Bấy giờ đức Phật bảo tất cả đại chúng: “Này các nam tử! Các người nếu nghi là có Phật không Phật, có Pháp không Pháp, có Tăng không Tăng, có khổ không khổ, có tập không tập, có diệt không diệt, có đạo không đạo, có thật không thật, có ngã không ngã, có lạc không lạc, có tịnh không tịnh, có thường không thường, có thừa không thừa, có tánh không tánh, có chúng sanh không chúng sanh, có hữu không hữu, có chân không chân, có nhân không nhân, có quả không quả, có tác không tác, có nghiệp không nghiệp, có báo không báo, giờ đây tha hồ cho các người hỏi, ta sẽ phân biệt giải thuyết cho.
Ta thật chẳng thấy hoặc có Trời, Người, hoặc có Ma, Phạm, hoặc có Sa-môn hay Bà-la-môn nào đến hỏi mà ta không giải đáp được.”
Đây là phần mở đầu của phẩm này. Trước tiên Phật đặt ra những nghi vấn: Có Phật không Phật, có Pháp không Pháp… cho đến nghi có nghiệp không nghiệp, có báo không báo, để mọi người tùy ý hỏi.
Trong pháp hội có Bồ-tát hiệu Sư Tử Hống đứng dậy nghiêm chỉnh y phục đảnh lễ đức Phật chắp tay quỳ bạch rằng: “Thế Tôn! Tôi vừa muốn hỏi, đức Như Lai đại từ lại đã hứa cho.”
Phật bảo đại chúng rằng: “Các người nên cung kính Bồ-tát này, cũng nên tôn trọng tán thán cùng đem các thứ hoa hương kỹ nhạc, anh lạc, phan lọng, y phục, đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, phòng nhà, điện đường để cúng dường Bồ-tát. Vì Bồ-tát này từ quá khứ chư Phật đã sâu trồng thiện căn phước đức đã đầy đủ, vì thế nên muốn ở trước ta mà thưa hỏi.
Như sư tử chúa tự biết sức lực nanh răng nhọn bén, bốn chân chống đất đứng trong hang vẫy đuôi gầm ra tiếng. Nếu có người nào đủ những tướng như vậy phải biết rằng có thể rống như sư tử, thật là sư tử chúa sáng sớm ra khỏi hang vươn vai ngáp nhìn ngó bốn phương, cất tiếng rống to. Làm như thế là vì mười một điều; một là vì muốn phá dẹp những loài chẳng phải thật sư tử mà dối làm sư tử, hai là vì muốn thử sức mình, ba là vì muốn khiến chỗ ở thanh tịnh, bốn là vì muốn bầy sư tử con biết chỗ nơi, năm là vì muốn đoàn sư tử không tâm kinh sợ, sáu là vì muốn kẻ ngủ được thức tỉnh, bảy là vì muốn tất cả những thú phóng dật được siêng năng chẳng phóng dật, tám là vì muốn những thú khác đến chầu hầu, chín là vì muốn điều phục đại hương tượng, mười là vì muốn dạy bảo các con cái, mười một là vì muốn trang nghiêm quyến thuộc của mình.
Tất cả loài cầm thú nghe tiếng rống của sư tử, loài lội dưới nước liền lặn xuống vực sâu, loài chạy trên bờ thời nép trốn trong hang, loài chim bay thời rơi rớt, các đại hương tượng kinh hãi chạy té phẩn.
Như loài chồn cáo kia dầu đi theo sư tử trọn trăm năm nhưng chẳng thể rống lên tiếng như sư tử. Nếu là con sư tử, mới đầy ba năm thời có thể kêu rống như sư tử chúa.
Này thiện nam tử! Như Lai chánh đẳng giác, trí huệ là nanh vuốt, bốn như ý túc là chân, đầy đủ sáu môn ba-la-mật là thân, thập trí lực hùng mãnh là sức lực, đại từ bi là đuôi an trụ, tứ thiền là hang thanh tịnh, vì chúng sanh mà rống như sư tử, dẹp phá quân ma, hiện bày mười trí lực, mở mang chỗ đi của Phật, làm chỗ nương về cho bọn tà kiến, vỗ về những chúng sợ sệt sanh tử, giác ngộ chúng sanh vô minh ngủ nghỉ, làm cho người tạo ác sanh tâm ăn năn, khai thị tà kiến cho tất cả chúng sanh, làm cho họ biết hàng lục sư chẳng phải là tiếng rống của sư tử, để phá lòng kiêu mạn của ngoại đạo Phú-lan-na v.v… Làm cho hàng Nhị thừa sanh lòng hối hận, dạy bảo các Bồ tát bậc Ngũ trụ cho họ sanh tâm đại lực, làm cho bốn bộ chúng chánh kiến chẳng sợ sệt những đồ chúng tà kiến, nên từ nơi thánh hạnh, Phạm hạnh, thiên hạnh, vươn vai mà ra. Muốn khiến các chúng sanh phá lòng kiêu mạn nên hà ngáp. Vì khiến chúng sanh thêm lớn pháp lành nên đoái ngó bốn phương. Vì khiến chúng sanh đặng tứ vô ngại biện nên bốn chân chấm đất. Vì khiến chúng sanh đầy đủ Thi-la ba-la-mật nên rống như sư tử.
Sư tử rống gọi là quyết định thuyết: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Như Lai thường trụ không có biến đổi.”
Này thiện nam tử! Hàng Thanh văn, Duyên giác dầu theo đức Như Lai trong vô lượng vô số kiếp nhưng trọn không thể làm sư tử rống. Thập trụ Bồ-tát nếu có thể tu hành ba hạnh như trên, nên biết rằng đó là sư tử rống.
Này đại chúng! Bồ-tát Sư Tử Hống đây, nay muốn làm đại sư tử rống, nên đại chúng phải nên thân tâm cúng dường cung kính tôn trọng tán thán.”
Phật khen ngợi Bồ-tát Sư Tử Hống có căn lành, trồng phước đức sâu dày, đại chúng phải tán thán, kính ngưỡng quý trọng. Đối với tinh thần đạo Phật, người nào ở trong hội chúng muốn thưa hỏi, dám thưa hỏi, Phật khen ngợi tán thán đề cao, vì họ biết tìm hiểu xét nét kỹ càng, có nghi mới hỏi. Phật ví Bồ-tát như sư tử rống tiếng uy mãnh, hàng phục được các loài thú.
Sư tử dụ cho Như Lai chánh đẳng giác, và những uy vũ của Như Lai như dẹp phá ma quân, giác ngộ chúng sanh… Sư tử rống là nói quyết định: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Như Lai thường trụ không biến đổi. Hàng Thanh văn, Duyên giác không nhận chúng sanh có Phật tánh và không thấy Như Lai là thường trụ bất biến.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Sư Tử Hống Bồ-tát: “Này thiện nam tử! Nếu ông muốn hỏi, giờ đây ông có thể hỏi.”
“Bạch Thế Tôn! Thế nào là Phật tánh? Do nghĩa gì nên gọi là Phật tánh? Có gì lại gọi là thường, lạc, ngã, tịnh? Nếu chúng sanh có Phật tánh, tại sao lại chẳng thấy được Phật tánh của tất cả chúng sanh? Thập trụ Bồ-tát trụ những pháp gì mà chẳng thấy Phật tánh rõ ràng? Phật trụ những pháp gì mà thấy được rõ ràng? Thập trụ Bồ-tát dùng con mắt gì mà thấy chẳng rõ ràng? Phật dùng con mắt gì mà thấy Phật tánh được rõ ràng?
Đó là những vấn đề thật quan trọng, cho nên gọi là Sư Tử Hống.
Phật bảo: “Này thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Nếu có ai vì pháp mà thưa hỏi thời là đầy đủ hai thứ trang nghiêm: một là trí huệ, hai là phước đức. Nếu có Bồ-tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm như vậy thời biết Phật tánh, cũng lại rõ biết gọi là Phật tánh, nhẫn đến có thể biết Thập trụ Bồ-tát dùng con mắt gì, chư Phật Thế Tôn dùng con mắt gì.”
Phật trả lời tổng quát, người nào hỏi được như vậy đã có đầy đủ hai thứ trang nghiêm, một là trí tuệ, hai là phước đức. Người nào đầy đủ phước đức trí tuệ người đó sẽ thấy được Phật tánh.
Sư Tử Hống Bồ-tát thưa: “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là trí huệ trang nghiêm? Thế nào gọi là phước đức trang nghiêm?”
“Này thiện nam tử! Trí huệ trang nghiêm chính là từ Nhất địa đến Thập địa. Phước đức trang nghiêm chính là Đàn ba-la-mật nhẫn đến Bát-nhã ba-la-mật.
Lại này thiện nam tử! Huệ trang nghiêm là nói chư Phật và Bồ-tát. Phước đức trang nghiêm là nói Thanh văn, Duyên giác cùng Cửu trụ Bồ-tát.
Lại này thiện nam tử! Phước đức trang nghiêm là hữu vi hữu lậu có quả báo, có ngại chẳng phải thường, là pháp phàm phu. Trí huệ trang nghiêm là vô vi vô lậu không quả báo, không ngại là thường trụ.
Này thiện nam tử! Nay ông đầy đủ hai thứ trang nghiêm này, nên ông có thể hỏi diệu nghĩa rất sâu. Phật cũng đầy đủ hai thứ trang nghiêm này nên có thể giải đáp những nghĩa ấy.”
Người dùng trí tuệ trang nghiêm từ Sơ địa Bồ-tát cho đến Thập địa Bồ-tát. Người dùng phước đức trang nghiêm tức là dùng lục độ mà tu. Đó là lớp thứ nhất.
Chỉ Phật Bồ-tát mới dùng trí tuệ trang nghiêm, còn Thanh văn Duyên giác đến Cửu trụ Bồ-tát đều là phước đức trang nghiêm. Đó là lớp thứ hai.
Lớp thứ ba, như trong kinh Kim Cang Phật nói, như của báu bằng một thế giới, hai thế giới cho đến hằng sa thế giới, bằng cả tam thiên, đại thiên thế giới đem bố thí cũng không bằng phước đức của người trì bốn câu kinh Kim Cang. Vì phước đức bố thí thuộc về phước đức trang nghiêm, thuộc về hữu vi, hữu lậu, có quả báo, có chướng ngại, chẳng phải là thường, đó là pháp phàm phu. Trì kinh Kim Cang là Bát-nhã, là trí tuệ, dùng trí tuệ trang nghiêm, đó thuộc về vô vi vô lậu không quả báo, không ngại, thường trụ, trùm khắp đâu có chừng ngắn, vì vậy nó siêu thoát hơn tất cả,
Phật bảo Bồ-tát Sư Tử Hống có đầy đủ hai thứ trang nghiêm này, nên có thể hỏi diệu nghĩa rất sâu. Phật cũng đầy đủ hai thứ trang nghiêm này nên có thể giải đáp những nghĩa ấy.
“Bạch Thế Tôn! Nếu có Bồ-tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm như vậy thời chẳng nên hỏi một thứ hai thứ, Tại sao đức Thế Tôn nói rằng có thể đáp một thứ hai thứ. Vì tất cả pháp không có một thứ hai thứ. Một thứ hai thứ là tướng phàm phu.”
“Này thiện nam tử! Nếu có Bồ-tát không hai thứ trang nghiêm thời chẳng phải biết một thứ hai thứ. Phải là Bồ-tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm mới có thể rõ biết một thứ hai thứ. Nếu nói các pháp không một hai đó, thời không đúng nghĩa.
Vì nếu không một hai thế nào nói là tất cả pháp không một không hai.
Này thiện nam tử! Nếu nói một hai là tướng phàm phu, đây bèn gọi là bậc Thập trụ Bồ-tát chẳng phải là phàm phu vậy. Tại sao vậy? Một đó gọi là Niết-bàn, hai đó gọi là sanh tử.
Tại sao một đó gọi là Niết-bàn? Vì Niết-bàn là thường. Tại sao hai đó là sanh tử? Vì là ái và vô minh vậy.
Niết-bàn thường trụ đó chẳng phải là tướng phàm phu. Sanh tử là hai đó cũng chẳng phải tướng phàm phu. Do nghĩa này nên người đủ hai thứ trang nghiêm thời có thể hỏi có thể đáp.
Bồ-tát Sư Tử Hống thưa, nếu Bồ-tát có đầy đủ hai thứ trang nghiêm như vậy thời chẳng nên hỏi một thứ hai thứ. Vì tất cả pháp không có một thứ hai thứ. Một thứ hai thứ là tướng phàm phu.
Phật dạy, không có được phước đức và trí tuệ trang nghiêm thì không thể nào biết được một thứ hai thứ. Nói một hai là bậc Thập trụ Bồ-tát, chẳng phải là phàm phu vậy.
Tại sao nói các pháp không một hai? Nếu không có một hai thì cũng không hỏi không một hai, còn nếu hỏi có một hai thì chấp nhận có một hai rồi, đó là ý thứ nhất. Ý thứ hai, nếu không có một hai thì không có tất cả pháp, tất cả pháp một hai chỉ là tương đối, tất cả là chỉ số nhiều, một hai là chỉ số ít. Nếu thừa nhận có tất cả thì thừa nhận có một hai.
thần Phật giải thích: Một chỉ cho Niết-bàn, hai chỉ cho sanh tử. Tại sao một chỉ cho Niết-bàn. Vì Niết-bàn chỉ cho thường, thường nên nói nó là một, thường, duy nhất. Tại sao hai là sanh tử? Vì là ái, là vô minh nên sanh tử là hai.
Niết-bàn thường trụ chẳng phải là tướng phàm phu. Sanh tử là hai cũng chẳng phải là tướng phàm phu. Niết-bàn thường trụ là thánh, bất sanh bất diệt nên không phải là phàm phu. Còn sanh tử là hai chẳng phải là tướng phàm phu vì dùng trí tuệ Bát-nhã thì phàm phu không có thật tướng. Nếu thấy tướng phàm phu thì không có Bát-nhã rồi. Cho nên ngài nói sanh tử là hai không có tướng phàm phu. Do nghĩa này nên người đủ hai thứ trang nghiêm thời có thể hỏi có thể đáp.
Ông hỏi thế nào là Phật tánh đó? Lóng nghe! Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho ông.
Này thiện nam tử! Phật tánh đó gọi là đệ nhất nghĩa không, đệ nhất nghĩa không gọi là trí huệ.
Không đây là chẳng thấy không cùng bất không. Người trí thấy không và bất không, thường cùng vô thường, khổ với lạc, ngã cùng vô ngã. Không là nói tất cả sanh tử. Bất không là nói đại Niết-bàn. Nhẫn đến vô ngã chính là sanh tử. Ngã đó chính là đại Niết-bàn.
Thấy tất cả không mà chẳng thấy bất không thời chẳng gọi là trung đạo. Nhẫn đến thấy tất cả vô ngã mà chẳng thấy ngã thời chẳng gọi là trung đạo.
Trung đạo đó gọi là Phật tánh. Do nghĩa này nên Phật tánh là thường hằng không biến đổi, vì vô minh che đậy làm cho chúng sanh chẳng thấy được. Hàng Thanh văn Duyên giác thấy tất cả không mà chẳng thấy bất không, nhẫn đến thấy tất cả vô ngã mà chẳng thấy ngã, do đây nên chẳng được đệ nhất nghĩa không. Vì chẳng đặng đệ nhất nghĩa không nên chẳng đi được nơi trung đạo. Vì không trung đạo nên chẳng thấy Phật tánh.
Nghe nói Bát-nhã, Phật tánh, đệ nhất nghĩa, chúng ta tưởng là khác nhau, thật ra Phật tánh cũng gọi là đệ nhất nghĩa, cũng gọi là trí tuệ Bát-nhã. Phật tánh có nhiều tên khác nhau. Đây Phật giải thích những ý nghĩa trùng hợp tuy khác tên cùng chỉ cho một lý mà thôi.
Người trí thấy không và bất không, thường cùng vô thường, khổ với lạc, ngã cùng vô ngã. Không là tất cả sanh tử, bất không là đại Niết-bàn, cho đến vô ngã chính là sanh tử, ngã chính là đại Niết-bàn. Như vậy người trí phải thấy cả hai mặt, nếu nói chẳng thấy là lầm. Nên chữ “chẳng” này coi như không có, Không là thấy không cùng bất không. Không là đệ nhất nghĩa đế, Không là chỉ cho các pháp không tự tánh, bất không là chỉ cho Niết-bàn chân thật, không là nói tất cả pháp sanh tử không tự tánh. Niết-bàn là thường trụ bất biến nên nói là bất không. Như vậy nói đệ nhất nghĩa không, nghĩa là thấy được các pháp hữu vi sanh tử tự tánh là không, và các pháp vô vi Phật tánh Niết-bàn là bất không. Ngã, vô ngã cũng vậy.
Người nào thấy đúng trung đạo đó là thấy được Phật tánh.
Này thiện nam tử! Phàm có ba hạng chẳng thấy trung đạo. Một là định lạc hành, hai là định khổ hành, ba là khổ lạc hành.
Định lạc hành chính là đại Bồ-tát vì thương xót tất cả chúng sanh, nên dầu ở địa ngục A-tỳ nhưng an vui như đệ tam thiền.
Định khổ hành là nói hàng phàm phu.
Khổ lạc hành là nói Thanh văn Duyên giác. Thanh văn Duyên giác hành nơi khổ lạc mà tưởng là trung đạo, do đây nên dầu có Phật tánh mà chẳng thấy được.
Có ba hạng người không thấy được trung đạo.
Một là đại Bồ-tát vì thương chúng sanh, dù ở cảnh hết sức khổ như ở trong địa ngục đều thấy an vui như trời đệ tam thiền gọi là định lạc hành. Định không phải là nhập định mà là quyết định. Ví dụ trong chúng có người nửa đêm ngủ mớ la om sòm động chúng, đến sáng sợ ra sám hối bị rầy nên làm thinh. Tôi cũng nghe ồn náo nên kêu tất cả chúng ra hỏi, có người thấy chú kia nhát quá không dám nhận lỗi, tội nghiệp nên ra nhận mình ngủ mớ làm ồn động chúng. Tôi nói động chúng phạt quỳ một cây hương. Khi quỳ hương thế chú kia, chú này thấy có buồn khổ hay không? Chú sẽ hãnh diện vì mình nhận lỗi, chịu cực cho người khác, tức là đã làm được một việc tạm gọi là anh hùng. Tuy đau đầu gối nhưng vui vẻ trong lòng. Hay như những bậc cha mẹ nhiều khi phải đi làm đầu tắt mặt tối, quên buồn quên mệt để có tiền cho con mình ăn học, mua quần áo. Tại sao quên? Vì họ thương con họ quá. Cũng vậy hàng Bồ-tát ở trong địa ngục mà không thấy khổ vì thương xót tất cả chúng sanh, chịu khổ để cứu giúp chúng sanh chứ không phải tạo tội mà chịu khổ. Tuy khổ nhưng các ngài không thấy khổ cho nên nói định lạc, việc làm của các ngài lúc nào cũng nhất định là vui.
Hai là định khổ hành. Phàm phu làm cái gì cũng than hết, nhiều người nhà có bạc triệu mà cũng than buồn rầu, than phiền não, làm cái gì cũng kêu khổ cho nên gọi là định khổ hành.
Ba là khổ lạc hành. Thanh văn Duyên giác luôn luôn thấy thân này là khổ, cuộc đời là khổ, Niết-bàn là vui nên luôn luôn bỏ khổ cầu vui, đó gọi là khổ lạc hành. Người như vậy cũng chưa thấy được Phật tánh.
Như ông hỏi nghĩa gì gọi là Phật tánh?
Này thiện nam tử Phật tánh chính là vô thượng Bồ-đề của tất cả chư Phật, là chủng tử của trung đạo.
Lại này thiện nam tử! Đạo có ba: thượng, trung, hạ.
Đạo bậc hạ là Phạm thiên vô thường nhận lầm là thường.
Đạo bậc thượng là sanh tử vô thường nhận lầm là thường, Tam bảo là thường chấp là vô thường.
Cớ gì gọi là bậc thượng? Vì có thể đặng vô thượng Bồ-đề.
Đạo bậc trung gọi là đệ nhất nghĩa không: vô thường thấy là vô thường, thường thấy là thường. Đệ nhất nghĩa không chẳng gọi là hạ, vì tất cả phàm phu không thể được, lại chẳng gọi là bậc thượng, vì chính đây là thượng. Đạo của chư Phật Bồ-tát tu hành chẳng phải thượng chẳng phải hạ nên gọi là trung đạo.
Đạo Bà-la-môn nhận lầm Phạm thiên cho là thường, nhưng Phạm thiên là vô thường. Họ tu như vậy gọi là đạo bậc hạ.
Đạo bậc thượng, sanh tử vô thường nhận lầm là thường, Tam bảo là thường chấp là vô thường. Tại sao nhận như thế lại là bậc thượng? Vì có thể đặng vô thượng Bồ-đề. Thà nhận lầm sanh tử vô thường là thường còn hơn nhận lầm Phạm thiên vô thường mà cho là thường. Nhận lầm Phạm thiên là thường thì cả đời lạc hướng luôn, Thà trong sanh tử là vô thường mà nhận là thường, thì khi gần già chết cảm thấy vô thường mình còn tỉnh giác, còn phát tâm tu, giác ngộ được. Nếu theo Phạm thiên thì đời nào mình tu, mình giác được.
Trong kinh thường nói, thà ở cõi Ta-bà tuy khổ, hơn là sanh cõi trời. Vì cõi trời vui quá thì quên tu, còn ở đây khổ, bởi khổ gây chán nản nên phát tâm tu, có duyên cớ để mình dễ thức tỉnh. Sung sướng quá thì không có duyên tu, muốn gì được nấy, ít có ai thức tỉnh lắm.
Đạo bậc trung là đệ nhất nghĩa không. Vô thường thấy là vô thường, thường thấy là thường. Trung đạo đệ nhất nghĩa không là không phải thượng, không phải hạ, không phải phàm phu, không phải ngoại đạo mà chính là con đường chư Phật Bồ-tát đi. Nó vượt ra ngoài chấp có không trên dưới nên gọi là trung đạo.
Này thiện nam tử! Bờ mé sanh tử phàm có hai thứ cội gốc: một là vô minh, hai là hữu ái. Chặng giữa hai thứ này thời có quả khổ sanh già bệnh chết đây gọi là trung đạo. Trung đạo như đây có thể phá sanh tử nên gọi là trung. Do nghĩa này nên pháp trung đạo gọi là Phật tánh. Vì thế Phật tánh là thường lạc ngã tịnh. Bởi chúng sanh chẳng thấy được Phật tánh nên là vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh. Phật tánh thật chẳng phải là vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh.
Ví như người nghèo trong nhà có kho châu báu vì người này chẳng thấy nên không được sung sướng tự tại. Có người trí dùng phương tiện chỉ bảo cho được thấy. Nhờ thấy có châu báu người này hết khổ đặng sung sướng tự tại.
Đây là Phật chỉ bờ mé sanh tử. Ban đầu vô minh là gốc của quá khứ, sau hữu ái là nhân của vị lai, hai thứ này là gốc của sanh tử.
Trung đạo là khoảng giữa của hữu ái và vô minh, ở khoảng giữa có quả khổ sanh già bệnh chết. Nhưng trung đạo đó có thể phá được sanh tử. Tại sao? Vì vô minh là nhân của quá khứ sanh ra thân hiện tại, ái hữu là nhân của vị lai, chúng ta biết tu thì khoảng giữa của ái hữu và vô minh đó có sanh già bệnh tử, mình có thể thức tỉnh được. Chúng ta cố tình dẹp phá nhân vị lai tức là ái hữu, liền được dứt sanh tử, cho nên nói trung đạo có thể phá được sanh tử. Vô minh không phá được vì thuộc về quá khứ, ái hữu thuộc hiện tại, nếu phá được ái hữu thì được nghĩa trung đạo, thấy được Phật tánh.
Ngài ví dụ, như người nghèo trong nhà có kho châu báu mà chẳng thấy nên không được sung sướng tự tại. Có người trí dùng phương tiện chỉ bảo cho được thấy. Nhờ thấy châu báu người này hết khổ được sung sướng tự tại.
Cũng vậy, vì chúng sanh chẳng thấy Phật tánh nên là vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh. Do thiện tri thức, chư Phật và Bồ-tát dùng nhiều phương tiện dạy bảo mà chúng sanh thấy Phật tánh. Do thấy Phật tánh nên chúng sanh được thường, lạc, ngã, tịnh.
Cũng vậy, vì chúng sanh chẳng thấy Phật tánh nên chịu vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh. Có thiện tri thức, chư Phật và Bồ-tát dùng phương tiện dạy cho thấy Phật tánh, do đó được thường lạc ngã tịnh. Thấy được Phật tánh là thấy được kho báu của mình. Chỗ này phù hợp với nhà thiền. Khi ngài Huệ Hải đến hỏi đạo lý Mã Tổ, Mã Tổ nói:- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta ở đây không có một vật, cầu Phật pháp gì?
– Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?
– Chính nay ngươi hỏi ta là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.
Ngài Huệ Hải ngay đó nhận được kho báu của mình.
Kiến chấp của chúng sanh phàm có hai: thường kiến và đoạn kiến. Hai thứ kiến chấp này chẳng gọi là trung đạo. Không thường không đoạn mới gọi là trung đạo, không thường không đoạn tức là trí quán chiếu mười hai nhân duyên. Quán trí này gọi là Phật tánh. Hàng Nhị thừa dầu quán nhân duyên nhưng còn chẳng được gọi là Phật tánh. Phật tánh dầu là thường bởi chúng sanh bị vô minh che đậy nên không thấy được. Lội chưa qua được sông mười hai nhân duyên, dụ như thỏ và ngựa kia, vì chẳng thấy Phật tánh.
Chấp thường hay đoạn đều lệch một bên. Khi quán thấy được lý nhân duyên thì đó là trung đạo. Nhị thừa quán nhân duyên mà không thấy Phật tánh, Bồ-tát quán nhân duyên thì thấy Phật tánh.
Nhị thừa quán mười hai nhân duyên, quán từ vô minh có hành, nhân hành có thức, nhân thức có danh sắc cho đến có lão tử. Kinh A-hàm thường nói Bỉ hữu cố thử hữu, bỉ vô cố thử vô, bỉ sanh cố thử sanh, bỉ diệt cố thử diệt. Tức là có cái này nên mới có cái kia, có cái kia nên mới có cái nọ xoay vần thành một vòng sanh tử không cùng tận. Diệt được vô minh thì diệt được hành, hành dứt thì thức dứt… đó là theo chiều hoàn diệt. Các ngài quán mười hai nhân duyên mà dứt được sanh tử.
Bồ-tát thì quán cũng căn cứ vào mười hai nhân duyên mà thấy mỗi thứ không thật nên thấy được Phật tánh. Vì vậy nói vô minh thật tánh tức Phật tánh, thấy ngay tánh vô minh là không tức là thấy được thật tánh, mà thấy được thật tánh là thấy Phật tánh. Nhị thừa quán mười hai nhân duyên không thấy Phật tánh, Phật Bồ-tát quán mười hai nhân duyên thì thấy được Phật tánh, đó là điểm khác nhau. Một bên phá tướng tổng hợp mà chưa phá được tướng riêng rẽ của những chất liệu, một bên phá tất cả. Như cái bàn này do gỗ, do thợ, do cây, do đinh, do bào, do đục… mà thành, nếu không thợ, không đục, không bào thì không có bàn. Đó là lối quán của hàng Thanh văn. Nếu xét cái bàn này không thật có, ván định thợ… những tổ hợp thành cái bàn cũng không thật vì tự tánh của nó là không. Quán đến đó là quán đến tận cùng tất cả pháp. Bồ-tát quán tột cùng như thế.
Kinh nói Nhị thừa phá được ngã chấp nhưng còn pháp chấp, Bồ-tát thì phá cả ngã và pháp. Như thấy thân do ngũ uẩn hợp thành không có ngã, không có chủ tể, nhưng thấy có nhiễm, ngã không có mà có pháp, như vậy chưa cứu cánh, chưa thấy được Phật tánh.
Này thiện nam tử! Trí huệ quán chiếu mười hai nhân duyên đây chính là chủng tử của vô thượng Bồ-đề. Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh.
Ví như dưa hấu gọi là bệnh nhiệt, vì dưa này có thể làm nhân duyên bệnh nhiệt. Mười hai nhân duyên cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Phật tánh có nhân, có nhân nhân, có quả, có quả quả.
Có nhân đó chính là mười hai nhân duyên. Nhân nhân đó chính là trí huệ. Có quả chính là vô thượng Bồ-đề. Quả quả đó chính là vô thượng đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Như vô minh là nhân, hành là quả; hành là nhân, thức là quả. Do nghĩa này nên thể vô minh kia cũng là nhân, cũng là nhân nhân; thức cũng là quả, cũng là quả quả. Phật tánh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng một, chẳng hai, chẳng đến, chẳng đi, chẳng nhân, chẳng quả.
Do trí tuệ quán mười hai nhân duyên mà thấy được Phật tánh nên nói Phật tánh có nhân có quả, có nhân nhân có quả quả.
Do vô minh làm nhân sanh ra hành, rồi hành làm nhân sanh ra thức, đối với vô minh, hành là quả, vô minh là nhân; nhưng đối với thức, hành là nhân mà thức là quả. Như vậy mỗi thứ đều có thể làm nhân, cũng có thể làm quả. Vì vậy nói nhân nhân, quả quả.
Tại sao mười hai nhân duyên chẳng sanh chẳng diệt, chẳng thường chẳng đoạn? Vì tự nó làm nhân, tự nó làm quả thì không thật nên mười hai nhân duyên chẳng sanh chẳng diệt chẳng thường chẳng đoạn, chẳng phải một chẳng phải hai, chẳng đến chẳng đi, chẳng nhân chẳng quả.
Là nhân mà chẳng phải quả như Phật tánh. Là quả mà chẳng phải nhân như đại Niết-bàn.
Là nhân cũng là quả như những pháp do mười hai nhân duyên sanh.
Chẳng phải nhân chẳng phải quả gọi là Phật tánh. Vì chẳng phải nhân quả nên thường hằng không biến đổi.
Phật tánh là nhân giác ngộ, đại Niết-bàn là kết quả của giác ngộ. Phật tánh không phải là quả mà là nhân để ta phát tâm tu, đại Niết-bàn là quả rốt ráo nên không làm nhân cho cái gì khác, nên nói là nhân mà chẳng phải quả như Phật tánh, là quả chẳng phải nhân như đại Niết-bàn. Những pháp do mười hai nhân duyên sanh thì vừa làm nhân cho cái sau, vừa làm quả cho cái trước như trên đã nói.
Phật tánh chẳng phải nhân chẳng phải quả, vì Phật tánh là đệ nhất nghĩa đế. Nếu là nhân thì phải chuyển thành quả tức là vô thường, Phật tánh thường hằng không biến đổi sao gọi là vô thường được. Căn cứ vào thế đế mà nói thì Phật tánh cũng có nhân cũng có quả, nhưng đứng về đệ nhất nghĩa đế thì Phật tánh không phải nhân không phải quả.
Do nghĩa này nên trong kinh Phật nói mười hai nhân duyên ý nghĩa rất sâu không thể biết không thể thấy chẳng thể nghĩ bàn, là cảnh giới của chư Phật và Bồ-tát, chẳng phải hàng Thanh văn Duyên giác đến được.
Do nghĩa gì mà là rất sâu? Nghiệp hạnh của chúng sanh chẳng thường chẳng đoạn mà có quả báo dầu niệm niệm diệt mà không mất, dầu không tác giả mà có tác nghiệp, dầu không thọ giả mà có quả báo. Thọ giả, dầu diệt mà quả chẳng hư. Không có lự tri nhưng hòa hiệp mà có.
Đây là chỗ khó hiểu. Nghiệp hạnh chúng sanh chẳng thường chẳng đoạn mà có quả báo. Ví dụ người tu hành hằng ngày tụng kinh niệm Phật tham thiền. Những việc làm đó là thường hay vô thường? Nếu vô thường thì đoạn mất, thì hết, tại sao tu đời này đời sau được giải thoát, đời sau được phước báo v.v… Như đọc hoài một bài thơ rồi thuộc lòng lúc nào không hay. Đọc từng lời từng tiếng đi qua, tưởng mất mà lại không mất. Tiếng đọc qua rồi mất đó là vô thường, nhưng có cái không mất, không mất mà nói thường cũng không được. Tụng kinh cũng vậy, tụng từng tiếng từng tiếng qua mất, tức là niệm niệm diệt, diệt mà không mất tức là phước điền không mất.
Dầu không tác giả mà tác nghiệp, như thân này không có chủ tể, không có ngã gọi là không tác giả nhưng làm cái gì đều thành nghiệp là có tác nghiệp. Không tác giả mà có tác nghiệp, không có ngã để thọ vẫn có quả báo như thường, thọ giả dù diệt mà quả chẳng hư. Thọ giả tức là người thọ, dù có chết, quả báo không mất. Không có tự tri là không có suy nghĩ hiểu biết, nhưng khi hòa hiệp thì có.
Tất cả chúng sanh dầu cùng đi với mười hai nhân duyên mà chẳng thấy chẳng biết. Vì chẳng thấy biết nên không có chung thủy. Bậc Thập trụ Bồ-tát chỉ thấy chung mà chẳng thấy thủy. Chư Phật thấy thủy thấy chung. Do nghĩa này nên chư Phật thấy Phật tánh được rõ ràng. Tất cả chúng sanh vì chẳng thấy được mười hai nhân duyên nên phải luân chuyển.
Như tằm làm kén tự sống tự chết. Tất cả chúng sanh cũng như vậy, vì chẳng thấy Phật tánh nên tự tạo nghiệp mà lưu chuyển sanh tử, dường như đánh trái cầu.
Vì thế nên trong các kinh Phật nói: Nếu có người thấy được mười hai nhân duyên thời là thấy pháp, thấy pháp đó chính là thấy Phật. Phật đó chính là Phật tánh, vì tất cả chư Phật dùng dây làm tánh.
Chúng sanh ở trong mười hai nhân duyên mà chẳng biết, nên không có chung thủy, không có đầu đuôi.
Bồ-tát thấy chung mà không thấy thủy, thấy cái rốt sau mà không thấy cái ban đầu, nghĩa là không thấy rõ ràng Phật tánh, Phật tánh là thủy, Niết-bàn là chung, cho nên các ngài thấy rõ Niết–bàn mà không biết rõ Phật tánh. Chỉ có Phật biết rõ Phật tánh và biết rõ Niết-bàn cho nên thấy rõ ràng trước sau.
Chúng sanh sống với mười hai nhân duyên, bị mười hai nhân duyên xiềng cột, không thấy nó cho nên bị luân hồi. Như tằm làm kén và sống chết với nó. Như trái cầu bị người đá liên tục. Lưu chuyển sanh tử cũng vậy, liên miên không dừng.
Bồ-tát thấy mười hai nhân duyên không thật, tánh vô minh không thật, thì Phật tánh hiển lộ rồi. Vô minh thật tánh tức Phật tánh, huyễn hóa không thân tức pháp thân. Nói vô minh tức là nói luôn cả mười hai nhân duyên, thấy thân huyễn hóa không thật thì tức là thấy pháp thân. Các thiền sư nói đâu khác kinh điển. Chúng ta thấy mỗi thứ đều thật, thấy vô minh thật nên thấy hành thật hành, thức thật thức, danh sắc thật danh sắc nên mới có xúc thọ ái thủ hữu, tất cả đều thật, đó là vòng luân hồi. Nếu thấy chúng không thật thì vòng luân hồi tan rã, thấy được Phật tánh.
Này thiện nam tử! Trí quán mười hai nhân duyên có bốn hạng: một là hạ, hai là trung, ba là thượng, bốn là thượng thượng. Quán trí bậc hạ chẳng thấy Phật tánh, vì chẳng thấy nên chứng được đạo Thanh văn. Trí quán bậc trung chẳng thấy Phật tánh, vì chẳng thấy nên chứng đặng đạo Duyên giác. Trí quán bậc thượng thấy Phật tánh chẳng rõ ràng, vì thấy chẳng rõ ràng nên trụ bậc Thập trụ. Trí quán bậc thượng thượng thấy Phật tánh rõ ràng nên chứng được vô thượng Bồ-đề. Do nghĩa đây nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh. Phật tánh chính là đệ nhất nghĩa không. Đệ nhất nghĩa không gọi là trung đạo. Trung đạo đó gọi là Phật. Phật đây là Niết-bàn.”
Trí quán bậc hạ này chỉ cho Thanh văn không thấy được Phật tánh, chỉ quán Tứ đế rồi chứng được quả Thanh văn. Trí quán bậc trung chỉ hàng Duyên giác cũng quán nhân duyên mà không thấy Phật tánh nên chứng đạo Duyên giác. Trí quán bậc thượng thấy Phật tánh chẳng rõ ràng, vì thấy chẳng rõ ràng nên trụ bậc Thập trụ. Trí quán bậc thượng thượng thấy Phật tánh rõ ràng nên chứng được vô thượng Bồ-đề. Như vậy nói Niết-bàn hay nói Phật, nói trung đạo hay nói đệ nhất nghĩa không, nói Phật tánh… đều không khác.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu Phật cùng Phật tánh không sai khác, thời tất cả chúng sanh cần gì tu hành?”
Phật bảo: “Này thiện nam tử! Lời ông hỏi không đúng. Phật cùng Phật tánh dầu không sai khác nhưng chúng sanh đều chưa đầy đủ. Ví như có người ác tâm muốn hại mẹ, hại rồi sanh lòng ăn năn, ba nghiệp dầu lành, nhưng người này vẫn gọi là người địa ngục, vì người này quyết định sẽ đọa địa ngục vậy. Hiện tại người này dầu không thân địa ngục nhưng vẫn gọi là người địa ngục.
Do đây nên trong các kinh Phật nói nếu thấy có người tu hành hạnh lành thời gọi là thấy người trời. Thấy người tạo ác thời gọi là thấy địa ngục. Vì quyết định sẽ thọ quả báo.
Bồ-tát Sư Tử Hống nghi, đã có Phật tánh thì tất nhiên thành Phật đâu cần phải tu. Phật giải thích, Phật và Phật tánh không sai khác nhưng chúng sanh chưa đầy đủ. Ví dụ người phạm tội đọa địa ngục dù họ chưa chết, chưa hiện ở địa ngục nhưng người ta vẫn nói người đó là người địa ngục. Người làm lành sẽ sanh cõi trời, nhưng hiện họ chưa phải là trời. Đó là nói tương lai chứ không phải nói hiện tại. Phật tánh không khác với Phật, có Phật tánh thì sẽ thành Phật chứ không phải ngay bây giờ thành Phật.
Này thiện nam tử! Vì tất cả chúng sanh quyết định được vô thượng Bồ-đề nên Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Nhưng thật ra tất cả chúng sanh chưa có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Do nghĩa đây nên nơi kinh này Phật nói kệ rằng:
Trước có nay không
Trước không nay có
Ba đời có pháp
Nghĩa này không đúng.
Này thiện nam tử! Có ba thứ có: một là vị lai có, hai là hiện tại có, ba là quá khứ có.
Tất cả chúng sanh vị lai sẽ có vô thượng Bồ-đề, đây gọi là Phật tánh. Tất cả chúng sanh hiện tại đều có phiền não, nên hiện tại không có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.
Chúng sanh sẽ thành Phật chứ hiện tại chưa phải là Phật.
Nếu nói trước có bây giờ không, hay trước không bây giờ có, điều đó không đúng như nghĩa Phật tánh. Ba đời có pháp tức là quá khứ, hiện tại, vị lai có pháp thật, nghĩa này cũng không đúng.
Tuy rằng Phật tánh với Phật không sai khác nhưng hiện tại mình chưa dẹp hết phiền não cho nên chưa có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.
Tất cả chúng sanh quá khứ có dứt phiền não nên hiện tại được thấy Phật tánh. Do nghĩa này Phật thường tuyên nói: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhẫn đến nhất-xiển-đề cũng có Phật tánh.
Nhất-xiển-đề không có pháp lành. Phật tánh là pháp lành vị lai họ sẽ có. Nhất-xiển đề đều có Phật tánh, vì họ quyết định sẽ đặng thành vô thượng Bồ-đề.
Ví như có người trong nhà có sữa lạc. Có người hỏi: Ông có tô không? Đáp rằng tôi có. Lạc thật chẳng phải tô, do phương tiện khéo, chắc sẽ đặng tô, nên đáp rằng có tô.
Chúng sanh cũng như vậy tất cả đều có tâm. Phàm người có tâm sẽ được thành vô thượng Bồ-đề. Do nghĩa đây nên Phật thường tuyên nói: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Phật sở dĩ nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh tức là nhắm đến tương lai. Chúng ta chịu khó tu thì mới thành Phật được, nếu không dứt phiền não thì Phật tánh không hiện. Nếu nhất-xiển-đề dứt bỏ tâm bất tín, tất nhiên họ sẽ tiến đến thành Phật.
Ví dụ trong nhà chúng ta có gạo, ai hỏi nhà mình có cơm không, mình trả lời có. Vì có gạo, chịu khó nấu sẽ thành cơm thôi. Hiện tại chưa có tô mà nếu có sữa có lạc thì sẽ làm thành tô, không phải là nói dối. Cũng vậy, tuy chúng ta chưa thành Phật nhưng biết rằng mình có Phật tánh và chịu khó tu hành ắt sẽ thành Phật, cho nên nói sẽ thành Phật không phải là nói dối.
Ngài Khuê Phong trong cuốn Nguồn Thiền cũng chỉ cho chúng ta thấy rõ, tất cả đều có tâm thì tất cả đều thành Phật. Bởi chúng ta không biết dùng nó, bỏ sót nó mà chạy theo vọng tưởng nên không thành Phật được.
Này thiện nam tử! Tất cánh có hai thứ: một là trang nghiêm tất cánh, hai là cứu cánh tất cánh. Và một là thế gian tất cánh, hai là xuất thế tất cánh.
Trang nghiêm tất cánh là sáu môn ba-la-mật. Cứu cánh tất cánh là nhất thừa của tất cả chúng sanh chứng được. Nhất thừa đó gọi là Phật tánh. Do nghĩa đây nên Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tất cả chúng sanh đều có Nhất thừa, vì vô minh che đậy nên chẳng thấy được.
Như châu Uất-đơn-việt, Dao-lợi thiên, vì quả báo che ngăn nên chúng sanh ở đây chẳng thấy được. Phật tánh cũng như vậy, do các phiền não kiết sử che ngăn nên chúng sanh chẳng thấy được.
Ai cũng có Phật tánh tức là ai cũng tu đạo Nhất thừa hết, sở dĩ không thấy vì vô minh che đậy. Nỗ lực phá vô minh thì tất nhiên được Nhất thừa. Như châu Uất-đơn-việt, cõi Đao-lợi thiên, vì quả báo che ngăn nên chúng ta ở đây không nhìn thấy, chứ không phải không có.
Này thiện nam tử! Phật tánh chính là Thủ-lăng. nghiêm tam-muội, tánh như đề hồ, chính là mẹ của tất cả chư Phật. Do sức của Thủ-lăng-nghiêm tam-muội mà chư Phật được thường, lạc, ngã, tịnh. Tất cả chúng sanh đều có Thủ-lăng-nghiêm tam-muội vì chẳng tu hành nên không được thấy, vì thế nên không thể được thành vô thượng Bồ-đề.
Này thiện nam tử! Thủ-lăng-nghiêm tam-muội có năm tên: một là Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, hai là Bát-nhã ba-la-mật, ba là Kim cang tam-muội, bốn là Sư tử hống tam-muội, năm là Phật tánh. Tùy theo năng lực chỗ làm của tam-muội mà có tên khác nhau.
Nhận được Phật tánh tức tu định Thủ-lăng-nghiêm, hay tu định Kim cang tam-muội, hay tu định Sư tử hống tam-muội… Nếu nhận được Phật tánh thì đều có những tam-muội đó.
Này thiện nam tử! Như một tam-muội có nhiều tên, như thiền gọi là Tứ thiền, căn gọi là định căn, lực gọi là định lực, giác gọi là định giác, chánh gọi là chánh định, bát đại nhân giác gọi là định giác, Thủ-lăng-nghiêm tam-muội cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đầy đủ ba môn định: thượng, trung và hạ. Thượng là nói Phật tánh, do đây nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Trung là tất cả chúng sanh đầy đủ Sơ thiền, lúc có nhân duyên thời có thể tu tập, nếu không nhân duyên thời chẳng thể tu tập. Nhân duyên đây có hai thứ: một là hỏa tai, hai là phá kiết sử cõi Dục, do đây nên nói rằng tất cả chúng sanh đều đầy đủ định bậc trung.
Người tu phá được kiết sử cõi Dục hay khi cõi này bị hỏa tai, mọi người đều được sanh về Sắc giới vì ai cũng có đủ Sơ thiền, nên nói có hai nhân duyên, chỉ cần đủ nhân duyên là có thể tu tập được.
Hạ định là định tâm sở trong mười đại địa, do đây nên nói tất cả chúng sanh đều đầy đủ định bậc hạ.
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh vì phiền não che đậy nên chẳng được thấy. Thập trụ Bồ-tát dầu thấy Nhất thừa nhưng chẳng biết Như Lai là pháp thường trụ, do đây nên nói rằng Thập trụ Bồ-tát dầu thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng.
Này thiện nam tử! Thủ-lăng gọi là nhất thiết sự tất cánh, Nghiêm là kiên, nhất thiết sự tất cánh mà đặng kiên cố gọi là Thủ-lăng-nghiêm. Do đây nên nói rằng Thủ-lăng nghiêm định gọi là Phật tánh.
Thập đại địa, trong Nhị Giải Giới Thân Túc Luận, quyển thượng, tờ 1 kể rõ: Một là thọ, hai là tưởng, ba là tư, bốn là xúc, năm là tác ý, sáu là dục, bảy là thắng giải, tám là niệm, chín là tam-ma-địa và mười là tuệ.
Phật định nghĩa Thủ-lăng-nghiêm. Thủ-lăng gọi là nhất thiết sự tất cánh, tất cánh là cùng tột hay rốt ráo.
Nghiêm là kiên, là cứng chắc; tức là tất cả việc được rốt ráo mà kiên cố, thì gọi là Thủ-lăng-nghiêm.
Vì Phật tánh là bất sanh bất diệt nên nói là kiên cố, chẳng có gì phá hoại được, cùng tột của tất cả pháp nên là rốt ráo.
Này thiện nam tử! Một lúc nọ ta ở bên sông Ni-liên-thiền, bảo A-nan rằng: Nay ta muốn tắm rửa, ông nên lấy y và đem tháo đậu. Ta vào trong nước, tất cả loài chim cùng những loài ở trên đất, ở dưới nước đều tụ đến xem ngó ta. Lúc đó lại có năm trăm vị Phạm chí đi đến bờ sông bảo nhau rằng: Thế nào mà được thân kim cương? Nếu giả sử ông Cù-đàm chẳng nói đoạn kiến, ta sẽ theo ông để thỉnh thị trai pháp.
Này thiện nam tử! Lúc đó ta dùng tha tâm trí biết tâm niệm của các Phạm chí, bèn bảo họ rằng: Tại sao cho rằng ta nói đoạn kiến?
Các Phạm chí đáp: Lúc trước ở trong các kinh Cù-đàm nói tất cả chúng sanh đều không có ngã, đã nói không ngã sao lại chẳng phải đoạn kiến? Nếu không ngã thời ai trì giới? Ai phá giới?
Này các Phạm chí! Ta nói tất cả chúng sanh đều không ngã. Ta cũng thường tuyên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Phật tánh đó há chẳng phải là ngã ư? Do nghĩa này nên ta chẳng nói đoạn kiến. Vì tất cả chúng sanh chẳng thấy Phật tánh nên là vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, đây thời gọi là nói đoạn kiến vậy.
Phật dẫn chuyện một hôm Phật đến sông Ni-liên-thiền, bảo ngài A-nan đem nước tháo đậu (nước tro) đến cho ngài tắm. Chim, cá, tôm… tụ tập lại nhìn ngài, chúng Phạm chí cũng đến xem khen thân Phật là thân kim cương nhưng cho rằng Phật nói pháp thuộc về đoạn kiến nên không mời Phật thọ trai.
Phật biết như vậy bèn hỏi họ, tại sao ta nói thuộc đoạn kiến? Chúng Phạm chí nói rằng, lúc trước Phật nói không có ngã thì cái gì trì giới, cái gì phá giới? Như vậy tức là đoạn kiến. Phật nói trước ngài nói vô ngã, nhưng ngài cũng nói Phật tánh nên không phải đoạn kiến. Vì chúng sanh chẳng thấy Phật tánh nên nói là vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh.
Lúc đó các Phạm chí nghe nói Phật tánh chính là ngã, liền phát tâm vô thượng Bồ-đề, đồng thời xuất gia tu đạo Bồ-đề. Tất cả những loài chim bay cá lội, thú chạy cũng đều phát tâm vô thượng Bồ-đề, đã phát tâm rồi chúng nó liền được bỏ thân chim thú.
Này thiện nam tử! Phật tánh đây thật chẳng phải ngã, vì chúng sanh nên nói là ngã. Vì có nhân duyên nên Như Lai nói vô ngã là ngã, mà thật là vô ngã. Dầu nói như vậy nhưng không hư vọng. Vì có nhân duyên, Như Lai nói ngã là vô ngã, mà thật là có ngã. Vì thế giới chúng sanh nên dầu nói vô ngã mà không hư vọng. Phật tánh vô ngã Như Lai nói là ngã, vì Phật tánh là thường. Như Lai là ngã mà nói là vô ngã, vì được tự tại.”
Chúng Phạm chí nghe Phật nói đều phát tâm tu hành được đạo Bồ-đề, chim cá nghe Phật nói cũng đều phát tâm mà bỏ thân chim thân cá.
Phật giải thích có khi ngài nói là ngã, có lúc nói vô ngã. Tại sao? Khi chúng sanh nặng chấp thân này là ngã, tâm hiểu biết là ngã thì Phật nói vô ngã để phá chấp đó. Khi chúng sanh thấy thân này vô ngã, rồi bỏ luôn không chấp nhận Phật tánh, thì lúc đó Phật nói Phật tánh là ngã để chúng sanh nhận ra trong vô ngã vẫn còn có Phật tánh. Phật dùng phương tiện hoặc nói có ngã hoặc nói vô ngã đều là vì lợi ích cho chúng sanh, vì muốn độ chúng sanh, chứ không bị hạn cuộc như chúng ta nói đâu là chấp khư khư đó.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như Kim Cang lực sĩ, do cớ gì mà tất cả chúng sanh chẳng được thấy?”
Phật nói: “Này thiện nam tử! Như sắc pháp dầu có màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hình chất dài ngắn, mà kẻ mù chẳng thấy (vì chẳng thấy nên người mù nói là không có). Dầu chẳng thấy nhưng cũng chẳng thể nói rằng không có xanh, vàng, đỏ, trắng hình chất dài ngắn. Vì dầu rằng người mù chẳng thấy, nhưng người mắt sáng thời được thấy.
Phật tánh cũng như vậy, tất cả chúng sanh dầu chẳng được thấy, nhưng Thập trụ Bồ-tát thấy được một ít phần, đức Như Lai thời thấy rõ hoàn toàn. Thập trụ Bồ-tát thấy Phật tánh như đêm tối thấy hình sắc, đức Như Lai thấy Phật tánh như giữa ban ngày thấy hình sắc.
Như người mắt lòa thấy hình sắc chẳng rõ ràng, lương y điều trị, do công dụng của thuốc nên được rõ ràng. Thập trụ Bồ-tát cũng như vậy, dầu thấy Phật tánh nhưng chẳng được rõ ràng, nhờ năng lực của Thủ-lăng nghiêm tam-muội mà được thấy rõ ràng.
Nếu tất cả đều có Phật tánh thì tất cả phải đều thấy, tại sao không thấy? Tất cả sự vật đủ màu sắc xanh vàng đỏ trắng, có hình tướng dài ngắn… trước mắt, nhưng người mù không thấy, cho là không có gì. Người sáng mắt thì thấy rõ. Ví dụ này thật rõ ràng, người mắt sáng là Phật; Bồ-tát thì thấy mập mờ và người mù dụ cho chúng sanh thì hoàn toàn không thấy Phật tánh, nếu gặp lương y có thuốc trị mắt lành thì sẽ được thấy. Thập trụ Bồ-tát cũng vậy, dù thấy Phật tánh nhưng chẳng được rõ ràng, nhờ năng lực của Thủ-lăng nghiêm tam-muội mà được thấy rõ ràng.
Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, ngài Mã Minh nói Chân như tam-muội. Chân như chỉ cho Phật tánh, Thủ-lăng-nghiêm cũng chỉ cho Phật tánh. Chúng ta có khi cũng thấy được Phật tánh mờ mờ rồi mất, như đêm tối thấy chậu hoa ở phía trước không rõ, dùng đèn pin chiếu vào ắt sẽ thấy rõ. Nhưng nếu chiếu vào rồi lại tắt thì không thấy, liên tục như thế thì cũng sẽ mập mờ không rõ. Vậy muốn thấy rõ thì phải rọi đèn vào nó luôn. Cũng vậy sở dĩ chúng ta không thấy được Phật tánh luôn vì bị phiền não ngăn che, nên lâu lâu chợt hiện rồi mất. Nếu dùng đèn Bát-nhã chiếu soi, thấy được Phật tánh và sống với nó luôn luôn là sống với Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, do sức đó mà thấy được rõ ràng, như vậy chúng ta tu Thủ-lăng-nghiêm tam-muội mà không biết.
Này thiện nam tử! Nếu có người thấy tất cả pháp là vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, thấy chẳng phải tất cả pháp cũng là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, người như vậy thời chẳng thấy Phật tánh.
Trên đây nói tất cả pháp đó là nói sanh tử. Còn chẳng phải tất cả pháp đó là nói Tam bảo.
