Nội dung:
Có bốn:
Trước khi học phần này tôi giải thích qua ý nghĩa. Từ trước chúng ta đã thấy Phật chỉ dạy thứ tự tu chứng, đến đây Ngài nói về kết quả tu chứng. Đôi khi chúng ta khởi nghi, nghe kinh nói tất cả đều không, ngã không thật, pháp không thật, như vậy không biết tu tập để làm gì? Sự thật khi phá được chấp ngã chấp pháp, lúc đó ý sanh thân hiển hiện. Ý sanh thân có ba loại, mỗi loại đều có diệu dụng. Khi không còn bám chặt vào thân vô thường nhỏ bé, theo cảnh vô thường sanh diệt, tùy trình độ tu chứng mà có ý sanh thân sai biệt, không phải không ngơ. Dẹp được tâm hẹp hòi nhỏ mọn tạm bợ sẽ được thân rộng lớn đầy đủ diệu dụng.
Khi ấy, Thế Tôn bảo đại Bồ-tát Đại Huệ rằng: Nay ta sẽ nói phân biệt tướng chung của ý sanh thân. Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó. Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn, lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Có ba thứ ý sanh thân. Thế nào là ba? Là: Tam muội lạc chánh thọ ý sanh thân, Giác pháp tự tánh tánh ý sanh thân, Chủng loại câu sanh vô hành tác ý sanh thân. Người tu hành rõ biết tướng Sơ địa tiến lên các địa được ba thứ thân.
Ba thứ thân từ Sơ địa đến Phật địa là phân biệt sở chứng. Tam muội lạc chánh thọ là từ Sơ địa đến Thất địa. Giác pháp tự tánh tánh là từ Bát địa đến Thập địa. Chủng loại câu sanh vô hành tác là rốt sau của Kim cang địa chứng được Pháp thân, như hạt châu ma-ni tùy loại đối hiện. Ba thân này có thể phối hợp với ba pháp quán. Tam muội chánh thọ thuộc về chỉ Giác pháp tự tánh tánh thuộc về quán. Chủng loại là chủng loại Thánh, tất cả Phật tự tánh ảnh hiện không thể nghĩ bàn thuộc về trung đạo thiền-na. Giác tự tâm hiện là, tam quán đồng thời đầy đủ. Ba đức tự tánh này tức một mà ba, tức ba mà một, chẳng đồng với quyền thừa thủy giáo một vị chẳng biết một vị. Song tùy địa sâu cạn chẳng ngại mỗi vị có thân chứng nên nói viên dung (đốn chứng) chẳng ngại hành bố (tiệm chứng).
Ba ý sanh thân này từ Sơ địa đến Phật địa chứng được. Càng tu tiến càng có ý sanh thân tế nhị, nhiệm mầu. Tuy phân ra ba, nhưng thể giác tròn đủ, đồng thời tùy hiện nên nói tức một mà ba, tức ba mà một.
Đại Huệ! Thế nào là tam muội lạc chánh thọ ý sanh thân? Nghĩa là đệ tam địa, đệ tử địa, đệ ngũ địa, vì tam muội lạc chánh thọ, các thứ tự tâm vắng lặng, an trụ nơi tâm hải, tướng thức nổi sóng chẳng sanh. Biết cảnh giới tự tâm hiện tánh là phi tánh, ấy gọi là Tam muội lạc chánh thọ ý sanh thân.
Ý sanh thân thứ nhất là Tam muội lạc chánh thọ ý sanh thân, là thân vui trong chánh định. Các vị Bồ-tát từ Tam địa đến Thất địa được thân này, lúc đó chỉ có vui chánh định, các thứ tâm hiện đều vắng lặng. Tướng thức nổi sóng chẳng sanh, nghĩa là biết các pháp không thật, không khởi vọng thức, như biển lặng yên chẳng dậy sóng.
Từ Sơ địa đến Tứ địa đoạn kiến hoặc hết, từ Ngũ địa đến Thất địa đoạn tư hoặc hết. Đại thừa giác tự tâm hiện đã đoạn hai hoặc tuy chẳng đồng Nhị thừa thấy có thật pháp, say đắm tam muội, đối trị sanh tử. Song từ sóng thức chuyển biến, giác tự tâm hiện thảy không thật có, tự tâm vắng lặng bỗng nhiên hiện tiền, đã có tam muội đều từ liễu nhân. Nên nói an trụ tâm hải, không có thọ lạc.
Đây nói thẳng về Đại thừa nên không dùng pháp đối trị. Hàng Bồ-tát thấy tất cả các pháp năng hiện sở hiện như huyễn, từ bất giác khởi lên không thật, chỉ cần biết như vậy không dùng pháp quán đối trị, tánh giác hiện tiền gọi là liễu nhân.
Liễu nhân là đối với sanh nhân và tác nhân. Sanh nhân là nhân sanh ra, ví dụ chúng ta ương hột mít, từ hột mít mọc lên cây, đó là sanh nhân. Tác nhân là nhân tạo tác. Như một cái bàn do nhân công, gỗ, cưa, bào, đục… phương tiện đóng thành cái bàn, đó là tác nhân.
Liễu nhân không phải là nhân sanh ra hay nhân tạo tác, nó chỉ làm sáng cái hiện có. Như trong nhà tối, ban đêm không đèn không trăng, có những đồ vật để ở trong nhà chúng ta không lấy được. Nếu đốt đèn hoặc mở công tắc điện, đèn sáng soi tỏ đồ vật. Ánh sáng không tạo nên, không làm ra đồ vật, chỉ nhờ nó mà chúng ta thấy được đồ vật có sẵn.
Phật tánh hay tánh giác là liễu nhân, không do bên ngoài tạo ra. Chúng ta tu biết các pháp không thật, không khởi vọng đuổi theo các pháp, khi vọng lặng thì tánh giác hiển lộ. Tâm giác đó sẵn có từ xưa đến nay, chỉ vì vọng tưởng che mờ nên chúng ta không nhận ra. Khi hết vọng thì tâm sáng tỏ, không do cái gì tạo ra, nên gọi là liễu nhân.
Đại Huệ! Thế nào là Giác pháp tự tánh tánh ý sanh thân? Nghĩa là đệ bát địa quán sát giác liễu các pháp thủy như huyễn đều không thật có, thân tâm chuyển biến được như huyễn tam muội và các môn tam muội khác. Vô lượng tướng, lực, tự tại, minh, như hoa đẹp trang nghiêm chóng được như ý. Ví như huyễn, mộng, trăng đáy nước, bóng trong gương chẳng phải năng tạo chẳng phải sở tạo. Như năng tạo sở tạo tất cả sắc các thứ chi phần đầy đủ trang nghiêm, tùy vào tất cả cõi Phật có đại chúng. Vì thông đạt pháp tự tánh, ấy gọi là Giác pháp tự tánh tánh ý sanh thân.
Ý sanh thân thứ hai là Giác pháp tự tánh tánh ý sanh thân, đây là Bát địa Bồ-tát được. Các Bồ-tát này đã giác liễu các pháp đều như huyễn, thân tâm chuyển biến được chánh định như huyễn. Sao gọi là chánh định như huyễn? Như hiện tại chúng ta đi đứng nằm ngồi, thấy người thấy cảnh biết là như huyễn không thật. Tất cả thấy nghe xúc chạm đối với người, với vật đều lặng lẽ, không động. Biết tất cả như huyễn không thật, nên tâm không bận bịu lo lắng, tâm được an định. Không cần ngồi tâm mới an định, trong tất cả trường hợp chạm duyên xúc cảnh tâm tự lặng lẽ. Vì trụ sâu trong tánh như huyễn của các pháp nên gọi là chánh định như huyễn. Các Bồ-tát được tam muội như huyễn rồi, có thể thị hiện vô lượng tướng, có đại thần lực, đại tự tại, trí tuệ sáng suốt để giáo hóa chúng sanh. Tất cả diệu dụng đó như hoa đẹp trang nghiêm. Thân tướng đẹp như ý, thêm nhiều năng lực thần thông, nhưng tất cả đều xem như huyễn mộng, không thấy có người tạo tác và pháp được tạo. Dù độ sanh vô tận, vẫn thấy việc làm đều như huyễn, như bóng trong gương, như trăng đáy nước.
Chỗ này cho thấy tinh thần của đạo Phật rất cao sâu. Như ở thế gian người nào có chút thần thông, hoặc bay lên hư không, hoặc được sức mạnh như thần.. đều tự đắc hãnh diện, cho rằng mình có công năng đặc biệt, việc làm của mình là thật, thiên hạ không ai bằng. Đối với đạo Phật, tất cả thần thông diệu dụng đều như huyễn, làm Phật sự như không hoa trăng nước, không có gì quan trọng. Quan trọng là nhận được tánh giác, sống với tự tâm chân thật.
Thói quen của chúng sanh là thích những gì lạ lùng. Nếu bảo mọi người đều có tánh thấy nghe chân thật hiện tiền thì cho là bình thường, không cần để ý. Còn nói tôi biết quá khứ vị lai, tâm của ai nghĩ gì tôi đều biết, thì thiên hạ phục lăn, rất quý trọng. Như vậy là chạy theo hình tướng bên ngoài, không biết sống với thể chân thật. Sống được với thể chân thật thì mọi diệu dụng đều tùy tâm lưu xuất. Cho nên các Bồ-tát nhận ra thể tánh các pháp, biết rõ tướng như huyễn rồi liền được mọi công năng đặc biệt, nhưng vẫn xem đó như trò chơi, như bóng trong gương, chẳng phải thật có hay thật không. Đây là chỗ thậm thâm vi diệu của Phật pháp, chúng ta cần nhận rõ.
Đệ bát địa thấy pháp vô ngã, giác tự tâm hiện tất cả cảnh giới thảy như mộng huyễn. Liền dùng tự giác chiếu liễu thân tâm chuyển biến, thuận tánh khởi dụng, nhập như huyễn tam muội và vô lượng tam muội lực, thông, hiện tất cả thân như trăng đáy nước, bóng trong gương như ý tự tại khắp các cõi Phật, Hiểu sâu pháp tánh chẳng phải có chẳng phải không, chẳng do tạo tác, tự nhiên đầy đủ trang nghiêm.
Thuận tánh khởi dụng, câu này rất quan trọng, nghĩa là trở về tánh giác rồi thì khởi ra diệu dụng. Thể nhập pháp tánh nên vào như huyễn tam muội, có vô lượng tam muội khác, thập lực, tam minh, lục thông. hiện đầy đủ, nhưng vẫn xem là bóng dáng không thật. Thể nhập pháp tánh nên không vướng kẹt có và không, cũng không phải do tạo tác mà được, tự thể tánh như vậy làm trang nghiêm, không cần thêm gì khác.
Đại Huệ! Thế nào là chủng loại câu sanh vô hành tác ý sanh thân? Nghĩa là giác tất cả Phật pháp duyên tự được tướng lạc, ấy gọi là chủng loại câu sanh vô hành tác ý sanh thân. Đại Huệ! Đối với tướng ba thân kia quản sát giác liễu nên phải tu học.
Ý sanh thân thứ ba là Chủng loại câu sanh vô hành tác ý sanh thân, nghĩa là thân đồng sanh chung với muôn loài mà không thấy có hành động tạo tác, chỉ tự nhiên hiển hiện. Đây là đến Phật địa mới được diệu dụng này.
Giác tất cả Phật pháp duyên tự được tướng lạc là, chứng được tự tánh Pháp thân tất cả Như Lai đã chứng. Như hạt châu ma-ni tùy năm sắc hiện. Tự tánh Pháp thân của Như Lai cũng lại như thế, tùy tâm chúng sanh đối diện liền hiện. Như Lai không có tâm niệm. Đây là do bi nguyện nhiều kiếp làm thành, cũng là tự tánh pháp tướng lý ưng như thế, chỉ một mình Phật mới hay viên chứng.
Chỗ này càng đọc kỹ chúng ta càng thấm sâu ý nghĩa vi diệu của Phật pháp. Ý sanh thân thứ ba là thân hiện mọi chủng loại, không do tạo tác, không do khởi niệm, mà thị hiện tất cả. Đó là khi tâm hoàn toàn thanh tịnh sẽ có những diệu dụng không cố định, tùy đối duyên đối cảnh ứng hiện trong mọi lúc. Như Lai không có tâm niệm, đây là do bi nguyện nhiều kiếp làm thành, nghĩa là Phật không có tâm niệm hiện ra cho một chúng sanh nào, chỉ vì bị nguyện cứu độ từ vô lượng kiếp, tự nhiên chúng sanh thấy Ngài hiện đến với mình. Thật sự Phật không đến không đi, chỉ vì tâm tưởng tha thiết của chúng sanh nên thấy dường như được gặp Phật. Đây cũng là tự tánh pháp tướng, nghĩa là khi thể nhập tự tánh thì các tướng tùy duyên ứng hiện, vô lượng khả năng phi thường.
Tôi lấy một ví dụ nhỏ. Như trường hợp của tôi chỉ là một phàm phu tăng, nhưng có nhiều Phật tử gặp tôi nói rằng đêm rồi ngủ nằm mộng thấy tôi đến dạy cho tu tập. Phật tử hỏi: “Có phải thầy đến dạy con không?” Tôi cười và giải thích là tối thì tôi ngủ, chỉ vì Phật tử nghe tôi nói pháp rồi tin tưởng nên thấy như vậy. Nói không có vẻ gì huyền bí mà đúng sự thật, như lời Phật ở đây.
Khi tâm chúng ta hoàn toàn thanh tịnh, không có vọng tưởng, lúc đó là vui hay buồn? Như có một tấm gương trong, người ta đem năm màu xanh vàng đỏ trắng đen sơn phết lên, nhìn vào gương chỉ thấy năm hàng màu sắc, không thấy mặt gương. Có người ra sức lau chùi hết các màu sơn, chỉ còn lại mặt gương trong. Lúc nhìn thấy mặt gương trong không thấy các màu sắc, chúng ta tưởng như rất buồn.
Nhưng tấm gương trong sáng hiện ra cả bầu trời, cả muôn nghìn người, hết thảy cảnh vật đều thấy rõ trong gương, tấm gương không có tất cả mà hiện tất cả. Cũng vậy, khi tâm chúng ta không còn những vọng tưởng vui buồn thương ghét, tưởng như không có gì, nhưng lúc đó sẽ tùy duyên ứng hiện vô lượng khả năng phi thường. Đó là chỗ rất quan trọng. Chúng ta đừng lo khi chùi sạch hết vọng tưởng thì không còn khôn ngoan, chỉ lo chùi không sạch hết vọng tưởng che mờ mà thôi.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng:
Thừa ta phi Đại thừa
Phi thuyết cũng phi tự
Phi đế phi giải thoát
Phi cảnh giới có không.
Phật thừa không phải là Tam thừa hay Đại thừa. Phi thuyết, không phải nói. Phi tự, không phải chữ. Phi đế phi giải thoát, không phải đế, cũng không phải giải thoát. Phi cảnh giới có không, không vướng mắc cảnh giới có và không.
Song thừa Đại thừa này
Được chánh quán tự tại
Các thứ ý sanh thân
Hoa trang nghiêm tự tại.
Ứng dụng tu đúng như vậy sẽ được chánh quán tự tại và các ý sanh thân. Các ý sanh thân đó có diệu dụng như tràng hoa đẹp trang nghiêm tự tại.
Bài kệ hiển bày Như Lai tự giác Thánh trí lìa các tướng thừa, chẳng phải lời nói đến, chẳng phải tất cả đế, chẳng phải tất cả giải thoát, cũng chẳng phải cảnh giới không thật có. Đây chính hiển bày đệ nhất nghĩa từ chứng tự biết của pháp môn Đại thừa. Vào pháp môn này tự nhiên được ba thứ thân trang nghiêm tự tại, chẳng cần dụng công.
Pháp môn Đại thừa là pháp môn tự tâm thanh tịnh, vào pháp môn này thì được tự tại không cần dụng công. Ngoại đạo tu luyện, áp dụng mọi phương pháp để được thần thông, thần thông ấy là có tạo tác nên vô thường, được rồi cũng mất. Ý sanh thân của Phật và Bồ-tát là do thể nhập tự tánh thanh tịnh nên tùy duyên ứng hiện như huyễn. Chúng sanh cần thì các ngài thị hiện vô lượng tướng, vô lượng trang nghiêm không bao giờ tận cùng. Đó là chỗ khác nhau giữa thần thông của ngoại đạo và thần thông của Phật.
Có sáu:
Đại Bồ-tát Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Như Thế Tôn nói “Nếu người nam kẻ nữ hành nghiệp ngũ vô gián chẳng vào địa ngục vô gián”. Thế Tôn! Thế nào người nam kẻ nữ hành nghiệp ngũ vô gián mà chẳng vào địa ngục vô gián? Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn, lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo: Đại Huệ! Thế nào là nghiệp vô gián? Nghĩa là giết cha, giết mẹ, hại A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, ác tâm làm thân Phật ra máu.
Giết cha, giết mẹ, hại A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật ra máu, năm nghiệp vô gián này quyết định mắc quả báo trong địa ngục vô gián. Song Phật cũng có khi nói: cũng có người hành nghiệp ngũ vô gián mà không mắc quả báo trong địa ngục vô gián, cho nên ở văn sau phát minh.
Đại Huệ! Thế nào là mẹ chúng sanh? Nghĩa là ái lại thọ sanh, cùng với tham và hỷ chung, như duyên nơi mẹ mà sanh thành. Vô minh là cha sanh vào xóm làng lục nhập thập nhị xứ. Đoạn hai thứ căn bản này gọi là giết cha mẹ.
Hai tội vô gián đầu tiên là giết cha và giết mẹ. Mẹ ở đây là ái, vì có ái nên có thọ sanh, vì thế nói ái lại thọ sanh. Ái luôn luôn kết hợp với tham và hỷ. Thông thường những gì chúng ta yêu thích thì luôn đi kèm với tham và hỷ. Như người thích đồ cổ, có ai đem tặng một cái bình xưa, người đó mừng không? Thấy ai có món đồ xưa đẹp quý thì có trầm trồ mong mình được không? Vì thế, ái sanh ra chỗ nào đều có tham và hỷ đi theo. Nhìn xuống loài súc sanh, gần nhất là loài chó, vì yêu thân nên được làm thân chó, nó không thấy đó là bất hạnh, nó cũng đùa giỡn vui mừng. Ai tỏ vẻ giận dữ muốn giết thì nó buồn sợ. Đó là vì ái thân nên tham sống sợ chết.
Tham ái là nguyên nhân làm chúng ta tái sanh từ đời này sang đời khác, còn động cơ chủ yếu của guồng máy luân hồi sanh tử là vô minh. Vô minh là gốc, đó là cha, tham ái phụ thêm sức mạnh để thọ sanh, đó là mẹ. Như vậy vô minh và ái là cha mẹ dẫn chúng ta vào làng xóm lục nhập. Ngay thân này chính là làng xóm lục nhập, có sáu căn tiếp xúc sáu trần, như làng xóm là nơi tụ tập. Chúng ta ở tạm nơi làng xóm này, nhưng cứ tưởng thật nên bám chặt, chấp đó là ta.
Tất cả người tu khi diệt được hai thứ căn bản là vô minh và tham ái thì gọi là giết cha giết mẹ, tuy gọi là tội ngũ vô gián nhưng không bị đọa địa ngục. Nếu từ bi và hiếu thảo với cha mẹ này thì tiếp tục luân hồi không biết khi nào dừng. Cho nên phải bất hiếu, mà không gọi là ác tâm. Còn đối với cha mẹ sanh thân này thì chúng ta nên thương kính, hiếu thuận. Phải phân biệt rõ như vậy.
Ái là phần ái trong mười hai nhân duyên, vì nó hay nhuận sanh, cho nên nói “lại thọ sanh cùng với tham và hỷ chung”, có nghĩa dưỡng dục nên nói “như duyên nơi mẹ mà sanh thành”. Phần vô minh thì hay phát nghiệp nên gọi nó là cha. Mẹ tham ái hiệp với cha vô minh tức là vào xóm làng lục nhập và thập nhị xứ, thành thân đời sau. Hai cái này là nhân sanh tử nên nói căn bản. Đoạn hai cái căn bản này gọi là giết cha mẹ.
Nhuận sanh, nhuận là thấm nhuần, sanh là tiếp nối sanh ra. Vì có vô minh là cha, nếu không có ái thì không tiếp tục sanh ra đời sau, nên nói ái là nguyên nhân trợ giúp sanh tử. Vô minh là nguyên nhân chánh để phát nghiệp, gọi là căn bản vô minh, ái là nhuận sanh vô minh, cả hai đều vô minh. Nếu dứt được cha vô minh và mẹ tham ái thì không còn đi vào xóm làng lục nhập của đời sau, ngay đó dứt sanh tử.
Các sử kia chẳng hiện như chuột độc phát các pháp, cứu kính đoạn nó, gọi là hại La-hán.
Hại La-hán là giết hết tập khí của mười kiết sử. Các kiết sử này lôi dẫn chúng ta đi trong đường sanh tử, nên gọi là sử (sai sử, xúi giục). A-la-hán dứt được các sử trên phần thô, còn tập khí vi tế bên trong chưa dứt hết. Ví dụ như chuột độc phát các pháp. Ở Ấn Độ có loại chuột độc cắn người, lúc vết thương lành thấy không nguy hiểm, nhưng chất độc tiềm ẩn bên trong, khi gặp sấm chớp vết thương phát tác khiến người phải chết. Cũng vậy, A-la-hán đối với các tập khí ngầm chưa dứt sạch, khi cứu cánh đoạn dứt các tập khí của kiết sử thì gọi là hại A-la-hán.
La-hán đoạn mười chánh sử, chưa đoạn tập khí. Nói như chuột độc phát là, như con chuột độc cắn người vết thương tuy đã lành, mà gặp sấm chớp lại phát sanh. Dụ La-hán đoạn được nội sắc mà chưa đoạn ngoại sắc, cho nên gặp duyên liền dao động. Chứng tự giác trí thì tập khí chóng trừ, tất cả pháp đã có như chuột độc phát sanh thảy đều hằng đoạn, gọi là hại La-hán.
Mười chánh sử là tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ. Vì A-la-hán chưa phá hết chấp pháp nên còn các tập khí của kiết sử, gặp duyên liền dao động. Khi chứng tự giác thánh trí thì tất cả tập khí đều tiêu dung, chấp pháp cũng đoạn, lúc đó không còn trụ bậc A-la-hán mà tiến lên quả Phật, nên gọi hại A-la-hán.
Thế nào phá hòa hợp Tăng? Nghĩa là các ấm tướng khác hòa hợp chứa nhóm, cứu kính đoạn nó, gọi là phá Tăng.
Sắc thọ tưởng hành thức là tướng khác của các ấm. Năm ấm hòa hợp chứa nhóm sanh tử nên gọi là tập. Nếu hay đoạn nó thì gọi là phá Tăng. Vì Tăng là nghĩa hòa hợp.
Tăng có nghĩa là hòa hợp. Thân năm ấm này tồn tại là nhờ sự chung hợp của sắc, thọ, tưởng, hành, thức; mỗi ấm đều có tên khác, tướng khác nên gọi là tướng khác hòa hợp chứa nhóm. Nếu năm ấm không chung hợp thì thân này không có; phá tăng nghĩa là phá cái duyên để tiếp tục hòa hợp thành năm ấm thân sau. Quán sát năm ấm giả tạm không thật, sự chứa nhóm cũng không thật là phá hòa hợp Tăng.
Đại Huệ! Do bất giác ngoại cảnh tự tướng cộng tướng từ tự tâm hiện lượng nên bảy thức thân sanh. Dùng ba thứ giải thoát vô lậu ác tưởng, cứu kính đoạn bảy thứ thức Phật kia, gọi là ác tâm làm thân Phật ra máu.
Vì mê Như Lai tàng bất giác khởi ngoại cảnh, thấy có tướng riêng tướng chung, tất cả đều là tự tâm hiện lượng. Từ bất giác nên có tàng thức và bảy thức thân mạt-na thức, ý thức, nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức Bảy thức thân này đều là vọng giác. Dùng ba giải thoát vô lậu là không, vô tướng, vô nguyện đoạn trừ vọng tưởng, khiến bảy thức không sanh khởi, gọi là ác tâm làm thân Phật ra máu. Vì sao gọi thức là Phật? Bảy thức là tướng của vọng giác, có giác nên gọi là Phật, nhưng Phật này là Phật giả. Chân giác là trí tuệ đạt tự tâm hiện lượng hay còn gọi là Thánh trí tự giác, đó là Phật thật. Chúng ta thường quen sống với Phật giả Phật vọng, nên bây giờ dùng ba môn giải thoát để đoạn dứt Phật vọng giác. Vì đập tan mê lầm của bảy thức nên gọi ba môn giải thoát là ác tưởng.
Nếu người nam kẻ nữ hành việc vô gián này gọi là ngũ vô gián, cũng gọi là vô gián đẳng.
Thực hành năm việc vô gián này gọi là vô gián đẳng, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Năm vô gián bên trong này tất cả người tu đều cố gắng diệt trừ, không phải như năm tội vô gián bị đọa địa ngục bên ngoài.
Tám thức có hai nghĩa giác và bất giác. Nếu bất giác ngoại cảnh tự tướng cộng tướng đều tự tâm hiện thì, giác là ngã tướng của bảy thức. Do kiến phần vọng giác của thức thứ tám, thức thứ bảy liền chấp làm ngã. Đây gọi là bảy thức thân. Bản nhà Đường dịch là tám thức vẫn đồng với ý chỉ này. Nếu giác tự tâm hiện ra liền hay dùng vô tác, vô tướng, vô nguyện an trụ bất giác trong biển tâm tịch tịnh. Nên nói “dùng ba thứ giải thoát vô lậu ác tưởng đoạn thân giác kia”. Hiệp năm hạnh này thì chứng được thật pháp chánh chân, nên nói “vô gián đẳng”.
Vì bất giác chạy theo các cảnh tự tướng cộng tướng, duyên theo đó mà phân biệt, tướng chấp ngã khởi lên, thức a-lại-da bèn có nghĩa sanh diệt và bất sanh diệt hòa hợp. An trú trong ba giải thoát môn để tâm được thanh tịnh, bảy thức lóng lặng thì thức a-lại-da không còn bị đeo níu chấp ngã, các pháp trở về thể tánh chân thật.
Năm hạnh vô gián này là năm hạnh tu của người nguyện giải thoát sanh tử, ngược lại với năm tội vô gián bên ngoài.
Lại nữa, Đại Huệ! Có ngoại ngũ vô gián, nay sẽ diễn nói, ông và các đại Bồ-tát khác nghe nghĩa này rồi, ở đời vị lai chẳng rơi vào ngu si. Thế nào là ngũ vô gián? Nghĩa là trước đã nói vô gián, nếu người hành được pháp này đối ba môn giải thoát mỗi mỗi chẳng được pháp vô gián đẳng. Trừ người này ra, còn các vị hóa thần lực hiện vô gián đẳng, như là Thanh văn hóa thần lực, Bồ-tát hóa thần lực, Như Lai hóa thần lực, vì người khác tạo tội vô gián để trừ nghi và hối quá.
Ngoại ngũ vô gián là năm tội vô gián bên ngoài, tội thật sự giết cha mẹ. Phải phân biệt tội ngũ vô gián này để không rơi vào ngu si. Nghĩa là những người phạm năm tội vô gián bên ngoài, sẽ không được tam giải thoát môn, không được pháp vô gián đẳng, gọi là đối ba môn giải thoát mỗi mỗi chẳng được pháp vô gián đẳng.
Trừ người này ra, tức là trừ người chịu tội ngũ vô gián, còn có các trường hợp các vị hóa thần lực thị hiện phạm tội ngũ vô gián. Chư Phật chư Bồ-tát thương chúng sanh ở trong ngục vô gián, thị hiện phạm tội vào trong đó để chỉ dạy cho họ ăn năn hối lỗi.
Vì khuyến phát nên dùng thần lực biến hóa hiện vô gián đẳng. Không có một bề làm việc vô gián mà chẳng mắc vô gián đẳng. Trừ người giác tự tâm hiện lượng lừa thân tài vọng tưởng, lìa ngã và ngã sở nhiếp thọ; hoặc khi gặp thiện tri thức giải thoát vọng tưởng tương tục trong các cõi.
Vì khuyến phát nên dùng thần lực biến hóa, nghĩa là chư Thánh dùng thần lực biến hóa phạm tội, rồi ăn năn sám hối liền chuyển nghiệp, để khuyến khích các người phạm tội thức tỉnh ăn năn cũng được chuyển nghiệp. Hoặc chúng sanh tạo tội được gặp thiện tri thức chỉ dạy vươn lên giải thoát, không còn tái sanh tiếp nối trong các cõi, nên không bị rơi vào địa ngục vô gián. Đây là hình thức đốn ngộ chuyển nghiệp ngay hiện tại, để thấy rõ ngũ vô gián cũng không phải hoàn toàn cố định.
Đối năm thứ vô gián trước, nên nói ngoại vô giản. Còn ba hạng dùng thần lực biến hóa là vì người tạo tội vô gián trừ nghi và khiến hối quá. Như trong luật đã phạm thảy đều thuộc quyền thị hiện. Như Điều Đạt ở trong địa ngục như thọ vui trên cõi trời Tam thiền, chợt được Thế Tôn thọ ký. Chưa có một bề tạo nghiệp vô gián mà không mắc quả báo vô gián. Trừ giác tự tâm hiện là, trừ người này hiện đời giác tự tâm hiện, chóng lìa tất cả vọng tưởng năng sở của thân căn và khí giới, thì nghiệp tánh không ở trong ngoài và giữa, Như tự tâm chẳng ở trong ngoài giữa, nghiệp tánh cũng thế.
Điều-đạt tức Đề-bà-đạt-đa, là đệ tử Phật luôn làm các nghịch hạnh hại Phật phá tăng, kết quả bị đọa địa ngục. Trong kinh Pháp Hoa đức Phật thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa sẽ thành Phật hiệu Thiên Vương Như Lai, có đủ mười hiệu, giáo hóa chúng sanh vô lượng, cõi nước Phật trang nghiêm tốt đẹp. Phật nói Đề-bà-đạt-đa là thiện tri thức giúp Phật mau thành tựu các công hạnh, các năng lực mầu nhiệm.
Như vậy, nếu đúng Đề-bà-đạt-đa là người ác, phạm tội đọa địa ngục thì không thể sanh ra ở đâu cũng được gặp Phật, theo Phật từ đời này sang đời nọ. Chính ông thực hành hạnh Bồ-tát giúp Phật tiến mau. Như thay vì tu tập trong mười kiếp, nhờ Đề-bà-đạt-đa theo phá hoại, đức Phật vượt qua cái khó đó, nỗ lực nhẫn nhục tinh tấn nên vượt qua mười kiếp, chỉ còn một. Cái ác tâm của Đề-bà-đạt-đa là của hàng Bồ-tát thượng thặng, biết trình độ Phật khi còn là Bồ-tát đến ngang mức nào, nên sử dụng tất cả phương tiện để thúc đẩy vươn lên.
Tôi ví dụ trong chúng đây có người phát nguyện không sân, hoặc phát nguyện bố thí tùy ý. Nếu không ai thử thách, ai cũng chìu ý, thì làm sao biết người đó phát nguyện mạnh thế nào. Phải có người đến chửi mắng hoặc đến xin đồ vật rất quý, mới biết sức nguyện kiên cố hay không. Nếu nguyện kiên cố dũng mãnh thì gặp chướng ngại đến đâu cũng vượt qua. Như thế người chửi mắng là người giúp thành công.
Đề-bà-đạt-đa là người giúp Phật tiến mau, nhưng làm hạnh ác thì phải đọa địa ngục, nếu không đọa địa ngục thì sẽ làm nghi lầm chúng sanh, cho rằng phá Phật không có tội. Tuy thế, ở trong địa ngục mà vẫn vui như ở cõi trời Tam thiền, vì đã làm thành tựu cho Phật. Cái ác của Đề-bà-đạt-đa không phải là cái ác theo thế thường, nó vượt ngoài tầm nhìn đối đãi hai bên. Theo kinh điển Đại thừa, ông là Bồ-tát thị hiện.
Trong nhà thiền hay trong các kinh Đại thừa thường bảo nghiệp tánh không thật. Vì sao? Như tự tâm chẳng ở trong ngoài giữa, nghiệp tánh cũng thế. Tự tâm không tướng mạo, không xác định được vị trí, nghiệp tánh không tướng mạo, chỉ tùy tâm mà thay đổi. Tâm cố chấp thì nghiệp dường như có thật. Tâm giác ngộ, lìa vọng tưởng năng và sở, lìa tất cả phân biệt về thân căn và cảnh giới, thấy các pháp như huyễn thì nghiệp tánh cũng không thật, như huyễn.
Nếu chẳng được vậy thì gặp thiện tri thức dạy khiến trừ diệt liền được giải thoát các thú. Như vua A-xà-thế liền ở trước Phật được lòng tin không căn, phá hoại tâm ác, chẳng phải bảo đợi đến đời khác. Nếu thân này mất rồi thì nhân quả khó trốn.
Vua A-xà-thế hiện đời giết cha phạm tội ngũ nghịch, đáng lẽ phải đọa địa ngục. Nhưng ông gặp Phật, phát tâm sám hối được lòng tin không căn. Lòng tin không căn là Vô căn tín, nghĩa là người không có thiện căn, ban đầu không tin kính Tam bảo, sau nhờ Phật lực mà khởi tín tâm; người tạo tội nặng ngũ vô gián không thể giải cứu, nếu ân cần sám hối không tạo tội ác, đồng thời tin kính Tam bảo, thành tựu tín căn, cũng gọi là Vô căn tín.
Vua A-xà-thế nhờ tin Phật, chuyển tâm ác thành tâm thiện, ngay đời này tránh khỏi đọa địa ngục vô gián. Nếu thân này tạo nghiệp vô gián chưa kịp hối cải mà chết thì nhất định khó tránh quả báo.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Tham ái gọi là mẹ
Vô minh tức là cha
Thức giác cảnh là Phật
Các sử là La-hán
Ấm họp gọi là Tăng
Vô gián thứ lớp đoạn
Gọi là ngũ vô gián
Chẳng vào ngục vô gián.
Giác là Phật tánh, song ở trong chúng sanh mê liễu biệt cảnh tức là vọng giác, ấy là nên đoạn, cũng gọi là làm thân Phật ra máu. La-hán các sử chẳng hiện, mà nói các sử là La-hán, vì văn gọn vậy.
Giác là Phật, vì ở trong mê không nhận được tánh giác, lại khởi phân biệt cảnh bên ngoài, đó là vọng giác, cái giác đó nên đoạn.
Có bốn:
Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Cúi xin vì nói tri giác của Phật. Thế Tôn! Những gì là tri giác của Phật? Phật bảo Đại Huệ: Giác nhân pháp vô ngã, rõ biết hai chướng, lìa hai thứ tử, đoạn hai thứ phiền não, ấy gọi là tri giác Phật. Thanh văn, Duyên giác được pháp này cũng gọi là Phật. Do nhân duyên ấy nên ta nói Nhất thừa.
Đây là tri giác của Phật. Thứ nhất, giác ngộ được nhân vô ngã, pháp vô ngã. Thứ hai, giác ngộ được hai chướng là phiền não chướng và sở tri chướng. Thứ ba, lìa được hai thứ tử là phần đoạn tử và biến dịch tử. Thứ tư, đoạn hai thứ phiền não là vô minh phiền não và tứ trụ phiền não. Như vậy ai cũng có thể thành Phật nếu đủ các điều kiện này.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Khéo biết hai vô ngã
Hai chướng phiền não đoạn
Hằng lìa hai thứ tử
Ấy gọi tri giác Phật.
Tam thừa đồng một tánh tri giác mà chẳng đồng tri giác. Bởi trí giác sai biệt nên chỗ chứng cũng sai biệt, Như Lai là như tánh kia mà giác nên không có giác khác, như tánh kia mà biết nên không có biết khác.
Tam thừa đồng một tánh tri giác, tức đồng một Phật tánh mà chẳng đồng tri giác, tức là tùy căn cơ của mỗi thừa mà thấy biết khác nhau. Vì không thấu suốt pháp tánh nên Thanh văn, Duyên giác chỉ chứng ngã không, chưa chứng pháp không, chỉ dứt phần đoạn tử, chưa dứt biến dịch tử. Như tánh kia mà giác nên không có giác khác, là giác ngộ tánh như thật của chính mình, không có giác ngộ nào khác. Như tánh kia mà biết nên không có biết khác, biết tánh như thật của mình không có gì sai lệch.
Như tánh kia mà giác thì không có bất giác. Không có giác khác thì không vọng giác. Không bất giác không vọng giác, ấy gọi là tin tu chân như tự tánh thanh tịnh không che đậy.
Tánh giác sẵn có, nếu giác được tánh như thật đó thì không có bất giác, vọng giác. Đó là Phật tánh hiển hiện tròn đầy.
Giác có người, giác có pháp, đều do bất giác tự allerinion tánh mà khởi vọng giác. Giác có tự tha, ấy là Sự tinh tế nhân tướng. Giác có tự tánh tha tánh, ấy là Pháp tướng. Như tánh kia mà giác không có giác khác thì, nhân ngã pháp ngã liền đó tan biến.
Có vọng giác là khởi phân biệt người thật, pháp thật nên khởi chấp nhân tướng pháp tướng. Khi giác ngộ tánh như thật thì các chấp ngã, chấp pháp bị đốn trừ dẹp sạch.
Hai chướng là hoặc chướng và trí chướng. Hoặc là kiến hoặc và tư hoặc. Trí là sở tri. Khi hai hoặc không mà trí năng không và lý sở không mảy may chưa sạch thì chướng này chưa quên. Đến Thập nhất địa vẫn có hai phần sở tri ngu rất vi tế, như cách tấm lụa mỏng, chỉ Phật mới hay xong. Tóm lại, như tánh kia mà giác không có giác khác thì một lúc chóng xong.
Hai chướng là hoặc chướng và trí chướng, chỗ khác gọi là phiền não chướng và sở tri chướng. Do chấp ngã nên có phiền não chướng, do chấp pháp nên có sở tri chướng. Hàng Nhị thừa tuy đã dứt hết kiến hoặc tư hoặc nhưng trong tâm chưa sạch hết năng sở thì hoặc chướng vẫn còn. Phần trí chướng thâm sâu, nên đến Thập nhất địa, tức Đẳng giác, vẫn còn sở tri vi tế, như tấm màn mỏng che mờ tánh giác. Như tánh kia mà giác không có giác khác thì một lúc chóng xong, nghĩa là giác ngộ ngay thể tánh như thật thì hai chướng được đoạn trừ nhanh.
Hai thứ tử là, phàm phu phần đoạn sanh tử, Nhị thừa biến dịch sanh tử. Biến dịch là nhân dời quả đổi, lìa phần đoạn sanh tử trong tam giới, vẫn còn cõi phương tiện v.v… biến dịch sanh tử.
Nhị thừa biến dịch sanh tử, biến dịch là đổi dời, như khi Tu-đà-hoàn tiến lên Tư-đà-hàm, thì bỏ vị trí Tu-đà-hoàn… Mỗi lần đổi quả vị là đổi dời. Bồ-tát từ Sơ địa chuyển lên Nhị địa cũng vậy. Hàng Thanh văn và Bồ-tát còn đổi dời vị trí nên gọi là biến dịch tử. Chỉ có Phật trụ ở tánh giác không đổi dời nên hết biến dịch tử.
Tứ trụ phiền não cảm phần đoạn sanh tử, vô minh phiền não cảm biến dịch sanh tử. Hai thứ tử này đã lìa thì hai thứ phiền não cũng đoạn.
Đã nói về đoạn hai chướng, dứt hai thứ sanh tử, đây nói về đoạn hai phiền não có liên quan đến hai thứ sanh tử. Vì tứ trụ phiền não cảm ứng với phần đoạn tử, vô minh phiền não cảm ứng với biến dịch tử. Đã lìa hai chướng sanh tử thì hai loại phiền não trên cũng dứt sạch.
Tứ trụ hoặc là, ‘kiến hoặc’ trong tam giới là Theo một trụ. Tất cả kiến hoặc trụ địa, tức là kiến hoặc phân biệt trong tam giới. Do ý căn đối với pháp trần khởi phân biệt, dấy các tà kiến trụ trước tam giới. ‘Tư hoặc’ trong tam giới phân làm ba trụ. 1) Dục ái trụ địa hoặc, do năm căn đối cảnh năm trần khởi tâm tham ái, mà trụ trước nơi Dục giới. 2) Sắc ái trụ địa hoặc, tức là tư hoặc trong Sắc giới. Do chẳng rõ hoặc này nên trụ trước Thiền định Sắc giới không thể bỏ lìa. 3) Hữu ái trụ địa hoặc, tức là tư hoặc Vô sắc giới. Do chẳng rõ hoặc này nên trụ trước Thiền định Vô sắc giới không thể bỏ lìa.
Đây giải thích về một trong hai thứ phiền não, còn gọi là hai hoặc. Phiền não này là cội gốc làm mê lầm, nên gọi là hoặc, không phải loại phiền não tầm thường. Phiền não thứ nhất là Tứ trụ hoặc. Vì sao gọi là Tứ trụ hoặc? Vì gồm có bốn loại. Một là Kiến hoặc, tức thấy biết mê lầm trong tam giới. Hai là Tư hoặc tức suy tư sai lầm, tư hoặc này chia làm ba cộng với một Kiến hoặc ở trên thành bốn loại. Ba loại Tư hoặc là: 1/ Sáu căn tiếp xúc sáu trần phát sinh tham ái đắm mến, trụ trước mãi trong Dục giới, gọi là Dục ái trụ địa hoặc. 2/ Tham mến các tầng thiền trong Sắc giới, sanh tâm trụ trước không rời bỏ, gọi là Sắc ái trụ địa hoặc. 3/ Khi được định vô sắc, tự mãn thấy mình trùm khắp, đắm mến không rời bỏ, gọi là Hữu ái trụ địa hoặc.
Ba thứ hoặc Dục ái, Sắc ái, Hữu ái làm chúng ta vướng mắc không thoát ra khỏi tam giới. Sở dĩ chúng ta ở mãi trong Dục giới vì sự lôi cuốn của các pháp, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng đều thấy thích thú không thể rời bỏ. Dục giới là cõi thấp nhất còn bị chìm đắm, huống chi cõi Sắc và Vô sắc. Dù không đắm mến cảnh trần, nhưng đắm mến cái vui thiền định của Tứ thiền, Tứ không cũng còn bị trụ trước. Khi nào chúng ta thấy tất cả tướng, tất cả tâm đều huyễn hóa, các pháp không thật không quan trọng, lúc đó mới thoát khỏi tam giới. Còn thấy có cảnh đáng yêu đáng chán thì tâm lý còn ở trong Dục giới. Lấy tiêu chuẩn đó để đo lường thì biết mình giải thoát hay chưa giải thoát, không cần phải hỏi ai.
Vô minh phiền não là, chỉ căn bản vô minh. Nghĩa là mê Như Lai tàng bất giác phát nghiệp. Phiền não này Nhị thừa không biết, Chính Đại thừa Bồ-tát đoạn hoặc chưa hết, vẫn ở nơi cõi Thật báo, chỉ Phật mới xong.
Vô minh phiền não là cội gốc của tất cả mê lầm, là gốc khởi lên Kiến hoặc Tư hoặc. Mê lầm này, hàng Tam thừa vẫn chưa dứt sạch. Bồ-tát vẫn ở nơi cõi Thật báo, nghĩa là Bồ-tát nhờ nhân hạnh chân thật nên được quả báo chân thật, vì thế gọi là cõi Thật báo.
Nhưng, như tánh kia mà giác không có giác khác, thì một lúc chóng xong. Cho nên nói “Thanh văn, Duyên giác được pháp này cũng gọi là Phật. Do nhân duyên ấy ta nói Nhất thừa”. Thế nên biết, Nhất thừa tức là tánh tri giác. Tánh của tri giác thì không khác, mà tri giác của tánh thì chẳng đồng.
Tuy chia ra đoạn hoặc chứng chân nhiều cấp bậc, nhưng cứu cánh chỉ một Nhất thừa, tức là trở về tánh giác. Trở về tánh giác, một lúc chóng xong, không cần thứ lớp đoạn hoặc, đó là pháp tu đốn ngộ của nhà Thiền. Tánh của tri giác thì không khác, nghĩa là thể tánh giác tất cả chúng sanh đều như nhau không khác, mà tri giác của tánh thì chẳng đồng, trên thể là một nhưng phân ra trị giác thì có cạn sâu, tùy theo căn cơ mà lúc dụng công tu đoạn dứt hoặc chướng mau chậm. Đó là lý do sai biệt của các thừa.
Do cái chẳng đồng này nên chỗ chứng có khác, Hàng Nhị thừa không giác tự tánh, vọng có sở giác, ấy là khác. Song vọng giác vốn dối, chân tánh thường trụ. Giác vọng tức là chân, biết chân thì vọng diệt, cũng cứu kính không hai.
