanh, lìa vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp. Giác rõ tự tâm hiện lượng thì tất cả các pháp vọng tưởng chẳng sanh, chẳng rơi ngoài tâm ý ý thức chấp trước vọng tưởng tướng tánh tự tánh, chẳng phải Phật pháp nhân chẳng sanh, tùy trí tuệ sanh được Như Lai tự giác địa.
Trên vì Thất địa phân bộ chẳng khiến rơi vào lối tẽ, đây đối với Bát địa thống thiết định ninh. Bởi vì Thanh văn, Duyên giác đến khi đăng quả đồng với Bồ-tát đệ bát Bất động địa, tất cả thế gian xuất thế gian tưởng niệm hằng dứt, chỉ chẳng rành tự tâm lượng bèn bị tập khí tự tướng cộng tướng che ngăn, thấy pháp ngoài tâm khởi tưởng Niết-bàn, không có tuệ tịch diệt. Cho nên Bồ-tát Bát địa đối diệt tam muội lạc hiện tiền liền nhớ nghĩ bản nguyện, khởi tâm đại bi, dùng mười câu vô tận (thập vô tận cú) thành tựu Phật địa, chẳng vào Niết-bàn. Nghĩa là đã vào Niết-bàn, chẳng lẽ lại vào Niết-bàn. Bồ-tát này giác tự tâm hiện lượng không có năng thủ sở thủ, thấy tất cả pháp chẳng phải riêng có, hằng lìa tâm ý ý thức và các thứ tánh tướng trong tam giới, chuyển thân vọng tưởng làm tự giác Thánh trí, y Thánh trí sanh đến cứu kính giác địa. Cho nên nói “vọng tưởng chẳng sanh, mà chẳng phải Phật pháp nhân chẳng sanh”.
Sự sai biệt lớn nhất của Nhị Thừa và Bồ-tát chính là ở chỗ giác tự tâm hiện lượng hay không. Biết được tự tâm hiện lượng thì không rơi vào cái vui Niết-bàn mà nhớ bản nguyện phát tâm đại bi thương xót chúng sanh, không bị tập khí tự tướng cộng tướng che ngăn, thấy có Niết-bàn ngoài tâm, muốn cầu được như người Nhị thừa. Dùng mười câu vô tận ở trước đã nói để thành tựu quả Phật. Bồ-tát giác được mình có Phật tánh chẳng sanh chẳng diệt là Niết-bàn rồi, còn muốn nhập Niết-bàn nào nữa? Sống với Phật tánh thì không vọng tưởng, tự giác Thánh trí hiện, nương đó đến cứu cánh. Nghĩa là vọng tưởng hết, nhân Phật pháp sanh.
Như người trong mộng dùng phương tiện qua sông, khi chưa qua đã thức, thức rồi suy nghĩ là chánh hay là tà? Chẳng phải chánh chẳng phải tà? Các cái thấy nghe hiểu biết từ vô thỉ nhân tưởng các thứ tập khí, các thứ hình xứ rơi trong tưởng có không nên tâm ý ý thức mộng hiện.
Đây dụ tập khí vọng thấy tự tướng cộng tướng khởi tưởng Niết-bàn, mà thật đều tự tâm hiện ra, không có nhân pháp, cũng không có cảnh giới năng độ sở độ. Như người trong mộng dùng phương tiện qua sông, thức rồi tâm dừng không thể nói là chánh, chỉ là từ vô thỉ tập khí còn thừa thấy nghe hiểu biết phân biệt. Nơi tất cả sắc tâm các pháp vọng chấp có không đều là việc mộng do tâm ý ý thức hiện ra, không có cảnh giới thật.
Đã là việc trong mộng thì nói gì chánh tà, hay không phải chánh không phải tà! Chỉ do tập khí từ vô thỉ còn sót lại mà thấy nghe rồi hiểu biết phân biệt chấp tất cả pháp có không, tỉnh ra thì không có gì là thật. Bao hơn thua phải quấy một lúc buông sạch, tâm tự thanh tịnh, tức ở trong chánh định, an nhiên tự tại.
Đại Huệ! Như thế đại Bồ-tát nơi đệ Bát địa Bồ-tát thấy chỗ vọng tưởng sanh. Từ Sơ địa chuyển tiến đến đệ Thất địa thấy tất cả pháp phương tiện như huyễn v.v… độ tâm hạnh vọng tưởng năng nhiếp sử nhiếp rồi, khởi Phật pháp phương tiện, người chưa được khiến được. Đại Huệ! Đây là Bồ-tát Niết-bàn phương tiện chẳng hoại, lìa tâm ý ý thức được vô sanh pháp nhẫn. Đại Huệ! Đối với đệ nhất nghĩa không có thứ lớp tương tục, nói pháp không thật có vọng tưởng tịch diệt.
Nương dụ qua sông trên, Đệ Bát địa Bồ-tát cũng lại như thế. Bồ-tát đến Đệ Bát địa mới thấy chỗ vọng tưởng sanh. Nghĩa là giác tự tâm hiện lượng, đạt tất cả vọng tưởng đều do bất giác vọng thấy có không, đến Đệ Bát địa các vọng tưởng dứt, mới thấy chỗ sanh vọng tưởng. Thấy chỗ sanh vọng tưởng mới biết từ Sơ địa đến Đệ Thất địa tất cả pháp tướng đã có trọn như mộng huyễn, được trí phương tiện bình đẳng, độ tâm năng sở vọng tưởng hằng dứt, liền dùng tuệ phương tiện tự lợi lợi tha đến cứu kính Phật địa. Đây là Bồ-tát vô trụ xứ Niết-bàn chẳng phải Nhị thừa quyết định tịch diệt Niết-bàn. Bồ-tát vô trụ xứ Niết-bàn la tầm ý ý thức, đối tất cả chỗ không hoại phương tiện, được vô sanh nhẫn, đây là đệ nhất nghĩa pháp không thật có tịch diệt. Nên nói “nơi đệ nhất nghĩa không có thứ lớp tương tục, nói pháp không thật có, vọng tưởng tịch diệt”. Không thứ lớp là không có các địa thứ lớp.
Bồ-tát Đệ Bát địa dứt hết vọng tưởng, thấy được chỗ vọng tưởng sanh đều do bất giác. Thế thì tất cả pháp tướng có được từ Sơ địa đến Thất địa đều như mộng huyễn, được trí phương tiện bình đẳng. Dùng trí này tự lợi, lợi tha đến cứu cánh Phật địa. Niết-bàn của Bồ-tát là Vô trụ xứ Niết-bàn nghĩa là lìa tâm ý ý thức, dứt tâm năng sở, không bỏ phương tiện để làm lợi ích chúng sanh, được vô sanh nhẫn, gọi là đệ nhất nghĩa, nói pháp không thật có, vọng tưởng tịch diệt. Niết-bàn của Nhị thừa là Niết-bàn quyết định tịch diệt. Hàng Nhị thừa an trú Niết-bàn này, không khởi tâm độ sanh, nên nói là mất hạt giống Phật.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Tâm lượng không thật có
Đây trụ đến Phật địa
Khứ lai và hiện tại
Ba đời chư Phật nói.
Tâm lượng là tự tâm hiện lượng, tất cả pháp duy tâm. Không thật có là các pháp không thật có. Trụ là hai địa Thất và Bát. Đây trụ đến Phật địa là từ Thất địa do giác tự tâm hiện lượng, Bát địa rõ các pháp không thật có, dùng trí này mà đến Phật địa. Ba đời chư Phật đều nói như thế.
Tâm lượng, địa đệ thất
Không thật có, đệ bát
Hai địa tên là trụ
Phật địa tên tối thắng.
Đệ thất và Đệ bát địa gọi là trụ vì không còn thối chuyển, nhưng đến Phật địa mới là Tối thắng.
Tự giác trí và tịnh
Đây tức là địa ta
Chỗ tự tại tối thắng
Thanh tịnh khéo trang nghiêm
Chiếu sáng như lửa mạnh
Ánh sáng soi khắp nơi.
Sáng lòa chẳng mờ mắt
Xoay vòng hóa ba cõi
Hiện tại hóa ba cõi
Hoặc có khi trước hóa
Nơi kia diễn nói thừa
Đều là Như Lai địa.
Đây nói về Phật địa, Tự giác Thánh trí và thanh tịnh là chỗ tối thắng tự tại, chiếu soi khắp nơi, giáo hóa ba cõi. Có khi diễn nói các thừa trước nhưng đều đưa đến Phật thừa.
Thập địa tức là sơ
Sơ tức là Bát địa
Đệ cửu tức là thất
Thất cũng lại là bát.
Đệ nhị là đệ tam
Đệ tứ là đệ ngũ
Đệ tam là đệ lục
Không có thứ lớp gì.
Bài kệ thứ nhất nói các địa Phật địa đều không thật có, thảy là một duy tâm, ba đời Như Lai không có nói khác. Bài kệ thứ hai nói Thất địa chưa lìa tâm lượng, Bát địa lìa chưa cứu kính, chưa phải là hành xử của Như Lai. Bài kệ thứ ba về sau đều nói Phật địa. Tự giác trí và tịnh tức là trí và tịch dung nhau, nên nói “Pháp thân thanh tịnh cùng pháp thân vô cấu” hiệp hai nghĩa này thành tựu Như Lai tự giác, Cho nên người được tự giác Thánh trí tức ở cõi trời Sắc cứu kính trong cung Đại bảo hoa thành Đẳng Chánh Giác, làm Bồ-tát Thập địa hiện thân rộng lớn ánh sáng chiếu soi, do đó đại hóa tiểu hóa tùy thuận hóa khắp giáp hiện tại, hoặc trước hoặc sau, đã có kiến lập thừa địa đều là Nhất thừa, thừa thừa đều là Phật thừa, Bởi vì Sơ địa cho đến Thập địa, một địa tức tất cả địa, tất cả địa tức một địa, Kinh Hoa Nghiêm hàng Thập trụ sơ tâm thành Đẳng Chánh Giác cùng Phật không khác. Ở đây Như Lai kiến lập tu pháp môn đệ nhất nghĩa, chóng trừ các địa riêng bày duy tâm.
Có bốn:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác là thường hay vô thường? Phật bảo Đại Huệ: Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Nghĩa là cả hai đều có lỗi. Nếu thường thì có lỗi làm chủ, thường ấy tất cả ngoại đạo nói tác giả vì không có chỗ tác, thế nên Như Lai thường phi thường. Chẳng phải tác thường vì có lỗi. Nếu Như Lai vô thường, có lỗi tác vô thường, sở tướng của ấm tướng thì không tánh, ấm hoại nên đoạn, mà Như Lai chẳng phải đoạn.
Ngài Đại Huệ đặt nghi vấn Như Lai là thường hay vô thường. Phật trả lời Như Lai không có nghĩa thường hay vô thường, vì cả hai đều có lỗi.
Trường hợp thứ nhất, nếu Như Lai là thường còn thì Như Lai là tác giả, là chủ tạo ra muôn vật, như một số ngoại đạo cho rằng có một đấng tạo hóa chủ tể sáng tạo chúng sanh, tạo hóa thường còn, chúng sanh vô thường.
Trường hợp thứ hai, nếu Như Lai vô thường ắt rơi vào lỗi có tạo tác, vì những gì có tạo tác đều vô thường. Cũng như thân ngũ ấm, tất cả tướng được tạo đều không có tự tánh riêng, nên nói sở tướng của ấm tướng thì không tánh. Như Lai là tánh giác, là tự thể chân thường, không bị hoại như thân năm ấm nên chẳng phải vô thường.
Trước hỏi tất cả pháp thường cùng vô thường, đây hỏi pháp Như Lai sở chứng là thường hay vô thường. Như Lai Chánh giác không thể nói thường cùng vô thường, nghĩa là cả hai đều có lỗi. Nếu thường thì rơi vào lỗi tác giả, như ngoại đạo chấp thần ngã nói là năng tác Như Lai giác tánh không phải sở sanh của sanh nhân mà là sở liễu của liễu nhân, vì không có chỗ tác, chẳng phải thường, chẳng phải tác thường.
Sở sanh là cái được sanh ra, ví dụ hạt lúa sanh cây lúa thì hạt lúa là sanh nhân, cây lúa là sở sanh của sanh nhân. Giác tánh Như Lai không phải được sanh ra bởi một nguyên nhân nào, vì nếu có sanh thì có diệt. Nhân và quả theo nhau, nhân vô thường nên quả vô thường, Như Lai không phải là pháp nhân quả, không phải pháp tạo tác, nên Như Lai không phải sở sanh mà là sở liễu. Sở liễu là cái được hiển bày, ví dụ ánh sáng là liễu nhân làm hiển bày đồ vật, đồ vật là sở liễu của liễu nhân. Chúng ta tu tập để hiển bày tánh giác, pháp tu là liễu nhân không phải là sanh nhân. Như trong đoạn kinh trước nói 37 phẩm trợ đạo là liễu nhân, qua công phu tu tập đó tánh giác được hiển lộ, như trăng ra khỏi mây, nên nói Như Lai giác tánh là sở liễu của liễu nhân.
Nếu vô thường thì rơi vào lỗi sở tác, đồng với tướng ấm, ấm thuộc về sở tác, không tánh, ấm hoại liền đoạn, mà Như Lai giác tánh chẳng đoạn cho nên chẳng phải vô thường.
Đây nói rõ Như Lai không phải thường, cũng không phải vô thường. Nếu Như Lai là thường thì có lỗi là tác giả. Như Lai chẳng tạo hay được tạo nên cũng không phải vô thường. Dùng ví dụ thân năm ấm để nói Như Lai tuy có trong thân năm ấm, thân năm ấm hoại mà Như Lai chẳng đồng vô thường.
Đại Huệ! Tất cả sở tác đều vô thường, như bình, y v.v… tất cả đều là lỗi vô thường thì Nhất thiết trí đầy đủ phương tiện ưng vô nghĩa, vì cho là sở tác. Thế thì, tất cả sở tác đều ưng là Như Lai. Vì không nhân tánh sai biệt. Thế nên, Đại Huệ! Như Lai phi thường phi vô thường.
Nếu tánh giác hay Như Lai là pháp được tạo ra, như các vật dụng áo quần.. thì tánh giác có lỗi vô thường như các vật dụng. Ngược lại nếu Như Lai là sở tác thì các pháp sở tác cũng là Như Lai. Điều này rõ ràng không thể chấp nhận.
Vì không nhân tánh sai biệt, nghĩa là vì nhân tu và thể tánh không sai biệt. Nhân tu là tánh giác, có tánh giác mới biết rõ phương pháp tu để thành tựu pháp thân Như Lai. Luận Khởi Tín nói: “Y nơi pháp thân này gọi là bản giác. Nghĩa bản giác là đối với thỉ giác mà nói”. Chúng ta tu là dùng thỉ giác, khi thỉ giác gặp bản giác là pháp thân hiển lộ. Thỉ giác là nhân tu, bản giác là thể tánh, thỉ bản không sai biệt nên Như Lai chẳng thường chẳng phải vô thường.
Đoạn trên nói sở tác vô thường. Nghĩa là phàm có sở tác thảy đều vô thường đồng với bình, y v.v… Như Lai cũng có sở tác mà chẳng phải vô thường. Do không nhân tánh sai biệt, nghĩa là Như Lai đã tu phước trí đều thuận tánh khởi dụng không có nhân riêng chẳng đồng sở tác.
Thuận tánh khởi dụng, nghĩa là y theo thể tánh khởi dụng, không phải có nhân khởi tác bên ngoài để tạo thành Như Lai, vì vậy Như Lai không phải pháp sở tác.
Lại nữa, Đại Huệ! Như Lai chẳng phải như hư không thường. Như hư không thường thì mắc lỗi tự giác Thánh trí đầy đủ phương tiện thành vô nghĩa.
Phật dùng ví dụ hư không để nói tánh giác không bị hoại, không bị mất. Nhưng tánh giác giống hư không thì có lỗi rỗng không vô nghĩa. Tự giác Thánh trí có đầy đủ phương tiện diệu dụng mà nói như hư không thì tự giác Thánh trí trở thành vô nghĩa.
Đại Huệ! Thí như hư không phi thường phi vô thường, lìa thường lìa vô thường, một khác, chung chẳng chung. Thường vô thường đều lỗi nên không thể nói, vì thế Như Lai phi thường. Lại nữa, Đại Huệ. Nếu Như Lai vô sanh thường như sừng thỏ, sừng ngựa v.v… cho vô sanh thường thì phương tiện vô nghĩa. Bởi vô sanh thường là có lỗi nên Như Lai phi thường.
Như Lai thí như hư không nhưng vượt ngoài lỗi đối đãi hai bên. Hư không vô tri giác, còn Như Lai là trí thường trụ không gián cách.
Nếu cho rằng Như Lai thường hằng vô sanh (vì cái gì thường sẵn thì không sanh), sừng thỏ sừng ngựa cũng vô sanh, mà không bao giờ có. Đây là lìa lỗi chấp thường vô sanh, vì vô sanh có hai mặt có và không có. Nếu Như Lai thường là vô sanh thì phương tiện tu hành vô nghĩa, dùng các cách tìm kiếm cũng không có như sừng thỏ sừng ngựa. Nhưng với tánh giác, tánh Như Lai thì khéo dùng phương tiện dứt trừ phiền não sẽ hiện ra. Vô sanh thường có lỗi như thế nên Như Lai chẳng phải thường.
Lại nữa, Đại Huệ! Còn có các việc khác biết Như Lai thường, Vì cớ sao? Vì đã được trí vô gián thường nên Như Lai thường.
Thường hằng của Như Lai không có lỗi như hư không, sừng thỏ sừng ngựa. Gạn lọc tất cả những vọng tưởng hiểu biết phàm phu về tánh giác, dù cho là thường hay vô thường đều không đúng, nên nói Còn có các việc khác biết Như Lai thường. Kết luận Vì đã được tri vô gián thường nên Như Lai thường, Như Lai tức là trí vô gián, là tánh giác không thiếu vắng gián đoạn, là trí tuệ sẵn có nơi mọi chúng sanh.
Đây nói Như Lai phi thường chẳng như hư không. Bởi hư không thường, lìa thường vô thường, một khác, chung chẳng chung v.v.. bốn câu thường, bị lỗi vô thường. Song Như Lai tuy bị lỗi vô thường mà chẳng như hư không, vì có tự giác Thánh trí sự. Như Lai phi thường chẳng như sừng thỏ, do sừng thỏ có lỗi vô sanh thường. Song, Như Lai không bị lỗi vô sanh thường, nên chẳng như sừng thỏ, vì có phương tiện nhận được. Cho nên biết, Như Lai sở tác chẳng đồng các vật, Như Lai vô tác chẳng đồng hư không sừng thỏ. Ở giữa hai bên kia mà được trí Như Lai vô gián thanh tịnh, nên nói Như Lai thường. Như Lai từng ở trên hội Niết-bàn tuyên nói “thường lạc ngã tịnh” đều vì lìa lỗi hiển bày. Ba đời Như Lai vô thượng pháp ấn không có hai chỉ thú.
Trên hội Niết-bàn Phật nói về bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh. Đây là bốn đức của pháp thân Như Lai cũng gọi bốn đức Niết-bàn. Tuy dùng danh từ thường lạc ngã tịnh, nhưng vượt ra ngoài suy nghĩ, lìa tất cả lỗi về thường vô thường, sở tác, vô tác… Ý chỉ này phải tự mình tu chứng, không thể nói năng luận bàn. Chỉ thú của chư Phật đều như vậy, không khác nhau. Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói: “Tất cả văn tự chẳng văn tự. Cùng linh giác ấy nào can dự.”
Đại Huệ! Hoặc Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, pháp quyết định trụ, Thanh văn, Duyên giác, chư Phật Như Lai vô gián trụ, chẳng trụ hư không, cũng chẳng phải chỗ hiểu biết của ngu phu.
Pháp quyết định trụ, tức pháp tánh thường trụ dù có Phật hay không Phật cũng hẳn như vậy. Thanh văn, Duyên giác, chư Phật Như Lai vô gián trụ, vô gián trụ là an trụ chỗ không có gián cách. Các bậc Thánh được tánh tự giác hiển lộ liên tục không gián đoạn gọi là vô gián trụ.
Đại Huệ! Như Lai đã được trí là do Bát-nhã huân, chẳng phải tâm ý ý thức các ấm giới nhập xứ huân.
Trí do Bát-nhã huân khác với tâm ý ý thức các ấm giới nhập huân thế nào? Như chúng ta hàng ngày huân tập có không, hơn thua, thiện ác, tốt xấu… thành thói quen đối đãi, tâm luôn dính mắc vào ngoại cảnh cho là thật có. Còn sự huân tập của trí Bát-nhã là thấy các pháp không tự tánh, không thật có nên tâm không dính mắc ngoại cảnh. Theo sự huân tập của trí thì tánh giác hiển hiện, theo sự huân tập của tâm ý thì mê vọng tăng trưởng.
Đại Huệ! Tất cả ba cõi đều là vọng tưởng chẳng thật sanh, Như Lai chẳng từ tưởng hư vọng chẳng thật sanh. Đại Huệ! Do hai pháp nên có thường vô thường, chẳng phải chẳng hai, chẳng hai là lặng lẽ, vì tất cả pháp không hai tướng sanh.
Do thấy có hai pháp thường vô thường nên không thấy được chỗ không hai. Pháp không hai là lặng lẽ. Tâm chúng ta luôn rối rắm vì vọng tưởng phân biệt hai bên. Nghe một câu nói liền khởi nghĩ là khen mình hay chê mình, thấy sự vật liền cho là đẹp xấu. Nếu thấy tất cả pháp không có hai tướng, tâm lặng lẽ không dấy động, đó là trở về tánh Như Lai. Muốn được cái thấy lìa hai bên phải dùng sức huân tập Bát-nhã quán sát các pháp đều vọng tưởng không thật, lìa tất cả sanh diệt, tăng giảm… Kinh Bát-nhã nói: “Trong tướng không của các pháp không sanh không diệt, không nhơ, không sạch.” đó là chỉ thẳng tánh chân thật pháp thân.
Đây thẳng bày Như Lai vô gián Thánh trí, tam thừa đều bình đẳng, có Phật hay không Phật bản giác vẫn thường trụ. Chẳng trụ hư không chẳng đồng giác tưởng, vì hư không là không, vì tưởng chẳng thật. Nếu hay nơi đây sáng ngộ liền chuyển tập khí hư ngụy từ vô thỉ làm vô gián Bát-nhã, Tất cả tâm ý ý thức, các ấm nhập giới thuần một tịch tĩnh, cứu kính chẳng hai.
Vô gián Thánh trí là trí Bát-nhã thường hằng, cũng gọi là vô gián Bát-nhã. Mỗi chúng sanh đều có trí tuệ Bát-nhã, chỉ cần một phen chuyển, nghĩa là lìa bỏ tập khí hư ngụy thì Bát-nhã hiện tiền. Chúng ta không nên tự khi mình, chỉ cần không theo vọng tưởng thì trí tuệ rỗng rang, lúc đó tuy cũng là thân ấm giới nhập, cũng là tâm ý, ý thức nhưng đã vắng lặng tịch tĩnh. Chỗ cứu cánh không hai này, ngài Vĩnh Gia nói: “Vô minh thật tánh tức Phật tánh. Ảo hóa không thân tức pháp thân.”
Chỉ kẻ ngu chẳng giác khắp thể toàn vọng, mê Như Lai vô gián Thánh trí làm tâm ý ý thức lưu chuyển trong ba cõi đồng với huyễn hóa, nên nói “từ vọng tưởng chẳng thật sanh”. Tóm lại Pháp thể không hai, mê thì có thường vô thường vọng thấy dường như hai, giác thì vọng kiến chóng mất chỉ một tịch tĩnh.
Trên nói cảnh giới giác ngộ, đây nói về bất giác. Vì bất giác nên toàn tánh giác chuyển thành vọng tưởng, quên Thánh trí Như Lai, theo tâm ý, ý thức lưu chuyển. Vọng tưởng không thật, lưu chuyển cũng không thật. Chỗ này cốt ý đánh thức chúng ta đừng quên cái thật chạy theo cái giả. Trở về chỗ chân thật thì tất cả các chấp phân biệt hai bên đều dứt mất, tịch tĩnh hiện tiền.
Song mê cùng giác xưa nay có đủ, đều có nghĩa huân. Kinh Viên Giác nói: “Tất cả chúng trung sanh đồng chứng viên giác.” Kinh Pháp Hoa nói: “Phật chủng từ duyên.” Mới tin Bát-nhã Thánh trí trọn chẳng mai một. Thời tiết nếu đến thì lý ấy tự bày.
Mê cũng do huân tập, giác cũng do huân tập. Tu là huân tập trí tuệ, nói là huân tập nhưng thật ra là trở về với trí bản giác, không phải thêm cái gì mới bên ngoài. Vì thế nói huân tập, cũng nói Tất cả chúng sanh đồng chứng viên giác. Tin mình có hạt giống Phật nên tinh tấn tu hành, đến lúc viên mãn thì Thánh trí tự hiển lộ.
Thế nên, Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phi thường phi vô thường. Đại Huệ! Cho đến ngôn thuyết phân biệt sanh thì có lỗi thường vô thường. Phân biệt giác diệt thì lìa kiến chấp thường vô thường của ngu phu chẳng có tuệ tịch tĩnh, hằng lìa sự huân của thường vô thường, phi thường vô thường.
Tất cả chúng sanh chẳng thành Vô thượng Chánh giác xét tốt mà nói chẳng ngoài ngôn thuyết phân biệt hai thứ lỗi lầm. Do phân biệt mà khởi ngôn thuyết, lại nhân ngôn thuyết mà sanh phân biệt, chỗ nương của ngôn thuyết là lỗi tại phân biệt. Cho nên phân biệt giác diệt thì hai kiến chấp chóng lìa, không rơi vào ngu phu tuệ chẳng tịch tĩnh, khởi huân tập thường vô thường.
Trên nói ngôn thuyết phân biệt sanh thì có lỗi thường vô thường, đến đây giải thích rõ ngôn thuyết và phân biệt là hai thứ lỗi lầm. Nhân phân biệt mà có ngôn thuyết, nghĩa là từ vọng tưởng phân biệt tốt xấu hay dở. bèn phát ra ngôn ngữ, duyên theo ngôn ngữ lại khởi phân biệt thêm một lớp nữa. Chúng sanh ở trong vòng lẩn quẩn điên đảo của ngôn thuyết và phân biệt, không thoát ra được.
Phân biệt giác diệt thì hai kiến chấp chóng lìa, phân biệt giác tức là vọng thức phân biệt, thức nàydiệt thì kiến chấp về hai bên đối đãi chóng lìa. Lúc đó không rơi vào hàng phàm phu không có trí tuệ tịch tĩnh, không bị sức huân tập của thường vô thường. Sở dĩ chúng sanh phàm phu không được vắng lặng tịch tĩnh vì tâm luôn vọng khởi kiến chấp thấy hai, thương ghét tốt xấu, đáng ưa chẳng đáng ưa.. Cứ sống với vọng động nên không thấy được tánh Như Lai chân thường.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Chúng cụ vô nghĩa là
Sanh lỗi thường vô thường
Nếu không phân biệt giác
Hằng lìa thường vô thường.
Chúng cụ vô nghĩa, là đủ tất cả vô nghĩa, không giác tự tâm hiện lượng thì tất cả đều không có nghĩa thật. Vì không thật nghĩa nên có lỗi thường vô thường.
Từ kia lập nên tông
Ắt có các nghĩa tạp
Đẳng quán tự tâm lượng
Ngôn thuyết không thể được.
Từ kia lập nên tông, tức là dùng phân biệt lập tông thì có các nghĩa tạp loạn. Khi bình đẳng quán tự tâm hiện lượng mới biết tất cả ngôn thuyết không thể đến chỗ đó được.
Chúng cụ vô nghĩa là chẳng giác tự tâm hiện lượng thì không gốc có thể y cứ, hội qui về vô cực, bên trong đã không nguồn thầm hợp thì bên ngoài ắt sanh lỗi phân biệt, đây là lý do rơi hai bên.