Hàng Thanh văn Duyên giác thấy tất cả pháp là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, thấy chẳng phải tất cả pháp cũng là vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, vì thế nên chẳng thấy Phật tánh.
Tất cả pháp tức là những pháp hữu vi mà thấy vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh là đúng rồi. Chẳng phải pháp là chỉ cho Phật tánh. Nếu Phật tánh mà mình cũng thấy vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, thì làm sao thấy Phật tánh được.
Trong kinh cũng hay có ví dụ: Như người đãi vàng lẫn trong sình đất. Nếu họ chỉ thấy sình đất rồi đem đổ đi thì đổ luôn cả vàng. Ngược lại thấy trong đó có chút ít cát vàng lại cho là vàng hết, bưng luôn cả thúng. Cả hai đều không được vàng. Bỏ hết cũng giống như định của Thanh văn Duyên giác, nghĩa là thấy các pháp sanh tử là vô thường, vô lạc, vô ngã, bất tịnh. Đối với những pháp không phải sanh tử tức là Phật tánh cũng lại cho là vô thường vô lạc vô ngã bất tịnh, làm sao thấy Phật tánh được.
Thập trụ Bồ-tát thấy tất cả pháp là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, còn chẳng phải tất cả pháp thời phần ít là thường, lạc, ngã, tịnh do đây nên trong mười phần thấy được một phần.
Chư Phật Thế Tôn thấy tất cả pháp là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, thấy chẳng phải tất cả pháp là thường, lạc, ngã, tịnh. Vì thế nên Như Lai thấy Phật tánh như xem trái a-ma-lặc trong bàn tay. Do nghĩa này nên Thủ-lăng nghiêm định gọi là tất cánh.
Này thiện nam tử! Như đêm mùng một dầu chẳng thấy mặt trăng nhưng chẳng được nói là không. Phật tánh cũng như vậy, tất cả phàm phu dầu chẳng được thấy, cũng chẳng được nói rằng không có Phật tánh.
Này thiện nam tử Phật tánh là mười trí lực, bốn vô sở úy, đại bi tam niệm. Tất cả chúng sanh đều có ba thứ ấy, vì sau khi phá trừ phiền não thời được thấy. Hàng nhất-xiển đề sau khi phá trừ thời có thể được ba thứ ấy. Do nghĩa này nên Phật thường tuyên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Ngày xưa đêm ba mươi mồng một nói có trăng người ta không hiểu, nhưng bây giờ ai cũng biết mặt trăng quay chung quanh trái đất, khi không khuất thì thấy, khi nào khuất thì không thấy. Cũng vậy Phật tánh lúc nào cũng có, nhưng vì vô minh che đậy nên mình không thấy, nếu phá được phiền não vô minh thì thấy, chứ khi không thấy không được nói rằng không có Phật tánh.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đều đồng có mười hai nhân duyên, cũng có nội, cũng có ngoại.
Những gì là mười hai?
Phiền não quá khứ gọi là “vô minh”. Nghiệp quá khứ gọi là “hành”. Trong đời hiện tại, lúc sơ khởi thọ thai gọi là “thức”. Năm phần nhập thai chưa đủ bốn căn gọi là “danh sắc”. Đầy đủ bốn căn gọi là “lục nhập”. Chưa phân biệt khổ vui gọi là “xúc”. Nhiễm tập một ái gọi là “thọ”. Quen gần ngũ dục thời gọi là “ái”. Tham cầu trong và ngoài thời gọi là “thủ”. Vì sự trong ngoài mà khởi nghiệp thân, khẩu, ý đây gọi là “hữu”. Thức đời hiện tại gọi là vị lai “sanh”. Hiện tại danh sắc, lục nhập, xúc, thọ thời gọi là vị lai “lão, bệnh, tử” vậy. Đây gọi là mười hai nhân duyên.
Khi nhập thai chưa có những bộ phận mà chỉ có phần tinh thần với phần vật chất hòa hợp lại chứ chưa có rõ thân, gọi là danh sắc. Khi có thân rồi có xúc chạm, có ưa thích… một ái là chìm trong cái ưa thích, thì khoảng đó ở hiện tại gọi là lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, còn vị lai thì gọi là lão, bệnh, tử.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh dầu có mười hai nhân duyên như vậy, hoặc có kẻ chưa đủ như lúc ca-la-lã (bào thai chưa đủ hình tướng) chết thời không có mười hai. Từ sanh đến lão tử thời đủ mười hai.
Chúng sanh cõi Sắc không có ba thứ thọ, ba thứ xúc, ba thứ ái, không có già bệnh, nhưng cũng được gọi là đầy đủ mười hai.
Chúng sanh cõi Vô sắc thời không có sắc nhẫn đến không lão bệnh, nhưng cũng được gọi là đủ mười hai, vì quyết định được vậy. Vì thế nên nói rằng chúng sanh đồng đầy đủ có mười hai nhân duyên.
Phật tánh cũng như vậy, tất cả chúng sanh quyết định sẽ đặng thành vô thượng Bồ-đề. Do đây nên Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Cõi Sắc tuy không có ba thứ thọ, ba thứ xúc, ba thứ ái, không có già bệnh, nhưng cũng được gọi là đầy đủ mười hai. Chúng sanh cõi Vô sắc không có sắc cho đến không lão bệnh, nhưng cũng được gọi là đủ mười hai, tức là sau này nếu họ hết phước bị đọa lại họ cũng đủ mười hai nhân duyên. Dù cõi Sắc hay Vô sắc có những cái không có đủ nhưng cũng nói được đủ, vì quyết định được nên nói rằng có.
Này thiện nam tử! Núi Tuyết có thứ cỏ tên nhẫn nhục, nếu bò ăn cỏ này thời sanh chất đề hồ. Trên núi ấy lại có thứ cỏ khác, nếu bò ăn thứ cỏ ấy thời không sanh chất đề hồ. Dầu không sanh chất đề hồ nhưng chẳng thể nói rằng trong núi Tuyết không có cỏ nhẫn nhục.
Phật tánh cũng như vậy. Núi Tuyết là nói Như Lai, cỏ nhẫn nhục là nói đại Niết-bàn, những cỏ khác là nói mười hai bộ kinh. Chúng sanh nếu có thể được nghe, được học hỏi đại Niết-bàn thời thấy được Phật tánh. Trong mười hai bộ kinh dầu chẳng nghe có, nhưng chẳng thể nói rằng không có Phật tánh.
Người học kinh Đại Niết-bàn sẽ thấy Phật tánh, vì kinh Niết-bàn quả quyết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chúng ta nghe rồi nhận hiểu tin được thì gọi đó là thấy. Bồ-tát Thập trụ thấy mờ mờ, mình đâu có thấy được rõ nhưng mà nhờ tin nhận, đó là thấy.
Này thiện nam tử! Phật tánh đây cũng là sắc, cũng là chẳng phải sắc, chẳng phải sắc chẳng phải là chẳng phải sắc; cũng là tướng cũng là chẳng phải tướng, chẳng phải tướng chẳng phải là chẳng phải tướng; cũng là một cũng là chẳng phải một, chẳng phải một chẳng phải là chẳng phải một; chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải chẳng phải thường chẳng phải chẳng phải đoạn; cũng là có cũng là không, chẳng phải có chẳng phải không; cũng là tận cũng là chẳng phải tận, chẳng phải tận chẳng phải là chẳng phải tận; cũng là nhân cũng là quả, chẳng phải nhân chẳng phải quả; cũng là nghĩa cũng là chẳng phải nghĩa, chẳng phải nghĩa chẳng phải là chẳng phải nghĩa; cũng là danh tự cũng là chẳng phải danh tự, chẳng phải danh tự chẳng phải là chẳng phải danh tự; cũng là khổ cũng là lạc, chẳng phải khổ chẳng phải lạc; cũng là ngã cũng là chẳng phải ngã, chẳng phải ngã chẳng phải là chẳng phải ngã; cũng là không cũng là chẳng phải không, chẳng phải là không chẳng phải là chẳng phải không.
Thế nào là sắc? Vì là thân kim cang. Thế nào là phi sắc? Vì mười tám pháp bất cộng chẳng phải là sắc pháp. Thế nào là chẳng phải sắc, chẳng phải là chẳng phải sắc? Vì sắc cũng chẳng phải sắc không có tướng quyết định.
Thế nào là tướng? Vì là ba mươi hai tướng. Thế nào là chẳng phải tướng? Vì tất cả chúng sanh chẳng hiện được tướng tốt. Thế nào là chẳng phải tướng chẳng phải là chẳng phải tướng? Vì tướng cùng chẳng phải tướng không quyết định vậy.
Thế nào là một? Vì tất cả chúng sanh đều là nhất thừa. Thế nào là chẳng phải một? Vì nói ba thừa vậy. Thế nào là chẳng phải một chẳng phải là chẳng phải một? Vì vô số pháp vậy.
Thế nào là chẳng phải thường? Vì từ nơi duyên mà thấy.
Thế nào là chẳng phải đoạn? Vì lìa đoạn kiến vậy.
Thế nào chẳng phải là chẳng phải thường, chẳng phải là chẳng phải đoạn? Vì không chung không thủy vậy.
Thế nào là có? Vì tất cả chúng sanh đều có. Thế nào là không? Vì từ phương tiện khéo mà đặng thấy vậy. Thế nào là chẳng phải có chẳng phải không? Vì hư không tánh vậy.
Thế nào gọi là tận? Vì đặng Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Thế nào là chẳng phải tận? Vì là thường vậy. Thế nào là chẳng phải tận chẳng phải là chẳng phải tận? Vì tất cả tướng tận dứt hết vậy.
Thế nào là nhân? Vì liễu nhân vậy. Thế nào là quả? Vì quả quyết định vậy. Thế nào là chẳng phải nhân chẳng phải quả? Vì là thường vậy.
Thế nào là nghĩa? Vì đều có thể nhiếp lấy nghĩa không ngại. Thế nào là chẳng phải nghĩa? Vì chẳng thể nói vậy. Thế nào là chẳng phải nghĩa chẳng phải là chẳng phải nghĩa? Vì rốt ráo không vậy.
Thế nào là danh tự? Vì có tên gọi vậy. Thế nào là chẳng phải danh tự? Vì có tên mà thật không tên vậy. Thế nào là chẳng phải danh tự chẳng phải là chẳng phải danh tự? Vì dứt tất cả danh tự vậy.
Thế nào là cũng khổ cũng lạc? Vì các thọ duyên khởi vậy, Thế nào là chẳng phải khổ chẳng phải lạc? Vì dứt tất cả thọ vậy.
Thế nào là chẳng phải ngã? Vì chưa đầy đủ được tám thứ tự tại vậy. Thế nào là chẳng phải chẳng phải ngã? Vì là thường vậy. Thế nào là chẳng phải ngã chẳng phải là chẳng phải ngã? Vì chẳng tạo tác chẳng lãnh thọ vậy.
Thế nào là không? Vì là đệ nhất nghĩa không. Thế nào là chẳng phải không? Vì là thường vậy. Thế nào là chẳng phải không chẳng phải là chẳng phải không? Vì có thể là chủng tử cho pháp lành vậy.
Này thiện nam tử! Nếu có người tư duy hiểu rõ được kinh Đại Niết-bàn những nghĩa như vậy, nên biết rằng người này thấy được Phật tánh. Phật tánh đó chẳng thể nghĩ bàn, là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải Thanh văn Duyên giác biết được.
Này thiện nam tử! Phật tánh chẳng phải là ấm, giới, nhập, chẳng phải trước không nay có, chẳng phải đã có rồi trở lại không, từ nơi nhân duyên lành mà chúng sanh đặng thấy.
Ví như khối sắt đen để vào lửa đốt thời đỏ, lấy ra nguội thời trở lại đen. Dầu vậy nhưng màu đen này chẳng phải trong chẳng phải ngoài, do nhân duyên mà có.
Phật tánh cũng như vậy, lửa phiền não tắt dứt thời chúng sanh được nghe được thấy.
Này thiện nam tử! Như hột giống biến diệt thời mầm mộng mọc lên, nhưng tánh mầm mộng này chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Nhẫn đến bông trái cũng như vậy, đều theo nơi duyên mà có.
Kinh Đại Niết-bàn vi diệu này thành tựu đầy đủ vô lượng công đức. Phật tánh cũng như vậy đều là vô lượng vô biên công đức kết hợp mà thành tựu.”
Không phải trước có nay không, hay là có rồi trở lại không… vì Phật tánh lúc nào cũng còn, lúc nào cũng có, chỉ do không thấy nên nói không có, khi thấy được thì nói rằng mới thấy, chứ sự thật xưa nay không đổi. Bao giờ lửa phiền não hết rồi thì chúng sanh được thấy được nghe Phật tánh. Nếu lửa phiền não còn thì chúng sanh không được nghe không được thấy.
Như vậy kết luận lại đoạn này Phật chỉ rõ Phật tánh là pháp không nhất định là hữu hay vô…, mà tùy duyên khiến cho thấy được đầy đủ hay là không thấy.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Bồ-tát thành tựu đầy đủ bao nhiêu pháp thời đặng thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng? Chư Phật Thế Tôn thành tựu bao nhiêu pháp mà được thấy rõ ràng?” (Sự tu hành hơn kém khác ở chỗ nào?)
Phật bảo: “Này thiện nam tử! Bồ tát thành tựu đầy đủ mười pháp dầu được thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng: một là thiểu dục, hai là tri túc, ba là tịch tịnh, bốn là tinh tấn, năm là chánh niệm, sáu là chánh định, bảy là chánh huệ, tám là giải thoát, chín là tán thán giải thoát, mười là dùng đại Niết-bàn giáo hóa chúng sanh.”
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Thiểu dục cùng tri túc có gì sai khác?”
Phật bảo: “Này thiện nam tử! Thiểu dục là chẳng cầu chẳng lấy. Tri túc là lúc đặng ít, lòng không hối hận. Thiểu dục là ít có mong muốn. Tri túc là chỉ vì pháp sự lòng chẳng sầu não.
Bồ-tát Sư Tử Hống hỏi Phật rằng các vị Bồ-tát tại sao thấy Phật tánh không rõ ràng? Chư Phật vì sao mà thấy Phật tánh rõ ràng? Sự tu hành hơn kém khác ở chỗ nào?
Sở dĩ Bồ-tát thấy được Phật tánh không rõ ràng là do tu mười pháp.
Thiểu dục là ít muốn. Tri túc là biết đủ. Theo nghĩa thường hai thứ gần như nhau không có sai biệt bao nhiêu. Ở đây Phật giản trạch: Thiểu dục là chẳng cầu tức là chẳng tìm kiếm. Tri túc là được bao nhiêu cũng cảm thấy đủ chứ không có hối hận. Vì mình biết đủ thì bao nhiêu cũng đủ. Ví dụ như có năm ngàn, ít quá muốn mười ngàn, đó gọi là chưa biết đủ. Còn có bao nhiêu mình cũng thấy đủ, được ít mà lòng không hối hận, không đòi hỏi hay muốn thêm gì nữa. Đó là Phật giải thích trường hợp thứ nhất.
Thiểu dục là ít mong muốn, Tri túc là chỉ vì pháp sự lòng chẳng sầu não. Ví dụ người ta đến cúng chùa năm trăm thì chúng ta làm Phật sự năm trăm, nếu họ cúng một ngàn thì mình làm Phật sự một ngàn, không có sầu não. Còn nếu người ta cúng năm trăm chúng ta nghĩ không có đủ để lo công chuyện rồi sanh ra buồn phiền, đó là chưa tri túc. Mình làm vì Phật sự thì được bao nhiêu cũng cảm thấy đủ, có nhiều làm nhiều có ít làm ít, nếu nói thấy không đủ còn phải lo, còn phải tính, phải chạy chọt… đó là gốc của sầu não. Nếu mình biết đủ thì không có sầu não.
Tóm lại thiểu dục là ít có lòng mong muốn, tri túc là được bao nhiêu cũng đủ. Người thế gian ăn mặc thế nào không biết, còn mình có cơm hẩm thì ăn cơm hẩm, có áo vải thì mặc áo vải, mình cảm thấy ưng ý chứ không đòi hỏi thêm, không cảm thấy thiếu, như vậy là tri túc. Biết đủ thì ở trường hợp nào cũng thấy đủ. Nếu là người xuất gia thì làm Phật sự cũng tùy theo của mình có, không đòi hỏi phải nhiều, phải quá, đó là tri túc.
Này thiện nam tử! Dục đó có ba: một là ác dục, hai là đại dục, ba là dục dục.
Ác dục là nếu có Tỳ-kheo sanh lòng tham dục muốn làm thượng thủ của tất cả đại chúng, muốn cho tất cả chúng tăng thuận theo phía sau ta, khiến bốn bộ chúng thảy đều cúng dường cung kính tán thán tôn trọng ta. Khiến ta vì chúng thuyết pháp trước nhất, đều muốn cho tất cả tin thọ lời của ta. Cũng khiến quốc vương, quan lớn, trưởng giả đều cung kính ta. Khiến ta được nhiều y phục, đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà cửa tốt đẹp. Đây là cầu muốn sanh tử nên gọi là ác dục.
Nếu Tỳ-kheo có lòng mong muốn đi tới đâu cũng làm thượng thủ, là kẻ bề trên dẫn đầu thiên hạ. Muốn mọi người luôn đi sau, nối đuôi theo mình chứ không có quyền bằng mình. Muốn cho ai cũng cúng dường tán thán mình trước. Tục lệ ở Ấn Độ, sau khi Phật thọ trai tại nhà thí chủ nào, ngài đều thuyết pháp cho họ, trường hợp không có Phật thì vị tôn túc lớn nhất sẽ vì chúng mà thuyết pháp, chúng đây là những Phật tử cúng dường. Nếu Tỳ-kheo nào muốn thuyết pháp trước nhất, tức là muốn chứng tỏ ta đây là bậc trên hết thì đó là ác Tỳ-kheo.
Tóm lại, ác dục là người tu mà muốn được thiên hạ tôn sùng là cao cả, muốn được ai nấy đều thuận theo mình, muốn được thiên hạ từ quan quyền cho đến người giàu có cung kính và tất cả vật dụng mình đều được ưu tiên hết.
Đại dục là thế nào? Nếu có Tỳ-kheo sanh lòng cầu muốn làm thế nào cho bốn bộ chúng thảy đều biết ta được bậc Sơ trụ nhẫn đến Thập trụ, được vô thượng Bồ-đề, được quả A-la-hán nhẫn đến quả Tu-đà-hoàn, ta được Tứ thiền nhẫn đến bốn trí vô ngại. Đây là vì lợi dưỡng nên gọi là đại dục.
Dục dục là nếu có Tỳ-kheo muốn sanh Phạm thiên, Ma thiên, Tự Tại thiên, Chuyển luân thánh vương, hoặc Sát-đế lợi, cư sĩ, Bà-la-môn, đều được tự tại. Vì lợi dưỡng nên gọi là dục dục.
Đại dục khác hơn ác dục, ác dục thì chỉ mong muốn được thế gian cung kính, còn đại dục là muốn cho người ta thấy mình chứng quả thánh, muốn người ta biết mình đã được chứng quả từ bậc Sơ trụ cho đến Thập trụ, được vô thượng Bồ-đề, được quả A-la-hán cho đến quả Tu-đà-hoàn, ta được Tứ thiền nhẫn đến bốn trí vô ngại. Muốn người khác biết mình chứng quả để làm gì? Để được cúng dường nhiều, được nhiều lợi dưỡng. Đó là đại dục.
Biển Dục dục là muốn đời sau của mình hoặc sanh lên cõi trời Phạm thiên, Ma thiên v.v… hưởng tất cả dục lạc.
Ba thứ ác dục, đại dục, dục dục đều là tâm mong lợi dưỡng trong đời này và đời sau.
Nếu chẳng bị ba thứ ác dục này làm hại thời gọi là thiểu dục.
Dục đó gọi là hai mươi lăm ái, không có hai mươi lăm ái như vậy thời gọi là thiểu dục. Chẳng cầu những sự mong muốn vị lai thời gọi là thiểu dục. Được mà chẳng tham đắm thời gọi là tri túc. Chẳng cầu cung kính gọi là thiểu dục, được mà chẳng chứa nhóm gọi là tri túc.
Này thiện nam tử! Có lúc thiểu dục chẳng gọi là tri túc, cũng có tri túc chẳng gọi là thiểu dục, cũng có thiểu dục mà cũng tri túc, cũng có chẳng tri túc chẳng thiểu dục.
Thiểu dục đó là nói bậc Tu-đà hoàn. Tri túc đó là nói Bích-chi Phật. Thiểu dục tri túc đó là nói A-la-hán. Chẳng thiểu dục chẳng tri túc đó là nói Bồ-tát.
Thiểu dục là không mong hưởng dục lạc đời sau, không mong cầu người cung kính. Tri túc là đối với tất cả sự việc đến thì đến, không tham đắm, có tiền của cũng không chứa giữ, vì biết đủ nên không chứa giữ. Tu-đà-hoàn có thiểu dục vì không còn tham dục lạc. Bích-chi Phật có tri túc vì biết đủ trong quả vị của mình.
A-la-hán có thiểu dục và tri túc. Bồ-tát không có thiểu dục và tri túc, tại sao? Bồ-tát đã vượt lên trên Tu-đà-hoàn nên chẳng thiểu dục, vượt trên Bích-chi Phật nên chẳng tri túc.
Nói rộng hơn về sự khác biệt giữa chư Bồ-tát với Bích-chi Phật và A-la-hán. Bích-chi Phật lúc nào cũng tri túc, biết mình có trí tuệ, an phận trong trí tuệ mà nhập Niết-bàn. Các vị A-la-hán thì tâm không còn tham muốn nên thiểu dục, lúc nào cũng thấy mình đầy đủ đạo hạnh rồi nên tri túc, an phận trong đó không tiến lên nữa. Bồ-tát thì lúc nào cũng muốn đạt đến quả vị Phật nên không có thiểu dục, chẳng những mong muốn cho mình mà còn mong muốn cho chúng sanh, Bồ-tát không độ một người mà phải độ hết chúng sanh mới chịu, nên không có tri túc, độ bao nhiêu cũng chưa rồi. Bồ-tát vượt hơn tất cả, chẳng thiểu dục chẳng tri túc, nhưng không phải phàm phu. Phàm phu tham dục lạc thế gian nên không có thiểu dục và tri túc, Bồ-tát vì nguyện lớn nên không dừng ở quả vị của mình.
Này thiện nam tử! Thiểu dục tri túc lại có hai thứ: một là thiện, hai là bất thiện. Bất thiện là nói phàm phu. Thiện là nói thánh nhân và Bồ-tát. Tất cả thánh nhân dầu chứng được đạo quả mà chẳng tự xưng nói vì chẳng tự xưng nói nên trong lòng chẳng não hận, đây gọi là tri túc.
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát tu tập kinh Đại Niết-bàn vì muốn thấy Phật tánh nên tu tập thiểu dục tri túc.
Thiểu dục tri túc lại có hai ý: một là thiện, hai là bất thiện. Vì sao thiểu dục tri túc lại là bất thiện? Nhiều người phê bình chủ trương thiểu dục tri túc của đạo Phật là tiêu cực, không làm cho xã hội tiến bộ. Ví dụ người làm nông mỗi năm làm được hai mươi giạ lúa, thấy đủ ăn rồi không làm thêm nữa. Như người thợ hồ, mỗi ngày làm được mười ngàn đồng, làm một ngày nghỉ một ngày, vì biết đủ nên không làm nhiều. Nếu ai cũng ít muốn biết đủ như thế, ở yên trong phạm vi của mình không muốn vươn lên, xã hội sẽ càng ngày càng lùi không tiến triển. Đó là thiểu dục tri túc bất thiện.
Các Bồ-tát tu tập không phải vì mình mà vì người. Như nông dân làm ruộng được hai chục giạ lúa đủ ăn, nhưng thương người đói nên phải làm một trăm gia để chia sớt cho họ. Bồ-tát đối với mình đã tri túc, nhưng tu tập nhiều hơn để cứu giúp mọi người, đó là thiểu dục tri túc thiện, lợi ích lớn lao. Khác hẳn người không tri túc, có được bao nhiêu đều giữ lại cho mình không giúp đỡ ai.
Phật dạy thiểu dục tri túc để giảm lòng tham lam ích kỷ cá nhân, ngài không khuyến khích thiểu dục tri túc bất thiện, cho sự tu tập của mình là đầy đủ, không tiến lên. Các bậc thánh tu được đạo quả, không tự xưng không khoe khoang, đó là thiểu dục tri túc thiện, tích cực. Các ngài biết đủ nơi mình nhưng luôn luôn cố gắng làm lợi ích chúng sanh, không an trụ nơi quả vị. Nói chẳng tri túc là khen ngợi công hạnh Bồ-tát độ sanh không ngừng nghỉ, độ hết chúng sanh mới thôi. Nói không thiểu dục tri túc là ý khuyến khích việc tu tập không dừng không đủ, đối với tự lợi và lợi tha lúc nào cũng tích cực, làm càng nhiều càng tốt. Bồ-tát trải qua vô số đời làm việc độ sanh không mệt mỏi, không phải là thiểu dục tri túc bất thiện.
Thế nào là tịch tịnh? Tịch tịnh có hai: một là tâm tịnh, hai là thân tịnh. Thân tịch tịnh thời trọn chẳng gây tạo ba điều ác nơi thân. Tâm tịch tịnh cũng chẳng gây tạo ba điều ác nơi ý, đây gọi là thân tâm tịch tịnh.
Thân tịch tịnh trọn chẳng gần gũi bốn chúng, chẳng dự việc của bốn chúng. Tâm tịch tịnh là chẳng quen tập tham dục, sân khuể, ngu si. Đây gọi là thân tâm tịch tịnh. Hoặc có Tỳ-kheo thân dầu tịch tịnh mà tâm chẳng tịch tịnh. Có Tỳ-kheo thân chẳng tịch tịnh mà tâm tịch tịnh. Có Tỳ-kheo thân tâm đều tịch tịnh. Lại có Tỳ-kheo thân tâm đều chẳng tịch tịnh.
Người thân tịch tịnh mà tâm chẳng tịch tịnh, như có Tỳ-kheo ngồi thiền chỗ vắng vẻ xa lìa bốn chúng mà trong lòng luôn chứa nhóm tham dục, sân khuể, ngu si.
Người tâm tịch tịnh mà thân chẳng tịch tịnh, như có Tỳ-kheo gần gũi bốn chúng cùng quốc vương, đại thần mà trong lòng dứt tham, sân, si. Người thân tâm đều tịch tịnh, chính là chư Phật và Bồ-tát.
Tịch tịnh có hai, tâm và thân. Thân tịch tịnh, đối với cư sĩ là không sát sanh, không trộm cắp và không tà dâm; với người xuất gia là không sát hại, không trộm cắp và không dâm dục. Tâm tịch tịnh là không tham không sân không si. Người nào thân tránh được ba điều ác, tâm không tham sân si thì thân tâm được tịch tịnh.
Phật giải thích rộng hơn, thân tịch tịnh là không tham dự việc bốn chúng. Bốn chúng là chỉ cho bốn giai cấp Ấn Độ, là chỗ ồn náo của mọi người. Tâm tịch tịnh là không huân tập tham sân si. Thêm nữa thân tâm tịch tịnh chia làm bốn trường hợp, có khi được cái này, có khi mất cái kia.
Trường hợp thứ nhất, thân tịch tịnh mà tâm không tịch tịnh. Vị Tỳ-kheo tìm chỗ vắng, rừng cây, ngồi thiền một mình, nhưng nhớ giận người này phiền người kia, tham việc nọ tính việc kia, tâm cứ lăng xăng. Như vậy thân ở chỗ vắng vẻ gọi là thân tịch tịnh, tâm còn lăng xăng lộn xộn nên gọi là tâm chưa tịch tịnh.
Trường hợp thứ hai, vị Tỳ-kheo ở chỗ ồn náo, tiếp người này nói chuyện với người kia, nhưng lòng dứt tham sân si. Đó là thân không tịch tịnh mà tâm tịch tịnh.
Trường hợp thứ ba, cả thân cả tâm đều tịch tịnh, chính là Phật Bồ-tát,
Điều quan trọng là trong khi tu làm sao cho tâm tịch tịnh, nếu chưa được như Phật Bồ-tát cả thân tâm đều tịch tịnh. Có người nói, tôi không cần lên núi non làm gì, tôi cứ giao thiệp chỗ này chỗ nọ mà trong tâm không tham, sân, si. Nói thì nghe hay nhưng ai biết trong tâm của người ấy. Điều đó chúng ta phải tự nghiệm xét lấy. Nếu thân ở chỗ vắng vẻ, và tâm luôn dứt tham, sân, si, thì đó là điều đáng ngợi khen. Nếu chưa được như Bồ-tát thì cố gắng ở chỗ vắng vẻ để điều phục tâm.
Người thân tâm đều chẳng tịch tịnh chính là các phàm phu, vì phàm phu thân tâm dầu yên tịnh nhưng không thể quán sát sâu xa lý vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh, do đây nên phàm phu không thể tịch tịnh được thân, khẩu, ý ba nghiệp.
Hạng nhất-xiển-đề phạm bốn tội nặng, tạo năm tội nghịch cũng chẳng gọi là thân tâm tịch tịnh.
Thế nào là tinh tấn? Nếu có Tỳ-kheo muốn cho thân, khẩu, ý ba nghiệp thanh tịnh nên xa lìa tất cả hạnh nghiệp bất thiện mà tu tập tất cả nghiệp lành, đây gọi là tinh tấn.
Siêng năng tinh tấn như đây thời chuyên niệm tưởng nơi sáu chỗ, chính là Phật, Pháp, Tăng, Giới, Thí và Thiên, đây gọi là chánh niệm.
Trường hợp thứ tư, thân tâm đều không tịch tịnh, đó là phàm phu. Cũng có người tuy không ở chỗ ồn náo, nhưng không thể áp dụng trí tuệ quán sát lý vô thường. nên ba nghiệp không thể dứt sạch, Hạng nhất-xiển đề tạo nhiều tội nặng nên thân tâm chẳng tịch tịnh.
Tinh tấn, chỗ khác gọi là Tứ chánh cần. Cần mẫn dứt các điều ác, cần mẫn làm các điều lành. Dứt ác là xa lìa ba nghiệp ác, cần mẫn làm điều lành là cố gắng tu tập tất cả nghiệp lành.
Lục niệm là sáu chỗ nhớ nghĩ không quên, nhớ nghĩ Phật, Pháp, Tăng, Giới, Thí, Thiên. Chúng ta luôn nhớ Phật có đầy đủ trí tuệ từ bi, nhớ như vậy gọi là niệm Phật, không phải đọc danh hiệu Phật mà là nhớ đức từ bi và trí tuệ của Phật, để cố gắng noi theo. Nếu nhớ rộng nữa thì thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng, gọi là nhớ Phật.
Niệm Pháp là nhớ pháp của Phật dạy. Những lời dạy cao hay thấp, rốt ráo hay không, tùy theo đó chúng ta thực hành được lợi ích. Ở đây Phật chỉ cho mình đạt được Niết-bàn tối thượng, thấy được Phật tánh, ghi nhớ kinh Niết-bàn cũng gọi là nhớ pháp.
Niệm Tăng là nghĩ nhớ đến những vị tu hành đúng theo nếp của Phật, đi đúng đường của Phật và luôn luôn sống theo giới hạnh của Phật.
Niệm Giới là nghĩ nhớ đến giới luật mình đã thọ, hằng ngày gìn giữ không quên.
Niệm Thí là nghĩ nhớ hạnh bố thí, luôn nghĩ đến việc ban cho chúng sanh tài vật hoặc giảng dạy chánh pháp, hoặc ban cho họ sự an vui tin tưởng.
Niệm Thiên là nhớ nghĩ các cõi trời, tức là nhớ công đức của chư thiên, ví dụ tu thập thiện được sanh về các cõi trời Dục giới. Tu Tứ thiền được sanh về cõi trời Sắc giới. Tu bát định: định Sơ thiền cho đến Tứ thiền, rồi Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ… được sanh về cõi Vô sắc giới. Chư thiên còn có đủ công đức như vậy, người tu cầu giải thoát phải vươn lên hơn nữa. Nhớ công đức của chư thiên để tiến tu, vượt lên trên các công đức đó thì gọi là niệm Thiên, chứ không phải mong được sanh lên cõi trời.
Người nào nhớ được sáu điều này thì gọi là chánh niệm.
Người có chánh niệm thời được tam-muội, đây gọi là chánh định.
Người có chánh định, quán sát thấy các pháp dường như hư không, đây gọi là chánh huệ. Người có chánh huệ xa lìa tất cả kiết sử phiền não, đây gọi là giải thoát.
Nhân có chánh niệm như trên, tâm được an ổn lặng lẽ không lay động, gọi là được định chân chánh. Khi tâm định, trí tuệ sáng suốt quán sát các pháp đều duyên hợp, như huyễn không thật. Trí biết rõ ràng các pháp như hư không, gọi là chánh tuệ. Nhờ có chánh tuệ, tâm không tham sân si, xa lìa tất cả phiền não. Chúng ta tu hành đến được giải thoát là gốc từ niệm định tuệ đầy đủ.
Trong A-hàm, Phật nói bài kinh Tứ niệm xứ. Nếu người nào tu Tứ niệm xứ một ngày đêm tâm không lay chuyển, luôn chuyên ròng trong Tứ niệm xứ, người ấy sẽ giải thoát. Tứ niệm xứ là bốn đề mục quán tưởng ghi nhớ chuyên chú. Thứ nhất, quán thân bất tịnh, quán toàn thân từ chất đặc đến chất lỏng… không có gì sạch sẽ bền chắc, nó tạm bợ nhơ uế, Thứ hai, quán thọ là khổ, tất cả cảm thọ đều khiến chúng ta vọng tưởng cố chấp, thọ cũng vô thường tạm bợ không đáng tin. Thứ ba, quán tâm vô thường, các tâm niệm sanh diệt thay đổi không đứng yên. Thứ tư, quán pháp vô ngã, các pháp thế gian đều do duyên hợp, biến chuyển không ngừng, không có chủ tể. Nếu cứ chuyên chú quán sát, nỗ lực không ngừng nghỉ, từ một ngày đến bảy ngày cũng chứng được Sơ quả. Chúng ta tu tập nếu chuyên tâm vào đề mục quán sát khiến tham sân si không dấy khởi, tất cả chấp trước buông bỏ, dù không được quả vị nào nhưng con đường giải thoát cũng đến gần.
Chúng ta tu theo lục niệm trong kinh Đại Niết-bàn, luôn chú tâm nhớ mãi không nhớ gì khác thì cũng sẽ được tam-muội. Như có người nhớ danh hiệu đức Phật A-di-đà, niệm Nam-mô A-di-đà Phật luôn luôn như vậy. Nếu nhất tâm niệm Phật thì sẽ được chánh định, được chánh tuệ, được giải thoát. Còn người tu quán sổ tức, cứ nhớ hơi thở ra hơi thở vô, chú tâm không xao lãng thì cũng được chánh định chánh tuệ và giải thoát. Người quán thân ngũ uẩn tứ đại giả hợp, xét tới xét lui thấy thân này không thật, tạm có rồi tan hoại, như huyễn như hóa, chỉ nhớ quán xét luôn luôn không khởi niệm gì khác thì cũng được chánh định. Như vậy có trăm ngàn phương pháp tu để đưa tới chánh định, định rồi thì có tuệ, có tuệ rồi thì được giải thoát hết phiền não.
Thiền sư Bảo Thông ở ẩn tại thành Triệu Châu, một hôm Hàn Văn Công đến hỏi:- Đệ tử ở châu quận nhiều việc, xin Hòa thượng cho một câu tóm tắt hết Phật pháp.
Sư làm thinh, Văn Công không hiểu được, lúc đó ngài Nghĩa Trung làm thị giả đứng hầu, bèn gõ giường thiền ba cái.
Sư hỏi: – Làm gì?
Nghĩa Trung thưa:- Trước lấy định động, sau lấy trí nhổ.
Văn Công thưa:- Môn phong của Hòa thượng cao vót, đệ tử từ bên thị giả được chỗ vào.
Câu chuyện này chúng ta mới nghe như trò chơi, nhưng ý nghĩa rất cao sâu. Hỏi việc Phật pháp mà Hòa thượng làm thinh, Hàn Văn Công tức Hàn Dũ một vị quan của triều đình, không thể nào biết được ý chỉ. Ngài Nghĩa Trung làm thị giả biết ý nên gõ giường thiền, gõ là lay động làm cho nó bị rung rinh. Với câu trả lời của thị giả, trước lấy định động sau lấy trí nhổ, Hàn Dũ hiểu được ý Phật pháp. Phật pháp chủ yếu dạy người thoát phiền não, muốn vậy trước phải dùng sức định chấn chỉnh, làm lung lay cội gốc phiền não, rồi sau dùng trí tuệ nhổ sạch. Nếu cứ để yên phiền não chìm đắm thì khó lòng dứt sạch. Chúng ta tu, tìm xét tận cùng phiền não, thấu rõ cội gốc của nó từ đâu, lúc đó áp dụng trí tuệ tỉnh sáng để tiêu trừ, phiền não không còn lôi kéo.
Như muốn nhổ cây cắm sâu dưới đất, trước phải xúc đất chung quanh cho lỏng, lúc lắc nhiều lần rồi mới bứng lên được. Như dạy người tu thiền quán số tức, đếm từ một đến mười, kiên trì không xao lãng, tâm được định. Người niệm Phật trì chú cũng cốt tâm được định. Dùng sức định càng nhiều thì phiền não càng nới lỏng, gọi là trước dùng định động, sau dùng trí nhổ. Nếu tâm không định, trí tuệ không nhổ phiền não lên được.
Tại sao tâm không định thì quán không có sức mạnh? Chúng ta tu muốn dứt được chuyện bên ngoài, phải biết gốc của nó là tham sân si, nhất là si mê, vô minh chấp ngã. Nếu tâm cứ để bình thường, biết thân này không thật nhưng mình lầm chấp là thật, nghĩ nói như vậy nhưng thật sự không có sức mạnh. Khi chúng ta ngồi thiền, tâm thật an định tĩnh lặng lúc đó khởi quán, sức quán ấy mới mạnh gấp mười lần hai chục lần khi đang ồn náo. Pháp tu nhà Phật, định rồi mới khởi tuệ, dùng sức quán để dẹp phiền não. Nếu chỉ có định mà không có tuệ thì thành si định, không thể quán chiếu để dứt mầm sanh tử.
Vì thế nói Người có chánh định, quán sát thấy các pháp dường như hư không, đây gọi là chảnh huệ. Người có chánh huệ xa lìa tất cả kiết sử phiền não, đây gọi là giải thoát. Ví dụ chúng ta nghe câu gì trái tại xúc phạm mình, lúc đó phiền não bực bội dấy lên. Nghĩ mình là người tu, phải chặn nó, không cho tham sân sanh khởi… Nếu chỉ cạn cợt nơi đó thôi, đè nén một lúc buông ra, tham sân cũng trở lại như thường. Nếu tâm được định chuyên chú lóng lặng, phải dùng trí tuệ quán chiếu, xét thật kỹ câu nói của người không thật, thân mình không thật, không có cái ngã thật, thì lấy gì giận hờn tham sân. Quán tới quán lui, thấy tột cùng lẽ thật, thì cái tham sân đó mới tiêu hết. Pháp tu ở đây liên hệ với nhau như dây chuyền, từ chánh niệm đến chánh định, từ chánh định đến chánh tuệ, từ chánh tuệ đến giải thoát rốt ráo.
Người được giải thoát vì chúng sanh mà khen ngợi giải thoát, nói rằng giải thoát là thường hằng chẳng biến đổi đây gọi là tán thán giải thoát. Giải thoát chính là vô thượng Đại Bát-niết-bàn. Niết-bàn chính là lửa phiền não kiết sử đã tắt mất. Lại Niết-bàn gọi là nhà cửa, vì có thể ngăn mưa gió phiền não. Lại Niết-bàn gọi là quy y, vì có thể qua khỏi tất cả những sự bố úy. Lại Niết-bàn gọi là cồn bãi, vì bốn con sông lớn hung bạo chẳng thể chảy trôi. Những gì là bốn? Một là dục bạo, hai là hữu bạo, ba là kiến bạo, bốn là vô minh bạo. Do đây nên Niết-bàn gọi là cồn bãi.
Niết-bàn an lành như nhà cửa che mưa gió. Nhà cửa che mưa gió thế gian, Niết-bàn che mưa gió phiền não. Mưa gió phiền não không xâm phạm được Niết-bàn nên người được Niết-bàn là an ổn. Niết-bàn có thể qua khỏi các sự kính sợ nên làm chỗ nương tựa cho chúng sanh. Niết-bàn cũng gọi là cồn bãi hay gọi là hòn đảo vững chắc vì bốn con sông lớn không thể cuốn trôi. Bốn con sông lớn là: kiến lưu, dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu. Trong đây dùng chữ bạo để chỉ cho sự mạnh mẽ hung bạo,
Thứ nhất, dục bạo là đắm mê Dục giới, bị đắm chìm trong đó. Ví dụ chúng ta cất được ngôi chùa vừa ý, tạo cảnh vườn cũng được vừa ý, thêm được một ít đồ dùng vừa ý nữa thì lúc đó mình thích không? Thích, nên không muốn rời đi, khi chết rồi cũng trở lại chỗ đó. Đây gọi là dục bạo hay dục ái. Do ái lôi mình trong cõi Dục, khi chết quyến luyến không rời xa cõi này. Sức quyến luyến đó chẳng khác nào cơn nước lũ cuốn hết nhà cửa, vì vậy gọi nó là bạo.
Thứ hai, hữu bạo là sự chìm đắm trong cõi trời Sắc giới. Do chúng sanh thích hình tướng tốt, thích những cảnh đẹp nên sanh trong cõi trời Sắc giới. Đó cũng là dòng nước lũ hung bạo khiến chúng ta không thể thoát ra.
Thứ ba, kiến bạo là những kiến chấp, chấp chặt cái thấy của mình cho là đúng. Định kiến ấy làm cho chúng sanh phải trôi lăn trong vòng luân hồi không dứt. Kiến bạo này rất nguy hiểm, chìm đắm nặng nề, chính người tu hành cũng không tránh khỏi. Như chúng ta chấp kiến, khi tu pháp nào cho pháp đó là cứu cánh, bác bỏ những pháp khác. Phải biết vì phương tiện, muốn cho kẻ sơ cơ đủ niềm tin, có lúc phải ca tụng pháp tu của mình là cứu cánh. Nếu cứ chấp chặt pháp này là cứu cánh còn pháp kia là dở, cái thấy bị hạn cuộc, không đúng lẽ thật. Phải biết các pháp đều tùy duyên, không pháp nào có thật; như thế không bị kiến bạo làm trở ngại.
Thứ tư là vô minh bạo, là sức mạnh vô minh khiến chúng sanh mờ tối chìm đắm trong sanh tử không biết bao giờ ra khỏi
Bốn dòng sông này không thể cuốn được những người được Niết-bàn. Vì người ấy đã tựa vào cồn bãi an ổn rồi.
Lại Niết-bàn gọi là rốt ráo về, vì có thể được tất cả sự an lạc rốt ráo.
Nếu có đại Bồ-tát thành tựu đầy đủ mười pháp như vậy, thời dầu được thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng.
Lại này thiện nam tử! Người xuất gia có bốn thứ bệnh nên chẳng chứng được bốn quả Sa-môn.
Những gì là bốn bệnh? Chính là bốn ác dục: một là y phục dục, hai là thực dục, ba là ngọa cụ dục, bốn là hữu dục.
Bệnh xuất gia này, có bốn thứ lương dược trị lành được: phấn tảo y trị được bệnh y dục của Tỳ-kheo; khất thực trị được bệnh vì thực dục; thọ hạ trị được bệnh ngọa cụ dục; thân tâm tịch tịnh phá được hữu dục của Tỳ-kheo.
Đây gọi là bốn thứ thuốc trị bốn thứ bệnh, gọi đó là thánh hạnh. Thánh hạnh này được gọi thiểu dục tri túc.
Người xuất gia có bốn thứ bệnh nên chẳng chứng được bốn quả Sa-môn. Tham muốn về y phục, về ăn uống, về giường nằm, về sự tái sanh các cõi, đó là bốn thứ tham muốn, bốn thứ bệnh ngăn trở đạo quả giải thoát. Chỉ một thứ bệnh cũng không chứng được quả Sa-môn huống chi cả bốn. Xét kỹ tâm chúng ta, khi muốn y phục tốt biết đó là bệnh gì, muốn ăn ngon biết đó là bệnh gì, muốn đồ nằm đẹp một chút biết là bệnh gì, tham muốn những gì đẹp ở cõi này biết là bệnh gì.
Phật dạy có bốn thứ thuốc trị bốn bệnh. Trị bệnh y phục dục, cho mặc áo phấn tảo, kết bằng từng miếng giẻ rách, vậy thì còn niệm gì mà thích đồ tốt. Trị bệnh thực dục, cho đi khất thực có gì ăn nấy, không được chọn lựa. Ngày nay chúng ta không khất thực thì tri khố nấu sao ăn vậy. Nếu còn rầy rà ngon dở tức là còn bị bệnh. Trị bệnh ngọa cụ dục, xưa người xuất gia không có nhà, ban ngày đi khất thực, ăn xong vô rừng hay vào nghĩa địa ngồi thiền, tối kiếm gốc cây ngủ, chỗ nào cũng tốt. Người tu hiện nay chẳng những có nhà mà còn có giường, nệm, mền, gối… nhiều thứ quá nên trị bệnh ngọa cụ dục không được. Phải tập hạnh đơn giản, sử dụng vừa đủ phần mình, đừng tham đắm đồ tốt, mới là hạnh Sa-môn. Nếu thân tâm tịch tịnh thì phá được hữu dục, tức là thân không sát đạo dâm, tâm không có tham sân si thì dứt được bệnh hữu dục.
Chúng ta có uống thuốc của Phật không? Vì không uống thuốc nên bệnh không hết, tu lâu không thành Phật, không chứng quả. Đó là lỗi tại chúng ta chứ không phải tại Phật.
Người tịch tịnh có bốn điều vui: một là xuất gia vui, hai là tịch tịnh vui, ba là vĩnh diệt vui, bốn là tất cánh vui. Được bốn điều vui này gọi là tịch tịnh.
Đủ bốn hạnh tinh tấn nên gọi là tinh tấn. Đủ Tứ niệm xứ nên gọi là chánh niệm. Đủ Tứ thiền nên gọi là chánh định. Thấy bốn điều chân thật của thánh nên gọi là chánh huệ. Dứt hẳn tất cả phiền não kiết sử gọi là giải thoát. Quở trách lỗi của tất cả phiền não gọi là tán thán giải thoát.
Đại Bồ tát đầy đủ mười pháp như vậy, dầu được thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng.
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát nghe kinh này rồi gần gũi tu tập, xa lìa tất cả việc thế gian, đây gọi là thiểu dục. Đã xuất gia rồi chẳng sanh lòng hối hận, đây gọi là tri túc. Đã tri túc rồi, gần ở nơi chỗ vắng vẻ rảnh rang xa lìa chỗ ồn ào thời gọi là tịch tịnh.
Người chẳng tri túc chẳng thích chỗ vắng vẻ rảnh rang. Luận về người tri túc thời thường thích ở chỗ vắng vẻ. Ở chỗ vắng vẻ rồi thường suy nghĩ rằng: Tất cả thế gian đều gọi tôi đặng đạo quả Sa-môn, nhưng nay thật ra tôi chưa đặng, nay tôi sao lại phỉnh gạt mọi người. Nghĩ như vậy rồi siêng năng tu tập đạo quả Sa-môn, đây gọi là tinh tấn.
Thiểu dục là Bồ-tát được nghe kinh này, gần gũi tu tập, xa lìa việc thế gian. Tri túc là đã xuất gia rồi không sanh lòng hối hận. Ý nghĩa thiểu dục tri túc này rất có ích cho chúng ta. Người xuất gia rồi lúc nào cũng hăng hái vui mừng, nghĩ mình có duyên có phúc nên mới được xuất gia tu hành không gần gũi việc thế gian, không hối hận tiếc nuối, không nghĩ mình ở nhà thì làm nhiều việc lợi ích hơn. Nếu hối hận như vậy là không tri túc.
Sau khi xuất gia được ở chỗ vắng vẻ rảnh rang gọi là được tịch tịnh. Phật tử thấy chỗ ở của mình thích hợp với người tu, khen ngợi mình tu hành đàng hoàng có thể được đạo quả. Nghe như vậy mà sanh tâm hổ thẹn, người ta nói mình được đạo quả mà hiện tại chưa được gì, chẳng lẽ phỉnh gạt mọi người. Do đó cố gắng tu tập, gọi là tinh tấn.
Gần gũi tu tập đại Niết-bàn, đây gọi là chánh niệm. Tùy thuận Thiên hạnh gọi là chánh định.
An trụ trong định này có chánh kiến chánh trị, đây gọi là chánh huệ. Người chánh tri kiến có thể xa lìa được kiết sử phiền não, đây gọi là giải thoát. Thập trụ Bồ-tát vì chúng sanh mà khen ngợi Niết-bàn, đây gọi là tán thán giải thoát.
Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp như vậy, dầu được thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng.
Đây là mười pháp: thiểu dục, tri túc, tịch tịnh, tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh kiến, chánh tri, chánh tuệ, giải thoát. Bồ-tát tu đầy đủ mười pháp này, tuy thấy Phật tánh mà chưa được rõ ràng.
Lại này thiện nam tử! Luận về người thiểu dục như có Tỳ-kheo ở chỗ vắng vẻ ngồi ngay thẳng chẳng nằm, hoặc ở dưới cội cây, hoặc ở trong gò mả, hoặc ở chỗ trống, tùy chỗ có cỏ mà ngồi trên đó, khất thực mà ăn đặng gì cũng là đủ cả. Hoặc một lần ngồi ăn, chẳng quá một lần ăn. Chỉ chứa ba y, y phấn tảo, y bố, đây gọi là thiểu dục. Đã thật hành việc này trong lòng chẳng ăn năn, đây gọi là tri túc, Tu Không tam-muội, đây gọi là tịch tịnh. Đặng bốn quả Sa-môn rồi đối với vô thượng Bồ đề tâm chẳng thôi dứt, đây gọi là tinh tấn. Chuyên tâm tư duy tánh Như Lai là thường không có biến đổi, đây gọi là chánh niệm. Tu bát giải thoát đây gọi là chánh định. Đặng tứ vô ngại đây gọi là chánh huệ. Xa lìa bảy thứ lậu, đây gọi là giải thoát. Khen ngợi Niết-bàn không có mười tướng, gọi là tán thán giải thoát. Mười tướng là: sanh, già, bệnh, chết, sắc, thanh, hương, vị, xúc và vô thường. Xa lìa mười tướng này thời gọi là đại Niết-bàn. Đây gọi là đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp như vậy, dầu được thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng.
Cũng mười pháp từ thiểu dục… đến giải thoát, nhưng Phật giảng dạy rất nhiều ý nghĩa, để thấy đại Niết-bàn rộng sâu như biển, nói không bao giờ hết.
Phật dạy mười pháp khác từ thấp lên cao. Thiểu dục là gì? Tỳ-kheo ở chỗ vắng vẻ, ngồi ngay thẳng chẳng nằm, ở cội cây hay gò mả…, kế đến là khất thực, được cho gì cũng tốt, cũng thấy đủ, ngày ăn một bữa, chỉ có ba y, y phấn tảo hoặc y vải gai, như vậy gọi là thiểu dục. Thực hành như vậy không ăn năn gọi là tri túc. Tại sao nói ăn năn? Vì tu như vậy là hơi khổ hạnh, ăn uống kham khổ, ở nơi rừng vắng gò mả không nhà cửa, ngủ dưới cội cây, mặc y vải xấu, nên có nhiều lúc thối chí chán nản gọi là hối hận. Nếu luôn vui vẻ thích thú làm hoài là tri túc, nếu có hối hận là bất tri túc.
Tu Không tam-muội, tức là quán các tướng đều không thật, thân tâm được tịch tịnh, Từ chỗ tịch tịnh chứng bốn quả Sa-môn, chứng quả rồi vẫn tiến tu đến đạo Bồ-đề không dừng, đó là đại tinh tấn.
Chánh niệm là chuyên tâm mà tư duy tánh Như Lai là thường, luôn luôn ghi nhớ Phật tánh thường còn bất biến. Chánh niệm ở đây khác hơn ở đoạn trước, Đoạn trước, chánh niệm là nhớ Phật, Pháp, Tăng, Giới, Thí, Thiên; chánh niệm ở đây là nhớ Phật tánh bất sanh bất diệt.
Tu bát giải thoát là chánh định. Đặng tứ vô ngại biện gọi là chánh huệ. Xa lìa bảy phiền não hữu lậu gọi là Niết-bàn giải thoát. Đầy đủ mười pháp này Bồ-tát dù thấy Phật tánh vẫn không rõ ràng.
Này thiện nam tử! Vì đa dục nên gần gũi quốc vương, quan lớn, trưởng giả, Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, tự xưng là tôi đặng quả Tu-đà-hoàn nhẫn đến quả A-la-hán.
Vì lợi dưỡng nên đi đứng ngồi nằm nhẫn đến đại tiện tiểu tiện, nếu thấy đàn việt vẫn chào hỏi tiếp đãi chuyện vãn.
Người phá ác dục gọi là thiểu dục, dầu người này chưa có thể phá hoại phiền não kiết sử, nhưng có thể đồng hành vi với Như Lai, đây gọi là tri túc.