Hàng Nhị thừa không giác tự tánh mà giác ngộ các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã nên gọi là vọng giác. Nhưng tất cả vọng giác không rời chân giác, biết được chân thì vọng hết. Trở về tự tánh chân như chỉ có Nhất thừa.
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Cớ sao Thế Tôn ở trong đại chúng xướng lời thế này: “Ta là tất cả Phật thời quá khứ và các thứ thọ sanh. Ta khi ấy làm Chuyển luân Thánh vương Mạn-đà, voi lớn sáu ngà và chim anh võ, Thích đề hoàn nhân, tiên nhân Thiện Nhãn v.v… kinh nói trăm ngàn đời như thế.
Ngài Đại Huệ nghi rằng, Phật lúc nào cũng là Phật, tại sao Ngài nói Ta là tất cả Phật thời quá khứ. Nếu Ngài đã là Phật thời quá khứ tại sao có khi làm Chuyển luân vương, làm voi..?
Đây là nghi thỉ giác bản giác đã có sai thù thì pháp, báo, hóa thân đâu không đồng khác, nên có lời hỏi này. Chẳng biết do bản giác có thỉ giác, thỉ như bản kia, Pháp thân sanh báo thân hóa thân, báo hóa như pháp thân. Chỉ một đạo bình đẳng trước sau không hai, Hoa Nghiêm luận nói; “Vô biên cõi nước, tự tha chẳng cách mảy lông, mười đời xưa nay trước sau chẳng lìa niệm hiện tại.”
Chư Phật đồng một bản giác, nhưng về thỉ giác có sai khác. Ngài Đại Huệ đặt nghi vấn để Phật dạy rõ về bản giác thỉ giác.
Từ bản giác mà có thỉ giác. Khi giác ngộ thì bản giác và thỉ giác không có hai tánh. Pháp thân là thể của báo thân và hóa thân, nên nói báo hóa như pháp thân. Trên tướng và dụng có sai khác, trở về thể thì đồng một đạo bình đẳng.
Người được tự giác Thánh trí tự nhiên chẳng nghi xưa chẳng nghi nay, chẳng nghi người chẳng nghi ta, chẳng nghi nhân chẳng nghi quả, chẳng nghi căn thân chẳng nghi khí giới, chẳng nghi hữu tình chẳng nghi vô tình, chẳng nghi một chẳng nghi khác, chẳng nghi hiện thành chẳng nghi tác khởi, tất cả chẳng nghi nên mới chứng biết.
Người được tự giác Thánh trí tự nhiên chẳng nghi, vì nếu còn nghi là chưa chứng biết. Khi đã biết thật rồi thì không cần hỏi. Trong nhà thiền, thiền sư Pháp Thường Đại Mai khẳng định: “Người thân thì chẳng hỏi, người hỏi thì chẳng thân.” Tức là người đích thực đến chỗ ngộ thì không còn nghi.
Phật bảo Đại Huệ: Do tứ đẳng nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở trong đại chúng xướng lời thế này: “Ta khi ấy làm Phật Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm Mâu-ni, Ca-diếp.” Thế nào là tứ đẳng? Nghĩa là tự đồng, ngữ đồng, pháp đồng, thân đồng, ấy gọi là tứ đẳng, Do bốn thứ đồng nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở trong chúng xướng nói như thế.
Sở dĩ Phật nói Ngài là chư Phật quá khứ là căn cứ trên tứ đẳng. Tự đồng là danh tự bình đẳng; ngữ đồng là âm thanh ngữ ngôn của chư Phật đồng nhau; thân đồng là chư Phật đồng pháp thân và sắc tướng; pháp đồng là chư Phật nói pháp đồng nhất. Bốn điều này, tất cả chư Phật đồng có như nhau không sai biệt, nên gọi là tứ đẳng.
Do tứ đẳng nên Như Lai ở trong đại chúng xướng nói Ca-diếp, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm là ta. Đây là Như Lai đáp và lẫn hiển cả quyền và thật. Người chứng tự giác Thánh trí tự biết tự chứng không thể nói bày. Quyền để chỉ bày nên nói quyền, cũng có thể tức nơi đây thầm hội nên nói thật. Đó là nói lẫn hiển quyền thật vậy.
Quyền là chỉ cho hình tướng phương tiện, thật là chỉ cho lý tột cùng. Phật nói Ngài và chư Phật có bốn thứ đồng, đó là đứng về mặt quyền phương tiện; Ngài và chư Phật đồng một thể tánh chân như, đó là đứng về lý thật. Nói chữ đồng ở đây chúng ta có thể hiểu hai mặt quyền và thật.
Thế nào là tự đẳng? Hoặc chữ xưng ta là Phật, chữ kia cũng xưng tất cả Phật, chữ ấy tự tánh không có sai biệt, ấy gọi là tự đẳng.
Thế nào là ngữ đẳng? Nghĩa là ta có sáu mươi bốn thứ phạm âm nên tướng ngôn ngữ sanh, Chư Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác kia cũng có sáu mươi bốn thứ phạm âm nên tướng ngôn ngữ sanh như thế, không thêm không bớt, không có sai biệt, tánh tiếng phạm âm như Ca-lăng-tần-già.
Lời nói của tất cả chư Phật đều có 64 công dụng đặc thù, pháp âm nhiệm mầu như tiếng chim Ca-lăng-tần-già (Mỹ âm điểu, Diệu âm điểu).
Tự đẳng là, tự là danh tự. Ba đời Như Lai đều tên là Phật. Tự tánh chữ là chữ Phật để hiển tiêu thì bày nghĩa tự tánh giác, cũng không có sai biệt.
Ngữ đẳng là, cổ chú rằng: Tiếng Tây Vức có tám tiện chuyển: 1) Thể, 2) Nghiệp, 3) Cụ, 4) Vi, 5) Tùng, 6) Thuộc, 7) Ư, 8) Hô. Như Lai nơi tám chuyển này mỗi cái đủ tám đức: 1) Điều hòa, 2) Nhu nhuyến, 3) Rõ chắc thật, 4) Dễ hiểu, 5) Không lầm lẫn, 6) Không tiếng giọng mái nhỏ, 7) Tiếng to lớn, 8) Tiếng sâu xa.
Nói về tám đức của âm thanh chư Phật, chúng ta thấy đủ mọi tốt đẹp. Điều hòa nhu nhuyến là tiếng êm dịu hiền từ, rõ chắc thật là nói đâu chắc thật đó, dễ hiểu là Phật nói ra chúng sanh hiểu liền, không lầm lẫn là không nói lầm tiếng này ra tiếng kia, không tiếng giọng mái nhỏ là không có âm thanh bất thường, tiếng to lớn là tiếng Phật vang như chuông đồng, tiếng sâu xa là tiếng Ngài nghe thấm sâu.
Tám lần tám là sáu mươi bốn tướng. Song trong kinh Bất Tư Nghì Bí Mật Đại Thừa cũng nói: “Phật bảo Bồ-tát Tịch Huệ: Như Lai chẳng phải nơi môi, răng, lưỡi, cổ họng và nơi cửa mặt mà phát ra các âm thanh. Nên biết âm thanh của Như Lai từ hư không mà ra, đầy đủ sáu mươi bốn tướng thù diệu: 1) Trôi chảy, 2) Nhu nhuyễn, 3) Vui lòng, 4) Đảng mến, 5) Thanh tịnh, 6) Lìa cấu, 7) Trong sáng, 8) Ngọt ngào, 9) Ưa nghe.
Chúng ta làm sao để có lời nói ngọt ngào, ưa nghe, trong sáng, thanh tịnh, lìa cấu, vui lòng, đáng mến. Chỉ cần được một hai đức tính trong đó cũng đã rất tốt, có lời nói thanh tịnh, trong sáng mới có thể dẫn đạo chúng sanh. Cho nên bây giờ cần phải tu tập, khi tâm trong sáng mới đầy đủ các âm thanh tốt đẹp.
10) Không kém, 11) Tròn đủ, 12) Điều thuận, 13) Không rít, 14) Không ác, 15) Mềm dịu, 16) Vừa tai, 17) Thích thân, 18) Tâm sanh bén mạnh.
Bén mạnh tức là bén nhạy mạnh mẽ, âm thanh có đức tính khiến cho tâm người nghe hăng hái phấn khởi, hiểu ý nghĩa nhanh chóng.
19) Tâm mừng, 20) Vui thích, 21) Không nhiệt não, 22) Như giáo lệnh, 23) Khéo hiểu biết, 24) Rành rõ, 25) Khéo mến, 26) Khiến sanh vui mừng, 27) Khiến người như lời dạy vâng làm, 28) Khiến người khéo hiểu biết, 29) Đúng lý, 30) Lợi ích, 31) Lia lỗi trùng lập, 32) Như tiếng sư tử, 33) Như tiếng rồng, 34) Như tiếng sấm sét, 35) Như Long vương, 36) Như tiếng ca hay của khẩn-na-la, 37) Như tiếng chim ca-lăng-lần-già, 38) Như Phạm vương, 39) Như tiếng chim cộng mạng, 40) Như tiếng hay đẹp của Đế Thích, 41) Như đánh trống, 42) Chẳng cao, 43) Chẳng thấp, 44) Tùy vào, 45) Không khuyết giảm, 46) Không phá hoại, 47) Không ô nhiễm, 48) Không mong cầu, 49) Đầy đủ, 50) Trang nghiêm, 51) Hiển bày, 52) Viên mãn tất cả âm, 53) Các căn thích vui, 54) Không chê bai, 55) Không khinh chuyển, 56) Không dao động, 57) Tùy vào tất cả chúng hội, 58) Các tướng đầy đủ, 59) Khiến chúng sanh tâm ý vui mừng, 60) Nói tâm hạnh chúng sanh, 61) Vào tâm ý chúng sanh, 62) Tùy chúng sanh tin hiểu, 63) Người nghe không phần lượng, 64) Chúng sanh không thể suy nghĩ xứng lượng.” Hiệp với chỗ này để tham quán thì tột âm thanh vi diệu thù đặc. Cho nên ba đời Như Lai ngữ đồng. Ca-lăng-tần-già là tên chim, tiếng nó hơn tiếng các thứ chim, dùng nó để làm ví dụ.
Thế nào là Thân đẳng? Nghĩa là ta cùng pháp thân và sắc thân tướng tốt của chư Phật không sai biệt. Trừ vì điều phục chúng sanh sai biệt ở các thú kia nên thị hiện các thứ sắc thân sai biệt, ấy gọi là Thân đẳng.
Pháp thân và báo thân của chư Phật không sai khác nên gọi là thân đẳng. Trừ trường hợp thị hiện để giáo hóa chúng sanh sai biệt trong các đường nên có thân sai biệt.
Thế nào là Pháp đẳng? Nghĩa là ta cùng chư Phật kia được pháp ba mươi bảy phần bồ đề, trí lược nói Phật pháp không có chướng ngại, ấy gọi là Tứ đẳng. Thế nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác ở trong đại chúng xướng lời như thế.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Ca-diếp, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm là ta
Do bốn thứ bình đẳng
Ta vì Phật tử nói.
Đây là lặp lại để trả lời nghi vấn của ngài Đại Huệ. Vì bốn thứ bình đẳng là tự đồng, ngữ đồng, thân đồng, pháp đồng nên Phật nói Ngài cũng là Phật Ca-diếp, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm quá khứ.
Pháp thân Như Lai có hai thứ: 1) Lý pháp, nghĩa là tánh tịnh thể sáng xưa nay lìa niệm đồng với hư không giới, không đâu chẳng khắp, chúng sanh cùng Phật đều đồng.
Lý pháp là lý pháp thân, chính là tâm thể sẵn có của chúng ta. Tâm thể ấy thanh tịnh, xưa nay không dấy niệm, chúng sanh cùng Phật đồng nhau. Lý pháp cũng là bản giác.
2) Trí pháp, nghĩa là trí thỉ giác cứu kính, khế hợp với lý bản giác thanh tịnh, lý trí dung nhau, sắc và tâm không hai, Do trí hiện ra nên gọi là trí pháp.
Tất cả chúng sanh đều có bản giác và thỉ giác. Bản giác là tự thể sẵn có, thỉ giác là trí thanh tịnh huân tu, trí này đồng thể với bản giác, Trên đường tu chúng ta dùng trí thỉ giác chiếu phá vô minh, vì vô minh phiền não nhiều mặt nên trí thỉ giác phải có nhiều phương tiện gạn lọc sai biệt. Khi hết vô minh, thỉ giác trở về với bản giác tịch tĩnh, dung hợp tất cả sắc tâm.
Chúng ta phát tâm xuất gia là do bản giác của mỗi người phát khởi, chính sự phát khởi đó xui khiến chúng ta tìm cầu giác ngộ giải thoát. Trong khi tu tập, chúng ta nhận ra đây là vọng tưởng cần phải dứt trừ, trí biết vọng tưởng là trí thỉ giác, do học kinh nghe giảng mà có. Trí thỉ giác này tuy mới nhận được, nhưng do công năng của nó, chúng ta dẹp trừ được phiền não. Khi hết vọng tưởng phiền não, tâm thanh tịnh viên mãn, đó là lúc thỉ giác hợp với bản giác, vì không còn sử dụng thỉ giác để dẹp phiền não nên bản giác rỗng rang thể hiện. Vì thế nói bản giác thỉ giác hợp một là Phật.
Sắc thân tức là Báo thân, cũng có hai thứ: 1) Tự thọ dụng thân cũng gọi là viên mãn báo thân. Nghĩa là tự mình tu nhân mà cảm được, xứng tánh thọ dụng các thứ pháp lạc, tự tại không ngại. Thân và cõi chẳng lìa nhau nên cũng gọi là tự thọ dụng độ, cũng gọi là Thật báo trang nghiêm độ. Chư Phật trải qua vô số kiếp tu tập vô lượng thiện căn mà cảm nên, khắp giáp cả pháp giới là tự thọ dụng. Các vị đại Bồ-tát chỉ được nghe tên mà không thể thấy được. 2) Tha thọ dụng thân, nghĩa là do căn cơ kẻ khác cảm nên mà thấy. Chư Phật vì khiến chúng Bồ-tát thọ đại pháp lạc, tiến tu thắng hạnh nên tùy nghi mà hiện, cõi cũng như thế, khiến họ thọ dụng.
Báo thân chia ra hai:
1) Tự thọ dụng thân cũng gọi viên mãn bảo thân. Do công hạnh tu viên mãn nên gọi viên mãn báo thân. Do nhân tu của chính mình đã tạo các điều lành điều tốt cho chúng sanh, tự cảm được các pháp lạc. Báo thân trang nghiêm ở cõi chân thật gọi là Thật báo trang nghiêm độ. Cõi này thân này chỉ có chư Phật thọ dụng, các đại Bồ-tát chỉ nghe tên mà không thể thấy, nên gọi là tự thọ dụng thân.
2) Tha thọ dụng thân, là thân thị hiện do sự cảm ứng của tâm chúng sanh. Đặc biệt vì hóa độ các Bồ-tát nên Phật hiện thân và cõi để các Bồ-tát thọ dụng.
Các thứ sai biệt Sắc thân tức là Hóa thân, cũng có ba thứ: 1) Đại hóa nghĩa là Lô-xá-na ngàn trượng gia bị cho phù hợp với Đại thừa Bồ-tát. Hoặc hiện tám mươi bốn ngàn tướng tốt, hoặc hiện vi trần số tướng tốt, đầy khắp hư không. 2) Tiểu hóa, nghĩa là thân vàng trượng sáu, ba mươi hai tướng tốt, phù hợp căn cơ Tiểu thừa, người, trời v.v… 3) Tùy loại hóa, nghĩa Chuyển Luân Thánh vương Đảnh Sanh, Thích đề-hoàn Thiên Đế, Thiện Nhãn, voi lớn, anh võ, vượn nai v.v… tùy loại mà vào.
Sắc thân thù thắng do công phu tu cảm nên, chỉ riêng Phật và chư Bồ-tát thọ nhận gọi là Báo thân. Sắc thân sai biệt gọi là Hóa thân ứng hiện khắp mọi căn cơ đều được thọ nhận, có ba: 1/ Thân đại hóa Lô-xá-na trùm khắp để các Bồ-tát chiêm ngưỡng mà phát tâm. 2/ Thân tiểu hóa, như thân Phật Thích-ca Ấn-độ, phù hợp với căn cơ Nhị thừa và người, trời. 3/ Thân tùy loại hóa, tức là tùy theo từng loài mà hóa hiện hoặc thân trời, thân voi, thân chim…
Báo Hóa thân này đều nhiếp thuộc sắc thân, từ trí pháp mà được. Nếu mê lý pháp tức là vọng giác, theo nhân duyên vọng giác mà có mười hai loại thân trong tam giới. Ngộ lý pháp thì chuyển vọng giác làm thỉ giác. Do thỉ hợp bản thành Căn bản trí. Do sức căn bản vô tác trí cảm phát bi nguyện, tất cả báo thân, hóa thân lần lượt thành tựu.
Báo thân hay Hóa thân đều thuộc sắc thân, vì là thân có sắc tướng, từ trí pháp mà được, trí pháp tức thỉ giác hay là sai biệt trí, do trí này chiếu phá phiền não được nhiều công năng thù thắng nên thân hiện trang nghiêm, khắp độ chúng sanh.
Nếu mê lý pháp, lý pháp tức bản giác thanh tịnh, mê mờ lý pháp này khởi lên vọng giác phân biệt, tạo thành 12 loại thân trong tam giới.
Ngộ lý pháp thì chuyển vọng giác làm thỉ giác. Ngộ tức là nhận biết mình có pháp thân, ngộ thuộc về thỉ giác, lúc ngộ thì không có vọng giác nên nói chuyển vọng giác thành thỉ giác.
Thỉ giác hợp bản giác là Sai biệt trí thành Căn bản trí, Căn bản trí là trí lặng lẽ thanh tịnh, tự nhiên thành tựu Báo thân, Hóa thân.
Đây là ba đời chư Phật không có hai, không có khác. Ba mươi bảy pháp bồ-đề phần là, Tứ niệm xứ (thân, thọ, tâm, pháp), Tứ chánh cần (đã sanh ác khiến hằng dứt, chưa sanh ác khiến chẳng sanh, chưa sanh thiện khiến sanh, đã sanh thiện khiến tăng trưởng), Tứ như ý túc (dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, niệm như ý túc, tư duy như ý túc), Ngũ căn (tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn), Ngũ lực (tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực), Thất giác chi (trạch giác, tinh tấn giác, hỉ giác, trừ giác, xả giác, định giác, niệm giác), Bát chánh đạo (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định). Cộng lại thành Ba mươi bảy phẩm. Đây là Ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề của Đại thừa, nhiếp vô lượng a-tăng-kỳ pháp trợ bồ-đề, nó là liễu nhân không phải tác nhân.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là liễu nhân, không phải tác nhân. Tại sao? Ví dụ chúng ta quán Tứ niệm xứ. Khi quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ… được thành tựu thì đạt đạo. Do quán mà đạt đạo thì Tứ niệm xứ là tác nhân, tại sao ở đây nói là liễu nhân? Chỗ này phải hiểu rõ. Chúng ta quán thân bất tịnh để phá chấp thân, quán thọ là khổ để phá trừ lòng tham đắm sáu trần, quán tâm vô thường để phá lầm chấp tâm là ngã, quán pháp vô ngã là phân tích các pháp không có chủ tể, không thật có để phá chấp pháp. Quán Tứ niệm xứ để phá trừ chấp ngã chấp pháp, phá trừ các chấp đó thì lý nhân vô ngã hiện tiền.
Nhân pháp vô ngã là đạo lý sẵn có, chỉ vì mê lầm không nhận ra. Chúng ta tu để thấy rõ lý này, không phải chúng ta tạo ra hay làm gì thêm, nên Tứ niệm xứ không phải là tác nhân. Phá chấp như dẹp sạch bụi bặm để đạo lý hiển lộ. Khi dụng công tu là dùng đèn trí tuệ rọi sáng để thấy rõ ba mươi bảy phẩm trợ đạo, gọi đó là liễu nhân.
Điều này phải thật sự tu chứng mới thấy được giá trị. Đến đó rồi thấy ba mươi phẩm trợ đạo không xa lạ với mình, nếu không chúng ta tưởng lầm là pháp bên ngoài. Do ý này nên đoạn sau nói Đâu phải trọn chỗ suy nghĩ tính toán mà hay lường được.
Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Đại Niết-bàn không phải từ tác nhân mà có, chỉ từ liễu nhân.” Liễu nhận là nói Ba mươi bảy pháp trợ đạo. Ba đời chư Phật dùng liễu nhân này thành tựu đệ nhất nghĩa tự giác Thánh thú, tự độ và chi giáo tha, bình đẳng không sai biệt. Hiệp bốn thứ bình đẳng này cho nên Như Lai ở trong đại chúng xướng lời rằng “Ca-diếp, Câu-lưu-tôn, Câu-na-hàm là ta”. Ý chỉ bí mật ngõ hầu nhờ dây thầm hội. Bỏ qua chỗ này về sau không thể nói bày, chỉ chứng tương ưng. Đâu phải trọn chỗ suy nghĩ tính toán mà hay lường được.
Đại Huệ lại bạch Phật: Như Thế Tôn đã nói “Ta từ đêm ấy được Chánh giác tối thượng, cho đến đêm ấy vào Niết-bàn, ở trong khoảng giữa kia cho đến không nói một chữ, cũng chẳng đã nói sẽ nói, chẳng nói ấy là Phật nói.” Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác nhân đâu nói rằng “Chẳng nói ấy là Phật nói”?
Bồ-tát Đại Huệ đặt câu hỏi, vì sao Phật tuyên bố từ khi thành đạo đến nhập Niết-bàn Ngài không nói một chữ, cũng không có đã nói sẽ nói? Chẳng nói ấy là Phật nói, như vậy lặng thinh là Phật? Đây là ý nghĩa chỗ Phật giác tự chứng không thể dùng lời nói hiển bày, nên Bồ-tát nêu nghi vấn để Phật chỉ dạy.
Phật bảo Đại Huệ: Ta nhân hai pháp nên nói như thế. Thế nào là hai pháp? Nghĩa là duyên pháp tự đắc và pháp bản trụ, ấy gọi là hai pháp. Nhân hai pháp này nên ta nói như thế.
Phật trả lời Bồ-tát Đại Huệ, nhân nơi hai pháp là duyên pháp tự đắc và pháp bản trụ. Pháp tự đắc là pháp tự thân chứng đắc, chỗ đó không phải ngôn thuyết đến được. Pháp bổn trụ là pháp sẵn có, không do tạo tác không do nói năng. Hai pháp như thế không phải cảnh giới ngôn thuyết nên Phật bảo không nói một chữ.
Như Lai từ khi thành Phật cho đến nhập Niết-bàn, ở trong khoảng giữa đó không nói một chữ là, chỉ cho người lìa năng thuyết và sở thuyết được đệ nhất nghĩa tự giác Thánh thú, Trước nói tứ đẳng, ở đây nói bất thuyết. Tứ đẳng vẫn là lời nói xứng tánh chẳng phải cảnh giới tự chứng. Đến chỗ tự chứng mới biết lời nói không thể hiển bày nên nói “chẳng nói”. Duyên tự được tức chỉ cho trí pháp. Bản trụ là lý pháp. Về lý pháp thì có Phật hay không Phật, pháp tánh cũng như vậy. Trí pháp thì ngàn Phật muôn Phật cũng đồng một trí chứng đều không phải cảnh giới ngôn thuyết vọng tưởng giác.
Kinh Lăng Già luôn nhắc đi nhắc lại đệ nhất nghĩa tự giác Thánh thú, chỗ tự giác của bậc Thánh lìa năng thuyết sở thuyết, ý muốn chúng sanh lìa chấp ngôn thuyết, dù đó là ngôn thuyết của Phật. Chúng ta không thể cứ nương vào kinh điển cho là xong việc, phải tự mình tu chứng mới hiểu được chỗ lời nói không thể hiển bày được.
Thế nào là pháp duyên tự đắc? Nếu chỗ được của Như Lai kia thì ta cũng được như thế, không thêm không bớt. Cảnh giới duyên tự đắc pháp cứu kính lùa ngôn thuyết vọng tưởng, lìa văn tự hai đường.
Pháp duyên tự đắc là trí pháp, tức là trí giác ngộ của chư Phật, vọng tưởng chúng sanh không thể hiểu. Pháp bổn trụ là lý pháp, tức là lý bản nguyên của muôn sự muôn vật vốn sẵn có như vậy, dù có Phật hay không Phật cũng không thay đổi. Pháp duyên tự đắc đó, chư Phật đều chứng đồng nhau, không thêm không bớt. Cảnh giới cứu cánh của chư Phật đồng chứng, không thể dùng ngôn thuyết vọng tưởng diễn tả được,
Không thêm không bớt cảnh giới cứu kính là, chứng Căn bản trí này như tánh kia vậy, không thể thêm bớt. Chỗ sở hành cứu kính Thánh lạc lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng phân biệt, lìa năng thuyên và sở thuyên, tất cả tướng cảnh giới. Văn tự hai đường là hay nói và bị nói.
Chỗ chư Phật chứng ngộ thoát ra ngoài đối đãi, ngôn ngữ chỉ diễn đạt những gì trong vòng đối đãi nên không thể diễn tả chỗ này.
Thế nào là pháp bản trụ? Nghĩa là đạo bậc Thánh trước như tánh vàng bạc v.v… pháp giới thường trụ. Hoặc Như Lai ra đời, hoặc chẳng ra đời pháp giới thường trụ, như đường đến thành kia. Thí như có người đi trong đồng vắng thấy con đường bằng phẳng đi đến cổ thành, liền theo đó vào thành được cái vui như ý. Đại Huệ! Ý ông nghĩ sao? Người kia làm ra con đường ấy và làm ra các thứ vui trong thành chăng? Đáp: Chẳng phải vậy. Phật bảo Đại Huệ: Ta và tất cả chư Phật thời quá khứ pháp giới thường trụ cũng lại như thế.
Pháp bổn trụ là gì? Bổn là gốc, là có sẵn, trụ là còn mãi, pháp bổn trụ là pháp sẵn có từ thuở nào, xưa nay như vậy không thay đổi, đó là tánh pháp giới thường trụ. Chư Phật chứng ngộ được tánh này là thấy các pháp đã sẵn như vậy, các ngài không thêm bớt gì trên pháp tánh. Ví dụ trước khi đức Phật Thích-ca thành đạo thì thế gian vẫn vô thường như vậy, thân năm ấm vẫn duyên hợp vô ngã như vậy. Khi Phật thành đạo, Ngài nói vô thường, vô ngã, khổ, không… là nói về tánh các pháp sẵn có. Chúng sanh vì mê muội nên không nhận ra, chư Phật giác ngộ lý pháp sẵn có nên tùy phương tiện chỉ dạy những gì có sẵn, chúng sanh theo lời dạy tỉnh ngộ, cũng là nhận lại cái đã có sẵn. Đó là pháp bốn trụ.
Như đường đến thành kia, là ví dụ cho pháp bổn trụ. Như người đi trong đồng hoang gặp con đường bằng phẳng dẫn đến một thành phố cổ, họ đi theo con đường đến thành phố rồi được thú vui như ý. Con đường và cổ thành là cái có sẵn, người đi đường chỉ đi theo thôi. Chư Phật cũng như vậy, lý bản nhiên từ ngàn xưa không đổi thay mà không ai nhận ra, chư Phật nhận ra lý đó gọi là giác ngộ. Như vậy thành Phật không phải là việc gì mới lạ, chính là thấy được cái sẵn có mà lâu nay mọi người không thấy không biết. Vua Hiếu Tông hỏi thiền sư Phật Chiếu: “Phật Thích-ca vào núi sáu năm thành đạo là thành được việc gì?” Sư đáp: “Thành chỗ bệ hạ quên mất.” Đó là ý nghĩa của pháp bổn trụ.
Thế nên nói rằng: “Ta từ đêm ấy được Chánh giác tối thượng, cho đến đêm ấy vào Niết-bàn, ở trong khoảng giữa kia không nói một chữ, cũng chẳng đã nói, sẽ nói.”
Hai lý do mà Phật nói từ khi thành Phật cho đến lúc nhập Niết-bàn chưa từng nói một chữ. Thứ nhất là chỗ chứng của Phật ngôn ngữ không đến được, thứ hai là pháp của Phật chứng sẵn có như vậy không có gì lạ nên Ngài không nói. Đây là căn cứ trên lý chân thật, không phải căn cứ trên phương tiện giáo hóa. Có người đặt câu hỏi Phật có trước hay pháp có trước? Đứng về pháp bổn trụ thì pháp có trước, Phật ngộ lý đó mới thành Phật. Đứng về tam tạng giáo điển thì Phật có trước, Ngài thành Phật rồi nói pháp giáo hóa chúng sanh. Hiểu rõ như thế, nắm vững chỗ này chúng ta không bị vướng kẹt khi có ai đặt câu hỏi.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Ta đêm ấy thành đạo
Đến đêm ấy niết bàn
Ở trong khoảng giữa này
Ta trọn không có nói
Duyên tự đắc pháp, trụ
Nên ta nói thế ấy
Phật kia cùng với ta
Thảy không có sai biệt.
Lý pháp bản trụ đồng với pháp giới. Như vàng bạc v.v… tuy còn ở trong mỏ mà tánh vàng chẳng đổi. Như đường về cổ thành và các thứ vui, chẳng phải do ngày nay tạo, Cho nên biết Tự tánh bản giác Thánh phàm đồng đủ, Y bất giác mà thành tam giới, y trí pháp thì tròn đủ ba thân, chẳng phải có chẳng phải không, như huyễn như sóng nắng, chỉ người chứng mới tương ưng. Ba đời chư Phật đồng cái bí mật này, trọn không có chỗ nói.
Tánh bản giác ai cũng sẵn có, đó là pháp duyên tự đắc. Chúng ta sống theo bất giác thì luân hồi trong tam giới, nếu y theo trí pháp tức là pháp bản trụ, thì đầy đủ ba thân chẳng phải có chẳng phải không. Vì nó không đồng các tướng vô thường sanh diệt cho nên chẳng phải có, nó là trí hằng giác bất sanh bất diệt nên chẳng phải không. Chỗ này chỉ người chứng đến đó mới tương ưng. Học chỗ này chúng ta mới hiểu trong nhà thiền khi có người hỏi đến chỗ cứu cánh, các thiền sư hoặc ngồi im, hoặc nói mà như không nói, không để cho người hiểu. Tăng hỏi ngài Vân Môn “Phật là gì?” Ngài đáp “Que cứt khổ”. Tăng hỏi ngài Triệu Châu “Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn-độ sang?” Ngài đáp “Cây bách trước sân”. Đó là chỗ bí mật của ba đời chư Phật, trọn không có chỗ nói.
Có bốn phần:
Bồ-tát Đại Huệ lại thỉnh Phật: Cúi xin vì nói tất cả Pháp tướng có và không có, khiến con và các vị đại Bồ-tát, lừa tướng có và không có, chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe. Khéo suy nghĩ đó, sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn, lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Thế gian này y có hai thứ, nghĩa là y có và y không, rơi vào tánh (có) và phi tánh (không), muốn thấy chẳng lìa, lìa tướng.
Thế gian nương tựa vào hai thứ có và không, theo đó mà khởi chấp. Muốn thấy chẳng lìa, tức là tâm duyên theo các tướng có và không, chẳng thể lìa. Cần phải lìa tướng chấp có chấp không mới hợp đạo lý. Đầu tiên Phật nói bệnh chúng sanh, chưa nói cách trị bệnh.
Hai thứ chấp có không này đều chỉ chánh pháp rơi vào kiến chấp của ngoại đạo. Song nghiêng nặng bên chấp không, nghĩa là nương ghé bên Thánh giáo để phá hoại chánh pháp, đâu có gì hơn chấp này.
Phá hoại chánh pháp không gì hơn chấp không. Ví dụ nghe Phật nói các pháp không có thực thể, không có tự tánh bèn cho rằng tất cả thiện ác, tội phước… đều là không. Chấp như vậy là phá hoại chánh pháp. Nói các pháp không có tự tánh là khi đã giác ngộ viên mãn, còn ở trong mê thì nó vẫn hiện tiền.
Có một số người học lóm năm ba câu của Phật tổ, như nghe Chứng Đạo Ca nói rằng: “Không tội phước, không tổn ích” bèn hùa theo nói không có tội, không có phước. Khi nói như vậy là tha hồ tạo tội, bởi vì nó thuận với cái si mê của mình. Đâu biết rằng các ngài nói không tội không phước là căn cứ trên thực thể, trên lý tánh thì không có tội thật phước thật. Như bây giờ nói, tội là từ tâm niệm ác, do nghĩ ác nên nói ác làm ác; phước cũng từ tâm vọng tưởng nghĩ thiện làm thiện. Tâm vọng tưởng là chỗ phát ra tội phước, tìm lại nó không thấy. Nói tội phước không thật là để thấy tận gốc vọng tưởng hư dối. Nếu chúng ta còn chấp vọng tưởng, cho nó là thật có thì tội có thật, phước cũng có thật.
Chúng ta tu phải biết trình độ của mình. Người đi sâu vào tâm tánh, biết vọng tưởng hư dối, vọng tưởng tạo thành nghiệp, thì nghiệp thiện ác cũng hư dối. Đó là chỗ hiểu của mình không chấp. Nhưng với chúng sanh còn vướng kẹt hai bên thì không thể nói thiện ác hư dối, phải dạy họ tu thiện tránh ác. Chúng sanh sợ tội, biết tu phước là điều tốt. Vì thế, nếu hiểu thấu đáo rất có lợi, hiểu không tới nơi mà chấp cái gì cũng không thì họa rất lớn. Phải biết đúng lúc khi nào nói tội phước không thật, khi nào nói có tội phước.
Phật lần lượt phát minh để soi sáng cho đời sau, khiến người tu hành biết pháp để chọn lựa. Y có là, nhân pháp sắc, tâm v.v… hiện có trước mắt, chấp các pháp có tự tánh (có thật), khởi tưởng xa lìa. Y không là, nhân pháp sắc, tâm v.v… vô thường biến diệt, chấp các pháp phi tánh (không có), khởi tưởng vắng lặng. Đây đều chẳng lìa, lìa tướng.
Phật chỉ dạy chỗ thế gian chấp có và chấp không. Chấp có là căn cứ vào các pháp hiện có, thấy thật khổ thật vui khởi tâm chán lìa. Chấp không là thấy các pháp trên thế gian vô thường biến hoại, nhìn vào tâm thiện ác của mình cũng chợt có chợt không, nên cho rằng tất cả đều không, không có gì. Chấp cái không là thật không, nên rốt cuộc không lìa được tướng. Chấp không rất nguy hiểm, vì khiến người không biết tội để tránh, không biết phước để tu. Đó là gốc phá hoại Phật pháp.
Đại Huệ! Thế nào thế gian y có? Nghĩa là thế gian có nhân duyên sanh, chẳng phải chẳng có, từ có mà sanh chẳng phải không có mà sanh. Đại Huệ! Kia nói như thế là nói thế gian không nhân.
Thế gian cho rằng các pháp có nhân duyên sanh, từ có mà sanh. Như cái bàn do có gỗ, đinh, thợ mộc… mà thành cái bàn. Như vậy gỗ, đinh, nhân công… là nhân duyên sanh, cái này có nên cái kia có. Nhưng chấp như thế là nói thế gian không nhân. Vì sao? Vì nếu nói cái bàn do gỗ, đinh, thợ mộc… thì gỗ không tự có, thợ mộc cũng không tự có, tìm tận cùng thì không pháp nào tự có, vì không có thật thể. Không thật thể nên không biết cái gì là nhân gốc của cái bàn. Vì vậy Phật nói là vô nhân. Chúng ta phải hiểu rằng, tất cả các pháp đều từ bất giác mê tự tâm mà hiện, bất giác dường như có mà không phải thật,
Đại Huệ! Thế nào thế gian y không? Nghĩa là nhận tham, sân, si đã có, về sau vọng tưởng chấp trước tham, sân, si tánh (có), phi tánh (chẳng có). Đại Huệ Nếu chẳng nhận có tánh ấy, vì tánh tướng vắng lặng, Bảo là chư Như Lai, Thanh văn, Duyên giác chẳng nhận tánh tham, sân, si là có hay là không.
Thế gian y không, nghĩa là ban đầu thấy có tham sân si, sau lại cho rằng không có tham sân si. Ví dụ khi chúng ta chưa học Phật pháp, thấy có tham thật, sân thật, si thật, đó là chấp tham sân si đều có. Sau khi học Phật pháp, nghe nói tham sân si không có tự tánh đợi đủ duyên mới có, bèn cho rằng tham sân si là không.
Nói thật có cũng có lỗi mà nói thật không cũng có lỗi. Khi mê thì tham sân si thật có, khi ngộ thì thấy tham sân si như huyễn, chẳng phải thật có hay không. Còn mê mà cho rằng tham sân si là không, đó là ngụy biện. Như khi mình nổi sân, người ta phê bình mình tu còn dở, còn sân giận, chúng ta liền phản ứng “Nói sân đó là thật sao?”. Mình đang sân, bị người bắt gặp mà biện bác nói sân không thật, vậy là không thành thật. Cái chấp không này có lỗi lớn.
Nếu chẳng nhận có tánh ấy, vì tánh tướng vắng lặng, nghĩa là nếu thật sự hiểu các pháp tánh tướng vắng lặng thì mới không chấp là có tánh. Không chấp thì xem các pháp như mộng huyễn chẳng phải thật sự là có là không. Người chưa đạt thật tướng, gượng nói không rồi che lấp lỗi mình, nói chư Phật Như Lai cũng bảo tham sân si không thật. Đức Phật chỉ rõ lỗi chấp không này có những ngụy biện như thế.
Các pháp thế gian từ nhân duyên sanh, bèn có chỗ giải lìa uẩn, riêng có kẻ hiểu bỏ vọng cầu chân.
Các pháp do duyên sanh, có người hiểu rằng thân năm uẩn này do duyên sanh là hư giả, phải lìa thân năm uẩn để tìm chân thật, như vậy là hiểu bỏ vọng cầu chân.
Đây do chẳng biết tự tâm hiện ra, vọng thấy nhân duyên liền cho là vô nhân. Đây chấp có ấy, nhân lời Thánh nói vọng chấp thật pháp. Trọn không bằng cái hại lớn là chấp không.
Nghe Phật dạy đây là thiện các ông phải làm, đây là ác các ông phải tránh, cho thiện là thật, ác là thật. Đó cũng là chấp có, nhưng ít tai hại. Chấp không tai hại rất lớn, vì cho các pháp là không ngơ khiến người mất lòng tin, không chịu làm thiện cũng không sợ ác.
Như Lai nói tham sân si không tánh (có) ấy, do tâm tham, sân, si đều nhân nơi bất giác, ban đầu không có tánh nhất định. Chính vì chỉ bày cho người liền đó rỗng rang mê vọng chóng dứt, là lý do chẳng nhận có không.
Phật nói tham sân si không tánh để chúng ta buông hết, không cố chấp, không vướng mắc, không phải nói không ngơ để chúng ta rơi vào hai bên có không.
Ngoại đạo kia nhận tánh tham sân si trong hiện tại có, về sau vọng tưởng chấp trước tánh tham sân si vốn chẳng phải có tánh, Xét vọng chấp kia cho là không có tánh luống thấy tánh tướng vắng lặng, bèn gá vào Thánh giáo, bảo là chư Như Lai, Thanh văn, Duyên giác chẳng nhận có không. Không biết rằng tất cả tánh tướng gốc tuy vắng lặng, song tâm nhận có hiện tại lưu chuyển. Đây là vọng tưởng chấp, chẳng phải tự giác trí.
Ngoại đạo trước nhận tham sân si thật có, sau vọng tưởng cho rằng tham sân si không có, họ nương gá vào Thánh giáo, nói rằng chư Phật, Thanh văn Duyên giác không chấp các pháp có hoặc không. Đó là ngoại đạo còn đang vướng mắc trong tham sân si, chưa thấu tột cội gốc các pháp, chưa thoát khỏi có và không, nên nói có hiện tại lưu chuyển.
Tự giác trí là, giác cảnh giới hiện ra, do mê tự tâm vọng có hiện ra, vọng hiện chẳng phải có, nhân mê mà có. Giác mê thì mê diệt, giác chẳng sanh mê. Tâm cảnh trong ngoài một lúc thanh tịnh. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tự tâm thủ tự tâm, chẳng phải huyễn thành pháp huyễn, chẳng thủ không phi huyễn, phi huyễn còn chẳng sanh, pháp huyễn từ đâu lập.”
Tự tâm thủ tự tâm, ngoại cảnh do tâm mê hiện ra, rồi đem tâm chấp cảnh do mình tạo. Như ví dụ trước đây, họa sĩ vẽ hình ảnh đẹp hay xấu cũng do tự tâm chính mình, vẽ rồi sanh tâm chấp trước vào hình ảnh đó. Đây là chỗ mê lầm muôn đời của chúng ta. Chẳng phải huyễn thành pháp huyễn, tự tâm ban đầu không phải huyễn, do mê khởi ra rồi chúng ta chấp vào cái mê hiện đó nên trở thành pháp huyễn. Chẳng thủ không phi huyễn, nếu không chấp cảnh do tự tâm hiện thì không có phi huyễn. Phi huyễn còn chẳng sanh, pháp huyễn từ đâu lập, cái chẳng phải huyễn đã không sanh thì pháp huyễn không do đâu thành lập.
Tôi ví dụ như trong giấc mộng chúng ta thấy người thấy cảnh cho đó là thật. Vì còn mê thấy thật có nên cười khóc vui buồn theo cảnh mộng. Cảnh đó không có thật khi chúng ta tỉnh, nhưng nếu chúng ta cứ chấp vào cảnh mộng đó thì cái không thành cái có, cái huyễn thành cái thật. Chúng ta phải thật sự tỉnh thức, cảnh mộng là không thật, cảnh hiện tại đang sống đây cũng chỉ là giấc mộng. Khi giác tỉnh biết cảnh thật sự đây cũng như mộng, thì cảnh mộng kia có đẹp đến đâu mình cũng không nhớ nghĩ. Thân sống mấy chục năm đây mà còn như mộng, huống chi mấy giấc mộng con con. Đó là Phi huyễn còn chẳng sanh, pháp huyễn từ đâu lập.
Đây là hiển bày chỉ thú bí mật, ba đời Như Lai đồng một tâm yếu. Ngàn đời ghi chép nêu cao, chính khiến người tự phụ tâm tông (Thiền tông) vọng bàn vô ngại, sao không nhận lấy chỗ này nghiền ngẫm kỹ lưỡng sẽ sanh rất hổ thẹn.
Chỗ chấp không này ngài Hàm Thị nhắc nhở cẩn thận. Nhất là những người tu thiền, không phải nghe chư tổ nói các pháp không thật rồi tự phụ cho rằng mình đã ngộ, thõng tay vào chợ, mặc tình càn quấy. Trong khi tu nếu có tỉnh sáng thì đó cũng chỉ là một cơn chớp loé tạm để chúng ta có niềm tin mà tiếp tục tu. Cần phải dụng công nhiều hơn, tỉnh thức nhiều hơn, không phải một phen tỉnh là xong việc. Tôi luôn luôn dè dặt với những người gọi là có chút biết đạo, thấy đạo. Khi các vị nói mình đã ngộ, tôi vẫn nói là chưa tỉnh thật sự, phải rèn luyện nhiều năm tháng. Trải qua thử thách của tám gió, nếu thấy tâm mình không động mới gọi là đến mé chân thật. Nếu dựa vào thiền ngữ, bắt chước thiền sư nói trên trời trên mây, nghe như bậc Thánh mà gặp việc tâm không tỉnh, vẫn bị cảnh trần chi phối, chỗ này gọi là người tự phụ tâm tông vọng bàn vô ngại. Đây là họa lớn, chúng ta phải nghiền ngẫm kỹ để tự chỉnh sửa.
Đại Huệ! Trong đây những gì là hoại? Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Nếu kia nhận tham sân si tánh rồi sau lại không nhận. Phật bảo Đại Huệ: Ông hiểu như thế, lành thay, lành thay! Đại Huệ! Chẳng những tham sân si tánh, phi tánh là hoại, mà đối với Thanh văn, Duyên giác và Phật cũng là hoại. Vì cớ sao? Vì trong ngoài không thể được, vì phiền não tánh khác và chẳng khác.
Phật chính thức chỉ lỗi phá hoại chánh pháp, tức là những người chấp không, trước có tham sân si rồi sau lại phủ nhận. Tham sân si là gốc tội mà nói nó không thì tất cả tội lỗi cũng không. Họ chấp rằng không có tham sân si, cho đến chư Phật Thanh văn Duyên giác cũng không. Đây là nhận thức sai lầm nguy hiểm, xóa bỏ tất cả tội phước Thánh phàm.