Tự tâm hiện lượng hay tánh giác là gốc của tất cả pháp. Nếu không nhận được tánh giác thì tất cả sự vật đều không có chỗ nương, thấy sự vật tiêu diệt thì cho rằng chỗ cuối cùng của nó là vô cực, là chỗ rỗng không tột cùng. Bên trong không có chỗ trở về, bên ngoài thì theo thức phân biệt các pháp, từ đó rơi vào lỗi thấy hai, tâm luôn vọng động theo tốt xấu, thương ghét…
Chư Tổ dạy tu, bảo trước kiến tánh sau khởi tu. Tức là nhận ra tánh giác không phải là thường vô thường, sanh diệt, có không… Nhận được cội gốc sẵn có thì tâm không duyên theo cảnh, dừng được mọi vọng tưởng lăng xăng. Đây là cách tu chắc thật của nhà thiền. Thiền sư Pháp Thường Đại Mai sau khi ngộ nơi Mã Tổ, bèn vào núi kết cỏ làm am, ẩn tu trong rừng mai. Mã Tổ sai người đến thăm dò, bảo Sư rằng gần đây Mã Tổ nói “phi tâm phi Phật”. Sư thì ngộ câu “tức tâm tức Phật” của Mã Tổ, nhưng khi nghe lời nói khác với chỗ ngộ của mình, cũng không thay đổi. Để nói lên ý người nhận được bản tánh chắc thật thì không chạy theo bên ngoài, dù đó là lời của thầy mình. Vì thế được Mã Tổ khen “Trái mai đã chín!”.
Nếu bỏ phân biệt, giác được nguồn chân thì tự chứng bên trong chẳng rơi vào đoạn thường song không thể y cứ nơi đây lập tông. Nơi đây mà lập tông vẫn là mê giác đối đãi nhau, các nghĩa tạp dấy, mà chẳng phải đẳng quán tâm lượng. Đẳng quán tâm lượng thì chỉ có thầm hợp nên chẳng phải ngôn thuyết đến.
Giác tự tâm hiện lượng chỉ có tự chứng biết, không thể dùng ngôn ngữ nên không cho lập tông. Vì lập tông là thuộc về lý luận biện bác, dùng nhiều phương tiện ngôn ngữ thì trái xa pháp thể.
Có năm:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn lại vì con nói ấm giới nhập sanh diệt, kia không có ngã thì cái gì sanh cái gì diệt? Kẻ ngu phu y nơi sanh diệt chẳng giác khổ tận, chẳng biết Niết-bàn. Phật bảo: Lành thay! Lắng nghe! Sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo.
Bồ-tát Đại Huệ hỏi Phật về cội gốc sanh diệt. Ý nói rằng nếu ấm giới nhập vô ngã thì cái gì sanh, cái gì diệt? Đã không có sanh diệt mà người ngu lại chấp thật có sanh diệt, không được hết khổ, không biết Niết-bàn, Hỏi tận cùng cội nguồn để nhận ra chỗ lầm mê, dứt lầm mê mới thật thấy bất sanh, đó là dụng ý của ngài Đại Huệ.
Nhân đoạn trước phát minh Như Lai đã được vô gián trí thường, đoạn này lại lấy sanh diệt thưa thỉnh. Bởi vì chúng sanh chẳng đạt chân trí thường trụ, vọng thấy sanh diệt thật có lý do. Tánh ấm giới nhập vốn không tác giả mà sanh diệt rõ ràng. Bởi do chẳng giác Như Lai tàng tánh toàn thể đổi thành tàng thức cùng bảy thức thân chung, khởi các căn thức vin theo ngoại cảnh.
Chúng sanh chẳng đạt chân trí thường trụ, vọng thấy sanh diệt thật có lý do, nghĩa là không nhận được thể tánh thường trụ nên thấy sanh diệt là thật có. Thể tánh thường trụ chính là tánh Như Lai tàng, mê Như Lai tàng bất giác hiện năm ấm. Chỗ vọng hiện không phải do ai tạo thì sanh diệt cũng như huyễn. Chúng sanh không thấy chỗ này, luôn ở trong tánh giác mà lầm nhận vọng thể của tàng thức, thấy thật có thân có cảnh. Bên trong có thức, bên ngoài có trần, sanh khởi phan duyên phân biệt nên luống chịu sanh tử nhọc nhằn.
Đã có sanh diệt tuy không có ngã mà có Tàng thức, bảy thức chẳng dứt. Đây là chỗ Nhị thừa không thể biết, Như Lai dạy bảo Bồ-tát thật là rành rõ nên phải xét kỹ.
Hàng Nhị thừa tuy chứng ngộ ấm giới nhập vô ngã, nhưng cội gốc sanh diệt nằm trong tàng thức vẫn chưa dứt được, vì thế còn chịu biến dịch sanh tử.
Phật dạy Bồ-tát nhận rõ sinh hoạt của tám thức, biết chỗ nương của chúng từ Như Lai tàng thì sẽ thấu tận nguồn gốc sanh diệt. Dù các kinh A Hàm không nói đến tàng thức, nhưng ngụ ý vẫn có tàng thức. Các kinh A Hàm nói về 12 nhân duyên, từ vô minh rồi đến hành, thức, mới đến danh sắc. Thức có trước danh sắc, tức có trước thân năm ấm, thức này không phải là thức thứ sáu, vì thức thứ sáu phải đợi đủ căn trần mới có. Thức trong 12 nhân duyên là thức thứ tám hay tàng thức, nó mang cả chủng tử của bảy thức trước để thọ sanh. Thức rồi đến danh sắc, nghĩa là khi thọ sanh thì có sắc là thân do cha mẹ sanh, trên thân sáu căn có sáu thức, đây là danh. Cái gì thúc đẩy thức đi thọ sanh? Đó là hành, sức vận động thúc đẩy tàng thức, trong đó các chủng tử thiện ác cái nào mạnh thì đi trước. Ví dụ buổi sáng chúng ta nghĩ đến làm việc gì, đi thăm người nào? Ý nghĩ nào mạnh thì thúc đẩy chúng ta làm trước, ý nghĩ nào yếu, không quan trọng thì để lại sau. Cũng vậy khi bỏ thân này, chủng tử thiện ác nào mạnh mẽ thì lôi dẫn chúng ta thọ sanh vào đường lành hoặc dữ. Chủng tử đó nằm trong tàng thức, nên nói tàng thức có trước danh sắc. Khi có thân thì bảy thức có mặt, khi thân hoại thì bảy thức ẩn trong tàng thức, tùy theo nghiệp mà thọ sanh trong ba cõi.
Các kinh Nguyên thủy và kinh Đại thừa dường như khác mà không khác. Thời kỳ đầu tiên Phật không nói rõ về tàng thức vì sợ chúng sanh lầm chấp đó là tự ngã như ngoại đạo đề xướng. Đến đây nói rõ hơn. Nếu không có tàng thức thì không rõ lý do sanh diệt. Vì khi thân hoại thì sáu thức hoại nên không phải là lực thúc đẩy sanh tử. Cội gốc sanh tử nằm trong tàng thức, nên nói Đã có sanh diệt tuy không có ngã mà có Tàng thức, bảy thức chẳng dứt.
Phật bảo Đại Huệ: Như Lai tàng là nhân thiện bất thiện, hay khắp khởi tạo tác tất cả thú sanh, thí như con hát biến hiện các thú, lìa ngã ngã sở. Vì chẳng giác kia nên ba duyên hòa hợp phương tiện mà sanh. Ngoại đạo chẳng giác chấp là tác giả. Vì từ vô thỉ ác tập hư ngụy huân tập nên gọi là tàng thức. Sanh vô minh trụ địa cùng thất thức chung, như thân biển sóng, sanh mãi chẳng dứt. Lìa lỗi vô thường, lìa ngã luận thì tự tánh không như cứu kính thanh tịnh.
Như Lai tàng là nhân thiện bất thiện, nghĩa là Như Lai tàng vốn thanh tịnh, nhưng khi mê biến thành tàng thức thì có chứa các chủng tử thiện ác, chủng tử này là nhân của tất cả đường lành đường dữ.
Như con hát biến hiện các thú, lìa ngã ngã sở. Đây là ví dụ về chỗ biến hiện của tàng thức, Các đào kép diễn viên khi chưa đóng tuồng trên sân khấu thì chưa có tên vua, quan, dân thường… Khi đóng vai trò trong vở kịch hay tuồng hát thì người nào theo trách nhiệm đó, làm vua thì vỗ ghế ra lệnh, làm tướng thì cầm gươm dẹp giặc, làm dân thì bị sai khiến… Hết tuồng tích thì trở về vị trí của mình. Tất cả vai trò đều không thật, không có ngã và ngã sở. Tàng thức biến hiện trong các cõi cũng vậy, tùy theo nghiệp sắp đặt mình làm người lành kẻ dữ, thay đầu đổi mặt, sanh diệt di chuyển đều như trong tuồng hát.
Đây là chỗ bất giác sâu kín. Vì mê nên Như Lai tàng biến thành tàng thức, cái bất giác mê này là vô minh trong 12 nhân duyên. Như Lai tàng bỗng nhiên bị mất thể thanh tịnh biến thành tàng thức chứa các tập khí hư ngụy. Do sức huân biến của tập khí nên có căn thân thế giới và chúng sanh. Ngoại đạo không rõ đầu mối, cho thế giới chúng sanh được tạo thành từ tác giả. Không biết tác giả cũng là hư ngụy. Phàm phu thì dong ruổi theo trần cảnh, hòa hợp ba duyên là căn, trần, thức khởi lên vọng tâm chấp trước tham đắm. Chấp trước tăng trưởng thành tập khí lần lượt huân vào tàng thức. Cứ thế nhân duyên xoay vần không dừng nghỉ. Biển là tàng thức, sóng là thất thức, sóng từ biển khởi lên, lại làm biển chuyển động, nên nói như thân biển sóng, sanh mãi chẳng dứt.
Như Lai tàng là nhân thiện bất thiện, đây là yếu chỉ bí mật của ba đời Như Lai, chính cùng vọng tưởng không tánh lẫn nhau phát minh. Như Lai tàng đã là nhân thiện bất thiện thì Như Lai tàng cũng không có tánh, như con hát đóng các vai trò mà không có ngã và ngã sở. Nơi đây nếu giác thì tánh của không tánh vì chiếu liễu nên thất thức chẳng sanh, đã có trí dụng thảy đều bình đẳng.
Trước tiên nêu ý chỉ bí mật là Như Lai tàng không tánh. Nếu Như Lai tàng quyết định là thiện thì không chứa chủng tử ác, nếu quyết định là ác thì không chứa chủng tử thiện. Vì nó là nhân của cả thiện và bất thiện nên không có tự tánh cố định. Luận Khởi Tín nói “Chân như bất thủ tự tánh”, luận Duy Thức nói “Tánh của tàng thức là vô phú vô ký” cũng nêu rõ ý này.
Nếu giác biết thể tánh Như Lai tàng là vô tánh thì thất thức chẳng sanh. Bản chất của thất thức là chấp ngã, chấp cố định người thật cảnh thật, nay nương sự chiếu soi vô tánh thì tất cả chấp không còn, vì thế nói thất thức chẳng sanh.
Nơi đây nếu chẳng giác thì, Như Lai tàng đổi làm Tàng thức, nên nói “trụ địa vô minh”, vì vô minh bất giác nên vọng động thành nghiệp là sanh kiến phần làm thất thức thân. Thất thức thân này tất cả phàm ngu ngoại đạo chấp làm ngã thể. Cho nên có thường kiến, chẳng phải thường chấp là thường, thảy rơi vào vô thường. Nếu lìa vô thường ngã kiến thì tự tánh không nhơ, cứu kính thanh tịnh.
Từ vô minh bất giác nên có kiến phần tướng phần chuyển sanh. Thức thứ bảy chấp kiến phần này làm ngã nên nói kiến phần làm thất thức thân. Phàm phu ngoại đạo chỉ biết đến thức thứ bảy, lại nương vào chỗ chấp của thức thứ bảy, cho là ngã thể thường còn. Không biết ngã thể này vốn không thật, chỉ do mê hiện nên nói chẳng phải thường chấp là thường, thế nên tất cả đều vô thường.
Lìa tất cả lỗi về thường vô thường, nghĩa là dứt tất cả cái thấy sai lầm mới được rốt ráo thanh tịnh. Ngài Hàm Thị nêu lên chỗ tự tánh không nhơ lìa ngã chấp, tức là chúng sanh vốn không nhiễm, chỉ vì thức thứ bảy chấp kiến phần của thức thứ tám làm ngã, phá ngã chấp này thì thức thứ tám không còn bị vọng chấp, tàng thức chuyển thành Như Lai tàng thanh tịnh.
Ba duyên là căn trần thức. Thức này gồm chỉ các thức cũng do thất thức dấy khởi đều thuộc kiến phần. Căn trần thuộc tướng phần, cũng chẳng rời kiến phần mà có hiện ra. Cho nên biết, ba cõi trong ngoài thành nơi thất thức, thảy do bất giác Như Lai tàng. Bởi tàng tánh không tánh nên mới tùy duyên. Tùy duyên nhiễm tịnh thiện bất thiện sanh. Chẳng phải thật có chủng tử, mà tất cả chủng tử đều y đó, nên nói từ vô thỉ tập khí hư ngụy.
Tàng tánh không cố định, ví dụ như nhà kho trống, không nhất định phải cất giữ cái gì. Nếu đưa vào hạt giống rau củ thì gọi là kho hạt giống, nếu đưa vào cuốc xẻng thì gọi là kho dụng cụ, nên nói Chẳng phải thật có chủng tử. Nhà kho khi cất giữ đồ vật mới gọi là kho, khi không cất giữ thì không còn tên nhà kho. Cũng vậy, sở dĩ gọi tàng thức vì chứa tập khí chủng tử, các chủng tử này không thật có, chỉ là hơi hám hư dối, một khi gột sạch chấp trước thì không còn tập khí, không còn chủng tử để chứa đựng, tàng thức trở thành Như Lai tàng thanh tịnh. Vì chủng tử không thật chúng ta mới có thể tu, nếu chủng tử cố định thật thì không bao giờ tu sửa được, Như Lai tàng cũng không thể hiển bày.
Đây nói về Nhị thừa nương vào thức diệt cho là giải thoát, không thấy được tánh Như Lai tàng.
Kỳ dư các thức có sanh có diệt. Ý, ý thức… niệm niệm có thất thức, nhân vọng tưởng chẳng thật chấp các cảnh giới, các thứ hình xứ, chấp trước danh tướng. Chẳng giác sắc tướng tự tâm hiện ra, chẳng giác khổ lạc, chẳng đến giải thoát, danh tướng các thứ trói buộc, tham sanh rồi sanh tham, hoặc nhân hoặc phan duyên, các thọ căn kia diệt, thứ lớp chẳng sanh. Còn tự tâm vọng tưởng chẳng biết khổ vui, vào diệt thọ tưởng chánh thọ, đệ tứ thiền.
Nói về phương diện vọng khởi của các thức, mỗi thức đều có sanh diệt. Tất cả bảy thức đều sanh diệt liên tục nên nói niệm niệm có thất thức. Lý do của sanh diệt là vì vọng tưởng chấp trước các cảnh giới, các hình tướng, chỗ nơi, danh tự… Nhìn sâu vào vọng tưởng, chúng ta thấy vì tâm chạy theo cảnh giới bên ngoài cho là thật, chấp trước không buông nên vọng khởi liên miên, ý này nối ý khác. Đó là biển tâm đã bị sóng thức nhồi nên chao động không dừng, nói sanh diệt chính là nói sức vận động không yên của bảy thức. Chẳng giác sắc tướng tự tâm hiện, vì không biết các sắc tướng bên ngoài đều từ tâm hiện. Sắc tướng tốt hoặc xấu, tâm niệm vui buồn đều do tự mình hiển hiện, biết rõ tự tâm hiện thì không bị trói buộc, đó là giác, nếu mê tự tâm thì bị cảnh trói. Tham sanh rồi sanh tham, thân chúng ta do tham ái sanh ra, có thân này rồi tham luyến thân này, vì thế sanh tử liên miên tiếp nối không dừng.
Nhị thừa quán nguyên nhân sanh tử từ cảm thọ, dừng cảm thọ thì các vọng tưởng chẳng sanh, nên nói các thọ căn kia diệt, thứ lớp chẳng sanh. Diệt thọ rồi, các vọng tưởng khổ vui im bặt, nhập diệt thọ tưởng định, cho đó là giải thoát.
Đây là nói lý do sanh diệt và cảnh giới Nhị thừa chấm dứt sanh diệt, chưa phải chân thật diệt.
Các thức là chỉ cho thất chủng thức. Mê Như Lai tàng chuyển làm thức tàng mà có thất thức thân, một lúc các thức chóng hiện. Niệm niệm có thất thức là, các thức đều có thất nh thức chủ trì.
Mỗi thức khi phát khởi đều mang tính chất chấp ngã, trong khi phân biệt đã ngầm có thức thứ bảy. Chúng ta suy nghĩ vấn đề gì đều mang tính chấp ngã, cho người vật đó là dễ thương hay khó thương… cũng là theo ý của mình. Thức thứ bảy chủ trì trong các thức kia, khi các thức không hoạt động, như lúc bất tỉnh, ngủ say mà thức thứ bảy vẫn còn.
Do dó vọng tưởng chẳng thật nhảy vọt chuyển sanh nhiếp thủ cảnh giới, chẳng rõ danh tướng trước mắt do tự tâm hiện. Lại y danh tướng sanh thọ khổ lạc, tham sanh sanh tham triền miên chẳng dứt. Do thọ làm nhân, danh tướng làm duyên. Diệt thọ khổ lạc thì danh tướng chẳng sanh. Tất cả vọng tưởng tạm được dừng nghỉ thành Diệt tận định và Tứ thiền định. Chẳng biết thọ vốn vô ngã thì sanh thọ diệt thọ đều là hư vọng. Đây là phàm phu nhàm lìa sanh diệt mà không có quán kỹ khởi tưởng diệt tận.
Chúng sanh mê chấp danh tướng sanh khởi tham ái do thọ làm nhân danh tướng làm duyên. Hàng Nhị thừa tu quán, dừng các cảm thọ, danh tướng không sanh khởi nên các vọng tưởng tạm dừng nghỉ. Được Diệt tận định và Tứ thiền xả niệm thanh tịnh, cho là được giải thoát. Thật ra chưa thấu được. cội gốc là Như Lai tàng, nên dù được Diệt thọ định cũng vẫn là hư vọng.
Người khéo tu hành chân để giải thoát, khởi tưởng giải thoát, chẳng lìa chẳng chuyển tên Như Lai tàng thức tàng thì thất thức lưu chuyển chẳng diệt. Vì cớ sao? Vì kia nhân phan duyên các thức sanh. Chẳng phải cảnh giới của Thanh văn, Duyên giác tu hành, Chẳng giác vô ngã thì tự tướng cộng tướng nhiếp thọ, sanh ấm giới nhập. Thấy Như Lai tàng thì ngũ pháp, ba tự tánh, nhân pháp vô ngã ắt diệt.
Người khéo tu chân thật giải thoát phải lìa và chuyển tên thức tạng Như Lai tàng, vì nếu chẳng chuyển thì thất thức vẫn còn hoạt động. Ví dụ nhà kho nếu còn chứa cất đồ đạc, còn đem ra đem vào thì vẫn còn tên là kho chứa đồ. Khi không còn tất cả vật dụng trong đó, nhà trống sạch trơn không còn mang tên nhà kho. Thất thức có tính chấp ngã, chấp tàng thức là ngã thể của nó, luôn luôn huân phát chủng tử khiến Như Lai tàng không thanh tịnh. Khi thất thức không còn phan duyên chấp ngã, các thức kia cũng không khởi tác dụng phân biệt, không còn chủng tử nào để chứa cất. Tàng thức được lìa chủng tử nên không còn tên Tàng thức, khi chuyển thức thành trí là chỉ đổi tên gọi, thể vắng lặng thanh tịnh hằng thường không mất.
Nhị thừa được chân để giải thoát riêng nơi tứ thiền. Song do chẳng chuyển Tàng thức làm Như Lai tàng thì thất thức chẳng diệt. Nghĩa là thất thức cùng Tàng thức làm nhân, lại duyên Tàng thức mà dược sanh trụ, nên nói “y kia trở lại duyên kia”.
Y kia trở lại duyên kia, tức là Đệ thất thức y nơi tàng thức lại duyên kiến phần tàng thức làm ngã.
Nhị thừa chẳng giác tự tâm hiện ra, chẳng biết cảnh hiện duy tâm, không có pháp tánh. Chỉ nơi ấm nhập giới phát minh vô ngã, lìa được nhiếp thủ vẫn còn pháp tự tướng cộng tướng của ấm nhập giới. Đây tức là tập khí thất thức chẳng diệt.
Hàng Nhị thừa chỉ dứt được nhân tạo ra ấm giới nhập của đời sau. Lìa được nhiếp thủ, tức là nhập diệt thọ tưởng định, nhưng định này có xuất nhập, nên khi xuất định vẫn chưa được thật sự giải thoát, vì còn tập khí thất thức.
Thức này cần chuyển Tàng thức làm Như Lai tàng mới biết danh, tướng, vọng tưởng đương thể toàn không, chánh trí, như như cũng là nói suông, đến đây mới gọi nhân pháp vô ngã. Chẳng giác vô ngã, chính là nói chẳng giác pháp vô ngã. Nhị thừa chỉ chứng nhân không mà chẳng chứng pháp không. Vì chẳng đạt Như Lai tàng tánh thì chẳng lìa Tàng thức. Chẳng lìa Tàng thức thì thất thức ắt chẳng diệt. Thất thức chẳng diệt mà nói nhân không, chỉ không cái ngã trong tam giới, mà cái ngã tập khí của bát thức thật còn chẳng giác. Chỉ quán ấm giới nhập không, chứng được chân đế, chẳng sanh ái thủ, đoạn được nhân tam giới, phần ngoại ngã thất thức diệt mà phần nội ngã chẳng diệt, nên nói “chẳng giác vô ngã”.
Đây giải thích lý do chẳng lìa tàng thức thì chẳng thấu đạt tánh của Như Lai tàng. Nhị thừa chỉ chứng được tướng ngã không, vẫn còn ngã tập khí của bát thức. Còn tập khí nên Như Lai tàng chưa thật thanh tịnh, đây gọi là phần ngoại ngã thất thức diệt mà phần nội ngã chẳng diệt. Phần ngoại ngã tức là bảy thức tạo nhân sanh tử kiếp sau đã diệt, phần nội ngã là gốc trong thức thứ tám chưa diệt nên nói nội ngã chẳng diệt.
Địa thứ lớp tương tục chuyển tiến, các kiến chấp ngoại đạo không thể làm khuynh động, ấy gọi là trụ Bồ-tát Bất động địa, được mười thứ tam muội đạo môn lạc. Do tam muội giác gia trì, quán sát Phật pháp bất tư nghì, tự nguyện chẳng thọ tam muội môn lạc và thật tế, hướng đến tự giác Thánh thú, chẳng chung chỗ tu hành với tất cả Thanh văn, Duyên giác và các ngoại đạo, được mười chủng tánh đạo Hiền Thánh và thân trí ý sanh, lìa tam muội hạnh. Thế nên, Đại Huệ! Đại Bồ-tát muốn cầu thắng tiến phải sạch tên Như Lai tàng và Thức tàng.
Đức Phật dạy hàng Bồ-tát từ Sơ địa đến Bát địa, không nên dừng trụ trong cái vui tam muội, tức là tự nguyện chẳng thọ tam muội môn lạc mà luôn luôn hướng đến tự giác Thánh thú tức là hướng đến quả vị Phật, vì thế không đồng với Thanh văn, Duyên giác. Đại Bồ tát muốn cầu thắng tiến phải sạch tên Như Lai tàng và Thức tàng, tức là chuyển tên thức tàng thành Như Lai tàng trong sạch, mới tiến lên quả Phật,
Nương trên nói thấy Như Lai tàng, diệt thất thức thân thì hay tùy địa thứ lớp chuyển tiến, chẳng bị ngoại đạo làm diêu động. Đây chính là đệ bát Bất động địa, nên nói “trước Bất động địa vừa xả tàng”. Xả Tàng thức thì chánh thọ hiện tiền, do được Như Lai tự giác làm giác gia trì, phát bi nguyện, nên hay chẳng thọ tam muội môn lạc và trụ thật tế. Thật tế là chân như thật tế. Trụ nơi Chân như thật tế thì thấy không Phật có thể thành, không chúng sanh đáng độ, nên chẳng trụ thật tế, y trí khởi dụng. Nên nói “tự giác Thánh thú chẳng chung chỗ tu hành với Nhị thừa và các ngoại đạo”. Mười Hiền Thánh chủng tánh tức là Thập địa chủng tánh. Nghĩa là từ Thập địa cho đến Phật địa được ba thứ thân, lìa tam muội viên mãn Bồ-đề.
Bồ-tát đến đệ bát địa mới xả tên tàng thức, tức là các chủng tử trong tàng thức đã dứt sạch, tâm tự nhiên lặng lẽ thanh tịnh, gọi là chánh thọ hiện tiền. Được sức tự giác giữ gìn nên khởi bi nguyện độ sanh, không trụ mãi trong tam muội và chỗ thật tế. Vì trụ nơi chỗ thật tế thì thấy Phật và chúng sanh đều bình đẳng, không có Phật để thành và chúng sanh để độ, nếu trụ mãi chỗ này không thể khởi dụng độ sanh, vì thế Bồ-tát không trụ. Bồ-tát Bát địa độ sanh viên mãn mới tiến lên Thập địa, thành tựu bồ-đề.
Cho nên người muốn được thắng tiến phải khéo rành tên Như Lai tàng và Thức tàng. Bởi vì Như Lai tàng và Thức tàng một thể hai tên, mê ngộ khác vậy, Vì lẽ Như Lai tàng vốn tự không tánh, tánh không tánh ấy rất chân rất tịch. Tột chỗ chân tịch liền là vô minh, vô minh vô thỉ bất giác vọng kiến, kiến vọng vốn là không, chẳng lìa bản tế. Nếu hay giác chỗ này thì an trụ tâm hải, lại không riêng có. Thân tức là Pháp thân. Trí tức là Báo thân. Ý sanh tức là Hóa thân. Chuyển bát thức được tên Pháp thân, chuyển thất thức được tên Báo thân, chuyển đệ lục ý thức được tên Hóa thân. Trong khoảng sát-na ngộ mê đã chuyển nên nói “chỉ chuyển tên kia không có thật tánh”.
Khéo rành tên Như Lai tàng và Thức tàng, khéo rành là biết được sự sai khác giữa Như Lai tàng và Thức tàng. Tuy hai tên nhưng một thể, chỉ vì huân chứa chủng tử mà thành tên thức tàng. Mê vọng lầm chấp luôn tạo thành tập khí nhiễm ô khiến Như Lai tàng không thanh tịnh.
Tánh Như Lai tàng rất chân thật lặng lẽ, ngay nơi mé chân ấy bất giác khởi vô minh vọng kiến. Thấy tột chỗ chân tịch khởi vọng đó mới biết được gốc vô minh. Vô minh từ buổi nào chúng ta không biết, có vô minh mới có bất giác vọng kiến, nhưng vọng kiến này cũng không thật, không rời bản tế chân thật. Vì thế Như Lai tàng là mé chân, thức tàng là mé vọng, tuy có hai tên mà đồng một thể.
Nếu hay giác chỗ này thì an trụ tâm hải, lại không riêng có, tức là giác được bản tế đồng thể này, tự nhiên lìa tên thức tàng mà an trụ biển tâm, ngoài biển tâm không có riêng Như Lai tàng hay thức tàng.
Ngài Hàm Thị chỉ rõ tận cùng chỗ chân thật tuy thấy có chia nhiều tên, nhiều lầm chấp vọng tưởng, nhưng tột cùng chỉ một nguồn. Thiền sư Pháp Thường Đại Mai dạy: “Tất cả các ngươi mỗi người tự xoay tâm lại tận nơi gốc, chớ theo ngọn của nó. Chỉ được gốc thì ngọn tự đến.” Nhận được gốc rồi thì diệu dụng tự tại, các thức trong một lúc đều thành ba thân Phật.
Đại Huệ! Nếu không thức tàng gọi là Như Lai tàng, ắt không sanh diệt. Đại Huệ! Song các phàm Thánh thảy có sanh diệt. Người tu hành tự giác Thánh thú hiện trụ pháp lạc, chẳng bỏ phương tiện.
Nếu Như Lai tàng không mang tên thức tàng thì không có sanh diệt, vì Như Lai tàng là thể thanh tịnh vắng lặng. Song các phàm Thánh thủy có sanh diệt, phàm đây là phàm phu, Thánh là các bậc Nhị thừa cho đến Thất địa, đều chưa lìa thức tàng nên vẫn còn trong vòng sanh diệt.
Đại Huệ! Như Lai tàng thức tàng này, tất cả Thanh văn, Duyên giác tâm tưởng thấy được, tuy tự tánh thanh tịnh mà bị khách trần che đậy vẫn thấy chẳng tịnh, chẳng phải chư Như Lai. Đại Huệ! Như Lai ấy, cảnh giới hiện tiền, như trong lòng bàn tay xem trái a-ma-lặc.