Đoạn này giải thích thiểu dục tri túc theo ý khác. Trước tiên nói về người đa dục. Những người đến quốc vương, quan lớn, trưởng giả… mà khoe những điều mình chứng đắc, chứng bốn quả từ Tu-đà-hoàn đến A-la-hán v.v.., đó là người đa dục, không phải người chân chánh, Thân cận người thế gian, nói việc tu kỳ đặc của mình để được người cúng dường cung kính, đó đều là bệnh. Thời Phật, ngài cấm các thầy Tỳ-kheo không cho dùng thần thông, dù chứng quả được thần thông cũng không cho dùng. Vì như thế khiến Phật tử sanh tâm phân biệt chỉ cúng dường người tu chứng, còn những người không tu chứng không có thần thông thì không cúng dường. Dùng thần thông để được lợi dưỡng không phải là mục đích chính của việc tu. Các thầy Tỳ-kheo dù có thần thông, khi gặp đường xa thật xa cũng phải đi bộ, không được dùng thần thông, dùng là phạm luật. Chúng ta chưa có thần thông mà khoe khoang trước, nói những điều huyền bí để mưu lợi là một việc không hay, phải dè dặt chỗ này.
Người phá ác dục gọi là thiểu dục, dù chưa phá hết phiền não kiết sử nhưng có thể hành động giống Phật nên gọi là tri túc.
Này thiện nam tử! Hai pháp như vậy bèn là nhân duyên gần của chánh niệm, chánh định, thường được sư trưởng bạn học khen ngợi. Trong các kinh Phật cũng thường ngợi khen tán thán tôn trọng pháp như vậy. Nếu có thể đầy đủ hai pháp này thời được gần môn đại Niết-bàn và năm điều vui, đây gọi là tịch tịnh. Người giữ giới bền chắc gọi là tinh tấn. Người có tâm quý gọi là chánh niệm, chẳng thấy tâm tướng gọi là chánh định, chẳng cầu tánh tướng nhân duyên của các pháp thời gọi là chánh huệ. Vì không có tướng nên phiền não dứt, đây gọi là giải thoát. Khen ngợi kinh Đại Niết-bàn này thời gọi là tán thán giải thoát.
Đây gọi là đại Bồ-tát an trụ mười pháp dầu được thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng.
Này thiện nam tử! Như ông hỏi Thập trụ Bồ-tát dùng con mắt gì thấy được Phật tánh mà chẳng rõ ràng, chư Phật dùng con mắt gì mà thấy được Phật tánh rõ ràng?
Này thiện nam tử! Do huệ nhãn mà thấy Phật tánh thời chẳng được rõ ràng, dùng Phật nhãn mà thấy thời được rõ ràng.
Chẳng thấy tâm tướng gọi là chánh định. Tâm tướng là gì? Là tướng của tâm dấy khởi, mỗi niệm khởi lên liền có tướng hiện ra. Vì niệm khởi vin theo pháp trần, gọi là trần vì có tướng chướng ngại. Con mắt chúng ta thô không thấy tướng này, khi nào tâm tạm lắng yên sẽ thấy niệm lăng xăng nhỏ nhiệm dấy khởi. Nếu cả ngày tâm không khởi niệm thì không có tướng, gọi là chẳng thấy tâm tướng. Khi tâm không còn tướng mạo gì mới gọi là chánh định.
Chánh tuệ là biết các pháp như huyễn, không thấy có tánh thật, tướng thật, nhân duyên thật. Đã biết không thật rồi thì không tìm kiếm không phân tích không cố chấp, nên gọi là chánh tuệ.
Biết các pháp không thật, tâm không dấy niệm, tâm không có tướng lăng xăng, không bị phiền não lôi kéo, không phiền não gọi là giải thoát. Kinh Đại Niết-bàn là giải thoát, người khen ngợi kinh gọi là tán thán giải thoát.
Bồ-tát Sư Tử Hống hỏi Thập trụ Bồ-tát dùng con mắt gì mà thấy Phật tánh không rõ ràng, chư Phật dùng con mắt gì mà thấy Phật tánh rõ ràng? Trong kinh thường nói ngũ nhãn lục thông. Mắt thường của phàm phu gọi là nhục nhãn. Chư thiên cõi Sắc và các vị tu đắc quả có thể thấy xa gần không ngăn ngại gọi là thiên nhãn. Hàng Thanh văn có trí tuệ soi thấu lý không gọi là tuệ nhãn.
Bồ-tát độ sanh có trí tuệ soi thấu tất cả pháp gọi là pháp nhãn. Phật nhãn soi thấu sự lý các pháp và căn cơ chúng sanh. Ở cấp dưới chỉ một nhục nhãn, lên cấp thứ hai có nhục nhãn và thiên nhãn. Cấp thứ ba có nhục nhãn, thiên nhãn và tuệ nhãn. Cấp thứ tư là Bồ-tát có bốn. Phật có đầy đủ năm mắt. Bồ-tát dùng pháp nhãn nên thấy Phật tánh không được rõ ràng. Đức Phật dùng Phật nhãn nên thấy được rõ ràng.
Vì hạnh Bồ-đề thời chẳng rõ ràng, nếu vô hành vô tác thời được rõ ràng. Trụ nơi Thập trụ thời dầu thấy mà chẳng rõ ràng, nếu chẳng trụ chẳng đi thời thấy được rõ ràng. Đại Bồ-tát vì nhân trí huệ nên thấy chẳng rõ ràng, chư Phật vì dứt nhân quả nên thấy rõ ràng. Bậc nhất thiết giác gọi là Phật tánh. Thập trụ Bồ-tát chẳng được gọi là nhất thiết giác, nên dầu thấy mà chẳng rõ ràng.
Vì Bồ-tát còn tu, còn giáo hóa chúng sanh, công hạnh chưa viên mãn nên chưa thấy Phật tánh được rõ ràng. Chư Phật đã viên mãn hạnh tự độ và độ tha, không còn hạnh Bồ-đề để làm, vô hành vô tác nên thấy Phật tánh rõ ràng. Bồ-tát còn an trụ nơi quả vị Thập trụ nên thấy Phật tánh không rõ ràng. Không có chỗ trụ cũng không có chỗ đi, tự do tự tại mới thấy Phật tánh rõ ràng.
Đại Bồ-tát vì nhân trí huệ nên thấy chẳng rõ ràng, nghĩa là Bồ-tát nặng về trí quán xét, nên còn lao nhọc, vì còn lao nhọc nên thấy Phật tánh không rõ ràng. Bồ-tát vì nhân chưa viên mãn cho nên chưa được quả.
Phật đã viên mãn, đã dứt nhân tu quả chứng, nên thấy Phật tánh rõ ràng. Giác ngộ viên mãn nên gọi là nhất thiết giác. Bồ-tát chưa viên mãn nên chẳng được gọi là nhất thiết giác, dù thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng.
Này thiện nam tử! Thấy có hai thứ: một là con mắt thấy, hai là nghe thấy.
Chư Phật con mắt thấy Phật tánh như xem trái cây trong bàn tay. Thập trụ Bồ-tát nghe thấy Phật tánh nên chẳng rõ ràng. Thập trụ Bồ-tát dầu có thể tự biết quyết định đặng vô thượng Bồ-đề, mà chẳng biết được tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Này thiện nam tử! Lại có con mắt ngó thấy: như chư Phật cùng Thập trụ Bồ-tát, con mắt thấy Phật tánh. Lại có nghe thấy: như tất cả chúng sanh nhẫn đến Cửu trụ Bồ-tát nghe thấy Phật tánh.
Bồ-tát nếu nghe tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chẳng sanh lòng tin thời chẳng gọi là nghe thấy.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn thấy Như Lai, nên phải tu tập mười hai bộ kinh thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải thuyết.”
Phật phân biệt thấy có hai thứ, mắt thấy và nghe thấy. Những gì do mắt thấy thì rõ ràng, những gì do tại thấy thì không rõ ràng. Thường thường nói tai nghe, ở đây nói tai thấy. Như có người đi Nhật, thấy thành phố Nhật rõ ràng, có người không đi Nhật chỉ nghe người ta mô tả thành phố Nhật, tưởng tượng như thấy thành phố đó nhưng không rõ bằng người thấy bằng mắt. Chư Phật thấy Phật tánh rõ ràng như xem trái cây trong bàn tay, hàng Thập trụ Bồ-tát chỉ nghe thấy Phật tánh nên không rõ ràng. Hàng Bồ-tát quả quyết rằng mình thế nào cũng được thành Phật chắc chắn không còn lui sụt, nhưng đối với chúng sanh thì các Bồ-tát không biết có thể tu thành Phật hay không. Cho nên chưa được rõ ràng.
Phật và Bồ-tát Thập trụ do tu chứng mà thấy được Phật tánh, hàng Bồ-tát từ Cửu trụ trở xuống phàm phu nghe thấy Phật tánh chưa có mắt thấy. Chúng ta nghe Phật nói, tin nhận mình có Phật tánh, do nghe mà tin nhận gọi là nghe thấy Phật tánh.
Khi nghe nói chúng sanh có Phật tánh mà chúng ta không tin thì gọi là chẳng nghe thấy, nếu tin được điều này thì gọi là nghe thấy. Như hiện tại chúng ta chưa thấy tất cả chúng sanh có Phật tánh, nhưng nghe Phật nói chúng sanh có Phật tánh, tự mình nghiệm xét nơi mình rồi nhận ra, tin được, như vậy cũng gọi là nghe thấy Phật tánh.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Tất cả chúng sanh chẳng biết được tâm tướng của Như Lai, phải quán tưởng thế nào để được biết?”
Phật bảo: “Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh thật ra chẳng biết được tâm tướng của Như Lai. Nếu muốn quan sát để được biết thời có hai nhân duyên: một là con mắt thấy, hai là nghe thấy. Nếu thấy thân nghiệp của Như Lai, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là con mắt thấy. Nếu xem thấy khẩu nghiệp của Như Lai, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy. Nếu thấy sắc mạo mà tất cả chúng sanh không sánh bằng được, nên biết rằng đây là Như Lai, đây là con mắt thấy. Nếu nghe âm thanh vi diệu tối thắng chẳng đồng với âm thanh của chúng sanh, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy. Nếu thấy thần thông của Như Lai hiện, thần thông này là vì chúng sanh hay là vì lợi dưỡng? Nếu là vì chúng sanh mà chẳng vì lợi dưỡng, nên biết rằng đây là Như Lai, đây là con mắt ngó thấy. Nếu xem thấy Như Lai lúc dùng tha tâm trí quán sát chúng sanh, vì lợi dưỡng thuyết pháp hay vì chúng sanh thuyết pháp? Nếu vì chúng sanh mà chẳng vì lợi dưỡng, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy.
Tại sao Như Lai thọ thân này? Cớ gì thọ thân? Vì ai mà thọ thân? Đây gọi là con mắt ngó thấy.
Nếu quan sát Như Lai thuyết pháp thế nào? Cớ gì thuyết pháp? Vì ai mà thuyết pháp? Đây gọi là nghe thấy, Dùng nghiệp ác nơi thân gia hại đó mà chẳng sân hận, nên biết rằng đây là Như Lai vậy, đây gọi là con mắt thấy, Dùng nghiệp ác nơi miệng gia hại đó mà chẳng giận, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy.
Sư Tử Hống Bồ-tát thưa với Phật làm sao để thấy được tâm tướng của Như Lai? Phật dạy muốn thấy được tâm tướng của Như Lai phải dùng hai cách: một là mắt nhìn thấy, hai là tai nghe thấy. Mắt nhìn thấy tướng hoặc thấy nghiệp của Phật hiện ra. Thân nghiệp của Phật thanh tịnh, trí tuệ và từ bi tỏa khắp khiến chúng sanh được an lạc. Cho đến như đức Phật dùng hào quang để hóa độ người đó cũng gọi là mắt thấy. Tai nghe là miệng Phật nói pháp chúng sanh nghe nhận được. Phật dùng âm thanh diễn nói chánh pháp, giáo hóa dìu dắt chúng sanh, đó gọi là tai nghe.
Nếu thấy Bồ-tát lúc mới sanh, ở bốn phương đều đi bảy bước, các thiên thần cầm phan lọng, chấn động vô lượng vô biên thế giới, ánh sáng vàng chói rực khắp hư không, long vương dùng thần lực phun nước tắm rửa cho Bồ-tát, chư thiên hiện hình tiếp đỡ đảnh lễ, tiên A-tư-đà chắp tay cung kính, lớn khôn vất bỏ ngũ dục như bỏ nước miếng nước mũi, chẳng bị sự vui trong đời cám dỗ, xuất gia tu hành, thích ở chỗ vắng lặng, vì phá tà kiến nên khổ hạnh sáu năm, đối với chúng sanh bình đẳng không sai khác, tâm thường ở trong chánh định không bao giờ tán loạn, tướng hảo trang nghiêm nơi thân, đi đến chỗ nào những gò nổng đều bằng, y phục cách rời nơi thân bốn tấc chẳng sa xuống, lúc đi nhìn thẳng chẳng ngó hai bên, vật thực của Phật ăn không có lỗi chẳng hoàn toàn, chỗ Phật ngồi đứng cỏ chẳng động loạn, vì điều phục chúng sanh nên qua thuyết pháp mà tâm không kiêu mạn, đây gọi là con mắt thấy.
Nếu nghe Bồ-tát đi bảy bước rồi xướng rằng: Nay thân này của ta là thân rốt sau cả.
A-tư-đà tiên chắp tay nói rằng: Tâu đại vương Thái tử Tất-đạt-đa quyết định sẽ thành vô thượng Bồ-đề, trọn chẳng ở nhà làm Chuyển luân vương, vì Chuyển luân vương thân tướng chẳng rõ ràng, còn thái tử Tất-đạt-đa tất cả tướng tốt nơi thân đều sáng rỡ, do đây quyết chắc sẽ được vô thượng Bồ-đề.
Lúc thấy người già bệnh chết, Bồ-tát nói rằng: Tất cả chúng sanh thật đáng xót thương, thường ở trong sanh, già, bệnh, chết mà chẳng biết quan sát, ta sẽ dứt trừ sự khổ ấy.
Theo học định Vô tưởng với ngũ thông tiên nhân là ông A-la-lã, đã thành tựu rồi Bồ-tát bèn nói lỗi của môn định ấy. Lại theo học định Phi phi tưởng với tiên nhân Uất-đà-già, đã thành tựu rồi bèn nói định này chẳng phải Niết-bàn, chính là pháp sanh tử. Sáu năm khổ hạnh không có kết quả. Tu khổ hạnh luống vô ích, nếu là hay thời ta đã được kết quả tốt, vì là hư vọng nên ta không được gì, đây gọi là tà thuật, chẳng phải là đạo chân chánh.
Lúc đã thành đạo, Phạm thiên thỉnh: “Ngửa mong đức Như Lai vì chúng sanh mà thuyết pháp cam lộ vô thượng.”
Phật bảo: “Này Phạm vương! Tất cả chúng sanh thường bị phiền não che đậy chẳng thể lãnh thọ lời dạy về pháp chân chánh của Phật.”
Phạm Vương lại bạch: “Thế Tôn! Tất cả chúng sanh phàm có ba hạng: lợi căn, trung căn và hạ căn.
Hạng lợi căn có thể lãnh thọ chánh pháp. Xin đức Thế Tôn vì họ mà thuyết pháp.”
Phật nói: “Này Phạm vương! Lóng nghe! Lóng nghe! Nay Phật sẽ vì tất cả chúng sanh mở cửa cam lộ.”
Chúng sanh thấy Phật bằng thân thể cha mẹ sanh ra, đi bảy bước cho tới khi xuất gia thành đạo, thành Phật dưới cội bồ-đề, tất cả đều gọi là mắt thấy. Nếu nghe Phật nói pháp tu của ngài từ ban đầu cho đến rốt sau, từ lúc không chấp nhận các pháp tu của các vị thầy, trở lại tu một mình, chứng được đạo quả. Qua hai phen thưa thỉnh của Phạm thiên, ngài phương tiện nói pháp tại thành Ba-la-nại… Do lời Phật nói ra nên chánh pháp được truyền bá, chúng ta nghe được lời dạy của Phật gọi là nghe thấy.
Dùng mắt thấy và nghe thấy để quán sát gọi là biết được tâm tướng của Như Lai, Tâm ấy phát ra bằng hình tướng của thân hoặc phát ra bằng ngôn ngữ, Tâm Như Lai tròn đầy đức tính từ bi trí tuệ nên thân Phật trang nghiêm, tướng tốt sáng rỡ. Ngài thương chúng sanh bị già bệnh chết đau khổ nên nói pháp vi diệu dứt trừ sanh tử. Lời dạy của ngài chắc thật, lợi lạc quần sanh. Như ở thế gian hay nói rằng thấy tướng đoán được người. Thấy tướng người đoan nghiêm hay hung dữ… đoán được lòng người đó thế nào, hoặc nghe tiếng nói, âm thanh phát ra mà đoán được lòng người. Do hành động và tiếng nói mà biết tướng chúng sanh. Đây đức Phật cũng nói muốn biết tâm tướng Như Lai cứ xét qua hai trường hợp. Nếu thấy sắc mạo mà tất cả chúng sanh không sánh bằng được, nên biết rằng đây là Như Lai. Nếu nghe âm thanh vi diệu tối thắng chẳng đồng với âm thanh chúng sanh, nên biết rằng đây là Như Lai.
Ở thành Ba-la-nại, chuyển chánh pháp luân, tuyên nói trung đạo, vì tất cả chúng sanh chẳng phá trừ các kiết sử, chẳng phải là không thể trừ, chẳng phải phá chẳng phải là chẳng phá, nên gọi là trung đạo.
Chẳng độ chúng sanh, chẳng phải là không độ được, nên gọi là trung đạo.
Chẳng phải tất cả thành tựu, chẳng phải là chẳng thành tựu, nên gọi là trung đạo.
Phàm có lời nói dạy ra, chẳng tự nói là thầy, chẳng nói là đệ tử, nên gọi là trung đạo.
Thuyết pháp chẳng vì lợi, chẳng phải là không được quả lành, nên gọi là trung đạo.
Tất cả chúng sanh không phá trừ kiết sử, nhưng đừng tưởng là không phá được. Chúng ta biết rõ nếu không cố gắng tu hành thì phiền não kiết sử không thể phá, nếu cố gắng tu hành thì phiền não kiết sử có thể phá. Vì vậy nói có thể phá mà cũng không thể phá, đó là nói lý trung đạo,
Thấy chúng sanh như huyễn, mình huyễn người huyễn nên không thấy có độ. Nhưng chúng sanh không biết giả, sống trong cảnh mê lầm mà tưởng thật nên Phật phải độ họ. Vì thế nói chẳng độ chúng sanh, chẳng phải là không độ.
Tất cả hạnh nghiệp đều vô thường, không có gì thành tựu thật, nhưng căn cứ trên chỗ tu hành và hình thức thì thấy đầy đủ hết. Không mắc kẹt hai bên gọi là trung đạo.
Chỗ này chúng ta thấy ý rất hay. Khi Phật thuyết pháp, ngài không cầu lợi cho ngài, chỉ vì thương chúng sanh mà chỉ dạy, không cầu lợi mà vẫn có quả lành là chúng sanh được giác ngộ. Đây là điểm quan trọng. Chúng ta nên tạo cho Phật tử có nhận xét đúng đắn, làm việc gì đúng ý nghĩa việc đó và có kết quả tốt đẹp trọn vẹn, đừng để cho sai lệch.
Chúng ta phải dạy Phật tử đúng ý nghĩa đạo lý, lợi ích của người dạy và người nghe rất lớn, như cúng dường Tam bảo là để truyền bá Phật pháp cho chúng sanh ra khỏi mê lầm, được giải thoát. Ủng hộ Tam bảo cũng như châm dầu vào một cái đèn, đèn đang cháy mà dầu bị hao hụt, chúng ta châm thêm dầu cho đèn sáng để những người đi đường họ trông thấy lối đi, khỏi bị lầm lạc, khỏi rơi xuống hầm hố. Cũng vậy, cúng dường Tam bảo là để giúp chánh pháp truyền nối mãi mãi, cứu chúng sanh khỏi lạc lầm, khỏi trầm luân sanh tử. Cúng dường với tâm rộng lớn vì đạo vì chúng sanh mà cúng dường. Nếu cúng dường với tâm ích kỷ muốn được lợi cho mình thì đó chỉ là đổi chác, không có kết quả dài lâu. Người thuyết pháp cho chúng sanh cũng là cúng dường Tam bảo, ủng hộ ngọn đèn chánh pháp. Thuyết pháp chẳng vì lợi, cứ bình đẳng mà thuyết pháp, cứ vì chúng sanh mà thuyết pháp, tự nhiên có quả lành không mất.
Nếu làm cái gì cũng nhắm vào lợi, quả lành theo đó mà sút giảm, việc làm của mình không đúng đạo lý.
Lời Phật là chánh ngữ, thật ngữ, thời ngữ, chân ngữ, chẳng hư vọng, là vi diệu đệ nhất.
Đây gọi là nghe thấy.
Này thiện nam tử! Tâm tướng của Như Lai thật không thể thấy. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn được thấy Như Lai, phải nên y theo hai nhân duyên như vậy.”
Phật kết luận tâm tướng của Như Lai thật không thể thấy. Muốn thấy Như Lai phải xét theo hai nhân duyên mắt thấy và tai nghe thấy. Đây là hình thức bên ngoài, cốt dẫn đạo chúng sanh đến chỗ chân thật.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Như trước kia nói điều dụ trái am-ma-la bốn hạng người v.v… Có hạng người việc làm kỹ mà tâm chẳng chánh thật. Có hạng người tâm kỹ mà việc làm chẳng chánh thật. Có hạng người tâm kỹ mà việc làm cũng chánh thật. Có hạng người tâm chẳng kỹ việc làm cũng chẳng chánh thật.
Bồ-tát Sư Tử Hống sinh nghi, vì đoạn trước Phật có ví dụ bốn hạng chúng tăng như trái am-ma-la khó nhận rõ.
Hạng thứ nhất hành động chín chắn mà tâm chẳng chánh thật, tức là bên trong tâm lao xao mà bên ngoài ra vẻ nghiêm chỉnh. Hạng thứ hai tâm thanh tịnh mà hành vi không chánh thật. Hạng thứ ba tâm và hạnh đều chân chánh. Hạng thứ tư tâm và hạnh đều không chân chánh.
Thế Tôn! Hai hạng đầu, làm thế nào biết được? Như lời Phật nói, dầu y theo hai nhân duyên ấy, cũng chẳng thể biết được.”
Nếu đối với hạng thứ nhất và thứ hai dùng mắt thấy tai nghe rất khó xét đoán. Người bên ngoài nghiêm chỉnh mà bên trong xao động làm sao mình biết? Nếu nhìn tướng đoán thì đoán lầm rồi. Còn người tâm rất nghiêm chỉnh mà bên ngoài lăng xăng, làm sao chúng ta biết được. Phật nói dùng mắt thấy tai nghe để biết tâm người, gặp hai trường hợp này rất khó đoán, nên Bồ-tát Sư Tử Hống thưa hỏi.
Phật nói:“Lành thay!Lành thay! Này thiện nam tử! Điều dụ trái am-ma-la, hai hạng người này thật khó biết được. Vì khó biết, nên trong kinh Phật nói phải cùng họ ở chung. Ở chung nếu chẳng biết được thời phải ở lâu. Ở lâu nếu chẳng biết được thời nên dùng trí huệ. Dùng trí mà chẳng biết thời nên quán sát suy gẫm kỹ. Do quán sát suy gẫm thời biết là trì giới cùng phá giới.
Này thiện nam tử! Đầy đủ bốn điều: ở chung, ở lâu, trí huệ, quán sát rồi sau mới biết là trì giới cùng phá giới.
Phật cũng chấp nhận hai hạng người này thật khó biết, vì tướng bên ngoài và tâm không giống nhau. Trường hợp này Phật dạy nên ở chung với họ lâu. Nhà Nho có câu “sự cửu kiến nhân tâm”, tức là ở lâu mới biết lòng người. Nhiều người ban đầu tỏ vẻ tử tế, vui vẻ tốt đẹp, nhưng ở lâu lộ ra những điều bất hảo. Ở chung năm ngày mười ngày chưa biết được thì phải ở năm tháng bảy tháng. Nếu ở chung thời gian lâu mà không biết thì phải dùng trí tuệ khéo nhận xét. Dùng trí cũng không biết thì phải quán sát suy gẫm lúc đó mình sẽ biết họ là người thật hay giả dối, trì giới hay phá giới.
Này thiện nam tử! Giới có hai thứ, trì giới cũng hai: một là giới cứu cánh, hai là giới chẳng cứu cánh.
Có người do nhân duyên nên thọ trì cấm giới. Người trí phải quán sát người này trì giới là vì lợi dưỡng hay là vì cứu cánh.
Thấy người giữ giới nghiêm chỉnh rất tốt, nhưng cũng cần xét kỹ người đó giữ giới vì động cơ nào. Đôi khi chúng ta chỉ thấy bề ngoài, không thấy được lý do bên trong. Ở gần thời gian lâu để xét, nếu trì giới vì lợi dưỡng thì không quý, nếu trì giới vì cứu cánh mới thật là tốt.
Giới của đức Như Lai không có nhân duyên, vì thế nên được gọi là giới cứu cánh.
Do nghĩa này nên Bồ-tát dầu bị chúng sanh ác làm tổn hại mà chẳng có lòng giận hờn. Do đây nên Như Lai đặng gọi là thành tựu trì giới cứu cánh.
Giới của đức Như Lai không có nhân duyên, nghĩa là Phật chế giới, khuyên bảo đệ tử giữ giới vì lòng từ bi thương xót chúng sanh, không do sự bắt buộc hoặc vì danh dự lợi dưỡng mà giữ giới. Ngoại đạo giữ giới khổ hạnh vì muốn được sanh lên cõi trời, hoặc muốn người nể phục cúng dường. Lý do giữ giới của họ là vì mưu cầu lợi ích bản thân, không phải rốt ráo giải thoát. Bồ-tát giữ giới cứu cánh nên dù bị chúng sanh làm tổn hại cũng không giận. Người giữ giới có lý do thì khi bị tổn hại sẽ nổi sân, trở lại muốn gây hại cho người, như thế là mất giới.
Này thiện nam tử! Xưa kia có một lúc ta cùng Xá-lợi-phất và năm trăm đệ tử đồng ở nơi nước Ma-già-đà trong thành Chiêm-bà. Có thợ săn đuổi theo một con bồ câu. Bồ câu này sợ hãi đến nơi bóng của Xá-lợi-phất vẫn còn run sợ, nó chạy đến trong bóng của ta thời thân tâm an ổn hết kinh sợ. Do đây nên biết đức Như Lai trì giới rốt ráo, nhẫn đến bóng của thân còn có năng lực như vậy.
Phật dẫn tích xưa để ví dụ trì giới cứu cánh hay không cứu cánh. Dẫn chuyện con bồ câu bị thợ săn rượt đuổi bay đến núp dưới bóng của ngài Xá-lợi-phất mà vẫn còn run sợ, bay đến núp dưới bóng của Phật mới an ổn không còn run sợ nữa. Như vậy để biết rằng giới của Phật là cứu cánh, đã dứt hết tập khí tổn hại nên chúng sanh không còn sợ hãi. Giới của chúng ta chưa được cứu cánh nên chúng sanh còn sợ. Loài chim thấy bóng mình có dám bay đến không, hay là sợ hãi vội vàng bay đi? Vì chúng ta trì giới chưa cứu cánh, chỉ giữ được một phần thô, tâm sát tế nhị ở trong chưa hết, do đó khiến chúng sanh sợ hãi.
Này thiện nam tử! Giới chẳng cứu cánh còn chẳng được quả Thanh văn, Duyên giác, huống là có thể được quả vô thượng Bồ-đề.
Giới chưa cứu cánh thì chưa được quả vô thượng Bồ-đề, vì tập khí chưa sạch nên chưa thành Phật được.
Lại có hai thứ: một là vì lợi dưỡng, hai là vì chánh pháp. Vì lợi dưỡng mà thọ trì cấm giới, nên biết giới này chẳng thấy được Phật tánh cùng Như Lai. Dầu nghe Phật tánh và danh tự Như Lai nhưng vẫn chẳng được gọi là nghe thấy.
Nếu vì chánh pháp mà thọ trì cấm giới, nên biết giới này có thể thấy được Phật tánh cùng Như Lai, đây gọi là con mắt thấy cũng gọi là nghe thấy.
Giữ giới lại có hai. Một là vì lợi dưỡng mà giữ giới, giới này không thấy được Phật tánh, tuy có nghe nói Phật tánh cũng không gọi là nghe thấy. Hai là vì chánh pháp mà giữ giới, giới này có thể thấy Phật tánh cùng Như Lai.
Phân tích để thấy rằng hình thức giữ giới như nhau nhưng động cơ sai lạc nên kết quả khác. Chúng ta giữ giới là để tu, tại sao nói giữ giới vì lợi dưỡng? Hiện nay cũng có trường hợp giữ giới không phải vì lợi dưỡng mà vì danh. Như khi thấy các huynh đệ đều thọ Tỳ-kheo mà mình chưa thọ, người kia được trọng mà mình chưa được trọng, vì thế thọ giới Tỳ-kheo để được kính trọng. Đó thật là vì danh dự không phải vì giải thoát. Chỗ này chúng ta phải lưu tâm kiểm điểm, nếu có khởi niệm phải trừ bỏ, cố gắng giữ giới vì chánh pháp như lời Phật dạy.
Lại có hai thứ: một là căn sâu khó lay khó nhổ, hai là căn cạn dễ động. Nếu có thể tu tập Không, vô tướng, vô nguyện, đây gọi là căn sâu. Nếu chẳng tu tập ba môn tam-muội này, hoặc dầu tu tập mà vì hai mươi lăm cõi, đây gọi là căn cạn.
Lại có hai thứ: một là vì thân mình, hai là vì chúng sanh. Người vì chúng sanh thời có thể thấy Phật tánh và Như Lai.
Giới là cội gốc của giải thoát. Giữ giới lại có hai thứ, cội gốc sâu và cội gốc cạn. Chúng ta nếu muốn cho cội rễ giải thoát được vững chắc thì phải tập quán Không, Vô tướng, Vô nguyện. Ba pháp quán này giúp tâm mình được an lành trong tam-muội, không bị sáu trần làm nhiễm. Quán tất cả pháp không tự tánh, chúng ta không bị các pháp làm mê lầm. Quán các pháp không có tướng chân thật, tâm không bị nhiễm theo tướng. Quán tất cả tướng trong hai mươi lăm cõi đều không thật, nên không mong không nguyện sanh trong các cõi ấy. Giữ giới vững chắc nhờ quán các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, không bị lay động lôi cuốn trong hai mươi lăm cõi, đó gọi là căn sâu.
Người trì giới lại có hai hạng: một là tánh tự hay trì giới, hai là cần phải người khác dạy bảo. Nếu đã thọ giới trải qua vô lượng đời không sai phạm, hoặc ở nhằm nước ác, gặp bạn ác, thời kỳ ác, đời ác, gặp pháp ác gian tà, ở chung với kẻ tà kiến, dầu như vậy, nhưng người này vẫn giữ gìn giới pháp như cũ không có hủy phạm, đây gọi là tánh tự hay trì giới.
Xét qua kinh nghiệm trong cuộc sống, có nhiều người không cần thọ giới mà vẫn giữ đúng như người thọ giới, lại có người thọ giới rồi mà phạm liên miên.
Người bản chất tự nhiên giữ giới, gọi là tánh tự hay trì giới. Đó là những người đã có công phu tu hành trong nhiều đời, giữ giới là một thói quen, không làm gì khác hơn. Có những người mới tu một hai đời, nhờ dạy bảo mới ráng giữ giới, khi không ai nhắc nhở thì quên, phạm giới. Đây là hạng thường, biết mình như vậy phải ráng gần gũi thầy bạn để được nhắc nhở.
Nếu là người gặp Sư tăng bạch tứ yết-ma mà đắc giới, thời cần phải nương nhờ Hòa thượng, các Sư tăng, bạn lành dạy bảo, mới biết oai nghi cử chỉ đúng pháp, đây gọi là hạng người cần nhờ sự dạy bảo.
Những người như chúng ta được gặp đàn truyền giới, thầy giáo thọ, thầy yết-ma nêu cử bạch Tăng, bốn phen yết-ma chúng tăng chấp nhận, từ đó về sau mới được giới. Giới thể của chúng ta do Hòa thượng, Sư tăng truyền cho, nên khi tu tập phải nương nhờ Hòa thượng, Sư tăng, thiện tri thức chỉ dạy mới biết phép tắc oai nghi để gìn giữ.
Người tánh tự hay trì giới thời con mắt thấy Phật tánh và thấy Như Lai, cùng gọi là nghe thấy.
Giới lại có hai: một là giới Thanh văn, hai là giới Bồ-tát từ sơ phát tâm nhẫn đến đặng vô thượng Bồ-đề, đây gọi là giới Bồ-tát. Nếu quán bạch cốt nhẫn đến chứng quả A-la-hán đây gọi là giới Thanh văn.
Nếu có người trì giới Thanh văn, nên biết rằng người này chẳng thấy Phật tánh và Như Lai. Nếu có người trì giới Bồ-tát, nên biết rằng người này được vô thượng Bồ-đề, thấy được Phật tánh và Như Lai Niết-bàn.”
Phật giản trạch giới Thanh văn và giới Bồ-tát. Giới Bồ-tát bắt đầu khi mới phát tâm đến khi đắc quả Bồ-đề, trì giới này được thấy Phật tánh và Như Lai. Giới Thanh văn là từ khi tu quán các pháp bất tịnh… đến chứng quả A-la-hán. Giới này hạn cuộc ở tứ quả Sa-môn nên không thấy được Phật tánh và Như Lai.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà thọ trì cấm giới?”
Phật nói: “Này thiện nam tử! Vì tâm chẳng hối hận.”
Vì muốn tâm mình khỏi ăn năn hối hận nên phải thọ trì cấm giới. Như chúng ta giữ giới trộm cắp nên không bao giờ hối hận về việc trộm cắp. Không giữ giới này, khi thấy đồ dùng của ai mình khởi tâm lấy đem về xài, nếu người hay biết, lúc đó xấu hổ hối hận thì đã muộn rồi. Vì thế khi thọ trì cấm giới, chúng ta muốn tâm an ổn thảnh thơi, phải cố gắng không phạm một giới nào. Nếu giữ giới cẩn thận thì không phạm lỗi, tâm không ăn năn.
Cớ gì chẳng hối hận? Vì hưởng thọ an lạc. Cớ gì hưởng thọ an lạc? Vì xa lìa. Cớ gì xa lìa? Vì an ổn. Cớ gì an ổn? Vì thiền định. Cớ gì thiền định? Vì tri kiến chân thật. Cớ gì tri kiến chân thật? Vì thấy những lỗi họa của sanh tử.
Nhân giới sanh định, do giữ giới thanh tịnh nên tâm an ổn, sức định tăng trưởng. Được thiền định cũng nhờ tri kiến chân thật, hoặc ngược lại có tri kiến chân thật nhờ thiền định. Định và tuệ hỗ trợ nhau. Kinh A-hàm nói, người muốn thấy được lẽ thật phải có thiền định, nếu không có thiền định thì khó thấy được lẽ thật. Thấy biết sanh tử là khổ não là tai họa…, đó là tri kiến chân thật.
Cớ gì thấy lỗi sanh tử? Vì tâm chẳng tham đắm. Cớ gì tâm chẳng tham đắm? Vì được giải thoát. Cớ gì được giải thoát? Vì được vô thượng đại Niết-bàn. Cớ gì được đại Niết-bàn? Vì được thường, lạc, ngã, tịnh. Cớ gì được thường, lạc, ngã, tịnh? Vì được bất sanh, bất diệt. Cớ gì được bất sanh, bất diệt? Vì thấy Phật tánh. Do đây nên Bồ-tát tánh tự hay trì giới cứu cánh.
Này thiện nam tử! Tỳ-kheo trì giới dầu chẳng phát nguyện cầu tâm chẳng hối hận, mà tự nhiên được, vì pháp tánh như vậy.
Chúng ta giữ giới không cần nguyện rằng tôi giữ giới để tâm khỏi hối hận, chỉ cần trì giới nghiêm túc thì tự nhiên được không hối hận, vì pháp tánh là như vậy. Như giữ giới ăn cắp, hoặc giữ giới nói dối…, thì nhất định không phải hối hận về những lỗi này.
Dầu chẳng cầu vui, xa lìa, an ổn, tri kiến chân thật, thấy lỗi sanh tử, tâm chẳng tham đắm, giải thoát, Niết-bàn, thường, lạc, ngã, tịnh, bất sanh, bất diệt, cùng thấy Phật tánh, nhưng tự nhiên được tất cả, vì pháp tánh như vậy.”
Có nhân giữ giới như vậy, chắc chắn được quả như vậy, tự nhiên được đầy đủ Niết-bàn an lạc, vì pháp tánh như vậy.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu do trì giới mà đặng quả chẳng ăn năn, nhân nơi giải thoát mà đặng quả Niết-bàn, thời giới là không nhân, Niết-bàn là không quả. Giới nếu không nhân thời gọi là thường, Niết-bàn có nhân thời là vô thường. Nếu như vậy, thời Niết-bàn là trước không mà nay có. Nếu trước không mà nay có thời là vô thường, như thắp ngọn đèn. Niết-bàn nếu như vậy thời thế nào được gọi là ngã, lạc, tịnh ư?”
Bồ-tát Sư Tử Hống biện luận rằng, nếu nhân trì giới mà được quả không hối hận, nhân giải thoát mà được quả Niết-bàn, thì giới là không nhân, Niết-bàn là không quả. Tại sao? Vì Niết-bàn là quả cuối cùng, sau Niết-bàn không còn gì nữa. Giới là điểm ban đầu, nhân giới có ăn năn, cái gì là nhân của giới? Trước giới không có gì nên nói giới không nhân, Giới không có nhân thì thường còn, có nhân mới có cái này sanh cái kia, không nhân mà có thì trước sau y như vậy.
Nhân giải thoát mà được Niết-bàn tức là Niết bàn có nhân, có nhân có quả thì sanh diệt vô thường, trước không có Niết-bàn, nhân giải thoát mới có thì Niết-bàn trước không nay có, Niết-bàn vô thường như ngọn trước không cháy nay nhân thắp lên mới cháy. Nếu Niết-bàn như vậy thì sao được gọi là thường lạc ngã tịnh? Chỗ bắt bẻ này rất khó, phải nhận kỹ mới thấy hay.
Phật nói: “Này thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Ông đã từng ở nơi vô lượng chư Phật trồng những thiện căn, mới có thể hỏi Như Lai thâm nghĩa như vậy.
Này thiện nam tử! Ông chẳng mất bản niệm mới hỏi như vậy ư?
Ta nhớ thuở xưa, cách đây vô lượng kiếp, nơi thành Ba-la-nại có đức Phật ra đời hiệu là Thiện Đức. Đức Phật đó diễn nói kinh Đại Niết-bàn này trong ba ức năm. Lúc đó ta cùng ông đều ở trong pháp hội đó. Ta đem việc này để hỏi đức Phật Thiện Đức. Lúc ấy đức Phật Thiện Đức vì chúng sanh mà nhập chánh định nên chưa đáp nghĩa này.
Đức Phật khen Bồ-tát Sư Tử Hống đã từng ở nơi vô lượng chư Phật trồng căn lành nên mới hỏi nghĩa như thế. Với chúng ta thì Phật nói sao mình nghe vậy, đôi khi không hiểu kịp ý nghĩa trong đó vì quá cao sâu. Bồ-tát thì hiểu rõ, còn suy gẫm những ý cao sâu hơn, đem ra nạn vấn để Phật giải thích rõ. Hỏi đây là vì chúng sanh, không phải hỏi để bắt bí.
Câu hỏi của Bồ-tát cũng là câu hỏi của đức Phật Thích-ca khi ngài còn tu tập trong pháp hội của Phật Thiện Đức cách nay vô lượng kiếp. Phật ngày xưa chưa trả lời. Bồ-tát nhớ chuyện cũ nên thưa hỏi.
Lành thay! Ông bèn có thể nhớ được việc cũ. Lóng nghe! Lóng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói.
Này thiện nam tử! Giới cũng có nhân, chính là nghe chánh pháp. Nghe chánh pháp cũng có nhân, chính là gần bạn lành. Gần bạn lành cũng có nhân, chính là tín tâm. Người có tín tâm cũng có nhân, chính là nghe pháp và tư duy ý nghĩa. Tín tâm nhân nơi nghe pháp, nghe pháp nhân nơi tín tâm, hai pháp này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả mà cũng là quả quả.
Nhân và quả không rời nhau. Nhân của giới là nghe chánh pháp, nghe chánh pháp lại là quả của gần bạn lành. Cho đến tín tâm và nghe pháp vừa là nhân vừa là quả của nhau.
Tín tâm và nghe pháp cái nào cũng là nhân nên gọi là nhân nhân, cái nào cũng là quả nên gọi là quả quả. Trong A-hàm, Phật không nói tín tâm mà nói tâm lành. Bởi có tâm lành mới nghe pháp, nghe pháp rồi phát tâm thêm niềm tin. Do có lòng tin Tam bảo nên thích nghe kinh, tức là nhân lòng tin mà nghe pháp nghe kinh rồi tin thêm nữa, nghe kinh làm nhân cho niềm tin tăng trưởng, niềm tin tăng trưởng lại làm nhân suy nghĩ chánh pháp, hai cái nương nhau làm nhân làm quả. Nhân quả là vòng tròn không dứt.
Như Ni-kiền tử dựng ba cây tréo để bình tròn, làm nhân quả cho nhau chẳng rời được.
Này thiện nam tử! Như vô minh duyên hành hành duyên vô minh, vô minh và hành này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả mà cũng là quả quả.
Vô minh với hành thuộc về quá khứ, chúng ta không hiểu được, chỉ có Phật thấy rõ. Có thể tạm dùng trong hiện tại, hành là chỉ cho tác động, là nghiệp, vô minh là chỉ cho mê lầm. Hai cái đó có nhân quả với nhau. Khi suy nghĩ lầm, chúng ta làm việc sai quấy, suy nghĩ lầm dụ cho vô minh, làm việc sai quấy dụ cho hành. Trong trường hợp này vô minh làm duyên cho hành. Làm việc sai quấy làm tăng trưởng thêm quan niệm sai lầm là vô minh, như vậy hành làm duyên cho vô minh. Chúng làm nhân làm quả cho nhau không rời. Ở đây nói, vô minh và hành này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả mà cũng là quả quả.
Sanh duyên lão tử, lão tử duyên sanh, sanh cùng lão tử này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả mà cũng là quả quả.
Thường chúng ta nói sanh là nhân của lão tử, vì có sanh nên mới có già chết. Nhưng lão tử cũng là nhân cho sanh, nếu không chết cứ sống hoài thì không có tái sanh, nên chết cũng làm nhân cho sanh. Tử đời này là nhân, sanh đời sau là quả. Sanh, lão, tử đều làm nhân làm quả lẫn nhau.
Này thiện nam tử! Pháp sanh có thể sanh ra pháp mà chẳng thể tự sanh, vì chẳng tự sanh nên do sanh mà sanh sanh.
Các pháp sanh ra không phải tự nó sanh, vì theo lý nhân duyên của Phật nói thì không có cái tự sanh, vì không tự sanh nên cái này và cái kia có liên hệ với nhau, cái này sanh là nương cái kia sanh, vì vậy gọi là sanh sanh.
Sanh sanh chẳng tự sanh lại nhờ sanh mà sanh, vì thế nên hai thứ sanh này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả mà cũng là quả quả.
Này thiện nam tử! Tín tâm và nghe pháp cũng như vậy.
Sanh sanh là gì? Là hai cái nương nhau mà sanh, không phải mỗi cái tự sanh, vì thế nói thử hữu cố bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh, cái này sanh nên cái kia sanh, gọi là sanh sanh. Như cái bàn không có tự thể nhất định là cái bàn, nó gồm nhiều bộ phận nương nhau mà thành. Nhân chân bàn có mặt bàn, nhân mặt bàn có chân bàn. Trên hình thức thì mặt bàn và chân bàn là hai cái riêng nhưng chúng nương nhau mà sanh. Nếu chỉ có chân bàn thì không thành cái bàn, nếu chỉ có mặt bàn cũng không thành cái bàn, hai cái nương nhau đồng có nên gọi là đồng sanh, đồng sanh thì gọi là sanh sanh. Chân bàn mặt bàn đều vừa là nhân vừa là quả, chúng hỗ tương nhau sanh khởi. Vì vậy gọi là nhân nhân, quả quả, hay là sanh sanh.
Là quả mà chẳng phải nhân chính là đại Niết-bàn.
Cớ gì gọi là quả? Vì là quả vô thượng, là quả Sa-môn, là quả Bà-la-môn, vì dứt sanh tử, vì phá phiền não, do đây nên gọi là quả. Vì bị các phiền não quở trách nên Niết-bàn gọi là quả. Phiền não gọi là lỗi lầm trên lỗi lầm.
Này thiện nam tử! Niết-bàn không có nhân mà thể của nó là quả. Vì nó không sanh diệt, vì không
chỗ tạo tác, vì chẳng phải hữu vi, vì là vô vi, vì thường chẳng biến đổi, vì không chỗ nói, vì không thủy chung.
Này thiện nam tử! Nếu Niết-bàn có nhân thời chẳng đặng gọi là Niết-bàn. Bàn là nói nhân, Niết là nói không, không có nhân nên gọi là Niết-bàn.”
Trước nói Niết-bàn là quả chứ không phải là nhân. Tại sao? Niết-bàn là quả tột cùng, vì dứt sanh tử, phá phiền não, Niết-bàn không làm nhân để sinh ra các pháp. Đến chỗ cuối cùng này không có gì sanh khởi. Tiếp theo, nói Niết là không, bàn là nhân hoặc là sanh. Niết-bàn là không nhân, Niết-bàn là không sanh. Thể của Niết-bàn không sanh diệt, không có pháp gì được tạo tác, chấm dứt cả nhân quả. Phật kết luận giới ở trước có nhân nên giới là vô thường, Niết-bàn không nhân nên bất sanh bất diệt. Vì sao Niết-bàn không có nhân? Vì không phải sanh tử, không phải phiền não, không phải tạo tác, không phải hữu vi cho nên không có nhân. Chỉ giải thoát hết tất cả phiền não thì gọi là Niết-bàn, không phải nhân nơi giải thoát mà được Niết-bàn.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Như lời Phật nói Niết-bàn là không nhân. Lời này không đúng. Nếu nói là không thời hiệp sáu nghĩa: Một là tất cánh không nên gọi là không, như tất cả pháp không có ngã không có ngã sở, Hai là có lúc không nên gọi là không, như người đời nói sông ao không có nước, không có mặt trời mặt trăng.
Có lúc không là cái không tạm thời. Như lúc ao hồ khô không có nước gọi là không nước, khi có mưa đọng lại có nước, trong lúc không thì gọi là không, chẳng phải rốt ráo không.
Ba là vì ít nên nói là không, như người đời nói trong đồ ăn ít mặn thời gọi là không mặn, nước ngọt ít ngọt thời gọi là không ngọt.
Như ly nước chanh chỉ để một ít đường, khi uống vô nói không ngọt, thêm chừng một hai muỗng đường nữa thì nói ngọt, như vậy vì ít nên nói là không.
Bốn là không lãnh thọ nên gọi rằng không, như Chiên-đà-la không thể thọ trì pháp Bà-la-môn, nên gọi là không Bà-la-môn. Năm là vì thọ pháp ác nên gọi là không, như người đời nói người thọ pháp ác chẳng gọi là Sa-môn, chẳng gọi là Bà-la-môn, nên nói không có Sa-môn và Bà-la-môn. Sáu là vì đối đãi mà gọi là không, như không trắng gọi đó là đen, không sáng gọi đó là vô minh.
Thế Tôn! Niết-bàn cũng như vậy, có lúc không nhân nên gọi là Niết-bàn.”
Có lúc không nhân thuộc về cái không thứ hai, khi ao hồ không có nước thì gọi là không, nhưng mưa xuống có nước thì thành có. Bồ-tát dẫn sáu nghĩa nói về không, cho rằng Niết-bàn có lúc không nhân.
Phật nói: “Này thiện nam tử! Nay ông nói sáu nghĩa như vậy, cớ sao ông không dẫn rốt ráo không để dụ cho Niết-bàn, mà ông lại lấy có lúc không, để lệ cho Niết-bàn như vậy.
Này thiện nam tử! Thể của Niết-bàn rốt ráo không nhân, cũng như không ngã và không ngã sở.
Phật dạy Niết-bàn rốt ráo không nhân, như ngã và ngã sở rốt ráo không thật có. Chúng sanh lầm mê thấy ngã và ngã sở thật có, bậc giác ngộ thấy nó thật không có, vì nó không đủ tính chất ngã và ngã sở.
Này thiện nam tử! Pháp thế gian cùng Niết-bàn trọn chẳng tương đối nhau, vì thế nên sáu việc của ông dẫn ra chẳng làm ví dụ được.
Niết-bàn không phải pháp đối đãi, dùng pháp thế gian để dụ cho Niết-bàn là việc làm không đúng, vì thế dù đem sáu nghĩa không để nói về Niết-bàn đều không thể được.
Này thiện nam tử! Tất cả pháp đều không có ngã, mà Niết-bàn này chân thật có ngã, do nghĩa này nên Niết-bàn không nhân mà thể của nó là quả. Là nhân mà chẳng phải quả gọi là Phật tánh, vì chẳng phải do nhân sanh (nên là nhân mà chẳng phải quả) vì chẳng phải quả của Sa-môn nên gọi là chẳng phải quả.
Niết-bàn là quả không phải là nhân, Phật tánh là nhân không phải là quả. Tại sao? Nếu là quả thì Phật tánh phải do nhân tạo ra. Đã do nhân tạo thì bị biến đổi sanh diệt. Nhưng Phật tánh vốn thường trụ, không do nhân tạo, từ thủy đến chung nó thường như vậy. Vì chúng ta mê lầm không nhận được nên tưởng như không có, khi tu tập nhận được tưởng như mới có. Ở đây Phật dạy Phật tánh là nhân, chân thật sẵn đủ nơi mỗi chúng sanh, không phải là quả mới nhận được.
Niết-bàn là an lạc vô sanh, đó là chỗ tột cùng không còn tạo tác. Niết-bàn không tạo thêm quả vị hay cảnh giới nào khác, nên nói không phải là nhân.
Cớ gì gọi là nhân, vì là liễu nhân vậy.
Này thiện nam tử! Nhân có hai thứ: một là sanh nhân, hai là liễu nhân. Hay sanh ra pháp thời gọi là sanh nhân. Đèn hay chiếu rõ đồ vật, nên gọi là liễu nhân. Phiền não kiết sử thời gọi là sanh nhân. Cha mẹ của chúng sanh thời gọi là liễu nhân. Như hột lúa v.v… thời gọi là sanh nhân. Đất nước phân tro v.v… thời gọi là liễu nhân.
Pháp này sanh ra pháp kia thì gọi là sanh nhân.
Đèn hay chiếu rõ đồ vật nên gọi là liễu nhân. Như trong đêm tối ở trước bàn Phật, đèn tắt hết chúng ta không thấy tượng Phật, không thấy chân đèn, không thấy lư hương… Nhân đốt đèn sáng mới thấy tượng Phật, chân đèn, lư hương… Ánh sáng đèn là liễu nhân, nhờ đó nên thấy đồ vật sẵn có. Ánh đèn không sanh ra tượng Phật, lư hương… vì thế nói không phải là sanh nhân. Cũng vậy, Phật tánh sẵn có nhưng do mê lầm nên không thấy, khi tỉnh giác chúng ta nhận ra Phật tánh là liễu nhân. Phật tánh không sanh ra cái gì khác nên không phải là sanh nhân.
Phiền não kiết sử thời gọi là sanh nhân. Vì phiền não kiết sử làm nhân lôi kéo chúng sanh sanh tử tiếp nối. Sanh nhân thuộc về vô thường.
Cha mẹ của chúng sanh thời gọi là liễu nhân. Theo mắt thường tình thấy cha mẹ sanh ra con, gọi đó là sanh nhân, nhưng ở đây Phật nói là liễu nhân. Vì căn cứ vào vô minh hành thức là nguyên nhân sanh khởi, cha mẹ chỉ sanh ra hình tướng hiện đời, thần thức của chúng ta đã có từ trước. Do vô minh thúc đẩy nên có hành, hành đưa đến thức, thức vào thai mẹ gọi là danh sắc. Bào thai được tạo từ cái nhân sẵn có, nhân đó hiện thành hình hài. Cha mẹ không tạo nên con người, chỉ giúp con người sẵn có của thời quá khứ được hiển lộ rõ ràng thôi.
Với con mắt giác ngộ của Phật thì cha mẹ là liễu nhân, để biết rằng chúng ta đã sanh tử từ vô lượng kiếp rồi, khi thân này khi thân khác. Nhân cha mẹ làm cho thân này thành hình. Nói sanh là giúp cho chúng ta có một đời sống mới, một cơ thể mới, sự thật mình lâu nay đã sẵn. Vì vậy nói cha mẹ là liễu nhân.
Hột lúa sanh ra cây lúa rồi hột lúa bị hoại. Trước khi gieo hột thì chưa có cây lúa, nhờ hột lúa ăn phân đất nảy mầm lên thành cây lúa. Cây lúa từ hột lúa sanh, hột lúa là sanh nhân, đất nước phân tro… là yếu tố giúp hiển lộ hột lúa đã được gieo nên gọi là liễu nhân.
Lại có sanh nhân, chính là sáu môn ba-la-mật, vô thượng Bồ-đề. Lại có liễu nhân, chính là Phật tánh vô thượng Bồ-đề, Lại có liễu nhân, chính là sáu môn ba-la-mật, Phật tánh. Lại có sanh nhân, chính là Thủ-lăng-nghiêm tam-muội vô thượng Bồ-đề. Lại có liễu nhân, chính là bát chánh đạo vô thượng Bồ-đề. Lại có sanh nhân, chính là tín tâm sáu môn ba-la-mật.