Đại Huệ! Tham sân si hoặc trong hoặc ngoài không thể được, tham sân si tánh vì không thân, vì không thủ. Chẳng phải Phật, Thanh văn, Duyên giác là hoại, Phật, Thanh văn, Duyên giác vì tự tánh giải thoát, vì phược cùng nhân phược phi tánh. Đại Huệ! Nếu có người phược thì nên có phược là nhân phược. Đại Huệ! Như thế nói hoại ấy gọi là không có tướng.
Sở dĩ các bậc Thánh nói tham sân si không thật vì xét thấy chúng không có bản chất thật, các ngài không chấp chặt, nên nói không thân, vì không thủ. Chư Phật và Thanh văn Duyên giác biết tham sân si không thật, tự tánh nó là giải thoát không có tính chất trói buộc hay bị trói buộc. Các ngài thấy rõ chỗ này, dạy chúng sanh tu chuyển tham sân si, không hoại chánh pháp.
Lại bày rõ về chấp không. Tự gá vào chánh pháp, nghĩa là Như Lai cũng nói tham sân si tánh là không thể được, khiến chúng sanh vô trí nghi chê chánh pháp cho đó là hoại. Đâu biết tham sân si trong ngoài không thể được, bởi tham sân si vốn không tự tánh, nhân mê vọng hiện. Cho nên nói “không thân”. Giác mê thì mê diệt, giác chẳng sanh mê, ấy là không thủ. Chẳng phải Như Lai, Thanh văn, Duyên giác đồng với thuyết hoại kia.
Người chấp không mà dựa vào chánh pháp để biện luận rất nguy hiểm. Dựa vào lời Phật nói tham sân si vô tánh rồi cho rằng tất cả đều không, khiến người vô trí chê chánh pháp, cho là Phật pháp nói không có tham sân si, như vậy Phật pháp phá hoại pháp lành của thế gian. Họ không biết Phật nói tham sân si không thể được vì nó không có tự tánh thật, chỉ do mê hiện, không giống như ngoại đạo nói không là không ngơ.
Như Lai thấy rõ tự tánh nên vọng tưởng chẳng Buurin sanh, đã không tâm năng phược cũng không chi tinh cảnh sở phược, năng sở đều dẹp mới là giải Pruriensis thoát. Nếu có cảnh sở phược, ắt có tâm năng phược, nên nói “nhân phược”. Nhân phược rằn tóc chưa đoạn mà vọng chấp là không. Nói là fining hoại, tức đây chấp không có tướng vậy.
Chư Phật thấy rõ tự tánh các pháp nên vọng tưởng không sanh, không vọng tưởng thì không có tâm trói buộc và cảnh bị trói buộc, tự nhiên giải thoát. Chúng sanh mê chấp cảnh thật có, cho rằng tại cảnh làm mình phiền não. Như người mới tu ở trong chúng, thấy chúng có người dễ thương có người dễ ghét, bèn cho rằng ở chúng khó tu. Như vậy là tự mình trói buộc vào cảnh. Thấy người thấy cảnh sanh phiền não là phược, là cột trói. Thật ra không có người nào cảnh nào trói chúng ta, chỉ tại tâm năng phươc chưa đoạn mà thôi. Khi còn lầm chấp thì nói có nói không đều có lỗi, nhưng tai hại nhất là chấp không.
Đại Huệ! Vì nhân đó nên ta nói thà chấp nhận kiến bằng núi Tu-di, chẳng khởi chấp không thật có, tăng thượng mạn không.
Chúng ta thường nghe nói, thà chấp có bằng núi Tu-di hơn chấp không như hạt cải. Vì sao? Vì chấp có thì còn sợ tội phước, chấp không thì phá hoại tất cả, không thiện ác nhân quả, không có Thánh phàm, tất cả là không, cho rằng cái không của mình là trên hết, không ai sánh bằng nên gọi là tăng thượng mạn không.
Phật cảnh cáo chỗ này vì biết bệnh của chúng sanh. Người chấp không sẽ xem thường tất cả, người phàm họ không nể mà ngay cả với bậc Thánh họ cũng không tôn trọng. Thấy tất cả đều không, nhưng thấy mình là trên hết. Bệnh này rất khó trị. Vì vậy khi Phật dạy chúng ta tu quán, như quán bất tịnh, quán vô ngã… là phải quán ngay chính thân mình. Giác ngộ ngay từ thân mình không thật, mới quán sang các pháp, để tránh lỗi thấy pháp huyễn mà mình thì thật.
Thiền tông dạy “phản quan tự kỷ” cũng là áp dụng lời Phật dạy từ các kinh thuộc hệ A Hàm đến hệ Đại thừa. Tất cả đều xoay về chính mình, dẹp bỏ các chấp trước chướng ngại của mình rồi mới nhìn người.
Đại Huệ! Không thật có tăng thượng mạn, ấy gọi là hoại, rơi vào kiến chấp tự tướng cộng tướng mong mỏi, chẳng biết tự tâm hiện lượng. Thấy ngoại tánh vô thường sát-na lần lượt hoại, ấm giới nhập tương tục lưu chú biến diệt, lìa tướng văn tự vọng tưởng, ấy gọi là hoại.
Người nói không thật có rồi sanh tâm xem thường các pháp thế gian và xuất thế gian, người đó là phá hoại, nên nói không thật có tăng thượng mạn, ấy gọi là hoại. Họ không biết rằng chấp không cũng là rơi vào kiến chấp bên ngoài, không thấy được các pháp tự tâm hiện. Thấy sự vật bên ngoài vô thường biến đổi từng sát-na, cho rằng mọi vật đều hoại đều không. Thấy thật có hoại cũng là còn thấy có pháp. Không ra khỏi kiến chấp mà ngông nghênh xem thường tất cả, đó là lỗi hoại rất lớn.
Nhân kiến là chấp có. Thà chấp ấy, nghĩa là người kia mắc kẹt ở trời người; chẳng bằng chấp không mà diệt mất nhân quả, lừa dối chánh pháp, lưu độc vô cùng.
Thà chấp ấy, nghĩa là người kia mắc kẹt ở trời người, vì chấp có nên sợ tội thích phước, do đó tạo nhân lành, được sanh trở lại cõi trời hay cõi người. Còn chấp không thì không làm lành mà dữ cũng không sợ, vì không sợ nên tha hồ tạo ác. Đó là phá hoại nhân quả, lừa dối chánh pháp, để cái độc hại cho đời sau không lường được.
Rơi vào tự tướng cộng tướng mong mỏi là, tất cả sắc tâm các pháp đã có tự tướng cộng tướng cảnh giới vọng tưởng, hiện rơi trong ấy khởi tưởng ưa thích, chẳng lìa nhân phược. Nên nói: Chẳng đạt tâm lượng luống thấy ngoại pháp vô thường, ấm giới biến diệt cho là không, không thật có, mà không biết kia chuốc ương họa mênh mông. Lìa văn tự tướng vọng tưởng ấy, bởi vì giác tự tâm hiện lượng thì đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt, đây là lìa tướng văn tự. Bởi kia tự đạt thẳng nguồn tâm. Kẻ chẳng biết tự tâm hiện lượng mượn miệng nói xa lìa văn tự vẫn trái lời dạy của Thánh, buông lung hoang đường. Đây chính là phá hoại hồ tâm chạy theo vọng tưởng, vừa là hoại mình, hoại người, diệt chủng tộc Phật.
Phân biệt giữa cái thấy không của người đạt tự tâm hiện lượng và người chẳng biết tự tâm hiện lượng. Người đạt thẳng nguồn tâm thì vọng tưởng dứt, tâm hành diệt, đâu có ngôn thuyết gì. Người không đạt tự tâm mà nói không cần văn tự ngôn ngữ, chỉ là trái lời dạy của Phật tổ để buông lung. Đây chính là phá hoại hồ tâm là vừa pháp vừa dụ. Tâm chúng ta như hồ nước trong lặng, nếu bị phá hỏng thì nước chảy hết, cạn khô. Người chấp không chính là phá hoại tâm mình, làm hoại người, mất hạt giống Phật.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Có không là hai bên
Cho đến cảnh giới tâm
Trừ sạch cảnh giới kia
Tâm bình đẳng tịch diệt.
Không thủ cảnh giới tánh
Diệt chẳng phải không có
Có việc thảy như như
Như cảnh giới Hiền Thánh.
Không thủ cảnh giới tánh, tức là không chấp cảnh giới có thật, diệt chẳng phải không có, khi cảnh giới diệt cũng không phải không ngơ. Có việc thảy như như, dù có tất cả việc trước mắt tâm mình vẫn không dính mắc, đó là sống đúng với cảnh giới hiền Thánh.
Không chủng mà có sanh
Sanh rồi mà lại diệt
Nhân duyên có chẳng có
Chẳng trụ giáo pháp ta.
Không chủng mà có sanh, sanh rồi mà lại diệt. Không chủng mà sanh là chấp có, sanh rồi diệt là chấp không. Nhân duyên có chẳng có, chẳng trụ giáo pháp ta, ngoại đạo chấp nhân duyên hoặc có hoặc không, đều không phải giáo pháp của Phật.
Phi ngoại đạo phi Phật
Phi ngã cũng phi khác
Nhân duyên chung họp khởi
Làm sao mà được không?
Tất cả pháp không có thật. Ngoại đạo không thật, Phật không thật, ngã không thật, khác ngã cũng không thật, đều do nhân duyên chung hợp mà thành. Do nhân duyên hợp thì không thể nói không.
Gì họp nhân duyên có
Mà lại nói rằng không?
Tà kiến luận sanh pháp
Vọng tưởng chấp có không.
Những gì do nhân duyên hợp lại có hình tướng thì không thể nói không. Phật nói không đây là tánh không, tạm có như huyễn, nếu cho tất cả đều không là bệnh. Tà kiến luận sanh pháp, vọng tưởng chấp có không, luận tà kiến sanh ra các pháp rồi vọng tưởng chấp cho thật có, thật không.
Nếu biết không chỗ sanh
Cũng lại không chỗ diệt
Quán đây thảy không tịch
Có không hai đều lìa.
Các pháp sanh không chỗ sanh, diệt không chỗ diệt, đều như cảnh trong mộng. Người trong mộng, cảnh trong mộng từ đâu sanh? Diệt đi về đâu? Rõ ràng mê thì thấy có mà giác tỉnh thì không còn, không nói từ đâu sanh hay từ đâu diệt. Nếu hiểu được, quán thấy tất cả pháp không tịch thì lìa hai bên có và không.
Lìa hai bên có không, giác tự tâm lượng, bình đẳng tịch diệt, không chấp cảnh giới chính là chân như bản hữu, là sở hành của Thánh hiền, chẳng phải diệt không còn gì cả. Hai bài kệ trên đây nói tâm bình đẳng xa lìa cảnh giới có không. Một bài kệ dưới nói không chủng mà sanh là chấp có, sanh rồi lại diệt là chấp không. Bởi nhân duyên có không này đồng với ngoại đạo. Nghĩa là chẳng phải giáo pháp của Như Lai. Ba bài kệ dưới rốt nói nhân duyên họp sanh. Nghĩa là y pháp tánh thì không Phật, không chúng sanh, không ngoại đạo, không nhân ngã, Do nhân duyên họp khởi mới có sai biệt, Kinh Pháp Hoa nói: “Lưỡng Túc Tôn vô thượng, biết pháp thường không tánh, Phật chủng từ duyên khởi.
Chư Thánh lìa hai bên có không, đó là ý chỉ bình đẳng tịch diệt, thể nhập chân như bản hữu. Không phải diệt là mất hết không còn gì. Ngoại đạo chấp có không là thấy các pháp thật có thật không, chẳng hiểu được nghĩa duyên khởi. Phật biết rõ các pháp không tánh, tuy không thật có nhưng vẫn tùy theo duyên khởi. Phật chủng từ duyên khởi, thành Phật là giác ngộ được pháp thường trụ, vì nhân nơi pháp thường trụ mà giác, thì đó là duyên khởi. Phật pháp vẫn thấy lý duyên khởi, không thể một bề chấp không.
Vẫn có tập nhân mà lại nói không tức là rơi vào ngoại đạo tà kiến. Đây là do không biết lưu chú sanh nhân nên vọng chấp có không. Nếu biết tâm vốn không sanh, nhân mê dường như có, ngộ vốn không sanh thì cũng không diệt, xưa nay là không tịch, tánh tướng nhất như chẳng chấp tánh sanh, có không đều là hý luận.
Phân làm ba:
Có hai:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Cúi xin vì con và các Bồ-tát nói tướng tông thông. Nếu khéo phân biệt tướng tông thông, con và các Bồ-tát thông đạt tướng ấy, thông đạt tướng ấy rồi, chóng thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng theo giác tưởng và chúng ma ngoại đạo. Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát có hai thứ tướng thông, nghĩa là tông thông và thuyết thông.
Người học đạo phải thông cả hai: Tông và thuyết. Nói đơn giản, tông để chỉ cho tâm là thiền, thuyết để chỉ cho giáo là kinh. Sau đây Phật sẽ giải thích rõ thế nào là tông thông, thế nào là thuyết thông.
Chủ trương của tôi là thiền giáo song hành, thiền tức là tông, giáo tức là thuyết. Trong Pháp Bảo Đàn, phẩm Vô Tướng, Lục Tổ có nói: “Tông thông và thuyết thông, như mặt trời trong không.” Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói: “Tông cũng thông, thuyết cũng thông. Định tuệ sáng tròn chẳng trệ không” Kinh Lăng Già nói, nếu thông đạt tướng tông thuyết thông, chóng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác Như vậy chủ trương của tôi phù hợp với Phật tổ, y cứ theo kinh luận, không phải tự ý đặt ra.
Đến tột tự tánh là tông, viên dung chẳng hai là thông. Tùy cơ hiển bày chẳng kẹt quyền giáo gọi là thuyết thông. Bồ-tát được hai pháp này tự thành và làm thành cho người, không rơi vào cảnh giới ma ngoại giác tưởng, đây là phải học.
Tông là đến tột tự tánh, Lục Tổ gọi là kiến tánh. Nhà thiền lấy kiến tánh làm chỗ chân thật, nên thiền tông gọi là tâm tông, kinh Lăng Già gọi là Phật tâm tông. Viên dung chẳng hai là thông, nghĩa là thấy tánh rồi đối với tướng không ngại. Tánh tướng viên dung gọi là tông thông. Thuyết thông là tùy căn cơ trình độ của người mà chỉ dạy, hướng dẫn người đến thẳng chỗ chân thật, gọi là chẳng kẹt quyền giáo.
Đại Huệ! Tông thông là, duyên tướng tự đắc thắng tiến, xa lìa ngôn thuyết văn tự vọng tưởng, đến vô lậu giới tự giác địa tự tướng, xa lìa tất cả hư vọng giác tưởng, hàng phục tất cả ngoại đạo chúng ma, duyên tự giác thú, hào quang phát sáng, ấy gọi là tướng tông thông.
Duyên tướng tự đắc thắng tiến, tự mình nhận được ngộ được tự tánh gọi là tự đắc, từ chỗ nhận đó mà tiến lên gọi là kiến tánh khởi tu. Nhận được tự tánh thì xa lìa ngôn thuyết, văn tự, vọng tưởng. Đến vô lậu giới tự giác địa tự tướng, tức là nhận được tướng tự giác đó là cảnh giới vô lậu của chính mình, khi đó xa lìa tất cả các vọng tưởng hư dối. Hàng phục tất cả ngoại đạo chúng ma, khi nhận ra thể chân thật đó thì tất cả chúng ma ngoại đạo không làm chướng ngại mình, ngược lại mình có thể chinh phục được họ. Nói đơn giản, tông thông là ngộ được bản tâm thanh tịnh sẵn có của chính mình, lúc đó không bị vướng mắc vào văn tự, ngữ ngôn và vọng tưởng, sống với bản tâm thanh tịnh không bị tà ma ngoại đạo lường gạt, dần dần tiến đến đạo quả viên mãn.
Duyên tướng tự đắc thắng tiến là, tự là tự tánh, tự được tánh kia tối tôn tối thượng, tức là đã chứng Căn bản trí, Duyên Căn bản trí này xa lìa ngôn thuyết vọng tưởng, cứu kính vô lậu giác địa, nên nói “Phật tánh là nhân, Niết-bàn là quả”. Tự giác tông thông này là chỗ sở hành Thánh lạc, trí tuệ minh đạt hàng phục tất cả, tất cả không thể hàng phục được.
Nhận được tự tánh tức là nhận được căn bản trí, hay tri kiến Phật ở trong mỗi chúng sanh, nên gọi Phật tánh là nhân. Sống với Phật tánh, dứt sạch vọng tưởng được vô lậu giác tức được Niết-bàn, nên nói Niết-bàn là quả. Khi nhận ra thể tánh chân thật của chính mình thì không còn sợ ai lung lạc, chính mình có thể chuyển hóa người, đưa trở về với chánh pháp. Tông thông này rất quan trọng với người tu. Phải thấy tánh mới dễ dẹp sạch vọng tưởng, tu tiến mau chóng vô ngại. Vì vậy đặt tông thông là điều kiện đầu tiên thiết yếu.
Thế nào là tướng thuyết thông? Nghĩa là nói chín bộ giáo pháp, lìa tướng khác, chẳng khác, có, không… do phương tiện khéo léo tùy thuận chúng sanh, như đáng nói pháp khiến được độ thoát, ấy gọi là tướng thuyết thông. Đại Huệ! Ông và các Bồ-tát khác nên phải tu học.
Tướng thuyết thông là thông suốt chín bộ giáo pháp, tức là chín bộ kinh hay mười hai bộ kinh của Phật. Lìa tướng khác, chẳng khác, có, không… là lìa tướng hai bên khác và chẳng khác, có và không… Như đáng nói pháp, như gặp người đáng giảng nói thì giảng nói. Khéo dùng phương tiện, tùy theo trình độ căn cơ chúng sanh mà giảng nói, khiến giải thoát sanh tử, đó gọi là tướng thuyết thông.
Đầy đủ tông thông và thuyết thông thì giáo hóa chúng sanh mới đến cứu cánh, nếu chỉ có một bên thì không đủ phương tiện.
Chín bộ là: 1) Tu-đa-la dịch là Khế kinh. 2) Kỳ-dạ dịch Ứng tụng. 3) Già-đà dịch Kệ. 4) Y-đế-mục-đa dịch Bản sự. 5) Xà-đa-già dịch Bản sanh. 6) A-phù-đạt-ma dịch Vị tằng hữu. 7) Ưu-đà-na dịch Tự thuyết. 8) Tỳ-phật-lược dịch Phương quảng. 9) Hòa-già-la dịch Thọ ký. Chẳng nói mười hai bộ đó, nghĩa là các kinh Đại thừa nói thẳng đại pháp chẳng nhờ ‘nhân duyên’, chỉ bàn lý viên mãn dứt các ‘luận nghị’, riêng hiển chân thường chẳng đợi ‘Thí dụ’, cho nên không có ba bộ, song cũng có đủ ba bộ.
Thường chúng ta nghe nói mười hai bộ kinh, ở đây chỉ nói chín bộ vì theo tinh thần Đại thừa nói thẳng đại pháp nên không có các bộ Nhân duyên, Luận nghị và Thí dụ.
Chín bộ kinh này đều là phương tiện tùy cơ, hiển bày chỗ vào chẳng lìa tự tánh, chân tục viên dung, độ thoát các kiến, chẳng phải có pháp thật, nên nói là thông.
Chín bộ kinh hay mười hai bộ kinh đều là phương tiện, như ngón tay chỉ mặt trăng, như chiếc bè đưa qua sông. Nếu ứng dụng dạy mọi người thoát phiền não được giải thoát mà không thấy có pháp thật, đó mới gọi là thuyết thông.
Khi ấy, Thế tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Tông thông và thuyết thông
Duyên tự cùng giáo pháp
Khéo thấy khéo phân biệt
Chẳng theo các giác tưởng.
Người được tông thông và thuyết thông, Duyên tự cùng giáo pháp, tức là duyên nơi tự tánh chính mình cùng giáo pháp của Phật. Khéo thấy khéo phân biệt, chẳng theo các giác tưởng, tức là không theo vọng tưởng.
Chẳng có tánh chân thật
Như kẻ ngu vọng tưởng
Thế nào khởi vọng tưởng
Phi tánh cho giải thoát?
Chẳng có tánh chân thật, các pháp trên thế gian không có tánh thật, kẻ ngu phu vọng tưởng đối với pháp không thật (phi tánh) cho là thật, vì thế không được giải thoát.
Quán sát các hữu vị
Sanh diệt thảy tiếp nối
Tăng trưởng hai chấp này
Điên đảo không hiểu biết.
Quán sát các pháp hữu vi trong thế gian sanh diệt nối tiếp nhau, nếu tăng trưởng hai chấp có không, đó là chúng sanh điên đảo, không hiểu biết chân thật.
Một ấy là chân đế
Không tội là Niết-bàn
Quán sát vọng tưởng đời
Như mộng, huyễn, cây chuối.
Một ấy là chân đế, chân đế là chân lý chân thật, là thể tự giác chỉ có một. Chỉ cần trên thể tự giác không khởi vọng tưởng tạo gì thêm, đó là Niết-bàn. Quán sát tất cả vọng tưởng trên thế gian giống như mộng, như huyễn, như cây chuối. Cây chuối không chắc thật, nếu chúng ta lột dần từng bẹ thì cuối cùng không có cây chuối. Như vậy tất cả pháp như cây chuối, không có thật.
Tuy có tham sân si
Mà thật không có người
Từ ái sanh các ấm
Có đều như huyễn mộng.
Không có người nghĩa là không có chủ tể. Bản chất tham sân si hư dối không thật, nếu tham sân si có thật thì không ai có thể tu sửa. Nếu tham sân si có thật thì nó khởi lên từ đâu? Khi hết tham sân si thì nó về chỗ nào? Tìm không thấy, đủ duyên thì khởi, hết duyên thì mất. Biết như vậy chúng ta không chấp tham sân si, nhìn thấu rõ bản chất của nó để tự mình đoạn dứt.
Từ ái sanh các ấm, có đều như huyễn mộng, vì yêu thích thân, yêu thích những sở hữu của thân nên chúng sanh không thoát ra khỏi tam giới, không thoát khỏi những trói buộc trong sanh tử. Muốn hết sanh tử trước tiên bỏ chấp ngã, dứt yêu thích thân năm ấm. Vì thế Phật dạy vô ngã để phá trừ ái ngã. Nếu biết thân cảnh này có không đều như huyễn, tạm sanh diệt như bóng chớp, buông bỏ chấp thân thì ái không có chỗ bám víu. Ngay đó được giải thoát.
Bài kệ thứ nhất nói chánh pháp tông thuyết đều duyên tự tánh tự giác, có nói ra dạy bảo cốt đạt yếu chỉ này, phải khéo phân biệt chớ theo giác tưởng (vọng tưởng). Hai bài kệ hai và ba nói kẻ ngu vọng tưởng chẳng phải tánh chân thật, không thể giải thoát. Chỉ quán sanh diệt tăng trưởng hai chấp, do điên đảo mà thành. Hai bài kệ bốn và năm nói tự giác chân đế này chỉ một không hai. Cần ở trên thể tự giác không thêm tội cấu liền là Niết-bàn. Song vọng cấu ở thế gian tất cả các pháp sắc tâm ví như huyễn mộng, tuy có độc tham sân si v,v… cũng chính nơi đó không người, Các ấm hiện tại đều từ ái sanh, thảy không thể được. Nếu hay biết chỗ này liền đó chóng lìa, thấy tánh bản thật.
Hai đặc điểm ở đây là tông thông và thuyết thông. Tông thông là ngộ được bản tánh của mình. Thuyết thông là thông suốt được giáo lý của Phật. Có đủ hai điều kiện này thì chính mình tu và dạy người tu không bị thối chuyển, không bị lầm.
Phân làm bốn:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Cúi xin vì nói tướng vọng tưởng chẳng thật. Vọng tưởng chẳng thật vì sao mà sanh? Những gì là pháp tên vọng tưởng chẳng thật? Ở trong những pháp nào mà vọng tưởng chẳng thật?
Bồ-tát Đại Huệ hỏi Phật :
1) Vọng tưởng là không thật, đã không thật vì sao lại sanh?
2) Vọng tưởng chẳng thật có những tên gì?
3) Căn cứ theo pháp nào mà nói vọng tưởng chẳng thật?
Phật bảo Đại Huệ: Lành thay, lành thay! Ông khéo hỏi Như Lai nghĩa như thế, được nhiều lợi ích, được nhiều an lạc, thương xót tất cả người trời ở thế gian, Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, ta sẽ vì ông mà nói. Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn, lành thay! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Do các thứ nghĩa, các thứ vọng tưởng chẳng thật chấp trước, vọng tưởng sanh.
Phật trả lời câu hỏi thứ nhất: Do các thứ nghĩa, các thứ vọng tưởng chẳng thật chấp trước, vọng tưởng sanh, các thứ nghĩa là các pháp bên ngoài ở thế gian, chúng ta thấy là thật có, cho là nó có nghĩa thật. Đối với vọng tưởng trong nội tâm cũng cho là thật, chấp trước pháp bên ngoài và bên trong mà sanh vọng tưởng. Như vậy từ gốc chấp trước, các pháp không thật mà cho là thật, theo đó vọng tưởng sanh.
Đại Huệ! Chấp trước năng nhiếp, sở nhiếp, chẳng biết tự tâm hiện lượng và rơi vào kiến chấp “có không tăng trưởng vọng tưởng tập khí theo kiến chấp ngoại đạo, chấp trước các thứ nghĩa bên ngoài, tâm, tâm số, vọng tưởng chấp trước làm ngã ngã sở mà sanh.
Đoạn này Phật trả lời hai câu hỏi hai và ba. Vọng tưởng chẳng thật chính là tâm năng nhiếp, cảnh sở nhiếp, các kiến chấp có không. Tăng trưởng tập khí theo kiến chấp ngoại đạo. Tâm năng nhiếp là tâm duyên theo ngoại cảnh, cho ngoại cảnh là thật nên cảnh biến thành sở nhiếp. Không biết tâm cảnh đều từ tâm hiện lượng của mình biến hiện, chỗ bất giác đó. cũng là một loại vọng tưởng mê mờ chân tánh, Kiến chấp cho các pháp là thật có thật không, làm tăng trưởng tập khí. Kiến chấp này không đúng chánh pháp nên gọi là kiến chấp ngoại đạo, là một loại vọng tưởng tri thức rất khó trừ dẹp. Đây là đức Phật phân biệt rõ ràng cảnh giới hoạt động của vọng tưởng, khi chúng ta khởi tâm phân biệt dính mắc vào các trường hợp kể trên liền biết là nằm trọn trong vọng tưởng.
Căn cứ vào đâu mà nói nó là vọng tưởng chẳng thật? Câu này rất quan trọng, chúng ta cần lưu ý. Tâm, tâm số, vọng tưởng chấp trước làm ngã ngã sở mà sanh. Tâm là tâm vương, tâm số là tâm sở, các loại vọng tưởng thuộc về tâm vương tâm sở luôn đeo níu chấp cứng về ngã. Cho là ta thật, các pháp thuộc về ta, mọi vọng tưởng đều xoay quanh chấp ngã và ngã sở. Nhưng xét kỹ, ta không thật có, cái ngã này chỉ là duyên hợp hư dối, chấp vào một cái hư dối thì kiến chấp ấy cũng không thật, vì thế gọi là vọng tưởng không thật. Đức Phật đã chỉ dạy rõ ràng về tướng vọng tưởng, cội gốc sâu dày của mọi lầm chấp. Khi chúng ta biết chỗ này, tỉnh giác bỏ vọng tưởng không thật là trở về chân thật.
Đây là tột tướng vọng tưởng sanh, để phát minh đệ nhất nghĩa chẳng sanh vọng tưởng. Đại Huệ hỏi tướng vọng tưởng chẳng thật từ đâu mà sanh, Thế Tôn bảo: Nhân các thứ nghĩa vọng tưởng chẳng thật sanh. Các thứ là, tất cả pháp sắc tâm v.v… và Thánh phàm tất cả danh tướng chân vọng. Các Pháp tướng này không có tự tánh, lìa có và không, lìa tứ cú, y đó mà sanh vọng tưởng. Cho nên nói “vọng tưởng chẳng thật”.
Chỉ tột cùng nguồn gốc vọng tưởng, để nêu lên chỗ ngộ đệ nhất nghĩa không sanh vọng tưởng. Một khi thấy rõ đầu mối hoạt động của vọng tưởng, chúng ta sẽ biết đường trở về đệ nhất nghĩa, vì chính khi hết mê là giác. Nhân các thứ nghĩa vọng tưởng chẳng thật sanh. Các thứ nghĩa là chỉ cho các pháp sắc hoặc tâm, phàm Thánh, tất cả danh tướng chân và vọng. Các pháp này vốn không có tự tánh, do duyên hợp hư dối, không thật. Các pháp đã không thật, nương theo cái không thật để phân biệt thì vọng tưởng phân biệt đó cũng hư dối không thật.
Ở đây chỉ nói vọng tưởng chẳng thật y đây mà sanh khởi, đoạn sau mới nói “vì sao vọng tưởng chẳng thật” để đáp “pháp gì chẳng thật, trong pháp gì chẳng thật”. Năng nhiếp sở nhiếp tức là thể tánh của vọng tưởng. Nghĩa là vọng tưởng này do không biết các thứ nghĩa đều tự tâm hiện, rơi vào kiến chấp có không, tăng trưởng tập khí ngoại đạo, huân phát nơi tâm vương, tâm sở tất cả vọng tưởng, khởi chấp trước năng sở.
Trên là nói chỗ không thật của vọng tưởng, đến đây giải thích nguyên nhân của vọng tưởng chẳng thật. Do không biết tự tâm hiện lượng, đây là lý do chính từ gốc bất giác ban đầu, mê nơi tâm cảnh, chủng tử mê vọng huân nơi tâm vương tâm sở. Huân tập như thế nào? Ví dụ chúng ta thấy một hình sắc đẹp liền duyên theo phân biệt rồi ghi nhớ lại hình sắc đó. Ghi nhớ là huân tập, là giai đoạn hai, Huân rồi phát ra, nghĩa là chúng ta kể lại cho mọi người nghe, diễn tả hình sắc đó như thế nào, kể đi kể lại thành thói quen, không thể quên hình sắc đã qua. Đôi lúc ngồi ôn lại những gì đã nghe đã thấy, đó toàn là vọng tưởng huân phát trên tâm vương tâm sở. Như có người bạn thân mình thích nói chuyện, thích gặp gỡ, cái thích đó trở thành thói quen. Lâu lâu không gặp thấy nhớ, thấy vắng. Đó gọi là tập khí, tập là nhóm họp, khí là hơi, chỉ là sự chứa nhóm hơi hám, không thật, không có hình tướng cụ thể. Hiểu chỗ này chúng ta có thể tu dễ dàng, biết nó chỉ là bóng ảnh chỉ là hơi, chúng ta không tiếp tục in sâu không ghi nhớ, không chấp trước, do đó không tăng trưởng tập khí.
Nguyên chỗ đáp của Thế Tôn cốt chỉ không biết tự tâm hiện lượng là căn do vọng tưởng. Nếu các thứ nghĩa bị nương tuy hiện khởi kiến chấp năng sở có không chẳng thật, song các thứ nghĩa này thảy đều không có tự tánh, vốn tự lìa kiến, lìa tướng, liền đó tức là đệ nhất nghĩa.
Vì tập khí vọng tưởng không thật có, nên ngay khi dứt lìa liền đó là đệ nhất nghĩa. Đây là chỗ tu thẳng tắt. Biết tất cả pháp đều không có tự tánh, không có thật thể, tâm năng duyên và cảnh sở duyên rốt ráo không thật, không khởi tâm chấp bám gọi là lìa vọng. Các pháp tự nhiên thanh tịnh.
Cho nên biết đồng các thứ nghĩa này, mà một bên thì các thứ nghĩa vọng tưởng y đó khởi; một bên là đệ nhất nghĩa vọng tưởng chẳng sanh. Ý này dợi đoạn văn nạn ở sau sẽ rõ. Trăng tin.
Tóm lại, giác tự tâm hiện tức vọng tưởng chẳng sanh, chẳng giác tự tâm hiện thì vọng tưởng y đó mà khởi. Chẳng phải do các thứ nghĩa, lìa tánh lìa kiến mà khiến vọng tưởng có không sai biệt, không thể chẳng xét kỹ. Tâm là tám thức tâm vương. Số là 51 thứ tâm sở. Biến hành có 5, biệt cảnh có 5, thiện 11, căn bản phiền não có 6, tùy phiền não có 20, bất định có 4, tám thức tâm vương mỗi thứ đều đầy đủ.
Cùng đồng một pháp, một bên theo vọng tưởng, một bên là đệ nhất nghĩa chẳng sanh vọng tưởng. Ví dụ như nhìn bình hoa này, nếu chấp nó là thật thì khởi lên phân biệt thích hay không thích. Đó là vọng tưởng sanh. Cũng bình hoa này, biết nó duyên hợp không thật, thấy rồi thôi, tự nhiên tâm không sanh vọng tưởng. Như vậy không cần tìm đệ nhất nghĩa ở ngoài các pháp. Mê sanh vọng tưởng hay giác lìa vọng tưởng cũng ngay nơi các pháp hiện tiền, ngay nơi tâm chúng ta tu, chẳng phải do các thứ nghĩa, lìa tánh lìa kiến mà khiến vọng tưởng có không sai biệt, lỗi không ở nơi các pháp, cùng một pháp nếu chúng ta ngộ được tự tâm hiện thì lìa tánh tức lìa cái thấy cho nó có thật thể lìa kiến chấp thì không có vọng tưởng; nếu thấy nó có tự tánh thật thì sanh vọng tưởng, sai biệt ngay nơi chỗ mê ngộ của chúng ta.
Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Nếu các thứ nghĩa, các thứ chấp trước vọng tưởng chẳng thật mà vọng tưởng sanh, chấp trước nhiếp, sở nhiếp, chẳng biết tự tâm hiện lượng và rơi vào kiến chấp có không, tăng trưởng vọng tưởng tập khí theo kiến chấp ngoại đạo, chấp trước các thứ nghĩa bên ngoài, vọng tưởng tâm, tâm số, chấp trước ngã ngã sở sanh. Thế Tôn! Nếu như thế thì các thứ nghĩa tướng bên ngoài rơi vào tướng có không, lìa tánh và phi tánh, lìa kiếng tướng. Thế Tôn! Đệ nhất nghĩa cũng như thế, lìa tướng lượng, căn, phần, thí, nhân. Thế Tôn! Vì sao một chỗ thì nghĩa vọng tưởng chẳng thật các thứ tánh chấp trước vọng tưởng sanh? Chỗ thì chẳng phải chấp trước tướng đệ nhất nghĩa vọng tưởng sanh? Đâu không phải Thế Tôn nói về tà nhân luận sao? Nên nói một sanh, một chẳng sanh.
Bồ-tát Đại Huệ lập luận để hỏi rõ chỗ vọng tưởng khởi và không khởi. Thế Tôn nói y các thứ nghĩa, tức là y các pháp do đó chấp trước khởi các thứ vọng tưởng sanh, cũng y các pháp đó biết do tự tâm hiện lượng mê hiện, không chấp trước thì vọng tưởng chẳng sanh. Cùng các pháp đó, một bên vọng tưởng sanh, một bên vọng tưởng không sanh. Vọng tưởng sanh là có, vọng tưởng không sanh là không. Như vậy Phật nói pháp giống ngoại đạo.
Đây là lặp lại lời đáp của Thế Tôn mà riêng nêu ra các thử nghĩa bên ngoài và có không kiến tướng đều ngay đó tánh lìa, kiến tướng không thể được, mà Thế Tôn bảo rằng vọng tưởng y đó mà khởi. Đệ nhất nghĩa căn lượng tông nhân ví dụ cũng ngay đó tánh lìa, kiến tướng không thể được, mà Thế Tôn bảo là vọng tưởng chẳng sanh. Đồng một tánh lìa, tướng lìa, kiến lìa, mà một bên bảo các thứ nghĩa vọng chấp có không; một bên bảo đệ nhất nghĩa vọng tưởng chẳng sanh. Đâu không phải Thế Tôn cũng rơi vào tà luận. Nghĩa là một bên chấp có sanh, một bên chấp không sanh.
Lượng là tâm lượng, tùy theo tâm lượng mà nói pháp. Căn là căn thân, phần là tướng phần kiến phần, tông, thí, nhân là ba chi tông nhân dụ. Ý ngài Đại Huệ hỏi rằng cũng đồng các thứ nghĩa lìa tướng lìa kiến mà một bên vọng tưởng sanh, rồi cũng đồng cảnh giới thân căn, hiện lượng mà là đệ nhất nghĩa vọng tưởng chẳng sanh. Như vậy Phật cũng giống tà luận của ngoại đạo, một bên chấp có một bên chấp không.
Không biết chỗ chấp của ngoại đạo cùng với chỗ nói của Thánh giáo, tuy tất cả tánh tướng thảy không thể được, các kiến chấp chóng lìa; song do giác tự tâm hiện lượng thì tất cả đều dứt, cũng chẳng giác tự tâm hiện lượng, mà cho là tất cả đều không thể được, thật là sai hào ly cách xa ngàn dặm.
Đây là lời giải thích của ngài Hàm Thị. Người giác tự tâm hiện lượng biết rằng tất cả cảnh tướng bên ngoài do mê tự tâm hiện lượng mà khởi đều không thật, giống như cảnh và người trong chiêm bao. Biết rõ như mộng huyễn nên dứt vọng tưởng, Lại có người nghe Phật nói cảnh người duyên hợp không thật, họ cũng bắt chước nói không thật, chỉ nói suông mà trong tâm không tỉnh ngộ. Cách nói của người không ngộ tự tâm và cách nói của người ngộ tự tâm, hai cái xa nhau.
Nay những thiền gia ở trong thiên hạ nói là tâm tông mà bảo tất cả không thể được, tự tại vô ngại, đều không ngoài tâm lượng vọng tưởng, theo giác tưởng lưu chuyển mà vẫn hiu hiu tự đắc cho là phát minh tự tâm. Tất cả tánh lìa, thế đế và đệ nhất nghĩa đế không hai không khác. Song không biết rằng hiện chấp có tánh rồi sau nói không, cùng chẳng chấp có tánh bình đẳng tịch diệt. Đây là giác tự tâm cùng chẳng giác tự tâm, riêng khác giữa chân h và ngụy, học giả không thể không xét kỹ.
Đây là lời trách những người tu thiền. Nói các pháp như huyễn không thật, nhưng đó chỉ là học lóm ngoài da, chưa thật sự thấu đạt thể tánh các pháp mà mượn ngôn ngữ đạo để che đậy lỗi của mình, gọi là không ngoài tâm lượng vọng tưởng, theo giác tưởng lưu chuyển mà vẫn hiu hiu tự đắc cho là phát minh tự tâm. Mình vẫn còn vọng tưởng mà nói tôi ngộ rồi, tôi tự tại không sợ gì cả. Uống rượu ăn thịt, tất cả đều dám làm, vì tất cả đều giả, rồi coi thường giới luật, coi thường người giữ giới. Nếu là thật thấy cảnh giả thì đối với rượu thịt không duyên theo, không thèm để ý đến. Còn bị giác tưởng lôi, còn thấy tương rau chay lạt là dở, rượu thịt là ngon, tất cả ngôn ngữ hành động chỉ là mượn lời Thánh nhân để che giấu lỗi. Đó là tội lớn.
Nếu đến chỗ chân thật thì tất cả tánh lìa, nghĩa là tất cả pháp không thật, chân không thật, giả không thật, thế đế là thế gian là giả, đệ nhất nghĩa đế là xuất thế gian là thật, cả hai không khác. Học giả phải xét cho kỹ, người thật đến chỗ thấy các pháp không tánh, và người không thấy tột gốc không tánh, dù nói năng như nhau nhưng chân ngụy rõ ràng, không thể lầm.
Phật bảo Đại Huệ: Chẳng phải vọng tưởng một sanh, một chẳng sanh. Vì cớ sao? Nghĩa là vì vọng tưởng có không đều chẳng sanh, mà bên ngoài hiện tánh (có), phi tánh (không). Giác tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sanh.
Vọng tưởng có không đều chẳng sanh, vọng tưởng không thuộc về có, cũng không thuộc về không. Vọng tưởng không có thật thể, khi gặp duyên dấy lên thì thấy lăng xăng, nhưng nhìn lại thì biến mất, như vậy không thể nói có hoặc không. Vì vọng tưởng không thuộc có không, nên chúng ta có thể tu tập, Khi ngồi thiền chúng ta biết thân này cảnh này đều do mê hiện, giống như người cảnh trong chiêm bao, Biết như vậy không có gì phải nghĩ, tự nhiên yên khô. Trong khi ngồi như vậy, khi đi đứng… luôn thấy người cảnh đều hư dối thì có gì để phân biệt hơn thua. Ngang đó vọng tưởng không sanh, vì thế nói giác tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sanh.
Đại Huệ! Ta nói những kẻ ngu vì tự tâm các thứ tướng vọng tưởng, sự nghiệp hiện tiền các thứ tánh tướng vọng tưởng chấp trước sanh. Làm sao kẻ ngu được lìa chấp trước ngã ngã sở; lìa lỗi nhân duyên năng tác sở tác, giác tâm lượng vọng tưởng của mình, thân tâm chuyển biến, cứu kính hiểu rõ tất cả địa, cảnh giới Như Lai tự giác, lìa năm pháp, tự tánh, sự kiến vọng tưởng? Do nhân duyên này, nên ta nói vọng tưởng từ chấp trước các thứ nghĩa chẳng thật sanh. Biết nghĩa như thật được giải thoát các thứ vọng tưởng nơi tự tâm.
Trên nói giác tự tâm hiện lượng nên vọng tưởng không sanh, đến đây nói phàm ngu vì chấp trước các pháp hiện trước mặt, cho là thật có tánh tướng, sanh khởi vọng tưởng. Nếu họ lìa tất cả chấp trước về ngã ngã sở, không bị lỗi thấy có năng tác sở tác… Xa lìa tất cả cái thấy ta thật cảnh thật, đó là một dụng công tu tập rất lớn, đưa đến sự chuyển biến thân tâm rốt ráo lên quả vị Bồ-tát, quả vị Phật. Chính vì chỗ quan trọng này mà Phật luôn luôn nhắc nhở Ta nói vọng tưởng từ chấp trước các thứ nghĩa chẳng thật sanh, đó là đầu mối mọi mê lầm.
Chẳng phải vọng tưởng một sanh, một chẳng sanh, cho là vọng tưởng có không đều chẳng sanh. Đây là chỉ thẳng người giác tự tâm hiện lượng thì tất cả vọng tưởng có không đều chẳng sanh. Nay hiện ở trong cái có mà bảo tất cả lánh lìa, tất cả không thể được, đây là vọng tưởng chấp trước.
Hiện nay chúng ta còn đang chấp có, có mình thật, có cảnh thật mà bảo tất cả tánh lìa, tất cả đều không dính mắc, tất cả không thể được, đó cũng là vọng tưởng chấp trước không phải thật. Lời này là răn nhắc chúng ta. Trong khi tu nghe Phật tổ dạy chúng ta hiểu được chút ít, hoặc có chút tỉnh giác tưởng như mình không còn chấp trước, tưởng như thấy chỗ cứu cánh chân thật, rồi tự hào nói “tất cả không có, tất cả không được”. Nói nghe rất hay mà gặp việc thì xử sự rất dở. Nghe một lời nói nặng liền nổi giận, thấy tất cả đều thật có. Như vậy mắc lỗi phá chấp rất nguy hiểm, dễ đưa chúng ta đến chỗ làm bừa, làm bướng. Người tu phải thấu suốt chỗ này để không lầm.
Giác tự tâm hiện lượng trọn không có cái tưởng này. Nên nói: “Chẳng chấp có tánh, bình đẳng tịch diệt.” Người ngu đối các thứ tướng sự nghiệp hiện tiền chấp là có, cũng chấp là không, đều do vọng tưởng lưu chuyển. Không giác tự tâm hiện lượng thì động niệm dứt niệm đều trở về mê muội.
Không giác tự tâm hiện lượng thì động niệm dứt niệm đều trở về mê muội. Động niệm thì mê muội, tại sao dứt niệm cũng mê muội? Chúng ta thấy vọng tưởng dấy gọi là động niệm, muốn hết vọng tưởng nên tìm cách xua đuổi ngăn chận, đó cũng thuộc về vọng tưởng nên nói trở về mê muội. Chỉ cần biết vọng tưởng không thật thì tự nó dứt, không nói vọng tưởng sanh hay diệt. Ví dụ có bóng một con cọp chiếu trên màn ảnh, người thấy bóng cọp liền xách búa đến đập. Bóng cọp không thật, giết một cái bóng nó không chết mà mình phí sức vô ích. Như vậy vọng tưởng không thật, sợ vọng tưởng là si mê, diệt vọng tưởng cũng si mê. Chỉ biết nó không thật, không theo cũng không diệt.