Đây nói thấy Như Lai tàng là, trừ sạch hiện lưu tuy cũng chẳng bỏ phương tiện mà chẳng đồng với Nhị thừa. Mê Như Lai làng mà làm Thức tàng thì toàn thể là sanh diệt, Như thật biết Thức tàng tức Như Lai làng thì sanh diệt chóng lìa. Mà các phàm Thánh thảy có sanh diệt, nên người tu hành thấy tự giác trí vẫn chẳng bỏ pháp lạc phương tiện. Nên nói: “Biết rõ sanh là tánh chẳng sanh, làm sao bị sanh diệt lưu chuyển?”
Thấy Như Lai tàng là trừ sạch hiện lưu, tức là dứt sạch các chủng tử trôi chảy trong tàng thức. Không đồng Nhị thừa là tuy dứt dòng sanh diệt nhưng vẫn khởi phương tiện độ sanh. Bồ-tát khi được tự giác tức là thấy ngay khi sanh là tánh bất sanh, vì thế các ngài không sợ sanh diệt, hằng ở trong sanh tử cứu giúp chúng sanh.
Như Lai do sức kia chưa đầy đủ nên có phương tiện. Phương tiện này chẳng phải nói Như Lai tự tánh vẫn có bất tịnh. Như Nhị thừa tâm tưởng thấy được, tuy biết tự tánh thanh tịnh mà do khách trần che đậy vẫn thấy bất tịnh, có được tam muội pháp lạc đều thành thật pháp. Chẳng bằng người tự giác tu hành thấy rõ tự tánh, chỉ dùng phương tiện chóng trừ hiện lưu. Cho nên biết, thấy tánh không thể chẳng rõ. Nếu Như Lai chính thấy cảnh giới hiện tiền chẳng phải một chẳng phải khác, như xem trái a-ma-lặc trong lòng bàn tay, lại không còn nghi ngại.
Như Lai do sức kia chưa đầy đủ nên có phương tiện, ý nói các bậc tu hành chưa đủ sức tự giác nên Phật lập phương tiện thứ lớp dẹp trừ, không phải trong tự tánh Như Lai có thứ lớp tu chứng. Nếu biết chỗ tu chứng và các tam muội đều là phương tiện giả lập thì không nên cho là thật mà an trụ.
Đại Huệ! Ta nơi nghĩa này dùng thần lực dựng Lập khiến phu nhân Thắng Man và chư Bồ-tát trí sáng đầy đủ v.v… tuyên dương diễn nói tên Như Lai tàng và Thức tàng, thất thức chung sanh. Thanh văn chấp trước thấy nhân pháp vô ngã, cho nên phu nhân Thắng Man nương oai thần Phật, nói cảnh giới Như Lai chẳng phải cảnh giới Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo. Như Lai tàng và Thức tàng chỉ là cảnh giới Phật và những Bồ-tát trí tuệ sắc bén y nơi nghĩa. Thế nên, ông và các vị đại Bồ-tát đối với Như Lai tàng thức tàng phải siêng tu học, chớ có chỉ nghe hiểu khởi tưởng biết đủ.
Phu nhân Thắng Man là con của vua Ba-tư-nặc và hoàng hậu Mạt-lợi. Trong pháp hội của Phật, bà tuyên nói về cảnh giới Như Lai tàng thanh tịnh, không phải chỗ của hàng Nhị thừa đạt được.
Đây Phật dạy rằng do sức thần của Phật nên khiến Thắng Man và các Bồ-tát trí sáng đầy đủ nói về Như Lai tàng chuyển động mang tên thức tàng, cùng sanh khởi với thất thức.
Như Lai tàng tên Thức làng cùng thất thức chung, dây chẳng phải cảnh giới Nhị thừa. Bởi vì Nhị thừa chẳng tin thức thứ tám tức Như Lai tàng. Cho nên đối với ngã thấy vô ngã, thường thấy vô thường, ấy là tưởng đảo. Vì trừ cái tưởng này nên nói Thức làng tức Như Lai làng, khiến biết tâm ý ý thức đều không tự lánh, thấy pháp vô ngã, được cái chân ngã, đây là cảnh giới chư Phật. Trừ phu nhân Thắng Man và những vị Bồ-tát trí bén, không có người hay biết được, cho nên Phật răn Bồ-tát chớ khởi tưởng biết đủ.
Đối với ngã thấy vô ngã, tức là có Như Lai tàng mà không biết, cho rằng vô ngã là rốt ráo chân thật. Như Lai tàng là thường mà tưởng tất cả pháp vô thường, nên gọi là tưởng điên đảo. Phật muốn dẫn đạo cho tất cả Thanh văn, Duyên giác cùng Bồ-tát tiến đến cảnh giới Như Lai tàng thanh tịnh, nên nói rõ thức tàng tức Như Lai tàng. Tất cả hoạt động của tâm ý ý thức đều không có thật tánh, không nên chấp trước, nên nói tâm ý ý thức đều không tự tánh. Lìa tâm ý ý thức là lìa tất cả tám thức mới chứng được chân ngã.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Như Lai tàng sâu kín
Mà cùng thất thức chung
Hai thứ nhiếp thọ sanh
Người trí ắt xa lìa.
Như Lai tàng sâu kín khi chứa chủng tử thì biến thành tàng thức và bảy thức chung hợp, từ đó có hai thứ nhiếp thọ là năng nhiếp và sở nhiếp. Người trí nên xa lìa hai bên ấy.
Như gương tượng hiện tâm
Tập khí vô thỉ huân
Người như thật quán sát
Các sự thảy vô sự.
Năng nhiếp sở nhiếp giống như hình tượng hiện trong gương, chỉ vì tập khí từ vô thỉ huân tập thấy tất cả cảnh đối đãi cho là thật. Người quán sát đúng như thật thì nơi tất cả sự trở thành vô sự. Thấy đẹp xấu, nghe hơn thua… đều biết là giả, thì mọi sự không quan trọng nên thành vô sự. Khi thấy thật thì mỗi sự là một sự, vì nhiều sự nên thành đa sự.
Như ngu thấy chỉ trăng
Xem tay chẳng thấy trăng
Người chấp trước danh tự
Chẳng thấy ngã chân thật.
Văn tự của Phật giảng dạy trong kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng, chúng ta chấp văn tự không thấy được thật ngã, như người ngu chỉ thấy ngón tay mà không thấy mặt trăng.
Tâm là con hát giỏi
Ý như đánh đàn hay
Năm thức là bè bạn
Vọng tưởng, chúng xem hát.
Mỗi chúng ta là một hí trường. Tâm là con hát giỏi diễn đủ trò giả dối, ý hòa nhịp theo tâm, tức là thất thức như người đánh đàn cho con hát. Năm thức là bè bạn, khi mắt thấy sắc.. ý thức liền chạy theo khởi phân biệt, nhãn thức… không đứng riêng một mình. Vọng tưởng, chúng xem hát, tất cả vọng tưởng như khán giả xem hát hùa theo khóc cười.
Kệ nói Như Lai tàng sâu kín mà lược nói Thức tàng. Nghĩa là tức thức tức tánh, chân như vô minh an trụ sâu kín. Tuy có thất thức ngã, vọng thấy tự tha, như gương không tâm mà hiện các hình tượng, dụ vô minh vọng tập tùy duyên chóng hiện, như thật mà quán trọn không việc ấy. Người trí liễu đạt đương thể xa lìa, kẻ ngu xem ngón tay chẳng thấy chân thật, đây là lý do phân mê giác vậy. Bát thức không tánh thọ huân tùy duyên biến hiện, nên như con hát, thất ý nhân trong, duyên ngoài nên như người đánh đàn, năm thức góp trần nên như bạn bè, lục thức phân biệt như chúng xem hát. Thảy do vọng hiện chẳng phải có sự thật.
Tức thức tức tánh, thể của thức tàng là Như Lai tàng. Như Lai tàng tức là chân như, thức tàng tức là vô minh, chỗ an trụ của nó sâu kín khó biết. Tuy có đệ thất thức chấp ngã hiển hiện, song Như Lai tàng vốn vô tâm, như gương hiện cảnh. Tất cả chủng tử vô minh chấp ngã trên Như Lai tàng đều không có thật, người trí biết rõ tánh vốn vô tánh thì ngay đó trừ vọng.
Tánh của thức thứ tám là vô ký, không nhất định thiện hay ác, cũng như con hát tùy theo vai trò mà diễn, Thức thứ bảy theo thức thứ tám chấp ngã nên gọi là nhân trong, kết hợp với thức thứ sáu nên gọi là duyên ngoài. Tất cả diễn biến của tám thức trong tâm chúng ta đều do vọng hiện không thật. Nếu thấy cuộc đời, tất cả cảnh sống đều như một hí trường thì chúng ta chỉ cười cho qua, không có gì bận tâm. Đó là người giác ngộ không theo cảnh.
Có hai:
Có ba:
Khi ấy Bồ-tát Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Cái xin vì nói tướng năm pháp, tự tánh, thức, hai thứ vô ngã, phân biệt cùng tột, con và các đại Bồ-tát khác đối tất cả địa thứ lớp tương tục, phân biệt pháp này vào tất cả Phật pháp, vào tất cả Phật pháp cho đến Như Lai tự giác địa.
Bồ-tát Đại Huệ xin Phật chỉ dạy về tướng năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã. Các đại Bồ-tát biết rõ về các pháp này tức là thâm nhập Phật pháp, tu tiến đến quả vị Phật.
Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó. Đại Huệ bạch Phật; Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Năm pháp, tự tánh, thức, hai thứ vô ngã, phân biệt rõ tướng, nghĩa là danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí, như như. Nếu người tu hành tu vào Như Lai tự giác Thánh thú, lìa kiến chấp đoạn thường có không v.v… Hiện pháp lạc chánh thọ trụ hiện ở trước. Đại Huệ! Chẳng giác năm pháp, tự tánh, thức, hai vô ngã, tự tâm hiện ngoại tánh, là phàm phu vọng tưởng chẳng phải chư Hiền Thánh.
Phật dạy người không giác ngộ năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã đều do tự tâm hiện, người ấy là phàm phu vọng tưởng không phải chư hiền Thánh. Bậc tu hành khéo ngộ năm pháp… sẽ đạt được tự giác Thánh trí, lìa kiến chấp hai bên, được vui chánh định hiện tại.
Đây hỏi năm pháp tự tánh thức hai vô ngã cứu kính sai biệt. Hỏi chung bốn thứ, đáp riêng bày năm pháp, trên tuy mỗi pháp rành rõ, mà ý thì ba thứ đều vào năm pháp. Giác danh, tướng, vọng tưởng không có tự tánh, liền hay phát minh chánh trí, chứng được như như.
Ngài Đại Huệ hỏi chung về năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã. Đức Phật chỉ nói riêng năm pháp, nghĩa là nếu thông suốt pháp này thì các pháp kia cũng hiểu rõ, Nếu chúng ta giác biết danh, tướng, vọng tưởng là hư dối không có thật thể thì liền đó phát minh chánh trí, chứng được như như.
Danh là tên, tướng là hình thể, tất cả các pháp hiện có trên thế gian không ra ngoài danh và tướng, có pháp chỉ có danh, có pháp không có danh cố định, chỉ tùy địa phương mà đặt tên. Nhưng danh hay tướng đều do duyên hợp tạm có, trên pháp duyên hợp mà khởi vọng tưởng phân biệt thì vọng tưởng cũng không thật. Biết danh, tướng không thật là chánh trí, có chánh trí thì không khởi vọng tưởng, tâm được như như. Cũng trên các pháp hiện tiền, người được chánh trí như như là chuyển phàm thành Thánh không cần tìm cầu ngoài thế gian.
Người tu hành này bởi vào tự giác Thánh thú chẳng thấy ngoài tâm có pháp, liền khi ấy xa lìa các kiến chấp đoạn thường có không, hiện pháp lạc trụ, là cảnh giới Thánh Hiền, chẳng phải phàm ngu có phần. Nghĩa là phàm ngu không tự giác Thánh thú, cho nên chẳng giác năm pháp tự tánh thức hai vô ngã thảy duy tâm lượng, mà ở ngoài tâm riêng thấy pháp tướng, tuy chánh trí, như như đều là vọng hiện.
Người tu hành được tự giác Thánh thú biết tất cả pháp không thật nên xa lìa các kiến chấp đoạn thường, có không… Như thế tâm luôn luôn an trụ nơi pháp lạc, không bị nhiễu động.
Phàm phu vì thấy ngoài tâm có pháp thật, không đạt được cảnh giới tự giác Thánh nên cho là năm pháp, ba tự tánh… đều có riêng bên ngoài. Không thấu đạt duy tâm thì dù có chánh trí như như, cũng hiện ra không thật.
Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Thế nào ngu phu vọng tưởng sanh, chẳng phải chư Thánh Hiền? Phật bảo Đại Huệ: Ngu phu chấp trước tục số danh tướng, tùy tâm trôi giạt. Trôi giạt rồi các thứ tướng mạo, rơi vào kiến chấp ngã ngã sở hi vọng. Chấp trước sắc đẹp, chấp trước rồi không biết che ngại nên sanh nhiễm trước. Nhiễm trước rồi, tham sân si sanh nghiệp chứa nhóm. Chứa nhóm rồi vọng tưởng tự trói, như tằm làm kén, rơi trong biển sanh tử, đồng hoang các cõi, như bánh xe nước.
Ngài Đại Huệ hỏi về chỗ sanh khởi vọng tưởng, vì vọng tưởng là đầu mối chấp trước khiến các pháp không được như như.
Phật dạy lần lượt từ cạn đến sâu. Đầu tiên là chấp danh tướng thế gian nên tâm mất thể tĩnh lặng gọi là tùy tâm trôi giạt. Tâm bị động, thấy các tướng mạo, chấp theo chỗ mong muốn về ngã, ngã sở, nên thấy có đẹp xấu, vừa lòng thích ý… Bị vô tri che mờ tánh sáng suốt, không biết các pháp vọng hiện mà sanh tham đắm. Có tham đắm thì có nhóm họp ba nghiệp, tham sân si gây nghiệp, nghiệp tạo thêm tham sân si, tự tạo tự trói, vì thế lẩn quẩn trong sanh tử. Nói các cõi luân hồi như đồng hoang là nói chỗ không thật, ba cõi như huyễn. Chúng sanh lên xuống như bánh xe nước quay mãi không dừng, hết lên rồi xuống không thoát ra khỏi.
Như vậy nguồn gốc khởi đầu chỉ là chấp danh tướng mà đưa dần đến thọ sanh các cõi, vì thế trong năm pháp nêu nó trước nhất.
Bởi vì ngu si không thể biết tự tánh như huyễn, sóng nắng, trăng đáy nước, lìa ngã ngã sở, khởi tất cả vọng tưởng chẳng thật, lìa năng tướng sở tướng và sanh trụ diệt, từ tự tâm vọng tưởng sanh, chẳng phải tự tại, thời tiết, vi trần, thắng diệu sanh. Phàm phu ngu si theo danh tướng trôi.
Đây nói lý do vì sao khởi vọng tưởng để trôi lăn trong lục đạo. Chỉ vì không biết tự tánh các pháp như huyễn, như sóng nắng ngoài đồng hoang, như trăng trong nước. Tất cả các pháp tuy có danh tướng hiện tiền, nhưng danh tướng đó là giả tạm, chợt hiện chợt không, bản chất hư ảo. Danh tướng không phải là ta, không thuộc về ta, nên nói lìa ngã, ngã sở. Có tướng mà không thật, dù thấy sanh trụ diệt cũng như huyễn, vì thế nói lìa năng tướng, sở tướng và sanh trụ diệt. Thiền sư Từ Minh nói “Chết như cởi áo trời hạ, sanh như đắp mền trăng đông, rõ ràng người vô sự, đầy đất sanh phiền não”. Thấy được chỗ như huyễn này thì không thấy thật có sanh trụ diệt, chúng ta vốn vô sự mà lại chấp trước để khởi phiền não.
Tất cả danh tướng từ vọng tưởng sanh chẳng phải có nhân khác, để rõ ngoại đạo chấp nhận khác đều do chẳng đạt danh tướng không có tự tánh, chính nơi ấy vô sanh. Tất cả thế gian nhân danh sanh tướng, tướng sanh vọng tưởng, vọng tưởng không biết theo tướng nhiễm trước, khởi tham sân si, kết các nghiệp trói buộc như tằm làm kén lưu chuyển sanh tử như bánh xe nước. Chẳng biết tất cả danh tướng đều không tự tánh, như sóng nắng, trăng đáy nước, không ngã ngã sở, chỉ do vọng tưởng chẳng thật lập bày, chẳng phải có nhân khác. Nói có nhân khác như tự tại, thời tiết v.v… Thảy do phàm phu ngu si chẳng đạt danh tướng theo danh tướng mà lưu chuyển.
Danh tướng không có tự tánh, chính nơi ấy vô sanh, nếu ngay nơi danh tướng biết rõ không có thực thể, thì cũng ngay danh tướng ấy được vô sanh. Biết vô sanh thì không chấp có nhân khác sanh ra thế giới như ngoại đạo. Biết danh tướng không thật thì không theo vọng tưởng khởi nhiễm trước sanh tham sân si. Được giải thoát hay bị trói buộc cũng từ danh tướng, thấu rõ gốc ngọn thì tự nhiên lìa vọng chứng chân.
Đại Huệ! Tướng kia là, chỗ soi của nhãn thức gọi là sắc, chỗ soi của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, ý thức gọi là thanh, hương, vị, xúc, pháp, ấy gọi là tướng. Đại Huệ! Vọng tưởng kia lập bày các danh, hiển hiện các tướng. Như đây chẳng khác tên voi ngựa xe bộ hành nam nữ v.v… ấy gọi là vọng tưởng.
Phật dạy thế nào là danh, thế nào là tướng. Tướng chính là trần cảnh, qua sự chiếu soi của sáu căn, sáu trần hiển hiện bóng dáng của nó. Nếu khi các tướng hiện bày mà không có các thức khởi phân biệt, không lập bày tên tuổi thì các pháp ở yên vị trí. Chính vì vọng tưởng kia lập bày các danh, hiển hiện các tướng, chúng ta duyên theo tướng đặt tên đây là voi, đây là ngựa… Khi an danh cho các pháp thì mỗi pháp có tên riêng tướng riêng, vọng tưởng y cứ vào các pháp riêng biệt mà sanh chấp trước, pháp này không phải là pháp kia, nên nói như đây chẳng khác.
Đại Huệ! Chánh trí là, biết danh tướng kia không thể được, ví như khách đi qua, các thức chẳng sanh, chẳng đoạn chẳng thường chẳng rơi vào chỗ tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác.
Chánh trí là trí tuệ biết danh tướng không thể được tức là không thật, ví như người khách đi qua không dừng, không ở một chỗ. Danh tướng chỉ tạm có, như chúng ta sanh ra tạm gọi tên A, tên B, tạm có hình tướng đẹp xấu. Tên gọi và tướng mạo chỉ có trong thời gian, vì thế tất cả thức phân biệt theo danh tướng cũng tạm có không thật. Biết tạm có giả danh thì không rơi vào kiến chấp ngoại đạo.
Đây lại chỉ rõ vọng tưởng lập bày, khiến đạt danh tướng chẳng thật liền chuyển vọng tưởng mà làm chánh trí. Do chỗ soi của căn thức khởi ra các tướng sắc v.v… Lại do vọng tưởng phân biệt lập bày các danh, các tướng càng bày. Nếu chính các thức chiếu soi chưa dấy phân biệt thì không có chỗ hiển bày. Nơi đây tỏ ngộ mới biết tất cả danh tướng trọn không thể được.
Do vọng tưởng lập ra tên gọi, như nói đây là đồng hồ, đây là cái bàn. Đặt ra nhiều tên thì có nhiều tướng phân biệt. Nếu như mắt thấy tai nghe biết, gọi là thức chiếu soi chưa dấy phân biệt, thì các pháp không có lỗi vọng tưởng. Chỗ này nói rõ năm thức chiếu soi không có lỗi, chỉ có ý thức phân biệt mới khởi vọng tưởng. Ngay đó nếu ngộ được mới thấy rõ danh tướng không thật.
Vả lại chính hiển bày vọng tưởng của danh tướng, mà làm liễu đạt chánh trí của danh tướng, không có thể khác, mà có dụng khác, nên nói “có phiền não thì không trí tuệ, có trí tuệ tức không phiền não”. Chánh trí hiện tiền thì phân biệt chẳng sanh, chẳng phải thường chẳng phải đoạn. Đây không phải cảnh giới của Nhị thừa, huống là ngoại đạo?
Y nơi danh tướng mà một bên mê thì vọng tưởng sanh, một bên giác thì chánh trí khởi. Khi liễu đạt danh tướng không có thật thể, đó là chánh trí hiện tiền, không theo vọng tưởng nên không khởi phiền não, vì vậy nói có trí tuệ thì không phiền não.
Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ-tát do chánh trí này chẳng lập danh tướng, chẳng phải không lập danh tướng, bỏ lìa hai kiến chấp dựng lập (có) và phỉ báng (không), biết danh tướng chẳng sanh, ấy gọi là như như.
Các đại Bồ-tát do có chánh trí nên không vướng mắc nơi danh tướng, nên gọi là chẳng lập danh tướng. Tuy không lập danh tướng nhưng vẫn sử dụng danh tướng, như chúng sanh gọi là con trâu các ngài cũng gọi con trâu… Vì để dẫn đạo chúng sanh, dùng ngôn ngữ danh tướng nói cho hiểu mà không chấp. Các ngài dùng danh tướng giả lập, thấy rõ nó không thật nên tâm không dấy động, vì thế nói biết danh tướng chẳng sanh, ấy gọi là như như.
Đại Huệ! Đại Bồ-tát trụ như như ấy được cảnh giới không thật có, nên được Bồ-tát Hoan hỷ địa. Được Bồ-tát Hoan hỷ địa rồi, hằng lìa tất cả cõi ác ngoại đạo, chính trụ chỗ xuất thế gian, pháp tướng thành thục, phân biệt tất cả pháp huyễn v.v.. tự giác pháp thú tướng rành rõ, lìa các vọng tưởng, thấy tánh tướng khác, thứ lớp đến Pháp vân địa. Ở trong khoảng giữa đó do sức tam muội tự tại, thần thông mở tròn, được Như Lai địa rồi, các thứ biến hóa tròn chiếu thị hiện thành thục chúng sanh, như trăng đáy nước, khéo cùng tột đầy đủ mười câu vô tận, vì các thứ ý hiểu của chúng sanh phân biệt nói pháp, Pháp thân lìa ý làm ra, ấy gọi là Bồ-tát nhập như như mà được.
Do tâm không chạy theo danh tướng nên được như như, được vào Sơ địa Bồ-tát. Nếu chúng ta khéo tu, chỉ ngay nơi danh tướng không khởi vọng tưởng, tâm luôn an ổn tức là tiến vào Hoan hỷ địa. Chỗ này không phải khó, chỉ cần chúng ta không chấp nhận tất cả khen chê tốt xấu. hình tướng âm thanh nào mình cũng biết là không thật, không quan trọng Nghe khen cũng tốt, nghe chê cũng không bận lòng, thấy cái đẹp thì vui, thấy cái xấu cũng vui. Như vậy suốt ngày không buồn phiền, tâm an nhiên, gọi là được Hoan hỷ địa.
Bồ-tát từ Sơ địa, tu tập thành thục, lìa vọng tưởng thấy tánh tướng khác, nghĩa là vì vọng tưởng phân biệt nên thấy có tướng này tướng kia khác nhau, do chỗ khác nhau nên tâm không được như, khi lìa vọng tưởng thấy khác rồi thì các pháp một thể như. Thấy các pháp như, chính là tâm được thành thục không phân biệt pháp tướng, dần dần đạt đến Pháp vân địa. Đoạn sau nói về diệu dụng thần thông của các Bồ-tát trong khoảng từ Sơ địa đến Thập địa. Ý hiển bày chỗ đạt được các pháp như thật, tâm an trụ như mà không phải là bất động như cây đá. Lìa vọng tưởng phân biệt không phải rơi vào chỗ không ngơ, mà kết quả là thành tựu như ý đối với chúng sanh, được cùng tột mười câu vô tận.
Đây tức danh tướng mà được như như. Chẳng lập danh tướng, chẳng phải không lập danh tướng, lìa kiến chấp có không, chính được Pháp thể. Cho nên tức nơi danh tướng mà được như như. Pháp vị như như tức là cảnh giới Hoan hỷ địa vô sở hữu. Đến địa này rồi hằng lìa tất cả ác kiến gọi là xuất thế gian. Do đó chân như pháp tướng thứ lớp thành thục. Tức là hay thuận pháp như huyễn dùng trí tự giác khởi các pháp hạnh. Lìa vọng tưởng đã thấy các pháp tướng khác, nghĩa là tất cả pháp chân như thật tướng không có một khác, thấy một khác là vọng tưởng vậy. Bồ-tát tức vọng tức chân nên hay dùng tướng không tướng dựng lập các địa, tùy sức tam muội thần thông tự tại cứu kính Phật địa, biến hóa chiếu diệu đối hiện sắc thân như trăng đáy nước, đầy đủ mười câu vô tận, vì các chúng sanh phân biệt diễn nói, đây gọi là Pháp thân lìa ý tạo ra, nhậm vận như như.
Bồ-tát tức vọng tức chân, tức là ngay nơi danh tướng mà thấy thật, đó là vọng, cũng nơi danh tướng mà thấy hư dối, tức là chân, không phải tìm chân thật ngoài danh tướng. Nên hay dùng tướng không tướng, dựng lập các địa, nghĩa là dùng danh tướng không chấp trước ấy mà tiến tu Thập địa, theo sức thần thông của chánh định tiến đến cứu cánh Phật địa. Tùy theo căn cơ của chúng sanh mà giáo hoá, không thấy có mình người, nên việc làm như trăng đáy nước, đầy đủ mười câu không cùng tận. Pháp thân lìa ý tạo ra, nghĩa là pháp thân không do ý tạo tác. Ý là vọng tưởng, pháp thân là thể chân như nhiệm vận không đến không đi, vọng tưởng hư dối không thể tạo nên pháp thân.
Có bốn:
Bấy giờ Bồ-tát Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Tại sao Thế Tôn nói ba thứ tự tánh vào năm pháp, là mỗi cái có tự tánh riêng? Phật bảo Đại Huệ: Ba thứ tự tánh và tám thức, hai thứ vô ngã thảy vào năm pháp. Đại Huệ! Danh và tướng kia là vọng tưởng tự tánh.
Đại Huệ! Nếu y vọng tưởng kia sanh tâm và tâm pháp, gọi đồng thời sanh, như mặt nhật và ánh sáng đồng, các thứ tướng mỗi thứ riêng phân biệt gìn giữ, ấy gọi là duyên khởi tự tánh. Đại Huệ! Chánh trí, như như vì không thể hoại nên gọi là thành tự tánh.
Bồ-tát Đại Huệ nghi rằng ba tự tánh đều có tự thể riêng, mà Phật nói nó vào trong năm pháp, như vậy là sao?
Phật trả lời tổng quát cả ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã đều nằm trong năm pháp. Trước tiên, hai pháp danh và tướng là tự tánh vọng tưởng. Vọng tưởng cũng chính là tánh Biến kế sở chấp, y vọng tưởng mà sanh ra tâm vương, tâm sở. Vọng tưởng và tám thức nương nhau sanh đồng thời như có mặt trời thì có ánh sáng, nương nhau sanh là Y tha khởi tánh. Như vậy Biến kế và Y tha cũng từ danh, tướng, vọng tưởng mà ra. Còn chánh trí và như như đều bắt nguồn từ chân tâm nên không bị tiêu hoại, gọi là Viên thành thật tánh.
Đây nói ba thứ tự tánh, tám thức, hai thứ vô ngã thảy vào năm pháp. Vả lại trước nói ba tự tánh vào năm pháp. Danh tướng không tánh, vọng chấp mà thành, cho nên nhiếp danh tướng thảy là Biến kế chấp. Y danh tướng vọng chấp mà khởi phân biệt, tâm tâm số pháp một lúc chóng hiện không có trước sau, như mặt nhật và ánh sáng, gọi là Duyên khởi tánh. Nếu đạt vọng chấp danh tướng vốn không tự tánh, tâm tâm số pháp liền đó tiêu sạch, tiêu sạch tâm theo tướng thì trí chiếu sáng ngời, liễu đạt tướng không tánh, chân như hiển bày, nên gọi là Viên thành thật tánh.