Phật giải thích rõ nghĩa sanh nhân và liễu nhân, để chúng ta biết Phật tánh chỉ là liễu nhân chứ không phải sanh nhân.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Như Phật nói, thấy Như Lai và Phật tánh, ý nghĩa đó như thế nào?
Bạch Thế Tôn! Thân Như Lai không có tướng mạo, chẳng phải dài, ngắn, trắng, đen, không có phương sở, chẳng ở trong tam giới, chẳng phải tướng hữu vi, chẳng phải nhãn thức thấy được, như thế thời làm sao có thể thấy được, Phật tánh cũng vậy.”
Bồ-tát Sư Tử Hống nhắm vào pháp thân nên nói thân Như Lai không có tướng mạo… Pháp thân không thể thấy, Phật tánh cũng không thể thấy. Phật nói thấy Như Lai và Phật tánh, ý nghĩa đó như thế nào?
Phật nói: “Này thiện nam tử! Thân của Phật có hai thứ: một là thường, hai là vô thường. Thân vô thường chính là vì muốn độ thoát tất cả chúng sanh nên phương tiện thị hiện, thân này con mắt thấy được.
Thời Phật tại thế, các thầy Tỳ-kheo và chúng sanh thấy được thân Phật gọi là thấy thân vô thường. Vì muốn độ chúng sanh nên Phật thị hiện thân này.
Thân thường trụ chính là thân giải thoát của Như Lai, thân này cũng gọi là con mắt thấy, cũng gọi là nghe thấy.
Thân thường trụ là chỉ cho pháp thân, người ngộ rồi thì nhận ra, người chưa ngộ thì nghe. Chúng ta nghe nói pháp thân mà có niềm tin thì gọi là nghe thấy.
Phật tánh cũng có hai thứ: một là có thể thấy, hai là chẳng thể thấy. Có thể thấy là nói bậc Thập trụ Bồ-tát và chư Phật. Chẳng thể thấy là nói tất cả chúng sanh. Con mắt có thấy, chính là Thập trụ Bồ-tát và chư Phật con mắt ngó thấy Phật tánh của chúng sanh. Có nghe thấy, là tất cả chúng sanh và Cửu trụ Bồ-tát nghe có Phật tánh.
Thân của Phật lại có hai thứ: một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là thân giải thoát của Như Lai. Là chẳng phải sắc vì đức Như Lai đã dứt hẳn sắc tướng.
Phật tánh lại có hai thứ: một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là vô thượng Bồ-đề. Là chẳng phải sắc chính là phàm phu nhẫn đến Thập trụ Bồ-tát. Vì Thập trụ Bồ-tát thấy chẳng rõ ràng nên gọi là chẳng phải sắc.
Thiện nam tử! Phật tánh lại có hai thứ: một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là chư Phật và Bồ-tát, Là chẳng phải sắc chính là tất cả chúng sanh. Là sắc gọi rằng con mắt thấy. Là chẳng phải sắc gọi rằng nghe thấy. Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, dầu chẳng phải trong ngoài nhưng chẳng phải là hư mất, nên gọi rằng chúng sanh đều có Phật tánh.”
Bồ-tát Sư Tử Hống bạch rằng: “Thế Tôn! Như Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, như trong sữa có chất lạc. Kim Cang lực sĩ, chư Phật, Phật tánh như đề hồ trong sạch. Cớ sao Như Lai nói rằng Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài?”
Phật nói: “Này thiện nam tử! Ta cũng chẳng nói rằng trong sữa có chất lạc. Vì chất lạc từ sữa sanh ra nên nói rằng có chất lạc.”
Kinh điển Đại thừa nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, chúng ta nghe như vậy nhận hiểu và tin, gọi là nghe thấy.
Đoạn trước nói sắc là thân vô thường thị hiện, đoạn này nói sắc là thân giải thoát. Sắc này là báo thân, tuy có hình sắc nhưng đã thoát khỏi triền phược của cõi Dục nên nói là giải thoát.
Phật tánh là sắc, nghĩa là chư Phật và Bồ-tát thấy Phật tánh, biết rõ chúng sanh đều có Phật nhân, khi tu hành viên mãn chứng thành Phật quả, Chúng sanh đối với Phật tánh chỉ nghe thấy, không phải mắt thấy, Phật tánh không ở trong không ở ngoài, lúc nào cũng thường còn sẵn có.
Bồ-tát Sư Tử Hống đưa ra nghi vấn, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, dụ như trong sữa có chất lạc. Phật tánh của chư Phật như chất đề hồ. Như vậy là Phật tánh cố định ở trong như trong sữa cố định có chất lạc. Phật bác nghĩa cố định, vì nếu cho rằng Phật tánh cố định ở trong hay ở ngoài đều có lỗi. Nếu nói trong sữa cố định có chất lạc thì không cần duyên, như trong chúng sanh cố định có Phật tánh thì không cần tu vẫn thành Phật, nhưng chúng sanh nếu không tu thì thiếu duyên, Phật tánh không hiện. Như biết rằng sữa biến thành lạc nhưng nếu không đủ duyên thì không có lạc. Nói Phật tánh cố định có lỗi như thế.
“Thế Tôn! Tất cả sanh pháp đều có thời tiết.”
“Này thiện nam tử! Lúc là sữa thời không có chất lạc, cũng không có các chất sanh tô, thục tô, đề hồ. Tất cả chúng sanh cũng gọi đó là sữa. Vì thế nên ta nói rằng trong sữa không có chất lạc. Như trong sữa đồng thời có chất lạc, cớ sao chẳng đồng thời có hai thứ tên. Như người có hai nghề thời gọi rằng thợ vàng sắt. Lúc là chất lạc không có sữa cũng không có sanh tô, thục tô và đề hồ. Chúng sanh cũng gọi là chất lạc chẳng phải sữa, sanh tô, thục tô và đề hồ.
Này thiện nam tử! Nhân có hai thứ: một là chánh nhân, hai là duyên nhân. Chánh nhân là như sữa sanh chất lạc. Duyên nhân là như ủ ấm. Vì từ sữa sanh nên gọi là trong sữa có tánh chất lạc.”
Tất cả pháp sanh ra đều phải có đủ thời tiết nhân duyên. Thời tiết nhân duyên nào hiện ra thì gọi tên theo lúc đó.
Như trong sữa đồng thời có chất lạc, cớ sao chẳng đồng thời có hai thứ tên. Tại sao không vừa gọi là sữa, vừa gọi là lạc mà chỉ gọi một tên? Đây là Phật bác lối chấp cố định. Ngài nói như vậy không phải ngụy biện, mà để giải thích cho biết rõ rằng cố chấp như vậy là trật. Như người vừa làm thợ vàng, vừa làm thợ sắt thì gọi là thợ vàng sắt. Nếu sữa có hai thứ thì lẽ ra đồng gọi hai tên, tại sao gọi là sữa không mà không gọi là lạc?
Tuy rằng từ sữa biến ra lạc, từ lạc biến ra sanh tô, sanh tô biến ra thục tô, thục tô biến ra đề hồ, nhưng khi là sữa thì không gọi tên khác. Theo Ấn Độ, sữa có thể chuyển thành năm thứ, đến chất đề hồ cuối cùng là ngon tột, quý nhất. Trong năm giai đoạn sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ, ở giai đoạn nào thì gọi tên đó, không thể gọi lẫn lộn. Chỉ có một tên gọi lúc đó thì không thể nói nó sẵn có cái kia được.
Phật nói khi sữa biến thành lạc cần hai điều kiện, chánh nhân và duyên nhân. Chúng sanh thành Phật cũng phải đủ hai điều kiện, chánh nhân là Phật tánh và duyên nhân là tu hành. Nếu cố định do một điều kiện mà thành Phật tức là nhìn phiến diện, như người nói mình có Phật tánh cần gì tu, đã có đó thì nhất định sẽ được, tu làm chi cho dư, như vậy là hiểu lầm sanh ra chấp lầm. Tuy có chánh nhân nhưng nếu không có duyên nhân thì không thành tựu. Tu là duyên nhân để chánh nhân hiện. Như có sữa nếu không biết ủ ấm thì không thành lạc được.
Bồ-tát Sư Tử Hống bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu sữa không tánh chất lạc, trong sừng bò cũng không có, cớ sao chẳng từ trong sừng bò mà sanh?”
“Này thiện nam tử! Sừng bò cũng sanh chất lạc. Vì ta nói rằng duyên nhân có hai thứ: một là ủ, hai là ấm. Tánh sừng bò là ấm nên cũng có thể làm duyên sanh chất lạc.
Sữa không có lạc mà có thể sanh ra lạc, sừng bò cũng không có chất lạc thì lẽ ra sừng bò cũng sanh chất lạc.
Nói sừng bò cũng có thể làm duyên sanh chất lạc thì khó nghe: sữa nấu thành lạc, sừng bò nấu đâu thành lạc mà Phật nói nếu đủ duyên thì có thể sanh lạc. Dùng ví dụ sau đây để thấy rõ ý nghĩa đó. Sự sống của tất cả chúng sanh đều có liên hệ tương quan, trong cái này có cái kia, trong cái kia có cái này. Mỗi sự vật không thể sống độc lập mà làm nhân duyên qua lại lẫn nhau. Như nói trong sừng bò không có sữa, con bò ăn cỏ, rồi sanh ra sừng, sanh ra sữa. Từ những thứ nó ăn ra sẽ tạo thành những thứ máu, thịt, sữa… Tuy trong con bò có nhiều phần khác nhau nhưng đều mang tính chất đồng nhất, tại vì chúng ta không thấy. Cũng như không ai nói cơm, rau muống là mạng sống của mình, nhưng phải có nó mình mới sống, chúng đều có phần tương quan với mình. Khi ở ngoài chúng không phải là máu thịt của mình, khi vào trong người, tự nhiên biến thành máu thịt. Như vậy tất cả sự vật đều liên hệ nhau, trong một có tất cả, trong tất cả có một.
Đứng về lý tứ đại thì sừng bò là tứ đại, sữa cũng là tứ đại, tức là có tính đồng trong đó. Mạng sống chúng ta, thân thể là tứ đại, rau là tứ đại, gạo cũng là tứ đại, vì có liên quan nên đem cái này bổ cho cái kia, biến thành chất này chất khác. Khi chưa đủ duyên chưa biến thành thì thấy khác, đủ duyên đủ điều kiện thì nó biến đổi thành chất giống mình để giúp ích hỗ trợ. Như sữa bò nếu tạo đủ điều kiện đủ duyên thì cũng có thể biến thành chất lạc. Vì vậy Phật nói trong sừng bò cũng có chất lạc. Mới nghe thấy khó hiểu nhưng suy gẫm rốt ráo thì không phải vô lý.
“Bạch Thế Tôn! Nếu sừng bò có thể sanh chất lạc, người tìm chất lạc cớ sao lại tìm nơi sữa mà chẳng dùng sừng?”
“Này thiện nam tử! Do cớ đó nên ta nói có chánh nhân có duyên nhân.”
“Thế Tôn! Nếu trong sữa vốn không tánh của chất lạc nay mới có, trong sữa vốn không tánh cây am-ma-la, cớ sao chẳng sanh cây am-ma-la, vì trong sữa cả hai tánh đều không?”
“Này thiện nam tử! Sữa cũng có thể sanh cây am-ma-la, nếu dùng sữa tưới trong một đêm, cây am-ma-la cao thêm năm thước. Do nghĩa này nên ta nói có hai thứ nhân. Này thiện nam tử! Nếu tất cả pháp chỉ có một nhân sanh ra thời mới có thể vấn nạn như lời của ông vừa hỏi.”
Bồ-tát Sư Tử Hống nạn vấn rằng nếu trong sữa không có chất lạc, nay mới có, tại sao không tìm tánh cây trong sữa, vì nó cũng vốn không có? Như nói theo Việt Nam, trong sữa không có tánh cây đu đủ thì có thể hiện cây đu đủ được không? Phật giải thích sữa có thể sanh ra cây am-ma-la, vì đem sữa tưới cây trong một đêm, nó sẽ cao thêm năm thước. Trong cây và sữa vẫn có tánh tương đồng hỗ trợ nhau, bò ăn cỏ, ăn lá cây cũng có thể sanh ra sữa. Đó là duyên nhân làm cho tăng trưởng.
Nếu tất cả pháp chỉ có một nhân sanh ra thì câu hỏi của Bồ-tát có lý, nhưng các pháp có chánh nhân và duyên nhân, nên đặt câu hỏi như thế không đúng. Vì chỉ nhắm vào một cái chánh mà không nhìn tất cả cái trợ phụ. Chúng ta đều tin chắc rằng có hột đu đủ thì ươm sẽ lên cây đu đủ, nhưng nếu hột đu đủ cứ ở trong kho hoài thì có thành cây đu đủ được không? Cố định một chiều là trật. Hột đu đủ là chánh nhân để sanh cây đu đủ, nhưng phải có duyên phụ trợ đất, nước, người vun phân… thì cây đu đủ mới thành hình được. Phật pháp rất rộng sâu, phải nhìn thấu các pháp ở mọi mặt, nếu chỉ nhìn phiến diện thì lý luận không vững.
Ví dụ, người ta nói “làm lành thì được lành, làm ác bị ác, nhân nào quả nấy”, câu này cho thấy nhân quả rõ ràng. Nhưng có người bắt bẻ, họ dẫn chứng người này làm ác sao thấy sung sướng cả đời không bị khổ, người kia hiền lành làm việc phước sao cứ bị tai nạn liên miền? Nói luật nhân quả như vậy không đúng!… Họ không biết đó là chỉ nhìn một chiều chánh nhân mà quên duyên nhân, nên nhân quả chưa đầy đủ. Nhân lành được quả lành nếu có điều kiện phụ giúp, nhân ác sẽ bị quả ác nếu hội đủ điều kiện, chưa đủ điều kiện vẫn chưa trổ quả hiện tiền. Cũng như hột đu đủ có thể thành cây đu đủ nếu đủ phân nước. Nếu chỉ có hột đu đủ mà kết luận thành cây đu đủ, đó là nói phiến diện, chưa hết ý nên người ta bác được. Đây Phật dạy rõ, nếu tất cả pháp chỉ có một nhân sanh ra thời mới có thể vấn nạn.
Này thiện nam tử! Như tứ đại làm nhân duyên có ra tất cả sắc pháp. Nhưng sắc pháp mỗi mỗi riêng khác chẳng đồng nhau, do nghĩa này nên trong sữa chẳng sanh cây am-ma-la.”
Tất cả sự vật đều do tứ đại tạo thành, khi thành hình thì mỗi vật có hình thức sai biệt. Chúng đồng nhất về tứ đại nên sữa có thể thành cây am-ma-la, nhưng khác nhau trên hình thức nên sữa không thể thành cây am-ma-la. Đủ điều kiện chánh nhân và duyên nhân mới thành tựu, không thể nói đơn giản một bề.
“Bạch Thế Tôn! Như Phật nói có hai nhân là chánh nhân và duyên nhân, Phật tánh của chúng sanh thuộc về nhân nào?”
“Này thiện nam tử Phật tánh của chúng sanh cũng hai thứ nhân; một là chánh nhân, hai là duyên nhân. Chánh nhân đó chính là các chúng sanh. Duyên nhân đó chính là sáu môn ba-la-mật”
“Bạch Thế Tôn! Nay tôi quyết định biết rằng trong sữa có tánh chất lạc, Vì cớ sao? Vì tôi thấy người thế gian tìm chất lạc chỉ lấy trong sữa trọn chẳng lấy trong những vật khác. Do đây nên biết rằng trong sữa có tánh chất lạc.”
Chúng sanh đều có Phật tánh nên nói chánh nhân là chúng sanh, nhưng nếu không tu sáu pháp ba-la-mật thì không thành Phật. Tu hành là duyên nhân, có chánh nhân cộng cả duyên nhân mới thành tựu kết quả. Bồ-tát Sư Tử Hống chỉ nói một bề chánh nhân, không nói khác hơn.
“Này thiện nam tử! Như lời của ông hỏi, theo nghĩa thời chẳng đúng. Ví như có người muốn soi thấy hình bóng của mặt mình bèn lấy con dao sáng.”
“Bạch Thế Tôn! Do nghĩa này nên trong sữa có tánh của chất lạc, vì nếu trong dao không có hình bóng của gương mặt, cớ gì lại lấy dao.”
“Này thiện nam tử! Nếu trong con dao này quyết định có hình bóng của gương mặt, cớ sao lại điên đảo: dựng đứng thời thấy hình dài, cầm ngang thời thấy bóng rộng. Nếu là mặt của mình cớ sao lại thấy dài? Nếu là mặt người khác thời đâu được gọi là hình bóng của mặt mình. Nếu nhân mặt mình mà thấy mặt người khác, cớ sao chẳng thấy bóng mặt của lừa của ngựa?”
“Bạch Thế Tôn! Nhãn quang đến nơi kia nên thấy bóng mặt”
“Này thiện nam tử! Thật ra nhãn quang này chẳng đến nơi kia, vì xa gần đồng một thời đều được thấy cả, vì chẳng thấy những vật ở chặng giữa vậy.
Như có người muốn soi hình bóng của mình bèn lấy con dao sáng nhìn vào để thấy, như vậy dao sáng là nhân sanh ra hình bóng. Đức Phật đưa ví dụ này để bác lý luận trong sữa có lạc. Bồ-tát Sư Tử Hống vẫn cho rằng trong dao có hình bóng. Việc này rất vô lý. Nếu thật trong dao là nhân của hình bóng, khi đưa dao đứng lên thì thấy hình dài, khi để ngang thì thấy hình ngang bốn năm tấc. Đó là điên đảo lộn xộn. Nếu bóng khác với mặt mình thì đâu gọi là bóng của mình. Nếu bóng không phải của mình thì là bóng của lừa của ngựa được không? Không được. Vì thế nói dao là nhân của hình bóng không đúng.
Bồ-tát lại nói thấy được bóng của mặt vì nhãn quang soi tới chỗ đó nên thấy được đến đó.
Chỗ này thế gian hay tưởng tượng lầm. Ví dụ tôi nhìn cái chuông, tôi đinh ninh cái thấy của mình đến cái chuông; nhìn thấy cây cột, tưởng cái thấy của mình chạy đến cây cột; nhìn ra ngoài chợ tưởng cái thấy của mình phóng ra ngoài chợ. Sự thật không phải như vậy, chỉ là phản ảnh thôi, Đức Phật bác lập luận thấy là do ánh mắt chạy đến vật. Ví dụ khi nhìn ra biển chỉ thấy biển, còn khoảng giữa từ đây ra biển, chúng ta không thấy. Nếu thật do nhãn quang chạy từ đây ra biển thì dọc đường phải thấy hết, tới đâu thấy tới đó, rồi mới tới thấy biển. Vì thế nói thấy là do nhãn quang đến nơi kia không hợp lý.
Nhãn quang nếu đến nơi kia mà được thấy, thời tất cả chúng sanh đều thấy lửa cớ sao chẳng bị cháy? Như người thấy vật trắng ở xa thời chẳng nền nghi rằng đó là chim hạc? Là phan? Là người?
Là cây? Nếu nhãn quang đến nơi kia thế nào thấy được vật ở trong bình thủy tinh, cá cùng đá ở dưới vực sâu. Nếu nhãn quang chẳng đến mà thấy cớ sao thấy được vật trong bình thủy tinh, mà chẳng thấy được vật ở ngoài vách. Do lẽ này nên nếu nói rằng nhãn quang đến nơi kia mà được thấy đó là không đúng.
Nếu nhãn quang đi từ mắt đến vật thì khi thấy lửa nóng, lẽ ra con mắt phải bị cháy; con mắt không cháy thì biết rằng nhãn quang không đến.
Như có người nhìn thấy ở xa có vật màu trắng, nghi đó là con cò hay vải trắng hay người. Nếu cái thấy có thật chạy tới đó thì không còn nghi là giống cái này cái kia. Đã chạm đến rồi mà còn nghi thì biết rằng nó không tới.
Vật ở trong bình thủy tinh, chúng ta nhìn vào biết trong đó là vật gì. Nếu nhãn quang có chạy đến thì bị thủy tinh án ở ngoài, làm sao thấy ở trong. Lẽ ra nếu chạy đến thì không thấy, mà có thấy được trong bình thì biết nhãn quang không chạy đến.
Cả cùng đá ở dưới vực sâu, như chúng ta nhìn xuống khe suối, nước trong thì thấy cá lội, thấy đá ở dưới đáy. Nếu cái thấy có chạy đến thì nó phải chun xuống nước mới thấy. Như thế lý lẽ “cái thấy chạy đến vật” là không đúng.
Trường hợp “có đến có thấy” đã bị bắt bẻ, đến trường hợp “chẳng đến mà thấy” cũng không hợp lý.
Tức là vật ở trong bình thủy tinh, cái thấy không đến mà vẫn thấy vật ở trong, những vật ở ngoài vách kia, con mắt không đến thì lẽ ra cũng thấy, thực tế thì không thấy. Phật đã bác hết hai trường hợp để ta hiểu rõ cái thấy không phải vật, không thể định nơi chốn. Phật tánh cũng vậy, không thể xác định là ở trong hay ở ngoài.
Này thiện nam tử! Như ông vừa nói trong sữa có tánh của chất lạc, cớ sao người bán giá tiền sữa mà chẳng đòi tiền chất lạc. Người bán 2. Chỉ lấy ngựa cái cớ sao chỉ lấy tiền ngựa mà chẳng đòi tiền ngựa con.
Này thiện nam tử! Người đời vì không con cái nên cầu cưới vợ. Vợ nếu có thai nghén thời chẳng được gọi là con gái. Nếu nói là con gái có tánh của con cái nên phải cưới hỏi, thời không đúng. Vì nếu có tánh của con cái lẽ ra cũng phải có tánh của cháu. Nếu có tánh của cháu thời thành ra anh em, vì đồng một bụng sanh ra vậy. Do đây nên ta nói rằng nơi người con gái không có tánh của con cái.
Nếu trong sữa kia có tánh của chất lạc, cớ sao chẳng thấy cả năm vị đồng một thời. Nếu trong hội cây có tánh chất của cây ni-câu-đà cao năm trượng, cớ sao chẳng thấy mộng cây, nhánh lá, bông trái, hình sắc sai khác của cây đồng một thời.
Năm vị là sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ.
Này thiện nam tử! Lúc là sữa thời màu khác vị khác công dụng khác, nhẫn đến đề hồ cũng lại như vậy. Làm sao có thể nói được rằng trong sữa có tánh của chất lạc.
Này thiện nam tử! Như có người sáng ngày sẽ uống chất tô, giờ đây đã sợ hôi. Nếu nói rằng quyết định trong sữa có tánh chất của lạc thời cũng như vậy.
Ví như có người dùng viết giấy mực hòa hiệp thành chữ, mà trong giấy này vốn không có chữ, vì vốn không có nên nhờ duyên mà thành có, nếu vốn đã có thời cần gì các duyên.
Phật dùng nhiều ví dụ để chỉ rõ trong sữa không cố định có chất lạc. Các pháp luôn theo duyên mà dời đổi, không có tánh cố định. Đoạn đối đáp giữa Phật và Bồ-tát Sư Tử Hống cốt yếu cho chúng ta thấy rõ vấn đề để đi đến kết luận tất cả pháp tự tánh là không. Nếu cho rằng trong sữa có chất lạc thì tất cả pháp đã có tự tánh. Phật chỉ dạy tất cả pháp tự tánh là không, duyên hợp mới có, nếu tự tánh sẵn có thì không cần duyên. Đây là chỗ tế nhị nên Phật bác đi bác lại để nêu lên lối chấp quyết định có tự tánh của Bồ-tát Sư Tử Hống là sai lầm.
Như xanh vàng hiệp thành màu lục, nên biết hai màu này vốn không có tánh của màu lục, nếu vốn đã có cần gì phải hiệp lại mới thành.
Như chúng sanh do ăn mà được sống. Nhưng trong vật thực này thật không có mạng sống. Nếu vốn đã có mạng sống, thời lúc chưa ăn lẽ ra vật thực này là mạng sống.
Này thiện nam tử! Tất cả các pháp vốn không có tánh, do nghĩa này nên ta nói kệ rằng:
Trước không nay có
Trước có nay không
Ba đời có pháp
Không có lẽ đó.
Các pháp trước không có tự tánh cố định, duyên hợp mới có nên nói trước không nay có. Bởi duyên hợp và duyên ly tán thì cái từ có biến thành không, nên nói trước có nay không. Các pháp trong ba đời quá khứ hiện tại vị lai đều không có tự tánh nên nói ba đời có pháp, không có lẽ đó. Có pháp là có tự tánh cố định, điều này không có lý. Trung luận giải thích tường tận lẽ này, cố chấp có tự tánh là sai lầm.
Này thiện nam tử! Tất cả pháp do nhân duyên mà sanh cũng do nhân duyên mà diệt.
Thiện nam tử! Nếu chúng sanh có Phật tánh, thời tất cả chúng sanh lẽ ra có thân Phật như ta hôm nay. Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sanh có hư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử nếu chúng sanh chẳng có hư không, thời không có những sự đến đi đứng ngồi nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói tất cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Bậc Thập trụ Bồ-tát thấy được phần ít như châu kim cương.
Phật nói đến Phật tánh rồi cũng bác. Chúng sanh có Phật tánh mà không cố định thành Phật, phải đủ duyên mới thành. Phật tánh là chánh nhân, tu tập là trợ nhân. Đã có chánh nhân, trợ nhân thì không cố định. Nếu nói cố định thì tất cả chúng sanh đều thành Phật như Phật.
Đức Phật khéo léo giải thích cho chúng ta hiểu tường tận. Trong chúng ta có hư không, hiện tại chúng ta chỉ thấy thân mình, không thấy hư không. Giả sử chúng sanh chẳng có hư không thời không có những sự đi đứng ngồi nằm, chẳng sống chẳng lớn. Vì có đi, đứng, ngồi, nằm nên biết trong mình có hư không. Như lỗ mũi không có hư không thì có mạng sống không? Nhờ có khoảng trống nên hơi thở ra vô, tim đập phổi nở, máu chạy thân hoạt động, có sự sống, có tăng trưởng.
Xét kỹ chúng ta thấy trong cơ thể mình các bộ phận đều có khoảng trống: tai, mũi, miệng, bao tử, ruột… Vị tế hơn là từng lỗ chân lông cũng có khoảng trống. Thân chúng ta đầy hang ổ, hang lớn là cổ họng, hang nhỏ là lỗ tai lỗ mũi… Vậy mà cứ tưởng mình là chắc thật! Mình chỉ là một mớ trống rỗng không có gì hết. Cả cuộc sống đều do tánh không. Trống không là sự sống. Các bộ phận trong con người đều có khoảng trống, nhờ đó máu lưu thông, hơi thở ra vào, nước mắt nước mũi chảy ra chảy vô, bao tử trống mới dồn thức ăn vào… Mọi thứ ra vào trôi chảy nhờ hư không. Nếu nó bít lại hết thì thân thể không cựa động, chỉ là một khối thịt chết không có nghĩa lý gì. Chỗ trống đó là cái hữu dụng, là sự sống, cử động, nếu không có nó là chết ngay.
Như xe gắn máy, khi đạp máy nổ xe chạy nhờ ống bộ trống không, hơi chuyển động máy nổ bánh xe quay. Nếu ống bộ, ống dẫn xăng bít lại thì máy không chạy, không động gọi là xe chết. Rõ ràng không có tánh không mọi vật không cử động. Ai biết mình có hư không? Chúng ta tưởng mình là có, bên ngoài là không. Cái không của mình mà còn không thấy huống hồ Phật tánh không hình dáng làm sao thấy được. Phật tánh không hình dáng tương tợ hư không nhưng Phật tánh có tri giác, hư không không tri giác. Vì Phật tánh không hình tướng nên chúng ta không thấy, như không thấy hư không của chính mình.
Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải là hàng Thanh văn Duyên giác biết được. Tất cả chúng sanh vì chẳng thấy Phật tánh nên thường bị phiền não trói buộc mà phải lưu chuyển trong sanh tử. Chư Phật vì thấy Phật tánh nên phiền não kiết sử chẳng trói buộc được, do đây giải thoát sanh tử đặng đại Niết-bàn.
Vì không thấy được Phật tánh nên chúng ta trôi lăn trong sanh tử, chư Phật thấy được nên thoát khỏi sanh tử. Phật không nói Phật tánh cố định để thành Phật, nhưng chúng sanh đều có Phật tánh. Lối nói này dường như mâu thuẫn nhưng không mâu thuẫn, chỉ vì chúng ta nhìn một chiều. Nhân quả trên một chiều, thiếu duyên nhân thì không bao giờ thành. Để phá lầm mê cố chấp của chúng sanh, nếu nói có thì đinh ninh sẵn có Phật tánh nên không tu, nói không có Phật tánh thì chán nản không chịu tu. Vì thế Phật cũng nói có cũng nói không. Nếu đầy đủ chánh nhân và duyên nhân thì Phật tánh hiện, nếu chỉ có chánh nhân mà không có duyên nhân thì chúng sanh không thấy Phật tánh. Vì không thấy nên gọi là không có.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Tất cả chúng sanh có tánh của Phật tánh như tánh chất lạc trong sữa. Nếu sữa không tánh chất lạc, tại sao Phật nói có hai thứ nhân: chánh nhân và duyên nhân. Duyên nhân có hai: ủ và ấm. Hư không vì là không tánh nên không có duyên nhân.”
Bồ-tát Sư Tử Hống vẫn quyết định Phật tánh sẵn có như trong sữa sẵn có chất lạc. Ngài chuyển qua lối nghi chánh nhân và duyên nhân. Vì có hai nhân này nên chắc chắn có Phật tánh.
“Này thiện nam tử! Giả sử trong sữa quyết định có tánh chất lạc, cần gì đến duyên nhân?”
Nếu quyết định có rồi thì cần gì ủ ấm mới có lạc. Từ trước đến giờ Phật nhắc tới nhắc lui cho ngài hiểu đều nhắm vào chữ quyết định. Quyết định có thì nhất định nó sẽ thành lạc, cần có duyên nhân làm gì.
“Bạch Thế Tôn! Vì có tánh nên phải cần duyên nhân. Vì muốn thấy rõ vậy, Duyên nhân đó chính là liễu nhân. Như trong nhà tối đã trước có những đồ vật, vì muốn thấy rõ nên dùng đèn soi sáng. Nếu vốn không đồ vật thời đèn soi sáng những gì? Như trong đất sét có bình, nên cần nhân công, nước, vòng dây, gậy v.v… mà làm liễu nhân. Như hột ni-câu-đà cần đến đất nước phân mà làm liễu nhân. Trong sữa cũng vậy, phải nhờ ủ ấm làm liễu nhân. Vì thế nên dầu trước đã có tánh phải nhờ liễu nhân rồi sau mới được thấy. Do nghĩa này nên quyết định biết trong sữa đã trước có tánh của chất lạc.”
Trên Phật nói nếu quyết định có thì không cần duyên nhân. Đây Bồ-tát nói vì quyết định có nên phải cần duyên nhân, không hiểu ý Phật bác chỗ quyết định có hoặc quyết định không. Các pháp không tánh nên không thể nói quyết định. Quyết định là cố chấp một chiều, không thể tùy duyên uyển chuyển.
“Này thiện nam tử! Giả sử nếu trong sữa quyết định có tánh của chất lạc thời tánh này chính là liễu nhân. Nếu đã là liễu nhân lại cần gì phải dùng liễu.
Này thiện nam tử! Nếu liễu nhân đây tánh nó là liễu thời lẽ ra phải thường tự liễu. Nếu chẳng tự liễu thời đâu có thể liễu cái khác.
Nếu nói liễu nhân có hai thứ tánh: một là tự liễu, hai là liễu tha, thời không đúng nghĩa. Vì một pháp liễu nhân làm sao lại có hai thứ tánh? Nếu có hai tánh thời sữa lẽ ra cũng có hai thứ. Giả sử trong sữa không có hai thứ, tại sao liễu nhân lại riêng có hai tánh?
Đã quyết định có thì thuộc về liễu nhân, như đèn soi lên thấy sự vật sẵn có. Đã là liễu nhân thì cần liễu làm gì. Đến đây lý luận chuyển qua phần liễu nhân. Như trong nhà sẵn có đồ đạc nhưng tối nên chúng ta không thấy, nhờ đốt ngọn đèn sáng lên, thấy đồ đạc rõ ràng. Đèn sáng là liễu nhân, là soi rõ đồ đạc chứ ngọn đèn không sanh ra đồ đạc. Nếu nói đồ đạc là liễu nhân thì tự nó sáng không cần đốt đèn mới thấy. Nếu nói đồ đạc trong nhà là liễu nhân, như chất lạc trong sữa là liễu nhân thì có lỗi. Nếu tánh nó tự liễu thì không cần cái khác, nếu không tự liễu thì không liễu được cái khác. Có một trong hai tánh không được, có cả hai tánh vừa tự liễu vừa liễu tha cũng không được. Đứng về mặt nào, dùng danh từ gì đều có lỗi. Phật gạn tận cùng để chúng ta không bị kẹt trong danh từ ý niệm. Gột bỏ mọi cố chấp, Phật tánh mới hiển lộ.
“Bạch Thế Tôn! Như người đời nói rằng chúng tôi cộng có tám người. Liễu nhân cũng như vậy: tự liễu và liễu than
“Này thiện nam tử Liễu nhân nếu như vậy thời chẳng phải là liễu nhân, vì là số, có thể đếm, sắc của mình sắc của người nên được nói là tám, mà sắc tánh này tự nó không có liễu tướng, vì không liễu tướng, phải nhờ trí tánh mới đếm được tự và tha. Do đây nên liễu nhân chẳng thể tự liễu cũng chẳng liễu được tha.
Nhóm chúng tôi cộng lại có tám người, kể cả tôi và mấy người kia, như vậy có tự và tha, tức là có cả hai chứ không phải một. Ý Bồ-tát nói liễu nhân có hai thứ, tự liễu và liễu tha. Phật trách rằng nói như thế không đúng. Vì sao? Nói tám người là số đếm, căn cứ vào sắc thân mỗi người, người thứ nhất, người thứ hai, người thứ ba đến người thứ tám. Nhưng cái gì biết người thứ nhất, thứ hai, thứ ba đến người thứ tám? Đó là trí soi sáng phân biệt. Trí là liễu nhân, người không phải là liễu nhân. Như đèn soi sáng sự vật, đèn là liễu nhân. Cũng vậy, sắc tướng mỗi người không tự soi sáng được nên không phải là liễu nhân. Phật bác, nếu nói liễu nhân là sắc thì nó không có liễu tướng, phải nhờ trí tánh mới đếm được. Ý nghĩa liễu nhân trong trường hợp này không đúng.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đã có Phật tánh cớ gì lại phải tu tập vô lượng công đức? Nếu nói tu tập là liễu nhân thời đã đồng hư hoại như chất lạc.
Nếu nói trong nhân quyết định có quả thời giới, định, huệ lẽ ra không tăng trưởng. Nhưng người đời trước kia không giới, định, huệ theo sư trưởng học tập thời lần lần được có giới, định, huệ. Nếu cho rằng sư trưởng dạy dỗ là liễu nhân, chính lúc dạy dỗ thời chưa có giới, định, huệ, nếu là liễu đó, lẽ ra là liễu thứ chưa có, sao lại gọi rằng liễu giới, định, huệ làm cho được tăng trưởng.”
Phật nói chúng sanh sẵn có Phật tánh nhưng không chấp nhận quyết định có Phật tánh. Nếu quyết định có thì không cần tu tập.
Giải thích rõ ý nghĩa liễu nhân, Phật nói nếu thầy là liễu nhân, đệ tử lúc chưa theo thầy học phải có sẵn giới định tuệ, đến lúc theo thầy chỉ sáng tỏ cái sẵn có của mình. Liễu nhân là soi tỏ cái sẵn có, không làm tăng trưởng cái chưa có. Đệ tử trước chưa có giới định tuệ, theo thầy học tập mới phát triển, thầy không phải là liễu nhân, thầy là duyên nhân. Cũng vậy, Phật tánh nơi chúng sanh không phải quyết định sẵn có, cần tu tập mới hiển lộ.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu liễu nhân là không, sao lại được gọi là có sữa có lạc?”
“Này thiện nam tử! Sự đáp nạn của thế gian có ba: một là chuyển đáp, như trước kia nói cớ gì gọi là giới? Do vì chẳng ăn năn nhẫn đến vì được đại Niết-bàn.
Chuyển đáp tức là trả lời câu hỏi theo sự dẫn giải phân tích từ thấp lên cao, Ví dụ hỏi sao gọi là giới? Đáp rằng giới là pháp cấm ngăn các điều quấy, giúp người ta không phạm lỗi, do giữ giới không phạm lỗi thì không ăn năn, từ không ăn năn tâm được định, đi lần lần đến giải thoát, cho tới được Niết-bàn. Đó gọi là chuyển đáp, từ cái này chuyển qua cái kia, cái kia chuyển qua cái nọ, dẫn từ từ lên.
Hai là nín lặng mà đáp, như có Phạm chí đến hỏi ta rằng: Ngã là thường ư? Lúc đó ta nín lặng. Ba là nghi đáp, như trong kinh đây nói nếu liễu nhân có hai tánh cớ gì trong sữa chẳng được có hai thứ.
Này thiện nam tử! Nay ta chuyển đáp, như người đời nói rằng có sữa có lạc, vì quyết định được, nên được gọi rằng có sữa có lạc. Phật tánh cũng như vậy có chúng sanh có Phật tánh do vì sẽ được thấy.
Nín lặng đáp, nghĩa là đối với những câu hỏi vô lý, đáp không có lợi thì Phật im lặng, im lặng tức là đáp. Người chấp thường hoặc chấp đoạn luôn có ý kiến cố định một bên, nếu trả lời bên nào thì họ lại rơi vào kiến chấp bên đó. Trường hợp với người hỏi cố chấp nặng thì Phật không trả lời. Người thông minh sáng suốt thì sự im lặng của Phật sẽ giúp họ nhận ra ý câu hỏi của mình là vô lý, sai lạc. Phật đã chỉ dạy qua sự im lặng, nếu Phật đáp thì càng tăng thêm lầm chấp. Nếu đáp ngã là thường thì tăng trưởng thêm cái chấp thường, đáp ngã là vô thường thì họ trở qua chấp ngã là đoạn diệt. Cả hai đều là bệnh nên Phật không đáp.
Nghi đáp là trả lời bằng cách đặt nghi vấn, như nói, nếu ông cho rằng liễu nhân có hai tánh thì tại sao trong sữa không có hai thứ vừa lạc vừa sữa? Chỉ nói vậy thôi chứ không giải thích, đó gọi là nghi đáp. Đặt câu hỏi lại để người hỏi tự tìm hiểu thấy lý luận của mình vô lý, tự nhiên biết cách nói của mình sai.
Ở đây Phật chuyển đáp. Phật nói, như người có sữa đun nấu sẽ thành chất lạc, cũng thế chúng sanh có Phật tánh nên tu hành liền được thấy Phật tánh.
Bồ-tát Sư Tử Hống lại thưa:“Bạch Thế Tôn! Như lời Phật vừa nói không được đúng nghĩa. Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến thế nào gọi là có? Nếu cho rằng sẽ có mà gọi là có đó, thời không đúng. Như người đời thấy không con cái bèn nói không con. Tất cả chúng sanh không có Phật tánh, tại sao nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.”
Bồ-tát dẫn lời Phật giảng ở chỗ khác “quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc” để gạn hỏi vì sao đây nói có. Ngài dùng ví dụ người đời thấy không con thì nói người đó không con, hiện tại không thấy Phật tánh thì phải nói không có Phật tánh, tại sao không thấy mà Phật nói có? Trước ngài quyết định có Phật tánh bị Phật bác, giờ ngài trở lại nói không có.
Phật bảo: “Này thiện nam tử! Quá khứ gọi rằng có. Ví như trồng quít, mộng mọc lên thời hột hư mất. Từ mộng lên cây nhánh lá nhẫn đến kết trái, lúc trái chín bèn có vị ngọt. Này thiện nam tử! Vị ngọt này đều không từ nơi hột, mộng, cây, nhánh, bông v.v., lúc trái chín thời sanh vị ngọt, vị ngọt này trước không nay có. Dầu trước không nay có mà chẳng phải là chẳng do nơi hột lúc trước. Thế nên hột lúc trước dầu đã quá khứ nhưng được gọi là có. Do nghĩa này nên quá khứ gọi rằng có.
Khi học kinh nếu chúng ta hiểu không khéo thì sẽ hoang mang, không biết lời nào của Phật là chân lý. Như có lúc Phật nói quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, bây giờ ngài lại nói quá khứ có. Phật thuyết pháp như thầy thuốc trị bệnh, với người bệnh nóng thì cho thuốc mát để dịu cơn sốt, với người bệnh lạnh thì cho thuốc ấm. Có khi trước cho thuốc nóng, sau phải cho thuốc mát. Có khi trước cho thuốc mát, sau phải cho thuốc nóng. Nếu bệnh chuyển, thầy thuốc theo bệnh cho thuốc. Thuốc có giá trị đối với người bệnh, nhưng không có giá trị với người không bệnh. Nếu không biết bệnh, cho uống không đúng thời, tất nhiên tai họa lớn.
Phật dạy đạo nhắm thẳng vào đương cơ, người đang chấp nặng cái gì thì Phật theo đó mà phá. Phương tiện phá chấp không phải là chân lý, thuộc về quyền chứ không phải thật. Phật đưa ra bao nhiêu lý luận với Bồ-tát Sư Tử Hống cốt yếu phá chấp quyết định có Phật tánh, nhưng đưa đến kết luận chúng sanh có Phật tánh là chánh nhân, song cần nhờ có duyên nhân tu tập mới hiển lộ. Nếu chỉ chấp có chánh nhân là cứu cánh, không cần duyên nhân, Phật nói Phật tánh không có. Không có vì thiếu duyên hiển lộ. Tất cả lý luận để đưa tới cuối cùng Phật mới nói chân lý thật.
Bồ-tát Sư Tử Hống nói quá khứ không có, Phật dùng ví dụ từ hột cam ươm lên cây cam, có cành lá, bông trái và trái chín ăn có vị ngọt. Có thể quả quyết rằng trái cam hiện nay là do hột cam trước kia không? Truy nguyên vê quá khứ thì biết có hột cam, nhưng nếu nói ngay hiện tại thì hột cam của quá khứ không còn. Hột cam thành trái cam, có thể nói có cũng có thể nói không. Nếu nói không thì hột cam xưa kia đã không còn những xét về nguồn của nó thì trái cam này bởi hột cam thuở xưa, nên trái cam này có thì hột cam thuở xưa cũng phải có. Đứng về mặt sanh diệt vô thường thì hột cam không có, vì nó đã biến hoại, nhưng đứng về dòng nối tiếp liên tục thì biết rằng hột cam xưa kia vẫn có. Như vậy kết luận là quá khứ có.
Thế nào lại gọi rằng vị lai là có? Ví như có người gieo trồng cây mè. Có kẻ hỏi cớ gì trồng thứ này? Đáp rằng vì có dầu.
Thật ra thời chưa có dầu, khi cây mà đã già lấy hột hấp sôi giã ép rồi sau mới có dầu chảy ra. Nên biết rằng người này trả lời như vậy chẳng phải là hư vọng. Do nghĩa này nên gọi rằng vị lai có.
Đưa ra câu trả lời vị lai có, Phật dùng ví dụ trồng mè để ép dầu. Hiện tại chưa có dầu, nhưng từ cây mè biết vị lai có dầu mè. Nói vị lai có là xét hiện tại để biết vị lai có, trên thực tế vị lai chưa có. Nói quá khứ có, vị lai có, hiện tại có, đều căn cứ trên lý nhân quả. Từ nhân xét quả, từ quả xét nhân, chúng ta thấy ba thời là có. Nếu căn cứ lý nhân duyên thì ba thời đều không, tại sao? Vì nhân quả là căn cứ trên thời gian mà lập, bởi nhân quá khứ nên có quả hiện tại, bởi nhân hiện tại nên có quả vị lai. Còn nhân duyên thì đứng về mặt không gian mà lập, các pháp do nhiều nhân duyên hợp lại thành, không có tự tánh. Các pháp không có tự tánh cố định, quá khứ vị lai cũng không có tự tánh nên là không
Khi nói nhân duyên là căn cứ sự vật hợp trong không gian, như cái nhà này là do các đồ vật: gạch, xi-măng, cát, tôn… hợp lại thành. Cái nhà do nhân duyên hợp nên không thật, bản thân những vật liệu của nó cũng là nhân duyên. Nhà không thật có, gạch ngói đá xi-măng… cũng không thật có, vị lai cũng không thật có. Các kinh thuộc hệ Bát-nhã đều nói về lý nhân duyên, luôn luôn nói các pháp không thật, quá khứ bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, vị lai bất khả đắc…
Khi chúng ta nghe nói có quá khứ, vị lai, hiện tại thì biết đó là đứng về lý nhân quả, thời gian. Còn nói các pháp giả hợp không thật có là nói về nhân duyên. Hiện các pháp đang có còn không thật huống nữa là quá khứ vị lai. Tất cả đều do tưởng tượng, tưởng là vọng nên không thật. Nắm được then chốt này, chúng ta đọc kinh Phật không lấy làm lạ, Phật nhắm vào nhân quả hay nhân duyên, nhắm vào thời gian hay không gian, biết rõ không còn gì ngờ vực.
Lại thế nào gọi rằng quá khứ có ư? Ví như có người lén mắng nhà vua trải qua nhiều năm. Lúc sau vua nghe được đòi đến hỏi cớ sao mắng ta? – Tâu Đại vương! Tôi chẳng mắng, vì người mắng đó đã mất. – Vua bảo: Kẻ mắng cùng thân ta cả hai đều còn tại sao lại nói rằng mất? Người kia không trả lời được nên phải bị tội chết.
Này thiện nam tử! Hai tánh ấy thật không mà quả chẳng mất, đây gọi là quá khứ có.
Thế nào lại gọi rằng vị lai có? Như có người đến nhà thợ gốm hỏi có bình không? Đáp rằng có. Thật ra thợ gốm này chưa có bình, vì có đất sét nên đáp rằng có bình, phải biết rằng thợ gốm này chẳng phải vọng ngữ. Trong sữa có chất lạc, chúng sanh có Phật tánh cũng như vậy, muốn thấy Phật tánh, phải nên quán sát thời tiết hình sắc. Do đây nên ta nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thật chẳng hư vọng.
Những điều này mang ảnh hưởng của nhân quả nghiệp báo nhà Phật. Như chúng ta mười mấy năm trước tạo tội gây khổ đau cho người, trải qua thời gian lại quên mất, tưởng rằng tội lỗi đó hết rồi. Mình quên nhưng người bị làm khổ không quên, khi gặp lại họ đánh đập trả thù. Lúc đó tuy không nhớ việc làm những năm về trước nhưng chúng ta phải chịu trả quả. Vì trước có gây nay phải chịu, không thể chối cãi được. Đó là đứng về nhân quả nghiệp báo. Trong đây Phật dùng ví dụ, người xưa mắng vua, sau vua hỏi, người đó nói không mắng, vì hiện tại không có người mắng. Nhà vua bảo, ông còn ta còn, không thể nói rằng mất, nên bắt trị tội. Tánh các pháp là không nhưng nhân quả chẳng mất.
Muốn thấy Phật tánh phải quan sát thời tiết. Phật nói chúng ta có Phật tánh, nhưng hiện giờ chúng ta không thấy. Nếu theo lời Phật dạy siêng năng tu tập, thời gian sau nhận viên quả mãn, đến địa vị Bồ-tát Thập trụ, lúc đó Phật tánh hiển lộ. Đó là thời tiết đến. Thời tiết không phải khi không nó đến, hoặc chúng ta ngồi chờ nó đến; phải do công phu tu hành đầy đủ, đến lúc viên mãn gọi là thời thành tựu. Phật nói chúng ta có Phật tánh không phải lời dối gạt. Nhưng nếu nghe Phật nói rồi quả quyết rằng mình có Phật tánh không cần tu cũng thành Phật, đó là lầm to. Đối với những người này, Phật lại nói không có Phật tánh. Nói như vậy cũng không sai vì không chịu tu thì không bao giờ thấy Phật tánh. Trong Thiền tông cũng thường nói thời tiết nhân duyên, biết rằng mình có Phật tánh và cũng nỗ lực tu, nhưng tu chưa tới lúc viên mãn thì thấy Phật tánh chưa có, đến lúc thời tiết chín muồi Phật tánh hiển hiện rõ ràng. Nên nói rằng phải quán sát thời tiết hình sắc.
Phật nói chúng sanh có Phật tánh, lời này không hư vọng, nói chúng sanh không có Phật tánh cũng không hư vọng. Nếu chấp cố định như đoạn trước ngài Sư Tử Hống nói quyết định có Phật tánh, cũng như trong sữa quyết định có chất lạc, thì Phật nói là không có. Nếu hiểu nghĩa Phật tánh tùy thời tiết nhân duyên thì Phật nói có Phật tánh, cố gắng tu rồi sẽ thấy.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Tất cả chúng sanh không có Phật tánh làm sao mà được vô thượng Bồ-đề?”
“Do chánh nhân nên khiến chúng sanh được vô thượng Bồ-đề. Gì là chánh nhân? Chính là Phật tánh” “Bạch Thế Tôn! Nếu hột ni câu đà không có cây ni-câu-đà, tại sao gọi là hột ni-câu-đà mà chẳng gọi là hột khư-đà-la?
Nghe Phật nói trong sữa không có chất lạc như trong chúng sanh không có Phật tánh, Bồ-tát hỏi nếu chúng sanh không có Phật tánh thì làm sao được vô thượng Bồ-đề? Phật không nói chúng sanh không có Phật tánh, ngài chỉ chấp nhận Phật tánh là chánh nhân. Muốn hiển lộ Phật tánh cần phải có duyên nhân, nếu quyết định có Phật tánh, quyết định thành Phật, điều này không đúng.
Bồ-tát lại dùng ví dụ hột ni-câu-đà sẽ mọc cây ni-câu-đà, chắc chắn không mọc cây khác, để nói Phật tánh sẵn có trong chúng sanh. Nói dễ hiểu hơn, hột cam nhất định không có cây cam thì tại sao không gọi là hột ổi? Nếu hột cam không có cây cam, hột ổi cũng không có cây cam, thì hột ổi cũng gọi là hột cam, hột cam cũng được gọi là hột ổi vì không thể mọc lên cây cam. Bồ-tát quả quyết trong hột ni-câu-đà có cây ni-câu-đà, Phật không chấp nhận tính cố định đó, cũng như không chấp nhận quả quyết trong chúng sanh có sẵn Phật tánh.
Bạch Thế Tôn! Như họ Cù dàm chẳng được gọi là họ A-kỳ-da. Họ A-kỳ-da lại cũng chẳng được gọi là họ Cù-đàm. Hột ni-câu-đà chẳng được gọi là hột khư-đà-la, còn hột khư-đà-la cũng chẳng được gọi là hột ni-câu-đà. Cũng như đức Thế Tôn chẳng được bỏ lìa họ Cù-đàm. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Do nghĩa này nên biết rằng chúng sanh đều có Phật tánh.”
Phật bảo: “Này thiện nam tử! Nếu nói rằng trong hột có cây ni-câu-đà thời không đúng, vì nếu là có cớ sao chẳng thấy?
Này thiện nam tử! Như những vật trong đời vì có nhân duyên nên chẳng thấy được. Ở xa chẳng thấy được như dấu chim bay giữa hư không. Vì gần nên chẳng thấy được như lông nheo rớt vào mắt. Vì hư hoại nên chẳng thấy như ngũ căn đã hư.
Vì loạn tưởng nên chẳng thấy như tâm chẳng chuyên nhất. Vì nhỏ nên chẳng thấy như vi trần. Vì bị che nên chẳng thấy như tinh tú bị mây phủ. Vì nhiều nên chẳng thấy như hột mè trên đống lúa. Vì tương tợ nên chẳng thấy như hột đậu trong đống đậu. Cây ni-câu-đà chẳng đồng tám thứ nhân duyên như vậy, nếu nó là có tại sao chẳng thấy? Nếu cho rằng vì nhỏ bị che nên chẳng thấy thời không đúng, vì tướng cây to thô. Nếu cho rằng tánh vi tế thời thế nào lại thành cây lớn. Nếu cho rằng bị che ngăn thời lẽ ra luôn luôn chẳng được thấy. Cây trước kia không có tướng thô to, nay thời thấy cây to, nên biết rằng tướng to này vốn không có tánh. Trước kia không có tánh thấy nay thời thấy được, nên biết rằng sự thấy này cũng vốn không có tánh. Hột cũng như vậy, trước không có cây nay thời có đó, như thế có lỗi gì?”
Theo lý luận Ấn Độ, có tám nhân duyên không thấy. Ở xa không thấy, như chim bay ở ngoài xa tít, không thể thấy dấu vết. Gần quá không thấy, như lông nheo trên con mắt, chúng ta không thể thấy. Các căn hư hoại nên không thấy, như mắt bị mù. Loạn tưởng nên không thấy. Như nhìn ra sân mà tâm bận lo nghĩ lăng xăng, có người hỏi thấy xe chạy vô không, nói không thấy. Vì sao? Vì mình không chú ý đến chiếc xe.
Nếu ông nói trong hột ni-câu-đà có cây ni-câu-đà thì khi nhìn trong hột phải thấy cây vì nó không có tám lỗi trên. Trước không có tánh, nay thấy được tánh thì đâu có lỗi gì. Như trước trong hột ni-câu-đà không thấy cây ni-câu-đà, bây giờ ươm hột mọc lên cây thì thấy được.
“Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói có hai thứ nhân: chánh nhân và liễu nhân. Hột ni-câu-đà do đất, nước, phân làm liễu nhân khiến nhỏ được thành to.”