Cho nên nói “Muốn được xa lìa các thứ lỗi về ngã ngã sở, phải giác tâm lượng vọng tưởng nơi dung mình. Giác tất cả vọng tưởng thảy do tâm hiện”. Cái bị hiện chẳng thật thì cái tưởng nơi tâm được lìa, liền chuyển thân tâm bất giác kia theo trí tự giác, chiếu sáng các địa đến Như Lai địa, tất cả năm pháp, ba tự tánh đều là hý luận. Vọng tưởng do y chấp trước các thứ nghĩa chẳng thật. Đệ nhất nghĩa do biết tự tánh như thật. Tự thể giải thoát là vọng tưởng chẳng sanh, đây là quyết định vậy.
Tất cả vọng tưởng không rời chính bản tâm của mình. Khi chúng ta ngồi thiền được yên lặng mà hằng tỉnh, hằng sáng thì bản tâm thanh tịnh. Từ chỗ hằng tỉnh hằng sáng bỗng dấy lên suy nghĩ, vọng tưởng suy nghĩ đó cũng không lìa tâm hiện tại của chúng ta. Biết nó không thật không theo thì trở về tâm thanh tịnh, không cần phải diệt trừ.
Chúng ta thấy mặt nước phẳng lặng, khi có gió mạnh sóng nổi lên rất nguy hiểm. Vọng tưởng cũng vậy, tuy không thật nhưng tham sân si nổi lên lôi chúng ta đi vào đường ác. Vì thế phải biết nó từ gốc, từ tâm hiện làm dấy động hồ tâm, lúc đó là mê muội. Tỉnh cơn mê muội để vọng tưởng dừng lặng, trở về tâm thể, đó là chỗ chính yếu. Trở về tánh giác đó là cái duyên để tiến lên các địa vị Bồ-tát, thẳng đến Như Lai địa. Chỗ cốt yếu là biết tự thể giải thoát ngay nơi các pháp, biết năm pháp ba tự tánh… đều hý luận không thật.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Các nhân cùng với duyên
Từ đây sanh thế gian
Vọng tưởng chấp tứ củ
Chẳng biết rành ngã sở.
Từ nhân duyên kết tụ lại thành ra các pháp ở thế gian, vọng tưởng chấp các pháp hoặc có, hoặc không, chẳng phải có, chẳng phải không, thành ra tứ cú. Chẳng biết rành ngã sở, tức là chấp cảnh thuộc về ngã.
Thế gian chẳng có sanh
Cũng lại chẳng không sanh
Chẳng từ có không sanh
Cũng chẳng phi có không,
Các nhân cùng với duyên
Tại sao ngu vọng tưởng
Chẳng có cũng chẳng không
Cũng lại chẳng có không.
Biết các pháp thế gian do nhân duyên, chẳng phải thật có sanh hay không sanh, không nên rơi vào hý luận tứ cú.
Như thế quán thế gian
Tâm chuyển được vô ngã
Tất cả tánh chẳng sanh
Vì bởi từ duyên sanh.
Quán thế gian như vậy thì tâm chuyển được thành vô ngã, vì không có thực thể, không có chủ. Tất cả tánh chẳng sanh, tất cả pháp đều không có thực thể, đều từ duyên sanh, vì duyên sanh nên vô ngã.
Tất cả duyên tạo ra
Tạo ra chẳng tự có
Sự chẳng tự sanh sự
Vì có lỗi hai sự.
Vì không lỗi hai sự
Chẳng có tánh khá được.
Phàm tất cả pháp do duyên tạo ra thì nó chẳng tự có. Sự chẳng tự sanh sự, sự là kết quả, ví dụ đồng hồ không thể sanh ra đồng hồ, do các bộ phận ráp lại kết quả mới thành. Nếu đồng hồ sanh ra đồng hồ là có lỗi hai sự. Vì không lỗi hai sự, chẳng có tánh khá được, tức là nếu không nói pháp này sanh pháp này thì tất cả các pháp chẳng có thực thể có thể được.
Đây nói tất cả thế gian từ nhân duyên sanh. Chẳng biết duyên sanh vọng chấp có không tử củ. Song thế gian này thẳng đó thật không có tứ cú có thể được, đều do kẻ ngu vọng tưởng chẳng đạt lý này. Nếu hay quán kỳ như thế, mới biết tất cả vô ngã. Tự tánh chẳng sanh thảy từ duyên khởi, duyên khởi cũng không thì người tạo cùng việc tạo ra đều không có thật tánh, thẳng đó liền lìa.
Quán sát kỹ từ thân mình đến các pháp thế gian đều duyên hợp, không có chủ tể. Không chủ tức vô ngã, chính chúng ta ai ai cũng vô ngã. Tự tánh các pháp từ duyên khởi, không có thật sanh nên năng tạo sở tạo không có thật nghĩa. Đó là lìa vọng tưởng.
Câu sự chẳng tự sanh sự, sự tức là quả sự. Nghĩa là quả cần đợi nhân, nhân thành ra quả, không có tánh tự sanh. Tóm lại tâm buổi đầu chẳng giác không thể tự chủ lầm theo nhân duyên dường như có sanh diệt. Kẻ ngu chẳng biết vọng chấp có không, người giác chóng lìa vốn không thật tánh.
Quán các pháp hữu vi
Lìa phan duyên sở duyên
Không tâm lượng của tâm
Ta nói là tâm lượng.
Phật dạy rằng khi ta quán các pháp hữu vi, tức là pháp có sanh trụ dị diệt; lìa phan duyên sở duyên, lìa tâm hay duyên và cảnh bị duyên. Không tâm lượng của tâm, là không còn tâm lượng năng duyên sở duyên. Ta nói là tâm lượng, người đó mới thật là ngộ tự tâm hiện lượng. Đây là ý nói giác tự tâm hiện lượng thì lìa năng duyên sở duyên.
Lượng ấy chỗ tự tánh
Duyên sanh cả hai lìa
Tánh cứu kính diệu tịnh
Ta nói tên tâm lượng.
Lượng là cái biết, biết về tự tánh do duyên sanh, nên lìa hai bên có và không. Tánh cứu kính diệu tịnh, đó chính là tự tâm hiện lượng.
Ở trước nói thế gian duyên sanh, duyên sanh nên không tánh. Ở đây mới chỉ ra người giác tự tâm lượng, chỉ hay lìa phan duyên và sở duyên liền đó không tâm, bèn hợp với tâm lượng. Nghĩa là tự tánh tâm này vốn không năng duyên sở duyên, cứu kính là viên diệu. Nếu ở ngoài tâm mà vừa có chấp trước bèn rơi vào vọng tưởng, chẳng phải bản hiện lượng.
Lập bày ngã thế để
Ấy là không sự thật
Lập bày các ấm thân
Không sự cũng như thế.
Ngã thế đế là ngã của thế gian không thật. Thân năm ấm là vô ngã cũng không thật. Hai câu trên là chỉ cho phàm phu chấp ngã. Hai câu dưới chỉ Nhị thừa cho năm ấm vô ngã, cũng chưa phải là thật.
Có bốn thứ bình đẳng
Tướng và nhân tánh sanh
Thứ ba vô ngã đồng
Thứ tư người, pháp tu.
Bốn thứ bình đẳng là tướng bình đẳng, nhân bình đẳng, ngã bình đẳng, tu bình đẳng. Tướng và nhân tánh sanh, tức là tướng bình đẳng, nhân bình đẳng.
Trước nói tự tánh tâm lượng tất cả tánh lìa đương thể là diệu tịnh. Đây nói lập bày năm uẩn, hoặc người hoặc pháp cho đến tướng cùng vô tướng, sanh cùng vô sanh, ngã cùng vô ngã, năng tu và sở tu thảy đều bình đẳng ở tu không có thật tánh, để hiển chỉ có tự tánh tâm lượng, ngoài tánh này không có cái gì riêng khác. Lập bày thế đế là nhân tướng. Lập bày các ấm là pháp tướng. Bốn thứ bình đẳng: tướng, nhân, ngã, tu. Tướng tức là tướng năm ấm. Năm ấm không thật thì tướng cùng vô tướng bình đẳng. Tướng ắt có nhân, nhân là Tập đế trong Tứ đế, là sanh nhân của năm ấm. Quả tướng đã dối thì sanh cùng vô sanh bình đẳng.
Tướng năm ấm từ nhân tập đế mà có, nên nói Tập đế là sanh nhân của năm ấm. Thân năm ấm đã dối thì sanh nhân cũng dối, nên sanh cùng vô sanh bình đẳng.
Nhân quả sanh nhau thì đủ có nghĩa ngã, nhân quả chẳng sanh thì ngã cùng vô ngã bình đẳng.
Nếu thấy có nhân quả rõ ràng đó là có ngã. Nếu thấy nhân quả không thật đó là vô ngã. Như vậy ngã và vô ngã tự tánh bình đẳng.
Rõ ngã chẳng phải ngã gọi đó là tu, rõ không có bị rõ thì tu cùng không tu bình đẳng.
Tu là biết rõ quả không thật. Ngã là cái bị biết, thấy không có cái bị biết thì tu và không tu bình đẳng. Đó là để nói tất cả các pháp đối đãi. Nếu ngộ được một pháp thì tất cả pháp đều bình đẳng.
Vọng tưởng tập khí chuyển
Có các thứ tâm sanh
Cảnh giới hiện bên ngoài
Ấy tâm lượng thế tục.
Hiện ngoài mà chẳng có
Tâm thấy các thứ kia
Dựng lập làm thân, tài
Ta nói là tâm lượng.
Thấy các pháp hiện bên ngoài không có thật. Tâm thấy các thứ kia, dựng lập làm thân, tài, thân là chỉ cho ngã, tài là chỉ cho sự nghiệp, nghĩa là thấy rõ ngã và sự nghiệp không thật có. Người như vậy “ta nói là tâm lượng”, tức là trở về sống với tâm lượng.
Đây nói tâm lượng thể tục do tập khí chuyển ra, vọng sanh phân biệt dường như có ngoại cảnh. Giác được lý này thì trở lại là tự tánh tâm lượng. Hiện ngoài chẳng phải có là, chẳng phải riêng có do tâm vọng thấy, căn thân khí giới, hiện ra đều duy tâm.
Lìa tất cả các kiến
Và lìa tưởng sở tưởng.
Không được cũng không sanh
Ta nói là tâm lượng.
Phi tánh phi phi tánh
Tánh phi tánh thủy lìa
Gọi kia tâm giải thoát
Ta nói là tâm lượng.
Lìa tất cả các kiến chấp năng tưởng sở tưởng đều không được cũng không sanh, tất cả pháp không thật có. Người thấy được như vậy Phật nói là tâm lượng, tức tự tâm hiện lượng.
Tánh là có, phi tánh là không, có không thảy đều lìa, người được như vậy là tâm giải thoát, Phật cũng nói là tâm lượng.
Như như cùng không tế
Niết-bàn và pháp giới
Các thứ thân ý sanh
Ta nói là tâm lượng.
Tâm lượng là gì? Chỗ khác nói là như như, là không tế, là Niết-bàn, là pháp giới, là ý sanh thân. Tất cả tên gọi đó Phật chỉ nói là tâm lượng. Lặp lại nhiều lần lời Phật nói để nhấn mạnh tự tâm hiện lượng.
Các kiến là hai ngã kiến nhân và pháp. Tưởng sở tưởng là năng tưởng và sở tưởng. La những cái này thì được gốc tự lâm, mà chẳng phải mới được, cho nên nói “không dược”. Tâm lượng hiện tiền thì chẳng chấp có lánh là sanh và nhân cả hai đều đoạn, cho nên nói “không sanh”. Hai pháp có không do tứ cú sanh ra, tứ cú đã lìa liền đó giải thoát. Như như, không tệ, Niết-bàn, pháp giới đều chỉ cho tâm lượng chân tịnh viên mãn, cho đến các thứ thân ý sanh thể dụng đều diệu, thảy nói về tự tánh đến chỗ cùng tột.
Chia làm năm:
Chia làm năm:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ bạch Phật rằng: Thế Tôn! Như Thế Tôn đã nói đại Bồ-tát phải rành rẽ về ngữ, nghĩa. Thế nào Bồ-tát rành ngữ, nghĩa? Thế nào là ngữ? Thế nào là nghĩa? Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, ta sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật; Lành thay, Thế Tôn! Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Thế nào là ngữ? Nghĩa là lời nói văn tự vọng tưởng hòa hợp, y nơi cổ họng môi lưỡi răng nước cầm má, nhân đó ta nói vọng tưởng tập khí chấp trước sanh, ấy gọi là ngữ.
Ngữ là gì? Đầu tiên là vọng tưởng hòa hợp với cổ họng, môi, răng, lưỡi, nướu, cằm, mã phát ra tiếng, gọi đó là ngữ. Vì ngôn ngữ mang tính chất vọng tưởng nên đều không thật.
Ngữ là ngôn giáo Như Lai nói ra Tam thừa và Nhất thừa. Nghĩa là đệ nhất nghĩa Thánh lạc hành xứ. Đệ nhất nghĩa Thánh lạc hành xứ do ngôn thuyết được vào. Vào đệ nhất nghĩa Thánh lạc hành xứ thì hay xa lìa tất cả cảnh giới ngôn thuyết vọng tưởng giác. Nhân ngữ mà nhập nghĩa, nên nói chiếu liễu, mà chẳng phải y ngữ sanh nghĩa, trở lại rơi vào giác tưởng.
Ngữ là lời dạy của Phật, nghĩa là nghĩa trong đệ nhất Thánh lạc. Nhờ lời dạy của Phật chúng ta vào đệ nhất nghĩa. Nhân ngữ mà nhập nghĩa gọi là chiếu liễu, nếu chẳng y ngữ sanh nghĩa thì rơi vào giác tưởng. Tại sao? Như chúng ta nghe Phật dạy các pháp không thật, nghe như vậy liền phân tích các pháp một, hai, ba, bốn cả trăm thứ, rồi phân tích chữ không thật nghĩa là gì. Chúng ta chỉ tìm trên danh tự, không nhập được nghĩa chân thật. Đó là theo ngữ mà rơi vào giác tưởng. Ví dụ nhờ ánh sáng của đèn chúng ta thấy được đồ vật, đó là do ngữ nhập nghĩa. Nếu cứ chấp vào ánh sáng, nhìn theo ánh sáng hoài thì không lấy được đồ vật, chỗ rơi vào giác tưởng cũng vậy.
Trước biện biệt thể tướng hai thứ ngữ nghĩa, nhiên hậu bảo, do ngữ nhập nghĩa, như ngọn đèn soi cảnh sắc, chẳng phải ngọn đèn tức là cảnh sắc. Tông thông này là hiển bày tông thú, mượn lời nói mà nhập, không nên y lời nói chấp trước vọng tưởng tướng khác. Vọng tưởng tập khí hòa hợp với bảy thứ: cổ họng… thành thể tướng của ngữ. Đây là y thế gian mà nói. Nếu Thánh ngôn giáo tức là đệ nhất nghĩa làm triền diệu tâm khéo vì hiển bày.
Thế gian do vọng tưởng tập khí hòa hợp với các phương tiện phát ra ngôn ngữ. Còn Phật thì từ đệ nhất nghĩa diệu tâm cũng hòa hợp với các phương tiện phát ra ngôn ngữ. Hai chỗ phát khởi ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chúng ta khiến người nghe khởi phiền não hoặc ghét hoặc thương… Lời Phật nói khiến chúng ta được giải thoát nhẹ nhàng thanh thoát. Vì thế y Phật ngữ thì được nhập đệ nhất nghĩa, y thế gian ngữ thì mang nặng vọng tưởng.
Cho nên ở sau nói “có ngữ chẳng khác với nghĩa”. Nhân ngữ mà biện nghĩa, do ngữ nhập nghĩa nên nói giáo liễu nghĩa. Phàm vọng tưởng tập khí cùng đệ nhất nghĩa diệu tâm, thể một mà tên khác. Thảy do mê giác chuyển ra, nên biết tông thông hiển bày do lời nói mà vào, chẳng phải cảnh giới vọng tưởng.
Đệ nhất nghĩa diệu tâm cùng với vọng tưởng tập khí thể thì một mà tên thì khác. Như thể của nước chỉ là một, nhưng khi có gió dậy sóng thì không nói là thể nước mà nói đó là sóng. Chính trong sóng cũng có tánh nước, sóng không rời nước. Cũng vậy, các vọng tưởng của chúng ta đều có tánh biết của tâm, vì thế là một thể nhưng tên khác.
Đại Huệ! Thế nào là nghĩa? Nghĩa là lìa tất cả tướng vọng tưởng tướng ngôn thuyết, ấy gọi là nghĩa.
Nghĩa là đệ nhất nghĩa, lìa tất cả tướng vọng tưởng ngôn thuyết. Bao nhiêu kinh giáo của Phật đều đưa đến chỗ này. Như chúng ta tu thiền vọng tưởng lặng là trở về đệ nhất nghĩa, còn nếu người niệm Phật được nhất tâm cũng trở về đệ nhất nghĩa; tuy mang tên khác mà trọng tâm không hai.
Đại Huệ! Đại Bồ-tát đối với nghĩa như thế ở riêng chỗ vắng vẻ văn tư tu tuệ, duyên tự giác liễu, hướng thành Niết-bàn, tập khí thân chuyển biến rồi, cảnh giới tự giác xét nghĩa tướng khoảng giữa các địa mà thắng tiến, ấy gọi là đại Bồ-tát rành nghĩa.
Bồ-tát khéo rành về nghĩa, là nghe nói lìa vọng tưởng ngôn thuyết – văn tuệ; ở chỗ vắng suy nghĩ – tư tuệ; duyên tự giác liễu đến thành Niết-bàn tu tuệ. Do văn tư tụ nên tập khí thân tâm chuyển biến, nhận được nghĩa chân thật, tiến từ Sơ địa đến Phật địa.
Đây chỉ thể tướng của nghĩa mà chẳng nói những gì là nghĩa. Chỉ bảo lìa tất cả vọng tưởng ngôn thuyết, ấy gọi là nghĩa. Bởi vì muốn người lìa chỗ ngôn thuyết vọng tưởng được chỗ tự giác.
Ở đây không nói thẳng đệ nhất nghĩa là gì, chỉ nói lìa tất cả vọng tưởng ngôn thuyết, Khi cái giả dừng dứt thì cái thật hiển hiện. Như trong pháp Tứ đế không nói Niết-bàn mà nói Diệt đế. Sạch hết mầm sanh tử thì đó là Niết-bàn. Nói như vậy để chúng ta biết ngôn thuyết vọng tưởng là giả, lìa nó thì được chân thật.
Duyên chỗ tự giác này mới hay ở riêng chỗ vắng vẻ, chóng rõ văn tư tu tuệ, hồi hướng Niết-bàn. Nên nói “chuyển tập khí thân toàn là cảnh giới tự giác. Dùng tự giác diệu tuệ chiếu sáng các địa tiến thẳng lên trên chẳng do nơi khác”. Do nghĩa tướng này để thấy đệ nhất nghĩa diệu tâm của Như Lai khéo vì hiển bày, mà hay khiến người nhân ngữ biện được ori, mai nghĩa, do ngữ nhập nghĩa, nên nói “ngữ chẳng chiến thở khác nghĩa”. Văn sau sẽ nói rõ đó.
Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ-tát rành ngữ nghĩa quán ngữ cùng nghĩa chẳng khác, chẳng phải chẳng khác. Quán nghĩa cùng ngữ cũng lại như thế. Nếu ngữ khác với nghĩa thì chẳng nhân ngữ mà biện nghĩa. Song do ngữ nhập nghĩa như đèn soi cảnh sắc.
Ngữ với nghĩa dường như khác nhau, ngữ là tướng vọng tưởng hư dối, do duyên hợp mà có, nghĩa là cái chân thật sẵn có. Như đèn soi vật, vật khác với ánh sáng đèn. Ở đây Phật dạy ngữ với nghĩa chẳng khác, chẳng phải chẳng khác. Nếu ngữ khác nghĩa thì chúng không liên hệ nhau. Nhưng nhân ngữ mà nhập nghĩa, từ lời nói của Phật mà chúng ta nhận được lý đạo, đó là lời nói và lý đạo tương đồng. Nghĩa và ngữ cũng có khác, vì lý đạo thì rời xa ngôn ngữ vọng tưởng. Phải khéo phân biệt để không lầm giữa ngữ và nghĩa, đồng thời ứng dụng được giữa ngữ và nghĩa.
Đây chính bày tông thông hiển thị sở nhập. Có bao nhiêu chương cú đều là liễu nghĩa. Cho nên Bồ-tát rành ngữ nghĩa thì quán ngữ biết nghĩa là chẳng khác, chẳng phải chẳng khác. Khác thì chẳng nhân ngữ mà biện nghĩa, mà hẳn do ngữ nhập nghĩa. Đến chỗ tự chứng lìa. ngôn ngữ mà được, mới biết tất cả ngôn giáo là chiếu liễu nguồn tâm, lìa tất cả cảnh giới ngôn thuyết vọng tưởng. Chúng sanh do tập khí che đậy nên không thể nhân ngữ mà biết chỗ trở về, trái lại duyên ngôn thuyết theo đó chấp có không, chẳng phải lỗi tại Thánh giáo.
Cũng là lời Phật nói, nhưng với người biết thì nghe rồi nhập được nghĩa, người không biết nghe rồi phân chữ, phân nghĩa, đó là khởi vọng tưởng. Lỗi tại người nghe, không phải do lời Phật.
Lại nữa, Đại Huệ! Chẳng sanh chẳng diệt, tự tánh, Niết-bàn, tam thừa, nhất thừa, tâm, tự tánh v.v… như duyên lời nói nghĩa rồi chấp trước, rơi vào chấp dựng lập, phỉ báng, khác dựng lập, khác vọng tưởng, như huyễn các thứ vọng tưởng hiện. Thí như các thứ huyễn, chúng sanh phàm ngu cho là khác vọng tưởng, chẳng phải Thánh Hiền.
Đây là nói về kẻ ngu theo lời chấp nghĩa. Nghĩa là nghe Phật nói chẳng sanh chẳng diệt, tự tánh Niết-bàn, nói về tam thừa, nhất thừa, nói là tâm, là tự tánh… Duyên theo lời nói đó, tìm nghĩa rồi chấp trước rơi vào có không. Từ chỗ như huyễn mà sanh ra các thứ vọng tưởng. Các thứ huyễn, chúng sanh phàm ngu cho là khác vọng tưởng, chẳng phải Thánh Hiền, chúng sanh thấy các tướng huyễn cho là thật, chấp ngoài vọng tưởng có cảnh. Bậc Thánh thấy cảnh do vọng tưởng hiện, cảnh không ngoài vọng tưởng.
Đây nói kẻ ngu không thể nhân ngữ nhập nghĩa, dối tự thể các pháp trong đệ nhất nghĩa chẳng sanh diệt v.v… không có chiếu liễu, trái lại y ngôn thuyết chấp trước cảnh giới giác tưởng sở thuyết, rơi vào có không. Là khác với tự thể các pháp đệ nhất như nghĩa mà khởi dựng lập. Có các thứ vọng chấp như y nơi huyễn mà khởi các phân biệt. Cho nên biết, tất cả các pháp đều là đệ nhất nghĩa mà Thánh phàm đồng hiện, mê giác vẫn phân. Người giác tự tâm hiện lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm duyên, nhận được pháp thể, mới tin nhật dụng không khác, như chư thiên kia đồng bát đựng thức ăn, tùy phước dày mỏng mà thấy mỗi phần có khác.
Tất cả pháp đều là đệ nhất nghĩa, nơi tất cả pháp đó mà lại chia có Thánh phàm, mê giác. Căn cứ trên một pháp Phật dạy mà người mê cho là có không, phân tích chữ nghĩa tăng thêm vọng tưởng. Cũng trên pháp đó, người giác tỉnh ngộ, nhận ra đệ nhất nghĩa. Nên nói tất cả các pháp đều là đệ nhất nghĩa mà Thánh phàm đồng hiện.
Nhật dụng là chỗ sử dụng hàng ngày, mê ngộ cũng ngay nơi đó. Cùng một cảnh mà người chấp trước sanh phiền não, người không chấp thấy an vui. Đây ví dụ như chư thiên đồng bát đựng thức ăn, tùy theo phước mà thấy có khác. Chúng ta nói người có phước đến đâu cũng an ổn, phước đó là tùy theo tự tâm hiển hiện, không do cảnh bên ngoài.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Ngôn thuyết vọng tưởng kia
Dựng lập ra các pháp
Bởi do kia dựng lập
Chết rơi vào địa ngục.
Những người do ngôn thuyết vọng tưởng dựng lập ra các pháp, cho là thật có thật không, vì dựng lập như vậy nên chết rơi vào địa ngục.
Trong ấm không có ngã
Ấm chẳng tức là ngã
Chẳng như vọng tưởng kia
Cũng lại phi vô ngã.
Đây là chỉ cho hàng Nhị thừa, thấy trong năm ấm không có ngã, năm ấm chẳng tức là ngã, đó là các ngài ngộ năm ấm vô ngã. Chẳng như vọng tưởng kia, tức là không vọng tưởng như hàng phàm phu trên, nhưng cũng lại phi vô ngã. Vì sao? Vì vô ngã cũng là giả tướng của năm ấm.
Tất cả thảy có tánh
Như phàm ngu vọng tưởng
Nếu như kia đã thấy
Tất cả nên thấy đến
Nếu nói tất cả pháp đều có thực thể, như các phàm phu vọng tưởng cho cái gì cũng thật. Nếu như kia đã thấy, tất cả nên thấy đế. Như vậy phàm phu thấy thật thì lẽ ra gọi là thấy chân đế, vì chân đế là thật.
Tất cả pháp không tánh
Tịnh uế thảy không có
Chẳng thật như kia thấy
Tân Cũng chẳng phải không có.
Tất cả pháp không có thực thể cố định, không nhất định là tịnh hay uế. Đây là một lẽ rất thâm trầm, chỉ vì quen theo suy nghĩ phàm phu nên chúng ta nghe nói không tịnh không uế thì cảm thấy khó chịu. Rác thải ra thấy như dơ bẩn, nhưng đem ủ làm phân bón thì cây tốt, hoa đẹp. Rác không thật có tánh nhơ hay sạch, chỉ tùy theo trường hợp sử dụng.
Đây nói ngoại dạo y ngôn thuyết vọng tưởng dựng lập có không, đó là là pháp nhân chấp nên phải dọa. Song Nhị thừa bảo trong ấm vô ngã, tuy chẳng giống vọng tưởng tức ấm là ngã, mà không biết vô ngã cũng chẳng phải đệ nhất nghĩa. Phàm ngoại chẳng phân mê giác, làm cho vọng là chân. Nhị thừa dối trị tà chấp bỏ chân dồng vọng. Đây đều chẳng dạt tánh sẵn đủ, chẳng lìa vọng tưởng mà có chân thật. Nếu quyết lìa vọng thì nào khác lẫn vọng, cho nên nói “nếu như kia đã thấy tất cả nên thấy để (chân thật)”.
Tất cả pháp không tánh, đây là chỗ nhấn mạnh của kinh Lăng Già. Theo cái nhìn của ngoại đạo cho các pháp thật có không nên thành pháp tà. Nhị thừa đối trị tà chấp chứng vô ngã cho là chân, thấy có các pháp chân khác với vọng cũng là đồng với vọng. chân thật tự sẵn đủ đệ nhất nghĩa, không phải tìm chân thật bên ngoài các pháp.
Nghĩa là Nhị thừa vô ngã chẳng phải chân thật. Thế nên biết, tất cả các pháp chân thật vốn không tự tánh, đã có tịnh uế đều do kiến chấp mà sanh. Chỉ trừ kiến chấp chẳng thật thì chân thật hiện tiền. Nên nói đệ nhất nghĩa như thật bản tế thầm hợp tương ưng, không có thủ xả. Đây là cảnh giới tự thông chẳng phải không có, mà không phải chỗ hay nói của ngôn thuyết vọng tưởng. Đó là sở do bài kệ chót trưng bày.
Như vậy mới thấy rõ tất cả pháp không có tánh nhất định, mê giác tùy người mà nó thành ra tịnh uế, thiện ác….
Chia làm ba:
Lại nữa, Đại Huệ! Tướng trí thức nay sẽ nói. Nếu khéo phân biệt tướng trí và thức thì ông và các Bồ-tát ắt hay thông đạt tướng trí và thức, chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đức Phật giải thích cho biết tướng trí và tướng thức. Nếu Bồ-tát thông suốt được tướng trí và thức thì chóng được thành Phật quả.
Đại Huệ! Trí kia có ba thứ, nghĩa là thế gian, xuất thế gian, xuất thế gian thượng thượng. Thế nào là trí thế gian? Nghĩa là tất cả ngoại đạo phàm phu chấp trước có không vậy.
Trí thế gian là trí của phàm phu, ngoại đạo. Họ chấp các pháp ở thế gian này hoặc có, hoặc không, rồi lý luận mọi cách để giải bày một cách trôi chảy gọi là trí thế gian.
Thế nào là trí xuất thế gian? Nghĩa là tất cả Thanh văn, Duyên giác rơi vào chấp trước hy vọng tự tướng, cộng tướng.
Trí xuất thế gian là trí của hàng Thanh văn, Duyên giác, y cứ vào thân năm ấm tự tướng, cộng tướng mà sanh chấp trước hy vọng. Vì sao? Vì chúng sanh phàm phu mê lầm chấp thân năm ấm là thật. Các vị Thanh văn, Duyên giác quán biết thân năm ấm duyên hợp, vô ngã. Đó là hy vọng thoát khỏi chấp mê lầm, nhập được Niết-bàn, nên gọi là trí xuất thế gian.
Thế nào là trí xuất thế gian thượng thượng? Nghĩa là chư Phật, Bồ-tát quán pháp không thật có, thấy chẳng sanh chẳng diệt, lìa các loại có không. Như Lai địa nhân pháp vô ngã duyên tự đắc mà sanh.
Trí xuất thế gian thượng thượng chỉ cho trí của Phật, Bồ-tát. Các ngài quán tất cả pháp thế gian này không thật có. Vì không thật nên thấy chúng không sanh không diệt, lìa tất cả các chấp có không. Tới quả vị Phật là được nhân vô ngã và pháp vô ngã, duyên chỗ tự chứng tự đắc mà sanh trí tuệ như vậy.
Đó là giải thích ba thứ trí: Trí thế gian, trí xuất thế gian và trí xuất thế gian thượng thượng.
Tất cả chúng sanh chẳng được duyên tự giác liễu, đều do không đạt hai tướng trí và thức. Cho là trí mà thật là thức, thành tăng thượng mạn. Đó là lý do Như Lai lặp đi lặp lại để hiển bày vậy. Trong ba thứ trí, thế gian trí chỉ cho ngoại đạo, cũng nói người trí, bởi vì ngoại đạo cũng tự cho là người trí.
Người thế gian suy tính trên các pháp, nói là thật có, thật không và lý luận nghe thông suốt, từ đó sanh tâm tăng thượng mạn, khinh chê mọi người. Trong kinh thường nói trí biện thông là trí thế gian, đó chỉ là thức chứ không phải trí.
Nhị thừa đạt các ấm vô ngã, vẫn còn chấp pháp ấm, không biết dều là tự tâm hiện, nên nói theo tự tướng, cộng lượng hy vọng.
Biết được các ấm là vô ngã nhưng còn thấy có pháp, nghĩa là thấy năm ấm là chỗ để quán và vô ngã để chứng, không biết đều là tự tâm hiện. Vì vậy còn mắc kẹt tự tướng cộng tướng hy vọng.
Chư Phật Bồ-tát giác tự tâm hiện, đạt tất cả các pháp đều không thật có, lìa có không sanh diệt, tự tánh như như. Bởi vì Như Lai địa, nhân pháp đều quên, duyên tự dắc sanh, chẳng cùng ngoại đạo, Nhị thừa chấp có không, hy vọng tự cộng, mà so sánh được.
Vì thấy tất cả pháp đều do tâm hiện nên không chấp là có, là không, là sanh, là diệt, cho nên tự tánh như như. Đến Như Lai địa tức Phật địa, chấp ngã và pháp đều hết, duyên tự đắc sanh tức là chỗ mình tự chứng đắc chẳng giống như ngoại đạo, Nhị thừa. Ngoại đạo thì thấy có không, Nhị thừa thì dựa vào tự tướng cộng tướng, còn có chỗ so sánh được, vì vậy mà khác.
Tóm lại, đức Phật giản trạch cho chúng ta biết ba thứ trí. Nếu mà lý luận có không đó là trí thế gian. Lý luận về năm ấm vô ngã là trí xuất thế gian. Thấy các pháp tự tâm hiện, không thật, không mắc kẹt có không là xuất thế gian thượng thượng. Sau đây, Phật giải thích thức với trí sai biệt thế nào.
Đại Huệ! Cái sanh diệt kia là thức, cái chẳng sanh diệt là trí. Lại nữa, rơi vào tướng vô tướng và các thứ nhân tướng có không là thức, siêu việt tướng có không là trí. Lại nữa, tướng trưởng dưỡng là thức, chẳng phải trưởng dưỡng là trí.
Những phân biệt hiểu biết thuộc về sanh diệt là thức, còn cái biết không sanh diệt là trí. Đó là định nghĩa đầu tiên.
Những hiểu biết nào phân biệt có tướng, không tướng, các thứ nhân tướng có không, đó là thức; còn cái biết siêu việt tướng có không, đó là trí. Đây là nghĩa thứ hai
Hiểu biết nuôi lớn các nghiệp nhân sanh tử là thức, không nuôi lớn nhân sanh tử, liễu nhân đạt được chỗ chân thật là trí. Đây là nghĩa thứ ba.
Bất giác tự tâm hiện, vọng thấy tất cả pháp sanh, vọng thấy tất cả pháp diệt. Giác tự tâm hiện, chỗ hiện là duy tâm, không có sanh diệt. Đây là lý do trí cùng thức phân biệt vậy. Y cái sanh diệt này chấp tướng có-không, cùng nhơn có không là thức. Hay siêu việt cái này là trí. Trưởng dưỡng nghĩa là sanh, đối với tất cả pháp mà tạo sanh nhân là thức, đối với tất cả pháp mà liễu nhân là trí. Như Lai đã có ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề và sáu ba-la-mật, tất cả vô lượng ba-la-mật đều là liễu nhân mà chẳng phải sanh nhân.
Vì chúng ta mê lầm bất giác nên thấy các pháp có sanh, có diệt, đó là thức. Nếu biết rõ đều tự tâm mê hiện thì không sanh không diệt, đó là trí, Theo sanh diệt chấp tướng có không là thức, siêu vượt khỏi có không là trí. Pháp của Phật giảng cho chúng ta thấy được cái chân thật sẵn có nên thuộc liễu nhân là trí, không phải sanh nhân nghĩa là đối với các pháp tạo sanh nhân, trưởng dưỡng nghiệp sanh tử.
Lại nữa, có ba thứ trí, nghĩa là biết sanh diệt, biết tự cộng tướng, biết bất sanh bất diệt. Lại nữa, tướng vô ngại là trí, cảnh giới tất cả tướng ngại là thức. Lại nữa, tướng ba việc hòa hợp phương tiện sanh là thức, tướng vô sự phương tiện tự tánh là trí. Lại nữa, tướng đắc là thức, tướng chẳng đắc là trí. Cảnh giới tự đắc Thánh trí chẳng ra chẳng vào, cho nên như trăng trong nước.
Một là trí biết sanh diệt, hai là trí biết tự tướng cộng tướng, ba là trí biết bất sanh bất diệt. Cái gì thuộc vô ngại là trí, có tướng ngại là thức. Ba việc hòa hợp phương tiện sanh, ví dụ như chúng ta thấy bình bông. Trong là con mắt, là căn. Ngoài là bình bông, là trần. Căn trần khởi ra phân biệt, đây gọi là thức. Còn tướng vô sự phương tiện tự tánh là căn trần tiếp xúc mà không dấy niệm phân biệt là vô sự, đây gọi là trí. Còn thấy có đắc tức là có năng có sở thì thuộc về thức, không đắc thì không năng sở là trí.
Sanh diệt là mê chân duyên tập, nghĩa là các phàm phu ngoại đạo mê chân tánh mình, khởi ra tất cả nhân duyên sanh diệt. Tự cộng tướng là kẹt nơi chân duyên tập, nghĩa là Nhị thừa kẹt nơi pháp chấp chẳng đạt chân tánh, khởi ra tất cả nhân duyên nhàm chán tự tướng cộng tướng. Chẳng sanh chẳng diệt là tự chân duyên tập, nghĩa là Bồ-tát thủy giáo thấy chân tánh mình chẳng lìa chân tế, khởi ra tất cả pháp nhân Bồ-đề chẳng sanh diệt.
Cảnh giới Thánh trí không còn thấy có ra có vào, không có một pháp thật. Mê chân là quên chân thể mà duyên tập, tức là duyên sự nhóm họp lại. Nhị thừa kẹt nơi pháp chấp chẳng đạt chân tánh, khởi ra tất cả nhân duyên, nói: Thân này do duyên hợp không thật, vô ngã, nhàm chán tướng chung, tướng riêng của nó. Đó là chứng được trí Nhị thừa nhưng vẫn chưa thấy được bản tánh nên còn kẹt bên chân. Đến chỗ không sanh không diệt, tự nó đã chân rồi duyên theo các pháp nhóm họp, nghĩa là Bồ-tát Thủy giáo (Bồ-tát mới vào Đại thừa) thấy được chân tánh của mình, không rời chân tánh mà khởi tất cả pháp nhân Bồ-đề, không sanh không diệt.
Biết ba thứ này mới gọi là trí. Hay biết ba thứ mà biết chẳng phải ba thứ nên nói nhất thiết trí trí thanh tịnh. Vô ngại tức là nghĩa tứ vô ngại trong kính Hoa Nghiêm. Nghĩa là lý vô ngại, sự vô ngại, sự lý vô ngại, sự sự vô ngại. Chân thuyên vô ngại có thiên trọng liền rơi vào thức tâm. Ba việc là căn, trần và thức. Rõ biết căn trần đều do nội thức biến dường như có, mà không có căn trần có thể được, tất cả phân biệt tức là vô phân biệt trí, nên nói; “Tùy thuận phân biệt tướng các pháp mà nơi đệ nhất nghĩa chẳng động.”
Trong kinh Đại Bát-nhã Phật thường nói đến nhất thiết trí thanh tịnh. Chân thuyên vô ngại là lời nói chân thật không ngại, nếu có thiên trọng nghĩa là nghiêng nặng một bên thì thuộc thức, không phải trí. Thức là do ba việc họp lại, trí là phương tiện vô phân biệt. Vô sự là vô phân biệt trí. Nghĩa là có căn cảnh mà biết từ tâm hiện, tuy có mà thật không, nên dù phân biệt mà hằng biết thì đó là trí, vô phân biệt trí.
Tướng tức là tất cả tướng sắc, tâm… Giác tự tâm hiện không có tướng có thể được, gọi là tướng chẳng đắc. Đây đều là cảnh giới tự giác Thánh trí, như trăng trong nước chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải ra, chẳng phải vào, không thể hiển bày, chỉ chứng mới tương ưng.
Biết tất cả pháp do mê tâm mà hiện, không thật thì không có năng đắc sở đắc, nên gọi là vô sở đắc. Biết rồi thì thấy tất cả pháp như trăng trong nước, chỉ tùy duyên hiện, không ra không vào. Chỗ này chỉ chứng mới biết.
Khi ấy Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Gom nhóm nghiệp là thức,
Chẳng gom nhóm là trí.
Quán sát tất cả pháp
Thông đạt không thật có.
Liền được sắc tự tại
Ấy gọi tên là huệ.
Thấy cảnh, khởi tâm phân biệt, rồi thương ghét, khen chê. Đó gọi là gom nhóm nghiệp, tâm này gọi là thức. Không gom nhóm gọi là trí, nghĩa là thấy cảnh không khởi khen chê, ưa ghét. Trí khác với thông minh lanh lợi vì biết trong thể bất động, còn thông minh lanh lợi là phân biệt trong động, dễ tạo nghiệp. Trí là làm chủ được vọng thức, không để chúng quấy rối. Xem xét tất cả pháp thế gian, thấu suốt không pháp nào có thật, liền được sức tự tại, đó gọi là huệ.
Buộc cảnh giới là tâm
Giác tưởng sanh là trí
Không thật có và thắng
Huệ ắt từ ấy sanh.
Buộc cảnh giới là theo cảnh, dính mắc với cảnh là tâm, tức là thức. Giác tưởng sanh là trí, thấy cảnh biết huyễn hóa hư dối. Nếu biết rõ cảnh không thật là trí thù thắng, huệ từ đó sẽ sanh.
Đây phân trí huệ. Trí nhằm giác liễu tự tâm, tiên tiến chẳng theo thức tâm phân biệt, nhiếp thọ là chỉ căn bản trí, Huệ là nhằm sai biệt, được tất cả chỗ vô sai biệt trí, vào pháp hạnh Phổ Hiền, nhậm vận trang nghiêm. Buộc cảnh giới là bị tất cả pháp sanh diệt buộc. Tâm giác cảnh buộc này vốn tự viên tịnh.
Không đuổi theo các pháp để phân biệt, dính mắc thì cái biết đó là căn bản trí. Huệ là quán sát biết rõ tự tánh các pháp không thật, được tự tại, tức là vô sai biệt trí, là vào được hạnh Phổ Hiền, trang nghiêm tự tại. Bị cảnh giới bên ngoài lôi kéo, dính mắc thì gọi là buộc; giác nó vốn không thật, tâm được yên tịnh là trí.
Chỉ do vọng tưởng thảy không thể dược, cũng nhiếp thuộc Căn bản trí. Giác thì hay liễu, liễu mà không có sở liễu, đến chỗ vô tướng, lần lượt tăng thắng cũng nhiếp thuộc sai biệt. Vô tướng là cảnh giới Bát địa. Thắng tức Như Lai địa.
Biết các cảnh không thật, không bị ràng buộc thì trở về căn bản trí. Giác thì biết rõ ràng mà không sở liễu, nghĩa là không có đối tượng để rõ, đến chỗ vô tướng thì càng ngày càng thù thắng, thuộc về sai biệt trí. Ví dụ khi thấy cảnh, thấy người gọi là mình có biết; khi không thấy cảnh, thấy người thì nói không biết. Biết mà đợi cảnh, đợi duyên mới biết thì thuộc thức. Còn khi không cảnh, không duyên, tâm mình vẫn liễu liễu thường tri thì không thuộc đối đãi, không có sở liễu. Cái biết này không hề vắng mặt nhưng tại mình quên, nếu tăng trưởng nó tất nhiên thuộc sai biệt trí.
Tâm ý cùng với thức
Xa lìa tưởng suy nghĩ
Được pháp không tưởng nghĩ
Phật tử phi Thanh văn
Nhẫn tịch tĩnh thắng tiến
Như Lai trí thanh tịnh
Sanh ra nghĩa thiện thắng
Đã làm thảy xa lìa.
Nếu cả ba tâm, ý, ý thức xa lìa được tưởng suy nghĩ, lúc đó được pháp không tưởng nghĩ, tức được tâm thể lặng lẽ không nghĩ tưởng thì Phật tử này không phải hàng Thanh văn. An nhẫn chỗ tịch tĩnh lặng lẽ mà thắng tiến là trí thanh tịnh của Như Lai, sanh nghĩa thiện thù thắng, những việc đã tạo tác bên ngoài đều xa lìa hết.
Đây tức nơi tâm, ý, ý thức mà được trí thanh tịnh Như Lai, chẳng phải Nhị thừa đến được. Tâm, ý, ý thức đương thể toàn không, chỉ hay lìa các phân biệt thì được pháp thể vô phân biệt, liền khéo vào nhẫn tịch diệt đến trí địa thanh tịnh Như Lai. Do trí thanh tịnh Như Lai đều từ pháp vô phân biệt mà sanh. Pháp vô phân biệt tức là nghĩa thiện thắng. Pháp thiện thắng vô phân biệt này tức là thể của suy nghĩ phân biệt. Vì mê nên y thể khởi vọng, vì giác nên thể hợp tưởng dừng, bản trụ hiện tiền tâm hành chóng hết. Đó là nghĩa đế vô phân biệt tối thắng vậy.