Trước phân tích ba tự tánh gồm trong năm pháp. Danh và tướng vốn không có tánh thật, theo vọng chấp mà có tên gọi, có hình tướng, nên nhiếp thuộc về tánh Biến kế chấp. Kế đến là tám thức tâm vương tâm sở đều y vọng chấp mà sanh, nên tám thức này nhiếp thuộc tánh Y tha duyên khởi. Nói chỗ sanh khởi tám thức, cũng ngay đó chỉ chỗ trừ diệt, tức là thấu đạt danh tướng không có tánh thật thì các thức không có chỗ nương, không dấy vọng tưởng, các thứ thức tâm duyên danh tướng ngay đó liền được tiêu sạch. Tâm vọng dứt trừ thì chánh trí hiện tiền, cũng ngay nơi danh tướng mà đạt như như, viên thành.
Lại nữa, Đại Huệ! Tự tâm hiện vọng tưởng có tám thứ phân biệt. Nghĩa là tướng thức tàng, ý, ý thức và năm thức thân, tướng chẳng thật vì vọng tưởng. Ngã và ngã sở hai cái nhiếp thọ diệt thì hai vô ngã sanh. Thế nên, Đại Huệ! Năm pháp này Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai tự giác Thánh trí, các địa tương tục thứ lớp, tất cả Phật pháp thủy vào trong ấy.
Phật thâu tóm cả tám thức và hai vô ngã đều nhiếp thuộc năm pháp. Bởi vì tướng của tám thức đều không thật, khởi lên từ vọng tưởng, chúng không ra ngoài vọng tưởng. Cũng vì vọng tưởng nên có phân biệt về ngã, ngã sở. Nếu vọng tưởng diệt thì ngã và ngã sở cũng trừ diệt, lúc đó nhân vô ngã và pháp vô ngã hiện tiền. Tất cả quả vị tu chứng của Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai tự giác Thánh trí đều nằm trong năm pháp.
Cách tu trong nhà thiền rất đơn giản. Mỗi khi dấy khởi nghĩ đều nói là vọng tưởng, không phân biệt tâm sở thiện hay tâm sở bất thiện. Thiền sư Vô Nghiệp khi gặp người hỏi câu gì đều bảo “Chớ vọng tưởng”. Đó là nắm ngay chỗ cốt yếu, không cần dài dòng. Khi biết là vọng tưởng thì trở thành chánh trí, như như. Học đạo là học cách trở về chân thật, không phải học chia chẻ chi ly các tướng bên ngoài. Hiện tại, chúng ta muốn được hai vô ngã thì không nên chấp thân thật, các pháp thật. Thân tâm là năng nhiếp, ngoại cảnh là sở nhiếp, hai cái đó không chấp thì nhiếp thọ diệt, tức thành vô ngã. Chỗ này chư Phật đều thấy rõ, tất cả Phật pháp đều nằm trong năm pháp không có chi nhiều.
Đây nói tám thức hai vô ngã vào năm pháp. Chẳng giác tự tâm hiện ra, tám thứ thức tướng một lúc chóng sanh, mỗi cái có tự loại lập bày vọng tưởng, năng vọng sở vọng, nhân pháp rõ ràng. Nếu giác tự tâm hiện ra thì kiến phần, tướng phần như băng tiêu dung, liền chuyển tâm, ý, ý thức mà làm tử trí, năng thủ sở thủ không, trí và tịch lẫn nhau hiển hiện. Cho nên, Nhị thừa, Bồ-tát, Như Lai đã có trí địa tự giác thảy vào năm pháp.
Tất cả pháp đều tự tâm hiện, giác ngộ điều này mới thấy tất cả năng sở tiêu tan như băng gặp nước sôi. Sở dĩ có tàng thức và các thức phát sanh đều từ vô minh bất giác vọng chấp năng sở, nay năng sở đều tiêu mất thì tám thức chuyển thành bốn trí. Năng thủ là tâm, sở thủ là cảnh đều không. Trí và tịch lẫn nhau hiển hiện, trí là chánh trí, tịch là như như cùng nhau hiển hiện.
Lại nữa, Đại Huệ! Năm pháp là danh, tướng, vọng tưởng, như như, chánh trí. Đại Huệ! Tướng là nếu ở chỗ hình tướng sắc tượng v.v… hiện, ấy gọi là tướng. Nếu kia có tướng như thế gọi là bình v.v… Tức cái này không phải cái khác, ấy nói là danh. Lập bày các danh, hiển hiện các tướng bình v.v… Nơi tâm tâm pháp, ấy gọi là vọng tưởng. Danh kia tướng kia cứu kính không thể được, trước sau không giác, nơi các pháp không triển chuyển, lìa vọng tưởng chẳng thật, ấy gọi là như như.
Đoạn này Phật nói rõ về tất cả Phật pháp nằm trong năm pháp nhưng thứ tự có đổi khác, Tướng là hình tướng sắc tượng, khi đặt tên tướng đó là cái bình chẳng hạn, tên ấy xác định tướng cái bình không phải tướng khác, nên nói cái này không phải cái khác. Từ tướng mà lập danh, chấp chặt không thoát được, nên đoạn này nêu tướng lên trước danh.
Lập bày tên gọi, biểu hiện hình tướng cho nên có năng sở đối nhau, các thức tâm vương, tâm sở đều y cứ vào danh tướng mà khởi vọng tưởng phân biệt. Đó là theo nhận thức của phàm ngu. Cũng ngay nơi danh tướng đó, tìm kiếm tột cùng không có thật thể gọi là cứu kính không thể được. Vì thấy các pháp không thật nên không tìm cầu tham đắm, gọi là trước sau không giác, nơi các pháp không triển chuyển. Đối với danh tướng không dấy niệm phân biệt, giải thích hay chia chẻ gì cả, gọi là lìa vọng tưởng chẳng thật, là như như.
Chân thật quyết định cứu kính tự tánh không thể được, kia là như tướng, ta tức chư Phật tùy thuận nhập xứ, khắp vì chúng sanh như thật diễn nói lập bày hiển thị, nơi kia tùy nhập Chánh giác chẳng đoạn chẳng thường, vọng tưởng chẳng khởi, tùy thuận tướng tự giác Thánh thú, mà tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác không đạt được, ấy gọi là chánh trí. Đại Huệ! Ấy gọi là năm pháp, ba thứ tự tánh, tám thức, hai thứ vô ngã, tất cả Phật pháp thảy vào trong ấy. Thế nên, Đại Huệ! Phải tự phương tiện học, cũng dạy người khác, chớ theo nơi nào.
Tướng như như chân thật này là chỗ đức Phật Thích-ca và tất cả chư Phật nhận được, theo đó vì chúng sanh diễn bày chỗ như thật để thức tỉnh cho họ giác ngộ. Nơi kia tùy nhập chẳng đoạn chẳng thường, tức là khiến chúng sanh được vào Chánh giác không vướng kẹt bên đoạn bên thường, không khởi vọng tưởng. Như vậy chánh trí ở đoạn trước là chánh trí của mình tự nhận được, chánh trí ở đoạn này là do Phật giáo hóa dẫn dắt chúng sanh, vì thế đặt sau như như.
Đây nói tất cả Phật pháp đều vào năm pháp. Giải thích lại năm pháp, chỉ người tùy thuận chánh trí, như như. Thứ lớp chứng được nên gọi là phương tiện. Xét nói, nhân tướng được danh, theo danh hiển tướng, lập bày vọng tưởng, thảy hiển tất cả danh tướng đều không thể được. Trước sau không giác, đối trong các pháp không có triển chuyển, chỉ lìa vọng tưởng tức là như như. Đây là tất cả pháp tự tướng chân như, thập địa Bồ-tát chỗ chứng có cạn sâu, chẳng phải hàng Nhị thừa, nên nói “Ta và chư Phật tùy thuận nhập xứ”. Vô phân biệt trí duyên chân như cảnh, nếu duyên các duyên khác thuộc về hậu đắc trí.
Vô phân biệt trí là trí không phân biệt, ví dụ chúng ta nhìn sự vật, thấy biết rõ mà không khởi niệm chê khen, thương ghét. tất cả sáng tỏ mà không phân biệt nên gọi là Vô phân biệt trí, Trí đó thuộc về thể, là cội gốc của tất cả hiểu biết nên cũng gọi là Căn bản trí. Nếu duyên các duyên khác gọi là Hậu đắc trí, tức là từ Căn bản trí tùy duyên hóa độ chúng sanh, tùy theo trình độ sai biệt cao thấp, nhanh chậm, đối các duyên sai khác ứng dụng trí tuệ sai khác để giải thích cho họ hiểu, trí biết sai biệt nên gọi là sai biệt trí, cũng gọi là hậu đắc trí.
Song hai trí, thể một mà dụng khác, liễu tục cũng do chứng chân, nên hai trí đều do chân như bày hiện. Tùy thuận hai trí đã chứng chân như được vào Chánh giác, đến chỗ cứu kính phi thường phi đoạn, hiện tha thọ dụng thân độ và biến hóa thân độ, như thật diễn nói, phá các lưới nghi, nên nói “Tất cả Phật pháp thảy vào năm pháp, do tự chứng biết chẳng từ nơi khác được”.
Hai trí này đều không rời như như nên thể là một, nhưng dụng có khác vì tùy chúng sanh phân biệt diễn nói. Nơi trí căn bản thì tịch lặng, nơi trí sai biệt thì chiếu soi không sai lầm. Liễu tục cũng do chứng chân, rõ biết tục đế là do chứng chân đế, cũng như biết cái thật rồi mới phân biệt được cái giả. Hậu đắc trí hay vô phân biệt trí đều từ chân như lưu xuất.
Do được hai trí này nên thành Phật gọi là giác ngộ viên mãn, lúc đó hiện thân và cõi tha thọ dụng. Thân Phật có chia ra tự thọ dụng và tha thọ dụng. Tự thọ dụng là thân chính Phật tự biết tự thọ hưởng, chúng sanh không thể thấy biết. Tha thọ dụng thân là thân tướng hiện ra để độ chúng sanh. Tha thọ dụng độ là cảnh của Phật hiện ra để chúng sanh nương đó tu tập, như cõi Cực lạc của Phật A-di-đà…
Ví như sự tỉnh giác của tôi ít ỏi, so với chư Phật Bồ-tát chỉ như hạt cát trong sa mạc, nhưng từ thân và lời nói của tôi có thể giúp mọi người học hiểu tu tập, đó là tha thọ dụng thân. Khi phát tâm tu thì tôi xây dựng thiền viện, tạo phương tiện để mọi người được thọ nhận, đó là tha thọ dụng độ. Tùy theo sức của chúng ta có thể giúp chúng sanh đôi phần. Chư Phật, Bồ-tát giác ngộ viên mãn thì thân và độ trùm khắp, giúp chúng sanh thọ hưởng đầy đủ không nghi.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Năm pháp ba tự tánh
Và cùng tám thứ thức
Hai thứ không có ngã
Thủy nhiếp thuộc Đại thừa.
Đây tóm lại nói năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai thứ vô ngã đều nhiếp thuộc Đại thừa. Đại thừa tức là tự tâm hiện lượng.
Danh tướng hư vọng tưởng
Tự tánh hai thứ tướng
Chánh trí và như như
Ấy tức là thành tướng.
Danh tướng và vọng tưởng thuộc về hai tánh Biến kế, Y tha. Chánh trí như như là tướng Viên thành thật.
Kệ tụng năm pháp, tự tánh, tám thức, vô ngã thảy nhiếp Đại thừa, Đại thừa là tự tâm hiện lượng. Mê tự tâm lượng thì danh tướng lăng xăng, trí như lẫn biển, y tha cho là riêng có, kế chấp ắt đợi viên thành. Muốn phá vô minh của tám thức thì sở tri của hai cái ngã phải tiêu dung, đến nơi giác còn khởi quán gì? Mộng qua sông nhớ lại lặng câm, phải tự dứt bặt vậy.
Tóm lại, tất cả năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã đều là tự tâm hiện lượng. Khi mê thì thấy có danh tướng thật nên chánh trí như như cũng thật. Tám thức lăng xăng, muốn trừ dẹp biến kế chấp phải đợi trí Viên thành. Khi giác thì tất cả các pháp tiêu dung, không còn tâm năng quán và cảnh sở quán, không cần khởi trí quán. Như chúng ta nằm mộng thấy nương thuyền để qua sông, trong mộng thấy tất cả thật có. Tỉnh mộng thì tất cả chuyện qua sông đều không thật, lúc ấy không cần phải nói phải kể lại. Cũng vậy, khi mê thì tất cả việc dụng công tu hành tưởng như thật có, nhưng khi tỉnh giác thì tất cả đều không thật, việc tu không thật, chỗ chứng cũng không thật, đó gọi là mộng qua sông đã tỉnh.
Có bốn:
Có mười:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Như Thế Tôn đã nói “Quá khứ chư Phật như hằng hà sa, vị lai hiện tại cũng lại như thế”. Thế nào Thế Tôn là như nói mà tín thọ hay lại có nghĩa khác? Cúi xin Như Lai thương xót giải nói.
Ý ngài Đại Huệ hỏi về chỗ Phật ví dụ chư Phật ba đời như cát sông Hằng, như thế thì chúng sanh nên theo lời Phật nói mà tin nhận, hay ví dụ đó có nghĩa gì khác?
Cảnh giới chư Phật bất khả tư nghì, cảnh giới Phật trí bất khả tư nghì, cảnh giới chúng sanh bất khả tư nghì, cảnh giới vọng tưởng bất khả tư nghì, bất khả tư nghì này đồng pháp giới tánh, không thiếu không dư, chẳng ra chẳng vào, không thể chỉ bày, cũng chẳng phải không nói. Đây nhân dụ hằng hà sa Phật riêng hiển nghĩa này. Trừ vì chúng sanh phương tiện dẫn ví dụ, nơi câu vô nghĩa để thông chân thật thì chẳng phải nhất thiết trí đâu hay dự vào đây.
Vì lợi ích chúng sanh nên Phật dẫn ví dụ này ví dụ kia, đó chỉ là phương tiện. Chỗ chân thật của chư Phật chỉ người được nhất thiết trí mới có thể hiểu, chỗ này không thể hỏi nói.
Phật bảo Đại Huệ: Chớ như nói mà tín thọ, số lượng chư Phật ba đời chẳng phải như hằng hà sa, Vì cớ sao? Vì quá chỗ nghĩ của thế gian, chẳng phải ví dụ và sở ví dụ, do phàm ngu chấp thường, ngoại đạo vọng tưởng nuôi lớn ác kiến sanh tử không cùng, muốn khiến nhàm lìa vòng sanh tử, chuyên cần thắng tiến, nên vì họ nói chư Phật dễ thấy, chẳng phải như hoa ưu-đàm-bát khó được thấy.
Phật dùng ví dụ chư Phật nhiều như cát sông Hằng, nghĩa là Phật rất dễ gặp, chư Phật không thiếu. Ở đây, Phật bảo ngài Đại Huệ không nên hiểu theo ngôn thuyết. Cát sông Hằng là vật có thể thấy, có thể suy lường, chư Phật ba đời không thể dùng tâm lượng suy nghĩ đo lường, không thể dùng ví dụ mà hiểu. Chỉ vì chúng sanh lầm chấp, ngoại đạo tà kiến nuôi lớn sanh tử không cùng tận, muốn mọi người phát tâm vượt khỏi sanh tử, một lòng cầu tiến lên quả vị Phật, nên có khi Thế Tôn nói chư Phật dễ thấy, bình thường như cát sông Hằng, không phải quý hiếm khó gặp như hoa Ưu-đàm. Đó là lời dẫn dụ khuyến khích chúng sanh.
Một ý nghĩa khác, khi nói chư Phật nhiều như cát sông Hằng cũng ý chỉ là trong mỗi chúng sanh đều có tri kiến Phật, Chúng sanh rất nhiều nên chư Phật rất nhiều, chỉ vì chúng ta không nhận ra.
Chúng sanh có nhiều bệnh nên Phật dùng nhiều lối nói để trị bệnh. Đối với người tu mong cầu thành Phật, trải qua thời gian lâu không thấy Phật ra đời, sợ họ thối chí không tiến lên, Phật dẫn dụ rằng ba đời chư Phật rất nhiều, chỉ cần cố gắng tu thì gặp không khó. Đó là ẩn dụ, khi nghe phải khéo nhận.
Dứt phương tiện cầu, có khi lại xem các người thọ hóa khởi nói thế này, Phật khó được gặp như hoa Ưu-đàm-bát. Hoa Ưu-đàm-bát không ai đã thấy, hiện thấy, sẽ thấy. Như Lai thế gian thảy thấy, vì chẳng do kiến lập tự thông, nói rằng Như Lai ra đời như hoa Ưu-đàm-bát. Đại Huệ! Tự kiến lập tự thông quá chỗ nghĩ của thế gian, các phàm ngu kia không thể tin. Cảnh giới tự giác Thánh trí, không cùng cái gì ví dụ được. Chân thật Như Lai quá tướng tâm ý ý thức được thấy, không thể làm ví dụ. Đại Huệ! Song ta nói ví dụ Phật như hằng hà sa không có lỗi lầm.
Dứt phương tiện cầu, nghĩa là ngăn dứt các cách tìm kiếm Phật, vì Phật không phải là vật bên ngoài để có thể tìm cầu. Vì muốn chúng sanh dứt tâm tìm cầu nên Thế Tôn nói Phật khó được gặp như hoa Ưu-đàm. Hoa Ưu-đàm chỉ nghe nói chứ chưa ai được gặp, như ngày xưa những người cố cựu hay nói “Ai thấy hoa sung thì người đó giàu.” Nói hoa sung là một lối nói ám chỉ những điều khó thấy khó gặp.
Trong trường hợp gặp những chúng sanh giải đãi, buông xuôi theo thường tình, nếu nói Phật dễ gặp họ sẽ không nỗ lực, nên nói Phật khó gặp như hoa Ưu-đàm ngàn năm mới trổ hoa. Chúng sanh này nghe nói như vậy sẽ cố gắng tinh tấn hơn, không dám lơ là, biết mình ra đời gặp giáo pháp Phật là điều rất quý, nên phải gắng tu thêm.
Như vậy những ví dụ như cát sông Hằng, như hoa Ưu-đàm-bát, đó là lối nói phương tiện, không kiến lập tự thông. Kiến lập từ thông là lập bày chỗ chân thật, là cảnh giới tự chứng của Phật. Chỗ này vượt hẳn suy nghĩ hiểu biết của thế gian, nên Phật không nói đến, gọi là Chân thật Như Lai quá tướng tâm ý ý thức được thấy, không thể làm ví dụ.
Đoạn này đức Phật vừa nêu trường hợp có những ví dụ khác nhau vì tùy bệnh chúng sanh, như bác sĩ cho thuốc không phải một thứ. Đồng thời cũng nêu chỗ tự thông không thể dùng ví dụ, để ngăn chúng ta không nên một bề tin theo ví dụ. Các ví dụ có giới hạn của nó, ví dụ chỉ là tương tự, không đúng với những gì Phật thấy biết.
Số lượng ba đời chư Phật chẳng phải như hằng hà sa, quá chỗ nghĩ của thế gian, chẳng phải quen đen thí và sở thí, đây là Như Lai chân ngữ như ngữ. Trước vô thượng diệu đế, chỉ chứng tự biết. Song do chúng sanh hy vọng, vì đoạt cái hư ngụy kia, quyền chỉ chân thật, bảo có chư Phật chẳng phải như Ưu-đàm, hoặc nói như hoa Ưu-đàm để chỉ khó gặp, mà chẳng phải để kiến lập tự thông. Cảnh giới tự thông chẳng phải tướng có thể thấy, chẳng phải tướng chẳng thấy. Hành xứ chân thật của Như Lai quá tất cả kiến tướng của tâm ý ý thức, không thể ví dụ. Lại nói “song ta nói ví dụ Phật như hằng sa cũng không có lỗi lầm”, là Thánh trí bên cạnh tự thông tùy nói mà chỉ bày, chẳng phải chỗ hay thấy của Nhị thừa và Bồ-tát thỉ giáo. Văn sau rộng chỉ nghĩa này, duy phải tỏ ngộ.
Cảnh giới tự thông chẳng phải tướng có thể thấy, vì không phải là pháp hữu vi có tạo tác, không phải là đối tượng nhận thức. Đồng thời cảnh giới đó chẳng phải tướng chẳng thấy, vì chẳng phải là hư vô rỗng không, người tu hành đạt ngộ đều nhận được.
Phật dùng ví dụ như cát sông Hằng cũng có những ý nghĩa khác, nên văn sau sẽ nói rõ.
Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng tất cả cá, trạnh, thân thu ma-la, sư tử, voi, ngựa, người, thú giẫm đạp, cát chẳng nghĩ rằng kia não loạn ta mà sanh vọng tưởng, tự tánh thanh tịnh không các nhơ nhớp.
Đức Phật dùng cát sông Hằng để ví dụ cho pháp thân hằng tịch tĩnh, chẳng có gì làm não loạn, cũng không bị dấy động. Dù tất cả người thú dẫm đạp, cát không khởi niệm buồn phiền. Chúng ta thường nghe nói đất có tính kham nhẫn chứa đựng bao dung muôn vật, cát sông Hằng ở đây cũng như thế.
Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, tự giác Thánh trí là sông Hằng, đại lực thần thông tự tại… là cát. Tất cả ngoại đạo các người thú… tất cả não loạn, Như Lai chẳng nghĩ mà sanh vọng tưởng. Như Lai lặng lẽ không có niệm tưởng. Như Lai bản nguyện lấy cái vui tam muội vì an chúng sanh, không có não loạn, ví như cát sông Hằng đồng không có khác, lại vì đoạn tham sân.
Nói về bản chất, hoặc nói về diệu dụng số nhiều như cát đều từ sông Hằng phát xuất. Bản nguyện Như Lai vì muốn chúng sanh an vui, cũng như cát sông Hằng, chúng sanh có đi đứng dẫm đạp trên đó nó cũng không tham sân, để nói lên tính cách vô vi tĩnh lặng của pháp thân Phật.
Về sau đều tức nơi hằng sa nói rộng nghĩa Phật, mà đây lại dụ Như Lai pháp thân bản tịch. Như Lai tự giác Thánh trí có hằng sa đại lực, thần thông tự tại, bị tất cả ngoại đạo, người, thú não loạn mà tánh cát giác thể vẫn tịch, không có niệm tưởng. Chỉ dùng bản nguyện an lạc quần sanh, khiến họ tự giác không có tham sân. Thế mới biết, tất cả chúng sanh tự ở trong cũng có cát giác, mà từ vô thỉ đến nay bị các tà kiến người thú giẫm đạp trọn không chán lìa, lặng lẽ đến nay không thêm không bớt.
Thể tịch lặng của pháp thân Như Lai chính là thể tịch lặng nơi mỗi chúng sanh. Tánh giác nơi mỗi chúng sanh giống như cát sông Hằng, mỗi người đều có hạt cát giác đó. Từ vô thỉ đến nay bị tà kiến che mờ, dẫn đi trong lục đạo mà tánh giác không thêm không bớt.
Chỉ dùng chân như bản nguyện an lạc tất cả chúng sanh niệm niệm khởi diệt, khiến trụ pháp vị không có não loạn. Ví như cát sông Hằng là vì đoạn tham sân, mà tất cả chúng sanh không tự giác biết, thấy là Như Lai chư Phật như cát sông Hằng kia.
Dùng ví dụ cát sông Hằng để chỉ cho chỗ sử dụng hằng ngày của chúng sanh mà không nhận ra. Vì bản nguyện làm an lạc cho chúng sanh mà luôn luôn lặng lẽ không khởi diệt. Mọi người đều an trụ nơi pháp vị vẫn thường trụ trên đất cát kham nhẫn mà không tự biết, cũng không tự mình nhận ra tính kham nhẫn của chính mình.
Thí như cát sông Hằng là tự tánh của đất này, khi kiếp tận lửa cháy, cháy tất cả đất, mà địa đại kia chẳng bỏ tự tánh, vì cùng hỏa đại đồng sanh. Còn ngoài ra kẻ ngu khởi tưởng đất bị cháy, mà đất chẳng bị cháy, vì là nhân của lửa. Như thế, Đại Huệ! Như Lai Pháp thân như cát sông Hằng chẳng hoại.
Đây thêm một ví dụ, Như Lai như cát sông Hằng, vì tánh không hoại. Khi kiếp tận, lửa đốt cháy cả địa cầu, từ cõi Phạm thiên nhìn xuống thấy cõi đất này như cái hoa đèn gần tàn. Nhưng ở đây Phật nói dù thiêu đốt như vậy, tánh địa đại vẫn không tổn hoại, vì tánh của đất và lửa đồng một thể, và vì đất là nhân phát sanh ra lửa, nên lửa không đốt cháy đất. Dùng ví dụ pháp thân như cát sông Hằng để ẩn dụ mọi vật chuyển biến nhưng pháp thân không chuyển biến.
Đây dụ Như Lai Pháp thân thường trụ chẳng diệt, thí như cát sông Hằng, đồng với cái kiên cố này là tự tánh đất, cùng hỏa đại đồng sanh. Lửa nhân đất mà được tánh cháy, đất nhân lửa mà được lý sanh, đều không có nghĩa cháy hết.
Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng không có hạn lượng, Như Lai quang minh cũng lại như thế, không có hạn lượng, vì thành thục chúng sanh khắp soi tất cả chư Phật đại chúng.
Cát sông Hằng nhiều không thể tính đếm, không có hạn lượng. Ánh sáng của Như Lai cũng không hạn lượng, chiếu soi khắp tất cả không riêng nơi nào, cũng không lựa chọn chiếu chỗ này không chiếu chỗ khác. Tất cả đều vì lợi ích chúng sanh.
Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng riêng cầu cát khác hằng không thể được. Như thế, Đại Huệ! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác không sanh tử sanh diệt, vì có nhân duyên đoạn vậy.
Trí tuệ giác ngộ viên mãn gọi là pháp thân bản tịch trùm khắp, không thiếu vắng một chỗ nào. Như cát sông Hằng, ở bờ này hay bờ kia cũng là cát sông Hằng, không nói là cát của sông khác. Tất cả chúng sanh đều ở trong ánh sáng của chư Phật, không nơi nào không có ánh sáng. Tính chất không sanh tử đoạn diệt của Như Lai, như tánh của cát sông Hằng không thể tìm thấy trong loại cát khác. Pháp thân không sanh diệt không thể tìm bên ngoài mà có được.
Đây dụ Như Lai Pháp thân khắp tất cả chỗ không có lựa chọn. Tự tâm hiện lượng khắp giáp sa giới, tất cả tiếng là tiếng Phật, tất cả sắc là sắc Phật, nên nói “không có cát khác”.
Tất cả tiếng là tiếng Phật, tất cả sắc là sắc Phật, khi chúng ta mê thì tất cả tiếng là tiếng thế gian và sắc thế gian, nếu chúng ta giác thì tất cả sắc là sắc Phật, tất cả tiếng là tiếng Phật. Như ở đoạn trước nói cũng danh tướng ấy chấp thật thì tất cả là thế gian lưu chuyển, nếu biết nó là duyên hợp hư dối không thật, biết rõ không chấp, ngay nơi danh tướng ấy mà giác ngộ. Như vậy nghe tiếng tức là danh, thấy hình tức là sắc, biết rõ không thật thì tất cả đều mang tính giác ngộ là tính Phật.
Có nhân duyên đoạn là lại phòng lỗi tự nhiên. Như Lai đã chỉ cho người lấy sự nhật dụng hồn nhiên, không phải chẳng quấy, mà lại hiển ý chỉ vô cấu thanh tịnh, có thể gọi là lẫn nhau phát minh.
Phòng lỗi tự nhiên, nghĩa là Phật không phải tự nhiên thành, do nhân duyên đoạn dứt sanh tử mà thành Phật. Ngài Hàm Thị tán thán Phật đã chỉ cho chúng ta chỗ dùng hằng ngày hồn nhiên, rõ ràng có sẵn khắp giáp mọi nơi, chạm mắt nghe tiếng đều hiển hiện tánh giác. Cũng nói lên tính chất không nhơ không sạch, không phải không quấy của cát sông Hằng, thật là phù hợp để phát minh tánh giác.
Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng thêm bớt không thể biết. Như thế, Đại Huệ! Như Lai trí tuệ thành thục cho chúng sanh chẳng thêm chẳng bớt, vì chẳng phải thân pháp. Thân pháp là có hoại, pháp thân Như Lai chẳng phải thân pháp.