“Này thiện nam tử! Nếu trước đã có thời cần gì đến liễu nhân? Nếu trước là không thời liễu nhân là liễu cái gì. Nếu trong hột ni-câu-đà vốn không có tướng to, do liễu nhân bèn sanh to, cớ sao chẳng sanh cây khư-đà-la, vì rằng hai thứ đều là không cả.
Nếu là có thì không cần liễu nhân, nếu là không thì liễu nhân không soi tỏ được gì.
Này thiện nam tử! Nếu như nhỏ chẳng thấy được, thời lẽ ra to có thể thấy. Như một vị trần thời chẳng thấy được, nhiều vị trần hòa hiệp thời thấy được. Trong hột lẽ ra cũng như vậy, to thời có thể thấy, vì trong đó đã có mộng cây bông trái, trong mỗi mỗi trái có vô lượng hột, trong mỗi mỗi hột có vô lượng cây cho nên gọi là thô, vì là thô nên lẽ ra có thể thấy.
Nếu hột ni-câu-đà có tánh cây ni-câu-đà mà mọc lên cây, con mắt thấy hột này bị lửa đốt cháy thời lẽ ra tánh đốt cháy này cũng là đã có trước.
Phật giải thích, nếu ông nói quyết định trong hột ni-câu-đà có cây ni-câu-đà, cây thì thô to, lẽ ra nhìn trong hột phải thấy cây.
Đây là lý luận phá chấp nên Phật dẫn nhiều ví dụ. Nếu nói hột ni-câu-đà có tánh ni-câu-đà nên mới mọc lên cây ni-câu-đà, bây giờ đem lửa đốt hột đó, lửa trước có trong hột ni-câu-đà hay không? Nếu không có sao bây giờ nó cháy? Như nói cây trước kia đã có sẵn trong hột rồi bây giờ mới thành ra cây, thì lửa cũng có sẵn trong hột nên bây giờ mới cháy. Đây là lý luận trước có sau mới sanh, khi sanh mới thấy, khi thấy thì biết rằng trước kia đã có. Như hiện giờ lửa cháy hột ni-câu-đà thì trước cũng phải có lửa trong hột. Dùng một việc vô lý để chứng tỏ câu nói “trước đã có sẵn, sanh ra mới thấy” là không đúng sự thật.
Nếu tánh cháy vốn đã có thời lẽ ra cây chẳng mọc lên. Nếu tất cả pháp vốn đã có sanh diệt, cớ sao trước sanh rồi sau diệt mà chẳng đồng một thời ư? Do nghĩa này nên biết là không có tánh.
Nếu cho rằng lửa vốn có sẵn trong hột thì nó thiêu rụi hột giống, làm sao cây có thể mọc lên. Nếu sanh và diệt đồng có một lúc, nghĩa là trong hội ni-câu-đà đã có sanh diệt thì nó tự sanh diệt, tại sao trước sanh rồi sau mới diệt? Do nghĩa này nên Phật nói không có tánh, chữ tánh này là tánh cố định. Trong hột ni-câu-đà không cố định có cây ni-câu-đà, trong tất cả các pháp đều không có tánh cố định.
“Bạch Thế Tôn! Nếu hột ni-câu-đà vốn không tánh cây mà sanh ra cây, thời hột này cớ gì chẳng sanh ra dầu, vì cả hai tánh đều là không cả?”
“Này thiện nam tử! Hột ấy cũng có thể sanh ra dầu, dầu vốn không có tánh dầu, nhưng do nhân duyên mà có.”
Bồ-tát cho rằng nhất định phải có tánh, nếu không sẵn có tánh thì nó có thể sanh ra bất cứ cái gì cũng được. Nếu không có tánh mà sanh, tại sao hột ni-câu-đà không sanh ra dầu, chỉ sanh ra cây ni-câu-đà?
Phật bảo nếu đủ nhân duyên thì hột đó cũng có thể sanh ra dầu. Ngài muốn trở lại lý nhân duyên, sở dĩ có thành tựu là do nhân duyên, không nên cố chấp hột giống đó phải sanh ra cây đó, nếu thiếu nhân duyên thì không thể thành tựu. Nhân duyên là cái hệ trọng.
“Bạch Thế Tôn! Cớ sao không gọi là dầu mè ư?” “Này thiện nam tử! Vì chẳng phải là mè.
Như duyên lửa sanh ra lửa, duyên nước sanh ra nước. Dầu hai thứ lửa và nước đều từ nơi duyên, nhưng chẳng thể có lẫn nhau được. Hột ni-câu-đà và dầu mè cũng như vậy, tuy cả hai đều từ nơi duyên mà đều chẳng sanh lẫn nhau.
Tánh chất của hột ni-câu-đà hay trị bệnh hàn lãnh, Tánh chất của dầu mè hay trị được bệnh phong.
Như cây mía, do nhân duyên mà thành các thứ đường: đường phèn, đường đen. Dầu cả hai thứ đường đều từ nơi chất mía, nhưng sắc tướng khác nhau, đường phèn trị bệnh nhiệt, đường đen trị hàn lãnh.”
Hột ni-câu-đà nếu có thành dầu cũng không gọi là dầu mè vì nó không phải là mè. Phật quy kết rằng tất cả pháp đều do duyên sanh, nhưng loại nào sanh ra loại ấy, không phải loại này mà thành ra loại khác được. Nhân duyên là một lẽ thật, là chân lý phổ biến nhưng không thể nói do duyên sanh thì mọi thứ lẫn lộn, thiện thành ác, ác thành thiện, lửa thành nước, nước thành lửa. Nếu theo duyên mà các pháp sanh ra lẫn lộn thì trật tự của thế gian bị xáo trộn, chúng sanh mất phương hướng hoạt động.
“Bạch Thế Tôn! Như trong sữa không tánh lạc, trong mè không tánh dầu, trong hột ni-câu-đà không tánh cây, trong đất sét không tánh bình, tất cả chúng sanh không tánh Phật, cứ theo đây thời như trước kia đức Phật nói: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh vì thế nên được vô thượng Bồ-đề. Nghĩa này xét ra không được đúng, vì trời và người đều vô tánh. Vì vô tánh nên người có thể sanh làm trời, trời có thể sanh làm người. Đều là do nhân duyên của nghiệp, không phải do nơi tánh.
Đại Bồ-tát do nhân duyên của nghiệp nên được vô thượng Bồ đề.
Nếu các chúng sanh có Phật tánh thời do nhân duyên gì mà nhất-xiển-đề dứt căn lành phải đọa địa ngục? Nếu Bồ-đề tâm là Phật tánh, thời nhất xiển đề lẽ ra chẳng dứt. Nếu là có thể dứt được, sao lại được nói rằng Phật tánh là thường? Còn nếu chẳng phải là thường thời không gọi là Phật tánh.
Bồ-tát Sư Tử Hống biện luận, nếu Phật chấp nhận trong sữa không có lạc, trong hột ni-câu-đà không có cây ni-câu-đà… thì cũng phải chấp nhận trong chúng sanh không có Phật tánh. Nếu như thế tại sao trước lại nói chúng sanh đều có Phật tánh? Căn cứ theo đây thì lời trước của Phật nói không đúng.
Bồ-tát nhấn mạnh vào chữ “tánh” là cố định, nếu cố định thì vật nào ra vật đó không thay đổi. Phật luôn luôn phá chấp cố định, tuy nói có Phật tánh nhưng phải do nhân duyên mới hiển lộ. Như trời hết phước thì sanh làm người, người có phước được sanh làm trời, đó là không có tánh cố định. Vì không cố định nên tất cả đều là vô tánh, do duyên do nghiệp mà thành.
Bồ-tát lý luận chúng sanh đã có Phật tánh thì lẽ ra không có hạng nhất-xiển-đề đọa địa ngục. Vì Phật tánh là thường, nếu nhất-xiển-đề mất Phật tánh thì tất nhiên không gọi là tất cả chúng sanh có Phật tánh được.
Nếu chúng sanh có Phật tánh, cớ sao gọi là sơ phát tâm ư? Tại sao lại gọi là bậc thối chuyển, bậc bất thối chuyển? Nếu là bậc thối chuyển thời nên biết rằng người này không có Phật tánh.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát nhất tâm hướng đến vô thượng Bồ-đề, đại từ đại bi, thấy tội lỗi của phiền não sanh tử. Quán sát đại Niết-bàn không có các lỗi sanh tử phiền não. Tin ngôi Tam bảo và nghiệp nhân quả báo, thọ trì giới cấm. Những tâm hạnh như vậy gọi là Phật tánh.
Nếu rời lìa những tâm hạnh này mà có Phật tánh, thời cần gì dùng những tâm hạnh này để làm nhân duyên.
Bồ-tát đưa ra nghi vấn, nếu có sẵn Phật tánh sao gọi là mới phát tâm? Vì sẵn có từ vô thủy đến nay không cần lại phát tâm. Nếu đã có Phật tánh thì phải cùng một chiều tiến lên, tại sao lại có người thối chuyển, người không thối chuyển?
Thêm câu hỏi khác, Bồ-tát tu hạnh đại từ đại bi, thấy tội lỗi phiền não…, những hạnh như vậy là Phật tánh. Nếu lìa các hạnh này mà có Phật tánh sẵn thì không cần các hạnh này. Nếu có Phật tánh riêng thì Phật tánh đã đủ rồi. Bồ-tát Sư Tử Hống đặt ra hai trường hợp. Một trường hợp tất cả những tâm hạnh trên là Phật tánh, vì những tâm hạnh đó đưa tới thành Phật. Một trường hợp rời những tâm hạnh này mà có Phật tánh thì không cần Phật tánh, không cần những nhân duyên tu hành này, đó là thừa. Tức là ngài chỉ nhìn một bên chánh nhân hoặc duyên nhân mà không dung hợp cả chánh nhân và duyên nhân.
Bạch Thế Tôn! Như sữa chẳng nhờ duyên tất sẽ thành lạc, nhưng thành tô thời phải chờ đủ duyên: nhân công, nước, bình, dây, khuấy.
Cũng vậy, những chúng sanh có Phật tánh lẽ ra không cần nhân duyên cũng được vô thượng Bồ-đề.
Nếu là quyết định có Phật tánh, cớ sao người tu hành thấy sự khổ của ba ác đạo, sanh, già, bệnh, chết mà thối tâm? Nếu quyết định có Phật tánh, cũng chẳng cần tu sáu môn ba-la-mật, lẽ ra được vô thượng Bồ-đề, như sữa chẳng cần duyên mà thành lạc. Nhưng thật ra phải nhờ tu sáu môn ba-la-mật mới được vô thượng Bồ-đề.
Do những nghĩa này nên biết rằng chúng sanh đều không có Phật tánh.
Như trước kia đức Phật nói Tăng bảo là thường trụ. Đã là thường thời tất chẳng phải là vô thường. Đã chẳng phải vô thường, tại sao Tăng bảo được thành vô thượng Bồ-đề.
Tăng nếu là thường, sao lại nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh?
Bạch Thế Tôn! Giả sử nếu chúng sanh từ trước đến nay không tâm Bồ-đề, cũng không tâm vô thượng Bồ-đề, về sau mới có, thời Phật tánh của chúng sanh cũng lẽ ra trước không, sau mới có.
Do nghĩa trên đây nên tất cả chúng sanh lẽ ra không có Phật tánh.”
Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh là chánh nhân, muốn hiển lộ Phật tánh thì phải dùng sự tu hành làm duyên nhân. Nhưng nghe nói chúng sanh có Phật tánh, người ta lại sanh ra chấp “tánh” là cố định, chúng sanh nào cũng cố định có Phật tánh, tức là cố định thành Phật, không cần tu. Muốn làm rõ vấn đề nên Bồ-tát đưa ra bao nhiêu lý luận như nhất định trong sữa có lạc, nhất định trong hột ni-câu-đà có cây ni-câu-đà… đó là lối chấp tánh cố định. Bị Phật bác bỏ lý luận này thì ngài trở lại chấp, nếu do tu mà được thì Phật tánh không có. Không phải Bồ-tát không hiểu rõ vấn đề, nhưng vì muốn dẹp sạch chấp trước của chúng sanh. Giải thích kỹ như vậy mà vẫn còn một số người cho rằng, có Phật tánh thì tu hay không tu sớm muộn gì cũng thành Phật, cứ buông lung tạo nghiệp. Đó là bệnh của chúng sanh.
Phải biết rằng tuy có Phật tánh nhưng không nên ỷ lại, phải nỗ lực tu mới thành tựu. Tu tập là duyên nhân, Phật tánh là chánh nhân. Nếu không có Phật tánh thì tu tập cũng không thể thành, vì chỉ có duyên nhân mà không có chánh nhân. Vấn đáp giữa Phật và Bồ-tát là để tránh lỗi cố chấp một bên. Hiểu rõ như thế chúng ta không bị nghi lầm.
Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Ông từ lâu đã biết rõ nghĩa Phật tánh. Nay ông vì chúng sanh mà thỉnh hỏi như vậy.
Tất cả chúng sanh thật có Phật tánh.
Này thiện nam tử! Ông nói rằng nếu chúng sanh có Phật tánh lẽ ra chẳng nên có người sơ phát tâm. Phải biết rằng tâm không phải là Phật tánh, vì tâm vốn vô thường, còn Phật tánh là thường.
Ông nói cớ sao có người thối tâm. Thật ra không có thối tâm. Nếu tâm có thối thời tất là trọn chẳng thể được vô thượng Bồ-đề, vì được chậm nên gọi đó là thối.
Tâm Bồ-đề này thật chẳng phải là Phật tánh, vì nhất-xiển-đề dứt căn lành đọa địa ngục.
Nếu tâm Bồ-đề là Phật tánh thời hạng nhất xiển-đề chẳng được gọi là nhất-xiển-đề, Tâm Bồ-đề cũng chẳng được gọi là vô thường. Do đây nên biết rằng tâm Bồ-đề thật chẳng phải là Phật tánh.
Phật khen ngợi nghi vấn của Bồ-tát Sư Tử Hống, vì chúng sanh mà hỏi cho thấu đáo.
Tất cả chúng sanh thật có Phật tánh, là câu đáp gọn, nói lẽ thật, không phải phương tiện quyền xảo. Còn những lý luận quanh co để phá chấp là ứng cơ quyền biến.
Phật giải thích, sơ phát tâm là tâm vô thường, Phật tánh là thường, không nên lẫn lộn. Thật ra tâm không có thối hay lùi, người tu chậm thì gọi là thối tâm, người tu tiến nhanh thì gọi là bất thối.
Tâm Bồ-đề và Phật tánh không phải là một, vì khi phát tâm khác, khi thành Phật khác. Đứng trên lý luận thì tâm Bồ-đề là vô thường, vì có sơ phát tâm và viên mãn tức là có biến chuyển, biến chuyển là vô thường. Tại sao đây nói tâm Bồ-đề cũng chẳng được gọi là vô thường? Có thể ở đây nói tâm Bồ-đề là chỉ cho tâm giác, vượt ra ngoài thường và vô thường. Đây là nghi vấn của tôi, chưa thể quả quyết.
Này thiện nam tử! Ông nói nếu chúng sanh có Phật tánh thời lẽ ra chẳng cần nhờ nhân duyên mới được vô thượng Bồ-đề, như sữa thành lạc. Lời này không đúng nghĩa. Vì ông đã nói phải có năm duyên mới thành sanh tô, nên biết rằng Phật tánh cũng như vậy.
Như trong các thứ đá có vàng, có bạc, có đồng, có sắt, Bốn thứ đá đều bản thọ chất tứ đại, đồng tên là đá, đồng là vật có thật, nhưng mỗi thứ đá sản xuất mỗi chất không đồng nhau, phải cần nhờ đủ các duyên mới sản xuất ra chất vàng, bạc, đồng, sắt. Do đây nên biết rằng trước vốn không có, chờ đủ duyên mà sau mới có.
Phật tánh của chúng sanh chẳng gọi là Phật. Phải do nhân duyên công đức mới được thấy Phật tánh, rồi sau chúng sanh mới thành Phật.
Ông nói chúng sanh đều có Phật tánh tại sao lại không thấy. Lời này không đúng nghĩa. Vì các duyên công đức chưa đầy đủ nên không được thấy.
Do nghĩa này nên ta nói có hai nhân: chánh nhân và duyên nhân.
Tuy trong đá có bản chất của vàng, bạc, đồng, sắt… nhưng không đủ duyên thì không phát hiện. Bởi không hiện nên nói trước không, đủ duyên mới hiện nên nói sau có.
Chúng sanh có Phật tánh mà chưa phải là Phật, nếu chấp có Phật tánh nhất định thành Phật là sai lầm. Như chấp trong hột ni-câu-đà quyết định mọc lên cây ni-câu-đà, không đúng hẳn. Hột ni-câu-đà không hoàn toàn có cây ni-câu-đà, phải có đủ duyên gieo trồng, bồi bổ, tưới tẩm, cây ni-câu-đà mới mọc lên. Cũng vậy, chúng sanh có Phật tánh nhưng phải tu hành viên mãn mới thành Phật. Đó là lẽ thật.
Chánh nhân gọi là Phật tánh, duyên nhân là phát tâm Bồ-đề. Do hai nhân duyên này mà được vô thượng Bồ-đề, như đủ duyên thời sản xuất vàng.
Thiện nam tử! Ông nói Tăng là thường trụ thời lẽ ra chúng sanh không có Phật tánh. Phải biết rằng Tăng gọi là hòa hiệp. Hòa hiệp này có hai: thế gian hòa hiệp và đệ nhất nghĩa hòa hiệp.
Thế hòa hiệp gọi là Thanh văn tăng. Nghĩa hòa hiệp gọi là Bồ-tát tăng.
Thế tăng là vô thường. Phật tánh là thường trụ. Như Phật tánh, nghĩa Tăng cũng là thường trụ.
Lại có Tăng gọi là pháp hòa hiệp, chính là nói mười hai bộ kinh. Mười hai bộ kinh là thường, nên ta nói Pháp và Tăng là thường trụ.
Bồ-tát đưa ra nghi vấn, nếu cho Tăng là thường trụ thì tất nhiên không có tiến lên thành Phật. Phật giải thích, Tăng gọi là hòa hợp, thế gian hòa hợp là Thanh văn tăng, đệ nhất nghĩa hòa hợp là Bồ-tát tăng. Vì vậy khi nào Phật nói Tam bảo thường trụ thì chúng ta phải hiểu là chỉ cho Phật tánh, hay pháp thân là đệ nhất nghĩa tăng.
Vì Tăng nghĩa là hòa hợp, mười hai bộ kinh cũng là sự hòa hợp, gom nhóm lời của Phật nên mười hai bộ kinh cũng được gọi là Tăng. Pháp của Phật nói là pháp chân thật thường trụ, vì thế pháp và tăng là thường trụ.
Này thiện nam tử! Tăng gọi là hòa hiệp. Hòa hiệp đây chính là nói mười hai nhân duyên. Trong mười hai nhân duyên cũng có Phật tánh. Mười hai nhân duyên là thường, Phật tánh cũng vậy. Do đây nên ta nói Tăng có Phật tánh.
Ông nói: Nếu chúng sanh có Phật tánh, tại sao có kẻ thối chuyển, người không thối chuyển?
Này thiện nam tử! Lóng nghe! Lóng nghe! Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho.
Có mười ba điều làm cho Bồ tát thối chuyển đạo vô thượng Bồ-đề: một là tâm chẳng tin, hai là tâm chẳng cố làm, ba là tâm nghi, bốn là tham tiếc thân mạng và của cải, năm là đối với Niết-bàn sanh tâm rất sợ hãi: “Vì sao mà chúng sanh diệt mất?” sáu là tâm chẳng kham nhẫn, bảy là tâm chẳng điều nhu, tám là sầu não, chín là chẳng ưa thích, mười là phóng dật, mười một là tự khinh thân mình, mười hai là tự thấy phiền não không thể phá, mười ba là không thích những pháp môn tiến đến Bồ đề.
Trên đây là mười ba điều làm cho Bồ-tát thối chuyển đạo Bồ-đề vô thượng.
Chúng ta cần ghi nhớ mười ba điều này, biết đó là chướng duyên làm thối chuyển đạo Bồ-đề.
Thứ nhất là chẳng tin mình có Phật tánh. Thứ hai là chẳng cố gắng tu. Vì không tin mình có Phật tánh nên không gắng tu, Phật tánh không hiển lộ. Thứ ba là nghi ngờ, vì không thấy Phật tánh nên nghi lời Phật dạy, nghi mình không có khả năng tu.
Thứ tư tâm sợ và tiếc. Sợ tu nhiều rồi sanh đau ốm bệnh chết, đó là tiếc thân mạng; lo sợ tu rồi nghèo thiếu không có tài sản làm sao sinh sống. Còn tiếc thân mạng của cải là chướng duyên của Bồ-đề.
Thứ năm, cho rằng Niết-bàn là diệt độ hẳn không còn gì, vì thế nên kinh sợ Niết-bàn không muốn tiến đến.
Thứ sáu, tâm không kham nhẫn, không chịu đựng khổ nhọc hoặc cảnh trái ý nghịch lòng nên thối thất đạo Bồ-đề. Thứ bảy, tâm không điều nhu cứ loạn động lăng xăng. Người tu mà tâm không an thì khó được định, không sanh trí tuệ. Thứ tám, tâm luôn sầu não, mặt mày buồn rầu không có chút khí lực hăng hái. Nhìn vẻ mặt người nào có nét bi thảm thì biết là sắp thối tâm.
Thứ chín, tâm không ưa thích hoan hỷ với pháp tu của mình. Vì không ưa thích nên thái độ lừng khừng lơ đãng, chẳng chăm lo thời khóa. Đó là dấu hiệu suy thoái. Thứ mười, tâm buông lung chạy theo cảnh bên ngoài, không biết nhiếp niệm giữ gìn ba nghiệp để cảnh lôi dẫn giong ruổi.
Mười một, tự khinh thân mình là thấy chỗ nguy hiểm, hoặc biết có những tai nạn làm hại đời tu của mình, cũng cứ xem thường lăn xả vào đó. Phật dạy người tu phải giữ mức trung đạo, không tiếc thân mà cũng không khinh thân thái quá. Chúng ta mượn thân này để tu tập, không nên ỷ y coi thường để bị tổn hại rồi không thể tu tiến.
Mười hai, tự thấy phiền não không thể phá dẹp rồi thối tâm. Như có người ngồi thiền loạn tưởng nhiều, sợ điều phục không được nên nản chí, nghĩ rằng mình lo xây dựng chùa hoặc làm từ thiện chắc có kết quả thiết thực hơn. Đa số chúng ta mắc kẹt chỗ này. Kinh Kim Cang Phật dạy, dù người dùng bảy báu nhiều như hằng sa thế giới đem bố thí, công đức không bằng công đức người trì bốn câu kinh Kim Cang. Vì sao? Công đức bố thí là hình tướng hữu vi, dù to lớn đến đâu cũng là công đức vô thường sanh diệt, còn ở trong hai mươi lăm cõi, chưa phải là công đức giải thoát. Khi nhận được pháp vô vi, trở về tâm bất sanh diệt, công đức này không bao giờ mất. Phật dùng nhiều ví dụ tán thán ngợi khen công đức tu tập, chúng ta nên nhớ chỗ quý hiếm hy hữu này, dù khó khăn đến đâu cũng nhẫn nại chuyên cần rồi sẽ được an lạc. Công đức hữu lậu dễ thấy dễ làm, còn công đức chân thật khó làm dễ thối tâm. Như người cuốc cỏ hoang, cuốc một lần hai lần chưa sạch, cứ tinh tấn không lùi năm này tháng nọ cuốc hoài nó cũng sạch hết. Chúng ta giữ vững niềm tin, siêng năng tu tập thì dù phiền não nhiều đến đâu cũng có ngày chấm dứt, không nên nửa chừng thối lui.
Mười ba, không thích những pháp môn tiến đến Bồ-đề. Tu mà không thích thành Phật, cứ nghĩ tu để tạo nhân duyên phước đức đời sau hưởng. Đó là quan niệm sai lầm khiến chúng ta càng lúc càng lùi xa, không gần đạo vô thượng.
Lại có sáu điều làm hư tâm Bồ-đề: một là bỏn sẻn pháp, hai là có tâm chẳng lành đối với chúng sanh, ba là gần gũi bạn ác, bốn là chẳng siêng năng tinh tiến, năm là quá tự kiêu mạn, sáu là kinh doanh nghề nghiệp thế gian.
Trước là các điều kiện làm thối chuyển đạo Bồ-đề, đây là sáu điều làm hư tâm Bồ-đề. Các điều này rất quan trọng, chúng ta cần phải chú ý kỹ.
Một là bỏn sẻn pháp, nghĩa là biết đạo lý, biết giáo lý cao siêu mà giữ riêng cho mình, không giảng dạy cho mọi người, không mở rộng con đường chánh pháp.
Hai là không có tâm từ bi, đối với chúng sanh khởi niệm giận ghét không cứu giúp một ai.
Ba là thân cận bạn ác, tập nhiễm thói xấu.
Bốn là lười biếng không siêng năng nỗ lực tu, cứ để trôi suông một đời vô ích.
Năm là quá tự kiêu, tự cho mình hơn hết trong thiên hạ, không có tâm học hỏi. Thiền sư Triệu Châu tám mươi tuổi còn đi hành cước, ngài là bậc thầy trong nhà thiền mà không tự mãn tự đắc. Chúng ta phải nói theo gương khiêm cung giản dị của ngài.
Sáu là kinh doanh nghề nghiệp thế gian. Chúng ta nhớ kỹ điều này, nhiều khi những điều kia qua khỏi nhưng lại mắc kẹt ở đây. Người tu nếu quá chú trọng vật chất, lo chạy theo việc kinh doanh thế gian thì phần tinh thần bị sút kém. Chư tổ ngày xưa chú trọng phần đạo đức, việc chùa chiền bên ngoài để mặc cho đàn-việt suy tính, đôi lúc chỗ ở dột nát cũng không màng.
Tôi nhớ ngày xưa chùa Ấn Quang lúc Hòa thượng Viện trưởng dẫn mấy huynh đệ chúng tôi từ Trà Ôn lên, Khi còn ở quê, nghe nói Phật học đường Nam Việt tưởng đâu to lớn lắm. Đến ngã ba Vườn Lài, quẹo vô con đường nhỏ, tới cái cổng bên ngoài xem cũng được, bước vô rồi thấy chánh điện chừng năm sáu thước vuông, vách lá mái lá, nền gạch Tàu không trét xi-măng, bước đi gập ghềnh, không giống như trí tưởng của mình. Hai dãy nhà lá hai bên, một bên nhà giảng, một bên nhà tăng. Nhà tăng có ba mươi mấy cái giường kê sát với nhau, giường tre nằm ngủ rệp cắn muốn chết, không tài nào dẹp được mấy con rệp này.
Vách lá của nhà tăng khít một bên nhà thế gian, bên kia làm gì bên đây nghe hết, nhất là phía sau nhà người ta có sàn nước, dội nước chảy ào qua phòng tăng vì vách lá không có gì ngăn cản. Chúng tăng thời đó tuy ở chỗ cực khổ nhưng lúc nào cũng cố gắng tu và làm việc hết lòng. Nhờ vậy được uy tín, được Phật tử tin tưởng, sau phát triển rộng lớn, chư tăng đều thành bậc hữu dụng.
Chúng ta nên nhớ, đừng để vật chất bên ngoài chi phối nhiều, khi bận nhiều việc thì việc tu sút giảm. Cũng là con người đó không phải người nào khác, nhưng sức tu lợi lỏng không giống như xưa, mục đích chánh bị quên lãng, những việc phụ lôi kéo nên càng ngày càng xuống. Phải biết lúc dừng, đừng để việc nọ việc kia xâm chiếm thời giờ của mình. Ở đây Phật nhắc nhở, khi nào việc kinh doanh tiến thì tâm Bồ-đề hư mất. Nên tăng trưởng tâm Bồ-đề, cố gắng tu để tâm Bồ-đề ngày càng lớn mạnh, đó là điều đáng mừng.
Này thiện nam tử! Có người được nghe chư Phật là bậc thầy của cõi trời và nhân gian, là đấng tối thượng trong tất cả chúng sanh, hơn tất cả hàng Thanh văn Duyên giác, là bậc có pháp nhãn sáng suốt thấy rõ tất cả pháp, có thể đưa chúng sanh qua khỏi biển khổ lớn. Nghe như vậy rồi, người này phát nguyện lớn: nếu trong đời có đấng Vô thượng như vậy, tôi cũng sẽ được. Do dây nên người này phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Hoặc có người nhờ người khác khuyên dạy mà phát tâm Bồ-đề.
Hoặc có người nghe nói Bồ-tát trải qua vô số kiếp thật hành những khổ hạnh rồi sau mới được vô thượng Bồ-đề. Nghe rồi tự nghĩ rằng: nay tôi không thể kham nổi những khổ hạnh như vậy, thời làm sao được vô thượng Bồ-đề. Do đây nên có thối tâm.
Phát tâm Bồ-đề là khi nghe chư Phật chư Bồ-tát có công hạnh cao quý, làm bậc thầy dẫn đường cho chúng sanh qua khỏi biển khổ, các ngài tu tập hạnh vô thượng nên được quả báo vô thượng, chúng ta nghe như vậy rồi phát tâm nguyện được như các ngài. Người phát tâm xuất gia là phát tâm Bồ-đề, nghĩa là thấy Phật, Bồ-tát, thánh tăng làm như vậy, nguyện tu tập làm theo các ngài. Phát tâm Bồ-đề như vậy rất quý, cần phải kiên trì giữ được bản nguyện.
Lại có người nghe tu hành khổ quá, trải qua vô số kiếp mới thành tựu, sợ làm không nổi nên thối tâm Bồ-đề. Vừa có niệm không kham nổi là thối Bồ-đề tâm. Người tu phải kiên quyết, mặc bao nhiêu kiếp cũng không sợ, mình cứ tiến, đến đâu thì đến, nhất định tiến hoài, đến thành Phật mới thôi thì tự nhiên được kết quả tốt.
Lại còn có năm điều thối tâm Bồ-đề: một là thích xuất gia theo ngoại đạo, hai là chẳng tu tâm đại từ, ba là ưa tìm lỗi Pháp sư, bốn là thường thích ở trong vòng sanh tử, năm là không thích thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh.
Đây là năm điều thối tâm Bồ-đề.
Một là thích xuất gia theo ngoại đạo. Chưa nắm vững giáo lý của Phật, nghe các thầy ngoại đạo có những pháp huyền bí, thần thông mê hoặc người, liền ưa muốn xuất gia theo để được kết quả mầu nhiệm. Vì thế lạc vào đường tà, không thể được chánh giác.
Hai là chẳng tu tâm đại từ, không quan tâm thương xót, không muốn cứu giúp chúng sanh đau khổ. Đó là trái hạnh nguyện từ bi của chư Phật. Người tu hạnh Bồ-tát trước tiên phải tu tập tâm từ, không có tâm này thì không đủ nhân duyên chứng quả Bồ-đề.
Ba là ưa tìm lỗi Pháp sư. Chúng ta tu khi chưa hiểu đạo phải nhờ thầy dạy, các vị pháp sư hướng dẫn giảng giải giáo lý để được khai mở trí tuệ. Đối với những điều thầy dạy, chúng ta không chịu sửa mình mà cứ tìm lỗi chỉ trích vị thầy, như thế không bao giờ nhận hiểu được Phật pháp, rốt cuộc bỏ dở đường tu.
Bốn là thường thích ở trong vòng sanh tử, nghĩa là không thích giải thoát khỏi ba cõi, muốn tu để được phước báo hưởng vui đời sau. Phước báo hưởng hết rồi lại rơi trong đường khổ, không đạt được kết quả chân thật.
Năm là đối với kinh luật không có tâm ưa thích, đọc tụng, biên chép, giảng nói. Mười hai bộ kinh gồm thâu hết tất cả lời Phật dạy, là kim chỉ nam dẫn đường cho chúng sanh. Muốn ra khỏi sanh tử, đạt được Phật quả tối thượng mà không gần gũi học tập ghi nhớ, tâm trí rối mù lại nghĩ nhớ chuyện thế gian, không được lợi mình lợi người, rốt cuộc tu chỉ có thối lui.
Lại cũng có hai pháp làm thối tâm Bồ-đề: một là tham ưa ngũ dục, hai là chẳng thể cung kính tôn trọng ngôi Tam bảo.
Này thiện nam tử! Do những nhân duyên như vậy làm cho Bồ-tát thối tâm Bồ-đề.
Điều thứ nhất, người tu cốt yếu đối với ngũ dục phải xa lánh, ngược lại nếu tham đắm nó thì việc tu tập sẽ bị thối chuyển. Hai là mình tu cốt tiến bước theo Phật pháp tăng, ngược lại đối với Tam bảo không cung kính không có tâm hướng đến thì chắc chắn sẽ thối tâm Bồ-đề.
Phật đã chỉ dạy những lý do thối tâm đối với con đường giác ngộ. Chúng ta cẩn thận để đừng vấp phải, khi nào nảy sinh những sự việc như thế liền biết đây là lý do thối tâm, phải tránh, phải buông bỏ nó thì mới giữ được tâm bất thối.
Thế nào lại gọi là tâm bất thối? Có người nghe rằng đức Phật có thể độ chúng sanh khỏi sanh, lão, bệnh, tử. Là đấng chẳng học với thầy, tự tu tập được vô thượng Bồ-đề. Nếu đạo Bồ-đề là quả có thể được, tôi cũng tu tập quyết được quả ấy. Do đây nên người này phát tâm Bồ-đề. Bao nhiêu công đức tu tập không luận nhiều ít đều hồi hướng cả về vô thượng Bồ-đề.
Người này thệ nguyện thường được gặp Phật cùng đệ tử Phật, thường được nghe pháp Đại thừa thâm diệu, nhãn nhĩ tỹ thiệt thân cả năm căn đều hoàn cụ, nếu gặp cảnh khổ nạn cũng quyết không mất tâm Bồ-đề này.
Lại nguyện rằng: Mong chư Phật, chư Bồ-tát luôn có lòng hoan hỷ đối với tôi, nguyện tôi đủ năm căn lành. Nếu có chúng sanh nào chặt chém đánh đập giết hại tôi, đối với kẻ này tôi khởi lòng đại từ, lòng vui mừng, vì nhờ họ mà tôi được thêm lớn công hạnh Bồ-đề. Nếu không có họ, tôi làm sao được quả vô thượng Bồ-đề.
Nghe đức Phật có những công hạnh cao quý như vậy, mình liền phát tâm tiến tu và nguyện theo Phật. Đó là phát tâm Bồ-đề.
Có những điều nguyện giúp chúng ta có đủ thuận duyên để tiến mãi không lui sụt trên đường tu. Nguyện đời đời mình được gặp Phật, nghe pháp Đại thừa, đời đời sanh ra năm căn mắt tai mũi lưỡi thân đều được đầy đủ, dù gặp cảnh khốn khổ đến đâu cũng không thối tâm Bồ-đề. Đó là nguyện mạnh mẽ của người phát tâm.
Những chỗ này thật là thiết tha, nếu chúng ta nhớ những câu nguyện này chắc chắn thế gian không ai có thể làm cho ta thối chí được. Trước hết nguyện chư Phật Bồ-tát đối với mình luôn luôn hoan hỷ, mình không làm những điều gì trái nghịch với các ngài. Kế đến nguyện mình có đủ năm căn lành, tức là ngũ căn ngũ lực tín tấn niệm định tuệ. Nếu có chúng sanh nào chặt, chém, đánh đập, giết hại thân ta, đối với những người này chúng ta luôn khởi lòng đại từ, lòng vui mừng. Nếu không có lòng đại từ đại bi làm sao được như thế?
Tại sao nói rằng nhờ họ mà chúng ta được thêm lớn công hạnh Bồ-đề? Người tu Đại thừa thấy sanh tử là vòng tiếp nối liên miên, không phải chỉ có một đời. Muốn được đầy đủ công hạnh Bồ-đề phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp làm những việc khó làm. Vì vậy đối với kẻ thế gian gọi là thù, giết hại mình, đánh đập mình…, vẫn khởi lòng thương, thêm lòng vui mừng. Chúng ta nỗ lực ráng tập công hạnh này thì sẽ thắng hết được các khó khăn. Ai hành phạt khổ sở mình thì vui mừng vì nhờ họ mà mình được thêm lớn công hạnh Bồ-đề. Chính nhờ sự hành phạt mà chúng ta tăng thêm đức nhẫn nhục, có nhẫn nhục thì tâm Bồ-đề vững vàng không thối chuyển. Thân này sống hay chết không thành vấn đề, chết thì đời sau tiếp tục tu, không lui sụt chí nguyện. Trong những hoàn cảnh khó khăn, tâm vững vàng vẫn tiến không bao giờ thối. Lúc nào cũng khởi lòng thương chúng sanh si mê, khởi nguyện độ người.
Nếu không có họ làm sao tôi được quả vô thượng Bồ-đề. Người gây khổ nạn là thiện tri thức bậc nhất của mình chứ không phải thường. Chúng ta phải ghi nhớ những câu này, vì chưa làm được nên phải huân tập mãi mãi, nguyện noi theo công hạnh người xưa, lấy công hạnh ấy làm công hạnh của mình để vượt qua khó khăn. Mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta vượt qua với lòng hoan hỷ vui mừng; không phải vượt qua rồi lòng còn buồn bã trách cứ, như vậy là còn dở. Đoạn này phù hợp với kinh Pháp Hoa, phẩm Đề-bà-đạt-đa, Phật nói Đề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức bậc nhất của ta, nhờ Đề-bà-đạt-đa mà ta mau thành Phật. Đây thì nói rằng có kẻ đánh đập giết hại mình, nhờ đó mà mình mau được quả vô thượng Bồ-đề.
Lại nguyện rằng: Đời đời tôi được khỏi những thân nữ, thân hai căn, không căn; không bị làm nô lệ; không gặp chủ hung ác; không thuộc dưới quyền vua chúa ác; chẳng sanh vào nước ác.
Nếu được thân xinh tốt, giòng họ cao sang, giàu có, nguyện tôi không có lòng kiêu mạn.
Đây là lời nguyện giúp chúng ta tránh khỏi những họa hại, sanh những nơi đủ thắng duyên để tiến tu.
Hai trường hợp đức Phật dạy thật kỹ. Trường hợp thứ nhất là mang thân tàn tật, bệnh hoạn, hoặc làm thân ở dưới quyền ép buộc của kẻ khác. Những trường hợp như vậy khó tiến tu, khó làm được công hạnh của người tự độ và độ sanh. Nên nguyện thoát khỏi những áp bức và được thân tốt đẹp. Khi được thân tốt đẹp nếu không nhận xét thấu đáo, cứ ỷ vào thân tốt đẹp mà sanh khinh mạn, đó là bệnh khiến thối tâm Bồ-đề. Cho nên nguyện nếu được thân tốt đẹp, giòng họ cao sang, cũng không bao giờ có lòng kiêu mạn, Được như vậy thì sự tu của mình mới tiến mãi không lùi.
Nguyện tôi thường được nghe mười hai bộ kinh và thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải thuyết. Lúc tôi giải thuyết cho chúng sanh, nguyện cho thính giả đều kính tin không nghi, chẳng sanh ác tâm đối với tôi.
Nguyện cho tôi thà nghe pháp ít mà hiểu được nhiều nghĩa vị, chẳng muốn nghe nhiều mà chẳng rõ nghĩa lý.
Nguyện là thầy của tâm mình, chứ chẳng bị tâm sai sử.
Đối với Phật pháp, chúng ta nguyện thường được nghe giảng dạy. Khi giảng dạy cho người, nguyện thính giả nghe đều tin không nghi. Đối với tâm mình nguyện làm chủ được nó. Đây là lời nguyện chí lý. Chúng ta làm chủ tâm hay tâm làm chủ chúng ta? Nếu mình là chủ của tâm, khi bảo yên thì nó phải yên, khi cho nghỉ thì nó phải nghỉ. Điều này không dễ. Như lúc nằm ngủ, không cho tâm nghĩ ngợi có được không? Chuyện bên đông bên tây kéo đến làm cho mình lăng xăng mất mười lăm hai mươi phút, chứng tỏ rằng mình chưa làm chủ nó mà nó làm chủ mình.
Xưa chư tổ đói thì ăn mệt thì ngủ, nghe nói tu rất dễ giống y hệt chúng ta, cũng đói ăn mệt ngủ, nhưng hai bên khác nhau. Chúng ta đói thì ăn nhưng lên mâm cơm thấy chỉ có rau luộc với nước tương thì nuốt không xong, nghĩ đến món này món nọ. Mệt nằm xuống ngủ mà cứ lăn qua lăn lại nghĩ đông nghĩ tây. Các ngài đói thì ăn, ăn cái gì cũng được, mệt thì nằm xuống ngủ khò không nghĩ không suy, Phàm với thánh khác ở chỗ đó. Phàm là gì? Là không làm chủ được tâm. Thánh là gì? Là làm chủ được tâm mình rồi. Đó là chỗ chí yếu của người tu. Người không hiểu rõ tưởng là lời nguyện thường, thật ra với đạo lý chân chánh, người làm thầy tâm mình đó là thánh chứ không phải phàm phu. Hằng ngày hằng giờ chúng ta cố gắng làm chủ tâm mình để chuyển phàm thành thánh, đừng để tâm lôi kéo như phàm phu thế gian.
Thân khẩu ý, ba nghiệp chẳng giao tiếp với kẻ ác, điều ác. Có thể làm cho tất cả chúng sanh được an lạc. Giới hạnh nơi thân cũng như trí huệ nơi tâm đều vững chắc như núi không bị lay động. Vì muốn thọ trì chánh pháp vô thượng nên chẳng lẫn tiếc thân mạng và tài sản. Chẳng đem vật bất tịnh làm phước nghiệp.
Muốn thành tựu quả vô thượng, trước tiên phải nguyện bỏ ác làm lành. Giao tiếp người ác làm tăng chướng duyên, không làm lợi lạc chúng sanh thì không đủ phước tuệ. Giới hạnh và trí tuệ vững chắc như nền móng kiên cố, sự tu tập mới vững bền.
Không đem vật bất tịnh làm phước nghiệp là sao? Như có Phật tử đề nghị mua vé số cầu trúng một hai triệu để cúng chùa, ủng hộ Thầy làm việc đạo lý. Nếu họ trúng, đem tiền đến cúng cho mình làm chùa, đó là tịnh hay bất tịnh? Tâm niệm cúng chùa rất tốt nhưng bằng cách mua vé số thì không tốt. Vì đó là trá hình của cờ bạc, phạm vào giới cấm. Phật cấm mà làm để đem cúng chùa là bất tịnh.
Lại có trường hợp ép uổng nài nỉ bắt buộc Phật tử phải cúng chùa. Người cúng dường với tâm lý bị nài ép sẽ không vui, không vui thì việc phước trở thành bất tịnh. Thà sống nghèo mà Phật tử cúng dường với lòng thành, quý hơn tổ chức cúng dường lớn lao, ghi danh công đức, đưa người vào con đường hiếu danh, so đo phân biệt. Việc làm đạo đức tạo phước duyên cho Phật tử mà như thế là không hợp pháp. Chúng ta nên khuyên dạy Phật tử làm phước nghiệp với tâm thành, đừng khuyến khích cúng dường với tâm danh lợi, phước đức không trọn vẹn.
Tâm không tà vạy, tự sống với chánh mạng. Nếu thọ ơn thời nhớ mãi, trả nhiều hơn thọ.
Câu này nhắc chúng ta nghĩ đến bổn phận người tu đối với thí chủ. Như có Phật tử đến cúng dường tôi năm mười ngàn đồng, tôi phải nhớ ơn luôn nhưng làm sao tôi trả lại nhiều hơn số tiền đó? Trường hợp người xuất gia, Phật không cho tự làm ăn nuôi sống, phải thọ nhận của tín thí. Đối với thời hiện đại, điều này có vẻ không phù hợp, ai cũng phải lo kinh doanh kiếm tiền, không ai ỷ lại vào ai được. Phật lại dạy chúng ta phải thọ nhận người cúng dường, không được tự túc, ý ngài muốn chúng ta tạo điều kiện kết duyên với chúng sanh, dù ít dù nhiều cũng là nhân duyên gặp gỡ. Vì có sự ràng buộc, mang nợ phải trả mà trả nhiều hơn thọ nhận nên phải ráng tu, nỗ lực sáng đạo để đền ơn gấp bội. Chúng ta trả nợ thí chủ bằng cách giáo hóa, người chưa biết đạo dạy cho họ thành người biết đạo, người biết đạo ít chuyển thành biết đạo sâu, người chưa giải thoát chuyển thành người giải thoát… Đó là trả nhiều hơn thọ.
Nếu làm ăn tự nuôi sống thì không liên hệ, không mang ơn ai, không thấy bổn phận phải lo tu để trả ơn tín thí, chúng ta dễ sanh lười biếng ích kỷ. Luôn nhớ mình là người thọ thí, nhận sự cúng dường, ngày nào cũng là ngày thọ ơn, mỗi ngày đều nỗ lực cố gắng vươn lên để đền ơn chúng sanh. Đời này không trả được thì đời sau cũng phải trả, không có sự thọ nhận nào mà không đền đáp. Chúng ta đền trả bằng hai cách. Nếu tu giỏi thì làm thầy giáo hóa, đời này và đời sau. Nếu thọ dụng nhiều mà ỷ lại phóng túng thì trở lại làm tôi tớ cho người hoặc làm loài vật kéo cày chở nặng để người sai khiến.
Các vị Bồ-tát có quyến thuộc muôn ngàn, chính là thí chủ nhiều đời của các ngài, đi đến đâu cũng chung họp, cũng đều dự pháp hội nghe Phật thuyết pháp. Chúng ta cũng kết duyên, nhận người bố thí như thế. Thí chủ ủng hộ mọi vật dụng để chúng ta có thì giờ yên tu, phải tu tiến hơn để mỗi đời đều giáo hóa chúng sanh, lâu dần thành quyến thuộc. Không được xem thường thí chủ, quên mình là người thọ ơn, thấy đời sống dễ dãi rồi sanh làm biếng, đó là vay nợ mà không thể trả. Người tu có thể rất hay mà cũng có thể rất dở, không được xem thường điều này, phải tu tiến đều đều để trở thành một vị thầy đủ phước đức giáo hóa chúng sanh.
Biết ranh những sự nghiệp của thế gian; hiểu rành ngôn ngữ của các địa phương, của mọi loài chúng sanh.
Đọc tụng biên chép mười hai bộ kinh không hề nhàm mỏi biếng lười.
Nếu có chúng sanh không thích nghe kinh, thời tôi tìm phương tiện tiếp dẫn cho họ ưa nghe kinh.
Tôi thường nói lời dịu hòa, miệng không tuyên điều xấu ác.
Chúng bất hòa, tôi làm cho họ hòa hiệp. Người lo sợ, tôi làm cho họ được vững lòng.
Thời kỳ đói kém, tôi làm cho mọi người được no đủ. Đời tật bệnh thời tôi sẽ làm vị đại lương y tự có đủ tài bảo cũng như thuốc men, làm cho người bệnh đều được lành mạnh.
Kiếp binh đao, tôi sẽ có thế lực lớn trừ dứt hết sự tương tàn tương hại.
Tôi sẽ làm cho chúng sanh khỏi các điều kinh sợ như bị giết, bị bắt, giam nhốt, đánh đập, những nạn về nước lụt, hỏa hoạn, nạn vua chúa, nạn giặc cướp, sự nghèo khốn, phá giới, danh xấu, ác đạo.
Với cha mẹ, sư trưởng, tôi rất kính mến, với kẻ thù nghịch, tôi khởi lòng từ.
Tôi thường tu tập sáu chánh niệm, môn Không tam-muội, mười hai nhân duyên, quán sanh diệt vô thường, sổ tức, Thiên hạnh, Phạm hạnh, Thánh hạnh, Kim cang tam-muội, Thủ-lăng nghiêm định.
Nơi không có ngôi Tam bảo, nguyện tôi được tâm tịch tịnh.
Nếu lúc thân tôi bị phải sự rất khổ, nguyện không hư mất tâm Bồ-đề vô thượng. Chẳng sanh lòng tri túc đối với Thanh văn Bích-chi Phật.
Những lời nguyện có tính cách làm lợi ích chúng sanh. Biết rành nghề nghiệp kỹ thuật thế gian thuộc về công xảo minh, biết ngôn ngữ địa phương là thanh minh trong ngũ minh của Bồ-tát hạnh. Đây là phương tiện chỉ dạy dẫn dắt người, Bồ-tát biết tất cả mà không chấp giữ, không bị nghề nghiệp chi phối.
Khi chúng sanh gặp tai nạn, các sự khổ đói kém, bệnh tật hoặc giặc cướp, gông cùm… Bồ-tát nguyện làm tất cả việc cần thiết cứu giúp, cho thức ăn người đói, cho thuốc người bệnh, thành tựu thế lực lớn để giải trừ binh đao tai họa. Bồ-tát dùng ngôn ngữ hòa dịu để an ủi người sợ sệt làm cho họ vững vàng, người bất hòa làm cho hòa hợp. Đối với cha mẹ sư trưởng, một lòng kính mến; với người thù nghịch một lòng thương xót, đây là hạnh từ bình đẳng.
Nguyện thường tu tập các pháp môn của Phật, tâm luôn ở trong các pháp, thường ở trong các định Đại thừa. Dù gặp tai nạn khổ đau cũng nguyện không lui sụt tâm Bồ-đề. Đối với các quả vị Thanh văn Bích-chi cũng không thấy đã đủ, phải tiến lên quả vị Bồ-tát, nguyện thành Phật viên mãn.
Những lời nguyện này rất cần thiết đối với chúng ta. Luôn hướng đến lợi lạc an vui, không bỏ một điều lành nào, tiến đến quả vị vô thượng Bồ-đề, đó là tâm hạnh của người tu.
Chỗ không ngôi Tam bảo tôi thường xuất gia trong hàng ngoại đạo để phá tà kiến của họ. Đặng pháp tự tại, đặng tâm tự tại, nơi pháp hữu vi thấy rõ sự lỗi lầm.
Nguyện tôi sợ sệt đạo quả Nhị thừa như người tiếc thân sợ chết.
Nguyện tôi vì chúng sanh nên thích ở trong ba ác đạo như chúng sanh thích ở cõi trời Đạo lợi.
Nguyện tôi vì mỗi mỗi chúng sanh mà chịu khổ địa ngục trong vô lượng kiếp chẳng sanh lòng hối hận.
Nguyện tôi thấy người khác được lợi ích chẳng sanh lòng ganh ghét, thường có lòng tùy hỷ như chính mình được.
Đoạn trước nói sở dĩ chúng ta thối tâm Bồ-đề vì ưa xuất gia theo ngoại đạo, đây tại sao lại nói thường xuất gia theo ngoại đạo để phá tà kiến của họ? Trong trường hợp chỗ không ngôi Tam bảo mà muốn tu phải theo ngoại đạo, vì ngoài chỗ này ra không có nơi tu tập. Tu theo nhưng chuyển được ngoại đạo bỏ tà kiến. Muốn được như vậy chúng ta phải vững mạnh và tin sâu Phật pháp, đồng thời có khả năng dạy lại người.
Đặng pháp tự tại là đối với giáo pháp, chúng ta thông đạt không còn ngăn ngại. Đặng tâm tự tại là đối với tâm, chúng ta làm chủ hoàn toàn không bị nó lấn hiếp. Đối với pháp hữu vi tức là đối với các pháp sanh diệt chúng ta thấy rõ nó vô thường, không lâu dài bền chắc… Vì thấy rõ như thế nên không đắm nhiễm.
Người tu hạnh Bồ-tát không ưa thích quả vị Thanh văn Duyên giác, vì sợ kẹt trong đó không tiến lên, nên nói sợ quả Nhị thừa như sợ chết.
Đoạn trước, trong phần thối tâm Bồ-đề, Phật nói người thích ở trong lục đạo là thối tâm Bồ-đề. Tại sao ở đây lại nguyện mình thích ở trong ba ác đạo như chúng sanh thích ở cõi trời Đao-lợi? Ý hai bên khác nhau. Trước nói thích ở trong lục đạo hay trong hai mươi lăm cõi, là muốn tu sơ sơ để đời sau hưởng giàu sang phú quý, hoặc muốn tu mười điều lành để được sanh lên cõi trời, như vậy Bồ-đề tâm không thể nào tiến được. Ở đây không nguyện lên cõi trời hay đời sau được sung sướng, nguyện sanh trong ác đạo mà vẫn an lành như trong cõi trời Đao-lợi. Ở trong đó để giáo hóa chúng sanh, đây là nguyện đại bi. Bồ-tát muốn ở trong ba ác đạo để giáo hóa chúng sanh, chỗ chúng sanh khổ mà không thối tâm, muốn đến đó để độ họ.
Bồ-tát vì chúng sanh, chịu khổ trong địa ngục vô lượng kiếp mà không có lòng hối hận. Ai cũng thích nguyện đến những chỗ an lành vui vẻ, các Bồ-tát ngược lại nguyện vì chúng sanh chịu khổ trong địa ngục. Lòng đại bi của các ngài rộng lớn vô lượng vô biên, nguyện thay chúng sanh chịu khổ, không sanh lòng hối hận. Với tâm lượng rộng lớn ấy, có địa ngục nào để cho các ngài thọ hay không?
Có hay không là một vấn đề thật khó hiểu. Kinh nói trong một tiền thân đức Phật làm thợ săn, chết đọa địa ngục, bị quỷ bắt kéo xe, chiếc xe nặng kéo không nổi, còn bị roi gậy đánh đập. Đến một trụ đồng lửa cháy rần rần, nhiều tội nhân bị bắt cột vào đó, rên la khóc lóc. Ngài thấy vậy động lòng thương, dừng lại và nguyện chịu khổ thế cho tất cả tội nhân, nguyện cho những người ở đây đều được giải thoát. Liền khi ấy tất cả cảnh khổ biến mất, ngài sanh về cõi trời.