Nghĩa là có đủ tâm, ý, ý thức nhưng không cho chạy theo cảnh, theo pháp trần, lặng lẽ thanh tịnh thì chúng ta trở về chỗ nhẫn tịch diệt. Đó là trí địa thanh tịnh của Như Lai, vượt hẳn Thanh văn. Vô phân biệt là biết mà không phân biệt, không phân biệt thì không động, không động thì không sanh diệt, cái biết này là trí. Vô phân biệt là thể của phân biệt, của thức. Thức và trí rất gần nhau, nhà Thiền thường nói giống như ngỗng chúa uống sữa chừa nước. Biết mà không phân biệt là trí, mê thì khởi vọng thành tướng sanh diệt là thức. Trở về bản thể vô phân biệt là giác, mà hợp với thể thì vọng tưởng dừng, bản trụ hiện tiền, tâm hành chóng hết. Đó là chỗ chân thật, vô phân biệt tối thắng vậy.
Nhẫn có năm: phục, tín, thuận, vô sanh, tịch diệt. Từ Tam hiền cho đến Phật địa chỗ chứng có sâu cạn. Về tịch diệt nhẫn đến địa thứ mười là Pháp vân mới chứng, bậc Đẳng giác và tint Diệu giác Phật địa các hoặc đoạn hết cũng nhiếp thuộc nhẫn này.
Bốn nhẫn đầu: Phục nhẫn, đè dẹp được vọng tưởng, tạm yên. Tín nhẫn, tin được pháp thể chân thật. Thuận nhẫn, tùy thuận với pháp thể. Vô sanh nhẫn, an trú được chỗ vô sanh diệt. Các nhẫn này thuộc về các bậc từ Hiền đến Thánh, tùy chỗ chứng sâu cạn. Tịch diệt nhẫn từ Bồ-tát thập địa đến Phật là trên hết.
Ta có ba thứ trí
Thánh vạch mở chân thật
Nơi kia suy nghĩ tưởng
Đều nhiếp thọ các tính
Nhị thừa chẳng tương ứng
Trí lìa các sở hữu
Chấp trước nơi tự tánh
Từ các Thanh văn sanh
Vượt qua các tâm lượng
Như Lai trí thanh tịnh.
Ba thứ, tức trong chánh văn biết ba thứ sanh diệt v.v… ba thứ hay biết này tức là Trí thể thanh tịnh chân thật của Như Lai. Bởi vọng suy nghĩ khởi các nhiếp thọ, liền nhiếp thọ các pháp. Cùng nhiếp thọ không tương ưng tức thuộc Nhị thừa. Nếu đạt pháp tánh không thật có thì nhiếp thọ chóng lìa, liền đồng Thánh trí. Cho nên biết, Nhị thừa chỉ đối với không thật có mà vọng sanh chấp trước, bèn thành tâm lượng. Siêu vượt nơi đây liền đó thanh tịnh chẳng phải lại riêng có Như Lai trí.
Phật có ba thứ trí, Ngài vạch mở cho lẽ chân thật. Nếu cứ suy nghĩ, phân biệt đều thuộc về các tánh tức là các cái có. Nhị thừa chẳng hợp chỗ phân biệt. Lìa các sở hữu chấp trước nơi tự tánh của Thanh văn, vượt qua các tâm lượng thì là trí thanh tịnh của Như Lai. Nếu suy nghĩ đuổi theo thu nhiếp các pháp, đó là vọng tưởng, thuộc phàm phu ngoại đạo. Thấy các pháp bên ngoài vô thường, khổ, tâm không dính mắc thì thuộc Nhị thừa. Thấu suốt tất cả pháp không thật có, không chấp thì đồng Thánh trí. Nhị thừa chỗ không thật có mà cho là vô sanh, là Niết-bàn… thành tâm lượng. Siêu vượt nơi đây liền thành thanh tịnh, chẳng phải có Như Lai trí riêng.
Có hai:
H1/- Nêu danh tướng ngoại đạo chuyển biến
Lại nữa, Đại Huệ! Ngoại đạo có chín thứ chuyển biến luận, mà kiến chấp ngoại đạo chuyển biến sanh. Nghĩa là: Hình xứ chuyển biến, Tướng chuyển biến. Nhân chuyển biến, Thành chuyển biến, Kiến chuyển biến, Tánh chuyển biến, Duyên phân minh chuyển biến, Sở tác phân minh chuyển biến, Sự chuyển biến. Đại Huệ! Ấy gọi là chín thứ kiến chấp chuyển biến, các ngoại đạo nhân đó khởi ra có không, sanh chuyển biến luận.
Có chín thứ chuyển biến luận này nên ngoại đạo có kiến chấp chuyển biến sanh.
Thế nào là Hình xứ chuyển biến? Nghĩa là hình xứ thấy khác, thí như vàng biến làm các món vật thì có các thứ hình xứ hiển hiện, chẳng phải tánh vàng có biến đổi. Tất cả tánh biến cũng lại như thế.
Phật chỉ giải một chuyển biến cũng đủ hiểu những chuyển biến kia. Hình là hình tướng, xứ là nơi chốn. Nhân hình tướng, nơi chốn đổi khác mà chúng ta đặt tên khác. Ví dụ như vàng làm thành các món trang sức hoa tai, cà rá, vòng, xuyến hình tướng khác nhau, chỗ nơi cũng khác, cách dùng cũng khác. Tuy chuyển biến về hình thức và nơi chốn nhưng thể của chúng vẫn là vàng. Thế gian có muôn hình vạn trạng chuyển biến nhưng gốc từ tâm thức mê hiện ra, không thật. Ngoại đạo không nhận ra thể, chạy theo các tướng đổi thay sanh chuyển biến hý luận có không. Mọi thứ chuyển biến khác cũng như thế.
Hoặc có ngoại đạo khởi vọng tưởng như thế cho đến vọng tưởng sự biến, vì vọng tưởng kia chẳng phải như, chẳng phải khác.
Ngoại đạo chín thứ chuyển biến nhận nơi thân tứ đại năm uẩn và tất cả pháp hữu vi ở thế gian hiện thấy ở trước mắt, nhân quả sanh diệt thành bại khổ vui, các thứ dời đổi thật có như thế, tạo thành định luận.
Lập ra định luận là lập luận cố định.
Họ chẳng biết tự tâm hiện ra, như vàng làm các món trang sức, vàng không cố định là món trang sức, món trang sức chẳng ngoài vàng, chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải có chẳng phải không. Vì mê nên thấy rõ ràng, vì giác nên thấy như huyễn. Duy thức luận nói là “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”.
Tất cả do tự tâm hiện, như vàng tuy không phải là các món trang sức cố định nào, nhưng các món trang sức không ngoài vàng, không một không khác, không phải có, không phải không. Mê cho là thật, giác thấy như huyễn. Tùy duyên bất biến là theo duyên dường như biến đổi nhưng thật thể chẳng đổi, bất biến tùy duyên như vàng không đổi nhưng theo duyên làm thành bông tai, cà rá…
Như Lai nêu ra chỗ này, tuy chỉ cái sở do vọng chấp của ngoại đạo, cũng là vì tất cả chúng sanh trong thiên hạ ở dời sau và người tu hành, dẹp trừ chướng hý luận trước mắt. Do đạt tự tâm hiện ra thật không có tự tánh. Hình tức là uẩn thân, thân có lưu chuyển trong sáu đạo, tướng có đẹp xấu không nhất định. Hình tướng có nhân, nhân đủ thì quả thành, thấy già trẻ nhiều thay đổi, tánh khổ vui chóng đổi thay. Duyên sanh ra rõ ràng, pháp duyên sanh rành rẽ, năng sở đã đủ thì việc sanh sáng tỏ. Đây là chín thứ chuyển biến, ngoại đạo y theo đó thành kiến chấp hữu nhân vô nhân. Lại nêu lên hình xứ là toát yếu hết chín thứ, dùng vàng và trang sức làm dụ, lìa vàng nói trang sức cũng tức trang sức nói vàng, chẳng phải tức, chẳng phải ly, là tức là ly, đồng với hý luận, thảy do vọng tưởng. Đây cũng thuộc về thức.
Hý luận là lý luận một cách vô ích như trò đùa. Ngoại đạo do vọng chấp mà lập luận. Chúng ta biết các pháp đều do tự tâm hiện, không thật. Hình lưu chuyển, tướng đẹp xấu, có nhân thành quả, thấy già trẻ đủ chín thứ chuyển biến, ngoại đạo theo đó chấp có nhân, không nhân.. Phật dùng một Hình xứ chuyển biến gồm luôn chín thứ, cho là đồng với hý luận, do vọng tưởng thuộc về thức.
H2/- Chỉ chuyển biến không tánh, đều do vọng thức. Gồm tụng
Như thế, tất cả tánh chuyển biến nên biết như sữa, lạc, rượu, trái v.v… đã chín. Ngoại đạo chuyển biến vọng tưởng, kia cũng không có chuyển biến. Hoặc có hoặc không tự tâm hiện ra ngoại tánh, phi tánh. Đại Huệ! Như thế, chúng sanh phàm ngu tự vọng tưởng tu tập sanh. Đại Huệ! Không có pháp hoặc sanh hoặc diệt, như thấy sắc huyễn mộng sanh.
Lại nêu tất cả pháp như sữa, lạc, rượu, trái v.v… hiện thấy chuyển biến để thấy ngoại đạo y đây mà khởi vọng tưởng chuyển biến. Song tất cả pháp không có tánh chuyển biến. Sữa không có tánh lạc, trái không có tánh rượu, do nhân duyên biến đổi hoặc có hoặc không, đều là tự tâm hiện mà không có tự tánh. Như thấy tất cả sắc tướng mộng huyễn, nó chẳng phải sanh chẳng phải diệt, chẳng phải có chẳng phải không. Phàm ngu không biết cho là tự tu tập sanh, vọng thấy có thật pháp.
Các pháp biến hiện không có thực thể đều do vọng thức mà thành. Như sữa không có tánh lạc, trái không có tánh rượu do duyên chuyển biến, không thật, không cố định cho nên không tự tánh, như mộng như huyễn. Đã như mộng huyễn thì thật không chuyển biến mà ngoại đạo lại nương đó khởi vọng tưởng chuyển biến, không sanh diệt mà phàm ngu cho là tự tu tập sanh thấy có pháp thật, không biết đều tự tâm hiện.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Hình, xứ, thời, chuyển biến
Tứ đại chủng các căn
Trung ấm thứ lớp sanh
Vọng tưởng phi minh trí.
Tối Thắng đối duyên khởi
Chẳng như vọng tưởng kia
Song thế gian duyên khởi
Như thành Càn-thát-bà.
Thấy tứ đại các căn có hình, xứ, thời, tướng của chuyển biến và thân trung ấm thứ lớp sanh trưởng, đều là vọng tưởng, chẳng phải minh trí. Thế gian duyên khởi như thành Càn-thát-bà, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải một chẳng phải khác. Chư Phật Như Lai quyết chẳng ở nơi duyên khởi có không mà có chút ít phân biệt, như kẻ vọng chấp kia. Hiện sanh là tiền ẩm, hậu sanh là hậu ấm. Xả hiện sanh chưa đến hậu sanh, khoảng giữa có hiện thân, gọi là trung ấm.
Nếu chấp vào tướng của chuyển biến như hình xứ, thời, từ đó có bốn đại chủng và các căn sanh, rồi tới thân trung ấm thứ lớp sanh thì là vọng tưởng không phải minh trí. Thế gian do duyên khởi như thành Càn-thát-bà, còn gọi là lầu sò chợ bể, ảo ảnh thường xảy ra với người đi biển. Bồ-tát và Phật chẳng ở nơi đây phân biệt như những người vọng tưởng kia.
Có năm:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Cúi xin vì nói nghĩa tất cả pháp tương tục và nghĩa giải thoát. Nếu khéo phân biệt tướng tất cả pháp tương tục và chẳng tương tục thì con và các Bồ-tát hiểu rành tất cả tương tục phương tiện khéo léo, chẳng rơi vào như nghĩa đã nói, chấp trước tương tục. Chúng con khéo đối với tướng tất cả pháp tương tục, chẳng tương tục và lừa ngôn thuyết văn tự vọng tưởng giác, dạo đi tất cả cõi nước chư Phật, vô lượng đại, lực tự tại thông, được ấn tổng trì, các thứ biến hóa, hào quang chiếu sáng, giác tuệ khéo nhập, mười vô tận cú, không có hạnh phương tiện, ví như nhật nguyệt, ma-ni, tứ đại. Đối tất cả địa lìa kiến chấp tướng vọng tưởng của mình, thấy tất cả pháp như mộng huyễn v.v… nhập thân Phật địa. Đối tất cả chúng sanh giới tùy chỗ họ mong mỏi mà vì nói pháp, dẫn đường cho họ, đều khiến họ an trụ, tất cả các pháp như mộng huyễn v.v… lìa các loại có không và vọng tưởng sanh diệt, khác với nghĩa ngôn thuyết, thân kia chuyển biến thù thắng.
Đoạn này Bồ-tát Đại Huệ xin đức Phật chỉ cho rõ ràng nhân nào khiến chúng sanh tiếp tục luân hồi sanh tử và nhân nào khiến được giải thoát. Nếu biết được nhân giải thoát, các vị Bồ-tát sẽ nương đó tu hành đạt kết quả tốt đẹp, để tới cứu cánh là Phật địa và làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, theo nguyện vọng của họ, hướng họ tới chỗ thù thắng.
Đoạn này duyên ngôn thuyết nghĩa chấp trước, muốn Thế Tôn phát minh được nhân ngôn thuyết vào đệ nhất nghĩa Thánh lạc hành xứ, để tiến đến cứu kính không rơi vào lối tế. Duyên ngôn thuyết nghĩa chỗ chấp sâu kín giác tưởng chẳng dứt, cho nên nói tương tục. Nhị thừa, Nhất thừa đồng có cái chướng này, nên nói chấp pháp. Như nhân Thánh giáo nói “năm uẩn vô ngã”, Nhị thừa duyên đây vào quán vô ngã, chứng nhân vô ngã cho là thật có pháp năm uẩn, thật có pháp đã chứng vô ngã. Cái chướng này đến Thất địa, chưa vào Bát địa còn không thể khỏi. Nếu pháp vô ngã thì vi tế sở tri đến Phật địa mới hết. Sở tri tức là lý không sở chứng. Trí không năng chứng vừa còn sở liễu thì đối với đệ nhất nghĩa Thánh lạc hành xứ còn chưa viên mãn. Đây là tột cùng tế tướng tương tục.
Nhân ngôn thuyên của Phật để đi tới các cõi Phật không mắc kẹt lối tẽ. Nhị thừa, nhất thừa tức hàng Bồ-tát vẫn còn chỗ chấp sâu kín giác tưởng tương tục gọi là chướng chấp pháp. Như Nhị thừa cho pháp năm uẩn là thật có, pháp chứng vô ngã có thật. Chướng này đến Bát địa mới hết, nhưng pháp vô ngã thì phần sở tri vi tế đến Phật địa mới phá được. Sở tri là lý không sở chứng tức lý vô ngã. Chấp vào đây là còn sở liễu tức còn chỗ rõ mình không chỗ chứng thì chưa viên mãn. Đây là chỗ chấp tương tục rất vi tế.
Song, nếu Bồ-tát hiểu rành phương tiện cũng không rơi vào cảnh giới ngôn thuyết vọng tưởng giác mà được giải thoát, tổng trì giác tuệ, dùng giác tuệ này dạo đi tất cả cõi Phật, thần thông biến hóa, chợt hay nương mười nguyện vô tận như nhật, nguyệt, ma-ni, tứ đại, soi khắp mười phương không dừng không mắc. Trải tất cả địa, lìa kiến chấp các tướng, đạt pháp như huyền, được thân cõi cứu kính của Như Lai. Nhiên hậu tùy căn cơ chúng sanh mà vì dẫn đường, như chỗ mình hiểu, chóng trừ có không sanh diệt, siêu tất cả ngôn thuyết vọng tưởng tương tục.
Nếu Bồ-tát biết rành phương tiện thì không mắc kẹt vào ngôn thuyết vọng tưởng, được giải thoát, có đủ thần thông dạo khắp cõi Phật, trải khắp các địa lìa các kiến chấp đạt pháp như huyễn, cho đến cõi cứu kính của Phật. Sau đó dẫn đường chúng sanh trừ hết sanh diệt, vượt ngôn thuyết vọng tưởng tương tục.
Cho nên biết ngoại đạo Nhị thừa đều do chẳng rành phương tiện, chấp ngôn thuyết vọng tưởng, không thể phát minh giác tuệ giải thoát. Đây là lý do phân trí cùng thức, sự xoay chuyển của mê với giác vậy, Ý Bồ-tát Đại Huệ thỉnh chỗ then chốt sâu kín, Thập vô tận cú, trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát được Sơ Hoan hỷ địa phát nguyện rộng lớn như pháp giới, dùng thập vô tận mà được thành tựu, thập cú này có tận thì nguyện ta có tận, do thập cú này không tận nên nguyện ta không tận. 1) Chúng sanh giới vô tận, 2) Thế giới vô tận. 3) Hư không giới vô tận. 4) Pháp giới vô tận. 5) Niết-bàn giới vô tận. 6) Phật xuất hiện giới vô tận. 7) Như Lai trí giới vô tận. 8) Tâm sở duyên vô tận. 9) Phật trí sở nhập cảnh giới vô tận. 10) Thế gian chuyển, pháp chuyển, trí chuyển vô tận. Như nhật, nguyệt, ma-ni, tứ đại là, nhật, nguyệt đi trong không chẳng nương gá, ma-ni tùy phương hiện sắc không có tự tánh, đất nước lửa gió khắp giáp pháp giới không có chướng ngại.
Ngoại đạo Nhị thừa không rành phương tiện vì chấp ngôn thuyết mà sanh vọng tưởng, không phát minh được giác huệ giải thoát. Đây là lý do trí khác thức, mê khác giác vậy, là chỗ then chốt sâu kín mà ngài Đại Huệ hỏi. Mười vô tận cú ở trên là của Bồ-tát Sơ địa dùng để thành tựu đại nguyện rộng lớn như pháp giới.
Phật bảo Đại Huệ: Lành thay, lành thay! Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Vô lượng tất cả pháp như nghĩa đã nói, chấp trước tương tục. Nghĩa là Tướng kế trước tương tục, Duyên kế trước tương tục, Tánh phi tánh kế trước tương tục, Sanh bất sanh vọng tưởng kế trước tương tục, Diệt bất diệt vọng tưởng kế trước tương tục, Thừa phi thừa vọng tưởng kế trước tương tục, Hữu vi vô vi vọng tưởng kế trước tương tục, Địa địa tự tướng vọng tưởng kế trước tương tục, tự vọng tưởng vô gián vọng tưởng kế trước tương tục, Hữu vô phẩm ngoại đạo y vọng tưởng kế trước tương tục, Tam thừa nhất thừa vô gián vọng tưởng kế trước tương tục.
Phật nói sở dĩ chúng sanh bị luân hồi sanh diệt không dừng bởi do mười một chấp trước này luôn tiếp nối, sâu kín tế nhị khó thấy không thể dễ dàng trừ bỏ.
Tướng tức là Nhị thừa chấp pháp tướng năm uẩn và trí tướng pháp vô ngã của Thập địa đều là tướng. Duyên tức là nhân duyên cũng là chỗ chấp của Nhị thừa và duyên tự giác liễu, vừa có chỗ nương đều là pháp duyên.
Duyên là chỉ cho cái này nương tựa vào cái kia, còn có chỗ tựa là chưa đến cứu cánh.
Tánh vẫn là pháp. Tánh phi tánh, sanh bất sanh, diệt bất diệt, thừa phi thừa, vi vô vi đều là chỗ chấp đối đãi của thế gian và xuất thế gian.
Tất cả tướng đối đãi, hoặc hữu vi vô vi, hoặc là sanh chẳng sanh… dù thế gian hay xuất thế, còn thấy thật có pháp này đối với pháp kia, tức là còn hỗ tương qua lại, chưa phải chân thật độc lập.
Địa địa tự tướng là, địa địa đều không thật pháp. Kinh Hoa Nghiêm một địa tức đủ các địa, lại các địa mỗi mỗi vào một địa, như lưới châu của trời Đế Thích lẫn nhau nhiếp nhập không có tự tánh.
Thiết lập tướng mỗi địa là phương tiện, tánh giác là thể chung. Đứng về mặt tu chứng thì có cao thấp cạn sâu, nhưng trí tuệ thì dung hợp không có chia riêng, nên kinh Hoa Nghiêm nói trong mỗi địa đều có các địa như lưới trời Đế Thích, hạt châu trong lưới thì có tướng riêng, nhưng ánh sáng hạt này chiếu lẫn vào hạt kia, tánh sáng dung hợp vô ngại.
Nếu có địa tướng sở chứng liền có tự tướng choi năng chứng, nên nói “tự vọng tưởng”. Hữu vô phẩm tức là trước nương nơi có và nhận tánh tham sân si, về sau nói không, đều y Thánh ngôn thành tăng thượng mạn, phá hoại Phật pháp đồng với ngoại đạo ấy vậy. Tam thừa Nhất thừa cũng là Thánh giáo đã nói, không biết phương tiện, nhân lời nói nhận nghĩa rồi chấp cho là thật pháp, thảy đều thuộc về tương tục.
Phật nói tam thừa hay nhất thừa đều là tùy cơ, tùy phương tiện. Nếu nghe phương tiện liền chấp chặt cho là có thật, có tam thừa, đó cũng còn trong vọng tưởng.
Lại nữa, Đại Huệ! Đây cùng chúng sanh phàm ngu khác tự vọng tưởng tương tục. Bởi cái tương tục này mà phàm ngu vọng tưởng, như tằm nhả tơ làm kén; do tơ vọng tưởng tự trói trói người, tướng có không có tương tục chấp trước.
Nương trước suy rộng ra lại có vô lượng thứ chấp trước sâu kín. Tự trồi trói người đây đều Y ngôn thủ nghĩa vọng sanh tướng khác cho là bí mật. Tự hoại lại hoại chánh pháp làm chướng chúng sanh, rất đáng thương xót, là lý do Như Lai không ngớt thương xót.
Phật kể cái hại của chấp tương tục. Từ vọng tưởng này tương tục tạo đủ thứ vọng tưởng, chấp tướng có không, buộc trói chúng sanh luân hồi trong tam giới, như tằm nhả tơ làm kén tự bao bọc chính mình, kết cuộc bị bỏ vào nồi, tự chịu khổ bị hoại, rất đáng thương xót.
Lại nữa, Đại Huệ! Trong kia cũng không tướng tương tục và chẳng tương tục, vì thấy tất cả pháp tịch tĩnh nên vọng tưởng chẳng sanh. Đại Bồ-tát thấy tất cả pháp tịch tĩnh. Lại nữa, Đại Huệ! Giác ngoại tánh phi tánh, tự tâm hiện tướng không thật có, tùy thuận quán sát tự tâm hiện lượng, có không tất cả tánh không tướng thì thấy tương tục tịch tĩnh. Cho nên đối tất cả pháp không tướng tương tục và chẳng tương tục. Lại nữa, Đại Huệ! Trong kia không có hoặc trói hoặc mở, những người rơi vào giác tri không như thật thấy có trói có mở. Vì cớ sao? Vì đối tất cả pháp có không có, không chúng sanh có thể được.
Cũng không tướng tương tục và chẳng tương tục, lại vì người chấp chẳng tương tục mà nói. Được tự giác đệ nhất nghĩa thấy tất cả pháp tịch tĩnh thì vọng tưởng chẳng sanh, tương tục cùng chẳng tương tục thảy thành hý luận. Sở dĩ như thế, vì giác tất cả pháp bện ngoài không có tự tánh, do tự tâm hiện như huyễn như mộng đều không thật có. Quán sát như thật giác tự tâm lượng thì có không đều dứt, thuần một tịch tĩnh, không tướng tương tục nên cũng không tướng chẳng tương tục. Nếu có trói có mở đều rơi vào không giác tri như thật, chẳng phải tất cả pháp tự tướng chân như. Tất cả pháp tự tướng chân như thì có không có đều không chủ tể. Đây là tự giác đệ nhất nghĩa trong ngoài tương ưng.
Bản thân các pháp là tịch tĩnh nên vọng tưởng chẳng sanh do đó không có tướng tương tục và chẳng tương tục, chỉ vì người chấp mà nói. Tại sao? Vì chúng ta luôn chạy theo vọng tưởng, duyên tướng giả dối của sáu trần, rồi thấy sáu trần động, vọng tưởng chúng ta cũng biến động theo. Như khi coi phim, chúng ta thấy hình ảnh qua lại, nói năng nhưng đó chỉ là bóng không thật có, vậy mà chúng ta duyên theo nó khóc cười. Nếu biết là huyễn không thật có, thể của chúng vốn tịch tĩnh thì có gì là tương tục hay chẳng tương tục? Trói hay mở cũng vậy, chỉ vì không biết, không thấy rõ nên mới có. Ví dụ người ghiền rượu được bạn khuyên bỏ rượu vì những tai hại của nó. Một hôm cùng người bạn ấy đi ngang qua quán rượu, gặp bạn nhậu cũ rủ rê. Anh ta muốn bước vào nhưng bạn ngăn lại khuyên lơn rồi dẫn qua luôn. Lúc muốn bước vào là suýt bị trói, bây giờ qua luôn là mở. Trói là do còn chấp, còn bệnh, thấy duyên hợp với bệnh mình thì thích nên vướng vào. Gỡ ra được gọi là mở. Nếu thấy các pháp không thật đều từ tự tâm hiện thì không chấp, không bệnh, không bị trói thì đâu cần mở? Như vậy trói mở là cái thấy của phàm phu, không thấy được các pháp có không đều không chủ tể, không cả tướng chúng sanh. Người trí thấy được tự tướng chân như của các pháp, đó là tự giác đệ nhất nghĩa trong ngoài tương ưng.
Lại nữa, Đại Huệ! Kẻ ngu có ba thứ tương tục. Nghĩa là tham, sân, si và ái, vị lai có ái hỷ chung. Do tương tục này nên có thú tương tục. Tương tục ấy là tiếp nối trong ngũ thú. Đại Huệ! Tương tục dứt thì không có tướng tương tục cùng chẳng tương tục. Lại nữa, Đại Huệ! Ba hòa hợp duyên tạo phương tiện chấp trước nên thức tương tục vô gián sanh. Phương tiện chấp trước thì có tương tục. Ba hòa hợp duyên thức dứt thì thấy ba giải thoát, tất cả tương tục chẳng sanh.
Kẻ ngu có ba thứ tương tục, Nhị thừa nương tương tục này chứng chẳng tương tục, thành kiến chấp chẳng tương tục. Cho nên Như Lai đặc biệt gọi đó bảo “tương tục dứt thì không có tướng tương tục chẳng tương tục”. Tham sân si là nhân tương tục. Nhân này từ vô minh bất giác liền sanh kiến tướng nên nhân pháp rõ ràng, phiền não y đó mà khởi. Do cái ái ấy đến sanh đời sau cùng tham hỷ chung. Bởi cái tương tục này bèn thành ngũ thú. Nhị thừa tuy đoạn nhân tương tục mà chẳng biết vô minh bất giác thảy đồng huyễn hóa, lầm cho là có tướng nên đoạn, nên nói “chấp pháp”.
Người ngu có ba thứ tương tục là tham sân si ái, đời sau có ái và hỷ là ưa thích hợp lại, dẫn chúng sanh đến các cõi, nghĩa là thú tương tục, tiếp nối trong ngũ thú. Muốn dứt sanh tử trong lục đạo hay ngũ thú, phải hết nhân tương tục tham sân si là những thứ thô nhất. Nhân này do vô minh bất giác mà sanh kiến phần, tướng phần thành nhân pháp rõ ràng rồi khởi phiền não. Nhị thừa đoạn nhân tương tục, chứng chẳng tương tục, ngược lại thành chấp pháp chẳng tương tục, mà không biết thảy đều huyễn hoá. Phật dạy: Tương tục dứt thì không có tướng tương tục cùng chẳng tương tục. Nghĩa là chỉ dứt tương tục là đủ. Ví dụ hành thập thiện chỉ là đừng làm mười điều ác, chứ không thêm gì cả.
Ba hòa hợp duyên phương tiện chấp trước thức sanh là, ba hòa hợp tức căn, trần, thức. Thức này tuy gồm tám thức, song thủ nghĩa này thì chỉ thức chấp ngã thứ bảy. Thức này Nhị thừa chỉ đoạn nhân chấp ngoại ngữ. Ngoại ngã này đoạn không có người nhiếp thọ thì nhân sanh trong tam giới tự đoạn. Bởi vô minh chưa đoạn nên kiến phần nội ngã vẫn còn. Nội ngã tức là pháp ngã. Do có pháp ngã nên khi nhân sanh đoạn khởi tưởng chẳng tương tục, chẳng phải chân giải thoát. Nếu thức thứ bảy nội ngã ngoại ngã đều đoạn thì thấy ba môn giải thoát của Đại thừa là tất cả tương tục chẳng sanh. Nhị thừa khởi tướng chẳng tương tục vẫn là nhân nói thủ nghĩa. Cái tương tục này lại là sâu kín, đến chứng giải thoát mới hay hằng đoạn. Ba giải thoát là, không, vô tướng, vô nguyện. Vô nguyện mới đặc biệt nhị ngã chân lạc. Thế nên vào môn này thì tất cả pháp tịch tĩnh.
Thức là do căn trần hoà hợp mà sanh, nếu không hòa hợp thì tương tục dứt. Xưa có một ngoại đạo chứng ngũ thông, giảng kinh thao thao bất tuyệt. Trời Đế Thích cũng xuống nghe. Nghe xong bèn khóc. Ngoại đạo ngạc nhiên hỏi. Đế Thích trả lời:
– Ngài giảng hay quá nhưng mạng ngài sắp hết. Tôi thương nên khóc.
Ngoại đạo hoảng hốt nói:
– Có cách gì khỏi chết?
Đế Thích nói:
– Thế Tôn đang ở tỉnh xá Trúc Lâm, ngài muốn khỏi chết nên đến đó học.
Ngoại đạo y lời. Giữa đường thấy hai cây ngô đồng trổ bông rất đẹp liền nhổ lên, cầm trên hai tay đến chỗ Phật, thưa:
– Con xin cúng dường Thế Tôn hai cành hoa, xin dạy con pháp khỏi chết.
Phật bảo:
– Buông!
Ông buông một tay. Phật lại bảo:
– Buông!
Ông buông luôn cây ngô đồng còn lại. Phật lại bảo:
– Buông!
Ông thưa:
– Con đã buông hết hai tay, Phật bảo con buông gì nữa?
Phật bảo:
– Ta không bảo ông buông hai cây ngô đồng. Ta bảo ông trong buông sáu căn, ngoài buông sáu trần, giữa buông sáu thức. Căn trần thức buông được thì giải thoát.
Ngoại đạo tỉnh ngộ.
Buông được thức thì mới giải thoát sanh tử, vì thức là chính. Ở đây lấy nghĩa chấp ngã của thức thứ bảy. Thức thứ bảy có hai chấp ngã. Ngoài chấp ngã thân, trong chấp kiến phần của thức thứ tám là nội ngã. Nhị thừa đã phá chấp ngã về thân nên không còn sanh trong ba cõi, nhưng nội ngã chưa dứt nên còn pháp chấp, tuy khởi tướng chẳng tương tục vẫn là nhân lời nói mà giữ nghĩa. Kinh Pháp Hoa nói là hoá thành chưa phải bảo sở. Nếu đoạn hết thì thấy ba môn giải thoát của Đại thừa: không, vô tướng, vô nguyện. Hết hai ngã là chân lạc, thế nên vào môn này thì tất cả pháp tịch tĩnh.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng:
Chẳng chân thật vọng tưởng
Là nói tướng tương tục.
Nếu biết chân thật kia
Lưới tương tục ắt đoạn
Đối các tánh không biết
Tùy ngôn thuyết nhiếp thọ
Thí như con tằm kia
Nhả tơ mà tự trói.
Kẻ ngu vọng tưởng trói
Tương tục chẳng quán sát.
Ý bài kệ nói chỉ nhập chân thật đệ nhất nghĩa thì tương tục tự đoạn, không có tướng tương tục cùng chẳng tương tục. Kẻ ngu hiện tại bị trói trong tương tục, bởi không khéo quán sát y nơi ngôn thuyết thủ nghĩa vọng sanh tưởng khác. Muốn cầu giải thoát trở lại tự trói buộc, đều do chẳng được đệ nhất nghĩa tự giác vậy.
Có sáu:
Đại Huệ lại bạch Phật: Như Thế Tôn đã nói “Do các vọng tưởng kia vọng tưởng các pháp kia, chẳng phải các pháp có tự tánh, chỉ là tự tánh vọng tưởng thôi”. Thế Tôn! Nếu chỉ là tự tánh vọng tưởng, chẳng phải tánh tự tánh đối đãi, Thế Tôn nói như thế đâu không mắc cái lỗi phiền não thanh tịnh đều không có chăng? Vì tất cả pháp do tự tánh vọng tưởng thảy đều không có?
Tất cả các pháp do tự tâm hiện ra nên chẳng phải có chẳng phải không. Bởi mê tự tâm vọng khởi chấp trước có tự tánh các pháp. Như Lai Thế Tôn thường nói: “Các pháp không tự tánh tin chỉ có tánh vọng tưởng.” Cho nên Đại Huệ nạn rằng: “Nếu chỉ có tánh vọng tưởng mà không có tự tánh các pháp thì, các pháp nhiễm tịnh đâu không hoàn toàn hoại.” Đây là nghi các pháp đoạn diệt. Chẳng biết các pháp do tự tâm hiện ra không có tự tánh. Kẻ ngu không biết vọng tưởng thấy có. Vì khiến họ lìa vọng chấp nên nói Thánh trí tự tánh không sự. Không, chẳng rơi vào có, mà có Thánh trí sở tri, lại chẳng phải pháp hoại. Văn sau lặp đi lặp lại cho sáng tỏ, thảy chỉ ra ý này.
Ngài Đại Huệ dẫn lời Phật nói tất cả pháp không có tự tánh, chỉ là tánh vọng tưởng thôi. Ngài nạn rằng như vậy các pháp không thật, phiền não cũng không, thanh tịnh cũng không, tất cả thiện ác thế gian đều từ vọng tưởng sanh nên đều không thật có? Vậy là phá hoại tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Đây là nghi các pháp đoạn diệt. Đó là chẳng biết các pháp do tự tâm hiện không có tự tánh, nên nói Thánh trí tự tánh không sự, cốt cho lìa vọng chấp, mà có Thánh trí sở tri nên không phải pháp hoại.
Phật bảo Đại Huệ: Như thế, như thế, như ông đã nói. Đại Huệ! Chẳng phải như kẻ ngu tánh tự tánh vọng tưởng chân thật, tự tánh vọng tưởng này chẳng có tướng tánh tự tánh. Song, Đại Huệ! Như Thánh trí có tánh tự tánh, Thánh trị, Thánh kiến, Thánh tuệ nhãn. Như thế, tánh tự tánh biết.
Chấp nhận lời thuật lại của Đại Huệ, chỉ có tánh vọng tưởng không tánh các pháp, mà chẳng phải đoạn diệt. Nghĩa là tất cả các pháp không có tánh nhất định là phiền não, thanh tịnh, mà chẳng phải không tánh. Cho nên nói “như Thánh trí có tánh tự tánh, Thánh tri Thánh kiến Thánh tuệ nhãn, như thể tánh tự tánh biết”. Sở dĩ Thánh trí có tánh tự tánh, là vì Thánh trị Thánh kiến Thánh tuệ nhãn, nhất như thật tướng các pháp trong ngoài tương ưng không có cảnh giới riêng. Chẳng như kẻ ngu vọng sanh phân biệt, vọng có chỗ chấp.
Phật giải thích rõ, các pháp thì không có thực thể, vì tự vọng tưởng ra. Nhưng Thánh trí có thật thể, là trí biết được các pháp đúng như thật, có Thánh trị, Thánh kiến, Thánh tuệ nhãn nên bên trong bên ngoài tương ưng, không phan duyên, không khởi vọng phân biệt hư dối. Không dấy động nên tâm nhất như đúng thật tướng các pháp, không phải là không.
Chia làm hai:
H1/- Nghi chỗ biết của thánh trí đồng vọng tưởng hiện
Đại Huệ bạch Phật: Nếu như Thánh dùng Thánh tri Thánh kiến Thánh tuệ nhãn, chẳng phải thiên nhãn, chẳng phải nhục nhãn, tánh tự tánh như thế biết, chẳng phải như vọng tưởng của ngu phu. Thế Tôn! Làm sao ngu phu lìa vọng tưởng ấy, vì chẳng giác việc Thánh tánh? Thế Tôn! Họ cũng chẳng phải điên đảo, chẳng phải không điên đảo. Vì cớ sao? Vì họ chẳng giác Thánh sự tánh tự tánh, vì chẳng thấy lìa tướng có không.
Chỗ biết của Thánh trí chẳng phải như vọng tưởng. Nghĩa là chỗ biết của Thánh trí chẳng như cảnh giới vọng tưởng. Đây nêu ra ngu phu chẳng lìa vọng tưởng, chẳng giác Thánh tánh. Tuy cảnh giới chẳng đồng, mà đồng một năng kiến, đồng một sở kiến, nếu năng sở của vọng tưởng muốn lìa thì căn trần của Thánh trí rành rõ. Đây là lý do của Đại Huệ nạn vậy. Ý nói phàm phu ngu si hiện có vọng tưởng phân biệt làm sao được lìa? Hiện có cảnh giới Thánh trí tranh mà không biết như thật thì không thể nói giác.
Đại Huệ nghi rằng Thánh dùng Thánh tri, Thánh kiến, Thánh tuệ nhãn chứ không dùng thiên nhãn, nhục nhãn để thấy. Phàm phu, ngoại đạo chưa có Thánh tánh, không có tri kiến và tuệ nhãn của Thánh, chỉ dùng nhục nhãn hoặc thiên nhãn để thấy, làm sao thấy đúng? Làm sao lìa được vọng tưởng, làm sao giác ngộ được? Như thế thì họ điên đảo mà cũng chẳng điên đảo, chỉ vì chẳng lìa tướng có không, không giác việc Thánh có tự tánh, có thực thể. Đại Huệ nạn chỗ này vì muốn nêu Thánh và phàm đồng năng kiến, sở kiến mà cảnh giới chẳng đồng, chỉ do vọng tưởng phân biệt, nếu lìa vọng tưởng thì căn trần của Thánh trí rành rõ.
Song chỗ biết của Thánh trí tướng tánh tự tánh đồng với vọng tưởng hiện. Nên nói, thế gian nói trâu, Thánh nhân cũng nói là trâu; thế gian nói ngựa, Thánh nhân cũng nói là ngựa; chỗ chấp tưởng chẳng đồng mà đồng một phổ thông. Cho nên nói “họ chẳng phải điên đảo, chẳng phải không điên đảo”. Chẳng thấy lìa tướng có không, đây tức là chẳng giác Thánh sự. Nên nói “chẳng phải không điên đảo”. Tướng tánh tự tánh này, một bên thấy lìa có không, một bên chẳng thấy lìa có không, trọn không có hai pháp, mà cảnh giới mỗi bên có khác. Do đây mà khởi nạn, cũng do đây mà rõ tông chỉ. Phật cùng Bồ-tát cơ cảm hợp nhau thật không có ý chỉ riêng.
Chỗ biết của Thánh trí tướng tánh đồng vọng tưởng hiện, Thánh cũng gọi tên các pháp như thế gian, nhưng khác chỗ chấp tưởng. Phàm ngu chấp thật có thật không, phân biệt đẹp xấu, hơn thua nên điên đảo. Thánh lìa tướng có không nên không chấp trước, không dính mắc, không điên đảo. Tóm lại, cùng một cảnh ngộ, tức là cùng một sở kiến, năng kiến mà một bên vọng tưởng, một bên là Thánh trí. Ngài Đại Huệ khởi nạn vấn là do đây, cũng do đây mà rõ tông chỉ, mới biết Phật và Bồ-tát đồng một cơ cảm.
Thế Tôn! Thánh cũng chẳng như thế thấy như việc vọng tưởng, vì chẳng lấy cảnh giới tự tướng làm cảnh giới. Thế Tôn! Kia cũng tướng tánh tự tánh vọng tưởng tự tánh như thế hiện, vì chẳng nói nhân không nhân, vì rơi vào cái thấy tánh tướng. Cảnh giới khác chẳng phải như kia v.v… như thế mắc cái lỗi vô cùng. Thế Tôn! Vì chẳng giác tướng tánh tự tánh. Thế Tôn! Cũng chẳng phải tự tánh vọng tưởng nhân tướng tánh tự tánh. Kia tại sao vọng tưởng chẳng phải vọng tưởng, như thật biết vọng tưởng?
Lại nói Thánh trí tuy chẳng cùng vọng tưởng đồng thấy, mà các pháp chưa từng chẳng cùng vọng tưởng đồng hiện. Chẳng cùng vọng tưởng đồng thấy thì cảnh giới ấy chẳng lìa các pháp mà khác. Mà cùng vọng tưởng dồng hiện thì các pháp chẳng nhân Thánh trí mà không. Các pháp đồng nhất mà tại vọng tưởng chỉ muốn nói không, tại Thánh trí chẳng hiềm rơi vào có. Đây là chỗ nạn của văn sau. Câu “Thánh cũng chẳng như thế thấy như việc vọng tưởng…”, nghĩa là Thánh trí giác tự tâm hiện, nên chẳng lấy tướng tự tâm hiện mà cho là cảnh giới thật. Song chẳng phải không tướng tánh tự tánh hiện ra đồng với tự tánh vọng tưởng hiện. Chỉ Thánh trí chẳng nói nhân cùng không nhân, rơi vào cái thấy tánh tướng. Chẳng phải như cảnh giới riêng khác của ngu phu, tự sanh cái lỗi vô cùng. Bởi ngu phu chẳng giác tướng tánh tự tánh do tự tâm hiện ra.
Cùng thấy các pháp mà Thánh nhân thấy khác, không đồng với vọng tưởng, nhưng các pháp cũng cùng vọng tưởng đồng hiện. Cảnh giới ấy thấy khác nhưng chẳng lìa các pháp. Các pháp này cũng không phải nhân Thánh trí mà không. Các pháp là một, nhưng Thánh phàm thấy khác vì một bên biết tướng tánh tự tánh là tự tâm hiện nên không cho là thật có hay thật không; một bên không biết tự tâm hiện nên mắc lỗi vô cùng. Như nói cái này nhân cái kia mà có…, chẳng hạn gà sanh trứng rồi trứng nở ra gà, vậy trứng có trước hay gà có trước?… Hay cha mẹ sanh con, ông bà sanh cha mẹ, cứ suy mãi tới vô cùng cũng chẳng biết được đầu mối thế nào? Cho rằng có đấng tạo hóa sanh tất cả, thì đấng tạo hóa này từ đâu ra? Cũng bế tắc như thường.
Nên biết tướng tánh tự tánh này, chỗ biết của Thánh trí đồng với vọng tưởng hiện, mà không nên bảo nhân vọng tưởng mà có, Cho nên nói “cũng chẳng phải vọng tưởng nhân tướng lánh tự tánh”. Tướng tánh tự tánh đã chẳng nhân vọng tưởng mà có thì, chỗ chấp của vọng tưởng tức chẳng phải vọng tưởng chấp, cũng như vọng tưởng chấp.
Tướng tánh tự tánh này là chỗ biết của Thánh trí đồng với vọng tưởng hiện, không nên nói nhân vọng tưởng mà có. Chỗ chấp của vọng tưởng chẳng phải vọng tưởng chấp cũng như vọng tưởng chấp. Tại sao? Vì chỗ chấp của vọng tưởng là hư giả. Thánh nhân biết là chỗ chấp sai lầm, nhưng ngu phu thấy nó thật nên cũng như vọng tưởng chấp.
Tóm lại, các pháp đồng nhất mà chỗ biết của Thánh trí là chỗ chấp của vọng tưởng. Đợi đến văn sau ngăn vọng chấp nói không, mà chỗ hành của Thánh trí lại rơi vào thấy có.
H2/- Nghi thánh trí rơi vào có
Thế Tôn! Vọng tưởng khác, tướng tự tánh khác. Thế Tôn! Chẳng tương tự, nhân vọng tưởng tướng tự tánh, kia tại sao mỗi mỗi chẳng vọng tưởng, mà ngu phu chẳng như thật biết. Song Phật vì chúng sanh la vọng tưởng nói như tướng vọng tưởng chẳng như thật có, Thế Tôn! Cớ sao ngăn chúng sanh thấy có không tự tánh chấp trước, mà cảnh giới sở hành của Thánh trí lại rơi vào thấy có? Nói không pháp chẳng có, mà nói Thánh trí tự tánh?
Ngài Đại Huệ nghi vọng tưởng khác tướng tự. tánh. Vọng tưởng là không, tướng tự tánh của Thánh trí lại có, hai cái không giống nhau. Tại sao Thánh nhân không vọng tưởng, còn ngu phu tại sao không biết như thật? Phật muốn phá chấp sai lầm của chúng sanh nên nói tướng vọng tưởng chẳng thật có, sao ngăn chúng sanh không cho chấp các pháp là có, là không, là thật mà lại nói Thánh trí là có?