Tin Cát sông Hằng rất nhiều, có thêm hay bớt chúng ta cũng không biết, trong bãi cát mênh mông không thể thấy sự tăng giảm. Cũng vậy, trí tuệ chư Phật làm lợi ích chúng sanh không thêm không bớt. Vì chẳng phải thân pháp, thân pháp là thân có hình tướng đến đi hoại diệt, trí tuệ Phật là pháp thân không phải thân pháp. Chỉ đổi thứ tự của chữ mà ý nghĩa khác nhau, nên nói thân pháp là có hoại, pháp thân Như Lai chẳng phải thân pháp.
Đây dụ Pháp thân ứng hiện không có thêm bớt. Chúng sanh duyên thành thục tức thấy Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, nói pháp độ sanh, vào Niết-bàn, mà Như Lai Pháp thân vốn không đi, lại, cũng không có tâm hiện. Có đi có lại ấy là thân pháp, mà Như Lai chẳng phải là thân pháp, không thể phá hoại. Nên nói “tùy duyên phó cảm đâu chẳng khắp, mà thường ngồi tòa bồ-đề này”.
Chúng ta thường nghe nói “Ngàn sông có nước ngàn trăng hiện.” Như đêm rằm trăng sáng, trên trời có mặt trăng thì ở dưới bao nhiêu sông hồ ao suối… đều thấy có bóng mặt trăng. Mặt trăng có đi đến sông hồ ao… không? Không đi đến nhưng nơi nào có nước thì có hiện bóng trăng. Để ví dụ cho chúng sanh đủ nhân duyên thì thấy Như Lai có thành Phật thuyết pháp, nhập Niết-bàn. Pháp thân Phật vốn không đến đi, cũng không có tâm hiện nơi này nơi khác. Chỉ tùy duyên thành thục của chúng sanh mà thấy có thân Phật đến đi, đó là thân pháp, tức là thân ứng hóa. Thân ứng hóa nên có đản sanh, xuất gia, thành đạo, nhập Niết-bàn, cũng ứng hiện sanh tử như mọi người. Chúng sanh gặp được thân ứng hóa của Phật, cũng là duyên cơ cảm. Như khi chúng ta tu tâm được thanh tịnh thì thấy Phật hiện đến xoa đầu thọ ký như trong kinh thường nói. Thấy Phật là tâm chúng ta thấy, không phải Phật có đến đi, nên đây ví dụ cát sông Hằng không thêm không bớt. Tuy pháp thân không đến đi, nhưng tùy duyên hiện khắp, tùy duyên hiện khắp mà không rời tòa bồ-đề. Đó cũng là hình ảnh mặt trăng thường lặng lẽ trên hư không, nhưng rọi bóng khắp các dòng nước.
Như ép cát sông Hằng không thể được dầu. Như thế, tất cả chúng sanh tột khổ ép ngặt Như Lai. Cho đến chúng sanh chưa được Niết-bàn, chẳng bỏ pháp giới, tự tam muội nguyện lạc vì do đại bi.
Ép cát không bao giờ có thể ra dầu, để ví dụ Như Lai dù bị chúng sanh dùng các cách độc ác làm hại, Ngài cũng không sân giận, chúng sanh còn khổ chưa được Niết-bàn, Ngài không bỏ bi nguyện. Ví dụ này khẳng định một điều không thể xảy ra, là Phật xa lìa chúng sanh. Cũng ngụ ý trong tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, dù chúng sanh chịu khổ vô cùng ở địa ngục, Phật tánh không mất.
Đây dụ Như Lai bi nguyện đồng với pháp giới. Dầu là ví dụ Như Lai tâm niệm mỏi chán. Như Lai dùng mười câu vô tận, thành tựu chúng sanh khổ tột ép ngặt, không có chán bỏ, do đại bi làm thành.
Dầu là ví dụ Như Lai tâm niệm mỏi chán, nghĩa là chừng nào ép cát ra dầu thì Phật mới có tâm chán bỏ chúng sanh. Tôi cũng từng nói Phật không bao giờ bỏ chúng ta, chỉ có chúng ta bỏ Phật. Chúng ta tu mà không làm theo lời Phật dạy, tức là bỏ Phật. Kinh Pháp Hoa, phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát nói lên ý nghĩa không chán mỏi này. Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng bái lạy nói: “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài sẽ thành Phật.” Dù gặp người phẩn nộ mắng chửi, ném đá… Ngài cũng đứng ở xa lễ lạy. Nhờ gieo hạt giống Phật như vậy nên khi Ngài thành Phật, những người chống đối cũng được gặp Ngài và thành tựu Phật quả. Bồ-tát Thường Bất Khinh là tiền thân của Phật Thích-ca, bi nguyện mạnh mẽ trong lúc làm Bồ-tát của Ngài là như vậy.
Đại Huệ! Thí như cát sông Hằng theo nước mà trôi, chẳng phải không nước. Như thế, Đại Huệ! Như Lai nói ra tất cả các pháp theo dòng Niết-bàn. Thế nên nói như cát sông Hằng.
Cát sông Hằng trôi theo dòng nước, không có cát nào không trôi theo nước, cũng như tất cả pháp Phật nói ra cũng đều trôi theo dòng Niết-bàn, không pháp nào không đưa đến Niết-bàn. Chúng ta y theo lời Phật dạy, đều đạt đến Niết-bàn. Như trong các kinh A Hàm, Phật dạy về Tứ niệm xứ. Người nào trụ tâm nơi Tứ niệm xứ trong bảy ngày đêm thì chứng từ Sơ quả đến Tứ quả. Người niệm Phật nhất tâm bất loạn từ một đến bảy ngày cũng được vào Niết-bàn gặp Phật. Pháp chúng ta đang học trong kinh Lăng Già này cũng vậy. Người nào giác biết thân và cảnh này đều do vọng hiện không thật, biết không thật thì không chấp ngã ngã sở, được vô ngã thì thẳng vào Niết-bàn, gọi là được tự giác Thánh trí. Như vậy tất cả kinh từ hệ A Hàm đến Đại thừa đều chỉ dạy con đường đến Niết-bàn, không nói gì khác.
Như Lai chẳng theo các dòng (khứ) di chuyển, vì đi là nghĩa hoại. Đại Huệ! Sanh tử bản tế không thể biết, vì không biết làm sao nói đi? Đại Huệ! Đi đó là nghĩa đoạn mà kẻ ngu chẳng biết.
Đoạn trên nói Như Lai tùy thuận dòng Niết-bàn, đến đây nói Như Lai không lưu chuyển theo dòng, vì lưu chuyển là nghĩa hoại. Như Lai là thể thường trụ, không đi không đến, pháp Phật dạy cũng thường trụ, sở dĩ nói theo dòng Niết-bàn là diễn tả tính chất tùy thuận. Tất cả chúng sanh đều ở trong Niết-bàn, chỉ vì mê nên thấy có sanh tử lưu chuyển. Chỗ gốc mê rất khó biết nên nói Sanh tử bản tế không thể biết. Ví dụ người đang ở trong thiền viện tu yên ổn, chợt hôm nào tâm niệm cuồng loạn khởi lên muốn bỏ đi. Tâm cuồng loạn đó gốc từ đâu, chúng ta không thấy, nhưng một khi mê tức là trôi đi. Đến lúc nào tỉnh mới tìm đường về, nhận ra chỗ trở về là biết xưa nay mình vốn thanh tịnh. Cội gốc mê sâu kín khó biết nên người tu phải tỉnh thức thường xuyên.
Đây dụ Như Lai Pháp thân tùy thuận Niết-bàn. Nếu chẳng tùy thuận là bị dòng sanh tử chuyển, thành nghĩa đoạn diệt. Sanh tử bản tế tức là Niết-bàn bản tế, do chẳng biết thì chẳng tùy thuận, khởi tưởng đi là hoại. Đi là nghĩa đoạn, mà Như Lai Pháp thân chẳng đoạn.
Có đi là có sanh diệt, bởi khởi tưởng mê loạn nên đi theo dòng sanh tử. Tỉnh giác là tùy thuận Niết-bàn, trở về chỗ chân thật. Sanh tử bản tế tức là Niết-bàn bản tế, nghĩa là thấy được gốc mê tức ngay đó tỉnh ngộ. Biết chỗ lầm của mình thì không còn lầm lạc, như người ngay góc đường đó bị lạc, khi thấy chỗ quên đường thì tự nhiên nhớ ra đường cũ, từ đó đi thẳng trở về nhà.
Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Nếu chúng sanh sanh tử bản tế không thể biết, làm sao giải thoát có thể biết? Phật bảo Đại Huệ: Nhân tập khí vọng tưởng lỗi ác hư ngụy từ vô thỉ diệt, tự tâm hiện biết nghĩa bên ngoài, vọng tưởng thân chuyển mà giải thoát chẳng diệt. Thế nên vô biên chẳng phải hoàn toàn không có. Vì vọng tưởng kia khởi vô biên tên khác. Quán sát trong ngoài lìa nơi vọng tưởng, không có chúng sanh khác, trí và sở tri tất cả các pháp thảy đều tịch tĩnh. Chẳng biết tự tâm hiện vọng tưởng nên vọng tưởng sanh, nếu biết thì diệt.
Bồ-tát Đại Huệ hỏi Phật, nếu chúng sanh không biết bản tế sanh tử làm sao biết giải thoát?
Phật dạy tuy nhiều nhưng chủ yếu là tập khí vọng tưởng, đó là cội gốc sanh tử. Muốn giải thoát thì phải dứt trừ lỗi tập khí hư ngụy vọng tưởng. Vọng tưởng dứt thì tự tâm thanh tịnh biết rõ các pháp bên ngoài không thật, gọi là tự tâm hiện biết nghĩa bên ngoài. Không còn bị vọng tưởng trói buộc tức là giải thoát. Vọng tưởng vô lượng nên giải thoát vô biên, như chúng ta thường đọc câu; Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Phiền não tức vọng tưởng dẫn chúng sanh đi trong luân hồi vô cùng tận, dùng giải thoát vô tận để dứt vọng tưởng. Chư Bồ-tát lập thệ nguyện mười câu vô tận cũng chính vì chỗ này.
Khi quán sát trong tâm không khởi vọng tưởng, ngoài không thấy có pháp thật, không có chúng sanh khác ngoài tự tâm hiện. Lúc đó trí năng chiếu và pháp bị chiếu đều vắng lặng. Câu kết nói Chẳng biết tự tâm hiện vọng tưởng nên vọng tưởng sanh, nếu biết thì diệt, đây là Phật chỉ rõ cội gốc sanh tử cũng là cội gốc giải thoát. Vọng tưởng là đầu mối của chấp trước luân hồi, nếu biết vọng tưởng từ tâm mê hiện, rõ ràng không thật có thì không theo vọng. Vọng tưởng diệt tức giải thoát.
Sanh tử bản tế tức Niết-bàn bản tế, do chẳng tin biết tùy thuận khởi ra vọng kiến thì sanh tử tướng khác, Niết-bàn tướng khác, thành lỗi tập khí. Nếu biết tự tâm hiện ra, sanh tử Niết-bàn làm mất vốn không hai mé. Tức nhân vọng tập diệt thì thấy các pháp bên ngoài không có tự tánh, bèn hay chuyển vọng tưởng thân tùy thuận sanh tử, gọi là giải thoát mà chẳng phải đoạn diệt. Cho nên nói “vô biên, chẳng phải trọn không bản tế”. Chỉ do chẳng biết bản tế vọng thấy sanh tử Niết-bàn, khởi tưởng hữu biên. Vì vọng tưởng kia nói là vô biên, bởi khiến quán sát trong ngoài, chỉ trừ vọng tưởng lại không có danh tự chúng sanh, trí và sở tri tất cả các pháp thảy đều tịch tĩnh. Cho nên biết, chúng sanh sanh tử đều do vọng tưởng, chẳng biết tự tâm hiện thì vọng tưởng sanh, biết tự tâm hiện thì vọng tưởng diệt. Diệt thì bản tế tùy thuận, sanh tử Niết-bàn đều như mộng huyễn.
Chúng ta biết sanh tử từ tâm mê hiện, nếu tâm hết mê thì ngay đó là Niết-bàn. Sanh tử Niết-bàn không phải là hai. Sanh tử bản tế tức Niết-bàn bản tế. Kinh Lăng Nghiêm nói cội gốc vô thỉ sanh tử là tâm phan duyên, cội gốc bồ đề Niết-bàn là thể bản lai thanh tịnh. Kinh này nói tập khí hư ngụy diệt, thấy các pháp không có tự tánh thật. Các pháp không có thật thể chỉ là hư dối, hay chuyển vọng tưởng thân tùy thuận sanh tử. Nếu chuyển được vọng tưởng lôi dẫn mình đi trong sanh tử đó là giải thoát. Nhiều người tu sợ buông hết vọng tưởng, hết tính toán lúc đó không còn gì. Đâu ngờ rằng chính hết cái nhân dẫn mình đi trong sanh tử thì giải thoát hiện tiền nên nói vô biên, chẳng phải trọn không bản tế. Bởi vì thấy đây là sanh tử, kia là Niết-bàn nên mới có mé khác, nếu biết sanh tử Niết-bàn đều không thật thì không có mé khác. Quán tất cả pháp đều không thật, trong ngoài không thật, vọng tưởng không sanh, tất cả đều đưa đến chỗ tịch tĩnh. Vọng tưởng diệt gọi là Niết-bàn, vọng tưởng sanh gọi là sanh tử, sanh tử Niết-bàn cả hai đều không thật.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Quán sát các Đạo sư
Ví như cát sông Hằng
Chẳng hoại cũng chẳng đi
Cũng lại chẳng cứu kính.
Ấy tức là bình đẳng
Quán sát chư Như Lai
Ví như cát sông Hằng…
Thảy lìa tất cả lỗi.
Theo dòng mà tánh thường
Ấy là Phật Chánh giác.
Quán sát các đạo sư tức là quán sát chư Phật ví như cát sông Hằng. Cát sông Hằng không hoại, không bao giờ lưu chuyển cũng chẳng cứu cánh. Nếu thật có cứu cánh thì Niết-bàn sanh tử thật có sai khác, không bình đẳng. Chư Phật theo dòng Niết-bàn, tức là dòng Chánh giác thường trụ, nên nói Theo dòng mà tánh thường.
Như Lai Pháp thân chẳng phải hoại chẳng phải đi. Nếu lại có cứu kính thì Niết-bàn sanh tử là hai, chẳng phải bình đẳng. Nếu chẳng phải bình đẳng thì thuộc tác nhân. Tác thì vô thường có nhiều lỗi lầm. Cho nên biết chỉ trừ vọng tưởng tác nhân thì theo dòng được tánh, liền thấy cảnh giới Như Lai tự giác, đồng với mé sanh tử tịch tĩnh thường trụ. Đây là Như Lai nhân dụ cát sông Hằng mà kiến lập tự thông, lìa lỗi ngôn thuyết. Tuy có nói ví dụ mà cứu kính bất khả tư nghì.
Tất cả ví dụ về tính chất của cát sông Hằng để nói về pháp thân Phật. Pháp thân đó vốn thường trụ, không sai biệt ở nơi mỗi chúng sanh. Pháp thân cũng không phải do tạo tác, không cần phải làm gì thêm mà chỉ cần không theo vọng tưởng. Vọng tưởng là nhân tố tạo nên tất cả lỗi lầm sanh tử không bình đẳng. Dứt vọng tưởng sẽ thấy mình xưa nay vẫn ở trong cảnh giới tịch tĩnh thường trụ của Như Lai. Phật nhân cát sông Hằng mà nói về chỗ tự thông tức là chỗ chư Phật thông đạt, chỗ đó lìa ngôn thuyết, nên tuy có dùng ví dụ cũng không thể diễn đạt hết được.
Chữ sát-na là âm tiếng Phạn, chỉ cho thời gian thật ngắn, trong khoảng chớp mắt có đến 20 sát-na. Như vậy tính một sát-na là bao nhiêu? Ngắn không thể tưởng tượng. Sát-na là sự sanh diệt tế nhị, nhỏ nhiệm, thoáng chốc đã qua mau, chúng ta không có chữ dịch được nên để nguyên. Pháp thân vô lậu chẳng phải nghĩa sát-na, vì sát-na là ý niệm sanh diệt vô thường, pháp thân thì thường trụ không thay đổi dù trong sát-na.
Có hai:
Có hai:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Cúi xin vì nói tướng hoại của tất cả các pháp sát-na Thế Tôn! Thế nào tất cả pháp sát-na? Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, ta sẽ vì ông nói. Phật bảo Đại Huệ: Tất cả pháp ấy, nghĩa là lành, chẳng lành, vô ký, hữu vi, vô vi, thế gian, xuất thế gian, có tội, không tội, hữu lậu, vô lậu, thọ, chẳng thọ.
Ngài Đại Huệ hỏi pháp nào thuộc về sát-na, Phật giải thích phàm pháp gì nằm trong đối đãi đều thuộc về sát-na, đều là vô thường hoại diệt.
Hỏi nghĩa sát-na để bày nghĩa phi sát-na. Niệm niệm không dừng gọi là sát-na, cũng gọi là tướng hoại, cũng gọi là tướng không. Tất cả pháp sát-na là, tất cả pháp trong ngoài do tự tâm hiện ra niệm niệm không thiệu dừng. Bởi không biết tự tâm là nghĩa phi sát-na, chỉ thấy cảnh hiện ra niệm niệm sanh diệt sát-na chẳng dừng, mà lầm cho là pháp vô vi đều đồng với diệt hết, rồi khởi ra đoạn kiến. Chẳng biết tất cả pháp sát-na có Trong cái phi sát-na, chỗ này không phải Nhị thừa thấu được. Hỏi đáp nêu ra thảy đều để rõ ý chỉ này. Trước bày tất cả pháp, đợi sau mới hiển minh.
Ý hỏi về sát-na sanh diệt để mong Phật chỉ ra chỗ không phải sát-na sanh diệt.
Thấy tất cả pháp trong và ngoài đều sanh diệt không ngừng, không pháp nào không thuộc về sát-na, đó là cái thấy của phàm phu và Nhị thừa. Vì không nhận ra các pháp tự tâm hiện, thấy sự vật và bản thân mình luôn sanh diệt từng phút giây, cho rằng thân này cảnh này đều vô thường hoại diệt. Đó là đoạn kiến. Không ngờ rằng chính trong sanh diệt đó có cái không sanh diệt. Không sanh diệt là nghĩa phi sát-na. Người giác ngộ tự tâm hiện lượng thấy được nghĩa phi sát-na, nhận ra trong cái vô thường biến hoại vẫn có cái không sanh diệt, đó là nghĩa sát-na phi sát-na.
Đại Huệ! Lược nói tâm ý ý thức và tập khí, ấy là nhân năm thọ ấm, tâm ý ý thức tập khí ấy nuôi lớn, phàm ngu vọng tưởng lành chẳng lành.
Lược nói pháp năm ấm, bởi tất cả pháp đều từ năm ấm sanh khởi. Pháp năm ấm lại lấy tâm ý ý thức, tập khí làm nhân mà được nuôi lớn. Phàm ngu vọng tưởng lành chẳng lành là vọng tưởng hữu lậu trong tam giới, lục phàm, là nghĩa sát-na.
Trước tiên nêu các pháp nằm trong nghĩa sát-na sanh diệt. Tất cả không ngoài pháp năm ấm, năm ấm này được nuôi dưỡng lớn mạnh từ vọng tưởng của tâm, ý, ý thức. Vọng tưởng là đầu mối dẫn chúng sanh đi trong ba cõi sáu đường chịu khổ sanh tử, chịu biến hoại từng sát-na nhỏ nhiệm
Đại Huệ! Tu tam muội lạc, tam muội chánh thọ, hiện pháp lạc trụ gọi là Hiền Thánh thiện vô lậu.
Nhân tướng vô lậu của Thánh Hiền trong Tam thừa là phi sát-na. Do tu tam muội được pháp lạc trụ hiện bày ra, sau mới phát minh.
Người tu an trụ trong chánh định được pháp lạc, đó là Hiền Thánh, là thiện vô lậu, Thiện vô lậu không nằm trong nghĩa sát-na. Như vậy, theo vọng tưởng đối đãi gọi là sát-na, an trụ trong chánh định tức là không phải sát-na.
Đại Huệ! Lành chẳng lành là tám thức. Những gì là tám? Nghĩa là Như Lai tàng tên Tàng thức, tâm ý ý thức và năm thức thân, chẳng phải chỗ ngoại đạo nói. Đại Huệ! Năm thức thân cùng tâm ý ý thức chung. Tướng lành chẳng lành lần lượt biến hoại. Về tương tục lưu chú chẳng hoại thân sanh, cũng sanh cũng diệt. Chẳng giác tự tâm hiện, thứ lớp diệt, các thức khác sanh. Hình tướng sai biệt nhiếp thọ ý thức cùng năm thức chung tương ưng sanh. Thời gian sát-na chẳng dừng gọi là sát-na.
Đây giải thích lành chẳng lành là tám thức. Những gì là tám thức? Là từ Như Lai tàng bất giác chuyển thành tàng thức, cộng thêm thức thứ bảy, ý thức thứ sáu và năm thức trước. Ngoại đạo không biết đến chỗ chuyển biến này nên không nói đến. Năm thức thân cùng tâm ý ý thức chung, năm thức thân hợp tác với tâm ý ý thức thành ra có tướng lành và chẳng lành. Lần lượt biến hoại, tướng lành dữ là tướng đổi dời từng sát-na. Về tương tục lưu chú chẳng hoại thân sanh, cũng sanh cũng diệt, tương tục lưu chú là thức thứ bảy luôn luôn tiếp nối sanh diệt, nhưng thể chân thật của nó là Như Lai tàng không sanh diệt. Vì không giác tự tâm hiện, nên chúng ta trôi theo các thứ sanh diệt chịu các hình tướng sai biệt. Theo vọng tưởng sanh diệt nên ý thức cùng năm thức chung tương ưng sanh, ý thức luôn hợp tác với năm thức hòa hợp nhau sanh, luôn luôn chuyển biến gọi là sát-na.
Đây chỉ cho tâm thức hữu lậu lành và chẳng lành vốn có thân chẳng hoại, mà lầm theo sanh diệt. Cho nên tức nơi sát-na để hiển bày nghĩa phi sát-na. Như Lai tàng tên Tàng thức chẳng phải chỗ ngoại đạo nói, nghĩa là ngoại đạo chẳng biết Tàng thức tức Như Lai tàng.
Ngay nơi tâm ý thức có cái thể không hoại, chỉ vì chúng ta luôn chạy theo tướng sanh diệt nên thành ra biến hoại. Thể không biến hoại là Như Lai tàng, là nghĩa phi sát-na. Vì mê Như Lai tàng biến thành tàng thức, từ tàng thức có chứa đựng chủng tử thiện ác, vì thế đi trong đường lành và chẳng lành. Chỗ này chỉ có Phật biết, ngu phu và ngoại đạo không biết.
Cho nên chính khi năm thức nương tâm ý ý thức khởi ra tướng lành chẳng lành lần lượt biến hoại. Cái tương tục lưu chú kia chẳng hoại, mà cũng theo các thức cùng thân chung sanh cùng thân chung diệt. Do gốc bất giác tự tâm hiện lượng, đối với cái trong thứ lớp diệt hiện ra không thể an trụ, liền có các thức khác theo chỗ tập nặng của đời trước khởi các hình tướng.
Chỗ này giải thích rõ cội gốc sanh tử. Nghĩa là từ bất giác mê tự tâm hiện lượng, quên cái chân thật của mình, ở trong ấy thứ lớp không thể an trụ, từ đó có các thức chuyển sanh, duyên theo chỗ tập nặng của đời trước mà trầm luân trong ba cõi. Chúng ta làm thiện nhiều, tích lũy trong tàng thức nhiều chủng tử thiện, nếu làm ác nhiều thì tích lũy trong tàng thức nhiều chủng tử ác. Chủng tử thiện hay ác đó dẫn chúng ta sanh nơi cõi lành hay cõi dữ. Vì thế nói theo chỗ tập nặng của đời trước khởi các hình tướng. Hình tướng tốt, hình tướng xấu, sanh cõi khổ, sanh cõi vui đều do gốc tập khí mạnh lôi dẫn.
Ví dụ trong thiền viện này, huynh đệ nào có ý thích mạnh về việc gì thì thích thực hiện việc đó. Như đêm rằm trăng sáng, đến gần giờ tọa thiền lại có người rủ đi ngắm trăng. Nếu chủng tử mình thích tọa thiền thì chọn tọa thiền, chủng tử thích ngắm trăng thì đi dạo chơi.. Ở thế gian, có người nặng về tập khí rượu chè, cờ bạc khi gặp người rủ liền đi theo uống rượu, đánh bạc…
Như vậy tùy theo chủng tử nào nặng thì thọ sanh trong cõi đó, mỗi cõi có hình tướng đẹp xấu, hoàn cảnh giàu nghèo.. cũng đều do tất cả nghiệp đã tạo từ đời trước đưa đến kết quả hiện tại. Chủng tử bên trong và hình tướng bên ngoài có ảnh hưởng liên quan với nhau. Chủng tử thiện bên trong đầy đủ nên cảnh bên ngoài tốt đẹp. Như người tu Thập thiện, khi mạng chung thấy chư thiên đón rước, người giữ ngũ giới thì khi nhắm mắt thấy bà con đến rủ mình đi chơi đâu đó để thọ sanh cõi người. Nếu người hung dữ ác hại thì khi chết thấy bị rượt đuổi, hoảng sợ chạy vào địa ngục. Chủng tử tập khí bên trong hay cõi giới bên ngoài cũng gốc từ tự tâm chúng ta, biết rõ điều này chúng ta cẩn thận tránh huân tập điều ác, không bị tái sanh cõi dữ.
Lại dẫn ý thức và năm thức căn cùng tâm sở tương ưng thành nghĩa sát-na. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Một là căn bản sanh tử từ vô thỉ, tức là hiện nay ông cùng các chúng sanh dùng tâm phan duyên làm tự tánh. Hai là thể thanh tịnh Bồ-đề Niết-bàn từ vô thỉ, tức là hiện nay thức tinh nguyên minh của ông hay sanh các duyên, duyên bỏ sót nó. Do các chúng sanh bỏ sót cái bản minh này, tuy trọn ngày làm mà chẳng tự giác, uổng vào các thú.” Đây là tương tục chẳng hoại do gốc bất giác lầm theo sanh diệt. Đâu chẳng phải hay sanh các duyên, rồi duyên bỏ sót uổng vào các thú, thật đáng buồn thay!
Các thức tâm vương và tâm sở đều nằm trong sanh diệt, gọi là nghĩa sát-na. Kinh Lăng Nghiêm nêu lên hai cội gốc sanh tử và bồ-đề. Cội gốc sanh tử dùng tâm phan duyên làm tự tánh, lấy vọng tưởng lăng xăng cho là tâm mình nên bị dẫn đi trong sanh tử. Cội gốc bồ-đề chính là thức tính nguyên minh hay là tánh giác sáng suốt ban đầu, nó có sẵn nơi các căn, từ đó phát ra các duyên, chạy theo duyên bỏ quên tánh giác. Như con mắt của chúng ta có tánh thấy, vì có tánh thấy mới khởi phân biệt đẹp xấu, trắng đen… Tánh thấy là cội gốc, nhưng khi thấy chúng ta lại chạy theo phân biệt là các duyên trần mà quên tánh thấy, gọi là khi duyên cảnh rồi bỏ sót cái thức tinh nguyên minh. Có sẵn mà bỏ quên nên trọn ngày ở trong tánh giác, luống chịu luân hồi. Như vậy chúng sanh ai cũng có sẵn tánh bất sanh diệt, có sẵn nghĩa phi sát-na mà không chịu nhận để trôi lăn theo sát-na sanh diệt.
Có năm:
Đại Huệ! Sát-na ấy gọi thức tàng Như Lai tàng, thức cùng ý chung sanh là tập khí sát-na, còn tập khí vô lậu chẳng phải nghĩa sát-na, chẳng phải chỗ giác của phàm ngu. Vì chấp trước sát-na luận nên chẳng giác tất cả pháp sát-na phi sát-na, rồi khởi đoạn kiến hoại pháp vô vị.
Như Lai tàng khi biến thành tàng thức cùng với ý chung sanh tạo thành tập khí sát-na, tức là tập khí sanh diệt. Còn tập khí vô lậu không phải nghĩa sát-na, nghĩa là không sanh diệt. Như vậy hằng ngày chúng ta tu chăn trâu, đó là huân tập tập khí vô lậu không phải sát-na. Không phải sát-na thì không hoại diệt, đó là giải thoát Niết-bàn. Tu là gốc ở chỗ đó. Chúng ta hiểu rõ thì biết khi nào mình đi theo sanh diệt, khi nào đi theo giải thoát.