Như vậy khi vừa phát tâm rộng lớn thì cảnh địa liền tan biến không còn nữa. Bồ-tát nguyện đời đời ở trong địa ngục để độ chúng sanh, tâm nguyện đó khiến địa ngục tan biến. Nói như vậy không có nghĩa là Bồ-tát không xuống địa ngục, nhưng vì các ngài thương chúng sanh, chịu khổ để chúng sanh an vui, với tâm niệm đó thì đến đâu cũng không thấy khổ, cho nên không thấy có địa ngục. Chúng ta sợ khổ, đi đến đâu thấy khổ không dám hy sinh. Đó là vì lòng ích kỷ, yêu quý bản ngã nên không bao giờ thoát khổ. Bồ-tát vì lòng lợi tha xả kỷ cho nên không lúc nào thấy mình khổ.
Nguyện trên là chịu khổ thay chúng sanh, thấy khó làm. Nguyện này là thấy người khác được lợi ích không sanh lòng ganh ghét, nguyện này dễ, không tốn tiền tốn bạc, không bị đánh đập gì mà thật là khó. Khó là sao? Vì thế gian quen bệnh đố kỵ ganh ghét. Nếu lúc trước mình nghèo, người bên cạnh cũng nghèo, hai bên cất hai nhà lá cạnh nhau thì dễ cảm thông với nhau lắm. Nếu người bên cạnh làm ăn phát tài, năm năm mười năm họ cất nhà lầu, mình vẫn còn ở nhà lá, thì mình và người còn thương yêu vui vẻ với nhau không? Thấy người giàu mình liền tránh chỗ khác, không muốn gặp nữa. Đó việc không dễ làm nên Phật dạy chúng ta phải tùy hỷ, xem cái vui của người như cái vui của mình. Được vậy tâm hỷ xả lớn mạnh, dứt hết lòng đố kỵ. Sở dĩ thiên hạ oán thù nhau là do tâm đố kỵ, lúc còn nhỏ đã mang sẵn tâm này, không đợi đến lớn. Tâm này rất khó bỏ nên Phật dạy chúng ta phải luôn luôn có lòng tùy hỷ. Thấy ai có gì lợi ích, được sung sướng, chúng ta mừng như chính mình được, tâm tùy hỷ đó được phước đức vô lượng vô biên.
Nếu gặp ngôi Tam bảo, nguyện tôi sẽ đem y phục, đồ uống ăn, thuốc men, đồ nằm, nhà cửa, đèn sáng, hoa hương, kỹ nhạc, phan lọng, bảy báu cúng dường.
Nếu thọ giới pháp của Phật nguyện tôi giữ gìn bền chắc trọn chẳng sanh lòng hủy phạm. Nếu nghe khổ hạnh khó làm của Bồ-tát, trong lòng vui mừng chẳng hối hận.
Nghe Bồ-tát làm chuyện khó làm mình ngán quá, ngán quá tức là hối hận, còn nếu nghe như vậy mà vui mừng thì không lòng hối hận.
Tự biết những việc đời trước. Trọn chẳng gây nghiệp tham, sân, si. Chẳng vì quả báo mà chứa nhóm nghiệp nhân. Đối với sự vui hiện tại chẳng sanh lòng tham đắm.
Này thiện nam tử. Nếu có người phát được những nguyện như vậy thời gọi là Bồ-tát trọn chẳng thối thất tâm Bồ-đề, cũng gọi là thí chủ, có thể thấy đức Như Lai, thấy rõ Phật tánh, có thể điều phục chúng sanh độ khỏi sanh tử, có thể hộ trì chánh pháp vô thượng, có thể được đầy đủ sáu môn ba-la-mật.
Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên tâm bất thối chẳng gọi là Phật tánh.
Phật nhắc lại phần trước vì ngài Sư Tử Hống nói rằng Bồ-tát khi phát tâm, có người thối chuyển có người chẳng thối chuyển, như vậy Phật tánh trở thành vô thường. Phật giải thích.
Này thiện nam tử! Ông chẳng nên vì tâm có thối chuyển mà cho rằng các chúng sanh không có Phật tánh. Ví như có hai người đều nghe phương khác có núi thất bảo, trong núi có suối nước trong vị ngọt. Nếu ai đến được núi ấy thời vĩnh viễn khỏi sự nghèo khốn. Ai uống được nước suối ấy thời sống lâu muôn tuổi. Chỉ vì đường sá xa xôi hiểm trở nhiều tai nạn. Hai người ấy đều muốn cùng nhau đi. Một người sắm sửa các thứ vật cần dùng đi đường, một người thời đi tay không, cùng nhau đồng tiến về hướng núi báu. Dọc đường gặp một người mang nhiều của báu đi ngược chiều. Hai người hỏi rằng: Xin hỏi ông xứ đó thật có núi bảy báu ư? Đáp rằng: Thật có núi báu, chính tôi đã được bảo vật và được uống nước suối ngọt. Chỉ lo rằng đường xa hiểm trở, trộm cướp quá nhiều, hầm hố gai chông, lại thêm thiếu nước, thiếu cỏ. Muôn ngàn người đi ít người đến được.
Nghe khách nói, một người ăn năn cho rằng đường sá gian nan khốn khổ như vậy, vô lượng người đi không mấy người được đến, tôi làm thế nào có thể đến được núi báu. Hiện tại sản nghiệp của tôi cũng tạm đủ dùng. Nếu gắng gượng đi hoặc có thể chẳng toàn thân mạng. Thân mạng đã chẳng toàn còn, còn mong gì được trường thọ.
Một người nói rằng: Có người đến được thời tôi cũng có thể đến được. Tôi quyết đến núi báu lượm lấy bảo vật cùng uống nước suối ngọt, nếu chẳng toại nguyện có chết cũng cam lòng.
Lúc đó hai người, một thời ăn năn trở về, một thời tiến tới núi báu. Người sau này đến được núi kia, uống nước suối ngọt, mang nhiều bảo vật trở về nhà, dùng của ấy phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp họ hàng thân thuộc.
Bấy giờ người ăn năn thối về trước kia thấy kết quả tốt đẹp của người này trong lòng phát phẫn. Anh ấy mang được bảo vật về nhà, tại sao ta cứ ở mãi bên đây mà chẳng dám đi? Liền sắm sửa hành trang thẳng đến núi báu.
Hai người nghe có núi thất bảo, có suối nước ngọt, đồng sửa soạn hành lý để ra đi, người đi có hành lý, người đi tay không. Dọc đường gặp người đã được của báu trở về, hỏi thăm người ta nói có núi đó thật nhưng phải đi qua những chỗ khó khăn hiểm trở, trộm cướp gai chông…, nhiều người đi nhưng ít người được. Nghe vậy một người nghĩ đi chi cho cực, chắc gì được của báu, nhiều khi chết giữa đường, chí bằng trở lại hưởng an nhàn yên ổn trong nhà. Người kia thì nhất định, người ta lấy được của báu thì mình cũng lấy được, tại sao thối chuyển. Nhờ cố gắng mà đi đến nơi.
Phát tâm tu cũng vậy, người tu nhất định sống chết cũng phải đi đến Bồ-đề, tức là thành đạo mới thôi, thì dù đời này không thành, đời sau cũng thành Phật. Còn người cho tu thành Phật khó quá, trải qua ba a-tăng kỳ kiếp, biết bao giờ mình làm được, thôi làm người ăn hiền ở lành, giữ tam quy ngũ giới đủ rồi và thối tâm.
Nếu người xưa làm được thì mình cũng làm được, tại sao lại sợ? Phật tu được thành Phật, Tổ đã thành Tổ, thì mình nỗ lực cũng sẽ được. Tại sao nói Phật tổ khó làm rồi chán không muốn làm!
Này thiện nam tử! Núi báu kia dụ cho đại Niết-bàn. Nước suối ngọt dụ cho Phật tánh. Hai người kia dụ cho hai vị Bồ tát sơ phát tâm. Con đường hiểm ác dụ cho sanh tử. Người đi ngược chiều gặp dọc đường dụ cho đức Phật Thế Tôn. Trộm cướp dụ cho tứ ma. Hầm hố gai chông dụ cho các phiền não. Không nước không cỏ dụ chẳng tu tập đạo Bồ-đề. Người nghe khó ăn năn trở về dụ cho Bồ tát thối chuyển. Người dũng mãnh thẳng tiến dụ cho Bồ tát bất thối.
Qua ví dụ này, nếu người nào tiến tới, liều chết thì dù bao nhiêu khó khăn cũng có thể vượt qua, sớm muộn gì cũng được, nếu người nhút nhát thì sẽ thối chuyển.
Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh thường trụ chẳng biến đổi. Như con đường hiểm trở kia, không ai có thể bảo rằng vì có người ăn năn trở lại mà làm cho con đường thành vô thường. Phật tánh cũng như vậy, trong đạo Bồ-đề trọn không có sự thối thất. Như người ăn năn kia thấy bạn mình đặng của báu mang về nhà, giàu có tự tại, cúng dường cha mẹ, cung cấp thân thuộc, an vui sung sướng. Do đó bèn phát tâm thẳng đến núi báu chẳng tiếc thân mạng. Bồ-tát thối chuyển cũng như vậy.
Con đường lúc nào cũng còn, không vì người thối chuyển mà mất, nếu người nào thẳng tiến thì lấy được của báu.
Người thối tâm thấy bạn đem của báu về, cũng phẫn chí phát tâm đi. Như vậy trở lại làm chi rồi sau cũng đi, muộn quá! Hồi xưa khỏe mạnh mười, bây giờ còn có tám, đi một lần cho đến nơi có khỏe hơn không!
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được thành vô thượng Bồ-đề. Do nghĩa này nên trong kinh Phật nói tất cả chúng sanh nhẫn đến kẻ tạo tội ngũ nghịch, phạm tứ trọng và nhất-xiển-đề đều có Phật tánh.”
Phật xác định tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Tuy rằng từ trước đến giờ có khi Phật nói có khi Phật nói không, nhưng tới đây Phật kết luận lại tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Bồ-tát thế nào có thối cùng chẳng thối?”
“Này thiện nam tử! Nếu có Bồ-tát tu tập nghiệp nhân ba mươi hai tướng tốt của Như Lai thời được gọi là bậc bất thối, thời được gọi là đại Bồ-tát, cũng gọi là bậc bất động chuyển, là thương xót tất cả chúng sanh, gọi là hơn tất cả hàng Thanh văn Duyên giác, là bậc A-bộ-bạt trí.
Này thiện nam tử! Nếu đại Bồ-tát trì giới chẳng lay động, tâm bố thí chẳng dời đổi, lời nói chân thật như núi Tu-di, nghiệp duyên trên đây được tướng tốt dưới bàn chân đầy bằng.
Nếu đại Bồ-tát ở nơi cha mẹ, hòa thượng, sư trưởng, nhẫn đến các loài súc sanh, đem của cải đúng pháp cúng dường cung cấp, do nghiệp duyên này được tướng tốt dưới lòng bàn chân có tướng thiên bức luân.
Nếu đại Bồ-tát chẳng sát sanh, chẳng trộm cướp, đối với cha mẹ sư trưởng thường có lòng hoan hỷ, do nghiệp duyên này được thành ba tướng tốt: một là ngón tay dài vót, hai là gót chân dài, ba là thân mình vuông thẳng, ba tướng tốt này đồng do một nghiệp duyên.
Nếu đại Bồ-tát tu tập tử nhiếp pháp để nhiếp thủ chúng sanh, do nghiệp duyên này được tướng tốt ngón tay có màn lưới như ngỗng chúa trắng.
Nếu đại Bồ-tát lúc cha mẹ, sư trưởng có bệnh khổ, tự tay tắm rửa lau chùi dắt đỡ thoa bóp, do nghiệp này được tướng tốt tay chân dịu dàng.
Nếu đại Bồ-tát trì giới, nghe pháp, cùng bố thí không nhàm chán, do nghiệp duyên này được tướng tốt mắt cá lóng đốt đều no đủ, lông trong thân đều xoắn lên trên.
Nếu đại Bồ-tát chuyên tâm nghe pháp và diễn thuyết chánh pháp, do nghiệp duyên này được tướng tốt dùi vế như nai chúa.
Nếu đại Bồ-tát đối với chúng sanh chẳng có lòng tổn hại, ăn uống biết đủ, thường ưa bố thí khám bệnh, cung cấp thuốc men, do nghiệp duyên này được tướng tốt thân hình tròn đủ như cây ni-câu-đà, lúc đứng hai tay dài quá đầu gối, đỉnh đầu có nhục kế vô kiến đảnh tướng.
Nếu đại Bồ-tát thấy người gặp sự kinh sợ liền cứu hộ cho, thấy người lõa lồ rách rưới thời bố thí y phục, do nghiệp duyên này được tướng tốt mã âm tàng.
Nếu đại Bồ-tát gần gũi người trí, xa lìa kẻ ngu, vui vẻ hỏi đáp, quét dọn đường đi, do nghiệp duyên này da thứa mịn màng, lông trên thân xoay về phía hữu.
Nếu đại Bồ-tát thường dùng y phục, đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, hương hoa, đèn đuốc bố thí cho người, do nghiệp duyên này đặng thân màu vàng ròng, thường có ánh sáng chói rỡ.
Nếu đại Bồ-tát lúc bố thí, những vật báu quý có thể đem cho chẳng tiếc chẳng nghĩ là phước điền hay chẳng phải phước điền, do nghiệp duyên này được tướng tốt bảy chỗ trên thân được no đủ.
Nếu đại Bồ-tát lúc bố thí lòng chẳng nghi ngờ, do nghiệp duyên này được tiếng nói dịu dàng.
Nếu đại Bồ-tát đúng như pháp làm ra của cải đem bố thí, do nghiệp duyên này được tướng tốt nơi thân chỗ xương thiếu đều đầy đủ, thân như sư tử vương, cánh tay thon dài.
Nếu đại Bồ-tát xa lìa lưỡng thiệt, ác khẩu và tâm giận hờn, do nghiệp duyên này được tướng tốt đủ bốn mươi cái răng trong trắng sạch sẽ, bằng thẳng khít khao.
Nếu đại Bồ-tát có lòng đại từ bi đối với chúng sanh, do nghiệp duyên này được tướng hai răng nanh tốt.
Nếu đại Bồ-tát thường phát nguyện: có người đến cầu xin thời cấp cho theo ý của họ xin, do nghiệp duyên này được gò má như sư tử.
Nếu đại Bồ-tát cung cấp đồ uống ăn theo sở thích của chúng sanh, do nghiệp duyên này được tướng tốt trong cổ họng thường rịn chất cam lộ thượng vị.
Nếu đại Bồ-tát tự thật hành mười điều lành cùng giáo hóa người, do nghiệp duyên này được tướng tốt lưỡi rộng dài.
Nếu đại Bồ-tát chẳng rao nói lỗi xấu của người, chẳng hủy báng chánh pháp, do nghiệp duyên này đặng tướng tốt tiếng Phạm âm.
Nếu đại Bồ-tát thấy kẻ thù nghịch thời sanh lòng hoan hỷ, do nhân duyên này được tướng tốt, tròng mắt màu xanh biếc.
Nếu đại Bồ-tát chẳng ẩn che tài đức của người mà phô dương điều hay của mình, do nghiệp duyên này được tướng tốt bạch hào.
Sở dĩ Phật có ba mươi hai tướng tốt là do nhân tu hành của đời trước. Chúng ta muốn được tướng tốt, trên đường tu hành không bị thối chuyển tiến tới thành Phật, thì cũng nên tu nhân ba mươi hai tướng tốt mà Phật đã tu trước kia.
Này thiện nam tử! Nếu đại Bồ-tát tu tập nghiệp duyên ba mươi hai tướng tốt như vậy thời được chẳng thối chuyển tâm Bồ-đề.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn. Cảnh giới và nghiệp quả của chư Phật cùng Phật tánh cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì bốn pháp này đều là thường, vì thường trụ nên chẳng thể nghĩ bàn.
Bốn pháp là gì? Chúng sanh, cảnh giới nghiệp quả, Phật và Phật tánh. Bốn việc đó không thể nghĩ bàn.
Tất cả chúng sanh vì phiền não che đậy nên gọi là thường. Vì dứt phiền não thường nên gọi là vô thường. Nếu nói rằng tất cả chúng sanh là thường, cớ gì lại tu tập tám thánh đạo? Tu tập để dứt các sự khổ, các sự khổ nếu đã dứt thời gọi là vô thường, sự vui được hưởng thọ thời gọi là thường. Do đây nên ta nói tất cả chúng sanh bị phiền não che đậy mà chẳng thấy được Phật tánh, vì chẳng thấy nên chẳng được Niết-bàn.”
Vì thường ở trong chỗ mê lầm, nếu chúng ta cố tình dẹp phiền não thì phiền não biến thành vô thường. Nếu là chúng sanh đời đời kiếp kiếp thì cần gì phải tu tập. Tu tập được là chuyển chúng sanh trở thành Phật thành thánh. Người an phận trong phạm vi chúng sanh, đời này đời sau không chịu tiến tu thì gọi là chúng sanh thường. Nếu biết vươn lên, biết tu tập để diệt hết những phiền não che đậy từ vô lượng kiếp đến bây giờ thì gọi là vô thường. Bởi vô thường nên chuyển chúng sanh trở thành thánh.
Dứt hết khổ thì gọi khổ là vô thường, được vui Niết-bàn thì vui đó gọi là thường. Có Phật tánh mà không thấy nên coi như không có, hằng ở trong đau khổ, không được an vui, nếu thấy Phật tánh thì được Niết-bàn an vui, được quả báo bất khả tư nghì.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng:“Thế Tôn! Như lời Phật nói tất cả các pháp có hai thứ nhân là chánh nhân và duyên nhân. Do hai nhân này lẽ ra không có trói buộc, không có giải thoát. Thân ngũ ấm này niệm niệm sanh diệt, nó đã sanh diệt thời có gì là trói buộc và giải thoát.
Bồ-tát nêu hai lý do: Thứ nhất, Phật nói tất cả chúng sanh muốn được thành Phật đều do chánh nhân Phật tánh và duyên nhân, cả hai hợp lại thì mới thành Phật được. Tất cả pháp cũng đều có chánh nhân và duyên nhân thì đâu có trói buộc và giải thoát. Thứ hai, ngũ ấm tức là cả thân và tâm đều vô thường, niệm niệm sanh diệt thì có gì là trói buộc, là giải thoát? Có thật mới có khổ thật vui thật; niệm niệm đổi thay hoài, không thật thì đâu có khổ vui thật, như vậy thì làm gì có giải thoát và trói buộc.
Bạch Thế Tôn! Nhân thân ngũ ấm này mà sanh thân ngũ ấm sau. Thân này tự diệt chẳng đến thân kia, dầu chẳng đến kia nhưng có thể sanh ngũ ấm kia. Như do hột sanh mộng, hột chẳng đến mộng, dầu hột chẳng đến mộng mà có thể sanh mộng. Chúng sanh cũng như vậy, thế nào có trói buộc và giải thoát?”
Thân này diệt thân kia mới sanh, vô thường biến diệt thì làm sao có trói buộc và giải thoát? Nghi này trong kinh thường đưa ra. Theo kinh Nguyên thủy, người thiện chết đi thẳng lên cõi thiện, người ác đi thẳng đến cõi ác. Kinh Đại Bát-niết-bàn này thì nói có thân trung ấm. Có hai trường hợp, một là khi duyên đủ thì đi thọ sanh liền hoặc thiện hoặc ác, nếu duyên thiếu thì phải chậm lại có thể trải qua bốn mươi chín ngày mới đi.
Phật nói: “Này thiện nam tử! Lóng nghe! Lóng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải thuyết. Như người lúc chết rất khổ, quyến thuộc bao quanh kêu khóc than thở, người này sợ hãi chẳng biết cầu cứu với ai, dầu có năm giác quan mà không hay không biết, tay chân run giật, không thể tự chủ, thân thể lành lạnh sắp hết hơi nóng, thấy những tướng nghiệp báo thiện ác đã tạo từ trước. Như mặt trời sắp lặn, thời bóng của núi gò ngã về hướng đông, không bao giờ trở qua tây. Nghiệp quả của chúng sanh cũng như vậy, lúc thân ngũ ấm này diệt thời ngũ ấm kia liền nối sanh. Như đèn cháy lên thời bóng tối mất, đèn tắt thời bóng tối hiện ra.
Lúc đó dù cho bà con thân thuộc bao quanh cũng không chỗ để bám để nhờ, bất lực không cầu cứu được ai hết, cắt đứt liên hệ giữa người sống và người sắp chết, mình phải tự chịu lấy mọi việc, bao nhiêu nghiệp thiện ác đều hiện trước mắt.
Phật ví dụ đèn cháy không thấy bóng tối, đèn tắt đi thì bóng tối hiện. Thân này còn thì không thấy thân trung ấm hay thân hậu ấm, thân này tan rã thì thân trung ấm và hậu ấm liền có, cũng như đèn tắt thì bóng tối hiện.
Như ấn sáp in vào đất sét, ấn cùng đất sét hiệp, ấn rã, lằn chữ nổi lên, mà ấn sáp này chẳng biến nơi đất sét, lằn chữ chẳng phải từ đất sét ra, cũng chẳng phải chỗ khác đến, do ấn làm nhân duyên mà sanh lằn chữ. Ngũ ấm hiện tại diệt, thân trung ấm liền sanh.
Chúng ta khắc chữ trên con dấu bằng sáp, rồi in vào đất sét, chữ hiện lên. Chữ hiện trên đất sét nhưng ấn sáp không thành đất sét, nó chỉ làm nhân duyên cho chữ hiện. Thân chúng ta diệt thì liền có thân trung ấm, cũng như cái ấn sáp in xuống đất sét hiện chữ lên.
Ngũ ấm hiện tại này trọn chẳng biến làm thân trung ấm, thân trung ấm cũng chẳng phải tự sanh, cũng chẳng từ nơi khác đến, do thân hiện tại mà sanh thân trung ấm. Như ấn sáp in nơi đất sét, ấn rã lằn chữ thành, danh từ dầu không sai khác mà thời tiết đều riêng khác. Do đây nên ta nói thân trung ấm chẳng phải nhục nhãn thấy được, thiên nhãn mới ngó thấy.
Chữ in ở đất sét với chữ ở ấn bằng sáp không khác nhưng thời tiết khác. Cũng vậy, khi chúng ta bỏ thân ngũ ấm này, thân trung ấm kia hiện, tâm niệm chấp là mình không khác nhưng hai hình dáng có thô và tế khác. Thân trung ấm không thể thấy bằng con mắt phàm, chỉ những bậc được thiên nhãn mới thấy vì nó hết sức tinh vi.
Thân trung ấm này có ba cách ăn: tư thực, xúc thực, ý thực. Thân trung ấm có hai thứ: một là nghiệp quả lành, hai là nghiệp quả ác. Do nghiệp lành nên được giác quán lành, do nghiệp ác nên được giác quán ác.
Tư là suy nghĩ, xúc là chạm đến, ý là ý tưởng; ăn bằng tư tưởng, ăn bằng xúc chạm, ăn bằng ý nghĩ. Giác quán là sự suy xét. Thân trung ấm liên hệ tới thân hiện tại, nếu hiện tại làm nghiệp lành thì thân trung ấm còn những tư tưởng lành, nếu hiện tại mình làm nghiệp ác thì thân trung ấm mang những tư tưởng ác. Thế nên đúng theo tinh thần cầu siêu cho thân thuộc mới chết, phải biên họ tên, niệm hương nguyện cho vong linh đến nghe kinh, để được tâm hồn thanh tịnh, giác ngộ… Thân trung ấm rất tế nhị và dễ cảm xúc lắm cho nên khi nghe gọi, nếu chưa thọ sanh thì liền tới, nếu họ có những giác quán lành thì nghe kinh họ liền tiến thêm, lòng lãnh phát triển. Nếu họ có những giác quán ác thì cũng chuyển được phần nào, chỗ sanh cũng theo đó mà chuyển. Trung ấm dễ cảm xúc, nên thường thường cầu siêu trong bốn mươi chín ngày, cầu nguyện hướng cho họ những điều lành là để họ thay đổi giác quán, và nghiệp quả của họ cũng theo đó mà thay đổi.
Lúc cha mẹ giao hội phán hiệp, theo nhân duyên của nghiệp mà đến chỗ thọ sanh. Đối với mẹ sanh lòng thương, đối với cha sanh lòng sân. Lúc tinh của cha chảy ra cho rằng là của mình, sanh lòng vui mừng. Do nhân duyên của ba thứ phiền não này, thân trung ấm diệt mà sanh thân ngũ ấm sau. Như ấn sáp in vào đất sét, ấn hư lằn chữ thành.
Do nghiệp mà thấy những cảnh đó họ liền tới, phước đức thì thấy các cõi trời hay cõi người, những chỗ giàu sang sung sướng, vô phước thì thấy những loài thú hay các cõi địa ngục… rồi thọ sanh.
Có ba thân, tiền ấm là thân sắp chết, trung ấm là khi thân bắt đầu rã, hậu ấm là khi thọ sanh. Ba thân liên hệ nhau như ấn in vào đất sét, không thể tách rời, nghiệp duyên từ quá khứ thiện ác như thế nào, ba thân đều có sự liên hệ. Tiền ấm gây ra, trung ấm chịu ảnh hưởng, hậu ấm lãnh đủ nghiệp báo của thuở xưa.
Kinh Nguyên thủy không chấp nhận thân trung ấm, cho rằng khi mình chết là thẳng đường theo nghiệp mà đi, người có phước thì sanh cõi trời, vô phước thì đọa địa ngục, thọ sanh liền không có chần chừ lâu lắc. Đại thừa lại nói tới thân trung ấm, bỏ thân này thì có thân kia cũng như mặt trời lặn thì bóng tối hiện, sáng mất thì tối ra, hai cái liên hệ nhau không bao giờ rời. Nếu có duyên thì đi liền, còn chưa gặp duyên thì phải chờ, tối đa là bốn chín ngày phải thọ sanh. Thời gian chờ cần phải có thân trung ấm.
Trên báo chí chúng ta cũng thấy có những người chết về báo mộng. Nếu trong thời gian chờ thọ sanh có gì bứt rứt thì họ có thể báo cho cha con hoặc là anh em, vợ chồng giải quyết. Phật nói thân trung ấm tế nhị con mắt phàm tục mình không thấy, chỉ có thiên nhãn mới thấy được.
Lúc sanh ra những căn thân có đầy đủ cùng chẳng đủ. Người căn đầy đủ thấy sắc thời sanh lòng tham, vì tham nên gọi là ái. Do hư dối mà sanh lòng tham, đây gọi là vô minh.
Vô minh nghĩa là cái giả mà tưởng là thật. Kinh Viện Giác nói thân này là hư dối, cảnh là hư dối mà sanh lòng tham, đó là vô minh. Bao nhiêu kinh điển Đại thừa cốt giải thích cho chúng ta hiểu cảnh không thật, thân không thật. Nếu thấy thân cảnh không thật là phá được vô minh, đó là trí tuệ Bát-nhã. Phật nói căn bản rõ ràng, nếu mình nhận được, biết giả thì tham ái đâu còn.
Do hai nhân duyên tham ái và vô minh nên những cảnh giới xem thấy thảy đều điên đảo: vô thường thấy là thường, vô ngã thấy là ngã, vô lạc thấy là lạc, bất tịnh thấy là tịnh. Do bốn thứ điên đảo này nên gây tạo những hạnh nghiệp thiện ác. Phiền não gây ra nghiệp, nghiệp sanh ra phiền não, đây gọi là hệ phược. Do nghĩa này nên gọi là ngũ ấm sanh.
Do thấy điên đảo rồi tạo nghiệp, sanh phiền não, phiền não rồi tạo nghiệp… cứ như vậy tới lui, cột trói chúng ta mãi, bỏ thân này mang thân kia, bỏ thân kia mang thân nọ, gọi là ngũ ấm sanh, tiếp tục đời này sang đời khác, đó là vòng luân hồi.
Người này nếu được gần gũi chư Phật, đệ tử của Phật cùng những thiện tri thức thời được nghe được học mười hai bộ kinh. Do nghe pháp nên quán những cảnh giới lành. Do quán cảnh giới lành nên được trí huệ lớn, đây gọi là chánh tri kiến. Vì được chánh tri kiến nên sanh lòng hối hận đối với sanh tử.
Do tâm hối hận này nên chẳng ưa thích sanh tử, vì chẳng ưa thích nên phá được lòng tham, vì phá lòng tham nên tu tám thánh đạo, do tu tám thánh đạo nên được không sanh tử, vì không sanh tử nên gọi là được giải thoát. Như lửa chẳng gặp củi gọi đó là tắt. Vì tắt diệt sanh tử nên gọi là diệt độ. Do nghĩa này nên gọi là thân ngũ ấm diệt.”
Phật giải thích hai chiều sanh tử và chiều giải thoát. Chiều sanh tử là chiều hệ phược, chiều giải thoát là chiều Niết-bàn an lạc. Phần trước ngài Sư Tử Hống nói, thân này niệm niệm không dừng thì có gì gọi là hệ phược, là giải thoát. Đây Phật giải thích rõ, hệ phược là do vô minh và ái. Vô minh là cảnh giả thân giả mà tưởng lầm là thật, ái là đối cảnh sanh tham trước Bởi tưởng lầm nên sanh ra ái, rồi tạo nghiệp, sanh phiền não, cứ vậy mà lôi cuốn kiếp kiếp đời đời không hết. Muốn phá được sanh tử, chúng ta phải nghe chánh pháp. Do gần Phật, gần đệ tử Phật chúng ta nghe được kinh điển, biết vô minh và phiền não là xấu xa, cảnh giới này là không thật…, được chánh tri kiến, mình không thích trong sanh tử nữa, lần lần tiến tu để thoát khỏi. Khi thoát ra khỏi sanh tử như củi hết lửa tắt, không còn thân ngũ ấm sau gọi là diệt độ. Diệt độ gọi là giải thoát.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Trong hư không chẳng có gai thế nào nói rằng nhổ? Ngũ ấm không cột trói thế nào gọi rằng hệ phược?”
Phật nói: “Này thiện nam tử! Vì xiềng xích phiền não trói buộc ngũ ấm, lìa ngũ ấm rồi thời không có phiền não riêng, lìa phiền não rồi thời không có ngũ ấm riêng.
Như cột chống đỡ nóc nhà, lìa nhà thời không cột, lìa cột thời không nhà. Thân ngũ ấm của chúng sanh cũng như vậy: vì có phiền não gọi là hệ phược, vì không phiền não nên gọi là giải thoát.
Ngài Sư Tử Hống hỏi tiếp, hư không không có gai mà nhổ cái gì? Ngũ ấm tự nó không cột trói sao nói bị hệ phược?
Sở dĩ gọi là trói buộc ngũ ấm vì phiền não. Như vậy ngũ ấm tạo ra phiền não, phiền não cột ngũ ấm, ngũ ấm và phiền não liên hệ nhau, không rời nhau chứ không phải có gì đến cột trói nó. Có phiền não gọi là chúng sanh hệ phược, không phiền não gọi là giải thoát.
Như nắm tay, chắp tay, cột gút, ba thứ hiệp tan sanh diệt không có thứ gì riêng. Ngũ ấm của chúng sanh cũng như vậy. Vì có phiền não gọi là hệ phược, vì không phiền não gọi là giải thoát.
Như nói danh sắc hệ phược chúng sanh. Nếu danh sắc diệt thời không chúng sanh.
Như mấy ngón tay co lại gọi là nắm tay, xòe ra thì hết nắm tay. Sợi dây cột thành gút, cũng chỉ là dây. Chắp tay cũng vậy, hai tay hợp lại mà thành.
Lìa danh sắc không có chúng sanh riêng, lìa chúng sanh không có danh sắc riêng, cũng gọi là danh sắc hệ phược chúng sanh, cũng gọi là chúng sanh hệ phược danh sắc.
tai Danh là tinh thần, sắc là vật chất. Sở dĩ có tinh thần vật chất này nên có chúng sanh, bởi có chúng sanh này nên có tinh thần vật chất, hai thứ không rời nhau.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Như con mắt chẳng tự thấy, ngón tay chẳng tự chạm, dao chẳng tự cắt, thọ chẳng tự thọ, sao đức Thế Tôn nói rằng danh sắc hệ phược danh sắc? Vì nói danh sắc thời chính là chúng sanh, còn nói chúng sanh thời chính là danh sắc. Nếu nói danh sắc hệ phược chúng sanh thời là danh sắc hệ phược danh sắc.”
Phật nói: “Này thiện nam tử! Như lúc hai tay chắp lại, thời không có cái gì khác đến chắp. Danh cùng sắc cũng như vậy. Do đây nên ta nói danh sắc hệ phược chúng sanh. Nếu rời danh sắc thời được giải thoát. Vì thế nên ta nói chúng sanh giải thoát.”
Con mắt không tự thấy, ngón tay không tự chạm, dao cũng không tự cắt, sao Phật nói danh sắc hệ phược danh sắc, tự nó cột nó?
Danh là tinh thần, sắc là vật chất, hai cái hợp lại thì có chúng sanh. Nếu danh sắc không hợp thì chúng sanh không có, vì có chúng sanh nên mới tạo thành danh sắc được, cứ vậy mà ràng buộc nhau. Do vô minh, hành, thức đi đến thai mẹ có cả tinh thần lẫn vật chất thì gọi là danh sắc. Rời thọ sanh gọi là giải thoát.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu có danh sắc là hệ phược, các vị A-la-hán chưa rời danh sắc, lẽ ra cũng là hệ phược!”
Phật nói: “Này thiện nam tử! Có hai thứ giải thoát: một là tử đoạn, hai là quả đoạn. Tử đoạn là dứt phiền não. Các vị A-la-hán đã dứt phiền não, các kiết sử đã phá hư, nên tử kiết sử dứt chẳng hệ phược được. Vì A-la-hán chưa dứt quả nên gọi là quả hệ phược. Các vị A-la-hán chẳng thấy Phật tánh. Vì chẳng thấy nên chẳng được vô thượng Bồ-đề. Do đây nên có thể gọi là quả hệ phược mà chẳng được gọi là danh sắc hệ phược.
A-la-hán còn mang thân này là còn danh sắc, lẽ ra các ngài cũng bị hệ phược, bị hệ phược thì đâu gọi là A-la-hán được? Phật giải thích A-la-hán là quả hệ phược, không phải danh sắc hệ phược, vì các ngài đã dứt được tất cả phiền não rồi. Quả là quả thừa mang thân này gọi là quả hệ phược.
Này thiện nam tử! Như thắp đèn, lúc dầu chưa hết thời ánh lửa chẳng tắt. Nếu đã hết dầu, thời lửa quyết phải tắt. Dầu là dụ cho phiền não. Đèn là dụ cho chúng sanh. Vì dầu phiền não nên chúng sanh chẳng nhập Niết-bàn. Nếu dứt hết phiền não, thời tất nhập Niết-bàn.”
Phiền não như dầu, tất cả chúng sanh như đèn, Nếu dầu hết thì đèn phải tắt. Nếu chúng sanh hết phiền não thì không còn sanh tử.
“Bạch Thế Tôn! Đèn cùng dầu tính cách riêng khác. Còn chúng sanh và phiền não thời không phải như vậy: chúng sanh là phiền não, cũng như phiền não là chúng sanh. Chúng sanh gọi là ngũ ấm, chính ngũ ấm gọi là chúng sanh. Ngũ ấm gọi là phiền não, cũng như phiền não gọi là ngũ ấm. Sao đức Như Lai lại dụ như đèn?”
“Này thiện nam tử! Có tám thứ ví dụ: một là thuận dụ, hai là nghịch dụ, ba là hiện dụ, bốn là phi dụ, năm là tiên dụ, sáu là hậu dụ, bảy là tiên hậu dụ, tám là biến dụ.
Dầu khác, đèn khác, hai cái rời nhau, phiền não và ngũ ấm không rời nhau, sao Phật dụ như vậy? Phật giải thích, đối đáp với nhau có bao nhiêu cách nói chuyện, bao nhiêu cách trả lời, bao nhiêu cách ví dụ. Nếu mình hiểu được điều này thì khi nói chuyện cần nghịch dụ thì dùng nghịch dụ, cần dùng thuận dụ thì dùng thuận dụ. Thuận dụ và hiện dụ thường dùng, những ví dụ kia ít khi dùng.
Thế nào là thuận dụ?
Như trong kinh nói: Trời mưa lớn mương rãnh đều đầy nước, vì mương rãnh đầy nước nên hố nhỏ đầy, vì hố nhỏ đầy nên hố lớn đầy, vì hố lớn đầy nên suối nhỏ đầy, vì suối nhỏ dầy nên suối lớn đầy, vì suối lớn đầy nên ao nhỏ đầy, vì ao nhỏ đầy nên ao lớn đầy, vì ao lớn đầy nên sông nhỏ đầy, vì sông nhỏ đầy nên sông lớn đầy, vì sông lớn đầy nên biển lớn đầy.
Pháp vũ của đức Như Lai cũng như vậy, làm cho chúng sanh đầy đủ giới hạnh, vì giới đầy đủ nên tâm chẳng hối hận được đầy đủ, vì tâm chẳng hối hận đầy nên lòng hoan hỷ đầy đủ, vì lòng hoan hỷ đầy nên sự viễn ly đầy đủ, vì sự viễn ly đầy nên sự an ổn được đầy đủ, vì sự an ổn đầy nên chánh định đầy đủ, vì chánh định đầy nên chánh tri kiến đầy đủ, vì chánh tri kiến đầy nên sự nhàm lìa đầy đủ, vì yểm ly đầy nên sự quở trách đầy đủ, vì sự quở trách đầy nên giải thoát đầy đủ, vì giải thoát đầy nên Niết-bàn đầy đủ. Đây gọi là thuận dụ vậy.
Thuận dụ là ví dụ theo chiều thuận, như nói do trời mưa lớn nước đầy hết các mương rãnh, chảy đầy hố nhỏ hố lớn, rồi tới suối nhỏ suối lớn cho đến ao nhỏ ao lớn và tràn xuống sông nhỏ đầy, thành sông lớn đầy, chảy ra biển cũng đầy. Đó là chiều thuận, từ cái đầy nhỏ tới cái đầy lớn, lần lần đến đầy hoàn toàn. Người tu cũng vậy, trước do giữ giới trọn vẹn nên lòng không hối hận, dần dần đi tới dứt được tất cả sự quở trách, được giải thoát, liền được Niết-bàn. Đó là thuận dụ, từ cái nhỏ đi lần tới cái lớn, hoặc từ thấp tới cao.
Thế nào là nghịch dụ?
Biển lớn có nguồn chính là sông lớn, sông lớn có nguồn chính là sông nhỏ, sông nhỏ có nguồn chính là ao lớn, ao lớn có nguồn chính là ao nhỏ, ao nhỏ có nguồn chính là suối lớn, suối lớn có nguồn chính là suối nhỏ, suối nhỏ có nguồn chính là hồ lớn, hồ lớn có nguồn chính là hồ nhỏ, hồ nhỏ có nguồn chính là mương rãnh, mương rãnh có nguồn chính là mưa to.
Cũng vậy, Niết-bàn có nguồn chính là giải thoát, giải thoát từ quở trách, quở trách từ yểm ly, yểm ly từ chánh tri kiến, chánh tri kiến từ chánh định, chánh định từ an ổn, an ổn từ viễn ly, viễn ly từ hoan hỷ, hoan hỷ từ chẳng hối hận, chẳng hối hận từ trì giới, sự trì giới bắt nguồn từ nơi pháp vũ của đức Như Lai. Đây gọi là nghịch dụ vậy.
Nghịch dụ là ngược lại, từ cái lớn thành cái nhỏ hoặc là từ cao xuống thấp. Như hột cam ươm xuống đất rồi vun phân tưới nước, hột cam từ từ lên mầm rồi lên cây, từ từ ra nhánh đâm lá, có bông có trái, trái chín mình được quả cam ngọt. Mấy chú phát tâm Bồ-đề xin vào tu viện này cũng như hột cam, vào không chưa đủ mà phải nhờ sự giáo huấn dạy dỗ tu tập hằng ngày cũng như phân, nước, săn sóc. Do tu tập hằng ngày đó mà tâm Bồ-đề tăng trưởng lần lần đến ngày viên mãn được giác ngộ, như được trái cam chín. Đó là thuận dụ, từ thấp lần lần lên cao, còn nghịch dụ thì từ cao xuống thấp, thuận và nghịch dụ ngược chiều với nhau.
Thế nào là hiện dụ?
Như nói tâm tánh của chúng sanh như khỉ vượn. Tánh của khỉ vượn bỏ cái này liền bắt cái kia. Cũng vậy, tâm tánh của chúng sanh bắt lấy lục trần không lúc nào tạm dừng. Đây gọi là hiện dụ vậy.
Hiện dụ là ví dụ với vật hiện tại. Tâm mình lăng xăng cũng như cái lăng xăng của khỉ vượn.
Thế nào là phi dụ?
Phi dụ tức là ví dụ không đúng sự thật nhưng có ý nghĩa.
Như xưa kia ta bảo vua Ba-tư-nặc: Đại vương Có người thân tín từ bốn phương đến báo với nhà vua rằng có bốn hòn núi lớn từ bốn phương đến muốn hại nhân dân. Nếu nghe như vậy Đại vương sẽ lập kế gì?
Vua đáp: Bạch Thế Tôn! Nếu có như vậy thời không còn có chỗ trốn tránh, chỉ phải chuyên tâm trì giới bố thí.
Ta khen rằng: Lành thay! Đại vương! Ta nói bốn hòn núi là sanh, lão, bệnh, tử của chúng sanh. Bốn sự khổ đó thường đến bức não chúng sanh, sao Đại vương chẳng trì giới bố thí?
Vua đáp: Bạch Thế Tôn! Trì giới bố thí được quả báo gì?
Ta nói: Trì giới bố thí sẽ được hưởng sự vui sướng ở cõi trời cõi người.
Vua nói: Bạch Thế Tôn! Cây ni-câu-đà trì giới bố thí cũng được hưởng phước ư?
Ta nói cây ni-câu-đà chẳng thể trì giới bố thí, nếu nó có thể làm được thời cũng được hưởng phước như người. Đây gọi là phi dụ.
Phật dụ sanh lão bệnh tử như bốn núi to lớn ép ngặt mọi người, không ai dẹp phá nó được. Vua Ba-tư-nặc khi Phật dạy sao không trì giới bố thí, vua hỏi được quả báo gì. Phật bảo trì giới bố thí sẽ được hưởng sự vui sướng ở cõi trời cõi người. Vua nói cây ni-câu-đà trì giới bố thí cũng được hưởng phước sao?
Phật trả lời một cách khéo léo: Ta nói cây ni-câu-đà chẳng thể trì giới bố thí, vì nó là cây, nếu nó biết trì giới, bố thí thì nó vẫn được phước. Đó là phi dụ, nghe vô lý, nhưng nói như vậy để hiểu rằng bất cứ ai biết trì giới bố thí đều có phước.
Thế nào là tiên dụ?
Trong kinh nói: Như có người ưa thích hoa đẹp, lúc hái lấy bị nước cuốn trôi. Chúng sanh cũng vậy vì tham ái ngũ dục mà bị sanh tử. Đây gọi là tiên dụ.
Nghĩa là dụ trước rồi hợp pháp sau.
Thế nào là hậu dụ?
Như kinh Pháp Cú nói:
Chớ khinh tội nhỏ,
Cho là không hại,
Giọt nước dầu ít,
Lần đầy lu lớn.
Đây gọi là hậu dụ.
Tức là nói pháp trước, ví dụ sau.
Thế nào là tiên hậu dụ?
Ví như cây chuối có trái thời chết. Người ngu được lợi dưỡng cũng như vậy. Như con la có thai thời mạng sống chẳng còn lâu. Đây là tiên hậu dụ.
Dụ xong, hợp pháp, rồi lại ví dụ.
Thế nào là biến dụ?
Như trong kinh nói trời Đao-lợi có cây Ba-lợi- chất-đa,gốc nó sâu năm do-diên,cao một trăm do-diên, nhánh lá bủa ra bốn phía năm mươi do-diên, lúc lá chín thời màu vàng, chư thiên xem thấy sanh lòng vui mừng. Lá này chẳng bao lâu sẽ rơi rụng, chư thiên thấy lá rụng lại sanh lòng vui mừng. Nhánh cây chẳng bao lâu sẽ đổi sắc, chư thiên thấy nhánh đổi sắc lại sanh lòng vui mừng. Nhánh này chẳng bao lâu sẽ sanh nụ tròn, chư thiên thấy nụ sanh lòng vui mừng. Những nụ này chẳng bao lâu sẽ dài nhọn, chư thiên lại sanh lòng vui mừng. Những nụ dài nhọn này chẳng bao lâu sẽ nở ra, lúc nụ nở hơi thơm khắp năm mươi do-diên, chiếu sáng tám mươi do diễn Lúc đó chư thiên ba tháng mùa hạ chơi vui dưới cây này.
Này thiện nam tử! Hàng đệ tử của ta cũng như vậy. Lá sắc vàng dụ cho đệ tử của ta có tâm niệm muốn xuất gia. Lá rụng dụ cho đệ tử của ta cạo bỏ râu tóc. Nhánh cây đổi sắc dụ cho đệ tử của ta bạch tứ yết-ma thọ giới cụ túc. Mới sanh nụ tròn dụ cho đệ tử của ta phát tâm Bồ-đề, nụ nhọn dài dụ cho Thập trụ Bồ-tát thấy được Phật tánh. Nở xòe ra dụ cho Bồ-tát được vô thượng Bồ-đề. Mùi thơm dụ cho vô lượng chúng sanh thọ trì cấm giới, chiếu sáng dụ cho Như Lai danh hiệu vô ngại cùng khắp mười phương. Ba tháng mùa hạ dụ cho ba môn chánh định. Chư thiên chơi vui dụ cho chư Phật ở nơi đại Niết-bàn được thường, lạc, ngã, tịnh. Đây gọi là biến dụ.
Từ lá úa vàng, lá rụng, nụ nảy mầm rồi nở hoa… lúc nào chư thiên cũng mừng cả. Lá úa vàng dụ cho đệ tử của Phật phát tâm muốn xuất gia, lá rụng là đệ tử Phật cạo tóc… nghĩa là mỗi thứ trong một cây đều đem ví dụ chỉ cho hạnh của đệ tử Phật, gọi là biến dụ, tức là ví dụ khắp hết.
Này thiện nam tử! Phàm dẫn ví dụ bất tất phải lấy trọn hết; hoặc lấy phần ít, hoặc lấy phần nhiều, hoặc lấy hoàn toàn. Như nói gương mặt của Phật như mặt trăng tròn, đây gọi là lấy phần ít.
Ví như có người chưa bao giờ thấy sữa, hỏi người khác rằng: Sữa là giống gì? Đáp: Như nước, mật, vỏ ốc. Nước thời là tướng ướt, mật thời là vị ngọt, vỏ ốc thời là màu sắc. Dầu dẫn ba thứ dụ nhưng chưa phải thật là sữa.
Nói ví dụ chỉ đúng một phần nào thôi, như nói mặt Phật giống mặt trăng hay nói mày tằm mắt phụng…
Nước là ví dụ cho sữa ướt như nước, mật là dụ cho sữa ngọt như mật, vỏ ốc là ví dụ như màu sắc ngà trắng như vỏ ốc, Như vậy ba thứ, mỗi thứ chỉ được một phần thôi, chứ không thứ nào trọn vẹn hết. Dẫn ba ví dụ cũng chưa đúng là sữa.
Ta nói ví dụ cái đèn đem dụ cho chúng sanh cũng như vậy. Ta nói lìa nước thời không có con sông, chúng sanh cũng vậy lìa năm ấm thời không còn là chúng sanh. Như ngoài thùng, gọng, trục, bánh, căm thời không còn có cái xe. Chúng sanh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Nếu muốn đem pháp hiệp với ví dụ cái đèn kia, thời nên lóng nghe: tim đèn dụ cho hai mươi lăm cõi, dầu dụ cho tham ái, ánh sáng dụ cho trí huệ, trừ bóng tối dụ cho phá vô minh, hơi nóng dụ cho thánh đạo. Như đèn hết dầu thời ngọn lửa tắt, chúng sanh hết tham ái thời thấy Phật tánh, tuy có danh sắc nhưng chẳng hệ phược được, tuy ở trong hai mươi lăm cõi nhưng chẳng bị các cõi làm nhiễm ô.”
Phật giải thích ví dụ đèn hợp với pháp người hết tham ái thấy Phật tánh, có danh sắc nhưng không hệ phược. Người thuyết pháp hay lý luận giỏi là phải có nhiều ví dụ, như ngài Xá-lợi-phất, trong một câu chuyện có khi dùng bảy tám ví dụ để làm mình dễ hiểu và làm sáng tỏ lý đó.
“Bạch Thế Tôn! Ngũ ấm của chúng sanh rỗng không chẳng có gì, ai lãnh thọ giáo pháp tu tập đạo hạnh?”
Ngài Sư Tử Hống nghi thân ngũ ấm của chúng sanh là rỗng không chẳng có gì vì ngũ ấm không thật thì ai lãnh thọ giáo pháp, ai tu tập đạo hạnh.
“Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đều có niệm tâm, huệ tâm, phát tâm, tinh tấn tâm, tín tâm, định tâm. Những tâm như vậy dầu niệm niệm diệt nhưng vẫn tương tự tương tục chẳng dứt nên gọi là tu hành.”
Niệm tâm là tâm ghi nhớ lời, câu, hành động, những tư tưởng nào đó. Tuệ tâm là tâm sáng suốt. Phát tâm là tâm dấy lên, khởi lên. Tinh tấn tâm là tâm gắng gổ. Tín tâm là tâm tin chắc chắn. Định tâm là tâm yên lặng. Tất cả chúng sanh đều có tâm như vậy.
Những tâm như vậy dầu niệm niệm diệt, vừa dấy lên thì mất, lẹ hơn tích tắc đồng hồ. Nhưng vẫn tương tự tương tục chẳng dứt nên gọi là tu hành. Tức là niệm trước và sau có sự giống nhau, liên miên nối tiếp không dừng. Giống nhau và nối tiếp không dừng gọi là tương tự tương tục, gọi là tu hành.
“Bạch Thế Tôn! Những tâm như vậy đều niệm niệm diệt, niệm niệm diệt này cũng là tương tự, tương tục, thời thế nào có sự tu tập?”
“Này thiện nam tử! Như ngọn đèn dầu niệm niệm diệt mà có ánh sáng trừ bóng tối.
Nếu niệm này diệt, niệm kia sanh, cứ liên miên như vậy thì sao nói tu tập? Tu tập cái gì? Câu hỏi này làm sáng tỏ ý nghĩa tu tập.
Chúng ta nhìn vào ngọn đèn cầy thì dễ thấy nhất. Ngọn đèn khi cháy, tim nó ngắn đi, sáp sẽ hết dần, lửa mới sanh, lửa trước diệt, thành một dòng liên tục. Chúng ta thấy một ngọn đèn sáng hoài, thật ra nó sanh diệt luôn. Dù sanh diệt luôn luôn nhưng khi chưa tắt vẫn gọi là ngọn đèn, vẫn trừ được bóng tối. Sự tu hành cũng vậy, tuy niệm trước diệt niệm sau sanh nhưng cứ tu như vậy lâu ngày sẽ thuần thục.
Như chúng sanh ăn uống dầu niệm niệm diệt nhưng cũng làm cho người đói đặng no. Như thuốc hay dầu niệm niệm diệt nhưng cũng làm cho bệnh được lành. Như ánh sáng mặt trời mặt trăng dầu niệm niệm diệt nhưng cũng có thể làm cỏ cây sanh sống.
Như chúng ta ăn, nhai nuốt từng miếng cơm này tới miếng khác, luôn luôn sanh diệt, nhưng đang đói thành no. Như uống thuốc, thuốc chạy thấm vào trong máu, tuy không dừng một chỗ, niệm niệm diệt mà vẫn có công năng trị bệnh. Ánh sáng mặt trời mặt trăng cũng vậy, sanh diệt luôn mà nuôi lớn cỏ cây.
Phật dùng năm ví dụ cho thấy tuy niệm niệm diệt mà vẫn có công dụng tu tập như thường.
Ông nói niệm niệm diệt thế nào tu tập?
Này thiện nam tử! Vì tâm nối luôn chẳng dứt nên gọi là tu tập thêm lên. Như người đọc tụng kinh sách, những chữ những câu đọc tụng chẳng đồng một thời gian: chữ trước chẳng đến giữa, chữ giữa chẳng đến sau, người đọc cùng với chữ và tâm tưởng tất cả đều niệm niệm diệt, do vì tập lâu mà được thông thuộc.
Khi chúng ta phát tâm quy y hay xuất gia thọ giới, đó là phát tâm tu. Đã tu, cứ tiếp tục việc đã làm, giữ hoài từ từ thuần thục. Tuy niệm niệm luôn luôn sanh diệt không dừng, nhưng huân tập mãi lâu ngày sẽ thành công.
Người đọc tụng kinh sách, từng chữ không đến nhau, người cũng sanh diệt, miệng đọc cũng sanh diệt, chữ cũng đổi thay sanh diệt luôn luôn mà lâu ngày thành thuộc.
Này thiện nam tử! Như thợ kim hoàn từ lúc ban đầu tập nghề nhẫn đến đầu bạc, dầu niệm niệm diệt trước chẳng đến sau, nhưng do tích tập nên nghề giỏi khéo, do đây được gọi là thợ kim hoàn khéo. Đọc tụng kinh sách cũng như vậy.
Như hột giống kia, đất chẳng bảo rằng ngươi phải sanh mầm, vì tánh tự nhiên nên mầm tự mọc lên, nhẫn đến bông cũng chẳng bảo ngươi nên thành trái, vì tánh tự nhiên mà trái tự thành. Chúng sanh tu hành cũng như vậy.