Đoạn này tiếp ở trước “tướng tánh tự tánh thấy khác mà đồng hiện”. Bởi vì Như Lai ngăn vọng tưởng mà nói chẳng phải thật, hiển bày Thánh trí mà nói sở hành, vẫn là rơi vào không và có. Tướng tự tánh chẳng nhân vọng tưởng mà có, cho nên nói “khác vọng tưởng, khác tướng tự tánh, khác thì chẳng tương tự, đã chẳng tương tợ mà vẫn nhân vọng tưởng thấy tướng tự tánh”. Đây là ngu phu chẳng như thật biết mỗi mỗi tướng tự tánh, mỗi mỗi không cảnh giới vọng tưởng. Song đã vì chúng sanh lìa vọng tưởng chấp có, mà lại nói cảnh giới sở hành của Thánh trí. Năng sở của vọng tưởng ấy muốn không thì cảnh giới sở hành của tự tánh Thánh trí rõ ràng không lỗi.
Muốn chúng sanh lìa chấp cảnh giới bên ngoài do vọng tưởng hiện không có thật, mà lại nói Thánh trí có, vậy là vẫn rơi vào có không? Nhưng năng kiến hay thấy và sở kiến bị thấy đều không thì cảnh giới sở hành của Thánh trí rõ ràng không lỗi.
Không biết rằng tất cả các pháp Thánh phàm đồng hiện, mà người giác tự tâm thì chẳng rơi vào có không. Cho nên nói: “Các pháp không tánh, chẳng giác tự tâm, vọng chấp là có, hoặc lầm là không, thảy trái pháp thể. Như Lai thương xót kẻ này vì nói không pháp.” Nghĩa là không pháp tánh chỉ có vọng tưởng. Nếu biết pháp thể vốn rỗng, vọng chấp chẳng thật thì chính nơi cảnh giới vọng tưởng là sở hành của Thánh trí, chuyển biến trong sát-na không hai không khác, ắt chẳng nói nơi đây thì ngăn, nơi kia lại rơi. Chân vọng thể khác, có không đối đãi, không phải người trụ tự giác quán sát hiển bày ra.
Không pháp là pháp không thật, từ vọng tưởng sanh, thể vốn rỗng không thì chính cảnh giới vọng tưởng đó là sở hành của Thánh trí. Chỉ chuyển biến trong sát-na không hai không khác. Chân vọng khác thể, có không đối đãi, không phải do người trụ tự giác quán xét hiển bày. Như cái nhà, người trí thấy là tướng duyên hợp hay gốc từ vọng tưởng mà ra, không thật, nhưng vẫn có cái nhà. Người ngu cũng thấy có cái nhà mà chấp thật có. Chỉ nhìn khác nhau mà Thánh phàm có khác.
Phật bảo Đại Huệ: Chẳng phải ta nói không pháp phi tánh, cũng chẳng rơi vào thấy có, nói việc Thánh trí tự tánh. Song vì khiến chúng sanh lìa câu khủng bố.
Phật nói Thánh trí có tự tánh không phải nói có không theo phàm phu, chỉ muốn chúng sanh lìa sợ hãi. Vì chúng sanh thường chấp có, nếu nói tất cả pháp đều không thật, mọi người sẽ hoảng hốt, cho là không còn gì. Nếu biết Thánh trí hiện hữu thì hết sợ.
Chúng sanh từ vô thỉ đến nay chấp trước tướng tánh tự tánh, Thánh trí sự, tự tánh chấp trước tướng kiến nói không pháp. Đại Huệ! Ta không nói tướng tánh tự tánh. Đại Huệ! Chỉ ta trụ tự được như thật không pháp, lìa hoặc loạn tướng kiến, lìa thấy tự tâm hiện ra có chẳng có, được ba môn giải thoát, như thật ấn mà ấn, đối tánh tự tánh được duyên tự giác quán sát trụ, lìa tướng kiến có không.
Phật giải thích rành rẽ: Ta không nói tướng tánh tự tánh mà trụ chỗ tự được như thật, không pháp nào đối đãi, các kiến tướng năng sở hoặc loạn đều lìa, những pháp do tự tâm hiện ra không thấy có hay chẳng có, được ba môn giải thoát, dùng ấn như thật mà ấn. Đối với tánh tự tánh được an trụ chỗ giác quán lìa tướng có không. Ta nói có chẳng phải đối đãi với không như ông vấn nạn.
Như Lai nói không, nói Thánh trí tự tánh xưa nay tịch tĩnh. Bởi vì chúng sanh từ vô thỉ tập khí chấp trước tất cả lánh tướng trong ngoài, muốn khiến xa lìa. Lại sợ họ tự sanh khủng bố nên nói việc Thánh trí tự tánh không pháp, là nói “trụ tự được như thật không pháp”. Như Do thận thật không pháp này, lìa tự tâm hiện chẳng Linh phải rơi vào không, được giải thoát ấn mà chẳng phải rơi vào có. Ba giải thoát là, không, vô tướng, vô nguyện. Được giải thoát này mới biết tự tánh không sự như thật pháp ấn, sẵn có sẵn lặng, thật là duy thức tánh. Tự giác Tin quán sát xa lìa có không tất cả tướng kiến hoặc loạn.
Như Lai nói không, chẳng phải là không đối với có, mà là không tất cả những giả tướng do vọng tưởng hiện. Ví dụ thiền viện này, từ chùa, nhà, vườn, hàng cây cho đến rẫy đều từ vọng tưởng của người khởi lên. Như trưởng rẫy nghĩ mùa mưa nên trồng rau muống cho chúng ăn. Ông đi mua hạt giống, làm liếp, rải hạt, bón phân, tưới tắm, săn sóc cho rau mọc, rồi cắt đưa vào bếp… Những việc khác cũng vậy, bắt đầu từ ý nghĩ của mình sau mới thành, nghĩa là đều do vọng tưởng mà ra. Vậy mà thấy được đều cho là thật, là có; khi nó hoại thì bảo là không. Người đạt được chỗ cứu kính chân thật, lìa vọng tưởng thì không còn thấy có không, tức là hết hai bên, Lục Tổ nói bản lại vô nhất vật, tức là chỗ trụ tự được như thật không pháp này. Các pháp tự tâm hiện, vốn không nhưng không phải không tự tâm. Được ấn giải thoát nhưng không rơi vào có vì ba giải thoát là: không, vô tướng, vô nguyện. Được giải thoát này mới biết tự tánh vô sự, là pháp ấn như thật, là tánh duy thức sẵn có, sẵn lặng. Tổ Bồ-đề Đạt-ma bảo lấy bốn quyển Lăng-già làm tâm ấn, đủ thấy các tổ nhìn không khác Phật.
Có ba:
H1/- Chỉ chẳng nên lập tông bất sanh
Lại nữa, Đại Huệ! Tất cả pháp chẳng sanh, đại Bồ-tát chẳng nên lập tổng ấy. Vì cớ sao? Vì tông tất cả tánh phi tánh và vì nhân sanh tướng kia nên nói tất cả pháp chẳng sanh làm tông, tông kia ắt hoại. Tông kia tất cả pháp chẳng sanh, tông kia ắt hoại ấy, bởi vì tông có đối đãi mà sanh. Lại vì tông kia chẳng sanh vào tất cả pháp, vì tướng chẳng hoại chẳng sanh. Lập tất cả pháp chẳng sanh làm tông, thì thuyết kia ắt hoại. Đại Huệ! Có không chẳng sanh làm tông, tông kia vào tất cả tánh, tướng có không chẳng thể được. Đại Huệ! Nếu khiến tông kia chẳng sanh, tất cả tánh chẳng sanh mà lập tông. Như thế tông kia hoại, vì có, không tánh tướng chẳng sanh, chẳng nên lập tông. Vì năm phần luận nhiều lỗi, vì lần lượt nhân tướng khác và vì tạo tác, chẳng nên lập tổng phần. Bảo tất cả pháp chẳng sanh, như thế tất cả pháp không, như thế tất cả pháp không Tự tánh, chẳng nên lập tổng.
Tất cả pháp chẳng sanh ba đời Như Lai đồng nói, chính vì kẻ bất giác, chẳng vì người giác. Người giác tự tâm hiện chóng dứt các vọng, nội thân tự chứng trọn không thể chỉ bày. Trừ vì chúng sanh khiến lìa các chấp trước nên nói tánh không sanh; vì lìa các khủng bố nói có Thánh trí tự tánh không sự. Song chẳng nên lập đó làm tông. Tông tất cả tánh phi tánh ấy, nguyên tất cả tánh vốn vô sanh tánh. Lập tông chẳng sanh, nhân ấy vọng thấy tướng sanh. Cho nên nói “và vì nhân kia sanh tướng”. Đã nhân vọng thấy tướng sanh, mà nói chẳng sanh, lại lập đó làm tông thì tông ấy ắt hoại. Bởi vì chẳng sanh là đối với sanh, vì có đối đãi. Lại tông này vào tất cả pháp, tất cả pháp đã chẳng sanh cũng nên không tướng chẳng sanh, mà vẫn còn có pháp tướng chẳng sanh thì pháp chẳng phải không sanh, là lý do thuyết này bị hoại. Câu “tướng chẳng hoại chẳng sanh”, bản Đường dịch “tướng chẳng sanh cũng chẳng sanh”. Tức chỉ Thánh tánh không sự, vì khiến lìa chấp trước và khủng bố, chẳng nên lập đó làm tông. Nhân vọng chấp có nên nói chẳng sanh. Không nhân có mà lập, có không thành hai tướng, đối tất cả pháp thì tánh không thể được. Nếu lập đó làm tông thì trái với pháp thể. Như năm phần luận, tông nhân lần lượt, có ra tướng khác đều thuộc tạo tác chỉ thành nhiều lỗi. Mới biết tất cả pháp chẳng sanh ấy, là vì lìa chấp trước. Như thế tất cả pháp không, tất cả pháp không có thể tánh, xét đến tự tướng như thật trọn không thuyết ấy, nên chẳng ưng lập tổng.
Phật dạy không nên lập tông tất cả pháp chẳng sanh, vì sao? Nhân tướng sanh mà nói tất cả pháp không sanh, vì do đối đãi mà lập. Nếu lập tông thì tông không sanh vào tất cả pháp vậy thì không thể có, cho nên bị hoại. Hơn nữa nếu có tông này thì không thể nói tất cả pháp chẳng sanh. Ví dụ cái nhà, chỗ có vật chất chúng ta sờ mó được là tướng có, còn chỗ rỗng không là tướng không. Như vậy tướng có tướng không đều là tướng. Chẳng sanh nếu cố định thì thành tướng chẳng sanh. Vậy tướng chẳng sanh lại thành có sanh nên thuyết này phải hoại vì tự mâu thuẫn. Năm phần luận là TÔNG NHÂN-DỤ-HỢP-KẾT theo Nhân Minh Luận. Tông đã lỗi thì Nhân, Dụ cũng lần lượt sanh lỗi. Nói tất cả pháp không sanh tức là không, không tự tánh chỉ dùng ngăn chấp cho người bất giác, không nên lập tổng.
Xét trong ba lượng (hiện lượng, tỷ lượng, Thánh giáo lượng) thì tỷ lượng có ba chi: 1) Tông, 2) Nhân, 3) Dụ, gồm Hiệp và Kết làm năm phần. Tông có 9 lỗi, nhân có 14 lỗi, đồng dụ có 5 lỗi, dị dụ có 5 lỗi, chung lại là 33 lỗi, Đây là ngoại đạo lập ra. Nếu do pháp của ta thì tông cũng có một lỗi, nghĩa là chẳng được pháp thể. Nhân, Dụ là thành lập tổng, mà tông đã lỗi thì Nhân, Dụ lần lượt tướng khác càng nhiều.
Ba lượng: Một là hiện lượng, sáu căn tiếp xúc với sáu trần không khởi phân biệt. Hai là tỉ lượng, lấy cái này so sánh với cái khác. Ba là Thánh giáo lượng, lấy lời Phật để chứng minh cho người hiểu.
Ba chi chính của tỉ lượng là Tông-Nhân-Dụ. Ví dụ nói: Cái nhà này là vô thường, đó là Tông. Tại sao vô thường? Vì do người ta tạo tác, đó là Nhân. Như cái tách, cái bàn. Nghĩa là tách, bàn đều do người làm ra nên cũng vô thường, là đồng Dụ. Còn dị Dụ như hư không, không ai làm ra nên hư không không phải vô thường. Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận do ngài Trần Na lập ra. Nếu lập tất cả pháp chẳng sanh thì có một lỗi là trái pháp thể. Tông đã trái thì Nhân Dụ càng lỗi thêm, vì thế không nên lập Tông.
Sao nói không được pháp thể? Như lập lượng rằng: Tất cả pháp chẳng sanh làm TÔNG, NHÂN nói vì không tự tánh, DỤ nói như cây chuối. Gạn lỗi rằng: Những pháp gì chẳng sanh? Đáp: Pháp do tâm hiện ra, pháp đều do tâm hiện không có tánh sanh. Cạn lại: Tâm không tánh sanh thì có tánh chẳng sanh All chăng? Đáp: Nghĩa là tánh không sanh nên nói chẳng sanh, đâu được lại có. Kết lỗi rằng: Nếu chẳng lại có mà lập tông chẳng sanh thì chẳng được pháp thể. Song pháp của ta phương tiện vì đoạn chấp kia, chẳng phải có thật pháp. Chấp kia đoạn rồi tự nhiên rõ tướng tâm ban đầu, trở lại nơi bản đắc, như thật tự chứng đại dụng hiện tiền, ngôn ngữ tình lượng chóng dứt, sanh cùng vô sanh, đều là lời nói thừa. Cho nên chẳng ưng lập tổng. Như Lai chỉ thẳng nguồn tâm chẳng do nơi khác mà ngộ.
Không được pháp thể là sao? Vì lập tông Tất cả pháp chẳng sanh, nhân vì không tự tánh, dụ như cây chuối. Cây chuối lột từng bẹ, từng bẹ cuối cùng chẳng có gì, nghĩa là không có thật thể, là không. Lập luận sít sao. Nhưng nếu gạn cho kỹ, nếu pháp không sanh vì do tâm hiện nên không có tánh sanh. Vậy tánh chẳng sanh đó có hay không? Nếu có thì đâu được nói không sanh, cho nên mắc lỗi không có mà lập tông, không được pháp thể. Pháp Phật nói chỉ là phương tiện đoạn chấp, hết chấp thì tâm ban đầu hiện, được đại dụng hiện tiền, ngôn ngữ tình lượng đều là lời thừa, nên chẳng cần lập tông. Giác tự tâm hiện thì vọng chóng dứt, tự chứng không thể chỉ bày. Sở dĩ nói tánh không sanh chỉ để lìa chấp có không là thật, lại e người nghe sợ hãi nên nói Thánh trí tự tánh không sự, lập tông thì có lỗi vì chẳng được pháp thể.
H2/- Chỉ thánh trí xem thấy như huyễn không lỗi
Đại Huệ! Song đại Bồ-tát nói tất cả pháp như huyễn mộng, vì tướng hiện và chẳng hiện và vì lỗi ở giác tưởng. Phải nói tất cả pháp như tánh huyễn mộng. Trừ vì ngu phu lìa khủng bố. Đại Huệ! Ngu phu rơi vào cái thấy có không, chớ khiến họ kinh sợ xa lìa Đại thừa.
Huyễn mộng chẳng phải thật, không thể nói có. Huyễn mộng rõ ràng, không thể nói không. Có không đều chẳng phải, có hiện chẳng hiện thảy do giác tưởng. Vì thế nói như huyễn mộng đối các pháp thể vẫn không lầm trái, cũng hay cảnh giác người trí chính nơi ấy biết chỗ trở về được gốc vô sự, cho nên “phải nói”.
Phải nói tất cả pháp như huyễn mộng, không nói các pháp là sanh hay chẳng sanh. Vì sao? Vì các pháp hiện hay không hiện đều do giác tưởng nghĩa là do vọng tưởng khởi chấp chứ không thật có, như cảnh hiện trong mộng, tỉnh dậy liền không; như hình bóng trên màn ảnh, mắt thấy rộn ràng nhưng sờ mó thì không. Có mà không thật có, không nhưng chẳng thật không. Vì thế nói huyễn mộng, đã không lầm trái pháp thể mà còn cảnh giác người trí ngay đó về được gốc vô sự.
Trừ vì ngu phu lìa khủng bố là, bởi ngu phu rơi vào cái thấy có không, mỗi bên có chỗ y cứ, nghe nói mộng huyễn mờ mịt không chỗ vin bèn sanh kinh sợ, xa lìa Đại thừa. Cho nên phàm nói Thánh tánh sự, hoặc Bát Niết-bàn đều thuộc về phương tiện. Nếu được đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt thì thản nhiên tự giác. Mới biết Như Lai đêm ấy thành Phật, đêm ấy nhập Niết-bàn, ở trong khoảng giữa đó không nói một chữ. Thầm hợp tương ưng khó vì hiển bày. Dù muốn chỉ điểm trước mắt, không phải huyễn thì không lấy gì làm ví dụ.
Đối với người ngu, nói như mộng huyễn thì sanh kinh sợ nên nói Thánh tánh sự, Bát Niết-bàn, đó chỉ là lời phương tiện. Nếu hết vọng tưởng, bặt nói năng thì thản nhiên tự giác. Chỗ này khó hiển bày, ngoài dụ huyễn mộng thì không cách nào chỉ điểm.
H3/- Tổng kết chẳng sanh như huyễn
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ rằng:
Không tự tánh không nói
Không sự không tương tục
Ngu phu kia vọng tưởng
Như tử thi ác giác.
Tất cả pháp chẳng sanh
Chẳng phải tông ngoại đạo
Đến tột chỗ không sanh
Tánh duyên được thành tựu.
Tất cả pháp chẳng sanh
Người tuệ không khởi tưởng
Vì tông kia nhân sanh
Người giác thủy trừ diệt.
Như Lai tàng vốn không tự tánh, cũng không nói bày. Tất cả tám thức như hoa đốm trong hư không, đều không sự thật. Sở dĩ Phật dạy chỉ vì chỉ bày cho kẻ mê. Kẻ ngu không trí chẳng đạt phương tiện, đây là vọng tưởng ác kiến. Tất cả pháp chẳng sanh, tất cả pháp đến tột không có chỗ sanh, do nhân duyên hòa hợp như huyễn như mộng, người trí ở trong đó không nên khởi tháng tưởng. Bởi vì ngoại đạo nhân sanh mà nói chẳng sanh, chấp là thật pháp. Cho nên tất cả pháp chẳng sanh này không đồng với ngoại đạo nói. Giác thì phương tiện thảy trừ. Chữ “sự” tức là tướng. Chữ “tương tục” tức là lưu chú. Tướng cùng lưu chú thảy đều chỉ cho tám thức sanh diệt, như huyễn không thể được.
Như Lai tàng không tự tánh, không nói, không sự là không tướng, không tương tục là không lưu chú. Tướng và lưu chú chỉ cho tám thức sanh diệt, như huyễn không thể có. Người ngu vọng tưởng như ác giác của xác chết bị ma nhập. Như Lai nói tất cả pháp chẳng sanh là vì do duyên hợp như huyễn, chỉ bày cho người mê, không giống như ngoại đạo chấp không. Đến tột chỗ không sanh, chỗ tột cùng không có gì để sanh, vì do duyên hợp mà tạm có các pháp. Người trí không khởi tưởng nhân sanh mà nói chẳng sanh, giác rồi thì phương tiện này liền trừ.
Ví như mắt bệnh xem
Vọng thấy tướng tóc rũ
Chấp trước tánh cũng vậy
Ngu phu tà vọng tưởng
Lập bày ra ba cõi
Không có sự tự tánh
Lập bày sự tự tánh
Suy nghĩ khởi vọng tưởng
Tướng sự lập ngôn giáo
Ý loạn rất lăng xăng
Phật tử khéo ra khỏi
Xa lìa các vọng tưởng.
Mắt bệnh, tóc rũ dụ cho ngu phu vọng thấy. Do vọng thấy này nên khởi các giác tưởng, lập bày ba cõi. Lại do ba cõi giả lập danh tướng rồi chấp là thật tánh. Lại khởi vọng chấp dựng lập ngôn giáo, lần lượt nhân nhau nên ý loạn lời rối. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến mỗi cái muốn lưu ở thế gian thì nghiệp vận mỗi thứ thường dời nơi quốc độ.” Vọng tưởng thế gian niệm niệm sanh diệt. Nếu hay giác được chỗ này thì trong khoảng sát-na đương thể là lặng lẽ, thật không thể nghĩ bàn.
Người mắt bệnh thấy trước mắt như có tóc rủ, cho là thật có. Người ngu cũng do vọng tưởng tà mà chấp các pháp là thật, lập ra ba cõi. Không có tướng nào là thật mà lập sự tự tánh, theo đó lập ngôn giáo làm ý loạn rối rắm. Cái hiểu biết của chúng ta muốn chúng ta còn mãi ở thế gian, nên nghiệp vận sẽ dẫn đi trong ba cõi. Tùy nghiệp thiện ác mà đi vào cảnh tốt xấu. Tất cả nghiệp đều do mê, cảnh hiện như trong mộng. Phật tử phải khéo ra khỏi, xa lìa các vọng tưởng, thì đương thể lặng lẽ không nghĩ bàn. Mộng tan rồi, cười vỡ mộng là vậy. Giải thoát hay luân hồi chỉ ở chỗ giác và mê mà thôi.
Chẳng phải nước tưởng nước
Đây từ khát ái sanh
Ngu phu lầm như thế
Thánh thấy ắt chẳng vậy.
Thánh nhân thấy thanh tịnh
Tam thoát tam muội sanh
Xa lìa nơi sanh diệt
Dạo đi không ngăn ngại.
Tu hành không ngăn ngại
Cũng không tánh phi tánh
Tánh phi tánh bình đẳng
Từ đây sanh Thánh quả.
Chẳng phải nước tưởng nước, đậy là chỗ mê của ngu phu, chính là chỗ ngộ của Thánh nhân. Thanh tịnh tam muội tức là ngộ chỗ trở về. Dùng ba môn giải thoát, an trụ trong tâm hải, thuận tánh khởi hạnh, lìa nơi sanh diệt, chỗ đến không ngại. Bài tụng kinh Tịnh Danh nói: “Chẳng dính thế gian như hoa sen, thường khéo vào nơi hạnh không tịch, đạt các Pháp tướng không ngăn ngại, đảnh lễ như không không chỗ nương.” Đây chính là tánh phi tánh bình đẳng, nhân gồm biển quả, quả suốt nguồn nhân, biết không sai biệt.
Như nai khát nước, thấy hơi nắng bốc lên gợn như sóng nước, tưởng là nước chạy tìm, tới nơi lại chẳng phải. Phàm phu cũng vì khát ái bức bách mà chấp lầm, khởi tưởng điên đảo tham sân si, tạo nghiệp sát, đạo, dâm, vọng.. chịu khổ luân hồi trong ba cõi, không biết ba cõi vốn không chỉ do vọng khởi. Thánh nhân chẳng như thế nên thấy thanh tịnh, giải thoát và chánh định sanh. Thế nên nói chỗ mê của ngu phu là chỗ ngộ của Thánh nhân, các ngài dùng không, vô tướng, vô nguyện mà ở yên trong biển tâm, thuận theo tánh mà khởi hạnh, lìa tướng sanh diệt dạo đi tự tại, không chướng ngại, cũng không thấy có không, nên có không đều bình đẳng, được quả tâm thênh thang nên nói nhân gồm biển quả, quả suốt nguồn nhân.
Thế nào tánh phi tánh?
Thế nào là bình đẳng?
Bảo kia tâm chẳng biết
Trong ngoài rất xao động.
Nếu hay hoại được kia
Tâm ắt thấy bình đẳng.
Trụ trong cái có không thì chẳng đạt được bình đẳng. Chỉ vì chẳng rõ các pháp vô sanh. Rõ tự tâm hiện, hiện không thể được thì đương xứ vắng lặng, cũng không bình đẳng và chẳng bình đẳng. Đây là tâm bình đẳng vậy.
Thế nào tánh phi tánh nghĩa là có và không thế nào? Thế nào là bình đẳng? Người không biết, thấy thật có thật không thì cả trong lẫn ngoài đều xao động, bỏ được tâm có không, rõ tự tâm hiện thì an ổn, tâm tự bình đẳng.
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Như Thế Tôn nói như việc phan duyên, trí tuệ chẳng được. Lượng bày vẽ ấy dựng lập bày vẽ, sở nhiếp thọ phi tánh, năng nhiếp thọ cũng phi tánh. Bởi không nhiếp thọ nên trí ắt chẳng sanh, chỉ là bày vẽ tên mà thôi.
Bồ-tát Đại Huệ nêu lời Phật dạy tất cả cảnh do phan duyên phân biệt đều không thật, tâm phan duyên cũng không thật. Phan duyên phân biệt là vọng tưởng, nên nói trí ắt chẳng sanh. Ý hỏi tại sao gọi là trí chẳng sanh.
Cảnh giới có không của tất cả pháp đều là giả lập bày, chẳng phải sở hành của trí tuệ. Giác tự tâm hiện lượng mới biết tất cả dựng lập, vọng chấp năng sở thảy đều không có tự tánh. Nhiếp thọ đã dứt, đây là đại trí hiện tiền. Tất cả cảnh giới như nước sôi tiêu băng, lại không có băng biết băng tiêu.
Đây là nói về Thánh trí, trước tiên nói tất cả pháp dựng lập đều không thật, để nêu lên Thánh trí không rơi vào vọng chấp năng nhiếp (tâm) và sở nhiếp (cảnh), nên nói Nhiếp thọ đã dứt, đây là đại trí hiện tiền. Trí tuệ thấy tất cả cảnh giới đều như, chẳng khởi là có cảnh hay có tâm. Trong mười bức tranh chăn trâu Thiền tông, đây là bức tranh thứ tám vẽ một vòng tròn viên mãn, trong bài tụng có câu “Lò hồng hừng hực nào dung tuyết.” Đến chỗ năng sở tiêu dung như nước sôi chế trên băng, tất cả chỉ là nước không còn mảnh băng nào để mà biết có băng tiêu, Được trí tuệ này tuy sống ở thế gian, cũng ăn ngủ bình thường như mọi người nhưng không bị điên đảo.
Thế là, ở thế gian tùy theo thông lệ thế gian mà không điên đảo. Đại Huệ nêu ra ý này, trước thuật lại lời Phật sau mới khởi nạn. Như việc phan duyên tức là các pháp thế tin tuần gian có không. Sở nhiếp thọ là cảnh sở thủ. Năng nhiếp thọ là tâm năng thủ. Thấy năng thủ sở thủ thảy đều không tự tánh, trí ắt chẳng sanh là, trí chẳng đối với chỗ này mà khởi phân biệt.
Trí này là trí chân thật không phân biệt, không đợi cảnh sở duyên mới có, nên nói trí lìa sở tri.
Thế Tôn! Thế nào? Vì tánh bất giác nên tự tướng cộng tướng, khác chẳng khác, mà trí chẳng được ư? Vì tự tướng cộng tướng các thứ tướng tánh tự tánh ẩn khuất, mà trí chẳng được ư? Vì núi đá tường vách, nước lửa gió ngăn che, mà trí chẳng được ư? Vì rất xa hay rất gần, mà trí chẳng được ư? Vì già trẻ mù lòa các căn chẳng đủ, mà trí chẳng được ư?
Ngài Đại Huệ hỏi lý do vì sao nói là trí chẳng được, nêu lên những trở ngại của tri giác: Một là bất giác, hai là các tướng bị ẩn khuất nên trí không biết, ba là các chướng ngại bên ngoài hay sự yếu kém của các căn mà trí chẳng biết.
Thế Tôn! Nếu bất giác tự tướng cộng tướng khác chẳng khác, mà trí chẳng được thì không nên nói trí, ưng nói không trí, vì có việc mà biết chẳng được.
Trường hợp thứ nhất vì bất giác không biết rõ cảnh bên ngoài mà trí không sanh. Trí không sanh nên nói là không trí, chẳng gọi là trí.
Nếu lại các thứ tự cộng tướng, tướng tánh tự tánh ẩn khuất, mà trí chẳng được thì, kia cũng không trí, chẳng phải là trí. Thế Tôn! Vì có sở tri nên trí sanh, chẳng phải không tánh hiểu sở tri mà gọi là trí.
Trường hợp thứ hai vì các pháp tự ẩn khuất, không thể thấy biết thì cũng không gọi là trí. Theo ý ngài Đại Huệ thì biết rõ các pháp mới gọi là trí. Ví dụ đối với bình hoa này, có người giải thích nó là hoa gì, cách trồng cách săn sóc ra sao, hoa này có mấy loại, mấy màu… Giải thích kỹ, biết phân biệt đối tượng rành rẽ gọi là trí. Phật lại nói trí là đối với cảnh bên ngoài không dính mắc, lìa cảnh sở tri, thấy cảnh sở tri không thật có. Ngài Đại Huệ nêu các trường hợp không có sở tri để nạn vấn.
Nếu núi đá tường vách đất nước lửa gió rất xa hay rất gần, già trẻ mù lòa các căn chẳng đủ, mà trí chẳng sanh thì đây cũng chẳng phải trí, ưng là vô trí, vì có việc không thể biết được.
Trường hợp thứ ba là cảnh bị ngăn che, hay các căn không tiếp xúc cảnh, không biết thì không thể gọi là trí.
Trí tuệ chẳng được, có ba thứ nạn. Một, bất giác liễu vì trí chẳng đủ. Hai, các pháp lẫn nhau ẩn khuất, vì cảnh sở tri khó biết. Ba, núi đá tường vách già trẻ mù lòa, vì có chỗ chướng mà không biết. Ba thứ chẳng biết này đều chẳng phải trí, để nêu ra văn sau biết mà tướng chẳng được, chẳng phải chẳng biết mà tướng chẳng được.
Phật bảo Đại Huệ! Chẳng như thế mà không trí, nên là trí chẳng phải chẳng trí, ta chẳng nói ẩn lấp như thế. Việc phan duyên trí tuệ chẳng được, ấy là lượng bày vẽ dựng lập.
Chẳng như thế mà không trí, tức là không thể nói không biết cảnh sở tri là không trí. Cảnh sở tri là tâm phan duyên theo cảnh bày vẽ dựng lập hư dối, không có trí tuệ.
Giác tự tâm hiện lượng ngoài có không tánh phi tánh, biết mà sự chẳng được. Vì chẳng được nên trí tuệ đối với sở tri chẳng sanh. Thuận ba môn giải thoát, trí cũng chẳng được.
Phật giải thích trí là giác tự tâm hiện lượng, biết ngoại cảnh có hay không đều không thật thể. Biết mà không chấp gọi là biết mà sự chẳng được. Vì không thấy có cảnh thật nên tâm không duyên theo sở tri, không sanh sở tri nên gọi là trí tuệ. Thuận ba môn giải thoát, tức là không, vô tướng, vô nguyện, trí cũng chẳng được vì không còn năng sở.
Chẳng phải vọng tưởng từ vô thỉ tánh phi tánh hư ngụy tập trí, khởi biết như thế, là biết chẳng biết kia.
Trí của phàm phu là do vọng tưởng tập khí hư ngụy từ vô thỉ khởi ra thấy biết nào là có, là không gọi là biết mà thật không biết, vì chỉ biết giả tướng mà không biết tánh thật của các pháp. Biết cội nguồn của thân này do năm uẩn nhóm họp hư dối không thật, đó mới thật là trí. Thân cảnh không thật thì không bận lòng phân tích, khen chê và tham đắm. Cùng là biết, một bên nặng về tướng, một bên biết về tánh. Vì thế Phật nói theo các vọng tưởng tập khí có không… là biết mà chẳng biết.
Ba nạn trước là không trí mà sự chẳng được. Như Lai nói ra ưng là trí chẳng phải vô trí. Nếu không trí mà chẳng được là nói ẩn lấp vậy. Cho nên lại nói: Việc phan duyên trí tuệ chẳng được, chỉ bày vẽ dựng lập, đây chính là giác tự tâm hiện lượng. Giác tự tâm lượng thì giác tất cả pháp có không hiện ra đều không có tự tánh, đối với việc phan duyên hiểu thấu nguồn đáy, phân biệt chóng dứt.
Giác tự tâm lượng là đối với tất cả cảnh thấu suốt được tận nguồn, vọng tưởng phân biệt tự dừng, không đuổi theo cảnh bày vẽ dựng lập.
Tùy thuận ba môn giải thoát mà cũng không Thánh trí có thể được, là an trụ tâm hải sẵn có tịch chiếu.
Tùy thuận ba môn giải thoát mà cũng không Thánh trí có thể được, phát khởi ba môn giải thoát mà không thấy Thánh trí có thể được, vì an trụ trong tâm hải, tịch mà thường chiếu, chiếu mà hằng tịch.
Chẳng đồng với ngoại đạo vọng giác theo cảnh giới sở tri của tập khí từ vô thỉ. Cái sở tri của ngoại đạo này, chính bảo là thật vô trí vậy.
Nói ngoại đạo là gồm luôn phàm phu, đuổi theo cảnh giới sở tri không thật, đó là vô trí không phải trí.
Cho nên đối việc bên ngoài chỗ nơi tướng tánh vô tánh vọng tưởng chẳng dứt. Tự tâm hiện lượng dựng lập, nói tướng ngã ngã sở rồi nhiếp thọ chấp trước. Chẳng giác tự tâm hiện lượng, đối với trí sở tri mà khởi vọng tưởng. Vì vọng tưởng, ngoại tánh phi tánh, quán sát chẳng được, y nơi đoạn kiến.
Giải thích rõ về vô trí. Tất cả hiểu biết thuộc về vọng phân biệt, không giác tự tâm hiện lượng, đối với ngã ngã sở kết thành chấp trước không bỏ. Tuy có biết mà tăng trưởng tập khí vọng tưởng thì đều thuộc về vô trí. Vọng tưởng là cái biết hạn cuộc, đối các pháp bên ngoài thấy từ có trở về không, khi các pháp không có thì quan sát không được, cho rằng các pháp tiêu diệt trở thành đoạn kiến. Cái biết phàm phu luôn bị lệ thuộc vào cảnh, chấp cảnh thật hay không thật đều bị rơi vào hai bên thường kiến và đoạn kiến.
Đây chính chỉ kia chẳng biết vậy, Kia đối tất cả chỗ nơi các pháp có không, hiện tại vọng tưởng chẳng dứt. Thảy từ tự tâm hiện lượng dựng lập năng sở, rồi nhiếp thọ chấp trước. Xét tột chỗ ban đầu chỉ là bất giác, nên đối với trí vô phân biệt mà tự sanh phân biệt, y nơi cảnh sở tri khởi các vọng tưởng.
Để trả lời nạn vấn của Bồ-tát Đại Huệ, ở đây Phật nói rõ chỗ gọi là không biết. Chỗ này khác với ba trường hợp đã nêu. Nguồn cội ban đầu là bất giác, nơi trí vô phân biệt, tự sanh phân biệt, đuổi theo cảnh sở tri. Mỗi người đều sẵn có trí vô phân biệt, chỉ vì duyên theo cảnh bị biết nên thành vọng tưởng. Đã là vọng tưởng thì không thể biết chân thật.
Vọng chấp có không, rồi quán sát có không sanh diệt không có nguyên nhân, lại thành đoạn diệt. Nếu hay biết được chỗ này thì trí tuệ hiện tiền, các việc phan duyên một lúc chóng dứt. Nên nói “biết mà sự chẳng được, trí đối sở tri chẳng sanh”.
Biết mà sự chẳng được, tuy thấy biết mà không chấp các pháp bên ngoài có thật, vì thế trí đối với cảnh không sanh. Thế gian cho là trí thì Phật nói vô trí, theo đạo lý nói là trí thì thế gian cho là vô trí. Trí thế gian là trí duyên theo ngoại cảnh, vì thế suốt ngày tâm không dừng không yên. Nếu đối với ngoại cảnh tâm không phân biệt cho là thật có xấu đẹp… Tâm thanh tịnh trở về với thể chân thật, đó gọi là trí. Như vậy trí của thế gian thuộc về trí sanh diệt, càng hiểu biết, càng luân hồi; trí của nhà Phật là trí vô phân biệt, không dấy động nên trở về giải thoát tức là hết sanh tử.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Có các việc phan duyên
Trí tuệ chẳng quán sát
Đây vô trí phi trí
Ấy vọng tưởng mà nói.
Có các việc phan duyên, là có các việc để tâm đuổi theo; người có trí tuệ thì không quán sát theo cảnh đó. Đuổi theo phan duyên đây là vô trí không phải trí, đó là căn cứ theo vọng tưởng mà nói.
Đối tánh tướng chẳng khác
Trí tuệ chẳng quán sát
Chướng ngại và xa gần
Ấy gọi là tà trí.
Đối với tánh tướng các pháp bên ngoài trí tuệ chẳng quán sát, chướng ngại tức là do chướng ngại mà không thấy biết, hoặc quá xa quá gần mà không biết, những cái đó đều gọi là tà trí.
Già trẻ các căn loa
Mà trí tuệ chẳng sanh
Lại thật có sở tri
Ấy cũng nói tà trí
Người già mắt mờ không thấy, trẻ thơ các căn chưa đầy đủ nên không sanh trí tuệ. Lại thật có sở tri, cho rằng thật có đối tượng để biết, thì đó là tà trí.
Kệ nói ba thứ trí trước mà có chỗ không được, đều không phải trí. Biết cái chẳng phải trí kia thì trí đối với nhiếp thọ chẳng sanh chấp trước, chỉ là bày vẽ, chỗ đi của tâm lượng, chẳng phải cảnh giới có thể bàn.
Biết chỗ không thật thì không sanh vọng tưởng nhiếp thọ. Tâm lượng chân thật là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Phân làm ba:
Lại nữa, Đại Huệ! Phàm phu ngu si từ vô thỉ bị vọng tưởng ác tà hư ngụy xoay chuyển. Khi bị xoay chuyển thì chẳng khéo rõ biết tự tông thông và thuyết thông. Vì chấp tánh tướng bên ngoài do tự tâm hiện, nên chấp thuyết phương tiện, đối tướng chung thanh tịnh bốn câu của tự tông chẳng khéo phân biệt. Đại Huệ bạch Phật: Thật như Thế Tôn dạy, xin Thế Tôn vì còn phân biệt thuyết thông và tông thông. Con và các đại Bồ-tát rành rõ hai thông, phàm phu, Thanh văn, Duyên giác đời sau không mắc cái dở.
Đoạn này trước tiên Phật nói người ngu từ vô thỉ đến nay bị các vọng tưởng ác tà xoay chuyển, vì thế không thấu suốt được tông thông và thuyết thông. Đối với cảnh bên ngoài sanh tâm chấp trước, không phân biệt được ngôn thuyết phương tiện tứ cú do tự tâm hiện. Ngài Đại Huệ liền yêu cầu đức Phật giải thích lại về tông thông thuyết thông.
Đây vì kẻ ngu chẳng khéo rõ biết tướng chung bốn câu thanh tịnh của tự tông, nên có lời hỏi này. Chẳng rõ biết bốn câu thanh tịnh của tự tông nên đối với lời nói phương tiện trong Thánh giáo vọng sanh phân biệt. Bị tập khí ác giác lưu chuyển, đó là lý do hiển bày tông thông, thuyết thông. Bốn câu là, có không bốn câu. Lìa bốn câu được pháp thể thanh tịnh, ấy là tướng chung thanh tịnh.
Bốn câu thanh tịnh của tự tông, bốn câu là tứ cú có không, chẳng có chẳng không… Đối với tứ cú không dính mắc, lìa tứ cú được pháp thể thanh tịnh.
Phật bảo Đại Huệ: Lành thay, lành thay! Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, ta sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ: Ba đời Như Lai có hai thứ pháp thông. Nghĩa là thuyết thông và tự tông thông. Thuyết thông là, tùy chỗ thích hợp với tâm chúng sanh, vì nói các thứ các loại khế kinh, ấy gọi là thuyết thông. Tự tông thông là, người tu hành lìa tự tâm hiện các thứ vọng tưởng. Nghĩa là chẳng rơi vào loại một, khác, đồng, chẳng đồng, vượt khỏi tất cả tâm, ý, ý thức. Cảnh giới Thánh tự giác, lìa nhân thành kiến, tướng. Tất cả ngoại đạo Thanh văn, Duyên giác rơi vào hai bên đều không thể biết. Ta nói đó là pháp tự tông thông. Đại Huệ! Ấy gọi là tướng tự tông thông và thuyết thông, ông cùng các đại Bồ-tát khác nên phải tu học.
Phật dạy lại về thuyết thông và tông thông. Tông thông còn gọi là tự tông thông, nghĩa là thông đạt tự tông (tự tâm) lìa vọng tưởng, lìa nhân thành kiến, tướng, tức lìa các nhân duyên thành lập tướng năng kiến sở kiến đối đãi.
Khế kinh tức là chín bộ đã nói. Nghĩa là khế lý khế sự đều y tâm chúng sanh mà vì dẫn đường, không có pháp thật. Đây là thuyết thông, phương tiện thật chẳng bỏ quyền, cần phải ly ngôn được ý chỉ. Lại nhân người tu hành nói đạt tông thông. Lìa tự tâm hiện các thứ vọng tưởng… là, tự tâm hiện ra tất cả vọng chấp bốn câu có không, đều do mê Như Lai tàng, theo cảnh vọng hiện của tâm, ý, ý thức, tùy vọng hiện lại khởi phân biệt. Một phen giác tự tâm thì vọng tưởng chẳng sanh, phân biệt hằng dứt, cảnh giới sở hành của tự giác Thánh trí này, lìa nhân duyên tương ưng với tất cả kiến tướng, ấy gọi là tướng tự tông thông. Chẳng rơi vào tất cả ngôn thuyết phương tiện, nên chẳng phải chỗ hay biết của ngoại đạo Nhị thừa.
Khế lý khế sự đều y tâm chúng sanh mà vì dẫn đường, Phật dạy thuyết thông nằm trong chín bộ, trong đó có đủ lý và sự, tùy theo trình độ chúng sanh mà hướng dẫn. Đối với Phật tử sơ cơ chỉ muốn được làm người tốt, chúng ta đem lý Bát-nhã nói tánh không tướng không thì họ không hiểu, như vậy là thuyết pháp hợp lý mà không hợp cơ, không gọi là thuyết thông. Nên hướng dẫn từ thấp lên cao, nói lý nhân quả cho hợp trình độ người nghe, chủ yếu có lợi ích cho người. Đây là thuyết thông, phương tiện thật chẳng bỏ quyền, quyền là phương tiện lần lượt hướng dẫn đến chỗ chân thật, vì là phương tiện nên không chấp có pháp cố định, mới thật là thuyết thông.
Tự tông thông là đối với người tu hành cần hướng thẳng đến tự tâm. Giác ngộ tự tâm hiện lượng thì hằng lìa vọng tưởng, vào cảnh giới Thánh trí, lìa tất cả kiến phần tướng phần, chỗ này không dùng ngôn ngữ nói bày, gọi là chẳng phải chỗ hay biết của ngoại đạo Nhị thừa.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Ta nói hai thứ thông
Tông thông và ngôn thuyết
Thuyết là dạy đồng mông
Tông vì người tu hành.
Đồng một Thánh giáo mà kẻ đồng mông được thuyết, người tu hành được tông. Chẳng phải Như Lai thật có hai thứ phân biệt. Nên nói “chỉ ký luận ta thường thường nói”, cũng tùy chỗ thấy vậy.
Chủ đích của Phật là đưa chúng ta đến giải thoát. Ban đầu vì không biết nên dùng ngôn thuyết, biết rồi thì phải ứng dụng theo tự tông. Chủ yếu của người tu, sở nguyện của người tu là được giải thoát. Học thông giáo lý rồi cần phải thực hành, tự tông thông là chỗ nhắm đến của kinh này.
Có sáu:
H1/- Chỉ thế luận chẳng vào tự thông, hay chiêu cảm khổ, phá hoại kiết tập
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Như Thế Tôn một hôm nói rằng các luận thế gian mọi thứ hiện thuyết, dè dặt chớ gần gũi. Nếu gần gũi thì chấp nhận tham dục, chẳng chấp nhận pháp. Thế Tôn cớ sao nói lời như thế? Phật bảo Đại Huệ: Ngôn luận thế gian các thứ cú vị, nhân duyên ví dụ gom nhóm trang nghiêm, dụ dẫn dối gạt kẻ phàm phu ngu si, không vào được chân thật tự thông, chẳng giác tất cả pháp, vọng tưởng điên đảo rơi vào hai bên. Kẻ phàm ngu lầm mà tự phá hoại, tiếp nối sanh trong các cõi không được giải thoát, không thể giác biết tự tâm hiện lượng, chẳng lìa tánh tự tánh vọng tưởng chấp trước bên ngoài. Thế nên, ngôn luận thế gian các thứ biện thuyết chẳng thoát khỏi sanh già bệnh chết lo buồn khổ não dối gạt mê loạn.