Đây chính hiển bày nghĩa sát-na phi sát-na. Mê Như Lai tàng mà làm Tàng thức liền có thức cùng ý chung sanh, thành ra tập khí, đây là nghĩa sát-na. Nếu đạt được thức cùng ý chung sanh nhân mê mà có, vốn không tự tánh, tức là chuyển Thức tàng làm Như Lai tàng. Đây là tập khí vô lậu chẳng phải nghĩa sát-na, chẳng phải chỗ giác của phàm ngu. Bởi vì phàm ngu chỉ giác tất cả pháp sát-na, mà không biết tất cả pháp sát-na có phi sát-na, luống khởi đoạn kiến phá hoại pháp vô vi. Cho nên biết, tất cả chúng sanh chẳng giác chẳng biết, lầm theo sanh diệt. Đây là lý do Như Lai dùng vô gián tất-đàn (bố thí không ngừng) vậy.
Chuyển sát-na thành phi sát-na, nghĩa là chuyển sanh diệt thành bất sanh, cũng là chuyển Tàng thức thành Như Lai tàng. Chỉ cần biết rõ thức sanh chung với ý đều từ mê hiện, không có tự tánh. Biết thức phân biệt đều như huyễn không thật, huân tập cái biết này gọi là huân tập vô lậu, tức thành tựu được nghĩa bất sanh diệt không dời đổi.
Phàm phu thế gian không biết được tất cả pháp sát-na có phi sát-na. Ví dụ Kinh Dịch dùng sự dời đổi để giải thích sự vật. Tất cả sự vật đều là dòng biến chuyển xê dịch, đó là nghĩa sát-na. Người ta chỉ biết sự biến đổi từ thô đến tế, cho đó là chân lý, không biết đến trong biến chuyển có cái không biến chuyển, Vì không biết không thấy nên chấp nhận sanh diệt từng sát-na, đó là sự lầm mê đáng thương.
Đại Huệ! Thất thức chẳng lưu chuyển, chẳng chịu khổ vui, chẳng phải nhân Niết-bàn. Đại Huệ! Như Lai tàng chịu khổ vui cùng nhân chung hoặc sanh hoặc diệt. Bị tứ trụ địa và vô minh trụ địa làm say, phàm ngu bất giác chấp sát-na nên vọng tưởng huân tâm.
Phật giải thích cái gì là nhân của Niết-bàn và cái gì không phải là nhân Niết-bàn. Thức thứ bảy chẳng lưu chuyển, chẳng nhận khổ vui, nó là thức chấp ngã, sai khiến thức thứ sáu tạo các chủng tử khổ vui rồi đưa vào thức thứ tám. Nó như người đưa thư, trong thư nói chuyện tốt chuyện xấu gì không biết, cứ đem nạp rồi thôi. Người nhận thư mới chịu khổ vui. Thức thứ tám hay Tàng thức chứa chủng tử lành dữ, chịu khổ vui, là nhân Niết-bàn. Vì thế nói: Đại Huệ! Như Lai tàng chịu khổ vui cùng nhân chung hoặc sanh hoặc diệt, cùng nhân chung là cùng các thứ khổ vui chung hợp để mà sanh diệt. Thức thứ bảy không có chủ thể, chỉ chấp vào thức thứ tám cho là chủ thể của mình, nó không phải là nhân Niết-bàn.
Như vậy, Tàng thức hợp tác với các chủng tử khổ vui đi trong sanh diệt, bị vô minh trụ địa và tứ trụ địa làm say mê, luôn luôn bị vọng khởi sanh diệt không dừng. Chúng sanh phàm ngu vì vô minh mê mờ nên chấp khổ vui thật, chấp sanh diệt thật, bị trôi trong biến chuyển vi tế, gọi là sát-na. Nếu tỉnh giác, ngay vọng tưởng khởi liền dừng, không tạo nghiệp, không tiếp tục đưa chủng tử vào thức tàng, không còn sức nghiệp lôi kéo thúc đẩy thì thức tàng thành Như Lai tàng. Đây chính là nhân Niết-bàn.
Thất thức do bất giác vọng khởi kiến phần gom thành thiền, làm tự thể. Vọng thể vốn là dối nên chẳng phải nhân Niết-bàn. Như Lai tàng ở trong vị mê, vọng chịu khổ vui mà cùng nhân tướng Niết-bàn hòa hợp, tuy chung với các thọ sanh diệt mà nhân tướng chẳng diệt.
Thức thứ tám đứng về bên mê thì nó là thức tàng, đứng về bên giác nó là Như Lai tàng. Khi mê, nó là chỗ chứa chủng tử thiện ác, đi trong khổ vui, chính khi đi trong khổ vui Như Lai tàng vẫn không mất, nên nói Như Lai tàng ở trong vị mê, vọng chịu khổ vui mà cùng nhân tướng Niết-bàn hòa hợp. Khi chúng sanh thọ khổ trong địa ngục, Phật tánh cũng vào địa ngục nhưng không khổ, chỉ có cái mê lầm chịu khổ. Chúng ta làm người cũng sẵn có Phật, nhưng vui buồn là vọng thức, Phật tự tâm không có vui buồn. Để thấy rõ rằng Phật tánh hay Như Lai tàng cùng đi trong các cõi, chung thọ sanh diệt mà không bị sanh diệt.
Bởi có ngũ trụ địa làm say mê, mà phàm ngu bất giác khởi chấp sát-na. Chẳng lưu chuyển là, thất thức y bát thức niệm niệm huân tập dường như có thật ngã, mà sát-na chẳng dừng. Đến lúc chết giấc chỉ còn bát thức, nên nói chẳng lưu chuyển. Chưa đến lúc chết giấc, thường có sức chuốc khổ vui, mà biết khổ biết vui chẳng phải nó thọ nhận, nên nói chẳng chịu khổ vui. Vọng thấy sanh diệt sát-na chẳng dừng là trước sau bất giác vậy. Tứ trụ thuộc về phàm phu, vô minh trụ thuộc Nhị thừa, giải thích ở quyển trước.
Đây nói thất thức chẳng lưu chuyển vì không có tự tánh. Tạo sanh tử khổ vui là tiền lục thức, gìn giữ chủng tử đi thọ sanh là thức thứ tám, thức thứ bảy không tạo, không thọ. Trong trường hợp chết giấc, tất cả bảy thức ngừng hoạt động, chỉ còn thức thứ tám duy trì mạng căn, nhưng thức thứ bảy ẩn trong thức thứ tám không mất. Chết giấc rồi tỉnh dậy thì nó là gốc chấp ngã để tạo nghiệp, tạo nghiệp thọ báo rồi đưa chủng tử vào kho, riêng nó không thọ khổ vui. Thấy có khổ vui sanh diệt chỉ là vọng thấy, nên nói Vọng thấy sanh diệt sát-na chẳng dừng là trước sau bất giác vậy.
Lại nữa, Đại Huệ! Như kim cương, xá-lợi Phật được tánh kỳ đặc trọn không thể làm tổn hoại. Đại Huệ. Nếu được vô gián mà có sát-na thì Thánh nên không phải Thánh. Song Thánh chưa từng chẳng phải Thánh, như kim cương tuy trải nhiều kiếp số mà cân lượng chẳng giảm. Tại sao phàm ngu chẳng rõ lời nói ẩn khuất của ta, đối tất cả pháp trong ngoài khởi tưởng sát-na?
Phật dùng kim cương xá-lợi Phật để ví dụ tánh Như Lai tàng cứng chắc không tổn hoại, không sanh diệt nhỏ nhiệm. Nếu được vô gián mà có sát na thì Thánh nên không phải Thánh, nghĩa là nếu chứng đắc giác ngộ gọi là pháp tánh bình đẳng vô gián (pháp tánh không xen hở) mà còn bị hoại từng sát-na thì không phải là Thánh.
Thánh là bậc giác ngộ trở về với tâm thể chân thật không hoại diệt, nếu còn đi trong sanh diệt vô thường thì không phải là Thánh. Chúng ta tu, thấy rõ vọng tưởng là sanh diệt dao động, khi vọng tưởng lặng đó là tánh giác hằng tri hằng hữu không động, không tướng mạo nên không sát-na sanh diệt. Ứng dụng tu là cốt dừng vọng niệm chạy theo sanh tử, sanh tử dừng thì không sanh tử hiện tiền. Hiện tiền vì nó sẵn có, không phải từ đâu đến, chỉ vì sanh tử mạnh lỗi chạy nên cái không sanh tử chẳng hiện. Cho nên bảo phải chăn trâu, bất cứ lúc nào đi đứng nằm ngồi cũng thấy cái nhân sanh tử đang lôi dẫn mình, quyết không theo là chăn giữ. Chăn giữ được thì vọng niệm sanh diệt dừng, lúc đó tâm thể thường trụ hiện ra, gọi là giải thoát.
Thánh không từng bị sanh diệt, như chất kim cương dù trải qua nhiều kiếp số cũng không tổn giảm. Thể tánh chân thật nơi mỗi chúng ta dù trôi lăn bao nhiêu cũng không biến hoại. Đó là ý Phật tha thiết muốn nêu lên ở đây. Ngài trách tại sao phàm phu không hiểu lời nói ẩn khuất của Ngài, nói vô thường để hiển bày chân thường. Chúng ta nghe nói vô thường cứ chấp rằng các pháp đều thật vô thường, đó là không hiểu ý Phật.
Lại nói Như Lai tàng chứng pháp vô lậu chẳng phải nghĩa sát-na. Kim Cương cùng Xá-lợi Phật, đây là hai tánh kỳ đặc chẳng hoại, để dụ Như Lai tàng chân tánh vô gián chẳng theo các pháp sát-na. Phàm ngu không trí chẳng hiểu Như Lai tàng bí mật, cho là đồng với các pháp rồi khởi tưởng sát-na, đây là lý do hoại được pháp vô vi.
Tất cả chúng sanh đều có Như Lai tàng không sanh diệt, phàm phu không trí lại cho là đồng với các pháp sanh diệt, đó là phá hoại pháp vô vi.
Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Như Thế Tôn nói sáu ba-la-mật đầy đủ được thành Chánh giác, những gì là sáu?
Ý Bồ-tát Đại Huệ hỏi rằng Phật nói sáu ba-la-mật đầy đủ được thành Chánh giác, tức là không còn sanh diệt. Không sanh diệt là không còn nghĩa sát-na. Nhưng đã có một có sáu đối đãi là nghĩa sát-na. Như vậy tại sao Phật nói nghĩa sát-na mà đưa đến chỗ không sát-na? Nói sanh diệt mà đưa đến không sanh diệt?
Phật bảo Đại Huệ: Ba-la-mật có ba thứ phân biệt thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng. Đại Huệ! Thế gian ba-la-mật là, ngã và ngã sử nhiếp thọ chấp trước, nhiếp thọ hai bên, là chỗ các thứ thọ sanh, ưa sắc thanh hương vị xúc, nên đầy đủ bố thí ba-la-mật, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng như thế, phàm phu thần thông và sanh Phạm thiên.
Trước tiên giải thích về thế gian ba-la-mật. Ví dụ bố thí mà còn thấy có mình có người, thấy có vật bố thí và người thọ thí, thấy người thật, vật thật tức là nhiếp thọ hai bên. Vì ưa sắc thanh hương vị xúc mà thực hành sáu pháp ba-la-mật, kết quả được ngũ thông hoặc sanh lên cõi Phạm thiên, không được giải thoát chân thật, gọi đó là thế gian ba-la-mật.
Nhân ở trước phát minh nghĩa phi sát-na, ở đây lại hỏi sáu ba-la-mật. Ý bảo, nếu chẳng phải sát-na không nên có sáu thứ, nếu thuộc sát-na thì không nên cho là phi sát-na làm nhân đầy đủ. Ba-la-mật có ba thứ, trước là thế gian. Ngã là người hay thí, ngã sở là vật đem ra thí, nhiếp thọ năng sở tức chẳng lìa hai bên có không. Vì cầu được thọ sanh thù thắng, đây là nhân quả hữu lậu, vốn là việc làm của phàm phu. Thần thông là ngũ thông của nhân thiên vậy.
Đại Huệ! Xuất thế gian ba-la-mật là, Thanh văn, Duyên giác rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn, hành sáu ba-la-mật thích tự mình được vui Niết-bàn.
Xuất thế gian ba-la-mật nghĩa là Nhị thừa cũng tu bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ nhưng thích được vui Niết-bàn riêng mình. Thực hành sáu pháp ba-la-mật để an trú Niết-bàn, đó là xuất thế gian ba-la-mật.
Xuất thế gian ba-la-mật tuy không nhiếp thọ nhân quả thế gian mà nhiếp thọ Niết-bàn làm cái vui tự độ, cũng chẳng phải cứu kính.
Xuất thế gian thượng thượng ba-la-mật là, vì giác tự tâm hiện vọng tưởng lượng nhiếp thọ và tự tâm là hai, nên chẳng sanh vọng tưởng. Đối các thú không có phần nhiếp thọ, tự tâm sắc tướng không chấp trước, vì an lạc tất cả chúng sanh khởi Bố thí ba-la-mật. Khởi phương tiện thượng thượng nơi duyên vọng tưởng kia chẳng sanh là giới, ấy là Trì giới ba-la-mật.
Giải thích về xuất thế gian thượng thượng ba-la-mật. Giác tự tâm hiện lượng không theo vọng tưởng, không bị sát-na sanh diệt chi phối, không chấp sắc tướng nên không bị lôi dẫn luân hồi trong các cõi. Thực hành bố thí ba-la-mật vì muốn chúng sanh được an lạc, không phải vì lợi ích riêng cho mình. Thực hành trì giới ba-la-mật là đối với ngoại cảnh không khởi vọng tưởng, dù vọng tưởng thiện hay ác cũng không chạy theo. Như thế ba-la-mật thượng thượng này chú trọng về tuệ tánh giác không ô nhiễm, gọi là Trì giới.
Tức nơi vọng tưởng kia chẳng sanh là nhẫn, biết năng nhiếp sở nhiếp ấy là Nhẫn nhục ba-la-mật.
Ngay nơi vọng tưởng không khởi, đó là nhẫn, biết năng nhiếp sở nhiếp không thật, đó là an trú trong nhẫn nhục ba-la-mật, Đối với năng nhiếp là ngã, sở nhiếp là ngã sở, không vướng mắc vào hai cái đó gọi là vô sanh pháp nhẫn.
Đầu hôm, giữa đêm và khuya, siêng năng phương tiện tùy thuận tu hành phương tiện vọng tưởng chẳng sanh, ấy là Tinh tấn ba-la-mật.
Tinh tấn ba-la-mật là đầu hôm, giữa đêm, và gần sáng siêng năng tùy thuận phương tiện tu hành thì vọng tưởng chẳng sanh. Chúng ta ngồi thiền để làm chủ, không theo vọng tưởng, dừng được vọng tưởng, đó là Tinh tấn ba-la-mật.
Vọng tưởng diệt hết chẳng rơi vào nhiếp thọ Niết-bàn của Thanh văn, ấy là Thiền định ba-la-mật. Tự tâm vọng tưởng chẳng phải tánh, trí tuệ quán sát chẳng kẹt hai bên, thân trước càng thù thắng không thể hoại, được tự giác Thánh thú, ấy là Bát-nhã ba-la-mật.
Biết vọng tưởng do tâm hiện không thật gọi là biết vọng tưởng không tánh. Trí tuệ quán sát không dính mắc hai bên, càng ngày thân trước càng thù thắng không thể hoại, tức là pháp thân bản hữu càng ngày càng hiển lộ, đạt được tự giác Thánh trí, đó là Bát-nhã ba-la-mật.
Thượng thượng ba-la-mật là, giác tự tâm hiện lượng, thấu suốt năng sở vọng tưởng, nơi tự lâm lượng hai bên không đến nhau. Chỉ do bất giác, giác thì chẳng sanh. Cho nên đối với các thú không có phần nhiếp thọ, sắc tướng ngoài tự tâm không sanh chấp trước. Vì an lạc cho tất cả chúng sanh mà khởi ra bố thí, nói rằng đối trị xan tham, cũng hay trị xan tham cho người, tùy thuận tự tánh mà làm bố thí, ấy là phương tiện thượng thượng. Đến chỗ duyên vọng tưởng chẳng sanh, tùy thuận tánh không ô nhiễm, thành tựu Giới độ. Tùy thuận tánh không sân hận, biết năng nhiếp sở nhiếp đều không thể được, thành tựu Nhẫn độ. Đầu hôm, giữa đêm và khuya, tùy thuận tự tánh như thật bản tế, chẳng khởi phân biệt là Tinh tấn độ. Đối với tự tánh xưa chẳng sanh tướng khác, chẳng theo Nhị thừa chấp tam muội còn năng sở, ấy là Thiền định độ.
Đối với tự tánh xưa chẳng sanh tướng khác, tức là luôn an trú trong thể tự giác sẵn có, không khởi tâm tìm cầu nên gọi là không sanh tướng khác. Hàng Nhị thừa thấy đây là sanh tử, kia là Niết-bàn nên còn năng sở đối đãi. Thiền định ba-la-mật này thấu tột cứu cánh không hai, không rơi vào năng sở, đó là chỗ xuất thế thượng thượng.
Liễu đạt tất cả vọng tưởng không tánh, đối chỗ sở khởi chẳng sanh chướng ngại, đối chỗ không khởi chẳng trụ bản vị, lìa các thứ có không, riêng một không bạn mà trí thân chẳng diệt, lấy đây thành tựu tự giác Thánh thú, ấy là Bát-nhã độ.
Bát-nhã độ này rất gần với chỗ tu của chúng ta. Rõ biết tất cả vọng tưởng không tánh, tức là không thật nên không theo. Đối chỗ sở khởi chẳng sanh chướng ngại, vọng tưởng khởi biết nó không thật nên không có gì chướng ngại. Không khởi chẳng trụ bản vị, khi vọng tưởng không khởi cũng chẳng chấp chỗ không khởi đó là chỗ an trú của mình. Lìa các thứ có không, riêng một không bạn mà trí thân chẳng diệt, ngài Huyền Giác có câu “Thường độc hành thường độc bộ”, đó là riêng một không bạn. Trí thân chẳng diệt là trí quán không rơi vào hai bên có không… mà thể vắng lặng luôn thường trụ chẳng biến đổi, gọi là tịch mà chiếu.
Xét sáu độ này, tại thế gian thuộc về nhân sát-na, cho nên được quả tướng đều thành sát-na, nhân xuất thế tuy chẳng phải sát-na, song xét các tự tánh Niết-bàn không năng thủ sở thủ, nên cũng thuộc về sát-na; duy xuất thế thượng thượng, chỉ một tự tâm, ngoài tự tâm không có sáu độ, thuận tánh khởi dụng, dụng trở về thể, chẳng phải nghĩa sát-na. Đáp ý hỏi, đã đủ ngoài lời nói, có thể do lý đạt được.
Kết luận, sáu độ của thế gian và xuất thế gian đều nằm trong nghĩa sát-na. Chỉ riêng pháp Thiền gọi là tối thượng thừa hay xuất thế thượng thượng là phi sát-na. Tu lục độ là luôn trở về với tự tánh, sống với tự thể lục độ không mong cầu hình thức, dù tu bố thí, trì giới… cũng chỉ là dừng lặng mọi vọng tưởng, sạch hết tất cả ý niệm. Tuy Phật giải thích về ba loại ba-la-mật, nhưng chủ đích nhắm đến xuất thế gian thượng thượng ba-la-mật không phải nghĩa sát-na.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Không vô thường sát-na
Kẻ ngu vọng tưởng tạo
Như sông, đèn, hạt giống
Mà khởi tưởng sát-na.
Phật nói các pháp vô thường sát-na sanh diệt chỉ để phá lầm chấp thường của ngu phu. Trước tiên nêu sự chuyển biến vi tế nhỏ nhiệm như dòng sông chảy, đèn cháy, hạt giống nẩy mầm… Sự sanh diệt từng sát-na đó là tướng vô thường. Nhìn bên ngoài thấy dường như là một, là không thay đổi, nhưng sâu kín bên trong là sát-na sanh diệt.
Sát-na dứt phiền loạn
Lặng lẽ lìa sở tác
Tất cả pháp chẳng sanh
Ta nói nghĩa sát-na.
Phật nói sát-na để làm gì? Để dứt phiền loạn, để lặng lẽ không còn tạo tác, đưa đến nghĩa tất cả pháp chẳng sanh,
Hai bài kệ này nói về lý do Như Lai nói sát-na, vì chỉ kẻ ngu vọng tưởng hữu vi, bảo như dòng sông, ngọn đèn, hạt giống chóng hoại, bởi muốn kia khởi tưởng sát-na, Nếu đạt sát-na thì phiền não tự dứt, được chỗ lặng lẽ, xa lìa vọng tưởng. Mới biết tất cả pháp thảy duy tâm hiện không có tự tánh, hiện thân là vô sanh. Đây là lý do Như Lai nói nghĩa sát-na.
Vật sanh thì có diệt
Chẳng vì kẻ ngu nói
Vô gián tương tục tánh
Chỗ huân của vọng tưởng.
Vô minh làm nhân kia
Tâm ắt từ kia sanh
Cho đến sắc chưa sanh
Trung gian có phần gì?
Vật sanh thì có diệt, các pháp vừa có sanh liền diệt, đó là tướng huyễn, thể tánh chân thật không sanh diệt, điều này không thể nói cho người ngu hiểu. Vô gián tương tục tánh, chỗ huân của vọng tưởng, tức chủng tánh sanh diệt tiếp nối không ngừng, do sức huân tập của vọng tưởng, do vô minh làm nhân mà tâm theo đó sanh diệt. Nhưng nếu khi sắc chưa sanh, trung gian có phần gì, nói rằng tâm duyên theo sắc, vậy lúc sắc bên ngoài chưa có, thì tâm thức không có gì để duyên theo. Mới thấy rõ các vọng động sanh diệt phải có đủ bên trong tâm, bên ngoài cảnh hợp lại.
Vật sanh thì có diệt là, vật mới sanh liền diệt. Chẳng rõ Như Lai tàng đệ nhất nghĩa đế nên gọi là vô minh. Vô minh bất giác vọng động thành nghiệp, nên gọi là mới sanh. Bởi bất giác vọng động nên sanh không có tánh sanh, không sanh liền đó diệt vậy. Kẻ ngu chẳng rõ chỗ này mà làm vô gián tương tục, đây là chỗ huân của vô minh vọng tưởng. Vô minh làm nhân nên vọng tâm y khởi, ngược dòng vô minh vọng động khi chưa gá với sắc, rõ ràng không có chỗ tựa, liền tỉnh ngộ mà biết sẽ không trôi đến niệm thứ hai.
Chữ vọng tưởng để nói lên tính cách không thật, biết không thật nên vừa dấy niệm liền thôi, gọi là sanh không có tánh sanh. Lầm cho rằng có sanh diệt tiếp nối không dừng, đó chỉ là sức huân tập của vô minh. Nếu chúng ta nhìn thấy tất cả sự vật biết hư dối không thật thì tâm thức không có chỗ gá. Tâm chạy theo cảnh chỉ là vọng thức giả dối không có. Biết tâm không thật có thì không theo, không trôi đến niệm thứ hai. Khi thấy chỉ là thấy không dấy niệm phân biệt, tức là trở về kiến tinh nguyên minh. Đây là chỗ ngài Huyền Giác trả lời Lục Tổ “Phân biệt cũng không phải là ý”.
Tương tục thứ lớp diệt
Các tâm theo kia sanh
Khi chẳng trụ nơi sắc
Duyên chỗ nào mà sanh?
Vì từ kia nên sanh
Không như thật nhân sanh
Tại sao không chỗ thành
Mà biết sát-na hoại?
Tương tục thứ lớp diệt, các tâm theo kia sanh, nghĩa là các pháp tiếp nối nhau sanh diệt mà tâm duyên theo pháp đó sanh khởi. Nhưng đã là sanh diệt không dừng thì không trụ, khi chẳng trụ nơi sắc, có cảnh, có sắc làm đối tượng tâm mới sanh, nếu không cảnh thì tâm không có chỗ tựa để sanh.
Như thế biết rằng nhân sanh khởi không thật, thức phân biệt không thật tức là không chỗ thành. Tại sao không chỗ thành, mà biết sát–na hoại. Có hoại là có thành, chỗ thành đã không thật thì biết hoại không thật. Hoại là nghĩa sát-na. Như vậy biết các pháp huyễn hóa, sanh không thật, diệt không thật, nghĩa sát-na cũng không thật.
Đây lại nói vô gián tương tục thật không có sanh, bởi không như thật sanh, tức diệt cũng không thể được. Bởi vì tâm tương tục liền sanh liền diệt, nhân duyên nhóm họp tâm khác lại sanh, nhân duyên chưa hội thì sanh gá ở chỗ nào? Nếu bảo tức từ tâm kia, song tâm kia hư vọng do bất giác khởi ra, thể sanh đã chẳng thành thì diệt lại hoại cái gì? Nên nói chẳng được chỗ diệt kia. Cho nên biết, sanh vốn không nhân, diệt cũng không đợi, chính nơi chỗ này được gốc vô sanh, tự tánh lặng lẽ vậy.
Vọng tưởng chính là cái vô gián tương tục, dấy niệm liên miên không dừng nghỉ. Chúng ta quan sát nó từ đâu có, do cảnh bên ngoài hay tâm niệm bên trong? Cảnh ngoài không thật, tâm mê bên trong là bất giác không thật, khoảng giữa cũng không thật, Hoàn toàn không thật mà chúng ta bị lôi dẫn chạy không ngừng. Phân tích kỹ chỗ này để thấy chỗ lầm mê, biết vọng tưởng không chỗ sanh, không chỗ diệt, ngay đó là vô sanh.
Người tu được chánh định
Kim cương, xá-lợi Phật
Cung điện Quang Âm thiên
Thế gian việc chẳng hoại.
Người tu sống với chánh định không hoại, như kim cương, như xá lợi Phật, như cung điện Quang Âm thiên.
Trụ nơi chánh pháp được
Như Lai trí đầy đủ
Tỳ-kheo được bình đẳng
Làm sao thấy sát-na?
Người trụ nơi chánh pháp có đầy đủ trí tuệ Phật, tâm sẽ được bình đẳng. Bình đẳng rồi thì không còn thấy nghĩa sanh diệt của từng sát-na.
Càn-thát-bà, huyễn thủy
Sắc không có sát-na
Nơi sắc thảy chẳng thật
Xem đó dường chân thật.
Tất cả cảnh sắc hiện trước mắt chúng ta giống như thành Càn-thát-bà, như huyễn hóa không thật. Sắc không thật thì đâu có gì phải đuổi theo? Nhưng phàm ngu xem thấy tưởng chừng như có thật.
Đoạn tụng này nói về tập khí vô lậu chẳng phải nghĩa sát-na. Dẫn người tu hành chánh định, kim cương, xá-lợi, cung điện Quang Âm, đây là bốn việc chẳng hoại ở thế gian và xuất thế, để dụ người trụ chánh pháp đã được Như Lai Thánh trí, Tỳ-kheo bình đẳng là chẳng phải sát-na. Càn-thát-bà huyễn thảy, sắc không có sát-na là, người trụ chánh pháp cho đến chỗ thấy tất cả pháp đều như huyễn v.v… tức nơi sắc cũng không có nghĩa sát-na. Cớ sao chính nơi sắc pháp chẳng thật mà xem dường như chân thật? Đây là lặp lại bác ngoại đạo chấp tứ đại v.v.. là sanh nhân năng tạo.
Có bảy:
Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Thế Tôn thọ ký cho A-la-hán được thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cùng chư Bồ-tát đồng không sai biệt?
Tất cả pháp chúng sanh không đến Niết-bàn, ai đến Phật đạo?
Từ khi mới được thành Phật cho đến vào Niết-bàn, ở trong khoảng giữa ấy không nói một chữ, cũng không có đối đáp?
Vì Như Lai thường định, cũng không suy nghĩ, không xét nét, do Hóa Phật hóa làm Phật sự?
Cớ sao nói tướng thức sát-na lần lượt hoại?
Kim Cang lực sĩ thường theo hộ vệ, tại sao chẳng chỉ thẳng bản tế, mà hiện ma, ma nghiệp, quả báo ác nghiệp, Chiên-giá-ma-nạp, cô gái Tôn-đà-lợi, không bát mà về, ác nghiệp chướng hiện? Tại sao Như Lai được Nhất thiết chủng trí, mà chẳng lìa các lỗi ấy?
Ý hỏi có sáu nghi vấn. Quyển kinh này cùng các kinh khác nói, Pháp thân Phật nói cùng Hóa thân nói dường như có khác nhau, nên muốn phát minh. Nghi thứ nhất là, Nhị thừa tự mình niết-bàn không thể thành Phật, cớ sao Như Lai vì Nhị thừa thọ ký cùng Bồ-tát không khác?