Cứ niệm niệm diệt mà sau kết quả là một ông thợ hay. Có giống, có đất, có nước, có phân… sẽ sanh mầm, sanh cây, trổ bông, kết trái, tự nhiên mà thành.
Ví như đếm số một chẳng đến hai, hai chẳng đến ba, dầu niệm niệm diệt mà đếm đến ngàn muôn chúng sanh tu hành cũng như vậy.
Như đếm tiền, một trăm, hai trăm, ba trăm rồi đến một triệu, tuy mỗi niệm mỗi niệm diệt mà mình vẫn biết số thành tựu.
Như ngọn đèn niệm niệm diệt, ngọn trước diệt chẳng bảo ngọn sau sanh. Như con nghé sanh ra bèn tìm sữa bú, trí khôn tìm sữa thật không ai dạy, dầu niệm niệm diệt mà trước thời đói lúc sau được no. Do đây nên biết rằng trước và sau chẳng giống nhau, nếu giống nhau thời lẽ ra chẳng sai khác.
Chúng sanh tu hành cũng như vậy, lúc mới tu dầu chưa tăng tiến nhưng vì tu tập lâu thời có thể phá hoại tất cả phiền não.”
Đây là điều cần chú ý. Chúng ta tu tập năm này qua năm kia vẫn thấy lơ mơ chứ chưa tiến nhiều, nhưng tu hoài, phiền não dấy lên liền dừng, vọng tưởng dấy lên liền không theo, cứ như vậy hoài lâu ngày chầy tháng thì thành công. Như trồng hoa, mới trồng xuống thì nhỏ bé, tưới bón từ từ đâm chồi, ra lá rồi trổ hoa, tỏa hương thơm. Phải từ từ, chứ mới trồng hôm nay, ngày mai muốn được ngửi hương hoa thì tham quá không thể nào được.
Đừng bao giờ nản thì thành công. Phiền não không phải bỏ một lần thì hết, vì chủng tử ăn sâu trong tàng thức, tích chứa vạn niên, cái gì cũng dồn vào, nên ngồi lại thì chuyện năm trên năm dưới mặc tình chạy ra. Chúng ta phải bền chí, cái nào ra thì biết, chỉ mặt nó là giặc, không theo cuối cùng nó sẽ tiêu.
Như một vị Tỳ-kheo bị ma chui vào bụng làm ngài đau, ngài nói: Ngươi có ăn tim gan phèo phổi ta, ta cũng không sợ. Nghe vậy ma buồn khổ chui ra, Phật khi ngồi dưới cội bồ-đề, có ba con ma hóa thành mỹ nữ ca hát chọc ghẹo, ngài nói: Các ngươi là ma trá hình đâu gạt được ta. Bọn ma bèn trở nên già xấu, hoảng hốt bỏ chạy. Như vậy đâu cần bùa chú, chỉ cần biết và chỉ mặt thì tự nhiên nó trốn. Kinh Lăng nghiêm nói, chúng ta nhận giặc làm con nên bị tán gia bại sản. Giặc là vọng niệm điên đảo, không phải ma ở ngoài đến mà ở trong tâm; chúng ta chỉ cần biết rõ giặc, không theo thì giặc tự tan. Đó là cách diệt lần tất cả phiền não. Ma quân sợ khi mình biết nó, nếu không biết nó mới làm chủ lại mình.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng:“Thế Tôn!Như lời Phật nói người được chứng quả Tu-đà-hoàn rồi, dầu thác sanh cõi nước hung ác, vẫn trì giới chẳng sát sanh trộm cướp dâm dật vọng ngữ uống rượu. Thân ngũ ấm của Tu-đà-hoàn đã diệt chết ở đây chẳng qua đến nơi cõi nước hung ác. Người tu hành cũng chẳng đến cõi nước hung ác, nếu là tương tự thời cớ sao chẳng sanh nơi cõi nước tịnh diệu? Nếu thân ngũ ấm ở cõi nước hung ác chẳng phải là ngũ ẩm của Tu-đà-hoàn, do đâu mà được chẳng gây tạo nghiệp ác?”
Các vị Tu-đà-hoàn khi bỏ thân này, giả sử sanh nơi nước ác cũng không phạm giới sát đạo dâm vọng… Ngài Sư Tử Hống nghi thân ngũ ấm sau khác thân ngũ ấm trước. Ở cõi nước ác chưa tu tập gì, tại sao lại không phạm những giới đó?
“Này thiện nam tử! Vị Tu-đà-hoàn dầu thác sanh cõi nước hung ác nhưng vẫn chẳng mất danh hiệu Tu-đà-hoàn, thân ngũ ấm thời chẳng tương tự, nên ta dẫn con nghé làm dụ. Vị Tu-đà-hoàn dầu thác sanh cõi nước hung ác, do đạo lực nên chẳng gây tạo nghiệp ác.
Tu-đà-hoàn còn bảy lần sanh tử mới chứng được A-la-hán, mới nhập Niết-bàn, trong bảy phen đó hoặc sanh cõi trời hoặc cõi người không nhất định, có khi sanh trong chỗ hung hiểm ác độc. Nhưng dù sanh nơi nào đi nữa các ngài cũng không phạm giới, vẫn tiến tu vì đã vào giòng thánh. Đạo lực các ngài rất mạnh, thúc đẩy các ngài không làm ác.
Ví dụ như con nghé mới sanh, mẹ không dạy bú mà khi đói nó tự nhiên kiếm sữa bú, đó là do nghiệp lực của thú vật. Tu-đà-hoàn thì do đạo lực cho nên các ngài vẫn giữ giới tự nhiên không cần phải thọ.
Như núi Hương Sơn có sư tử chúa, do dây nên tất cả loài phi cầm tẩu thú không dám đến gần núi này. Có lúc sư tử chúa đây đến trong núi Tuyết, tất cả chim thú cũng vẫn chẳng đến gần núi Hương Sơn. Vị Tu-đà-hoàn cũng như vậy, dầu chẳng tu hành nhưng do đạo lực nên chẳng gây tạo nghiệp ác.
Ví như có người uống chất cam lộ, chất cam lộ này dầu đã tiêu hóa mất, nhưng thế lực có thể làm cho người uống chẳng già chẳng chết.
Như núi Tu-di có vị thuốc thượng diệu tên là Lăng-già-lợi, người uống vị thuốc này dầu niệm niệm diệt, nhưng do năng lực của thuốc làm cho người uống chẳng bao giờ phải bệnh khổ.
Như chỗ ngự của Chuyển luân vương, dầu vua chẳng ngự nơi đó nhưng không ai dám đến gần, đây là do oai lực của vua. Vị Tu-đà-hoàn cũng như vậy, dầu sanh nơi cõi nước hung ác, chẳng tu hành nhưng do đạo lực nên chẳng gây tạo nghiệp ác.
Thân ngũ ấm Tu-đà-hoàn chết mất ở đây, dầu sanh ngũ ấm khác, nhưng vẫn chẳng mất ngủ ấm Tu-đà hoàn.
Ví như chúng sanh vì muốn được trái được hột nên đối với hột giống ra công săn sóc vun phân bón tưới, chưa gặt được trái được hột mà hột giống lại đã hư diệt, dầu vậy nhưng cũng được gọi là nhân hột giống mà được trái. Ngũ ấm của Tu-đà hoàn cũng như vậy.
Sư tử chúa dù bỏ đi chỗ khác mà các cầm thú vẫn không dám đến chỗ của nó vì sợ oai. Tu-đà-hoàn dù bỏ thân này qua thân khác nhưng không phạm giới vì đạo lực của các ngài. Như cam lộ đã được tiêu hóa trong bụng người, nhưng thế lực của nó vẫn làm người uống không già chết. Các ví dụ sau cũng tương tự như vậy. Tu-đà-hoàn dù mang thân khác nhưng đạo lực vẫn tiếp tục thúc đẩy thân sau làm đúng như thân thuở trước cho nên nói không làm mất thân ngũ ấm Tu-đà-hoàn.
Như có người sản nghiệp to tát, chỉ có một đứa con trai chết sớm, người con này cũng có một dứa con trai ở xứ khác. Lúc người giàu có này qua dời đứa cháu nội nghe tin bèn trở về lãnh lấy sản nghiệp, dầu mọi người đều biết tài sản đó chẳng phải của nó làm ra, nhưng không ai ngăn trở, vì nó là một họ, cháu ruột của phú ông. Ngũ ấm của Tu-đà-hoàn cũng như vậy.”
Như cháu của phú ông, không làm ra của cải nhưng khi phú ông chết nó có đủ tư cách để lãnh gia tài. Có người nghi ngờ nếu đời này tu hành không được thành Phật, không về Cực lạc thì đời sau làm sao tu nữa. Nếu nghi ngại như vậy là không tin nhân quả. Đời này dù chưa có thể chứng được A-la-hán, giác ngộ thành Phật, nhưng đạo lực đâu có mất. Nó sẽ làm duyên cho đời sau tiến nữa. Giả sử gặp nơi trở ngại nó vẫn giữ cho mình nguyên vẹn không phạm giới luật. Cho nên nhiều người sanh chỗ xấu xa hung dữ nhưng họ vẫn lương thiện. Hiểu được đạo lý đó rồi chỉ lo là mình không tu, chứ đừng sợ tu rồi mất, nếu mình nỗ lực tu mà đời này chưa xong thì đời sau cứ tiếp tục chứ có gì mà sợ.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Như bài kệ của Phật nói:
Tỳ-kheo nếu tu tập
Giới định và trí huệ
Nên biết là bất thối
Gần đến đại Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tu giới? Thế nào là tu định? Thế nào là tu huệ?
Phật nói: “Này thiện nam tử! Nếu có người trì giới chỉ vì muốn tự lợi hưởng thọ sự vui cõi trời, cõi người, mà chẳng vì độ thoát tất cả chúng sanh, chẳng vì ủng hộ chánh pháp vô thượng, chỉ vì lợi dưỡng, sợ ba ác đạo, vì sống lâu, sắc đẹp, sức mạnh, an ổn, vô ngại biện, vì sợ luật pháp của vua, vì sợ tiếng xấu, vì sự nghiệp thế gian, vì những việc như trên mà hộ trì giới luật thời chẳng được gọi là tu tập giới luật.
Tu giới định tuệ thì sẽ được bất thối chuyển, lần lần đến đại Niết-bàn. Chúng ta tu là vì chúng sanh mà tu, vì đạo pháp mà tu, đó là tâm niệm của người hộ pháp chân chánh, là tâm niệm của Bồ-tát. Nếu tu để an hưởng, vì lợi ích riêng tư, dù giữ giới giữ luật không phải vì lý do chánh mà vì những lý do lặt vặt, vì sống lâu, vì sắc đẹp… thì đó là những người tu tập trì giới không chân chánh. Tinh thần Đại thừa một là vì chúng sanh hai là vì đạo pháp, nếu không vì chúng sanh, không vì đạo pháp thì đó là tu ích kỷ.
Thế nào gọi là chân thật tu tập giới luật? Lúc trì giới nếu vì độ thoát tất cả chúng sanh, vì hộ trì chánh pháp để độ người chưa được độ, khai ngộ người chưa tỏ ngộ, quy y người chưa quy y, người chưa nhập Niết-bàn làm cho được nhập, lúc tu tập như vậy chẳng thấy giới, chẳng thấy giới tướng, chẳng thấy người trì, chẳng thấy quả báo, chẳng tìm xem hủy phạm. Nếu có thể dược như vậy thời mới gọi là tu tập giới luật.
Phần trên vì độ chúng sanh được giải thoát cho nên mình tu tập, thọ trì giới luật. Phần dưới tuy thọ trì giới luật mà vẫn có đủ trí tuệ, không chấp tướng, nên không thấy giới, không thấy giới tướng, chẳng thấy người trì, chẳng thấy quả báo, chẳng thấy hủy phạm. Nghĩa là tuy trì giới mà không chấp trước. Chúng ta cố gắng trì giới, rồi cho mình hơn thiên hạ đó là chấp tướng, cho nên càng trì giới thì càng khinh mạn. Đó là gốc của tội lỗi, của trầm luân, sanh ra tệ hại. Chúng ta phải dùng trí Bát-nhã trì giới, thấy giới không thật, người trì không thật, quả báo không thật, tức là thấy các pháp như huyễn, vì chúng sanh mà mình phải làm như vậy thôi. Trì mà không thấy mình thì ngã mạn với ai? Còn thấy mình hơn người thì ngã mạn, đó là bệnh của chúng sanh. Cho nên trì giới mà không thấy có giới, không thấy có người trì, không thấy có quả báo, không thấy có hủy phạm, như vậy mới là chân thật.
Thọ trì giới luật vì độ thoát chúng sanh, làm cho họ được chỗ nương tựa, gọi là quy y, được tỏ ngộ, được tu hành đến Niết-bàn cho nên mình phải cố gắng trì giới nhưng không chấp tướng.
Thế nào gọi là tu tập chánh định? Lúc tu tam-muội, vì tự độ, vì lợi dưỡng, mà chẳng vì chúng sanh, chẳng vì hộ pháp, vì thấy những lỗi tham dục ăn uống, vì thấy những căn nam nữ chín lỗ bất tịnh, vì tranh đấu cãi cọ đánh đâm, giết hại lẫn nhau. Nếu vì những việc này mà tu tam-muội, đây thời chẳng gọi là tu tập tam-muội.
Ngoài hai lý do chính là độ chúng sanh và hộ trì Phật pháp, nếu mình tu mà chỉ vì những tạp nhạp nhỏ nhất của riêng tư thì đó không phải là tu tập tam-muội.
Thế nào gọi là chân thật tu tam-muội? Nếu tu tập tam-muội là vì chúng sanh, đối với chúng sanh có tâm bình đẳng, vì làm cho chúng sanh được pháp bất thối, được thánh tâm, được Đại thừa, vì muốn hộ trì pháp vô thượng, khiến cho chúng sanh chẳng thối tâm Bồ-đề, làm cho chúng sanh được Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, được Kim cang tam-muội, được đà-la-ni, được tứ vô ngại, được thấy Phật tánh. Lúc thật hành chẳng thấy tam-muội, chẳng thấy tướng tam-muội, chẳng thấy người tu, chẳng thấy quả báo. Nếu có thể như vậy thời gọi là tu tập chánh định.
Tu giới phải có trí tuệ, tu định cũng phải có trí tuệ. Tu thiền định mà không cố chấp, không thấy có thật pháp tu, người tu và quả báo, như vậy mới gọi là tu thiền định. Tu thiền định cũng cốt vì chúng sanh, cốt bảo vệ chánh pháp và luôn luôn không chấp trước.
Thế nào gọi là tu tập trí huệ? Nếu có người tu hành suy nghĩ như vầy: Nếu tôi tu tập trí huệ này thời được thoát khỏi ba ác đạo? Ai có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sanh? Ai có thể ở trong đường sanh tử mà độ mọi người? Phật xuất hiện ra đời khó gặp như hoa ưu-đàm, nay tôi có thể dứt phiền não kiết sử được quả giải thoát, nên tôi phải siêng năng tu hành trí huệ, để sớm dứt phiền não mau được giải thoát. Tu tập như vậy chẳng được gọi là tu tập trí huệ.
Khi tu trí tuệ, nếu chúng ta nghĩ không ai có thể làm cho chúng sanh được lợi ích hết, không ai làm chúng sanh qua khỏi đường sanh tử được, chỉ lo dứt phiền não, giải thoát cho mình, thì đó là tiêu cực ích kỷ, không phải chân thật tu tập trí tuệ. Còn vì độ chúng sanh nên trước mình phải tạo đạo lực, tạo phương tiện, tạo khả năng độ mới được thì không phải ích kỷ. Như người học trò thấy dân mình ít học, nên nỗ lực học cho thành tài để dạy người ta hết quê dốt. Vì muốn giúp người ta, anh phải học thì đó không phải là ích kỷ.
Ví như người tập lội, sắm thuyền thì dường như vì mình, nhưng sự thật muốn cứu người chết chìm. Mình không biết lội, thấy người bị chìm, nhảy xuống ôm thì mình cũng chết chìm luôn. Tuy đó là vì người nhưng cả hai đều bất lợi hết. Chỉ khác nhau ở tâm niệm, đi sông đi biển sợ lỡ chìm thuyền thì mình chết, nên ráng học lội cho giỏi để khỏi bị chết chìm, đó là vì mình. Tập lội để cứu những người chết chìm, đó là tâm niệm lợi tha.
Có người đến thăm tôi, ông ta nói nhiều nên tôi im lặng nghe. Lúc chào về, ông ta nói, đây là chỗ ở của A-la-hán. Tôi chỉ cười. Mình còn phàm phu chưa được A-la-hán mà nói vậy cũng là quá lắm rồi. Nhưng ý ông ta nói đây là chỗ ở của Tiểu thừa, thấy mình chỉ ở một chỗ lo tu cho là tiêu cực, ích kỷ, đó là cái nhìn của thiên hạ. Mình tu một mình nhưng tìm phương tiện, nghĩ kế giúp đỡ mọi người thì chưa hẳn là ích kỷ nhưng ít ai nghĩ vậy.
Độ là đưa qua, như độ thủy là qua nước, độ giang là qua sông. Từ chỗ sanh tử mình đưa qua bến Niết-bàn, hay từ mê lầm đưa đến giác ngộ. Nhưng chúng ta còn mê lầm, còn phiền não mà độ thiên hạ thì không biết độ cái gì! Như dốt mà đi dạy học thì dạy cái gì! Mình không có khả năng làm sao mà lo. Muốn dạy người ta học, trước phải biết chữ. Muốn bố thí, trước phải có tiền, Muốn thuyết pháp, trước phải học đạo. Muốn dạy người tu hành, trước phải tu. Chúng ta tu không phải vì an hưởng, chính vì thương chúng sanh, vì muốn ngọn đèn chánh pháp thường còn ở thế gian, độ chúng sanh ra khỏi mê lầm. Hai động cơ của mình là bảo vệ chánh pháp và thương xót chúng sanh. Làm việc gì nhấn mạnh vào hai điểm đó thì không lạc vào tiêu cực. Nếu mình nghĩ làm sao mình vui, mình hưởng… thì đó là ích kỷ, tiêu cực.
Có hai trường hợp: Thứ nhất, nếu chúng ta thấy không thể đi đến nơi đến chốn, như người đi học mà thấy mình không thể học đến cử nhân tiến sĩ nổi, nên học hết trung học có thể hướng dẫn người ta được rồi thì đi dạy cũng được. Thứ hai, người cảm thấy có khả năng học tiếp được, sau đó ra dạy sẽ có lợi hơn. Nếu trong xã hội tất cả đều học ngang trung học hết thì làm sao có bác sĩ, kỹ sư, những nhân tài cho xứ sở? Trình độ phổ thông chỉ làm việc phổ thông, người học hết tiểu học thì có thể dạy người a b c, nhưng chỉ dạy đến ngang trình độ mình mà thôi.
Muốn học cao hơn thì phải chú tâm học. Nếu vừa học vừa làm việc này việc nọ, đầu óc bị chi phối thì việc học bị lui sụt. Lúc còn trẻ sức mạnh còn nhiều, trí còn thông minh, dồn sức học thì sau có thể thành bác sĩ, kỹ sư…, giúp được nhiều hơn cho xã hội. Tu cũng vậy, có người vừa tu vừa độ, nhưng có người phải tu đến chỗ cao để độ người đến chỗ cao. Kinh nói, mình chưa được độ mà lo độ người là Bồ-tát phát tâm, mình đã giải thoát mà giải thoát người là Phật phát tâm. Vậy tu thành Phật càng hay hơn nữa, đâu có lỗi lầm gì.
Thế nào gọi là chân thật tu tập trí huệ? Người trí nếu quan sát sự khổ sanh lão bệnh tử, tất cả chúng sanh bị vô minh che đậy, chẳng biết tu tập đạo vô thượng. Nguyện thân tôi nhận lấy sự khổ não thay thế chúng sanh, bao nhiêu những sự bần cùng hạ tiện phá giới, những nghiệp tham sân si của chúng sanh, nguyện tất cả đều đến nhóm chất trên thân tôi. Nguyện cho chúng sanh chẳng tham đắm, chẳng bị danh sắc trói buộc mau thoát khỏi sanh tử, chỉ để một thân tôi ở nơi sanh tử chẳng mỏi nhàm. Nguyện cho tất cả chúng sanh đều được vô thượng Bồ-đề. Lúc tu tập như vậy chẳng thấy trí huệ, chẳng thấy tướng trí huệ, chẳng thấy người tu, chẳng thấy quả báo, đây thời gọi tu tập trí huệ.
Này thiện nam tử! Người tu tập giới định huệ như vậy thời gọi là Bồ-tát. Người không thể tu tập giới định huệ như vậy thời gọi là Thanh văn.
Trí tuệ này thật quá lớn lao. Có một cư sĩ ở Thị Nghè hỏi tôi: “Thưa Thầy tôi đã quy y, thọ giáo có thầy rồi, nay tôi phát tâm tụng kinh Pháp Hoa. Trong thời gian tụng, không biết sao nghiệp đổ ra, vợ tôi sợ đến báo cáo với thầy tôi, thầy cấm không cho tôi tụng kinh Đại thừa nữa. Bản nguyện của tôi bị hỏng, nếu cãi thầy thì sợ có tội, bây giờ tôi phải giải quyết làm sao?” Tôi chỉ căn cứ vào kinh mà nói tụng kính thì có phước, thầy tổ hay Phật đều khuyên như thế, còn thầy của đạo hữu cấm là chuyện riêng, tôi không biết. Đạo hữu xét mà làm, tôi không nói ai phải ai quấy hết. Đó là một trường hợp.
Có người lại đến nói: “Thưa Thầy tu nhiều đổ nghiệp quá, nay con nguyện Phật cho đổ chừng năm mươi phần nghiệp thôi, còn năm mươi để lại, vì đổ nhiều quá con chịu không nổi.” Ông nói rất thành thật Đổ nghiệp là tuôn ra cho hết nghiệp, người hiểu đạo biết nghiệp đến với mình là nợ. Nợ đến phải trả nhưng xin hẹn, khất lần từ từ trả, đến một lần nhiều quá không chịu nổi. Thật ra con người quá yếu ớt, vì không can đảm trả một lần cho xong.
Bồ-tát thì khác, chẳng những nghiệp của mình mà của bao nhiêu người khác đều nguyện nhận hết. Tâm niệm Bồ-tát sẵn sàng thay thế tất cả chúng sanh chịu khổ, còn chúng sanh nghiệp của mình không chịu mang, không chịu trả hết một lần. Đó là hai tâm niệm phàm phu và Bồ-tát sai biệt. Chúng ta học đạo nếu chưa phải Bồ-tát, ít ra phải can đảm hơn phàm phu một chút, nghĩa là có bao nhiêu nợ đến thì ký trả, như vậy cũng tiến hơn những người năn nỉ trả lần. Tiến hơn chút nữa thì nguyện thế cho mọi người, như vậy thành Bồ-tát. Bồ-tát là những người tâm niệm rộng rãi mạnh mẽ. Các ngài làm bất cứ việc gì cũng nghĩ đến tất cả chúng sanh, vì chúng sanh mà tu, vì chúng sanh mà tạo lợi ích cho họ. Tâm niệm rộng thì làm việc lớn mới được, còn hẹp thì không bao giờ làm được việc lớn.
Khi tôi lên đây nhập thất, nhiều người nói tôi ích kỷ tiêu cực, vì đang dạy học trò hai ba trăm người tự nhiên bỏ đi, nhưng tôi không cảm thấy hổ thẹn vì nghĩ mình giúp họ hết khả năng rồi, phải dừng để học thêm, tu thêm xem có điều gì hay hơn, mới mẻ hơn. Nếu tạo trường học, có một số tăng chúng, lấy đó làm sự nghiệp của mình, không muốn tiến thì dạy học trò lên thêm không được. Cứ giữ họ để làm người cho mình sai sử là không tốt.
Tôi nhập thất ba năm, có điều hay cần phải nói liền mở cửa nói. Chính đó là nhiệt tình của tôi nhưng có nhiều người không hiểu, đâu biết trước mình đã trút cạn hết rồi, nếu cứ dạy mãi những điều cũ rích người ta sẽ chán, nên phải đóng cửa tìm những điều hay mới để cống hiến. Mình phát tâm mãnh liệt, mạnh mẽ, ráng tự mình giải thoát và giải thoát cho mọi người. Bồ-tát chịu bao nhiêu cái khổ hết cho mọi người, vì họ chịu khổ không nổi, các ngài thấy mình không thật, cảnh không thật, khổ cũng không thật nên khổ mấy cũng chịu nổi. Khi chịu khổ thế cho chúng sanh là Bồ-tát thực hành trí tuệ mà không thấy thật có trí tuệ, không thấy có người tu trí tuệ hay cũng không thấy có quả báo trí tuệ. Điều đó mới đặc biệt. Thường thì người chịu khổ thay cho người khác hay cho mình là anh hùng còn mọi người yếu đuối, rồi sanh ngã mạn, khi dễ họ. Nếu dùng trí tuệ nguyện chịu khổ cho chúng sanh mà không thấy mình tu hạnh trí tuệ và không thấy quả báo của nó… mới thật là thực hành trí tuệ.
Người không tu tập được như vậy cũng gọi là Thanh văn chứ không phải là phàm phu, cũng tu tập trí tuệ nhưng không có tâm niệm đó thì gọi là Thanh văn.
Thế nào lại gọi là tu tập giới hạnh? Nếu có thể phá hoại mười sáu ác luật nghi của tất cả chúng sanh: một là vì lợi mà nuôi dê trừu cho mập để bán, hai là vì lợi mua dê trừu để làm thịt, ba là vì lợi nuôi heo cho mập để bán, bốn là vì lợi mua heo để làm thịt, năm là vì lợi nuôi bò con cho mập để bán, sáu là vì lợi mua bò để làm thịt, bảy là vì lợi nuôi gà cho mập để bán, tám là vì lợi mua gà để làm thịt, chín là câu cá, mười là thợ săn, mười một là cướp giật, mười hai là thái thịt, mười ba là lưới chim, mười bốn là lưỡng thiệt, mười lăm là lính giữ ngục, mười sáu là bùa chú bắt rồng. Có thể vì chúng sanh mà dứt hẳn mười sáu nghiệp ác như vậy thời gọi là tu tập giới hạnh.
Vì lợi mà nuôi dê trừu, heo, bò con, gà cho mập để bán, vì lợi mua dê trừu, heo, bò con, gà để làm thịt, câu cá, làm thợ săn, cướp giật, thái thịt… Chúng ta đều dạy người xa lìa những ác hạnh trên là tu tập giới hạnh. Những ác luật nghi, bổn phận chúng ta phải dạy Phật tử đừng làm huống là mình làm. Nên khi tu giới hạnh, tự mình giữ giới còn đem giới giáo hóa người, bằng cách dạy họ bỏ những ác luật nghi đó, như gặp người chuyên môn chài lưới, thợ săn thì khuyên họ bớt sát sanh… Đó gọi là phá ác luật nghi của tất cả chúng sanh.
Thế nào là tu định? Có thể dứt tất cả tam-muội thế gian, như Vô thân tam-muội có thể làm cho chúng sanh có tâm diện đảo cho là Niết-bàn, cùng những tam-muội Hữu biên tâm, Vô biên tâm, Tịnh tụ, Thế biên, Thế đoạn, Thế tánh, Thế trượng phu, Phi tưởng phi phi tưởng, những môn định này có thể làm chúng sanh có tâm điên đảo cho là Niết-bàn. Nếu có thể dứt hẳn những tam-muội như vậy thời gọi là tu tập chánh định.
Đây là phần chánh định lợi tha. Tức là dạy người phá dẹp những định tà, định phàm phu và định của các cõi trời Phi phi tưởng.
Thế nào gọi là tu tập trí huệ? Có thể phá những ác kiến của thế gian.
Tất cả chúng sanh đều có ác kiến: chấp sắc là ngã là ngã sở, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc, nhẫn đến chấp thức cũng như vậy. Thường tức là ngã, sắc diệt ngã còn. Sắc tức là ngã, sắc diệt ngã cũng diệt. Lại có người cho rằng tác giả là ngã, thọ giả là sắc. Lại có người nói tác giả là sắc, thọ giả là ngã. Lại có người nói không tác giả, không thọ giả, tự sanh, tự diệt đều chẳng phải nhân duyên. Lại có người nói không tác giả, không thọ giả, đều là Tự Tại thiên chỗ tạo ra. Lại có người nói không tác giả, không thọ giả, tất cả đều do thời tiết làm ra. Lại có người nói không tác giả, không thọ giả, địa thủy hỏa phong không năm đại này gọi là chúng sanh.
Nếu có thể phá hoại những ác kiến của chúng sanh như vậy thời gọi là tu tập trí huệ.
Tóm lại chấp thân ngũ uẩn này hoặc vật chất: sắc là ngã, hoặc tính thần: thọ, tưởng, hành, thức là ngã, hoặc chấp tác giả là ngã, thọ giả là ngã, do Tự Tại thiên tạo hay không tác giả không thọ giả, tất cả đều do thời tiết làm ra… Đây là tất cả những lối chấp ngã của phàm phu ngoại đạo, đều là những ác kiến. Chúng ta phải khéo dùng Phật pháp để giáo hóa cho họ dẹp những ác kiến đó, gọi là tu tập trí tuệ,
Này thiện nam tử! Tu tập giới hạnh để cho thân được tịch tịnh. Tu tập chánh định để cho tâm được tịch tịnh. Tu tập trí huệ để phá trừ lòng nghi Phá trừ lòng nghi là để tu tập Phật đạo. Người tu tập Phật đạo là để được thấy Phật tánh. Thấy Phật tánh để được vô thượng Bồ-đề. Được vô thượng Bồ-đề thời được vô thượng đại Niết-bàn. Được đại Niết-bàn để dứt tất cả sanh tử, tất cả phiền não, tất cả cõi, tất cả đế của tất cả chúng sanh. Dứt sanh tử nhẫn đến dứt tất cả để là để được thường lạc ngã tịnh vậy.”
Tu giới để thân tâm được tịch tịnh. Tu định cũng để thân tâm tịch tịnh. Tu trí tuệ để dẹp hết tất cả lòng nghi ngờ. Trừ được lòng nghi ngờ mới tới được Phật đạo, thấy được Phật tánh, thành vô thượng Bồ-đề. Do được vô thượng Bồ-đề thì được vô thượng đại Niết-bàn, dứt được sanh tử, tất cả phiền não, tất cả cõi, tất cả đế và tất cả chúng sanh. Như vậy kết quả sau cùng là được thường lạc ngã tịnh. Đó là mục tiêu tu giới định tuệ.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Như lời Phật nói nếu bất sanh bất diệt gọi là đại Niết-bàn, thời sanh cũng là bất sanh bất diệt như vậy, cớ sao chẳng được gọi là Niết-bàn?”
Tại sao nói sanh là bất sanh bất diệt? Vì tuy sanh ra rồi già, bệnh, chết, nhưng rồi lại sanh. Thế gian lúc nào cũng có sanh, còn mãi nên nói bất sanh bất diệt, cũng như Niết-bàn, đó là nói trên danh từ.
“Này thiện nam tử! Đúng như lời của ông nói. Sanh dầu cũng là bất sanh bất diệt nhưng có thủy có chung.”
“Bạch Thế Tôn! Pháp sanh tử này cũng là vô thủy vô chung. Nếu là vô thủy vô chung thời gọi là thường, thường trụ tức là Niết-bàn, cớ sao chẳng gọi sanh tử là Niết-bàn?”
Thủy là trước, chung là sau, sanh có trước sau nên không phải là thường.
Pháp thế gian có sanh thì có tử, sanh tử coi như một quy luật thường hằng bất biến, mọi người đều chịu chung luật đó, vậy nó bất sanh bất diệt, thường trụ, sao không gọi là Niết-bàn? Đó là cái nghi của Bồ-tát Sư Tử Hống.
“Này thiện nam tử! Pháp sanh tử này đều có nhân có quả, vì có nhân quả nên chẳng được gọi là Niết-bàn. Thể tánh của Niết-bàn vốn không nhân quả.”
Phật nói sanh tử và Niết-bàn khác nhau, có nhân quả và không nhân quả.
“Bạch Thế Tôn! Luận về Niết-bàn cũng có nhân quả như bài kệ của Phật nói:
Từ nhân nên sanh cõi trời,
Từ nhân mà đọa ác đạo,
Từ nhân nên được Niết-bàn,
Do đây nên đều có nhân.
Xưa kia Phật bảo các Tỳ-kheo; Nay ta sẽ nói đạo quả của Sa-môn. Nói là Sa-môn đó nghĩa là người có thể tu tập hoàn toàn đạo hạnh giới định huệ, đạo hạnh này là bát thánh đạo. Quả của Sa-môn chính là Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Niết-bàn như vậy há chẳng phải là quả ư? Cớ sao hôm nay đức Phật nói rằng thể của Niết-bàn không nhân không quả?”
“Này thiện nam tử! Ta tuyên nói nhân của Niết-bàn chính là Phật tánh, tánh của Phật tánh chẳng sanh Niết-bàn, nên ta nói Niết-bàn không có nhân.
Vì có thể phá phiền não nên gọi là quả đại Niết-bàn, Niết-bàn này chẳng từ nơi đạo hạnh sanh ra nên gọi là không có quả. Do đây nên Niết-bàn là không nhân không quả.
Bồ-tát Sư Tử Hống thưa rằng Niết-bàn cũng có nhân quả và đem lời Phật dẫn chứng. Phật nói nhân của Niết-bàn là Phật tánh không sanh cho nên nó không phải nhân. Nhân bất sanh bất diệt nên không gọi là nhân, quả bất sanh bất diệt nên không gọi là quả. Vì Phật tánh không sanh không diệt cho nên nó không sanh ra Niết-bàn, Phật tánh không phải nhân. Niết-bàn là quả, nhưng nó không sanh không diệt nên không phải là quả. Phàm cái gì là nhân quả thì có sanh diệt, mà Niết-bàn, Phật tánh không sanh không diệt nên Phật mới nói rằng không nhân không quả.
“Bạch Thế Tôn! Phật tánh của chúng sanh là chung có hay là riêng có? Nếu là chung có thời một người lúc được vô thượng Bồ-đề lẽ ra tất cả chúng sanh cũng đồng được. Như hai mươi người đồng có một kẻ oán thù, nếu một người trừ được kẻ thù, thời mười chín người kia cũng đồng hết người thù. Phật tánh cũng như vậy, lúc một người đặng thời lẽ ra những người khác cũng đồng đặng.
Nếu mỗi chúng sanh riêng có Phật tánh thời Phật tánh là vô thường, vì có thể tính đếm được. Nhưng Phật nói Phật tánh của chúng sanh chẳng phải một chẳng phải hai. Nếu là riêng có, thời lẽ ra chẳng nên nói rằng chư Phật bình đẳng, cũng chẳng nên nói rằng Phật tánh như hư không.
Tất cả chúng sanh đều có chung một Phật tánh hay là mỗi người có một Phật tánh riêng? Nếu chung thì người này được tất cả người khác cũng được. Như hai mươi người chung một kẻ thù, một người trừ được kẻ thù thì mười chín người kia cũng hết thù. Nếu Phật tánh là chung tất cả, một người thành Phật thì tất cả mọi người đều thành Phật. Nếu riêng thì Phật tánh là vô thường, vì có thể tính đếm được, cũng chẳng thể nói chư Phật bình đẳng và Phật tánh như hư không. Chung cũng không ổn, riêng cũng chẳng xong. Phật tuần tự giải thích.
“Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh chẳng một chẳng hai. Chư Phật bình đẳng dường như hư không. Tất cả chúng sanh đồng chung có đó. Nếu người có thể tu bát thánh đạo, nên biết người này được thấy rõ.
Này thiện nam tử! Trên núi Tuyết có thứ cỏ tên nhẫn nhục, nếu bò ăn cỏ này thời sanh ra chất đề hồ, Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy.”
Phật dụ Phật tánh cũng như cỏ núi Tuyết, ai nhận được Phật tánh thì được thành Phật, chất đề hồ chỉ cho thành Phật.
“Bạch Thế Tôn! Cỏ nhẫn nhục đó là một hay là nhiều? Như là một, bò ăn thời hết. Nếu là nhiều sao Phật lại nói Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy?
Như Phật nói: Nếu có người tu tập bát thánh đạo thời được thấy Phật tánh. Lời đây chẳng đúng nghĩa, vì thánh đạo nếu là một như cỏ nhẫn nhục thời lẽ ra phải hết. Nếu thánh đạo có hết, thời một người tu xong những người khác không có phần. Thánh đạo nếu là nhiều, thời thế nào nói rằng tu tập đầy đủ, cũng chẳng được gọi là Tát-bà-nhã trí.
Vì có một phần thôi thì người này làm hết người khác đâu còn. Như có một trái cam, nếu một người ăn thì người khác đâu còn để ăn. Nếu nhiều thì nhiều người ăn được, tức là phải có nhiều trái cam.
“Này thiện nam tử! Như đường bằng thẳng, tất cả chúng sanh đồng đi trên đường không chướng ngại nhau. Giữa đường có cây to bóng mát, người đi đường nghỉ ngơi dưới bóng cây. Bóng cây này vẫn thường như vậy, chẳng biến đổi, chẳng hư mất, cũng không ai mang đi.
Đường bằng thẳng dụ cho chánh đạo, bóng mát dụ cho Phật tánh.
Ví như thành lớn chỉ có một cửa, dầu đông người đồng do một cửa này ra vào nhưng đều không chướng ngại, cũng không ai phá hoại hoặc mang đem di.
Một cửa là Bát thánh đạo.
Ví như cây cầu nhiều người đi trên đó cũng không chướng ngại không ai phá hoại mang đi.
Ví như lương y trị đủ các chứng bệnh, không ai cấm ngăn lương y này trị người đây bỏ người kia. Thánh đạo và Phật tánh cũng như vậy.”
Như vậy ai cũng có phần chứ không phải chỉ có một người. Tuy Bát thánh đạo là một nhưng mọi người tu được, như một ông thầy thuốc mà nhiều người đều có thể trị lành bệnh.
“Bạch Thế Tôn! Những điều dụ của Phật dẫn ra đây, theo nghĩa thời chẳng phải. Vì người trước ở trên đường thời trở ngại cho người đi sau, sao lại nói là không chướng ngại. Những điều dụ khác cũng như vậy.
Thánh đạo cùng Phật tánh nếu là như vậy, thời lúc một người tu hành lẽ ra trở ngại những người khác.”
Người này tu thì người kia bị chướng, như vậy tất cả đều là chướng ngại sao Phật nói như thế.
“Này thiện nam tử! Như lời ông vừa gạn hỏi, xét nơi nghĩa thời chẳng tương ưng. Những điều dụ của ta dẫn ra là dụ phần ít chẳng phải dụ tất cả.
Dụ đó là một phần ít thôi chứ không phải là toàn vẹn.
Này thiện nam tử! Con đường ở đời thời có chướng ngại, kia khác với đây, không có bình đẳng Đạo vô lậu thời chẳng như vậy, có thể làm cho chúng sanh không có chướng ngại, luôn bình đẳng không hai, không có kia đây sai khác. Thánh đạo như vậy có thể làm liễu nhân cho Phật tánh của tất cả chúng sanh, mà chẳng làm sanh nhân. Như ngọn đèn sáng soi rõ các đồ vật.
Phật giải thích, đường thế gian thì chướng, đạo vô lậu bình đẳng không chướng ngại. Thánh đạo là liễu nhân không phải sanh nhân.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đều đồng vô minh làm nhân duyên cho hành nghiệp. Không thể nói rằng một người vô minh làm nhân duyên cho hành nghiệp rồi những người khác lẽ ra không có. Tất cả chúng sanh đều có vô minh làm nhân duyên cho hành nghiệp, do đây nên nói rằng mười hai nhân duyên tất cả đều bình đẳng.
Tất cả đều bình đẳng vì đều có.
Chúng sanh tu hành đạo vô lậu cũng như vậy, đồng dứt phiền não tứ sanh, các cõi các đường, do nghĩa này nên gọi là bình đẳng. Những người đã chứng được, kia đây thấy biết không có chướng ngại, nên được gọi là Tát-bà nhã trí.”
Tất cả tứ sanh và hai mươi lăm cõi đều dứt sạch nên gọi là bình đẳng. Những người đã chứng thấy biết không chướng ngại nhau, vì chỗ chứng ngộ đều đồng không có hình tướng cho nên không có kia đây.
“Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sanh chẳng phải đồng một thân; hoặc là thân người, thân súc sanh, thân ngạ quỷ, thân địa ngục, những thân sai khác như vậy tại sao nói rằng Phật tánh là một?”
“Này thiện nam tử! Như có người để chất độc trong sữa, sữa thành lạc nhẫn đến thành đề hồ, danh tự dầu biến đổi nhưng chất độc chẳng mất, nếu uống đề hồ cũng có thể bị độc mà chết, thật ra chẳng để độc trong đề hồ.
Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy dầu ở trong thân sai khác của năm loài, nhưng Phật tánh này vẫn thường trụ duy nhất không biến đổi.”
Tại sao nói Phật tánh không phải một không phải hai? Phật dùng mười hai nhân duyên để ví dụ. Mười hai nhân duyên của chúng sanh là một hay khác? Tôi có mười hai nhân duyên của tôi, nơi mọi người có mười hai nhân duyên của họ. Tên mười hai nhân duyên: vô minh, hành, thức… cho đến sanh, lão, bệnh, tử, là danh từ chung, là đồng, nhưng ai phá được thì thành Phật, ai chưa phá được thì chưa thành Phật. Như vậy đâu nói là một được. Nên Phật nói không phải một mà cũng không phải khác.
Ví dụ cùng thi tú tài, ai thi đậu cũng gọi là ông tú như nhau, nhưng mỗi ông tú lại khác nhau, một ngàn người thi đậu thì có một ngàn ông tú, nên nói không phải một mà không phải khác. Cũng vậy, có hằng hà sa số Phật, nếu là một thì chỉ thành một vị Phật duy nhất.
Nhiều tôn giáo chủ trương nhất nguyên, như tất cả đều trở về với Chúa, Chúa là duy nhất, là một, một đó sanh ra tất cả. Đạo Phật không chủ trương nhất nguyên, không chủ trương chỉ có một Phật duy nhất. Phật tánh không ngại nhiều người thành Phật. Đó là điểm sai biệt cần phải chú ý, nhận kỹ, đừng cho rằng mình thành Phật thì trở thành một khối.
“Bạch Thế Tôn! Trong mười sáu nước lớn, có sáu thành lớn: thành Xá-bà-đề thành Bà chỉ-đa, thành Chiêm-bà, thành Tỳ-xá-ly, thành Ba-la-nại, thành Vương Xá, tại sao đức Như Lai bỏ những thành lớn ấy mà đến nơi thành Câu-thi-na nhỏ hẹp xấu xa này để nhập Niết-bàn?”
Ngài Sư Tử Hống hỏi, tại sao Phật không lựa những cảnh sang trọng quý báu như các nước lớn kia để nhập Niết-bàn cho xứng đáng mà lại đến rừng ta-la song thọ, đất khô cằn xứ quê mùa này.
“Này thiện nam tử! Ông chẳng nên nói rằng thành Câu-thi-na là nhỏ hẹp xấu xa, mà nên nói rằng thành này có nhiều công đức trang nghiêm tốt đẹp, vì chỗ này là chỗ mà chư Phật và Bồ-tát thường đi đến. Như nhà của người dân hèn, nếu có vua đi qua, thời nên tán thán nhà này là phước đức trang nghiêm, nên nhà vua mới ngự giá đến.
Như người bệnh nặng uống chất thuốc dơ xấu, uống xong bệnh liền lành, thời nên vui mừng khen ngợi thuốc này là rất hay rất tốt, chữa lành được bệnh của tôi.
Như người đi ghe ở trong biển lớn, bị ghe hư chìm nhân ôm tử thi mà được vào bờ, đã đến bờ rồi thời nên vui mừng khen ngợi rằng tôi nhờ tử thi này mà được an ổn.
Thành Câu-thi-na này cũng như vậy, là chỗ đi của chư Phật Bồ-tát, sao ông lại nói rằng là chỗ hẹp nhỏ xấu xa.
Này thiện nam tử! Ta nhớ thuở xa xưa cách đây hằng hà sa kiếp. Kiếp ấy hiệu là Thiện Giác. Lúc đó có vị thánh vương họ Kiều-thi-ca, bảy báu, ngàn con đều đầy đủ. Vua này là người ban đầu xây dựng thành trì nơi đây, ngang rộng đều mười hai do-diễn, bảy báu trang nghiêm, có nhiều con sông, nước sông trong sạch nhu nhuyễn ngon ngọt: sông Ni-liên-thiền, sông Y-la-bạt-đề, sông Hy-liên-thiền, sông Y-sưu-mạc hoàn, sông Tỳ-bà-xá-na. Tất cả có năm trăm con sông như vậy. Hai bên bờ sông cây cối rậm rạp, hoa trái sum suê. Người thời ấy sống lâu vô lượng. Vua Chuyển luân thánh vương qua khỏi trăm năm bèn xướng lên rằng: Như lời Phật nói tất cả pháp đều vô thường, nếu ai có thể tu tập mười pháp lành thời dứt được sự vô thường khổ não ấy. Toàn thể nhân dân nghe Thánh vương truyền ra như vậy, đều phụng trì mười pháp lành. Thuở đó ta nghe danh hiệu của Phật, suy nghĩ tu tập mười pháp lành, ban đầu phát tâm vô thượng Bồ-đề. Ta phát Bồ-đề tâm rồi lại đem pháp lành này chỉ dạy vô lượng vô biên chúng sanh, giảng nói tất cả pháp đều vô thường biến hoại.
Do cớ trên đây nên hôm nay ta ở nơi chỗ này tiếp tục giảng nói các pháp đều vô thường biến hoại, chỉ có thân của Phật là pháp thường trụ. Ta nhớ việc đời trước nên đến nơi đây để nhập Niết-bàn, cũng là muốn đền đáp ơn đời trước chính tại chỗ này ta thật hành pháp lành phát tâm Bồ-đề. Vì thế nên trong kinh ta nói: Quyến thuộc của ta thọ ơn đều có thể báo đáp.
Này thiện nam tử! Thuở xưa lúc chúng sanh tuổi thọ vô lượng, thời thành này hiệu là Câu xá bạt-đề, ngang rộng năm mươi do-diên. Thuở ấy trong Diêm-phù-đề người ở khít nhau. Có vua Chuyển luân thánh vương hiệu là Thiện Kiến, thất bảo và ngàn con đều đầy đủ, cai trị khắp bốn cõi. Vị thái tử thứ nhất xuất gia tu hành được thành Bích-chi Phật. Thánh vương thấy Thái tử của mình thành Bích-chi Phật oai đức trang nghiêm, thần thông hy hữu, liền vất bỏ ngôi vua như nhổ bỏ nước mũi dãi, xuất gia ở nơi rừng ta-la này, trải qua tám muôn năm tu tập từ tâm, tám muôn năm tu tập bi tâm, tám muôn năm tu tập hỷ tâm, tám muôn năm tu tập xả tâm.
Này thiện nam tử! Nên biết rằng thánh vương Thiện Kiến thuở xưa chính là thân của ta. Do đây nên ngày nay ta thường ưa thích thật hành bốn pháp này, bốn pháp này gọi là chánh định. Do nghĩa này nên thân Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh.
Này thiện nam tử! Vì cớ trên đây nên hôm nay ta đến nơi thành Câu-thi-na này ở trong rừng ta-la song thọ mà nhập tam-muội chánh định.
Này thiện nam tử! Ta nhớ thuở xưa cách đây vô lượng kiếp, thành này hiệu là Ca-tỳ-la-vệ, trong thành có vua hiệu là Bạch Tịnh, phu nhân hiệu là Ma-da, vua chỉ có một thái tử tên là Tất-đạt-đa. Lúc đó Thái tử chẳng học với thầy, tự mình tư duy tu tập chứng được vô thượng Bồ-đề. Có hai người đệ tử:
Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên. Đệ tử thị giả tên là A-nan. Đức Thế Tôn ấy ở trong rừng song thọ diễn nói kinh Đại Niết-bàn.
Lúc đó ta được dự pháp hội, nghe Phật nói chúng sanh đều có Phật tánh. Nghe xong ta liền được bậc bất thối chuyển, liền phát nguyện rằng: Nguyện đời vị lai lúc tôi được thành Phật, cha, mẹ, cõi nước, danh hiệu, đệ tử, thị giả, thuyết pháp giáo hóa, tất cả đều đồng như đức Thế Tôn. Do nhân duyên phát nguyện thuở xưa, nên hôm nay ta đến nơi đây diễn nói kinh Đại Niết-bàn.
Phật dẫn chuyện đời xưa, bao phen ngài sanh ra nơi này và được nghe pháp, phát tâm tu hành thành đạo. Vì nhớ ơn đó mà ngài về đây nhập Niết-bàn. Ngài nói, chỗ nào dù xấu xa mà có những bậc thánh đến, cũng trở thành quý báu. Cũng như nhà nghèo mà có vua quan đến thì cũng được người ta xem trọng, như những thứ thuốc tệ mà uống lành bệnh thì người ta vẫn quý thuốc ấy. Rừng ta-la song thọ này quê mùa nhưng có Phật đến nên trở thành quý báu,
Thêm nữa, do nhân duyên phát nguyện thuở xưa, ngài trở về đây để giảng kinh Đại Niết-bàn. Đó là hai ý.
Này thiện nam tử! Lúc ta mới xuất gia chưa được vô thượng Bồ-đề, vua Tần bà-sa-la sai sứ đến thưa với ta rằng: Thái tử Tất-đạt-đa nếu làm Thánh vương thời tôi sẽ là hạng thần thuộc. Nếu Thái tử xuất gia được vô thượng Bồ-đề, xin trước đến nơi thành Vương Xá để thuyết pháp độ người và thọ sự cúng dường của tôi. Lúc đó ta yên lặng nhận lời thỉnh của vua Tần-bà-sa-la.
Này thiện nam tử! Lúc ta mới được vô thượng Bồ-đề, bèn đi về hướng nước Kiệt-xà. Lúc đó nơi sông Y-liên-thiền có nhà Bà-la-môn họ Ca-diếp cùng năm trăm đệ tử ở bên sông cầu đạo vô thượng. Ta vì người này nên đến thuyết pháp. Ca-diếp nói: Thưa Cù-đàm! Nay tôi đã già một trăm hai mươi tuổi, trong nước Ma-già-đà, tất cả nhân dân cùng vua Tần-bà-sa-la, đều cho rằng tôi đã chứng quả A-la-hán. Nếu nay tôi ở trước Cù-đàm mà nghe pháp thời tất cả mọi người sẽ sanh lòng nghi ngờ. Trông mong Cù-đàm mau đi chỗ khác. Nếu mọi người biết rõ rằng công đức của Cù-đàm hơn tôi, thời chúng tôi sẽ mất sự cúng dường.
Lúc đó ta đáp rằng: Này ông Ca-diếp. Nếu ông chẳng tôn trọng ta, chẳng thích ta ở đây, xin cho ta nghỉ nhờ một đêm sáng sớm sẽ đi.
Ca-diếp nói: Thưa Cù-đàm, tôi không có lòng gì khác, thật ra tôi rất kính mến Cù đàm. Ngặt vì chỗ ở của tôi có một con rồng độc tánh nó hung dữ, sợ rằng nó làm hại Cù-đàm.
Ta nói; Ông Ca-diếp! Độc trong các thứ độc không gì hơn ba thứ độc, nay ta đã dứt, tất cả thứ độc trong đời ta đều chẳng sợ.
Ca-diếp lại nói: Nếu Cù-đàm không sợ thời xin mời đến ở.
Lúc đó ta cố ý vì Ca-diếp mà hiện mười tám môn thần biến. Ca-diếp cùng năm trăm đệ tử thấy thần thông nghe ta thuyết pháp đều chứng quả A-la-hán.
Lúc đó Ca-diếp lại có hai người em: Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp. Hai người này có năm trăm đệ tử, nghe ta thuyết pháp cũng đều chứng quả A-la-hán.
Lúc đó trong thành Vương Xá, hàng lục sư ngoại đạo nghe việc này, liền sanh lòng rất ác đối với ta. Lúc đó ta nhận lấy lời thỉnh của vua Tần-bà-sa-la đi đến thành Vương Xá. Giữa đường gặp vua cùng trăm ngàn người đón rước. Ta vì đại chúng này thuyết pháp. Tám muôn sáu ngàn chư thiên cõi Dục phát tâm vô thượng Bồ-đề. Mười hai muôn người đi theo vua Tần-bà-sa-la được quả Tu đà hoàn. Vô lượng chúng sanh thành tựu nhẫn tâm.
Sau khi ta vào thành, độ ông Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên cùng hai trăm năm mươi đệ tử của hai người, đều khiến bỏ tâm ngoại đạo theo ta xuất gia. Ta liền ở nơi thành Vương Xá nhận lấy sự cúng dường của vua Tần-bà-sa-la. Hàng lục sư ngoại đạo hợp nhau qua ở nơi thành Xá-vệ.
Trong thành Xá-vệ có một trưởng giả tên Tu-đạt-đa nhân việc hỏi vợ cho con nên đến thành Vương Xá, ngụ ở nhà của trưởng giả San đàn na. Giữa đêm Trưởng giả dạy bảo các quyến thuộc lo quét rửa trần thiết nhà cửa cùng sắm sửa những thức ăn uống.
Ông Tu-đạt-đa nghĩ rằng: Nhà này hoặc sắp sửa thỉnh vua, hay có lễ gả cưới hội hè gì chăng? Ông đem ý mình nghĩ mà hỏi trưởng giả San đàn na. Được biết rằng sáng ngày sẽ thỉnh Phật cùng giáo hội chư tăng đến phó trai.