Đây nhân thuyết thông lấy làm luận nghị trong ngoài khéo léo để giúp cho nhạo biện; bèn nhớ Thế Tôn thường dạy nên có nghi trước sau trái nhau. Các luận thế gian là chỉ cho kinh sách ngoại đạo, mỗi quyển y theo tà kiến chấp làm định luận. Hoặc thông một cạnh thấu một góc, trang nghiêm danh lý như nói “Trời đất một ngón tay, muôn vật một con ngựa”, dẫn bày nghĩa vị dối lầm tâm thức mà nơi câu chân thật tự thông thì thật là trái xa. Phàm giác tâm nội chứng, xa lìa sở tri, thức tánh ưa thấy dễ thành cảnh giới, tất cả lý giải, điểu đạo huyền vi là chỗ đi của giác tưởng, đổi thành bí mật. Thứ chấp sâu này so với chấp dục lạc thô trọng rất khó giải thoát.
Ngài Đại Huệ nhân Phật dạy thuyết thông để trợ giúp chỗ biện thuyết vô ngại, Phật cũng dạy không nên gần gũi thế luận, thế luận thì văn chương ngôn thuyết thông thạo, nên nghi trước sau trái nhau. Sách thế gian về thơ truyện chỉ là phần cạn. Sách ngoại đạo lập luận theo tà kiến, tức là hàng học giả trí thức thông minh biện luận tinh vi, ngôn từ cao siêu dễ làm lầm chúng ta. Trời đất một ngón tay, muôn vật một con ngựa, là lời nói của Trang Tử trong Nam Hoa Kinh. Ý nói tất cả vạn vật đều có chung một lý. Các nhà luận thuyết dù lập luận tinh vi nhưng cũng chỉ trong một góc độ nào đó, tất cả đều nằm trong giác tưởng, là vọng tưởng vi tế, khó giải thoát.
Hoặc giả có người y thông tự tông, khuôn mẫu Thánh giáo. Dùng lời tinh vi của tuyệt học làm thành luận ác giác. Nên nói: “Trong câu không ý, ý tại trong câu”, phát xuất từ nhóm này trọn thành tập ngữ (nói theo). Như “Trong câu chủ khách”, đâu đồng với nghĩa học biểu và giá. Giá (ngăn) tức đồng không, biểu (bày) trọn rơi vào có. Giá biểu chẳng khác toàn thể là vô minh. Giá biểu đồng thời thì danh tướng rối ren, mũi tên miệng hiện thành, mà nghĩ siêu cách ngoại.
Hoặc giả có người y thông tự tông, đây là nhắm vào người nương tự tông, cũng là người chưa thấu đạt nhưng dựa vào thiền tông, dùng lời nói của các bậc Thánh để tạo thành lý luận của mình, ngôn ngữ cao siêu khó hiểu, cũng nằm trong ác giác. Trong câu chủ khách, là lời dạy của ngài Lâm Tế, không thể so sánh với hàng nghĩa học nói về biểu thuyên và giá thuyên. Biểu thuyên là diễn tả sự vật rõ ràng, rơi vào có; giá thuyên là lời nói ngăn che không cho hiển rõ nên rơi vào không, giá tức đồng không. Càng sử dụng ngôn ngữ thì càng tăng vọng tưởng rối ren, cách xa tự tâm.
Cái hiểu này thành ngại, hoảng hốt lìa chỗ vi diệu, dối gạt trên danh cú chẳng đạt tự tông. Tuy ở trong chánh pháp mà đồng với thế luận. Đây là sau năm mươi năm phá hoại kiết tập nên nói “ác giác nhân kiến”. Người giác tự tâm hiện thì cảnh nên quán sát ra ngoài tự tâm đều là điên đảo, tăng trưởng vọng thức tiếp nối nhân sanh tử, không thể chẳng dè dặt.
Chạy theo tri giải, dù là tri giải Phật pháp vẫn là bị danh cú dối gạt, không lợi ích cho chánh pháp giải thoát. Người giác ngộ tự tâm đối với bất cứ cảnh giới nào đều không theo đuổi, dính mắc.
Trong Địa Trì bảo tu tập ngũ minh, tất cả nội minh, ngoại minh, thanh minh, y phương minh, thi công xảo minh. Đây là vì hàng đại Bồ-tát đã tu tập lâu xa, tàng thức được minh bạch, vào tất cả thế gian tùy tâm chúng sanh mà vì họ dẫn đường. Chẳng nên mượn đây liền bỏ bê lời răn cấm của Phật, nên phải tự xét mới là biết thời.
Đại Bồ-tát học ngũ minh để hướng dẫn chúng sanh. Các vị đã tu tập lâu xa, tâm thức rỗng sáng nên học nhiều các phương tiện cũng không bị trệ ngại. Chúng ta còn nhiều vọng tưởng, học đâu chấp đó, tâm còn rối ren nên Phật tổ răn cấm, phải tự xét mình, lúc nào nên học lúc nào nên không học.
Đại Huệ! Thích đề-hoàn nhân rộng giải các luận, tự tạo thanh luận. Thế luận kia có một người đệ tử giữ hình tượng rồng, đến thiên cung Đế Thích dựng lập luận tông, cốt phá bánh xe ngàn căm của Đế Thích. Nếu tôi chẳng bằng xin chặt mỗi đầu để đền chỗ thua. Tạo lời cam kết ấy rồi, liền dùng pháp Đế Thích đè bẹp Đế Thích, Đế Thích thua liền phá bánh xe kia, rồi trở về nhân gian.
Phật dẫn chứng trời Đế Thích hiểu rộng các lý luận, tạo ra Thanh luận, cho là kiệt tác không ai có thể phá đổ. Lúc ấy có đệ tử Thế Luận của ngoại đạo, mang hình thức loài rồng lên thiên cung, nói rằng nếu lý luận mà Đế Thích thua thì phải phá cỗ xe ngàn căm, tức xe của Chuyển luân vương, nếu nó thua thì cho chặt đầu của nó. Nói rồi bèn dùng chính lý luận của Đế Thích chiết phục Đế Thích. Đế Thích thua phải phá bỏ xe rồi rơi xuống nhân gian.
Như thế, Đại Huệ! Thế gian ngôn luận nhân dụ trang nghiêm, cho đến súc sanh cũng hay dùng các thứ cú vị làm hoặc loạn chư thiên kia và A-tu-la, kẹt trong kiến chấp sanh diệt, huống là loài người. Thế nên, Đại Huệ! Thế gian ngôn luận nên phải xa lìa, bởi hay chuốc lấy nhân sanh khổ, dè dặt chớ gần gũi.
Thế gian ngôn luận rất nguy hiểm, sử dụng các lập thuyết làm chúng sanh bị mê lầm, ngay cả chư thiên và A-tu-la cũng không thoát khỏi. Tất cả đều ở trong kiến chấp sanh diệt, không nói đến trí tuệ giải thoát. Vì thế răn nhắc chúng ta phải dè dặt không nên gần gũi.
Nêu đây để làm gương không nên gần gũi học tập. Nghĩa là thế luận nhân dụ trang nghiêm tột các xảo biện, chạm việc vô cùng, khó mà chiết phục. Đây là thức tâm biến huyễn dối gạt cái thấy nghe, chẳng nói chánh lý, có chướng ngại cho tự tông, chuốc khổ sanh tử, không gì hại bằng.
Đại Huệ! Thế luận chỉ nói cảnh giới thân cảm giác mà thôi. Đại Huệ! Thế luận kia có đến trăm ngàn, chỉ ở thời sau, sau năm mươi năm sẽ phá hoại kiết tập, ác giác nhân kiến thạnh, nên đệ tử ác thọ học.
Thế luận chỉ nói cảnh giới của các giác quan, tán thán hoặc lý luận trên những phần đó, không có gì lạ, lại có đến trăm ngàn thứ sai khác. Sau Phật diệt độ khoảng 50 năm, có những thế luận phá hoại Phật pháp. Đệ tử ác thọ học, đệ tử ác là đệ tử ác kiến. Đó là Phật quở những người ưa thích thế luận.
Như thế Đại Huệ! Thế luận phá hoại kiết tập các thứ cú vị nhân dụ trang nghiêm, nói việc ngoại đạo, đắm nhân duyên của mình, không có tự thông. Đại Huệ! Các ngoại đạo kia không có luận tự thông, đối các thế luận nói rộng vô lượng trăm ngàn sự môn, không có tự thông, cũng không tự biết thế luận là ngu si.
Cảnh giới thân cảm giác, nghĩa là cảnh giới sở hành của thấy nghe hiểu biết nơi thân năm ấm. Hoặc tức nơi thấy nghe hiểu biết mà khởi luận thuyết. Hoặc do thấy nghe hiểu biết duyên được cảnh không tịch linh diệu huyền vi mà làm tông thú. Phá hoại kiết tập là phá hoại chánh giáo kiết tập của Như Lai, Đây là học chánh pháp mà rơi vào tà kiến vậy. Nếu không phải bọn này quyết định không thể phá hoại chánh giáo.
Trong hàng đệ tử Phật, có những người dùng tri kiến của mình làm luận thuyết, có người duyên nơi cảnh giới linh diệu huyền vì, như trong kinh Lăng Nghiêm phân biệt cảnh giới người tu được chút ít thần thông cho là mình chứng Thánh, “nhược tác Thánh giải tức thọ quần tà”. Chính những đệ tử này mới phá hoại chánh giáo. Phá hoại kiết tập là làm sai lạc những kinh luật luận đã được kiết tập.
Nhân duyên của mình là cảnh giới cảm giác nơi thân. Họ có trước tác chẳng ngoài thấy nghe hiểu biết, chẳng lấy làm tự tánh, liền bỏ đó đến chỗ hư huyền, y bên cạnh tự thông, thật đồng với ngoại đạo truyền bá hiện đời làm lầm lẫn đời sau. Tự đã chìm đắm cũng làm chìm đắm người. Luận thuyết vô cùng mê hoặc càng lắm, thật đáng đau buồn vậy.
Những đệ tử ác phá hoại chánh pháp, không nhận được tự tâm chân thật, chỉ căn cứ vào chỗ hiểu biết của riêng mình, cho đó là thật đúng. Truyền bá các luận thuyết tinh vi mầu nhiệm theo vọng tưởng của mình, làm lầm hiện đời cho đến đời sau.
H2/- Chỉ Như Lai theo chỗ tự thông nói
Khi ấy Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Nếu ngoại đạo thế luận các thứ cú vị nhân dụ trang nghiêm không có tự thông, từ việc chấp trước ấy. Thế Tôn cũng nói thế luận, vì các chúng nơi khác đi đến pháp hội, trời người A-tu-la, nói rộng vô lượng các thứ cú vị, cũng chẳng phải tự thông chăng? Cũng vào số trí tuệ ngôn thuyết của ngoại đạo chăng?
Ngài Đại Huệ đặt câu hỏi. Nói rằng thế luận có những cú vị nhân dụ trang nghiêm không có tự thông; đức Phật có khi gặp những hàng A-tu-la, trời, người đến, rồi Ngài cũng dùng bao nhiêu cú vị nhân dụ trang nghiêm, như vậy Ngài cũng không có tự thông chăng? Ngài cũng thuộc về trí tuệ ngôn thuyết của ngoại đạo chăng?
Phật bảo Đại Huệ: Ta chẳng nói thế luận, cũng không đến đi, chỉ nói chẳng đến chẳng đi. Đại Huệ! Đến là đến chỗ tụ hội sanh, đi là tan hoại. Chẳng đến chẳng đi là chẳng sanh chẳng diệt. Nghĩa ta nói ra chẳng rơi trong số vọng tưởng thế luận.
Phật trả lời Ngài không phải như ngoại đạo thế luận. Ngài chỉ nói các pháp chẳng đến chẳng đi. Đến là tụ hội là sanh, đi là diệt. Pháp Phật nói không rơi vào đối đãi sanh diệt, không nằm trong vọng tưởng.
Vì cớ sao? Nghĩa là chẳng chấp trước bên ngoài là có là không, chỗ tự tâm hiện ra, vọng tưởng hai bên trọn không thể chuyển. Tướng cảnh chẳng phải có, giác tự tâm hiện ra. Đã tự tâm hiện thì vọng tưởng chẳng sanh. Vọng tưởng chẳng sanh thì không, vô tướng, vô tác vào ba môn giải thoát, gọi là giải thoát.
Sao gọi là không rơi trong vọng tưởng? Phật luôn nhắc nhở chúng ta không chấp trước ngoại cảnh, luôn thấy các pháp do tự tâm hiện không thật có thật không, đó là không bị vọng tưởng chuyển, Nếu biết tất cả pháp bên ngoài không thật thì không đuổi theo dính mắc, tâm thanh tịnh rỗng rang, đó là không. Tâm rỗng rang không dính mắc hình tướng nên đó là vô tướng. Biết người và cảnh hư dối nên không mong mỏi, không tạo tác, đó là vô nguyện. Lời Phật dạy đưa chúng sanh đến ba môn giải thoát.
Thế Tôn cũng thường vì chúng phương khác đến hội và trời người bát bộ nói rộng bộ Bản sự, hoặc bộ Bản sanh, bộ Vị tằng hữu, đều nói rộng vô lượng nhân duyên cú vị, cho nên nghi Như Lai cũng nói thế luận. Chẳng biết Như Lai nói ra nhân duyên đều vì tự thông duyên khởi, hoặc tức thế đế nói đệ nhất nghĩa đế, mà người chẳng biết lầm là thế đế. Thế Tôn nơi đây trọn không nói rõ. Chỉ nói ta chẳng nói thế luận, cũng chẳng nói đã nói việc gì là chẳng phải thế luận.
Phật cũng nói các bộ kinh dùng nhiều nhân duyên ví dụ, nhưng đó là ngay trong thế đế để nói lên đệ nhất nghĩa đế, hướng từ chuyện đời để dần vào đạo lý. Phật chưa nói rõ những gì là chẳng phải thế luận. Phải ngầm hiểu thế luận hay không là do chúng ta. Nghe chánh pháp mà khởi vọng tưởng chấp trước, thì chánh pháp thành thế luận. Nghe chuyện thế gian mà tỉnh ngộ thì thế gian là Phật pháp.
Thế thì biết, Như Lai hiện tiền tất cả ngôn thuyết đều chẳng phải thế luận. Lại nói “ “cũng không đến đi”, bởi chúng ở phương khác đến hội dường như có đến đi. Như Lai thẳng nơi tự thông hiện lượng trong đệ nhất nghĩa thẳng bằng chỉ bày. Cho nên nói “chỉ nói chẳng đến chẳng di”, thì biết tất cả chúng sanh chẳng đạt được cảnh giới hiện tiền, đối tự tâm hiện lượng sanh vọng tưởng chấp trước, cho là thật có đến đi. Cho nên lại bảo rằng “đến là đến chỗ tụ hội sanh, đi là tan hoại, đây là sanh diệt; chẳng đến chẳng đi ấy là chẳng sanh diệt; để rõ nghĩa ta đã nói chẳng rơi vào trong số vọng tưởng thế đế”.
Chúng hội từ phương khác đến nghe pháp, đó là đến; nghe xong trở về chỗ kia, đó là đi. Thấy có từ cõi xa đến cõi này là thấy có cảnh thật, thấy có người đến đi là thấy có người thật. Thấy cảnh thật, thấy người thật là thấy sanh diệt. Phật dạy, cảnh không thật người không thật, lấy gì gọi là đến, lấy gì gọi là đi? Không thấy đến đi sanh diệt thật, tự nhiên tâm mình được giải thoát, nên nói rằng ra khỏi vọng tưởng.
Như Lai tự thông trụ tự tâm hiện lượng thấy tất cả ngoại tánh phi tánh, chẳng phải cảnh giới có không hai bên mà hay xoay chuyển. Ở trong nhân thiên theo cảnh giới mình nói có ba đời. Người ta bảo Như Lai nói ba đời, mà thật Như Lai không có ba đời. Nói có tam thừa nhân thiên, người ta bảo Như Lai nói tam thừa nhận thiên, mà thật Như Lai không có tam thừa nhân thiên. Theo chỗ điên đảo của thế gian nói có ba đời, nói có tam thừa nhận thiên, vì muốn chúng sanh đạt tự tông thông, được cảnh giới chính mình của Như Lai, chẳng do ngôn thuyết. Cho nên lại đinh ninh bảo rằng: “Giác tự tâm hiện thì đối cảnh tự tâm hiện ra vọng tưởng chẳng sanh. Vọng tưởng chẳng sanh là không, vô tướng, vô tác vào ba môn giải thoát, gọi là giải thoát.” Ba môn giải thoát này đối với giác tự tâm lượng tam muội sẵn có rất là tương ưng. Ấy là lý do Như Lai đôi ba lần nêu ra chỉ dạy.
Người ta bảo Như Lai nói ba đời, như trong Bổn sanh Bổn sự, nói việc quá khứ, rồi thọ ký cho các Bồ-tát đời vị lai thành Phật, Phật cũng nói có quá khứ vị lai. Những kinh Kim Cang dạy “quá khứ bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, vị lai bất khả đắc”. Phật nói ba đời để dẫn dụ chúng sanh, không phải khẳng định thật có ba đời. Như vậy, tùy theo nhận định của chúng sanh, Phật nói có ba đời, có tam thừa hay ngũ thừa, chủ yếu muốn hướng dẫn chúng sanh đến cảnh giới Thánh trí tự giác. Cảnh giới đó lìa ngôn thuyết lìa ý niệm nên rốt ráo Phật căn dặn Giác tự tâm hiện thì vọng tưởng chẳng sanh. Giác ngộ tự tâm thì tất cả cảnh giới, tất cả ngôn thuyết Phật dạy cũng đều không thật. Lời Phật dạy giúp chúng ta giải thoát, không phải như ngoại đạo lập luận đắm chìm trong sanh tử.
H3/- Nêu Như Lai chỉ luận
Đại Huệ! Ta nhớ một hôm dừng nghỉ một nơi, có Bà-la-môn thế luận đi đến chỗ ta, chẳng hỏi rảnh rang chăng, liền hỏi ta rằng: “Cù-đàm! Tất cả tạo ra chăng?” Ta đáp rằng; “Bà-la-môn! Tất cả tạo ra là thế luận thứ nhất,” Kia lại hỏi rằng: “Tất cả chẳng phải tạo ra chăng?” Ta lại đáp: “Tất cả chẳng phải tạo ra là thế luận thứ hai.” Kia lại hỏi ta: “Tất cả thường chăng? Tất cả vô thường chăng? Tất cả sanh chăng? Tất cả chẳng sanh chăng?” Ta đáp rằng: “Ấy là thế luận thứ sáu.” Đại Huệ! Kia lại hỏi ta rằng: “Tất cả là một chăng? Tất cả là khác chăng? Tất cả là đồng chăng? Tất cả là chẳng đồng chăng? Tất cả nhân các thứ thọ sanh hiện chăng?” Ta đáp rằng: “Ấy là thế luận thứ mười một.” Đại Huệ! Kia lại hỏi rằng: “Tất cả vô ký chăng? Tất cả ký chăng? Có ngã chăng? Không ngã chăng? Có đời này chăng? Không đời này chăng? Có đời khác chăng? Không đời khác chăng? Có giải thoát chăng? Không giải thoát chăng? Tất cả là sát-na chăng? Tất cả chẳng phải sát-na chăng? Hư không chăng? Phi số diệt chăng? Niết-bàn chăng? Cù-đàm! Tạo ư? Chẳng tạo ư? Có trung ấm ư? Không trung ấm ư?” Đại Huệ! Ta đáp rằng: “Bà-la-môn nói như thế ấy thảy đều là thế luận, chẳng phải chỗ ta nói, là thế luận của ông.
Đối với các câu hỏi của ngoại đạo Phật đều trả lời là thế luận. Tại sao? Vì các câu hỏi đó đều mang tính đối đãi, hoặc có hoặc không, bên này hay bên kia, không phải chỗ chân thật. Ngụ ý của Phật là nếu dừng hai bên, dừng các câu hỏi thế luận đó thì sẽ thấy chỗ thật. Tuy trả lời “thế luận” mà ngầm chỉ chỗ thật.
Ngoại đạo này từ trong thế luận khởi hỏi, Như Lai từ trong tự thông đệ nhất nghĩa chánh áp, chẳng phải loại bỏ ấy vậy. Tạo ra tức là nhân sanh. Chẳng phải tạo ra tức là vô nhân sanh. Tất cả thường, vô thường, sanh, chẳng sanh, một, khác, đồng v.v… đều thuộc về thế luận. Trong đệ nhất nghĩa tự thông không có, Như Lai bảo thể luận thứ nhất, thế luận thứ hai, đây cố chỉ thẳng không có che giấu. Ngoại đạo chẳng biết đặt nhiều câu hỏi, có thể nói trước mặt lầm qua vậy. Như Lai trước sau chỉ thẳng, bảo nói như thế ấy đều là thế luận, chẳng phải chỗ nói của ta, là thế luận của ông.
Ngoại đạo hỏi theo lý luận thế gian, Thế Tôn đáp thẳng theo đệ nhất nghĩa xuất thế, không phải là không trả lời. Lời đáp thế luận đó là muốn chỉ thẳng câu hỏi của ông thuộc về hai bên, là câu hỏi sai. Ý Phật rõ như vậy, ngoại đạo không biết cứ tiếp tục hỏi, nên gọi là trước mặt lầm qua.
Xưa Phạm chí hỏi Thế Tôn rằng: “Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời.” Thế Tôn im lặng tôi những giây lâu, Phạm chí nói: “Thế Tôn đại từ vạch mây mờ cho tôi, khiến tôi được vào.” Đây là ngựa hay thấy bóng roi vậy.
Phạm chí hỏi, Thế Tôn im lặng, Phạm chí khen ngợi Thế Tôn đại từ vạch mây mờ cho tôi. Bởi có lời không lời là hai bên, chẳng hỏi có lời chẳng hỏi không lời, đó chính là chỗ vào, ông đã vào đạo rồi. Ngựa hay thấy bóng roi, con ngựa thông minh không cần đánh, chỉ giơ cây roi là nó chạy liền. Để ví cho sự nhạy bén thấy đạo của Phạm chí, nhận được chỗ im lặng của Phật.
Như Lai chúng ta thường nói: “Chỉ kỷ luận, ta thường thường nói.” Cho nên biết, gặp được căn cơ là khó. Bà-la-môn phát xuất từ Ngũ Thiên Trúc, tự xưng thủy tổ họ từ miệng Phạm thiên sanh, liền lập họ Phạm nên gọi là Phạm chí. Dòng họ này kiêu căng, nhiều tranh luận, hoặc xuất gia, hoặc tại gia, thành thừa kế nhau, có nhiều kinh luận. Chẳng hỏi rảnh rang chăng, ấy cũng là manh mối kiêu căng. Theo lễ phép ở Ấn-độ, có thưa hỏi điều gì trước bạch cho phép, là hỏi “rảnh rang chăng”. Sát-na là sanh diệt rất vi tế. Hư không, Niết-bàn, phi trạch diệt, đây là ba pháp vô vi, trong chánh pháp có. Tạo, chẳng phải tạo là hỏi ba pháp vô vi là tạo tác hay chẳng phải tạo tác.
Ta chỉ nói hư ngụy vọng tưởng tập khí các thứ ác từ vô thỉ là nhân của ba cõi. Không thể giác biết tự tâm hiện lượng mà sanh vọng tưởng, phan duyên pháp bên ngoài, như pháp ngoại đạo. Hỏi ta câu nghĩa các căn ba thứ hòa hợp thức sanh, ta chẳng như thế.
Trở lại câu trả lời của Phật đối với ngoại đạo thế luận. Những câu hỏi của ngoại đạo đều là hý luận. Phật chỉ nói nguyên nhân của ba cõi là vọng tưởng hư ngụy, không thật có, chỉ vì không nhận được tâm hiện lượng, sanh ra vọng tưởng phan duyên, vin theo nắm bắt các pháp bên ngoài, chạy theo pháp bên ngoài hoặc có hoặc không… đó là pháp ngoại đạo. Các câu hỏi về căn trần thức ba thứ đó không thật, họp chung lại cũng không thật. Do đó Phật không chấp nhận.
Bà-la-môn! Ta chẳng nói nhân, chẳng nói vô nhân, chỉ nói vọng tưởng tánh năng nhiếp sở nhiếp lập bày duyên khởi. Chẳng phải ông và các người rơi vào thọ ngã tương tục mà hay hiểu được. Đại Huệ! Niết-bàn, hư không, diệt chẳng phải có ba thứ, chỉ có số ba mà thôi.
Hư không, Niết-bàn, trạch diệt hay phi trạch diệt là ba pháp vô vi. Tuy ba tên nhưng thật không có ba thứ. Vì hư không, Niết-bàn, trạch diệt không có hình tướng, không thể xác định pháp này là một, là hai, ba. Ví dụ rất gần, như tất cả quý vị ngồi đây đều nhìn thấy tôi. Tánh thấy không hình tướng, không thể nói đây là cái thấy của người này, cái thấy của người kia, cũng không thể đếm có bao nhiêu cái thấy trong phòng này. Vì lẽ đó nên nói chỉ có số ba tượng trưng.
Mê Như Lai tàng mà làm vô minh, bất giác vọng động. Đây là hư ngụy tập khí từ vô thỉ vậy. Tất cả thế gian căn thân khí giới đều lấy hư ngụy làm nhân. Nhân cái hư ngụy này không thể hiểu biết tự tâm hiện ra. Vọng sanh chấp trước, chấp nhận pháp bên ngoài, mà ngoại đạo lầm là căn, trần, thức ba thứ hòa hợp sanh khởi. Ngoại đạo không biết hiện tiền căn trần thức, vì mê tự tâm nên nội thức biến dường như có, rồi vọng chấp thật có. Muôn pháp theo đó mà sanh liền thành Nhân luận. Quán kỹ sự sanh diệt, hiểu biết nhân ấy hết, lại chấp vô nhân.
Ngoại đạo lập luận các pháp có nhân hay không nhân, đều do chấp lầm căn trần thức hòa hợp sanh khởi. Không biết các pháp do mê tự tâm nên nội thức biến dường như có, nhân đó chấp các pháp thật có. Vì thấy có thật nguyên nhân sanh khởi, nên làm Nhân luận. Thấy thật có chấm dứt, làm luận vô nhân. Tất cả lý luận đều đối đãi hư ngụy.
Đây chẳng phải Như Lai nói. Như Lai chỉ nói hư ngụy tập khí vọng chấp năng sở, giả danh lập bày. Cho nên nói: “Chẳng phải ông và các người rơi vào thọ ngã tương tục mà hay hiểu được.” Ngã tương tục chỉ cho Nhị thừa. Nhị thừa chấp pháp ngã chưa hết nên chưa biết tướng ban đầu của vô minh phát nghiệp, càng thấy rõ ba pháp vô vi không có tự tánh. Vả lại chẳng phải cảnh giới của người còn pháp chấp, huống là ngoại đạo.
Những lập luận có nhân sanh hay vô nhân sanh đều không được Phật chấp nhận. Phật chỉ nói do tập khí hư ngụy giả lập bày, không thật. Ngay cả hàng Nhị thừa pháp ngã chưa dứt, cũng không biết tướng ban đầu của vô mính, chưa thấu đạt tự tâm hiện lượng, ngoại đạo càng cách xa tri giác nội tâm.
Lại nữa, Đại Huệ! Khi ấy Bà-la-môn thế luận hỏi ta: “Vì nghiệp nhân si ái có ba cõi chăng? Vì vô nhân chăng?” Ta đáp rằng: “Hai cái ấy cũng là thế luận.” Kia lại hỏi rằng: “Tất cả tính đều vào tự cộng tướng chăng?” Ta lại đáp; “Đây cũng là thế luận. Bà-la-môn! Cho đến ý chạy vọng chấp ngoại trần đều là thế luận.”
Đây là câu chỉ thẳng: Ý chạy vọng chấp ngoại trần đều là thế luận, tức là ý trôi nổi đuổi theo ngoại cảnh, vọng chấp ngoại cảnh, đều là thế luận.
Lại nữa Đại Huệ! Khi ấy Bà-la-môn thế luận lại hỏi ta: “Vả lại có chẳng phải thế luận chăng? Tôi là chủ tất cả ngoại đạo nói các thứ cú vị nhân duyên ví dụ trang nghiêm.” Ta liền đáp: “Bà-la-môn! Có. Mà chẳng phải ông có, chẳng phải làm, chẳng phải tông, chẳng phải thuyết, chẳng phải chẳng nói các thứ cú vị, chẳng phải chẳng nhân thí trang nghiêm.” Bà-la-môn hỏi: “Những gì là chẳng phải thế luận? Chẳng phải chẳng tông? Chẳng phải chẳng thuyết?” Ta đáp rằng: “Bà-la-môn! Có cái chẳng phải thế luận, là chỗ ông và các ngoại đạo không thể biết. Bởi vì ngoại tánh chẳng thật vọng tưởng hư ngụy chấp trước.
Ngoại đạo hỏi có pháp nào chẳng phải thế luận, rồi tự khoe mình là chủ của tất cả ngoại đạo, rất giỏi về ngôn từ lý luận. Phật đáp có pháp chẳng phải thế luận, nhưng chẳng phải do tạo tác, không thể luận thuyết, không thể lập tông. Đó là Phật phủ nhận, nhưng Ngài xác nhận vẫn có ngôn từ, có ví dụ, có tánh cách văn chương,
Pháp chẳng phải thế luận là pháp chân thật, không phải chỗ hiểu biết của ngoại đạo. Vì đối với các pháp chẳng thật do sự chấp trước của vọng tưởng, ngoại đạo lại cho là thật, vì thế rơi vào kiến chấp có không, luôn luôn ở trong vọng tưởng làm sao biết được chân thật.
Nghĩa là vọng tưởng chẳng sanh thì giác liễu có không, tự tâm hiện lượng nên vọng tưởng chẳng sanh, chẳng nhận ngoại trần thì vọng tưởng hằng dứt, ấy gọi là chẳng phải thế luận.
Phật định nghĩa rất rõ về pháp không phải thế luận. Nghĩa là vọng tưởng chẳng sanh, giác liễu có không, tự tâm hiện lượng, tức là biết rõ các pháp có không, đều từ tâm hiện lượng. Thấy như thật thì không khởi vọng tưởng, vọng tưởng không khởi nên không chấp nhận ngoại trần. Chỗ vọng tưởng dứt tức là chẳng phải thế luận. Nói đơn giản là: Tất cả pháp đều do bất giác mê Như Lai tàng nên các pháp theo vọng tưởng hiện, biết các pháp không thật thì tâm thanh tịnh không bị dính mắc. Tâm thanh tịnh tức là chẳng phải thế luận, là chỗ tự tông thông của Phật.
Đây là pháp của ta, chẳng phải nơi ông có. Bà-la-môn! Lược nói thức kia, hoặc đến, hoặc đi, hoặc sanh, hoặc tử, khổ vui chìm hiện xúc trước các thứ tướng. Hoặc hòa hợp tương tục, hoặc ái, hoặc nhân chấp trước. Bà-la-môn các loại như thế là thế luận của các ông, chẳng phải ta có.” Đại Huệ! Bà-la-môn thế luận hỏi như thế, ta đáp như thế, kia liền lặng thinh chẳng từ mà lui đi. Kia suy xét chỗ tự thông, khởi nghĩ thế này: Sa-môn Thích tử ra ngoài thông thường nói vô sanh, vô tướng, vô nhân, giác tự vọng tưởng hiện tướng thì vọng tưởng chẳng sanh.
Phật lặp lại Thế luận của Bà-la-môn là vọng thức phân biệt thấy có đến đi, sanh tử.. Tóm lại có chấp trước là có Thế luận.
Bà-la-môn chẳng từ giã Phật lui ra. Ông cho rằng Phật nói những điều ra ngoài thường tình. Nói vọng tưởng chẳng sanh là khác với thế nhân thường tình, đó là điều ngoại đạo không thể hiểu.
Thế Tôn lại đáp thảy không ngoài hai chữ thế luận. Sau lại kèm nói cho đến ý thức vừa động thầm dính ngoại trần đều là thế luận. Tức một câu này có thể gọi vì nhau triệt để vậy.
Ý thức vừa động thầm dính ngoại trần, đó là Phật đã hết lòng với ngoại đạo, không còn giấu giếm. Như vậy ngược với câu này, ý dứt vọng tưởng không dính sáu trần, chính là tông thông.
Có chẳng phải thế luận mà chẳng phải ông biết, đây cũng là ý xa lìa khủng bố. Vừa nói chẳng phải làm chẳng phải thuyết, liền nói chẳng phải chẳng nói các thứ cú vị, chẳng phải chẳng nhân thí trang nghiêm. Đoạt chỗ chấp kia, mà cũng chẳng lìa chỗ chấp, riêng có đường khác. Nên nói chẳng phải tức chẳng phải ly, chỉ phải tự giác.
Ngoại đạo quen theo thế luận, nên nói có chẳng phải thế luận mà ông không thể biết, đó là câu nói nhẹ nhàng để ngoại đạo không sợ hãi. Vừa phủ nhận chẳng có tạo tác, lại nói có các cú vị, có nhân duyên ví dụ rành rõ, nghĩa là vẫn đề cao chánh pháp có ngôn từ trang nghiêm. Chỗ đó không thể nói tức hay ly, nghĩa là không phải thể luận cũng không lìa thế luận, chỉ khéo giác ngộ là thấy được.
Chẳng giác ngoại tánh chẳng thật đều do hư ngụy thì vọng tưởng sanh khởi. Giác các pháp có không thảy từ tự tâm, chẳng nhận duyên ngoài thì vọng tưởng hằng dứt. Cũng chỉ đến chỗ bất giác hằng ngày của ngoại đạo, khiến tự giác đó. Trước sau Chỉ ký luận, kia tự không thương tích chớ làm cho họ có thương tích.
Chỗ bất giác hằng ngày của ngoại đạo, là thấy các pháp thật có thật không. Ngay đó chỉ cho họ biết các pháp không thật là ngay bất giác được tự giác. Trước sau đức Phật áp dụng Chỉ ký luận, nghĩa là không nói, không làm ngoại đạo tổn thương hay lầm chấp thêm.
Đối với các vấn đề đặc biệt cao siêu vượt ngoài ngôn ngữ, nếu chúng ta càng giải thích càng sai lạc, càng làm tăng vọng tưởng. Người hỏi chỉ vọng tưởng trong một vấn đề, chúng ta giải thích dài dòng khiến họ loạn tưởng, đó là làm cho có thương tích. Vì thế đặc biệt nêu Chỉ luận.
Lại chính chỗ chấp vọng thức của ngoại đạo, rốt sau bảo đó rằng: Hoặc đến, hoặc đi, hoặc tử, hoặc sanh, khổ vui chìm hiện xúc trước các thứ tướng, hoặc hòa hợp tương tục, hoặc ái, hoặc nhân chấp trước, các loại như thế đều là thế luận của ông. Thật là lật ngược toàn bộ, giết tột sống tột, mà bên lui đi tự nghĩ rằng: Sa-môn Thích tử ra ngoài thông thường, nói vô sanh vô tướng vô nhân, giác tự vọng tưởng hiện tướng thì vọng tưởng chẳng sanh.
Ngay chỗ chấp của ngoại đạo mà bảo rằng tất cả là thế luận, chính là phá đổ tất cả vọng thức kiến chấp của họ. Giết tột sống tột, là giết hết vọng tưởng điên đảo mới được sống với thể chân thật. Đây là Phật dùng thuật rất mạnh để chỉ chỗ tột cùng mà ngoại đạo không biết.
Ngoại đạo thuật lời này là chê ngược lại. Hãy bảo y hay nhận hết lời nói Như Lai chăng? Hay không tột lời nói Như Lai? Nếu cho là chẳng tột thì lời vẫn rõ ràng. Nếu cho là tột thì Như Lai tự thông chỉ là như thế. Nên nói mật chỉ từ trước đâu những mấy lời mà Bà-la-môn soi thấu.
Ngoại đạo lặp lại lời của Phật như vậy là hiểu hay không hiểu ý Phật? Nếu thấu suốt rõ thì biết được tự tông, nếu nói Phật có mật chỉ thì đối với Bà-la-môn thứ hai, Phật không nói gì mà vẫn nhận được ý chỉ.
H4/- Chỉ thế luận chấp nhận tham dục, chẳng nhận chánh pháp
Đại Huệ! Đây tức là chỗ ông hỏi ta “cớ sao nói gần gũi thế luận các thứ biện thuyết, chấp nhận tham dục, chẳng chấp nhận pháp”. Đại Huệ bạch Phật: Thế Tôn! Chấp nhận tham dục và pháp có cú nghĩa gì? Phật bảo Đại Huệ: Lành thay, lành thay! Ông mới hay vì chúng sanh đời sau suy nghĩ thưa hỏi củ nghĩa như thế, Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, ta sẽ vì ông nói. Đại Huệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo. Phật bảo Đại Huệ; Nói là tham đó, hoặc lấy, hoặc bỏ, hoặc xúc, hoặc vị bám chặt ngoại trần rơi vào cái thấy hai bên. Lại sanh khổ ấm sanh già bệnh chết lo buồn khổ não. Các hoạn như thế đều từ ái mà khởi. Đây do gần gũi thế luận và người thế luận. Ta và chư Phật nói tên là tham, ấy gọi là chấp nhận tham dục, chẳng chấp nhận pháp.
Phật nói tham là lấy hoặc bỏ. Thông thường tham là cái gì cũng muốn đem về mình, tại sao bỏ cũng gọi là tham? Cái mình ưa thích thì muốn được, đối với vật hoặc người mình không ưa thích cũng muốn bỏ liền, ghét người nào không muốn thấy mặt người đó, còn có ý muốn nên gọi là tham. Nên nói tham là lấy hoặc bỏ. Hoặc xúc, hoặc vị bám chặt ngoại trần, đối với sáu trần theo đuổi dính mắc không rời, đó là tham. Thấy có hai bên hay dở tốt xấu.. đều là phân biệt ngoại trần, đều do tham ái khởi. Cho đến các khổ sanh già bệnh chết… cũng do tham ái gây ra.
Các hoạn như thế đều từ ái mà khởi, tất cả những khổ đau đó gốc từ ái, không phải bỗng dưng mà có. Đây do gần gũi thế luận và người thế luận, sở dĩ có tham ái là vì gần gũi thế luận. Thế luận là luận của thế gian, luận về hai bên. Người của thế luận là người của hai bên, chê cái xấu, khen cái tốt, sợ chê, thích khen… Theo thói quen chọn lựa lấy bỏ đã là tập khí sâu nặng, lại gần gũi thế luận là củng cố thêm lầm chấp không buông. Từ mê lầm đó dẫn đi trong luân hồi không ngừng, vì thế chư Phật quở trách, ấy gọi là chấp nhận tham dục, chẳng chấp nhận pháp.
Pháp tham dục chỉ là hai tâm lấy bỏ, tóm hết cảnh giới thân cảm giác. Tột cảnh giới cảm giác của thân, hoặc pháp tướng hiện tại, hoặc ảnh hiện ý pháp hư duyên. Tất cả lông rùa sừng thỏ, là tình là lý, thảy đều gọi là trần cảnh.
Tất cả cảm giác của chúng ta như mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên pháp, sáu xúc chạm theo sáu trần cảnh sanh ra ưa ghét. Nặng nhất là ý duyên theo pháp trần. Pháp trần chỉ là bóng duyên ảnh không thật nên gọi là hư duyên, như lông rùa sừng thỏ. Chúng ta phần nhiều tu hành bị chướng ngại là do ý đuổi theo pháp trần, nó chỉ là bóng ảnh của năm trần nhưng chi phối rất mạnh. Tất cả tập khí không buông bỏ được chỉ vì sự ghi nhớ của ý thức.
Theo trần cảnh này hoặc lấy hoặc bỏ thảy rơi vào kiến phần tướng phần có không. Tất cả nhóm khổ thành tựu do tham ái. Ái, hữu làm nhân, sanh tử làm quả. Đây là lý do không nên gần gũi thế luận.
Khi chúng ta chấp nhận gần gũi thế luận, ưa thích ngôn từ trau chuốt, cũng chính là ưa thích tham ái, từ đó Tất cả nhóm khổ thành tựu. Vì thế không nên gần gũi thế luận.
H5/- Chỉ chấp nhận chánh pháp, xa lìa thế luận
Đại Huệ! Thế nào là chấp nhận pháp? Nghĩa là khéo hiểu biết tự tâm hiện lượng, thấy tướng nhân vô ngã và pháp vô ngã, vọng tưởng chẳng sanh. Khéo biết tiến lên địa trên, lìa tâm, ý, ý thức, được tất cả chư Phật dùng trí tuệ quán đảnh, chấp nhận đầy đủ mười câu vô tận, đối tất cả pháp không khai phát tự tại, ấy gọi là pháp. Nên nói chẳng rơi vào tất cả kiến chấp, tất cả hư ngụy, tất cả vọng tưởng, tất cả tánh, tất cả hai bên.
Ngược lại, nếu chúng ta gần gũi chánh pháp là xa lìa thế luận, cũng là xa lìa nguyên nhân khổ. Chấp nhận pháp là khéo hiểu biết tự tâm hiện lượng, tâm thể thanh tịnh của chính mình đang hiện có ở đây. Tâm thanh tịnh nên thấy được nhân vô ngã, pháp vô ngã. Chỗ này rất rõ ràng, khi tâm tỉnh giác thanh tịnh mới thấu suốt thân ta và ngoại cảnh đều duyên hợp không có thực thể. Theo thứ lớp sẽ tu tiến từ Sơ địa lên tất cả địa, mỗi lần tiến lên là mỗi lần lìa bỏ tập khí vọng tưởng, hơi hám hư vọng của tâm, ý, ý thức. Đầy đủ công hạnh, được làm phép quán đảnh, phát nguyện mười câu vô tận, tức là nguyện rộng lớn đồng pháp giới. Đối tất cả pháp không khai phát tự tại, nghĩa là đối với các pháp không có tâm phân chia vạch bày, không vướng mắc nên được tự tại. Nhờ sức của chánh pháp nên không rơi vào kiến chấp nhị biên, tà kiến, ác kiến.
Đại Huệ! Phần nhiều người si ngoại đạo rơi ở hai bên, hoặc thường hoặc đoạn. Chẳng phải trí tuệ thì nhận vô nhân luận liền khởi thường kiến, ngoại nhân, hoại nhân duyên phi tánh thì khởi đoạn kiến.
Phần lớn phàm phu ngu si và ngoại đạo đều rơi vào kiến chấp hai bên, hoặc thường kiến hoặc đoạn kiến. Không có trí tuệ thì chấp nhận vô nhân luận, như ngày xưa nghe nói thế giới do ông trời tạo. Sự vật không có nguyên nhân tạo mà chấp có tạo hóa là chấp vô nhân, cho tạo hóa là thường còn nên chấp vô nhân rơi vào thường kiến. Ngoại nhân hoại, nhân duyên phi tánh, thấy sự vật bên ngoài hoại diệt, không có nhân duyên tiếp tục, thì rơi vào đoạn kiến.
Đại Huệ! Ta chẳng thấy sanh trụ diệt, nói tên là Pháp. Đại Huệ! Ấy gọi là tham dục và pháp, ông cùng các đại Bồ-tát khác nên phải tu học.
Phật dạy nên chấp nhận pháp, chính là pháp ngoài sanh trụ diệt. Pháp này không có tạo tác, không rơi vào hai bên, hằng thường trụ mà xa lìa vọng tưởng. Đó là chỗ các Bồ-tát nên tu học.
Tự tâm hiện lượng không có tự tha, phàm có chỗ thấy đều là hư vọng. Đối chỗ này biết sâu tin sâu thì nhân pháp hai ngã liền đó và dinh tiêu sạch. Tất cả thời tất cả chỗ chẳng nhận có tánh thì giác tưởng hoàn toàn sạch, soi sáng các địa, chẳng nhân tâm niệm, cùng trí tuệ chư Phật không có sai biệt, tự hay dùng mười câu vô tận, chẳng cần công dụng tự tại tăng thắng.
Tâm hiện lượng là tự tánh như như của chính mình, trong đó không có tự tha, do đó không chấp nhân ngã pháp ngã. Nếu tin sâu tâm mình thì hai chấp tiêu tan. Được đến chỗ này dù ở đâu, thời gian nào cũng thấy mọi sự mọi vật đều không thật, đó gọi là Tất cả thời tất cả chỗ chẳng nhận có tánh. Sạch hết vọng tưởng, mới thấy tâm mình và trí tuệ của Phật không hai. Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác nói: “Chư pháp thân Phật vào tánh ta. Tánh ta cùng với Như Lai hiệp.” Sống với tánh giác thì tự nhiên thực hiện nguyện lực vô tận, đạo lực tăng trưởng.