Trước tiên nêu các nghi vấn, đoạn sau mới giải thích. Phần giải thích có những đoạn không theo thứ tự. Nghi thứ nhất là Nhị thừa tự cho mình chứng Niết-bàn, không thể thành Phật, tại sao Phật thọ ký cho Nhị thừa cùng Bồ-tát không khác? Như đoạn kinh trước Phật nói chỗ Bồ-tát Bát địa được Nhị thừa cũng được, như vậy là đồng với Bồ-tát.
Nghi thứ hai, chúng sanh bởi do vọng tưởng nên chẳng giác tự tâm hiện ra, tại sao Như Lai lại nói tất cả chúng sanh dã Niết-bàn rồi không lại Niết-bàn, đã thành Phật rồi thì ai đến Phật đạo?
Tất cả chúng sanh đã Niết-bàn, đã thành Phật thì còn tu để đến Phật đạo làm gì?
Nghi thứ ba, Như Lai phân bộ Tam thừa, cớ sao lại nói đêm ấy thành Phật, đêm ấy vào Niết-bàn, ở trong khoảng giữa ấy không nói không dạy?
Như Lai phân bộ tam thừa là có chia ra căn cơ để giảng dạy, vì sao nói không dạy?
Nghi thứ tư, Như Lai nếu thường ở trong định không suy nghĩ không xét nét, thì các Hóa Phật làm những việc gì?
Như Lai thường ở trong định không suy nghĩ, vì sao có các hóa Phật hóa hiện độ sanh?
Nghi thứ năm, tất cả chúng sanh đã thành Phật rồi, cớ sao lại nói thất thức chẳng lưu chuyển, chẳng phải nhân Niết-bàn sát-na lần lượt hoại?
Chúng sanh đã thành Phật nghĩa là đã chuyển tất cả thức, vì sao lại nói về thất thức? Nói về sát-na hoại?
Nghi thứ sáu, Như Lai dựng lập tự thông an trụ bản tế không có chướng ngại, lìa các lỗi lầm, cớ sao lại nói Kim Cang hộ vệ, sao chẳng chỉ thẳng bản tế mà hiện ma, ma nghiệp, quả báo, các thứ lỗi lầm? Ma là Phật ngồi đạo tràng, ma quân đến quấy nhiễu. Ma nghiệp là Phật thị hiện trong vương cung mười năm thọ dục. Chiên-giá-ma-nạp là con gái Bà-la-môn dùng chậu gỗ úp trên bụng cột lại để vu báng Phật tư thông với y. Tôn-đà-lợi giết con gái đem chôn trong đất già-lam để vu báng Phật phạm dâm sát. Ở trong thôn Bà-lợi-na, Phật khất thực âm bát về không và ăn lúa ngựa, đầu lưng đều đau, cây đâm ở chân, hầm lửa, cơm độc, các thứ báo hiện.
Dựng lập tự thông là pháp thân bất sanh bất diệt, không còn chướng ngại, vì sao lại cần có Kim Cang hộ vệ? Lại có các chướng như ma sự quấy nhiễu?
Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Lành thay, Thế Tôn! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Vì Vô dư Niết-bàn nói dẫn dụ tiến lên hành hạnh Bồ-tát. Thế giới này và các thế giới khác những người tu Bồ-tát hạnh ưa Niết-bàn của Thanh văn thừa, vì khiến lìa Thanh văn thừa tiến đến Đại thừa, nên Hóa Phật thọ ký cho Thanh văn, chẳng phải Pháp Phật.
Giải thích nghi thứ nhất. Sở dĩ Phật thọ ký cho Thanh văn được Niết-bàn vì các lý do: Hàng Thanh văn cũng có thể được Vô dư Niết-bàn nên dẫn dụ để tiến lên Bồ-tát hạnh. Vì các người tu hạnh Bồ-tát ở thế giới này và thế giới khác mà lại thích Niết-bàn của Thanh văn, nên Phật thọ ký khiến lìa Thanh văn thừa. Thọ ký đó là Hóa Phật, không phải Pháp thân Phật.
Đại Huệ! Nhân đó nên thọ ký các Thanh văn cùng Bồ-tát không khác. Đại Huệ! Chẳng khác ấy, Thanh văn, Duyên giác, chư Phật Như Lai phiền não chướng dứt, một vị giải thoát, chẳng phải trí chướng dứt. Đại Huệ! Trí chướng là thấy pháp vô ngã, thù thắng thanh tịnh. Phiền não chướng là trước tập thấy nhân vô ngã dứt, thất thức diệt, pháp chướng giải thoát, thức tàng tập khí cứu kính thanh tịnh.
Giữa Thanh văn, Duyên giác cùng Bồ-tát, chư Phật có chỗ giống nhau là dứt được phiền não chướng. Còn sở tri chướng thì Thanh văn chưa dứt được, vì thế các ngài chưa thấy được pháp vô ngã. Thanh văn chưa được cứu cánh thanh tịnh vì còn tập khí nằm trong thức tạng.
Đây là đáp nghi vấn thứ nhất về thọ ký cho A-la-hán. Thọ ký cho A-la-hán có ba nghĩa: Một, sách tiến Nhị thừa được Vô dư Niết-bàn. Hai, dẫn dụ Nhị thừa phát tâm Bồ-tát. Ba, chỉ Bồ-tát cõi này và các cõi khác chẳng rơi vào thiền lạc của Nhị thừa. Đây là Hóa Phật quyền dẫn chẳng phải Pháp Phật nói. Lại phân biệt Nhị thừa, Bồ-tát khác cùng chẳng khác, để rõ Thật giáo Nhị thừa đoạn phiền não chướng đạt được giải thoát cùng Bồ-tát không khác; vì trí chướng chưa đoạn nên cùng Bồ-tát khác, Nhị thừa không thấy pháp vô ngã, nên trí chướng chẳng đoạn; mà tập khí đã khởi kiến phần của thức thứ bảy chấp ngã, ở trong tam giới tánh nhiếp thủ đã lìa, nên phiền não chướng đoạn; mà chỗ nương của thất thức là tập khí nội ngã vẫn chưa trừ diệt.
Hàng Nhị thừa vẫn còn tập khí chấp nội ngã, tức là thức thứ bảy chấp kiến phần của thức thứ tám là ngã, chỗ đó chưa hết. Chỉ không tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử, nhưng chưa dứt được ngã chấp, pháp chấp ở trong.
Ngã này một phen diệt, thức tàng tập khí thân chuyển liền được cứu kính thanh tịnh. Cho nên biết, tam muội lạc trụ của Thanh văn sẽ được thân tối thắng Như Lai.
Khi phá được chấp ngã của thức thứ bảy ở trong, lúc đó mới chuyển tàng thức thành cứu cánh thanh tịnh. Khi chuyển được thì ngay Thanh văn lập tức thành Phật.
Vì bởi pháp bản trụ trước sau phi tánh.
Đây là đáp cái nghi thứ ba không nói một chữ. Bản trụ là Bản tánh thường trụ, có Phật hay không Phật, pháp nhĩ như thế, không có xưa nay, không có nói dạy, nên nói “trước sau phi tánh”. Chữ tánh tức là pháp. Nghĩa là trước sau chỉ một bản trụ, không có một pháp có thể được.
Bài kệ phó pháp của đức Phật nói cho ngài Ca-diếp có câu Pháp bổn pháp vô pháp. Pháp bổn tức là pháp bổn trụ này, nó không phải là pháp, vì thế Phật nói khi thành đạo đến nhập Niết-bàn, Ngài chưa từng nói một chữ. Đứng về pháp bổn trụ thì không có nói năng, nhưng vì phương tiện độ sanh nên lập ra Tam thừa.
Vì bản nguyện vô tận, Như Lai không nghĩ không xét, mà diễn nói pháp, vì chánh trí sở hóa, vì niệm chẳng vọng, nên không nghĩ không xét. Vì tứ trụ địa và vô minh trụ địa tập khí đã đoạn, hai thứ phiền não đoạn, lìa hai thứ tử, giác nhân pháp vô ngã và đoạn hai chướng.
Sở dĩ Pháp thân không suy nghĩ, không xét nét mà Hóa Phật hay làm Phật sự là sao? Vì bổn nguyện vô tận của Như Lai không nghĩ xét mà vẫn nói pháp. Vì chánh trí sở hóa, được chánh trí rồi thì tự có diệu dụng hóa độ. Vì hiện chẳng vọng nên không nghĩ không xét, suy nghĩ xét nét thuộc về vọng tưởng, khi không suy nghĩ vẫn có dụng độ sanh. Ví dụ người có lòng từ bi, đi đường thấy người bị té ngã, tự động đến giúp đỡ, lúc đó không cần suy nghĩ đắn đo.
Bản nguyện độ sanh của chư Phật đã huân tập sâu dày, chỗ nào có chúng sanh khổ các ngài ứng hiện giáo hóa, không cần nghĩ lợi hại, Như tiền thân Phật làm thái tử bố thí thân cho cọp đói, thái tử Tu-đại-noa bố thí vợ con… Những việc làm đó đều vì lợi ích chúng sanh không cần suy tính.
Đây đáp nghi thứ tư không nghĩ không xét. Như Lai không nghĩ không xét mà diễn nói pháp, do chánh trí hóa, chẳng phải vọng niệm hóa. Cho nên tuy Hóa Phật làm ra mà đều lìa nghĩ xét, nên nói “Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sanh tùy loại mỗi loài được hiểu. Song Như Lai thật không có tâm tùy loài, ấy do các loài có duyên mà mỗi loài thấy khác”. Ngũ trụ, hai tử, hai phiền não, hai ngã, hai chướng, năm thứ tập này, Như Lai đoạn đã lâu, nên được thường định không nghĩ. Chỉ do bản nguyện thị hiện có hóa tác, tùy chỗ cảm hiện như trăng trong nước.
Các câu hỏi của Bồ-tát Đại Huệ, Phật đã đáp bốn câu, còn câu thứ năm và thứ sáu. Đoạn này đáp lại câu thứ hai và câu thứ năm để cho rõ ý.
Đại Huệ! Tâm ý ý thức nhãn thức v.v… có bảy là nhân tập khí sát-na, lìa phẩm thiện vô lậu, chẳng lại luân chuyển.
Đây giải thích tâm, ý, ý thức, nhãn thức… có bảy, nghĩa là tuy nói bảy thức nhưng kèm nói “tâm” vì cả bảy thức đều có liên hệ với Như Lai tàng tâm.
Bảy thức là nhân tập khí sát-na, nghĩa là chủng tử sanh diệt đều có mặt trong bảy thức. Nhưng bảy thức không luân chuyển, vì sao? Vì khi thân hoại mạng chung thì bảy thức đã ngừng hoạt động, chỉ có thức thứ tám mang chủng tử nghiệp để sang đời khác, vì thế nói thất thức không luân chuyển.
Đại Huệ! Như Lai tàng là luân chuyển, là nhân khổ vui Niết-bàn, kẻ tuệ không loạn ý và phàm phu ngu si không thể giác được.
Như Lai tàng hay tàng thức luân chuyển, vì nó chứa nhân khổ vui và nhân Niết-bàn. Khi chúng ta tạo nghiệp lành nghiệp dữ thì các chủng tử đó bị thức thứ bảy đưa vào chứa trong thức thứ tám. Đến khi chết, hạt giống thiện mạnh sẽ dẫn mình đi trong cõi lành, hạt giống ác mạnh sẽ dẫn đi trong cõi dữ. Các hạt giống sạch hết thì đó là Niết-bàn. Những kẻ tuệ không loạn ý là chỉ cho hàng Thanh văn chấp không tịch làm chỗ cứu cánh nên không biết Như Lai tàng. Phàm phu ngu si không thể giác, phàm phu không biết được Như Lai tàng.
Đây là tổng đáp nghi thứ hai chúng sanh thành Phật và nghi thứ năm thức sát-na hoại. Tâm ý, ý thức, nhãn thức v.v… sở dĩ nói sát-na, vì lấy vô minh tập khí làm nhân, trái với vô lậu giác, vọng chấp là ngã thể. Thể này chẳng thật, sát-na biến diệt, chẳng theo lưu chuyển. Thế nên tất cả chúng sanh tuy ở trong sanh tử mà không có sanh tử khá được. Nếu đứng về Như Lai tàng mà nói, tuy hiện lưu chuyển mà có nhân khổ vui Niết-bàn. Phàm phu vọng tưởng chấp trước bị khổ vui che đậy, chẳng biết hay thọ khổ vui cùng hay chứng Niết-bàn, tánh nó không hai.
Bảy thức không có chỗ tựa nhất định, khi có duyên thì hiện hành, khi hết duyên thì nó tàng ẩn trong thức thứ tám. Đến khi lưu chuyển chỉ có thức thứ tám dẫn đi, đợi khi sanh ra bảy thức mới có mặt phát triển. Vì thế nó không phải là nhân lưu chuyển. Chúng sanh ở trong sanh tử mà không có sanh tử, vì nhân sanh tử là bảy thức, bảy thức không thật nên sanh tử không thật. Đứng về Như Lai tàng thì sanh tử không thật, tuy có khổ vui nhưng chỉ là tạm che mờ. Tánh thọ khổ vui và tánh chứng Niết-bàn một thể, đó là tánh giác thường trụ, ngay chủng tử sanh diệt khổ vui mà Niết-bàn hiện tiền.
Nhị thừa là đối trị phàm phu diệt cái thọ khổ vui, lại bị cái không làm loạn, bỏ nhân khổ vui riêng thủ Niết-bàn, mà chẳng biết tự tánh Niết-bàn, đồng gọi là bất giác. Giác thì liền đó chứng biết, lại không riêng có, thất thức sát-na, chúng sanh thành Phật vốn chẳng ngại nhau.
Hàng Nhị thừa diệt tất cả thọ, nhập diệt thọ tưởng định, nhưng bị cái không làm loạn tức là chấp chỗ không tịch lặng lẽ làm cứu cánh, bỏ cái nhân khổ vui mà cho không tịch là Niết-bàn. Mà chẳng biết tự tánh Niết-bàn, tự tánh Niết-bàn tức là Như Lai tàng. Vì không ngộ tự tánh Niết-bàn nên cũng gọi là bất giác. Đối với Phật thì gọi hàng Nhị thừa là bất giác, vì chưa giác ngộ viên mãn, không phải vô minh bất giác của phàm phu. Khi giác ngộ viên mãn liền đó biết tự tánh Niết-bàn không phải riêng có ngoài tám thức. Trong thất thức có sát-na sanh diệt, khi thành Phật thì sanh diệt hay không sanh diệt chẳng có gì ngăn ngại.
Bản dịch này nói tâm ý ý thức nhãn thức v.v… bảy, còn bản dịch đời Đường thì nói ý và ý thức nhãn thức v.v… bảy, đều nói bảy thức không lưu chuyển. Song bản dịch này kèm nói tâm là riêng để hiển bày Như Lai tàng chẳng hoại chân tướng, nên nói: “chỉ tâm tướng diệt, chẳng phải tâm thể diệt, vì chỉ si diệt tâm tướng theo đó mà diệt”, cũng chẳng phải không có ý chỉ.
Giản trạch hai bản dịch. Bản dịch đời Đường chỉ nói từ ý căn, ý thức và năm thức trước cộng lại là bảy. Bản dịch này lại thêm chữ tâm, vì nói tâm là muốn hiển bày tướng của Như Lai tàng. Theo luận Khởi Tín nói chỉ tâm tướng diệt, chẳng phải tâm thể diệt, diệt hết các chủng tử thì tâm tướng của tàng thức diệt, còn tâm thể của tàng thức là Như Lai tàng không diệt. Vì chỉ si diệt, tâm tướng theo đó mà diệt. Si là gì? Thức thứ bảy chấp kiến phần thức thứ tám làm ngã, đó là si. Cũng chẳng phải không có ý chỉ, nói thêm chữ tâm đó cũng là có ý chỉ.
Tóm lại, thức thứ bảy vốn góp kiến phần của thức thứ tám làm thể, nên nói bảy thức sát-na thì tâm tướng của tám thức sát-na không nói có thể biết. Nói Như Lai tàng phi sát-na mà bảo nhân khổ vui. Phàm thọ khổ vui hẳn do phân biệt. Thế thì sáu thức sát-na cũng tức có nghĩa phi sát-na.
Nói rõ nghĩa sát-na và phi sát-na của tám thức. Tâm tướng của tám thức có sanh diệt, tâm thể không sanh diệt, khi tám thức trở về Như Lai tàng tánh thì tất cả sanh diệt chuyển thành vô sanh. Nói Như Lai tàng là nhân khổ vui vì ý thức phân biệt không nằm ngoài Như Lai tàng, khi dấy niệm thọ khổ vui thì toàn thể Như Lai tàng là thức tàng. Sáu thức sát-na cũng tức có nghĩa phi sát-na, sáu thức không có thật, chỉ nương gá vào thức tàng, là giả tướng chạy đuổi bên ngoài, nó đã không thật thì sanh diệt cũng là tạm sanh diệt, nên nói sáu thức cũng có nghĩa phi sát-na.
Mới biết mê thì chỉ vọng giác làm sát-na, nên nói “thất thức chẳng luân chuyển”. Ngộ thì chỉ chân tướng phi sát-na, nên nói “Như Lai tàng là nhân khổ vui Niết-bàn”. Mà thật, thất thức tức là bát thức, bát thức tức là ngũ thức, lục thức. Đây hoại và chẳng hoại chung nhau làm nhân, thảy do mê ngộ chẳng phải thật có nhiều thể.
Chúng sanh sở dĩ không thành Phật, vì mê nên thấy có sát-na đổi dời, khi ngộ thì chân tướng thật thể chưa từng sanh diệt, trở về Như Lai tàng lặng lẽ thanh tịnh. Đó là lý do Phật nói sát-na phi sát-na. Kết luận, tuy các thức có chia nhiều tên, nhiều phương diện hoạt động nhưng chỉ có một thể. Khi nơi các căn thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe… mỗi sự vật đều như thị, ý thức không có cơ hội hoạt động. Các chủng tử phân biệt không dấy khởi nên thức thứ bảy tạm yên. Thức thứ bảy nương vào thức thứ tám nên nói thất thức tức là bát thức. Ngũ thức, lục thức cũng không rời bát thức. Cuối cùng tất cả các thức đều là Như Lai tàng, gồm đủ nhân hoại và chẳng hoại, mê ngộ cũng trong một thể. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật, nếu theo lưu chuyển thì luôn luôn xa rời tính Phật. Ý đáp nghi vấn của Bồ-tát Đại Huệ, cũng chỉ ra con đường trở về.
Đại Huệ! Kim Cang lực sĩ theo hộ vệ ấy, là Hóa Phật, chẳng phải chân Như Lai. Đại Huệ! Chân Như Lai lìa tất cả căn lượng, tất cả căn lượng phàm phu, Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo thảy đều diệt, được hiện pháp lạc, vì trụ vô gián pháp trí nhẫn, nên chẳng phải Kim Cang lực sĩ hộ vệ. Tất cả Hóa Phật chẳng từ nghiệp sanh. Hóa Phật là, chẳng phải Phật chẳng lìa Phật. Nhân thợ gốm, bánh xe.. chúng sanh tạo ra hình tướng mà nói pháp, chẳng phải chỗ tự thông, nói cảnh giới tự giác.
Đoạn này và đoạn sau đều đáp nghi thứ sáu Kim Cang hộ vệ và tất cả nghiệp báo bệnh chung. Chân Phật dựng lập tự thông, chỉ thẳng cảnh giới tự giác cho chúng sanh, lìa tất cả căn lượng phàm phu Nhị thừa, được hiện pháp lạc trụ, trí nhẫn vô gián, chẳng phải chỗ Kim Cang hộ vệ. Kim Cang theo hộ vệ là chỉ Hóa Phật. Hóa Phật duy nương bị nguyện đối hiện Sắc thân, như trăng trong nước chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải từ nghiệp sanh nên không lỗi của nghiệp, tất cả thị hiện thảy vì chúng sanh. Thợ gốm dùng bánh xe, đất nước tạo các món đồ, mỗi món thích hợp với chỗ dùng, để dụ tùy cơ ứng hiện, chẳng phải có tâm tạo.
Người ta cho rằng Phật ra đời giáo hóa chúng sanh, có chư thần Kim Cang theo hộ vệ, cũng có những nghiệp báo như kim thương mã mạch… hoặc cũng bị bệnh như đau đầu, đau lưng. Ngoài ra còn bị vu oan, vu vạ, cuối cùng cũng diệt độ. Phật giải thích rằng vị Phật ấy là Hóa Phật vì chúng sanh mà hiện thân có hình tướng tùy loại nên có thần Kim Cang hộ vệ tránh những chướng ngại, chứ không phải Phật pháp thân. Phật pháp thân là chân Phật vốn không hình tướng, không ngăn ngại, không biến hoại. Vì lìa tất cả giới hạn của thân và tâm (căn lượng). Những suy nghĩ, tri giải của phàm phu, Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo đều xa lìa, an trụ trong pháp lạc, trí nhẫn không gián cách, không cần Kim Cang hộ vệ. Hóa Phật là do bị nguyện, tuy có sanh nhưng không do nghiệp, chỉ vì độ sanh, mà hiện sắc thân như trăng trong nước. Tuy không phải là pháp thân vì có hình tướng, nhưng từ pháp thân mà hiện nên chẳng lìa Phật, không phải một cũng chẳng phải khác. Như thợ gốm tạo những món đồ thích hợp để dùng, Hóa Phật tùy cơ mà hiện, chẳng phải tự thông, nói cảnh giới tự giác cho chúng sanh.
Lại nữa, Đại Huệ! Kẻ ngu y thất thức thân diệt rồi khởi đoạn kiến, vì chẳng giác thức tàng khởi thường kiến, vì tự vọng tưởng nên chẳng biết bản tế, tự vọng tưởng tuệ diệt nên được giải thoát. Vì tứ trụ địa, vô minh trụ địa tập khí đoạn hết nên tất cả lỗi đoạn.
Đây cũng đáp về cái nghi thứ sáu, đặc biệt rõ bản tế không có lỗi lầm, vì phàm ngu chẳng giác vọng thấy sai biệt mà thôi. Thất thức thân nếu diệt liền hay liễu đạt bản tế, chẳng khởi đoạn kiến. Đây nói thất thức diệt chính là quán sát lưu chú niệm niệm chẳng dừng, chẳng giác tự tâm nên khởi đoạn kiến. Bản dịch đời Ngụy đời Đường đều nói “lục thức” cũng đồng ý này. Nhân mê Như Lai tàng mà có Tàng thức, nếu lìa thức tìm tâm liền thuộc Nhị thừa thiên chân, nếu tức nơi thức cho là tâm lại rơi vào ngoại đạo chấp tác giả. Đây là do chẳng rõ thức tàng lầm là chân thật, tự vọng tưởng thấy, chẳng biết bản tế. Vọng tưởng nếu diệt thì ngũ trụ tập khí một lúc liền đoạn, tức là tất cả lỗi dứt, đâu còn có các thứ nghiệp báo. Cho nên biết mê Như Lai làng mà làm thức tăng liền tùy thuận vọng tưởng là bản tế sanh tử, chẳng giác chẳng biết, Nếu rõ thức tàng tức Như Lai tàng thì tùy thuận chánh trí là bản tế Niết-bàn, không nhiễm không nhơ, Đã có thị hiện đều vì chúng sanh chẳng phải dựng lập tự thông, cảnh giới tự giác.
Thất thức thân diệt tức là bảy thức trước diệt hết bèn khởi đoạn kiến, cho là không còn gì. Ngài Hàm Thị cho rằng phàm ngu thấy thức lưu chú niệm niệm dời đổi không dừng mà chấp đoạn, chỉ vì chẳng giác tự tâm, không rõ bản tế. Đây không phải lỗi của bản tế mà do không giác nên vọng thấy sai biệt. Vì mê Như Lai tàng nên có hai trường hợp:
1) Lìa thức tìm tâm thì thành Nhị thừa thiên chân. Tại sao? Vì cho có chân thật khác với thức sanh diệt. Thấy hai bên chân vọng, bỏ sanh tử này tìm Niết-bàn kia, không biết tự tâm hiện.
2) Cho thức là tâm thì rơi vào ngoại đạo chấp có tác giả, cho những phân biệt của thọ tưởng hành thức là ngã, nghĩa là cho thức tàng là chân thật rồi tự vọng tưởng mà thấy, không biết đó là thức sanh diệt, không thật.
Tóm lại, mê thì Như Lai tàng thành Thức tàng, tùy theo vọng tưởng là bản tế sanh tử. Giác thì Thức tàng tức Như Lai tàng, tùy thuận chánh trí là bản tế Niết-bàn. Một bên bất tri bất giác, một bên không nhiễm không nhơ. Nếu vọng tưởng diệt thì ngũ trụ tập khí hay ngũ trụ địa là dục, sắc, hữu, kiến và vô minh trụ địa liền đoạn, không còn tất cả lỗi, thì đâu có các thứ nghiệp báo. Như thế, nhân sanh tử là vọng tưởng, nhân Niết-bàn là chánh trí, dứt vọng tưởng. Muốn được quả Niết-bàn mà sống với nhân sanh tử thì đậu thể được. Chúng ta tu phải theo dõi luôn đừng để vọng tưởng dẫn, đừng để chúng hoành hành thì sẽ dứt luân hồi, quả Niết-bàn khỏi cần tìm cũng thấy. Thiền sư Vô Nghiệp ai hỏi gì cũng trả lời “Chớ vọng tưởng!” Vậy thôi.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Tam thừa cũng phi thừa
Như Lai chẳng diệt mất
Tất cả Phật đã ghi
Nói lìa các lỗi ác.
Vì (dùng) các trí vô gián
Và Vô dư Niết-bàn
Dẫn dụ các hạ liệt
Thế nên nói ẩn khuất.
Trí chư Phật đã khởi
Tức phân biệt nói đạo
Các thừa chẳng phải thừa
Kia ắt phi Niết-bàn.
Tam thừa cũng phí thừa, Như Lai chẳng diệt mất, chính hai câu này đã đáp hết sáu cái nghỉ. Nghĩa là Như Lai tự giác không có tướng thừa, chẳng vào Niết-bàn, Vốn tự thanh tịnh không có các cấu ác. Nếu hay liễu đạt lại không có nói gì khác. Chúng sanh hạ liệt không tin được chỗ này, nên Như Lai nói có chánh trí, nói có Niết-bàn, trước vì dẫn dụ họ tiến lên, về sau mới chỉ mật ý này. Nghĩa là Như Lai đã được Nhất thiết chủng trí phân bộ diễn nói, lại không có ý chỉ riêng. Chỉ nói chẳng phải thừa và chẳng phải Niết-bàn khiến họ tự tin tự chứng mà thôi.
Tam thừa là Nhân thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa do Phật tạm lập không có thật. Như Lai không diệt mất nghĩa là Như Lai không có Niết-bàn. Chư Phật nói như thế chỉ để lìa các lỗi ác. Nói các trí vô gián và Vô dư Niết-bàn để dẫn dụ người căn cơ thấp thỏi nên không nói rõ là cũng vốn không.
Dục sắc hữu và kiến
Nói là tứ trụ địa
Chỗ khởi của ý thức
Nhà thức chỗ ý trụ.
Ý và nhãn thức thủy
Đoạn diệt nói vô thường
Hoặc khởi chấp Niết-bàn
Mà vì nói thường trụ.
Nếu chỉ đoạn diệt tứ trụ nói là Niết-bàn thì đây không phải thường trụ. Như Lai nói chẳng phải thừa chẳng phải Niết-bàn, bản tánh thanh tịnh thường tự tịch diệt, nên nói thường trụ. Ý thứ bảy y thức thứ tám mà khởi, tức do thức thứ tám mà trụ, chẳng lấy thức thể chuyển biến làm cứu kính, mà lấy ý, ý thức và năm căn thức tạm thấy dừng diệt, khởi tưởng Niết-bàn, đồng với đoạn diệt, chỉ thêm tà kiến.
Bản tánh thanh tịnh thường tự tịch diệt mới là thường trụ. Đoạn diệt tứ trụ mà không giác tự tâm sao gọi là Niết-bàn thường trụ được? Nếu không chuyển Tàng thức thành Như Lai tàng, lại lấy sự dừng diệt tạm của bảy thức là những thức nương vào tàng thức mà khởi tưởng Niết-bàn thì đồng với đoạn diệt, đó là thêm tà kiến.
Có bốn:
Bồ-tát Đại Huệ dùng kệ hỏi Phật:
Chư Bồ-tát kia thủy
Chí cầu Phật đạo ấy
Rượu thịt cùng với hành
Ăn uống là thế nào?