Lại nói chẳng rơi vào các kiến chấp hư ngụy có không tánh tướng ấy, bởi vì ngoại đạo rơi vào đây khởi chấp đoạn thường. Đây khác với tự thông thân giác thâm thiết rõ ràng. Bèn trân trọng nói “ta chẳng thấy sanh trụ diệt nói tên là pháp”. Như Lai vì chỉ cho người chỗ rành rõ tự sạch, toàn thể đại dụng, ý chỉ tinh vi vậy. Nhận vô nhân luận, tức chỉ ngoại đạo chỗ chấp sanh nhân mà khởi thường kiến. Bảo vô nhân ấy, nhân chẳng phải nhân kia, ấy là vô nhân. Giác sanh nhân hết, lại khởi đoạn kiến, Song nhân cùng vô nhân thầy thành đoạn diệt.
Giải thích rõ sự khác nhau giữa ngoại đạo thế luận và chánh pháp. Ngoại đạo không nhận được tự tâm hiện lượng nên rơi vào các kiến chấp đoạn thường. Vì chỗ thấy không thấu đáo dễ sanh chấp thiên lệch, đã chấp sai rồi thì lý luận hay giỏi đến đâu cũng ở ngoài chánh pháp.
H6/- Tổng tụng
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Tất cả thế gian luận
Ngoại đạo hư vọng nói
Vọng thấy tác, sở tác
Kia ắt không tự tông.
Tất cả luận của thế gian do ngoại đạo hư vọng nói không đúng lẽ thật, vì vọng thấy có năng tác sở tác. Những người như thế là không thông suốt tự tâm, dù đó là hàng trí thức văn chương biện biệt thông suốt.
Chỉ ta một tự tông
Lìa nơi tác sở tác
Vì các đệ tử nói
Xa lìa các thế luận.
Chỉ có đức Phật chỉ thẳng tự tâm, xa lìa năng tác và sở tác, Ngài dạy đệ tử nên xa lìa tất cả thế luận.
Tâm lượng không thể thấy
Chẳng quán sát hai tâm
Nhiếp sở nhiếp phi tánh
Đoạn thường hai đều lìa.
Tự tâm hiện lượng này không thể thấy, vì đó là tánh giác của chính mình. Nếu nói thấy tâm thì tâm là đối tượng bị thấy, vì thế nói chẳng quán sát hai tâm, tức là không có tâm năng quán và sở quán. Không thấy thật có năng nhiếp sở nhiếp thì lìa đoạn kiến và thường kiến.
Nhẫn đến tâm lưu chuyển
Thảy đều là thế luận
Vọng tưởng chẳng chuyển ấy
Người này thấy tự tâm.
Tâm còn lưu chuyển trôi nổi đều là thế luận, nói cách khác thế luận thường làm cho tâm chúng ta lăng xăng dao động, theo ngoại cảnh không dừng. Vọng tưởng chẳng chuyển ấy, tức là khi vọng tưởng lặng lẽ, không bị xoay chuyển, đó là người thấy tự tâm.
Đến đó là việc sanh
Đi đó việc chẳng hiện
Biết rành rõ đi đến
Vọng tưởng chẳng còn sanh.
Thông thường chúng ta cho rằng các pháp hợp lại là đến, là việc sanh, các pháp hoại tan đi là diệt, nên nói đi đó việc chẳng hiện. Biết rõ không có đi đến sanh diệt thì vọng tưởng chẳng sanh. Chúng ta thường thắc mắc mình sanh từ đâu đến, chết đi về đâu. Phật dạy sanh là do duyên hợp, tử là do duyên ly tán. Biết rõ lý này gọi là biết chỗ đi và chỗ đến, lúc đó không còn vọng tưởng nghi ngại, không còn lập thuyết, bàn bạc về sanh tử.
Hữu thường và vô thường
Sở tác không sở tác
Đời này đời khác thảy
Đây đều thế luận thông.
Hữu thường hay vô thường, năng tác hay sở tác, cho đến đời này đời khác… tất cả đều thuộc về thế luận. Vì đây là những vấn đề được giới học giả, những nhà nghiên cứu triết học, ngay cả hàng ngoại đạo nhập định sâu cũng quan tâm, cũng muốn biết thế giới là hữu thường hay vô thường.. Các luận thuyết của họ chỉ nhắm giải thích hiện tượng thế giới, mà không nhắm đến mục đích giải thoát.
Hai bài kệ đầu bảo ngoại đạo không có tự tông, đều do năng sở nhiếp thọ bèn bị vọng tưởng lưu chuyển. Như Lai tự tông cùng ngoại đạo khác, cũng chỉ xa lìa năng sở lại không có ý chỉ riêng. Bài kệ thứ ba thứ tư là chỉ người khi xa lìa năng sở, thì mặc nhiên tự khế hợp, chẳng khởi tướng kiến. Nên nói “tất cả thanhnhi không có chân, chẳng do thấy nơi chân, nếu anhdng, thấy nơi chân ấy, thấy ấy trọn chẳng chân”. Để urlon Kinh Lăng Nghiêm nói: “Chẳng thủ không phi rinh còn huyễn, phi huyễn còn chẳng sanh, huyễn pháp từ đâu lập?”
Tự tông của Phật khác với tri kiến của ngoại đạo nhưng không có ý chỉ khác, nghĩa là cùng trên các pháp mà chỉ dạy xa lìa năng sở, không thiết lập tri kiến, đó là tự tông thông của Phật.
Dẫn một đoạn kinh khác, ý nói nếu cho rằng mình thấy được chỗ chân thật, thì cái thấy đó không phải chân. Các ngoại đạo, mỗi triết gia học phái đều tự nhận cái thấy của mình là chân thật, nên ở đây bác bỏ. Giải thích sâu xa hơn, ở đây nói nếu thấy nơi chân ấy, thấy ấy trọn chẳng chân. Ai cũng muốn thấy chân tâm, nhưng nếu nói là thấy chân tâm thì chân tâm trở thành đối tượng bị thấy, là cái ở bên ngoài. Tâm chân thật của chúng ta trùm khắp, lìa năng sở, không phải là vật có thể thấy, nên nói thấy chân là không đúng. Dẫn thêm một đoạn trong kinh Lăng Nghiêm nói khi không chấp trước thì không có phi huyễn, phi huyễn đã không sanh thì pháp huyễn không do đâu mà lập. Như vậy hai đoạn kinh nói không thật có chân hay có huyễn, nếu lý luận để lập chân lập huyễn đều là hý luận chấp trước.
Tức là tâm lượng không thể thấy này, tự biết tự tin chẳng nên lại khởi quán sát thì một lúc các kiến chấp có không năng sở đoạn thường thảy đều không còn. Nếu đến mé này vừa dính niệm vi tế liền bị lưu chuyển, trở thành thế luận. Cho nên nói “vọng tưởng chẳng chuyển ấy, người này thấy tự tâm” có thể nói đinh ninh răn nhắc vậy.
Đối với tự tâm hiện lượng, chỉ có tự chứng biết, không thể khởi quán sát lập thành năng sở. Nếu đến mé này tức là chỗ tâm lượng không sanh diệt, vừa dấy lên một niệm vi tế liền bị lưu chuyển thành thế luận.
Hai bài kệ chót lại chỉ cho người chính nơi sự vật hằng ngày tất cả tướng đi đến rỗng sáng rõ ràng, đến không từ đâu, đi không chỗ đến, như mây như điện, như bóng như vang. Người Chánh giác được tự tâm hiện lượng này thì mình người chẳng cách, xưa nay đồng xem. Chẳng như các thứ kiến giác thế luận là hữu thường vô thường, sở tác vô tác, đời này đời khác vậy.
Người giác ngộ tự tâm hiện lượng mới thấy giữa mình và người không cách biệt. Ví dụ tánh thấy tánh nghe, mỗi người đều sẵn đủ giống nhau. Trong lớp học này, mỗi người nhìn lên đây đều thấy tôi, thấy cái bàn, thấy bình hoa… Ai cũng thấy, không ai không thấy. Ngay khi thấy không khởi niệm khen chê tốt xấu, đó là tự tâm hiện lượng. Sống được với chỗ này thì ngay nơi sự vật hàng ngày mà rỗng rang vắng lặng, chẳng còn chỗ nào để chấp hai bên, để lập bày thế luận.
Có ba:
Khi ấy, Bồ-tát Đại Huệ lại bạch Phật: Thế Tôn! Nói là Niết-bàn, những pháp gì gọi là Niết-bàn, mà các ngoại đạo mỗi phái khởi vọng tưởng? Phật bảo Đại Huệ: Lắng nghe, lắng nghe! Khéo suy nghĩ đó, ta sẽ vì ông nói. Như các ngoại đạo vọng tưởng Niết-bàn, chẳng phải vọng tưởng kia tùy thuận Niết-bàn. Đại Huệ bạch Phật: Xin vâng thọ giáo.
Bồ-tát Đại Huệ hỏi những pháp gì gọi là Niết-bàn, vì các ngoại đạo mỗi nhóm đều tự cho rằng mình được Niết-bàn, nên không biết Niết-bàn thật sự như thế nào. Phật xác nhận ngoại đạo vọng tưởng về Niết-bàn, không phải họ tùy thuận Niết-bàn, nghĩa là họ không đạt được bất sanh bất diệt.
Phật bảo Đại Huệ: Hoặc có ngoại đạo ấm, giới, nhập diệt, cảnh giới lìa dục, thấy pháp vô thường, các loại tâm tâm sở chẳng sanh, chẳng nghĩ cảnh giới quá khứ vị lai hiện tại, các thọ ấm hết, như ngọn đèn tắt, như hạt giống hư, vọng tưởng chẳng sanh, nơi những cái này khởi tưởng Niết-bàn. Đại Huệ! Chẳng phải do kiến hoại gọi là Niết-bàn.
Đức Phật nói về ngoại đạo nhưng cũng nằm trong Phật pháp. Hàng Nhị thừa quán thân năm ấm, mười tám giới, mười hai nhập diệt tận, không còn tham luyến dục lạc, thấy các pháp vô thường, thấy các loại tâm vương tâm sở không sanh, không khởi nghĩ về cảnh giới quá khứ, hiện tại, vị lai. Khi đó thọ ấm hết, giống như ngọn đèn tắt, như hạt giống hư, ngang đó chẳng sanh vọng tưởng, lầm tưởng là Niết-bàn. Đây là Niết-bàn của hàng Nhị thừa, chưa phải thật Niết-bàn, nên Phật bảo chẳng phải do kiến hoại gọi là Niết–bàn.
Trước nói về chấp nhận pháp, đây thì y chánh nhân biện chánh quả, Ban đầu nói “như các ngoại đạo vọng tưởng Niết-bàn”, Lại nói “chẳng phải vọng tưởng kia tùy thuận Niết-bàn”, vọng tưởng, tùy thuận là chánh rành rõ.
Vọng tưởng khác, tùy thuận Niết-bàn khác. Khi tu thấy vọng tưởng không theo, đó là vọng tưởng hay tùy thuận? Thấy vọng mà theo là vọng tưởng, thấy vọng không theo là trở về tự tánh thanh tịnh, gọi là tùy thuận Niết-bàn. Vì thế vọng tưởng và tùy thuận, một chánh một tà rõ ràng. Khởi vọng tưởng là tà, biết tùy thuận Niết-bàn không theo vọng tưởng là chánh.
Sau bày các thứ chẳng ngoài vọng tưởng. Rốt chỉ ra chánh pháp, chính rõ tùy thuận. Nói là Điện tùy thuận tức là tùy thuận tự tánh. Xưa nay tự tánh thanh tịnh mà do khách nhiễm che ngăn, nên chẳng hiển lộ.
Tùy thuận nghĩa là trở về tự tánh thanh tịnh. Tánh giác của chúng ta không sanh diệt không nhiễm ô, chỉ vì khách trần phiền não ngăn che nên không hiển lộ. Như khi thấy sắc nghe tiếng chúng ta khởi vọng tưởng phân biệt, đó là khách trần ngăn che. Nếu khi thấy khi nghe chỉ biết thấy nghe, không khởi niệm, đó là tự tánh thanh tịnh hiển lộ.
Nếu giác tự tâm hiện lượng thì chân Thánh đạo sanh, dứt che được hiển lộ gọi là Niết-bàn. Nên nói tùy thuận chân như, do lìa chướng mà lập bày. Cảnh giới ấm, giới, nhập diệt lìa dục đó, nghĩa là kia quán sát pháp ấm giới nhập cứu kính vô thường, chẳng tham cảnh giới. Đã chẳng tham cảnh giới thì pháp tâm tâm sở chẳng hiện ở trước, cho nên cũng không có niệm ba đời khứ lai. Như ngọn đèn tắt, hạt giống hư tức là dụ cho cảnh giới diệt thọ. Loại vọng chấp này chỉ là tưởng hoại, chẳng phải kiến hoại.
Niết-bàn chính là chân Thánh đạo hay chân như. Khi chúng ta không bị khách trần làm ô nhiễm, không bị các ngoại cảnh làm chướng, đó là tùy thuận chân như hay tùy thuận Niết-bàn. Nhị thừa và ngoại đạo quán ấm, giới, nhập, vô thường nên không tham đắm, tâm vương tâm sở ngừng hoạt động. Chỗ tâm ngừng lặng như cây khô, thọ và tưởng diệt hết, tưởng chứng Niết-bàn. Thật ra đó chỉ là đè nén vọng tưởng nên gọi là tưởng hoại, chẳng phải kiến hoại. Nghĩa là vẫn còn kiến phần của A-lại-da, kiến chấp về pháp chưa dứt. Nhị thừa được diệt tận định tưởng là Niết-bàn.
Kiến hoại là giác tự tâm hiện lượng rõ biết pháp ấm, giới, nhập do mê tự tâm vọng hiện cảnh giới, vốn không có sanh, cũng không chỗ diệt. Kiến chấp sanh diệt lìa, vọng tưởng chóng dứt, tự tánh Niết-bàn, chẳng phải quán pháp vô thường tuy diệt tưởng thọ, vọng chấp là Niết-bàn.
Như vậy do quán pháp vô thường nhập diệt thọ tưởng định tưởng là Niết-bàn, vẫn chưa phải cứu cánh. Niết-bàn tự tánh là giác tự tâm hiện lượng, biết rõ ấm giới nhập và các pháp bên ngoài vốn không sanh diệt, kiến chấp sanh diệt lìa, chấm dứt vọng tưởng về Niết-bàn và sanh tử, đó mới thật là Niết-bàn.
Đại Huệ! Hoặc do từ phương đến phương gọi là giải thoát, cảnh giới tưởng diệt vẫn như gió dừng, hoặc do năng giác sở giác thấy hoại gọi là giải thoát, hoặc thấy thường vô thường khởi tưởng giải thoát, hoặc thấy các thứ tướng tưởng chiêu cảm nhân sanh khổ, suy nghĩ việc ấy rồi, chẳng khéo giác biết tự tâm hiện lượng kinh sợ nơi tướng, mà thấy vô tướng, sanh rất yêu thích khởi tưởng Niết-bàn.
Đây là giải thích Niết-bàn của ngoại đạo.
“Từ phương đến phương”, theo cổ chú dẫn luận rằng: “Ngoại đạo thứ hai nói rốt ban đầu có phương, từ phương sanh ra thế gian và người, nhân sanh trời đất thứ lớp diệt hết trở về nơi phương, nói là thường trụ, là nhân Niết-bàn.” Song Thắng luận sư lập sáu câu sanh nhân, trong câu Thật có chín pháp: đất, nước, lửa, gió, không, thời, phương, ngã, Ý. Minh luận sư chấp: đại phạm, thời, phương, bản tế, tự nhiên, hư không, ngã, bảy pháp thường trụ, hay sanh tất cả pháp. Ba thứ nói phương này đều là không thể tướng. Họ thấy các pháp hiện tiền không từ đâu sanh, vọng chấp sanh nhân là từ nơi hư vô. Như tự nhiên, hư không, bản tế, các thứ lập danh đều không thật thể.
Có ba lối chấp về phương của ngoại đạo. Một lối chấp cho là phương sanh ra thế gian, người và vật sau khi diệt trở về phương. Phương ấy là thường trụ Niết-bàn. Thắng luận sư cũng lập phương là một trong chín pháp sanh ra muôn vật. Minh luận sư chấp phương là một trong bảy pháp thường trụ. Ba lối chấp này đều là vọng tưởng, không có thật thể, chỉ có trên danh từ.
Lại chú nói phương là loại (giống) vậy. Từ phương đến phương không có cõi khác. Như kinh Lăng Nghiêm nói: “Biết người sanh người, ngộ chim sanh chim, cùng tám muôn kiếp không có cải đổi, từ loại đến loại không mất bản tánh.” Đây lại là ngoại đạo tự nhiên. Ba lối chấp ở trước là từ phương mà sanh, trở về phương diệt. Lối chấp sau là Bản tánh không mất tùy chỗ tự tại. Y vọng chấp này cho là thường trụ. Tất cả cảnh giới trông mong tưởng diệt, như gió chóng dừng chấp là Niết-bàn.
Ngoại đạo khi nhập định thấy tám muôn kiếp trở về trước, loài nào theo loài đó không thay đổi, chim sanh ra chim, người sanh ra người, hay qua thì đen, cò thì trắng, sẵn như vậy, vì thế cố chấp cho là từ phương đến. Các lối chấp này đều mong cầu chỗ trở về thường trụ, thật ra đó chỉ là tưởng diệt, như gió dừng sóng lặng mà không nhận ra thể nước, vì thế chưa phải là Niết-bàn.
Năng giác sở giác kiến hoại là, chẳng thấy tâm năng giác cùng cảnh sở giác gọi là kiến hoại. Thấy thường, vô thường là chẳng khởi thấy thường, vô thường. Xét hai lối chấp này dường như cùng lìa năng nhiếp sở nhiếp và xa hai cái thấy đoạn thường gần nhau. Song chẳng do giác biết tự tâm hiện ra vọng tự đè ép toàn rơi vào năng sở. Dùng kiến dẹp kiến thảy gọi là vọng tưởng.
Như vậy lối nói thấy thường, vô thường và lối nói không thấy có tâm năng giác và cảnh sở giác, hai lối nói này gần giống với chánh pháp của Phật. Thật ra ngoại đạo nói như vậy, biết như vậy rồi đè bẹp không cho vọng tưởng khởi, họ không biết được tự tâm hiện lượng nên vẫn còn ở trong năng sở. Phật tuy nói lìa năng giác sở giác nhưng chân thật nhận ra tự tâm, không đè ép, không dẹp bỏ.
Thấy các thứ tướng chiêu cảm nhân sanh khổ, sanh tâm kinh sợ, thấy nơi vô tướng, loại này là Nhị thừa quán vô thường khổ không vô ngã, giữ chân như thiên lệch, ưa nơi không tịch. Do chẳng khéo giác tự tâm hiện lượng, nên chẳng biết tất cả tánh tướng do nội thức biến tương tự đều không có sự thật, vọng sanh kinh sợ, bỏ một giữ một chẳng lìa vọng tưởng.
Nhị thừa thấy các sự tướng chiêu cảm quả khổ nên sanh tâm kinh sợ, muốn được chỗ vô tướng. Các vị này quán vô thường, khổ đắm chìm chỗ không tịch, chấp Niết-bàn thiên khô, gọi là giữ chân như nghiêng một bên, Đó là vì không giác ngộ tự tâm hiện lượng, thấy các cảnh do nội thức biến tưởng như thật có. Thật ra tất cả pháp duyên sanh như huyễn, không có pháp nào thật, vì thế giữ một bên bỏ một bên cũng là còn chấp, còn vọng
Hoặc có hiểu biết các pháp trong ngoài tự tướng cộng tướng khứ lai hiện tại có tánh chẳng hoại, khởi tưởng Niết-bàn. Hoặc bảo ngã nhân chúng sanh thọ mạng tất cả các pháp hoại, khởi tưởng Niết-bàn, hoặc ngoại đạo trí tuệ ác thiêu đốt thấy tự tánh và sĩ phu hai cái có gián cách, chỗ sĩ phu hiện ra gọi là tự tánh, như Loại Minh đế cầu-na chuyển biến, cầu-na là tác giả khởi tưởng Niết-bàn. Hoặc bảo phước chẳng phải phước hết, hoặc bảo các phiền não hết, hoặc bảo trí tuệ, hoặc thấy tự tại là người chân thật tạo sanh tử, khởi tưởng Niết-bàn.
Hiểu biết các pháp trong ngoài v.v… có tánh chẳng hoại, tức là nhận ngã trong ngũ ấm gọi là tự tánh, như văn trước thân cảm giác, đây là chấp thường. Ngã nhân chúng sanh thọ giả tất cả pháp hoại, cho là bốn tướng diệt hoại đồng với hư không, đây thành đoạn kiến. Tự tánh tức là Minh đế. Sĩ phu tức là thần ngã. Sĩ phu từ tự tánh mà ra, cho nên nói như loại Minh sơ. Cầu-na dịch là y, nghĩa là thần ngã y Minh sơ chuyển biến mà sanh. Y là tác giả khởi tưởng Niết-bàn. Nên nói “Y không sanh có, có trở lại về không”, cũng đồng với đoạn kiến. Phước chẳng phải phước hết là, không có tội phước tất cả không ngại, không có nhân quả, Hoặc bảo các phiền não hết, hoặc bảo trí tuệ, kia cho phiền não trí tuệ là hai. Hoặc bảo hết phiền não mà y trí tuệ, Hoặc bảo phiền não tự nhiên mà hết, chẳng do trí tuệ đoạn, đều không phải chánh nhân, Hoặc thấy Tự tại, tức loa là Đại Phạm thiên. Thuận thế sư chấp Đại Phạm thiên hay tạo chúng sanh sanh tử, tức lấy hay tạo tác làm thường trụ.
Đây nói thêm các lối chấp về Niết-bàn của ngoại đạo. Hiểu biết các pháp trong ngoài v.v… có tánh chẳng hoại, nghĩa là có ngoại đạo nhờ chút ít công phu, quán thấy các pháp tự tướng cộng tướng… có tánh không biến hoại, chấp tánh không biến hoại ấy là Niết-bàn. Hoặc cho rằng đến chỗ mất hết bốn tướng là Niết-bàn, đó là ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, tất cả pháp hoại khởi tưởng Niết-bàn. Hai loại ngoại đạo này tuy chấp thường chấp đoạn nhưng vẫn có chút ít đạo lý. Đến ngoại đạo chấp Minh sơ, thần ngã, cầu-na tạo ra vạn vật là Niết-bàn; hoặc chấp không có phước phi phước là Niết-bàn; hoặc chấp phiền não tự nhiên hết là Niết-bàn… đều gọi là ngoại đạo trí tuệ ác thiêu đốt.
Hoặc bảo lần lượt sanh nhau, sanh tử lại không có nhân khác, như thế là chấp trước nhân, mà kia ngu si không thể hay biết, vì không biết nên khởi tưởng Niết-bàn. Hoặc có ngoại đạo nói được đạo chân đế khởi tưởng Niết-bàn. Hoặc thấy công đức và công đức sở khởi hòa hợp một khác đồng chẳng đồng, khởi tưởng Niết-bàn, hoặc thấy tự tánh sở khởi chim khổng tước có màu sắc các thứ tạp bảo và gai nhọn v.v… các tánh, thấy rồi khởi tưởng Niết-bàn.
Lần lượt sanh nhau là, cha sanh con, con sanh cháu, dời đời tiếp nối không có nhân khác. Chẳng biết dòng ái là giống, kết tưởng làm thai chấp nhận vô minh hoặc nghiệp là gốc sanh tử, không có giải thoát. Vì chẳng biết nên an phận, nơi sanh tử khởi tưởng Niết-bàn. Như thế gian hiện nay cha con ông cháu sanh tử tiếp nối, lầm cho là lẽ dĩ nhiên.
Đây cũng là một số khởi tưởng Niết-bàn của ngoại đạo, lối chấp này rất thô nên nói ngu si không thể hay biết. Đó là chấp tự nhiên tiếp tục sanh nhau nối dõi đời đời là Niết-bàn. Không biết nhân tham ái, vô minh hoặc nghiệp mà sanh tử nối luôn, lại chịu ở trong sanh tử cho đó là vui.
Chân đế tức là Minh đế, họ chấp Minh đế cho là đạo. Công đức và công đức sở khởi, tức là năng tác sở tác. Nghi năng sở hòa hợp mà sanh thấy một khác, đồng chẳng đồng, thảy đều không ngoài tứ cú. Tự tánh sở khởi là tự nhiên sanh, cũng đồng với vô nhân. Bảo rằng chim quạ xưa nay vẫn đen, chim cò xưa nay vẫn trắng, người trời vốn đứng thẳng, súc sanh vốn đi ngang, cây tùng thì ngay, cây cước thì cong, chim thú màu sắc, các thứ trân bảo tạp đều tự nhiên sanh không có nhân quả.
Có lối chấp Niết-bàn là hình thức tự nhiên của vạn vật, các loài cây cỏ chim thú hình dáng như thế nào là tự bản chất nó như thế không thay đổi.
Đại Huệ! Hoặc có giác hai mươi lăm chân thật, hoặc vua gìn giữ nước nhận Lục đức luận, khởi tưởng Niết-bàn. Hoặc thấy “thời” là tác giả, thời tiết thế gian, giác như thế khởi tưởng Niết-bàn. Hoặc bảo tánh, hoặc bảo phi tánh, hoặc bảo biết tánh phi tánh, hoặc thấy có giác cùng Niết-bàn sai biệt khởi tưởng Niết-bàn.
Hai mươi lăm chân thật là, Số luận sư lập hai mươi lăm đế. Lục đức tức là Thắng luận lập lục cú. Trước chấp hai mươi lăm Minh đế và Lục cú luận tức là Niết-bàn. Đây lấy năng giác năng thọ làm Niết-bàn. Vua gìn giữ nước là thọ sáu phần gìn giữ chúng sanh. Thời tức là ngoại cách vi đạo Thời Tán chấp tất cả pháp đều từ thời sanh, xem thấy cây cỏ tươi khô nở rụng, chấp thời là thường là một, là nhân của vạn vật, là nhân Niết-bàn. Tánh là vật. Có vật không vật, chẳng phải có chẳng phải không, cũng thuộc về nhân với vô nhân. Giác là giác tưởng, giác tưởng thì dao động, Niết-bàn vắng lặng, hoặc bảo là khác, hoặc chấp không khác, đồng một vọng chấp.
Mỗi phái ngoại đạo đều có chủ trương về Niết-bàn của mình. Số luận sư cho 25 đế là chân thật, Thắng luận sư lập lục cú, thọ nhận lục cú, nên nói lấy năng giác năng thọ làm Niết-bàn. Thời Tán ngoại đạo chấp thời gian là nhân sanh ra muôn vật. Lại có các học phái cho vạn vật là tánh phi tánh, dùng tánh phi tánh làm Niết-bàn, hoặc cho nếu thấy sự sai biệt giữa giác và Niết-bàn, đó là thấy Niết-bàn.
Có loại như thế các thứ vọng tưởng, ngoại đạo nói ra chẳng thành đã thành, người trí bỏ đó. Đại Huệ! Như thế tất cả đều rơi vào hai bên khởi tưởng Niết-bàn. Các Niết-bàn vọng tưởng của ngoại đạo như thế, trong ấy trọn không hoặc sanh hoặc diệt. Đại Huệ! Mỗi thứ Niết-bàn của ngoại đạo kia là họ tự luận. Trí tuệ quán sát trọn không có chỗ lập. Như vọng tưởng kia tâm ý đi lại trôi giạt xao động, tất cả không có được Niết-bàn.
Phật kết luận tất cả kiến chấp Niết-bàn của ngoại đạo đều là không thật, chỉ là những vọng tưởng về Niết-bàn.
Kết luận nói ngoại đạo chấp các thứ Niết-bàn đều do vọng tưởng thấy chẳng thành Niết-bàn. Nghĩa là chẳng ngoài hai bên có không, hoặc trụ hoặc xuất trọn không có thật nghĩa. Thủy thuộc về tâm ý xao động. Dù được cứu kính diệt hết, trọn không có thật được Niết-bàn. Đây đều do chẳng giác biết tự tâm hiện lượng, theo cảnh tự tâm hiện hư vọng phân biệt, không có trí như thật, tất cả làm ra đều không thành lập.
Vì sao Niết-bàn của ngoại đạo không phải thật nghĩa? Vì đều nằm trong đối đãi sanh diệt, Niết-bàn còn có trụ tướng thì không phải là Niết-bàn. Tất cả làm ra đều không thành lập, nghĩa là Niết-bàn do tạo tác, do hư vọng phân biệt, dù đến chỗ diệt hết tất cả, cũng không phải Niết-bàn chân thật của tự tâm.
Đại Huệ! Như ta nói Niết-bàn là, khéo giác biết tự tâm hiện lượng chẳng đắm trước ngoại tánh, lìa tứ cú, thấy chỗ như thật, chẳng kẹt tự tâm hiện vọng tưởng hai bên năng nhiếp sở nhiếp không thật có, tất cả độ lượng không thấy được thành, ngu nơi chân thật không nên chấp nhận, buông bỏ kia rồi được tự giác Thánh pháp, biết hai vô ngã, lìa hai phiền não, trừ sạch hai chướng, hằng lìa hai cái tử, tiến lên mỗi địa, đến Như Lai địa, các tam muội sâu như bóng huyễn v.v… lìa tâm ý ý thức, gọi là Niết-bàn. Đại Huệ! Các ông và các đại Bồ-tát khác nên phải tu học, phải chóng xa lìa tất cả kiến chấp Niết-bàn của ngoại đạo.
Đức Phật giải thích tùy thuận Niết-bàn. Trước tiên phải khéo nhận ra chính nơi mình có tâm thể thanh tịnh. Nhận được rồi thì không đắm trước các pháp bên ngoài. Thấy chỗ như thật không vướng mắc tất cả cảnh do tự tâm hiện, không vọng tưởng chấp hai bên. Tất cả độ lượng không thấy được thành, nghĩa là tất cả so tính phân biệt ngang đó liền tắt. Ngu nơi chân thật không nên chấp nhận, nghĩa là với cảnh giả dối mà vọng tưởng nên không nhận được chân thật, điều này phải bỏ lìa. Khi bỏ tất cả cái giả thì chân thật hiện tiền, lúc đó được tự giác Thánh pháp, vượt qua tất cả chướng ngại thành tựu Phật địa. Đến đây rồi ngay cả đại định thâm sâu cũng thấy như bóng như huyễn, đó mới là tùy thuận Niết-bàn.
Tự tâm hiện lượng tức là Niết-bàn xưa nay thanh tịnh. Niết-bàn này tất cả hữu tình bình dẳng đồng có. Tánh nó vốn lặng, chỉ bậc chân Thánh giả tự chứng được ở trong, cho nên nói “hiểu biết”. Hiểu biết đây rồi, thấy tánh vốn lặng cùng tất cả pháp không phải một, không phải khác. Nên nói “chẳng đắm trước ngoại tánh (vật), lìa tử cú, thấy chỗ như thật”. Thấy chỗ như thật thì lý chân như hiện bày, lìa tất cả tướng tất cả phân biệt. Nên nói “chẳng kẹt tự tâm hiện vọng tưởng hai bên, năng nhiếp sở nhiếp không thật có”. Lý chân như hiển bày thì tưởng tướng đều lặng, ắt con đường suy nghĩ bặt, lối nói năng dứt.
Pháp tu của thiền tông còn được gọi là tự tánh thanh tịnh thiền, là pháp tu trở về thể nhập Niết-bàn ngay nơi tự tánh của chính mình. Tánh Niết-bàn này vốn là thanh tịnh yên lặng, chỉ bậc Thánh mới thầm hội. Nhận được chỗ này, đối với các pháp không đắm trước, lìa phân biệt hai bên. Tất cả cảnh đối diện chúng ta thấy có đẹp xấu. đều là vọng tưởng hiện. Biết là không thật thì tự nhiên bặt suy nghĩ, dứt nói năng. Bàng cư sĩ nói: “Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật. Ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu. Trâu sắt chẳng sợ sư tử rống.”
Khi chúng ta đạt đến lý chân như, thì lúc đó không vọng nghĩ, không suy tính, chúng ta vẫn hiện hữu, thấy nghe rõ ràng mà không có niệm dấy khởi, đó là Niết-bàn hiện tiền.
Nên nói “tất cả độ lượng chẳng thấy được thành, ngu nơi chân thật chẳng nên chấp nhận”. Bởi vì chỗ như thật chẳng phải nói bàn suy tính nếu nói bàn suy tính luống bị nó làm ngu, nên chẳng chấp nhận. Hai vô ngã là, nhân vô ngã và pháp vô ngã. Hai phiền não là căn bản phiền não và tùy phiền não. Hai chướng là hoặc chướng và trí chướng. Hai tử là phần đoạn tin và biến dịch. Bốn thứ hai này từ giác tự tâm hiện lượng một lúc chóng thấy, đến chứng Vô trụ xứ Niết-bàn mới được viên mãn. Niết-bàn này là lý chân như ra khỏi sở tri chướng, đại bi Bát-nhã thường phụ giúp nên chẳng trụ sanh tử và Niết-bàn, lợi lạc hữu tình tột mé vị lai, dụng mà thường lặng. Nên nói “tam muội sâu xa, lìa tâm ý ý thức”. Hai Niết-bàn này trong nhân trên quả cả hai đều bình đẳng, chỉ Như Lai có. Gồm Hữu dư y Niết-bàn và Vô dư y Niết-bàn chung thành bốn thứ. Như Lai ắt có đủ. Như Lai tuy không thật y mà hiện dường như có. Thế nên, Như Lai nên nói đủ bốn.
Tự tánh thanh tịnh Niết-bàn, tất cả hữu tình đều gồm đủ. Tuy có sẵn tánh Niết-bàn này, nhưng phải cần sự trợ giúp của trí tuệ Bát-nhã, dứt tất cả chướng, không trụ trong sanh tử hay Niết-bàn, tùy duyên làm lợi ích chúng sanh, tịch mà thường chiếu, đó gọi là Vô trụ xứ Niết-bàn. Tự tánh thanh tịnh Niết-bàn là nói về nhân, Vô trụ xứ Niết-bàn là nói về quả, Nhân và quả của hai Niết-bàn này chỉ có Phật mới bình đẳng, các Bồ-tát thấy chưa thấu tốt nên chưa bình đẳng, còn có cấp bậc chứng ngộ. Như Lai có đủ bốn: Tự tánh thanh tịnh Niết-bàn, Vô trụ xứ Niết-bàn, Hữu dư y Niết-bàn, Vô dư y Niết-bàn. Vì thế nói Như Lai nên nói đủ bốn.
Nhị thừa đoạn kiến từ phiền não hiển bày chân lý, tuy có chút khổ để y mà hai hoặc hằng diệt, nên cũng được Hữu dư niết-bàn. Nếu Vô dư y thì Nhị thừa cũng có cũng không. Y nơi chẳng thấy bản lai tự tánh thanh tịnh và không vô trụ xứ nên nói kia là không. Y nơi phiền não chướng hết hiển bày chân lý, lìa tướng trong trẻo, lặng lẽ an vui cùng Phật không khác nên nói cũng có.
Vô dư y thì Nhị thừa cũng có cũng không, nghĩa là căn cứ trên thể tánh tịch diệt thì hàng Nhị thừa cùng Phật không khác, nhưng vì chưa thấy được bản lai thanh tịnh và không được Vô trụ xứ Niết-bàn như Phật, nên nói cũng không.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ:
Ngoại đạo chấp Niết-bàn
Mỗi mỗi khởi vọng tưởng
Đây từ tâm tưởng sanh
Không phương tiện giải thoát.
Ngoại đạo chấp Niết-bàn, tất cả đều do vọng tưởng khởi, do tâm tưởng sanh, không phải thật giải thoát.
Ngu nơi phược phược đó
Xa lìa phương tiện khéo
Ngoại đạo tưởng giải thoát
Giải thoát trọn chẳng sanh.
Ngoại đạo mê lầm nên chấp có năng phược Sở phược, không có phương tiện khéo nhận ra Niết-bàn lìa trói buộc và giải thoát.
Các trí mỗi khác đường
Ngoại đạo chỗ thấy thông
Kia thảy không giải thoát
Vì ngu si vọng tưởng.
Ngoại đạo cũng có trí, nhưng trí thức mỗi người nhìn thấy khác nhau, vì thế không thấy được chỗ cứu cánh chân thật.
Đây nói ngoại đạo chấp các thứ Niết-bàn đều do vọng tưởng, không có phương tiện giải thoát. Không phương tiện giải thoát là chẳng khéo giác tự tâm hiện lượng. Chẳng giác tự tâm hiện lượng thì thấy năng phược cùng sở phược. Thấy có năng phược thì có tâm đáng không, có trí đáng diệt. Thấy có sở phược thì có pháp nên đoạn, có cảnh nên lìa, nên nói là ngu. Các thứ chấp nhận mỗi người tự xưng là trí, mà thật không trí, không có lý giải thoát.
Thấy có năng phược thì có tâm đáng không, có trí đáng diệt. Ngoại đạo không giác ngộ tự tâm hiện lượng nên thấy thật có năng sở. Vì thấy có pháp thật thì thấy có tâm duyên theo pháp, cố gắng kềm giữ đè nén tâm không khởi vọng. Chẳng biết rằng cảnh vốn như huyễn, tâm vọng cũng hư dối không thật, chẳng cần phải làm gì để nó được không. Ngoại đạo sợ trí tưởng lăng xăng bèn nhập diệt tận định, chấm dứt mọi hoạt động của trí, cảnh giới diệt trí tưởng là Niết-bàn.
Thật ra cảnh duyên không có khả năng trói buộc người, chỉ vì đối với tài sắc danh lợi chúng ta cho là thật có, là đáng mơ ước tìm cầu nên tâm bị trói buộc, khi tìm cầu không được thì khổ đau, tìm cầu được thì ôm giữ không muốn mất, rồi cho rằng tài sắc… lôi kéo trói buộc mình. Nếu biết rõ muôn pháp không thật, tâm vọng tưởng tìm cầu cũng không thật, đâu có gì là năng phược sở phược. Cảnh tự cảnh, tâm tự tâm, không nhọc lòng trừ diệt, không thấy có pháp để đoạn trừ, có cảnh để xa lìa, đó là người trí thấy biết như thật.
Tất cả ngoại đạo si
Vọng thấy tác, sở tác
Có không các loại luận
Kia ắt không giải thoát.
Tất cả ngoại đạo vì si mê nên thấy có năng tác sở tác. Theo cái thấy hai bên, lập các thứ lý luận về có không… đó là những người không được giải thoát.
Phàm ngu ưa vọng tưởng
Chẳng nghe tuệ chân thật
Ngôn ngữ gốc ba khổ
Chân thật diệt nhân khổ.
Ngôn ngữ gốc ba khổ, ba khổ là khổ khổ, hành khổ, hoại khổ. Ngôn ngữ do vọng tưởng khởi, vọng tưởng hư dối nên tạo ra các thứ khổ hư dối. Như lời nói thương ghét, xấu tốt… đó là nhân tạo khổ. Người có trí không chạy theo ngôn ngữ thì các khổ không sanh khởi.
Thí như bóng trong gương
Tuy hiện mà chẳng có
Noi gương tâm vọng tưởng
Kẻ ngu thấy có hai.
Phật dùng ví dụ vọng tưởng như bóng hiện trong gương. Bóng hiện vô thường nhưng gương lúc nào cũng có. Thấy có bóng có gương thật là có năng sở đối diện. Nếu biết tất cả pháp đối đãi năng sở đều từ tâm mê hiện, không thật có hai bên. Chấp hai bên là vọng tưởng phàm phu.
Chẳng biết tâm và duyên
Ắt khởi hai vọng tưởng
Rõ tâm và cảnh giới
Vọng tưởng ắt chẳng sanh.
Tâm ấy tức các thứ
Xa lìa tướng sở tướng
Sự hiện mà không hiện
Như ngu kia vọng tưởng.
Tâm đây là tâm thể bao trùm tất cả pháp, tuy bao trùm mà xa lìa năng tướng, sở tướng đối đãi. Sự hiện mà không hiện, tức là mọi hình tướng tuy có hiện ra song không thật có, giống như bóng trong gương. Chỉ vì người ngu vọng tưởng cho là thật có.
Tác là tác giả, tức là chấp nhân tướng. Sở tác tức nhận sanh ra pháp, thảy rơi vào hai loại có không, không có phần giải thoát. Bởi thức tánh muốn thấy sắc tướng nên tất cả cảnh giới có không đều là chỗ thích của giác tưởng.
Vọng tưởng của chúng ta luôn chạy theo hai bên, hoặc là có, hoặc là không. Nếu rời hai bên thì không có vọng tưởng, vì thế nói cảnh giới có không đều là chỗ thích của giác tưởng.
Ưa giác tưởng thì ắt ngu nơi chân thật. Nên nói “có phiền não thì không có trí tuệ, có trí tuệ thì không có phiền não”. Các chấp có không luống chiêu nhân quả, trọn không có sự thật, chỉ có ngôn ngữ. Nên nói “ngôn ngữ gốc ba khổ”. Nếu thấy chân thật thì các vọng chóng dứt, liền diệt nhân khổ. Cương dụ tự tâm. Bóng dụ tất cả cảnh giới sắc tâm do tự tâm hiện ra. Tâm cùng cảnh giới tánh nó không hai, tánh không hai tức là tâm lượng. Rõ thì các thứ đều tâm, năng sở đều vọng, hiện mà không hiện, như huyễn, như diện chẳng thể có không.
Người thích giác tưởng thường lý luận về có không, người đó không thấy được lý chân thật lìa hai bên nên gọi là ngu chân thật. Vì theo giác tưởng nên tâm luôn luôn bị vọng động phiền não, đó là có phiền não thì không có trí tuệ. Người hay buồn phiền trách móc là người không có trí, ngược lại người có trí tuệ thấy các pháp chợt có chợt không như huyễn như bóng chẳng bận tâm, nên nói có trí tuệ thì không có phiền não. Biết tất cả cảnh giới bên ngoài từ tâm hiện giống như mặt gương sáng hiện ra bóng người, vật. Tánh của người, tánh của cảnh cũng đồng tánh sáng của gương nên gọi là không hai. Thấu rõ được tánh sáng này thì vật tự đến tự đi, tánh sáng không mất. Nếu rõ chỗ này thì các thứ đều là tâm, mọi đối đãi năng sở đều huyễn hiện như mộng, như bóng chớp.
Ba cõi chỉ vọng tưởng
Nghĩa ngoài thảy không có
Vọng tưởng các thứ hiện
Phàm ngu không thể rõ.
Ba cõi là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới đều do vọng tưởng hiện. Như Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ.. của cõi Vô sắc đều là do sức tưởng mà có ra, Tưởng tất cả đều rỗng không, cái không trùm khắp hết, gọi là Không vô biên xứ. Các cõi khác của Sắc giới cũng vậy. Tu từ Sơ thiền đến Tứ thiền, tâm không dao động, tùy theo sức nhập định quán tưởng mà tâm sanh nơi các cõi trời Sắc giới. Cõi Dục thì do tâm tham ái, tâm thích thiện thì sanh về cõi lành, tâm thích ác sanh về cõi dữ. Như vậy từ vọng tưởng hiển hiện ra các cõi, các cõi ấy đều không thật.
Các kinh nói vọng tưởng
Trọn chẳng ngoài nơi tên
Nếu lìa nơi ngôn thuyết
Cũng không có sở thuyết.
Phật nói các pháp cũng không ngoài ngôn thuyết. Ví dụ nói Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần… Nếu chúng ta lìa ngôn thuyết thì cũng không có pháp sở thuyết; cho đến ngôn thuyết của Phật cũng không nên cố chấp.
Ba cõi chỉ vọng tưởng là, ba cõi các pháp đều do nội thức biến tương tợ nên có ngoại cảnh sanh, thật không có nghĩa riêng. Kẻ ngu không thể hiểu vọng thấy các thứ. Các kinh đã nói vọng tưởng, đều nói không tánh, chỉ có danh tự, Nếu lìa danh tự thì không vọng tưởng có thể được, Vọng tưởng đã dối thì nói cũng chẳng có, không thể lại duyên nơi Thánh giáo, Nên nói “chấp thuốc thành bệnh”, Như Lai dạy người thật không có nghĩa dư vậy.
Chấp Thánh giáo rồi bám vào ngôn ngữ kinh điển thì đó cũng là bệnh. Đến đây Phật đã nói hết, không sót một chút nào. Chúng ta thấy tâm từ bị giáo hóa của Phật, muốn chúng sanh hiểu cho tột cùng tường tận: “Các pháp không một pháp nào ngoài tâm, hiện thấy có chỉ do mê vọng”