Cúi mong Vô thượng tôn
Thương xót vì diễn nói.
Kẻ ngu chỗ tham đắm
Như hội không tốt đẹp
Chỗ ưa thịt cọp sói
Làm sao mà nên ăn?
Kẻ ăn sanh các lỗi
Chẳng ăn là phước lành
Cúi xin vì con nói
Tội phước ăn chẳng ăn
Bồ-tát Đại Huệ nói kệ hỏi rồi, lại bạch Phật Cúi mong Thế Tôn vì chúng con nói lỗi ác ăn thịt và công đức chẳng ăn thịt. Con và chư Bồ-tát ở hiện tại vị lai sẽ vì chúng sanh có các thứ hy vọng ăn thịt phân biệt nói pháp, khiến chúng sanh kia từ tâm đến nhau, được từ tâm rồi mỗi người nơi trụ địa thanh tịnh sáng tỏ, chóng được cứu kính Vô thượng Bồ-đề. Hàng Thanh văn, Duyên giác nơi địa vị của mình dừng nghỉ rồi, cũng được chóng thành Vô thượng Bồ-đề. Các chúng ngoại đạo pháp ác tà luận, tà kiến đoạn thường điên đảo chấp trước, còn có pháp ngăn không cho ăn thịt, huống là Như Lai cứu hộ thế gian, chánh pháp thành tựu mà ăn thịt sao?
Ngài Đại Huệ hỏi Phật về việc ăn thịt có lỗi thế nào? Không ăn có công đức ra sao? Đây là việc thật tế nhị, vì hiện có nhiều tu sĩ Phật giáo không ăn chay, viện lý do là thời Phật tại thế cũng không ăn chay và không tán thành lời đề nghị ăn chay của Đề-bà Đạt-đa. Thật ra, thời Phật, chúng tăng đi khất thực, phải tùy hỷ sự cúng dường của thí chủ, không thể đòi hỏi theo ý mình. Hơn nữa, dân Ấn độ cũng ít ăn thịt cá, nên việc ăn chay không đặt thành vấn đề. Ở đây, Bồ-tát dẫn ngoại đạo tà kiến mà còn cấm ăn thịt, tại sao Phật nêu cao lòng từ chẳng lẽ lại cho ăn? Ăn thịt chỉ có hạng cọp sói mới ưa, mình tu hạnh giải thoát sao lại tham đắm mùi vị tanh hôi của thịt? Xin Phật chỉ rõ để Bồ-tát hiện tại và vị lai nói pháp phân biệt kỹ cho những chúng sanh ham ăn thịt, khiến họ khởi lòng từ đến loài khác, ở trụ địa thanh tịnh sáng tỏ mau được Vô thượng Bồ-đề. Các bậc Thanh văn, Duyên giác dừng nghỉ nơi địa vị mình rồi, cũng chóng được đạo Vô thượng.
Theo cổ chú nói: “Như Lai ở trong cung quỷ vương nói pháp, các chúng dạ-xoa v.v… nhớ giờ ăn đã đến, chẳng phải thịt thì không ăn được. Đại Huệ vì muốn các quỷ vương sanh từ tâm, nhân đó thỉnh Như Lai nói lỗi ăn thịt, đây vẫn tùy căn cơ chúng sanh.” Song dùng con đường tu hành chân chánh của Như Lai, ở trong kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, nghĩa ba thứ lớp rất nên lẫn nhau chứng minh: “Năm mươi ấm ma cho đến thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm minh bạch, ở trong minh ngộ được tánh hư minh, trong ấy bỗng nhiên hướng về chỗ hằng diệt, bác không nhân quả, một bề vào không, không tâm hiện tiền thì có không ma vào trong tạng phủ, bèn chê người trì giới là Tiểu thừa, Bồ-tát ngộ không có gì là trì là phạm. Người ấy thường đến nhà tín tâm dàn việt uống rượu ăn thịt, rộng làm việc dâm uế, Bởi sức của ma nhiếp phục người ở trước nó chẳng sanh nghi ngờ chê bai. Quỷ nhập tâm đã lâu, hoặc ăn phẩn uế cùng rượu thịt như nhau một loại đồng là không, phá luật nghi của Phật, lầm vào tội lỗi, mất hết chánh định, sẽ theo trầm luân.” Lời răn dạy của Phật rất thâm nghiêm, người biết pháp phải kinh sợ. Ngày nay đã suy muộn xem thường lời dạy ấy. Vả lại có người cho để mặc tình miệng dùng, các thứ phá hoại chẳng dừng ăn thịt, là đáng thương vậy. Lại trong Bồ-tát giới nói: “Khởi một niệm sân làm chướng chúng sanh, hay đoạn chủng tánh, cũng như giết ăn.” Người có chí với đạo phải hộ chánh kiến, chớ bị tà mê.
Đây là theo chú giải xưa nói ngài Đại Huệ nhân thương xót chúng Dạ-xoa không thể bỏ thịt, xin Phật nói lỗi của sự ăn thịt và phước của sự không ăn. Nhưng trong kinh Lăng Nghiêm cũng quở người vì tu lầm, bác không nhân quả, chấp không nên bị ma nhiếp phục, tạo nhiều điều sai, uống rượu, ăn thịt, tà dâm… phá luật nghi của Phật rồi mất chánh định, phải chịu trầm luân. Thừa cấp giới hoãn cho giáo lý là gốc, giới luật để qua một bên, mặc tình rượu thịt. Bồ-tát giới có câu: “Khởi một niệm sân làm chướng chúng sanh, hay đoạn chủng tánh, cũng như giết ăn.” Sân thôi còn bị quở là như ăn thịt chúng sanh huống là chính mình ăn. Người tu muốn đạt đạo phải giữ chánh kiến.
Phật bảo Đại Huệ: Lành thay, lành thay! Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, ta sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Có vô lượng nhân duyên không nên ăn thịt. Song nay ta sẽ vì ông lược nói. Nghĩa là tất cả chúng sanh từ trước đến nay nhân duyên lần lượt thường làm lục thân, vì tưởng người thân không nên ăn thịt.
Thường làm lục thân là, đức Phật của chúng ta khuyên người phát tâm từ hiếu nên răn nhắc thiết tha. Song là Phật tử vì rõ sâu muôn vật một thể, tuy ở trong loài khác còn nghĩ độ thoát, đâu thể vì thân mạng mình vẫn buông lung miệng bụng, phóng ý giết hại, đã nghe đời trước mà không thể động lòng thương xót ư? Chính hiện tại đồng loại rất thiết tha hòa kính, sao chưa nghĩ về sau mà xem hiện nay? Pháp thời gần cuối, nhóm người học Phật phần nhiều thấy theo quyến thuộc của ma. Rất mong cùng thiên hạ đủ chánh tri kiến, kính giữ lời dạy của Phật để làm mẫu mực cho đời sau. Dùng một niệm này ngưỡng đối ba đời Như Lai ở trong đại quang minh.
Chúng sanh nhiều đời lần lượt làm bà con dòng họ với nhau, nỡ nào ăn thịt thân thuộc của mình? Lâu lâu chúng ta thấy có người, ở mặt hay trong người có một hai cái bớt giống như miếng da heo, da trâu… còn lông y nguyên. Đó là cảnh tỉnh cho mình biết người có khi kiếp trước làm thú, giờ làm người còn sót lại chút chứng tích, vậy thì người bây giờ, kiếp sau cũng có thể thành súc sanh. Mình ăn thịt thú vật, biết đâu ăn nhằm bà con của mình. Không đáng thương và đáng sợ sao?
Thịt lừa, la, lạc đà, chồn, chó, trâu, ngựa, người, thú v.v… Vì người hàng thịt bán lẫn lộn chẳng nên ăn thịt. Vì phần hơi chẳng sạch sanh trưởng, chẳng nên ăn thịt. Vì chúng sanh ngửi mùi thảy sanh kinh sợ như chiên-đà-la và đàm-bà v.v… chó thấy oán ghét sợ hãi sủa vang, chẳng nên ăn thịt.
Bán lẫn lộn là, vì không biện biệt thịt người hay thịt thú máu thịt giống nhau. Chẳng sạch là máu mủ chẳng sạch. Những người sạch sẽ còn chẳng gần gũi hội tanh, huống là ăn nuốt. Đến như tâm sợ chết thì người vật nào khác. Người quân tử còn có tâm không nỡ làm chúng sanh sợ sệt. Nếu có lòng sát hại còn không thể bì kịp người ngoài đời, huống là có thể xưng pháp khí gánh vác đạo lý sao?
Thêm nữa, vì hàng thịt lẫn lộn đủ thứ biết đâu trong đó có thịt người. Thịt lại tanh hôi có gì đáng ăn. Những người ăn thịt nhiều, chó ngửi được mùi vừa ghét vừa sợ, đi tới đâu bị chúng sủa tới đó. Mùi súc vật bị ăn bám luôn vào mình, rất hôi hám, do đó chẳng nên ăn. Ăn thịt thì lòng từ chẳng sanh, sợ còn thua người đời làm sao dám xưng là pháp khí?
Lại, vì khiến người tu hành từ tâm chẳng sanh, chẳng nên ăn thịt. Vì kẻ phàm ngu tham đắm ăn đồ hội hám bất tịnh, không được tiếng tốt, chẳng nên ăn thịt. Vì khiến chú thuật không thành tựu, chẳng nên ăn thịt. Vì người sát sanh thấy hình khởi thức đắm trước mùi vị, chẳng nên ăn thịt. Vì người ăn thịt kia chư thiên bỏ đi, không nên ăn thịt, vì khiến miệng hôi hám, không nên ăn thịt. Vì nhiều mộng dữ, không nên ăn thịt. Vì ở trong rừng vắng, cọp sói ngửi mùi, chẳng nên ăn thịt. Vì khiến ăn uống không tiết độ, không nên ăn thịt. Vì khiến người tu hành chẳng sanh nhàm lìa, không nên ăn thịt. Ta thường nói rằng: Phàm có ăn uống nên khởi tưởng như ăn thịt con, khởi tưởng như uống thuốc, không nên ăn thịt. Cho ăn thịt hẳn là vô lý vậy.
Thấy hình khởi thức đó, hình là hình thịt, thức là thức tâm. Nghĩa là tập lâu hay khiến thức tâm biến đổi, chìm sâu trong ô nhiễm. Chư thiên bỏ đi là, chư thiên không còn sân và trộm, nên bị chư thiên bỏ đi. Khiến người tu hành chẳng sanh nhàm lìa là, đệ tử trong pháp của ta, nếu chẳng dứt ăn thịt mà hay khiến tất cả phát tâm tu hành thì họ không sanh tưởng nhàm lìa. Phàm có ăn uống là, đối với sự ăn uống khác xa lìa tham đắm, còn phải khởi tưởng ăn thịt con, khởi tưởng uống thuốc, đâu lại ăn thịt, hẳn là vô lý.
Rất nhiều lý do chẳng nên ăn thịt, trên đã nói rất rõ. Người ăn thịt nhiều lòng từ khó sanh. Ví dụ chúng ta quen ăn thịt cá, thấy người câu được cá mình cũng mừng, cũng vỗ tay, đó là tùy hỷ sát. Có người tu rồi mà tâm tùy hỷ này vẫn còn thì biết tập khí đáng sợ, tâm từ bi không khởi nổi. Chúng ta không ăn, đi ngang bờ thấy có cá nhảy lên mắc cạn, mình thả nó xuống nước lại. Người ăn thịt cá thấy vậy thì sẽ bắt bỏ giỏ ngay. Một việc mà cách xử trí khác nhau là vậy. Ăn thịt là ăn đồ hôi hám bất tịnh, không được tiếng tốt. Ví dụ ăn thịt chó, người Tây phương họ không thể chấp nhận chuyện này vì đối với họ, chó là vật thân thiết và trung thành với chủ, ăn thịt chó không những thiếu lòng từ mà còn thiếu đạo lý, chúng ta cũng thấy ghê tởm. Vậy mà người ta còn treo bảng quảng cáo đủ thứ, bắt luôn cả chó ghẻ, xà mâu mà ăn, còn nghĩ ra nhiều món để nhậu. Lại khi giết vật, vật chống cự thì nổi sân, giết được tức đoạt mạng sống của vật là trộm, tâm ác sân và trộm dần tăng, nên chư thiên không ủng hộ… Như thế, đệ tử Phật khi thọ thực còn phải quán như uống thuốc, tưởng như ăn thịt con để xa lìa tham đắm, mà không bỏ ăn thịt là chuyện vô lý.
Lại nữa, Đại Huệ! Thuở xưa có ông vua tên Sư Tử Tô-đà-ta ăn các thứ thịt cho đến thịt người, thần dân chịu không nổi liền sắp mưu phản, dứt hết bổng lộc. Bởi ăn thịt có những lỗi như thế, chẳng nên ăn thịt.
Phàm người sát sanh chịu quả báo ở địa ngục. Ở đây nói hiện đời vẫn thuộc về hiện báo.
Lại nữa, Đại Huệ! Các người sát sanh là vì tài lợi, kẻ hàng thịt sát sanh buôn bán, những chúng sanh ngu si ăn thịt kia lấy tiền làm lưới mà bắt các thứ thịt. Người sát sanh hoặc do tài vật, hoặc dùng câu lưới bắt những chúng sanh thủy lục không hành, các thứ giết hại đem bán cầu lợi, Đại Huệ! Cũng không có chẳng dạy chẳng cầu chẳng tưởng mà có thịt cá. Bởi những nghĩa ấy chẳng nên ăn thịt.
Không có chẳng dạy chẳng cầu chẳng tưởng là, ở đời có người ăn thịt mới có người bán thịt, tức là dạy người khác giết. Dùng tiền của để lưới các thứ thịt là cầu, thấy hình khởi thức là tưởng. Chưa bao giờ có trừ ba thứ ấy mà được thịt cá, nên chẳng ưng ăn thịt.
Dùng mọi phương tiện để được thịt mà ăn hoặc bán. Nếu không ai mua thì làm sao bán? Cho nên, chỉ ăn dù không giết trực tiếp cũng là giết gián tiếp.
Đại Huệ! Ta có khi nói ngăn năm thứ thịt, hoặc cấm mười thứ. Nay ở kinh này tất cả thứ, tất cả thời loại bỏ phương tiện, tất cả thảy đều dứt. Đại Huệ! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác còn không có ăn, huống là ăn thịt, cũng không dạy người. Bởi lòng đại bi đi trước nên xem tất cả chúng sanh ví như con một, thế nên chẳng cho được ăn thịt con.
Năm thứ thịt là, chẳng nghe, chẳng thấy, chẳng nghi, chim ăn còn dư, tự chết. Cấm mười thứ là, thịt người, rắn, voi, ngựa, lừa, chồn, heo, chó, sư tử, khỉ, Hai thứ này khai hay ngăn, khi đức Thế Tôn mới thành Phật vì CƠ duyên chưa thuần thục, vì lòng thương xót quyền cho được ăn, song đều do thần lực hóa ra không có sanh mạng, đến trong kinh này mới bày nghĩa thật, tất cả thảy dứt vậy. Xem tất cả chúng sanh như con một nên chẳng cho ăn thịt con. Thế Tôn dạy người lấy đồng thể làm thiết yếu, đáng gọi là đến cùng tột. Song dùng lý luận thì đồng một bản trụ, hình mạo tuy khác mà tri giác là đồng, người chẳng đến nỗi mê say vẫn nên xét kỹ.
Lúc đầu, Phật cho các Tỳ-kheo có thể ăn tam tịnh nhục là những thứ thịt không vì mình mà bị giết hại, những thứ chim ăn thừa, hay vật tự chết. Đến kinh Lăng Nghiêm và kinh này thì tuyệt đối cấm hẳn. Người tu hành phải có tâm từ, coi chúng sanh như con lẽ nào ăn thịt. Tất cả chúng sanh đều có tri giác như nhau dù hình thể sai khác, vì thế chẳng nên ăn.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Thủy từng làm thân thuộc
Thô như lẫn bất tịnh
Do bất tịnh sanh trưởng
Nghe mùi thảy kinh sợ.
Tất cả thịt cùng hành
Và các thứ tỏi nên
Các thứ rượu buông lung
Tu hành thường xa lìa.
Cũng thường lìa dầu mè
Cùng các giường thủng lỗ
Bởi các trùng nhỏ kia
Ở trong rất sợ hãi.
Hành hẹ tỏi nén ăn sống thì sanh sân, ăn chín thì tham dâm, nên phải đồng dứt. Cổ chú nói: “Phong tục ngoại quốc đâm mè chờ đến có trùng, hoặc cùng Trung Hoa khác vậy.” Giường có lỗ hở có nhiều trùng ẩn, nằm ngồi nó kinh sợ, Phật từ bi đến thế, ta đâu không sanh hổ thẹn.
Phật thương xót chúng sanh, ngăn ngừa đệ tử từ những việc rất nhỏ để che chở những sinh vật nhỏ nhít, vì chúng sanh dù nhỏ bé đến đâu cũng đều tham sống sợ chết. Mình đâu nỡ vì tham chút mùi vị nơi đầu lưỡi mà giết hại mạng vật khác. Cấm dùng dầu mè vì ở Ấn-độ, người ta để mè sanh dòi rồi mới ép dầu. Giường thủng lỗ, rận rệp núp trong đó, nằm cựa mình giường kêu, chúng kinh hãi tội nghiệp.
Ăn uống sanh buông lung
Buông lung sanh vọng giác.
Từ giác sanh tham dục
Thế nên chẳng ưng ăn
Do ăn sanh tham dục
Tham khiến tâm say mê.
Say mê lớn ái dục
Sanh tử không giải thoát.
Đây xét các thứ ăn uống khác, nếu tham đắm mùi vị đều hay khiến người thân tâm buông lung, nhiều thứ giác tưởng, tột đến tham dục say mê triền miên sanh tử. Chỉ do miệng bụng một niệm theo tình, nhân nhỏ mà quả to, dâu không dè dặt ư?
Sanh tử do ái dục mà có. Ăn thịt dễ sanh tham dục, làm sao giải thoát được?
Vì lợi giết chúng sanh
Dùng của lưới các thịt
Cả hai đều ác nghiệp
Chết đọa ngục khiếu hộ.
Giết hại chúng sanh sau sẽ đọa địa ngục kêu la.
Nếu không dạy tưởng cầu
Ắt không ba tịnh nhục
Kia đâu không nhân có
Thế nên chẳng ưng ăn.
Các người tu hành kia
Do đó thảy xa lìa
Mười phương Phật Thế Tôn
Tất cả đều quở trách.
Chư Phật trong mười phương đều quở trách người ăn thịt.
Lần lượt lại ăn nhau
Chết sanh loài hổ lang
Hội nhơ đáng chán ghét
Chỗ sanh thường ngu si.
Nhiều đời làm Chiên-đà
Giống thợ săn Đàm-bà
Hoặc sanh Đà-di-ni
Và các dòng ăn thịt.
La-sát, mèo, chồn thủy
Khắp trong ấy sanh ra.
Đà-di-ni là La-sát nữ.
Quả báo ăn thịt là sanh vào loài cọp beo hội hám, la sát, mèo, chồn. Làm người thì sanh chỗ hạ tiện, hoặc thợ săn…
Phược Tượng cùng Đại Vân
Ương Quật Lợi Ma La
Và kinh Lăng Già này
Ta đều cấm ăn thịt.
Phược Tượng, Đại Vân, Ương Quật Lợi Ma La đều là tên kinh.
Chư Phật và Bồ-tát
Thanh văn chỗ quở trách
Ăn rồi không hổ thẹn
Đời đời thường si tối.
Trước nói thấy, nghe, nghi
Đã dứt tất cả thịt
Vọng tưởng chẳng giác biết
Nên sanh chỗ ăn thịt.
Như lỗi tham dục kia
Chướng ngại giải thoát Thánh
Rượu thịt hành tỏi nên
Thảy là chướng Thánh đạo.
Chư Thánh đều quở trách nếu ăn không hổ thẹn sẽ bị quả si tối, sanh chỗ ăn thịt, chướng ngại việc giải thoát. Thêm rượu, hành tỏi nén đều làm chướng Thánh đạo.
Chúng sanh đời vị lai
Nơi thịt ngu si nói
Rằng đây tịnh không tội
Phật cho chúng ta ăn.
Ăn tưởng như uống thuốc
Cũng như ăn thịt con
Biết đủ sanh nhàm lìa
Tu hành hạnh khất thực.
Người an trụ từ tâm
Ta nói thường chán lìa
Cọp sói các thủ ác
Hằng nên cùng đi ở.
Nếu ăn các máu thịt
Chúng sanh ắt kinh sợ.
Đệ tử Phật hành hạnh khất thực, biết đủ và nhàm lìa thịt, an trụ tâm từ, ở chung với thú dữ cũng không bị tổn hại. Nếu ăn thịt thì chúng sanh thấy kinh sợ và ghét hại mình.
Thế nên người tu hành
Từ tâm chẳng ăn thịt
Ăn thịt không từ tuệ
Hằng trái chánh giải thoát
Và trái biểu tướng Thánh
Thế nên chẳng ăn thịt.
Ăn thịt thì không có từ bi trí tuệ, trái với giải thoát chân chánh và cũng trái với biểu tướng Thánh.
Được sanh dòng Phạm chí
Và các chỗ tu hành
Nhà giàu sang trí tuệ nhân
Đây do chẳng ăn thịt.
Không ăn thịt được sanh dòng Phạm Chí, được tu hành hoặc sanh chốn giàu sang, có nhiều trí tuệ.
Chướng ngại giải thoát Thánh đều là chướng Thánh đạo. Ăn thịt không từ tâm hằng trái chánh giải thoát. Như Lai lại đôi ba phen thiết tha răn nhắc đều vì người tu hành, nghiêm huấn dạy bảo. Bởi vì Ngài thương đời sau “nói là Đại thừa vô ngại” vọng buông những tà luận và vu khống Như Lai là cho ăn tịnh nhục, làm hoặc loạn kẻ sơ tâm. Một bọn như thế phần nhiều ưa buông lung, không có tâm hổ thẹn, thật là cặn bã ở địa ngục. Được sanh dòng Phạm chí và các người tu hành, nhà giàu sang trí tuệ, còn do không ăn thịt thay, phương chi đệ nhất nghĩa giải thoát của Như Lai? Phật ở trong kinh này chỉ thẳng thức tàng tức Như Lai tàng, chỉ một phen liễu đạt thì toàn vọng tức là chân. Chẳng phải cảnh giới của tất cả Nhị thừa và quyền vị Bồ-tát, mà đối với giới đức rất thiết tha răn dạy. Cho nên biết, vô lậu chân tịnh không dung vật khác, trước sau gốc ngọn cứu kính rõ ràng không còn dư sót. Mười phương ba đời tất cả Như Lai đồng một bí mật, đại đạo sáng tỏ như mặt trời, không nên nghi ngờ.
Nay tôi tóm lược lại toàn bộ kinh Lăng Già để chúng ta nắm được căn bản mà tu. Toàn bộ kinh có thể nói tóm gọn trong năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai vô ngã.
Năm pháp: Danh, Tướng, Vọng tưởng, Chánh trí, Như như.
Ba tự tánh: Biến kế sở chấp tánh, Y tha khởi tánh, Viên thành thật tánh.
Tám thức: A-lại-da tức Tàng thức là thức thứ tám, Mạt-na thức là thức thứ bảy, Ý thức là thức thứ sáu và Tiền ngũ thức là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân thức.
Hai vô ngã: Nhân vô ngã và Pháp vô ngã.
Bảy thức trước duyên theo danh và tướng thấy có người thật, pháp thật mà khởi phân biệt, sanh biến kế sở chấp. Đem chủng tử thiện ác gieo vào tàng thức, gặp duyên xúc cảnh lại khởi hiện hành tạo đủ các nghiệp, huân rồi khởi, khởi rồi huân; không biết tất cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợp, là tánh y tha khởi thuộc hữu vi; khi chết bị chúng lôi đi trong ba cõi. Đó là vọng tưởng. Nếu đối với danh tướng không khởi vọng, năm thức trước chỉ hoàn thành nhiệm vụ thấy nghe… mà thôi gọi là Thành sở tác trí; biết chúng giả dối không thật, thành Diệu quan sát trí; biết chúng đều từ tự tâm hiện thì nhân và pháp đều vô ngã, được Bình đẳng tánh trí. Được hai vô ngã rồi thì tám thức không còn, tâm bèn tự như. Như như là Như Lai tàng hay tự tâm hiện lượng là tánh Viên thành thật, tròn sáng viên dung nên còn gọi là Đại viên cảnh trí. Đó là chánh trí.
Trọng tâm của kinh là muốn chúng ta nhận ra Tự giác Thánh trí hay Như Lai tàng tánh của chính mình. Mọi người đều có sẵn mà bất giác tức là mê, khiến Như Lai tàng biến thành Tàng thức, thoạt sanh năng sở, rồi sanh thức thứ bảy là Mạt-na thức chấp ngã, ý thức thứ sáu và năm thức trước thuộc năm căn. Năm căn tiếp xúc với cảnh, ý thức duyên theo phân biệt bóng dáng của chúng thành vọng tưởng huân chứa vào Tàng thức, do thức thứ bảy đón vào thành chủng tử. Gặp cảnh mới, thức thứ bảy lại đưa chúng ra thành hiện hành. Ý thức lại dựa vào đó mà phán đoán, phân biệt cảnh tiếp rồi lại huân ngược vào Tàng thức. Những chủng tử nào cứ hiện hành hoài thì sẽ tạo thành nghiệp lực, thành hành, sau dẫn thức đầu thai, tạo danh sắc mới thành thân có đủ sáu căn rồi lại chấp ngã, ý thức lại dựa vào đó mà sanh vọng tưởng v.v… tiếp nối vô cùng tận. Như thế vọng tưởng chính là nhân sanh tử mà đầu mối chính là do bất giác vô minh. Đối tượng của vọng tưởng không gì ngoài danh và tướng. Nếu không theo danh tướng nữa thì vọng tưởng lặng. Muốn không theo phải nhận chân được chúng, nghĩa là dùng chánh trí biết chúng như mộng huyễn, từ tâm biến hiện không có thật thể. Vọng tưởng lặng rồi thì như như. Như như không phải từ ngoài đến, chỉ là hết vọng tưởng thì trở về với nó. Nó chính là Như Lai tàng, là bản tâm thanh tịnh xưa nay của chúng ta, Thế thì Như Lai tàng và Tàng thức không phải một nhưng cũng chẳng phải hai. Nghĩa là có hai tên tùy mê ngộ nhưng chỉ một thể mà thôi. Tàng thức như kho chứa, nếu không có chủng tử nạp vào, tống ra thì kho này rỗng rang, Tàng thức biến thành Không Như Lai tàng.
Lục Tổ bảo ngài Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay khi ấy cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa Minh?” Ngài Huệ Minh liền ngộ. Bản lai diện mục của chúng ta sẽ hiện tiền khi không còn những niệm thiện ác, tốt xấu… lăng xăng trong tâm. Tâm tuy vốn không một vật nhưng có thể sanh ra muôn pháp. Miễn là mình biết các pháp từ tâm sanh, không cho là thật thì không điên đảo gây nghiệp luân hồi. Gốc tu là ở chỗ này. Tú tài Trương Chuyết có nói :
Quang minh tịch chiếu biến hà sa,
Phàm Thánh hàm linh cộng ngã gia.
Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện,
Lục căn tài động bị vân già.
Dục trừ phiền não trùng tăng bệnh,
Thú hướng chân như tổng thị tà.
Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại,
Niết-bàn sanh tử đẳng không hoa.
Dịch:
Quang minh tịch chiếu khắp hà sa,
Phàm Thánh hàm linh chung một nhà.
Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện,
Sáu căn vừa động bị che lòa.
Muốn trừ phiền não càng thêm bệnh,
Nhắm đến chân như đều là tà.
Tùy thuận mọi duyên không quái ngại,
Niết-bàn, sanh tử thảy không hoa.
Chỉ cần dùng chánh trí biết như thật là xong. Như Lai tàng còn có tên Bất Không Như Lai tàng, vì ngoài việc sanh ra muôn pháp, mọi công đức cũng đầy đủ trong đó. Chư Phật, Bồ-tát vận dụng thành phương tiện vô tận độ thoát chúng sanh.
Vì lời dạy của kinh Lăng Già rất phù hợp với lối tu của Thiền tông, chúng ta mới hiểu vì sao tổ Bồ-đề Đạt-ma dạy dùng Kinh này để ấn tâm. Mong rằng mọi người có thể nương theo đây rõ được đường lối tu tập, thực hành để đạt được cứu kính viên mãn./.