Ông Tu-đạt-đa nghe đến danh hiệu Phật, cả mình rởn ốc, liền hỏi rằng thế nào gọi là Phật? Trưởng giả đáp: Ông chẳng biết ư! Thành Ca-ty-la có thái tử Thích-ca hiệu là Tất-đạt-đa, họ Cù-đàm, phụ vương là Bạch Tịnh. Lúc Thái tử sanh ra, các nhà tướng sư bàn quyết định sẽ được làm Chuyển luân thánh vương. Lớn lên Thái tử bỏ sự giàu sang mà xuất gia, không thầy được giác ngộ chứng vô thượng Bồ-đề, hết tham, sân, si, thường trụ không biến đổi, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng còn lo sợ. Đối với chúng sanh tâm ngài bình đẳng thương đồng như cha mẹ thương con một. Dầu cao thượng hơn tất cả mà ngài không kiêu mạn. Với người kính mến cũng như với người ghét hại, lòng ngài không phân biệt. Trí huệ thông suốt đối với tất cả pháp không chướng ngại, đầy đủ mười trí lực, bốn vô sở úy, năm trí, đại từ, đại bi và tứ niệm xứ, do đầy đủ những công đức trên đây nên hiệu là Phật. Vì sáng ngày đức Phật sẽ đến nhà tôi thọ trai nên phải rộn ràng lo sắp đặt chẳng rỗi rảnh tiếp đãi nhau.
Tu-đạt-đa nói: Lành thay! Thưa Trưởng giả! Đức Phật thật là công đức vô thượng, hiện nay Phật ngự tại đâu?
Trưởng giả đáp: Hiện nay Phật đang ở tại Trúc Lâm tinh xá nơi thành Vương Xá này.
Lúc đó ông Tu-đạt-đa nhất tâm nghĩ tưởng đến công đức của chư Phật. Bỗng nhiên có ánh sáng như ban ngày chiếu đến. Ông liền theo ánh sáng đi đến cửa thành, do thần lực của Phật nên cửa thành tự mở. Ra khỏi cửa thành bên đường có miễu thờ trời, ông Tu-đạt-đa vô miễu lễ cúng. Lúc đó trời tối lại như cũ, ông sanh lòng sợ sệt bèn muốn trở về nhà ngủ. Trên cửa thành có thiên thần bảo Tu-đạt-đa rằng: Nếu ông đến chỗ đức Như Lai thời sẽ được nhiều lợi ích lành tốt.
Ông Tu-đạt-đa thưa với thiên thần thế nào là lợi ích lành tốt?
Thiên thần đáp: Này Trưởng giả! Giả sử có người đem trăm xe châu báu vàng bạc cùng voi ngựa và mỹ nữ, nhà cửa chạm trổ tốt đẹp, mâm vàng đựng lúa bạc, mâm bạc đựng lúa vàng, mỗi thứ đều đủ số một trăm, đem tất cả những thứ trên đây bố thí cho một người, lần lượt bố thí khắp tất cả người trong Diêm-phủ-đề. Công đức bố thí này chẳng bằng có người phát tâm bước một bước đến chỗ Như Lai.
Tu-đạt-đa hỏi: Ngài là ai?
Đáp rằng: Này Trưởng giả! Tôi là Thắng Tướng Bà-la-môn, bạn cũ của ông. Lúc còn sống, tôi thấy ngài Xá-lợi-phất và ngài Mục-kiền-liên sanh lòng hoan hỷ cung kính, do đó được sanh làm thái tử của Tỳ-sa-môn thiên vương, có bổn phận hộ trì thành Vương Xá này. Chỉ do cung kính ngài Xá-lợi-phất và ngài Đại Mục-kiền-liên mà tôi còn được thân trời tốt đẹp thế này, huống là được thấy đức Như Lai để đảnh lễ cúng dường.
Trưởng giả Tu-đạt-đa liền thẳng đường đến chỗ Phật, từ xa thấy Phật đi kinh hành thân chiếu sáng màu vàng, ông liền đến đảnh lễ dưới chân Phật. Lúc đó đức Phật vì ông mà thuyết pháp. Sau khi nghe pháp, trưởng giả Tu-đạt-đa chứng đặng quả Tu-đà-hoàn. Ông lại thỉnh Phật đến thành Xá-vệ để giáo hóa mọi người.
Đức Phật hỏi: Nước Xá-vệ của ông có tinh xá có thể dung nạp giáo hội của ta chăng?
Tu-đạt-đa thưa: Nếu đức Phật xót thương hứa khả, tôi xin tận lực về nước lo xây dựng.
Ông lại bạch cùng Phật từ nào tới giờ tôi chưa hiểu cách thức kiến trúc tinh xá. Mong đức Phật cử một vị đến Xá-vệ chỉ bày cách thức cho.
Đức Phật liền sai ngài Xá-lợi-phất theo trưởng giả Tu-đạt-đa qua thành Xá-vệ.
Về đến Xá-vệ, trưởng giả Tu-đạt-đa thỉnh ngài Xá-lợi-phất chọn khu đất xứng đáng để lập tinh xá. Ngài Xá-lợi-phất chọn được khu vườn của Kỳ đà thái tử. Trưởng giả Tu-đạt-đa liền vào cung thưa với Thái tử xin nhường khu vườn ấy để mình lập tinh xá thỉnh Phật về ở.
Thái tử đáp rằng: Tôi không bán vườn, hoặc giả có đem vàng lót khắp mặt đất ta sẽ đổi cho.
Trưởng giả Tu-đạt-đa mừng rỡ thưa rằng: Khu vườn ấy sẽ thuộc về tôi, Thái tử sẽ lấy vàng.
Thái tử nói ta không bán vườn.
Trưởng giả Tu-đạt-đa thưa nếu thái tử không bằng lòng xin đến quan đoán sự để giải quyết.
Quan đoán sự phán rằng: Cứ theo lời của Thái tử và trưởng giả giao ước nhau thời vườn thuộc về Trưởng giả, Thái tử lấy vàng.
Trưởng giả Tu-đạt-đa liền cho voi ngựa chở vàng đến lót, trong một ngày lót gần khắp cả vườn chỉ còn năm trăm bước.
Thái tử nói: Nếu Trưởng giả hối hận thời tùy ý trả vườn lại tôi.
Trưởng giả thưa: Tôi chẳng hối hận, tôi đương suy nghĩ coi kho vàng nào đủ lót khoảnh đất còn lại.
Thái tử nghĩ rằng có lẽ đức Phật thật là đấng Pháp vương vô thượng, nên khiến ông này không tiếc vàng như vậy. Thái tử liền bảo trưởng giả Tu-đạt-đa thôi đừng đem vàng lót nữa, tôi xin dâng hết đất vườn, và tự xây dựng cửa ngõ lầu, để đức Như Lai thường do nơi đó mà ra vào.
Sau đó thái tử Kỳ-đà xây dựng cửa ngõ lầu. Trưởng giả Tu-đạt-đa trong bảy ngày dựng xong ba trăm căn phòng lớn, sáu mươi ba tòa thiền phòng tịch tịnh, cùng nhà mùa đông, nhà mùa hạ, nhà trù, nhà tắm, chỗ rửa chân, nhà đại tiểu tiện, tất cả cơ sở đều đầy đủ. Trưởng giả tay bưng lư hương quỳ hướng về thành Vương Xá mà bạch rằng: Tinh xá xây dựng đã xong, ngưỡng mong đức Như Lai xót thương vì chúng sanh mà nhận ở nơi tinh xá này.
Lúc đó đức Phật ở thành Vương Xá rõ biết tâm niệm của trưởng giả Tu-đạt-đa, liền cùng đại chúng rời thành Vương Xá đến nước Xá-vệ. Trưởng giả đem tất cả giường nhà đã xây dựng phụng thí nơi Phật. Phật nhận lấy rồi cùng chúng tăng ở lại tinh xá Kỳ Hoàn.
Lúc đó hàng lục sư ngoại đạo sanh lòng vật đố, họp nhau đến ra mắt vua Ba-tư-nặc mà tâu rằng: Tâu Đại vương, đất nước của Đại vương nhàn tịnh bằng thẳng, thật đáng chỗ cho người xuất gia ở tu, nên chúng tôi mới đến cư ngụ. Đại vương đem phép nước cai trị ngăn trừ sự tai hoạn cho nhân dân. Nay có Sa-môn Cù-đàm tuổi đã nhỏ, học lực lại kém, đạo thuật không có gì, nay đến ở nơi thành Xá-vệ này, dùng ảo thuật phỉnh gạt nhân dân, nói rằng các pháp đều vô thường, là khổ, là không, là vô ngã, là không tác giả, không thọ giả. Trong kinh của đạo chúng tôi có đoạn nói rằng qua khỏi ngàn năm có một người yêu thuật huyễn hóa ra đời. Lời trên đây chính là ứng chỉ Sa-môn Cù-đàm vậy. Cúi mong Đại vương cho phép chúng tôi cùng Sa-môn Cù-đàm so sánh đạo lực. Nếu Cù-đàm hơn chúng tôi, chúng tôi sẽ quy thuộc về Cù-đàm. Nếu chúng tôi hơn Cù-đàm, thời họ phải quy thuộc về chúng tôi.
Vua bảo: Này các Đại đức! Các ông đều có phương pháp tu hành riêng, có chỗ ở riêng. Tôi biết chắc rằng đức Như Lai không làm trở ngại các ông.
Sáu nhà ngoại đạo tâu rằng: Tâu Đại vương! Sa-môn Cù-đàm đối với chúng tôi có nhiều sự trở ngại, họ dùng ảo thuật gạt gẫm dụ dỗ nhân dân, làm cho mọi người quy phục theo họ đã hết. Xin Đại vương theo lẽ công bình cho phép chúng tôi cùng Sa-môn Cù-đàm so sánh đạo lực.
Vua nói: Này các Đại đức! Bởi các ông chưa biết đạo lực thần thông cao cả của đức Như Lai nên mới nài so sánh. Sợ rằng các ông chẳng bằng được.
– Tâu Đại vương! Nay có lẽ Đại vương đã mắc áo thuật của Sa-môn Cù-đàm. Ngưỡng mong Đại vương xét kỹ lại, chấp thuận lời yêu cầu của chúng tôi.
Được lắm! Được lắm! Ta chấp thuận lời yêu cầu của các ông.
Sáu nhà ngoại đạo cùng đồ chúng vui mừng tạ ơn vua mà lui về.
Vua Ba-tư-nặc liền xa giá đến lễ Phật và bạch rằng: Thế Tôn! Vừa rồi sáu nhà ngoại đạo yêu cầu tôi cho phép so đạo lực với đức Như Lai, tôi mạn phép đã hứa với họ.
Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này Đại vương! Chỉ có điều là nên ở trong nước này tạo lập thêm tinh xá. Vì nếu ta cùng họ so sánh đạo lực thần thông, thời trong chúng của họ tất sẽ có nhiều người quy phục theo ta, tinh xá Kỳ Hoàn này không đủ chỗ để dung nạp.
Lúc đó, đức Phật vì muốn điều phục sáu phải ngoại đạo, nên trong mười lăm ngày hiện đại thần thông. Vô lượng chúng sanh do đây mà phát tâm vô thượng Bồ-đề, vô lượng chúng sanh quy tín ngôi Tam bảo. Đồ chúng của sáu nhà ngoại đạo, vô lượng người bỏ tâm tà kiến, xuất gia theo chánh pháp. Vô lượng chúng sanh được bất thối đạo vô thượng Bồ-đề. Vô lượng chúng sanh được đà-la-ni cùng chánh định. Vô lượng chúng sanh chứng quả Tu-đà-hoàn đến quả A-la-hán.
Lúc đó sáu nhà ngoại đạo hổ thẹn dắt nhau qua thành Bà-chỉ-đa để truyền giáo.
Lúc đó, đức Phật lên cung trời Đao-lợi an cư nơi cây ba-lợi-chất-đa, để vì mẹ và chư thiên mà thuyết pháp.
Sáu nhà ngoại đạo hay tin mừng lắm, chia nhau di truyền rao rằng: Nay thật là hân hạnh, nhà ảo thuật Cù-đàm đã diệt mất.
Họ khuyến dụ vô số người tin theo tà kiến. Vua Tần-bà-sa-la, vua Ba-tư-nặc và bốn bộ chúng thưa ngài Đại Mục-kiền-liên rằng: Bạch Đại đức! Nay cõi Diêm phù đề này tà kiến thạnh hành, chúng sanh đi vào chỗ tối tăm, thật đáng thương xót. Ngưỡng mong Đại đức lên cung trời đảnh lễ Thế Tôn, thay lời chúng tôi bạch cùng đức Phật: Như con nghé mới sanh, nếu không nhờ sữa trâu mẹ chắc sẽ phải chết, chúng tôi và mọi người cũng như vậy. Ngưỡng mong đức Như Lai thương xót chúng sanh mà trở về.
Đại Mục-kiền-liên yên lặng hứa khả, như trong khoảng co duỗi cánh tay của đại lực sĩ, ngài đã lên đến cung trời Đao-lợi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Tứ chúng trong cõi Diêm phù đề khao khát được thấy Phật và được nghe pháp của đức Như Lai. Vua Tần-bà-sa-la, vua Ba-tư-nặc và đại chúng đồng đảnh lễ đức Như Lai. Hiện nay chúng sanh trong cõi Diêm phù-đề mê theo tà kiến, đi trong bóng tối tăm thật đáng thương xót, như con nghé mới sanh, nếu rời sữa mẹ chắc sẽ phải chết, chúng tôi cũng như vậy. Ngưỡng mong đức Như Lai vì thương xót chúng sanh mà trở lại Diêm phù đề.
Phật bảo: Ông mau trở về bảo các Quốc vương và bốn bộ chúng rằng sau bảy ngày đức Phật sẽ trở xuống. Vì sáu nhà ngoại đạo, đức Phật sẽ đến nơi thành Bà chỉ đa.
Qua bảy ngày, đức Phật cùng Đế-thích, Phạm vương, với vô lượng chư thiên rời cung trời xuống đến thành Bà-chỉ-đa. Đức Phật tuyên rằng: Chỉ trong Phật pháp mới thật có Sa-môn và Bà-la-môn. Tất cả các pháp là vô thường, vô ngã, Niết-bàn tịch tịnh, rời những lỗi ác, nếu nói giáo pháp khác cũng có Sa-môn và Bà-la-môn, có thường có ngã có Niết-bàn đó thời không bao giờ đúng.
Khi Phật tuyên những lời như trên, vô lượng vô biên chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Sáu nhà ngoại đạo bảo nhau rằng: Nếu trong giáo pháp của chúng ta thật không có Sa-môn và Bà-la-môn, tại sao lại được người đời cúng dường.
Bấy giờ sáu nhà ngoại đạo lại tựu hội đồ chúng đi đến thành Tỳ-xá-ly.
Một thời gian sau, đức Phật đến thành Tỳ-xá-ly ở trong rừng cây am-la.
Hay tin đức Phật ở trong rừng này, nàng Ama muốn đến ra mắt đức Phật.
Lúc đó đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Các ông phải quán tứ niệm xứ, khéo tu trí huệ, phải tinh tấn, chớ phóng dật.
Thế nào gọi rằng quán tứ niệm xứ? Nếu có thầy Tỳ-kheo quan sát trong thân mình chẳng thấy ngã chẳng thấy ngã sở, quan sát ngoài thân và quan sát cả trong thân ngoài thân, đều chẳng thấy có ngã và ngã sở. Quan sát thọ, tâm và pháp cũng như vậy. Đây gọi là quan sát niệm xứ.
Thế nào gọi là tu tập trí huệ? Nếu có thầy Tỳ kheo chân thật thấy tứ đế lý: khổ tập diệt đạo, đây gọi là thầy Tỳ-kheo tu tập trí huệ.
Thế nào gọi là tâm chẳng phóng dật? Nếu có thầy Tỳ-kheo niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Xả, niệm Thiên. Đây gọi là thầy Tỳ-kheo tâm chẳng phóng dật.
Bấy giờ nàng Am-la đến đảnh lễ và đi nhiễu Phật ba vòng, rồi ngồi qua một bên.
Đức Phật vì nàng Am-la mà giảng nói chánh pháp. Nàng Am-la sau khi nghe pháp liền phát tâm vô thượng Bồ-đề. Lúc đó, trong thành Tỳ-xá-ly, có năm trăm Lê-xa tử, đồng đến chỗ Phật đảnh lễ đi nhiễu, rồi ngồi qua một bên.
Đức Phật vì hàng Lê-xa tử mà thuyết pháp rằng: Này các thiện nam tử! Luận về người phóng dật có năm kết quả không tốt: một là chẳng được của cải tự tại, hai là tiếng xấu truyền xa, ba là chẳng thích bố thí cho người nghèo thiếu, bốn là chẳng thích thấy bốn bộ chúng, năm là chẳng đặng thân chư thiên. Này các thiện nam tử! Do nơi chẳng phóng dật có thể sanh ra pháp lành thế gian và xuất thế gian. Nếu có người muốn được vô thượng Bồ-đề nên phải siêng năng tu hạnh chẳng phóng dật.
Luận về người phóng dật lại còn có mười ba quả báo: một là thích vì đời mà làm lụng, hai là thích nói những lời vô ích, ba là thường thích nằm lâu ngủ nhiều, bốn là thích nói việc đời, năm là thích gần gũi bạn ác, sáu là thích biếng lười, bảy là thường bị người khác khinh dễ, tám là dầu có học hỏi liền quên mất, chín là thích ở nơi biên địa, mười là chẳng thể điều phục các căn, mười một là ăn chẳng biết đủ, mười hai là chẳng thích vắng vẻ, mười ba là chỗ thấy biết chẳng chân chánh.
Này các thiện nam tử! Luận về người phóng dật dầu được gần Phật và Thánh chúng, nhưng vẫn là cách xa.
Các Lê-xa tử bạch rằng: Chúng tôi tự biết mình là người phóng dật. Vì nếu chúng tôi chẳng phóng dật, đấng Như Lai pháp vương sẽ ra đời trong cõi nước của chúng tôi.
Lúc đó trong đại hội có nhà Bà-la-môn tên là Vô Thắng nói với các Lê-xa tử rằng: Phải lắm! Đúng như lời các ông nói. Vua Tần-bà-sa-la được lợi ích lớn, vì đức Như Lai Thế Tôn xuất hiện trong cõi nước đó. Như trong ao lớn mọc lên hoa sen đẹp, hoa sen dầu mọc trong nước, nhưng nước chẳng vấy lắm được.
Đức Phật cũng như vậy, dầu xuất hiện trong nước kia mà chẳng bị pháp thế gian làm trở ngại.
Chư Phật không có xuất nhập, nhưng vì chúng sanh mà xuất hiện ra đời, chẳng bị pháp thế gian làm trệ ngại.
Các ông tự mê tham đắm nơi ngũ dục, chẳng biết gần gũi đức Như Lai để nghe pháp, do đó nên gọi là hạng người phóng dật. Chẳng phải đức Phật xuất hiện nơi nước Ma-già-đà mà gọi các ông là người phóng dật. Vì đức Như Lai như mặt trời mặt trăng kia, chẳng phải vì một người hai người mà xuất hiện ra đời.
Năm trăm Lê-xa tử nghe ông Đức Vô Thắng Bà-la-môn nói những lời như trên, liền phát tâm vô thượng Bồ-đề. Đồng tiếng tán thán rằng: Lành thay! Lành thay! Vô Thắng đồng tử nói những lời rất lành, rất hay như vậy.
Các Lê-xa tử mỗi người cởi y đang đắp trên thân đem cúng thí cho Vô Thắng.
Vô Thắng nhận lấy đem dâng lên Phật, bạch rằng: Thế Tôn! Những y này tôi nhận lấy của hàng Lê-xa tử, xin dâng lên đức Thế Tôn. Ngưỡng mong đức Thế Tôn vì thương xót chúng sanh mà nạp thọ.
Đức Phật mở lòng từ bi liền lãnh lấy những y ấy.
Các Lê-xa tử đồng chắp tay bạch rằng ngưỡng mong đức Như Lai an cư nơi nước này một mùa, và nhận sự cúng dường của chúng tôi. Đức Phật yên lặng nhận lời thỉnh cầu của Lê-xa tử.
Lúc đó sáu nhà ngoại đạo nghe được việc này, thầy trò kéo nhau đi qua thành Ba-la-nại.
Đức Phật lại đi qua thành Ba-la-nại ở bên bờ sông Ba-la.
Nơi thành Ba-la-nại có vị trưởng giả tên là Bửu Xưng, ông này say mê ngũ dục, chẳng biết lý vô thường. Do Phật đến ở, trưởng giả Bửu Xưng tự nhiên chứng được bạch cốt quán: tự thấy nhà cửa, điện đường, vợ con, quyến thuộc, tôi tớ, đều toàn là những bộ xương trắng. Lòng ông kinh sợ như sợ dao, rắn độc, giặc cướp, lửa. Ông liền ra khỏi nhà, thẳng đến chỗ Phật, dọc đường luôn miệng kêu rằng: Sa-môn Cù-đàm! Nay tôi như là bị giặc rượt đuổi, lòng tôi quá kinh sợ, xin mau cứu tôi!
Phật bảo Trưởng giả: Này thiện nam tử! Phật pháp và chúng tăng vẫn an ổn, không sự lo sợ.
Trưởng giả bạch rằng: Nếu trong Tam bảo không sự kinh sợ, nay tôi cũng sẽ được không kinh sợ.
Đức Phật liền cho Trưởng giả xuất gia tu hành. Trưởng giả này lại có năm mươi người bạn thân, nghe tin trưởng giả Bửu Xưng nhàm chán dục lạc trong đời mà xuất gia, liền cùng nhau đồng xuất gia.
Sáu nhà ngoại đạo nghe việc này, liền dắt đồ chúng đi qua thành Chiêm-bà.
Lúc đó tất cả nhân dân trong nước Chiêm-bà đều cùng nhau phụng sự sáu nhà ngoại đạo, họ chưa từng nghe danh hiệu của Phật, Pháp, Tăng, phần đông gây tạo những nghiệp rất ác.
Đức Phật vì chúng sanh nên lại đi qua thành Chiêm-bà.
Trong thành này có vị đại trưởng giả không con nối giòng, bèn phụng thờ sáu nhà ngoại đạo để cầu con. Thời gian sau vợ trưởng giả có thai. Trưởng giả vui mừng đến thưa với sáu nhà ngoại đạo: Vợ tôi có thai là nam hay nữ?
Sáu nhà ngoại đạo đá: Chắc chắn sẽ sanh con gái.
Trưởng giả nghe lời này sanh lòng sầu não. Thân hữu hỏi trưởng giả: Cớ sao ông quá sầu não như vậy?
Trưởng giả đáp: Vợ tôi có thai chưa biết là nam hay nữ nên tôi đến hỏi lục sư, các ngài bảo chắc chắn là con gái. Tôi tự nghĩ tuổi đã già, sự nghiệp to lớn, tài sản vô lượng. Nếu không phải con trai thời không người giao phó. Do đây nên tôi sầu não.
Thân hữu nói rằng: Ông không có trí huệ, ngày trước ông cũng đã nghe rằng ba anh em Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp là đệ tử của ai? Đệ tử của Phật hay đệ tử của lục sư? Nếu lục sư là bậc nhất thiết trí, sao ba anh em Ca-diếp bỏ họ mà làm đệ tử của Phật? Lại Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, các vị quốc vương như Tần-bà-sa-la, các vị phu nhân như bà Mạt-lợi, các vị đại trưởng giả như ông Tu-đạt-đa, những người ấy chẳng phải là đệ tử của Phật ư?
Khoáng dã quỷ thần, vua A-xà thế, voi say, Ương-quật-ma-la ác tâm muốn hại mẹ, những người này há chẳng phải nhờ đức Phật điều phục ư?
Đức Như Lai Thế Tôn biết rõ tất cả pháp không bị chướng ngại nên hiệu là Phật. Lời nói ra duy nhất, không dời đổi, nên hiệu là Như Lai. Dứt hết phiền não nên gọi là A-la-hán. Đức Thế Tôn phàm có nói ra trọn không sai. Lục sư chẳng phải như vậy, đâu đáng tin được.
Nay đức Như Lai đang ở nước này gần nơi đây, nếu ông muốn biết sự thật thời nên đến Phật.
Lúc đó Trưởng giả cùng thân hữu đến chỗ Phật đảnh lễ đi nhiễu ba vòng, rồi quỳ chắp tay bạch rằng: Đức Thế Tôn đối với chúng sanh bình đẳng không oán không thân. Tôi còn bị tham ái ràng buộc, nay muốn hỏi đức Thế Tôn một việc, nhưng tự mình hổ thẹn chưa dám nói ra.
Bạch Thế Tôn! Vợ tôi có thai, lục sư bảo rằng chắc chắn là con gái. Xin đức Phật phán việc ấy thế nào?
Phật nói: Này Trưởng giả, vợ ông có thai quyết định là trai, đứa trẻ này sau khi sanh ra thời phước đức không ai bằng.
Trưởng giả nghe lời Phật dạy vui mừng làm lễ tạ đức Phật mà trở về nhà.
Sáu nhà ngoại đạo nghe Phật huyền ký vợ Trưởng giả quyết định sẽ sanh con trai có phước đức lớn, lòng họ ganh ghét, họ liền lấy trái am-la tẩm thuốc độc, rồi mang đến nhà biếu Trưởng giả mà nói rằng: Tốt thay! Ông Cù-đàm bàn điều ấy rất hay. Gần ngày sanh vợ ông nên uống thuốc này sẽ bảo đảm cho mẹ cùng con lúc sanh sản không bệnh hoạn.
Trưởng giả mừng lắm nhận lấy thuốc của lục sư cho vợ uống. Uống xong vợ Trưởng giả trúng độc mà chết.
Lục sư vui mừng chia nhau đi khắp trong thành truyền rao rằng: Sa-môn Cù-đàm tự khoe là nhất thiết trí, nói vợ Trưởng giả sẽ sanh con trai phước đức không ai sánh bằng, nay con chưa sanh mà mẹ đã chết.
Trưởng giả lại đối với Phật mất cả lòng tin. Ông liền theo nghi lễ thế gian tẩn liệm thây vợ, rồi đưa ra ngoài thành chất củi để thiêu.
Do đạo nhãn thấy rõ việc này, đức Phật bảo A-nan đem y đến cho Phật đắp và bảo rằng: Ta muốn đến chỗ hỏa táng để trừ dứt tà kiến cho chúng sanh.
Lúc đó Tỳ-sa-môn thiên vương bảo thiên tướng là Na-ni-bạt-đà rằng: Nay đức Như Lai muốn đến khu gò mả, khanh phải mau đến đó sửa sang quét tước trải tòa sư tử, rải những hoa đẹp hương thơm, trần thiết trang nghiêm chỗ ấy.
Lục sư thấy Phật đàng xa đi đến họ bảo nhau rằng: Sa-môn Cù-đàm đến trong gò mả này hoặc giả muốn ăn thịt ư?
Lúc bấy giờ nơi ấy có nhóm Ưu-bà-tắc chưa chứng được pháp nhãn, nghe lời nói của lục sư thời đều hổ thẹn cùng nhau đón Phật bạch rằng: Vợ của Trưởng giả đã chết, xin Thế Tôn chớ đến đó.
A-nan liền nói với các vị Ưu-bà-tắc: Các ông chờ giây lát, đức Như Lai sẽ hiển bày cảnh giới của chư Phật.
Phật đến gò mả lên ngồi tòa Sư tử.
Trưởng giả đến trước Phật trách rằng: Bậc nhất thiết trí lời nói ra đúng sự thật không sai mới đáng gọi là Thế Tôn. Nay mẹ thời đã chết mất làm sao sanh được con trai phước đức?
Phật bảo Trưởng giả: Hôm trước ông chẳng hỏi tôi về sự chết sống của bà mẹ. Chỉ hỏi có thai là trai hay gái. Chư Phật Như Lai phàm lời nói ra đúng thật không sai, do đây nên phải biết rằng ông quyết định sẽ được con trai phước đức.
Lúc đó lửa thiêu tử thi bụng nứt ra, có đứa trẻ trai từ trong bụng lọt ra ngồi ngay thẳng trong lửa như chim oan ương đậu trên gương sen.
Lục sư ngó thấy lại to tiếng la lên rằng: Sa-môn Cù-đàm là yêu quái khéo làm ảo thuật.
Trưởng giả vui mừng quở trách lục sư: Nếu cho là ảo thuật tại sao các ông chẳng làm?
Phật liền bảo Kỳ-bà: Ông vào trong lửa bồng đứa bé lại đây.
Kỳ-bà đi đến gần đống lửa, lục sư lật đật đi đến kéo lại nói rằng: Sa-môn Cù-đàm làm ảo thuật chưa ắt là luôn được hoàn toàn, nếu ông vào trong lửa e không khỏi bị hại. Sao ông lại quá tin lời của Cù-dàm?
Kỳ-bà đáp rằng: Giả sử đức Như Lai ra vào địa ngục A-tỳ, lửa dữ trong địa ngục còn không đốt cháy được huống là lửa trong thế gian.
Lúc đó Kỳ-bà đi thẳng vào trong đống lửa như vào trong nước mát mẻ, bồng đứa trẻ trở ra đến chỗ Phật, hai tay trao đứa trẻ cho Phật.
Đức Phật tiếp lấy đứa trẻ mà bảo Trưởng giả rằng: Tất cả chúng sanh thọ mạng chẳng quyết định như bóng nước nổi trên mặt nước. Nếu chúng sanh có nghiệp quả sâu nặng thời lửa chẳng cháy được, độc chẳng hại được. Phước đức của trẻ này chẳng phải là ta làm ra.
Trưởng giả bạch rằng:Lành thay! Bạch Thế Tôn! Ngưỡng mong đức Như Lai đặt tên cho nó.
Đức Phật nói: Này Trưởng giả! Trẻ này sanh ở trong đống lửa lớn, lửa gọi là thọ đề, nên đặt tên cho nó là Thọ đề.
Lúc đó quần chúng hiện diện nghe và thấy việc này vô lượng người phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Sau đó sáu nhà ngoại đạo kéo nhau đi khắp cả sáu nước lớn không chỗ nào ở yên được, họ lại đến nơi thành Câu-thi-na, họ chia nhau đi truyền rao rằng: Mọi người nên biết rằng Sa-môn Cù-đàm là nhà đại ảo thuật, phỉnh gạt trong thiên hạ khắp hết sáu nước lớn. Như nhà ảo thuật hóa làm bốn đạo binh chiến xa, chiến mã, voi trận, bộ binh. Lại biến hóa làm các thứ châu báu, cung điện, thành trì, sông ngòi, cây cối. Sa-môn Cù-đàm cũng như vậy, huyễn hóa làm ra thân vua để thuyết pháp, hoặc biến làm Sa-môn, Bà-la-môn, biến làm thân nam người nữ, thân nhỏ thân lớn, hoặc biến làm thân súc sanh quỷ thần, hoặc nói vô thường, hoặc nói thường trụ, có lúc nói là khổ, có lúc nói là vui, hoặc nói có ngã, hoặc nói không ngã, có tịnh, không tịnh, lúc thời nói có lúc lại nói không, đó là những lời hư vọng nên gọi là ảo thuật.
Như nhân hột giống mà có trái, Sa-môn Cù đàm cũng như vậy, do bà Ma-da sanh ra, mẹ đã là huyễn ảo thời con không thể chẳng phải là huyễn ảo. Sa-môn Cù-đàm không có tri kiến chân thật. Các vị Bà-la-môn trải qua nhiều năm tu tập khổ hạnh giữ gìn cấm giới còn tự nói rằng chưa có tri kiến chân thật. Huống là Cù-đàm tuổi còn trẻ, học lực cạn cợt, chẳng tu khổ hạnh, làm sao có được tri kiến chân thật, nếu có thể khổ hạnh đủ bảy năm còn chẳng phải là nhiều, huống là Cù-đàm tu tập khổ hạnh chẳng đầy sáu năm. Có người ngu vô trí mới tin học theo giáo pháp của Cù đàm. Như nhà huyễn thuật phỉnh gạt người ngu, Sa-môn Cù-đàm cũng như vậy.
Sáu nhà ngoại đạo ở trong thành Câu-thi-na này làm cho chúng sanh thêm nhiều tà kiến.”
Phật bảo Sư Tử Hống Bồ-tát: “Ta thấy việc như vậy sanh lòng xót thương, nên dùng thần lực triệu thỉnh các vị Bồ tát ở mười phương vân tập trong rừng này chật cả bốn mươi do-diên. Nay ở nơi đây ta hiện đại sư tử hống.
Ở nơi chỗ trống trải vắng vẻ dầu có thuyết pháp nhiều cũng chẳng được gọi là sư tử hống. Ở trong đại chúng toàn bậc trí huệ như đây mà thuyết pháp mới được gọi là chân thật đại sư tử hống.
Sư tử hống là thuyết minh tất cả pháp đều vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Chỉ nói Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lục sư lại nói rằng: Nếu Cù-đàm có ngã ta cũng có ngã. Chỗ nói là ngã đó, cái thấy gọi là ngã.
Này Cù-đàm! Ví như có người hướng trong đây thấy đồ vật, ngã cũng như vậy. Hướng là dụ cho con mắt, người thấy dụ cho ngã.
Phật bảo lục sư: Nếu nói cái thấy gọi là ngã, thời không đúng nghĩa. Vì điều dụ của các ông vừa dẫn ra nhân hướng mà thấy, người ở một hướng, sáu căn đều có tác dụng. Nếu quyết định có ngã nhân nơi con mắt mà thấy, sao lại chẳng như trong một nhãn căn kia đều nhận biết các trần cảnh? Nếu trong một căn chẳng thể đồng thời nghe cả sáu trần, phải biết rằng đó là không có ngã. Điều dụ hướng thấy vật, dầu trải qua trăm năm, người thấy nhân nơi đó chỗ thấy vẫn không khác. Nhãn căn nếu như vậy, đến lúc tuổi già mắt kém lẽ ra không khác. Người cùng hướng khác nhau, thấy trong thấy ngoài, nhãn căn nếu như vậy lẽ ra cũng trong ngoài đồng một thời đều thấy. Nếu là chẳng thấy, sao lại có ngã.
Lục sư lại nói rằng: Này Cù-đàm! Nếu không có ngã, thời ai có thể thấy?
Phật nói: Có sắc, có ánh sáng, có tâm, có nhãn căn, bốn duyên này hòa hiệp nên gọi là có thấy. Trong đây thật không có người thấy người thọ. Vì điên đảo nên chúng sanh cho là có người thấy có kẻ thọ. Do nghĩa này nên tất cả chúng sanh chỗ thấy biết đều điên đảo, chỗ thấy biết của chư Phật và Bồ-tát là chân thật.
Này lục sư! Nếu nói rằng sắc là ngã thời cũng chẳng phải. Vì sắc thật cũng chẳng phải là ngã. Sắc nếu là ngã lẽ ra chẳng nên có hình dạng xấu xa. Cớ sao lại có bốn tánh sai khác, chẳng đồng một giòng Bà-la-môn ư? Sao lại có kẻ nô lệ chẳng tự do? Có người tàn tật, lúc sanh ra căn thân chẳng đầy đủ? Cớ sao chẳng làm thân chư thiên, mà lại thọ thân địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ? Nếu chẳng có thể tùy ý để làm ra thân, nên biết rằng quyết định là không có ngã. Do vì không ngã nên gọi là vô thường. Vì vô thường nên phải khổ. Vì khổ nên là rỗng không. Vì rỗng không nên điên đảo. Vì điên đảo nên tất cả chúng sanh lưu chuyển trong vòng sanh tử.
Như sắc, thọ tưởng hành và thức cũng vậy.
Này lục sư, đức Như Lai Thế Tôn dứt hẳn sự ràng buộc của sắc cũng như dứt hẳn sự ràng buộc của thức v.v… vì thế nên Như Lai gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lại sắc chính là nhân duyên. Nếu đã là nhân duyên thời gọi là vô ngã. Nếu là vô ngã thời gọi là khổ không.
Thân của Như Lai chẳng phải nhân duyên. Vì chẳng phải nhân duyên nên gọi là có ngã. Nếu có ngã thời chính là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lục sư lại nói: Này Cù-đàm! Sắc chẳng phải ngã nhẫn đến thức cũng chẳng phải ngã, thế thì ngã khắp tất cả chỗ như hư không.
Phật nói: Nếu khắp mọi chỗ đều có ngã, thời lẽ ra chẳng nên nói rằng trước kia tôi chẳng thấy. Nếu trước kia chẳng thấy, thời biết rằng sự thấy này trước không nay có, nên gọi là vô thường. Nếu gọi là vô thường sao lại nói là khắp được.
Nếu ngã là khắp tất cả chỗ đều có, lẽ ra phải có đủ tất cả thân trong năm loài. Nếu có đủ thân, thời lẽ ra đều thọ báo. Nếu đã đều thọ báo, sao lại nói rằng trở lại thọ thân người thân trời…?
Các ông nói ngã là khắp đó, thời ngã là một hay là nhiều?
Ngã nếu là một thời lẽ ra không có cha con, kẻ thù người thân. Ngã nếu là nhiều, căn thân của tất cả chúng sanh lẽ ra đều đồng như nhau, bao nhiêu những việc làm và trí huệ lẽ ra cũng đồng như vậy, nếu đồng như nhau, sao lại nói rằng có người thân căn đầy đủ, có người thiếu kém tàn tật, nghiệp lành nghiệp ác, kẻ ngu người trí khác nhau?
– Này Cù-đàm! Ngã của chúng sanh không có ngằn mé, pháp cùng phi pháp thời có chừng ngắn. Chúng sanh thật hành đúng pháp thời được thân tốt đẹp. Nếu chúng sanh thật hành phi pháp thời mang thân xấu xa. Do nghĩa này nên nghiệp quả của chúng sanh chẳng được không sai khác.
Này lục sư! Nếu pháp cùng phi pháp là như vậy thời ngã chẳng cùng khắp. Nếu ngã là cùng khắp thời lẽ ra đều đến tất cả. Nếu ngã đều đến tất cả thời người thật hành pháp lành lẽ ra cũng có ác, người thật hành điều ác lẽ ra cũng có lành. Nếu không như vậy sao lại nói rằng ngã là cùng khắp.
– Này Cù-đàm! Như trong một nhà thắp trăm ngàn ngọn đèn, mỗi ngọn đèn tự chiếu sáng chẳng trở ngại nhau. Ngã của chúng sanh cũng như vậy, thật hành điều lành điều ác chẳng xen lộn nhau.
– Này lục sư! Nếu các ông nói rằng ngã như ngọn đèn thời không đúng nghĩa. Vì ánh sáng ngọn đèn kia theo duyên mà có, ngọn đèn thêm lớn thời ánh sáng cũng thêm nhiều. Ngã của chúng sanh chẳng phải như vậy. Ánh sáng từ ngọn đèn chiếu ra, chỗ của ánh sáng khác chỗ với ngọn đèn. Ngã của chúng sanh chẳng được từ nơi thân mà ra ở nơi chỗ khác. Ánh sáng của ngọn đèn kia ở chung chỗ với bóng tối, vì như trong căn nhà tối, lúc thắp một ngọn đèn chiếu chẳng sáng tỏ, thắp nhiều ngọn đèn thời được tỏ sáng. Nếu ngọn đèn ban đầu phá hết bóng tối thời lẽ ra chẳng cần đến ngọn đèn sau. Nếu cần phải nhờ ngọn đèn sau mới hết bóng tối, thời nên biết rằng ánh sáng của ngọn đèn ban đầu cùng ở chung chỗ với bóng tối.
– Này Cù-đàm! Nếu là không có ngã thời ai làm lành làm ác?
– Nếu là ngã tạo tác thời sao lại gọi là thường? Nếu ngã là thường, tại sao có lúc làm lành, có lúc lại làm ác? Nếu cho rằng có lúc làm lành, có lúc làm ác, tại sao lại nói rằng ngã không ngằn mé. Nếu là ngã tạo tác, cớ chi lại tập làm điều ác. Nếu như ngã là tác giả, là tri giả, cớ chi lại sanh nghi rằng chúng sanh không có ngã.
Do nghĩa trên đây nên biết rằng trong pháp của ngoại đạo quyết định không có ngã. Nếu nói là ngã, thời nên biết rằng chính là đức Như Lai, vì thân Như Lai không ngằn mé, không ngờ vực, chẳng làm chẳng thọ, nên gọi là thường trụ. Như Lai bất sanh bất diệt nên gọi là lạc, vì Như Lai không có phiền não nên gọi là tịnh, không có mười tướng nên gọi là không. Do đây nên Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh, rỗng rang không có các tướng.
Các nhà ngoại đạo nói rằng: Nếu nói Như Lai là thường lạc ngã tịnh, vì không có tướng nên là không, phải biết rằng giáo pháp của Cù-đàm nói ra thời chẳng phải là không vậy. Vì thế nên nay chúng ta phải cung kính thọ trì.
Lúc đó trong hàng ngoại đạo có vô lượng người sanh lòng kính tin xuất gia theo Phật pháp.”
Phật bảo Sư Tử Hống Bồ-tát: “Này thiện nam tử! Do nhân duyên nên ta ở nơi rừng ta-la song thọ này hiển bày đại sư tử hống. Sư tử hống gọi là đại Niết-bàn.
Ý thứ ba, ngày xưa lục sư ngoại đạo cố tình muốn tìm mọi cách phỉ báng Phật, chúng cố ngăn Phật ở đâu thì Phật đến đó để giáo hóa, phá những tà kiến. Cuối cùng chúng chạy về thành Câu-thi-na và bị hàng phục tại đây nên bây giờ đức Phật đến thành này nhập Niết-bàn.
Chúng ngoại đạo chấp có ngã là thường trụ, khi trở về với Phạm thiên thì đầy khắp. Phật phá ngã này. Nếu chấp thấy nghe hiểu biết, suy nghĩ là ngã thì đó đều là sanh diệt chứ không phải thường trụ.
Chúng ngoại đạo ví dụ có người chỉ hướng, chỉ chỗ cho mình thấy cây hay đồ vật, người chỉ như con mắt, cái thấy như ngã ở trong mắt. Con mắt bên ngoài, còn ngã ở bên trong, ngã là thường trụ. Phật nói nếu ngã là thường trụ thì lẽ ra lành thì lành luôn, dữ thì dữ luôn. Tại sao có khi làm lành, có khi làm dữ, như vậy nói ngã thường trụ là không đúng. Nếu nói ngã biến khắp, có khi thấy, khi khác không thấy, như vậy ngã không phải biến khắp. Phật nói vô ngã để phá cái chấp của ngoại đạo. Đến khi đạt được đại Niết-bàn không còn sanh diệt được thường lạc ngã tịnh, đó mới là ngã chân thật. Còn chấp cái ngã vô thường thì đều sai lầm.
Này thiện nam tử! Cặp cây bên hướng đông tiêu biểu rằng phá vô thường mà được thường trụ. Cặp cây bên hướng nam tiêu biểu rằng phá khổ mà được lạc. Cặp cây bên hướng tây tiêu biểu rằng phá vô ngã mà được chân ngã. Cặp cây bên hướng bắc tiêu biểu rằng phá bất tịnh mà được chân tịnh.
Này thiện nam tử! Chúng sanh trong đây vì bốn cặp cây song thọ nên bảo hộ rừng ta-la, chẳng cho người ngoài đến bẻ nhánh hái lá đốt chặt phá hoại. Ta cũng như vậy, vì bốn pháp thường, lạc, ngã, tịnh, nên khiến hàng đệ tử hộ trì Phật pháp.
Bốn cặp song thọ này bốn đại vương quản trị săn sóc. Ta vì bốn đại vương hộ trì chánh pháp của ta, nên ta ở trong đây mà nhập Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Bốn cặp cây ta-la này bông trái thường sum suê, thường có thể lợi ích cho vô lượng chúng sanh. Ta cũng như vậy, thường có thể lợi ích cho vô lượng Thanh văn Duyên giác. Bông dụ cho ngã, trái dụ cho lạc. Do nghĩa này nên ta ở trong rừng cây ta la song thọ nhập đại tịch diệt. Đại tịch diệt đây gọi là đại Niết-bàn.”
Ý thứ tư, tại rừng ta-la bốn hướng có bốn cặp cây, một gốc lên hai cây nên gọi là song thọ, tiêu biểu cho thường lạc ngã tịnh, nên Phật vào đó nhập Niết-bàn.
Đó là bốn ý chính để trả lời Bồ-tát Sư Tử Hống.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Cớ gì đức Như Lai nhập Niết-bàn trong tháng hai?”
“Này thiện nam tử! Tháng hai gọi là mùa xuân, tháng mùa xuân muôn vật đều sanh trưởng, gieo trồng cây cối, bông trái tươi tắn xinh đẹp, sông rạch đầy nước, trăm thú sanh sản, do đây nên chúng sanh phần nhiều có quan niệm là thường là vui.
Vì phá quan niệm cho là thường như vậy, nên ta nói tất cả pháp đều là vô thường, chỉ nói đức Như Lai là thường trụ chẳng biến đổi.
Này thiện nam tử! Ở trong ba mùa sáu tiết, mạnh đông cây cối khô héo, mọi người chẳng ưa thích. Mạnh xuân hòa ấm mọi người tham ưa. Vì phá sự tham ưa thế gian của chúng sanh nên ta diễn nói thường, lạc, ngã, tịnh. Đức Như Lai vì phá thế ngã, thế tịnh, nên nói Như Lai là chân thật ngã tịnh.
Nói tháng hai là dụ cho hai thứ pháp thân của Như Lai.
Mùa đông chẳng ưa thích, là người trí chẳng thích Như Lai vô thường nhập Niết-bàn. Tháng hai mùa xuân vui thích, là dụ cho người trí ưa thích Như Lai thường, lạc, ngã, tịnh. Gieo trồng dụ cho chúng sanh nghe pháp vui mừng phát tâm vô thượng Bồ-đề, vun trồng các căn lành. Sông rạch là dụ cho các đại Bồ-tát ở mười phương đến chỗ ta nghe học kinh Đại Niết-bàn.
Trăm thú sanh sản là dụ cho hàng đệ tử của ta sanh các căn lành.
Bông là dụ cho bảy giác chi. Trái là dụ cho bốn đạo quả.
Do những nghĩa này, nên ta nhập Niết-bàn trong tháng hai.”
Phật giải thích tháng hai là đầu mùa xuân. Mùa xuân thì xinh tươi, đẹp đẽ. Tháng hai cũng chỉ pháp thân của Phật. Mùa đông lạnh lẽo, không ưa thích, mùa xuân ấp ám nên người trí thích. Người trí thì thích thường lạc ngã tịnh mà gieo trồng Bồ-đề, nên ngài nhập tháng hai. Trong đây có chỗ dịch là mạnh đông, mạnh đông là đầu mùa đông.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Đức Như Lai lúc sơ sanh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân đều ở vào ngày mùng tám, cớ chi riêng nhập Niết-bàn ở đêm rằm?”
Phật bảo: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Như mặt trăng rằm tròn đầy không khuyết, chư Phật Như Lai cũng như vậy, nhập đại Niết bàn không có kém khuyết. Vì thế nên Như Lai nhập đại Niết-bàn vào đêm rằm.
Này thiện nam tử! Như đêm rằm, lúc mặt trăng tròn có mười một điều: một là phá tối tăm, hai là khiến chúng sanh thấy rõ đường sá, ba là khiến chúng sanh thấy đường ngay đường cong, bốn là trừ nóng nực được mát mẻ, năm là phá lòng cao ngạo của lửa đom đóm, sáu là dứt tất cả tưởng niệm trộm cướp, bảy là trừ lòng sợ ác thú của chúng sanh, tám là có thể làm cho hoa sen xanh nở, chín là làm cho hoa sen búp lại, mười là dẫn phát lòng tiến lên của kẻ đi đường, mười một là làm cho chúng sanh thích ngũ dục được nhiều khoái lạc.
Như Lai cũng như vậy: một là phá hoại vô minh; hai là diễn thuyết chánh pháp, tà pháp; ba là chỉ bày sanh tử là tà hiểm, Niết-bàn là bằng thẳng; bốn là làm cho người xa lìa phiền não tham sân si; năm là phá hoại ánh sáng của ngoại đạo; sáu là phá hoại giặc kiết sử; bảy là trừ tâm lo sợ ngũ cái; tám là làm nảy nở lòng vun trồng căn lành của chúng sanh; chín là che trùm tâm ngũ dục của chúng sanh; mười là phát khởi hạnh tiến tu công hạnh đại Niết-bàn cho chúng sanh; mười một là làm cho chúng sanh thích tu hạnh giải thoát.
Do đây nên ta nhập đại Niết-bàn vào ngày rằm. Dầu vậy, nhưng thật ra ta chẳng có nhập đại Niết-bàn. Trong hàng đệ tử của ta, những kẻ ngu si, kẻ ác cho rằng Như Lai quyết định nhập Niết-bàn.
Ngài Sư Tử Hống hỏi, tại sao Phật sanh ra, xuất gia, thành đạo đều vào đêm mùng tám, bây giờ nhập Niết-bàn vào đêm rằm. Phật giải thích đêm rằm mặt trăng tròn đầy không kém khuyết, Như Lai nhập Niết-bàn cũng hoàn toàn tròn đầy không kém khuyết. Phật kể mười mấy lợi ích của mặt trăng tròn, ngài hợp pháp với sự nhập Niết-bàn của ngài cũng phá hoại những xấu xa của chúng sanh như những ví dụ kia vậy. Nhưng thật ra Phật không nhập Niết-bàn, những người ngu si, kẻ ác cho rằng Như Lai quyết định nhập Niết-bàn.
Như bà mẹ kia có đông con. Một hôm bà mẹ bỏ đi đến nước khác, trong thời gian chưa trở về, các con đều nói rằng mẹ đã chết mất, nhưng thật ra bà mẹ này không chết.”
Nếu hỏi bây giờ Phật ở đâu, chúng ta trăm người như một đều nói Phật đã nhập Niết-bàn. Như vậy thì bị Phật quở là kẻ ngu si, kẻ ác. Đại sư Trí Khải tụng kinh Pháp Hoa, đến phẩm Dược Vương Dược Thượng, ngài liền nhập định và thấy Phật còn đang giảng kinh Pháp Hoa trên hội Linh Sơn. Vậy Phật nhập Niết-bàn hay còn thuyết kinh ở hội Linh Sơn?
Phật thường nói người trí thấy đạo thì lúc nào cũng thấy Phật, còn người ngu si ác nói Phật nhập Niết-bàn vì thấy Phật qua thân tứ đại, nhưng Phật không phải là thân tứ đại. Phật là giác, tứ đại rã nhưng giác không rã. Phật ví dụ bà mẹ đông con, bỏ đến nước khác, những người con nghĩ mẹ đã chết nhưng bà không chết. Phật hết duyên đi chỗ khác giáo hóa, chúng ta không gặp nữa, nói Phật Niết-bàn rồi. Nếu tưởng Phật nhập Niết-bàn là hết thì không nên tu làm gì cho uổng công tu, đến chết cũng mất tiêu. Chúng ta phải biết rõ tứ đại có còn mất, chứ tánh giác, trí tuệ không phải mất hết, đó là nghĩa gần. Nghĩa xa, pháp thân không bao giờ mất, nên chúng ta tu để giác ngộ rồi tùy duyên mà ứng hóa.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Hạng Tỳ-kheo nào có thể trang nghiêm rừng ta-la song thọ này?”
“Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ-kheo nào thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, văn nghĩa đúng, thông đạt thâm nghĩa, giải thuyết cho mọi người, chỗ thuyết pháp trước sau giữa đều lành hay, vì muốn lợi ích cho vô lượng chúng sanh mà diễn thuyết Phạm hạnh. Tỳ-kheo này có thể trang nghiêm rừng ta-la song thọ.”
“Bạch Thế Tôn! Như chỗ tôi hiểu nghĩa của đức Phật vừa dạy, thời Tỳ-kheo A-nan chính là người trang nghiêm vậy. Vì A-nan thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, vì đại chúng mà khai thị diễn thuyết, lời cùng nghĩa đều chân chánh. Như đem nước rót vào bình, A-nan cũng như vậy, đúng như chỗ đã nghe nơi đức Phật đem diễn thuyết lại cho mọi người.”
“Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ-kheo đặng thiên nhãn thanh tịnh, thấy đại thiên thế giới ở mười phương như thấy trái am-ma-lặc trong bàn tay, Tỳ-kheo này cũng có thể trang nghiêm rừng ta-la song thọ.”
“Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời Tỳ-kheo A-nậu-lâu-đà chính là người trang nghiêm, vì A-nậu- lâu-đà có thiên nhãn thấy rõ đại thiên thế giới, tất cả những loài những vật cho đến thân trung ấm đều thấy rõ ràng không chướng ngại.”
“Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ-kheo thiểu dục tri túc, tâm thích tịch tịnh, siêng tu tinh tấn chánh niệm, chánh định, chánh huệ, giải thoát, Tỳ-kheo này có thể trang nghiêm rừng ta-la song thọ.”
“Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời Tỳ-kheo Đại Ca-diếp chính là người trang nghiêm, vì Đại Ca-diếp khéo tu những công hạnh thiểu dục tri túc v.v….”
“Này thiện nam tử! Nếu Tỳ-kheo vì lợi ích chúng sanh chẳng vì lợi dưỡng mà tu tập thông đạt Vô tránh tam-muội, thánh hạnh, không hạnh, Tỳ-kheo này thời có thể trang nghiêm rừng ta-la song thọ.”
“Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời Tỳ-kheo Tu-bồ-đề chính là người trang nghiêm. Vì Tu-bồ-đề khéo tu tập hạnh vô tránh, thánh hạnh, không hạnh.”
“Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ-kheo khéo tu tập thần thông, trong khoảng một niệm có thể hiện các thứ thần thông biến hóa, một tâm một định có thể hiện làm hai thứ là nước với lửa, Tỳ-kheo này thời có thể trang nghiêm rừng ta-la song thọ.”
“Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời Tỳ-kheo Đại Mục-kiền-liên chính là người trang nghiêm. Vì Đại Mục-kiền-liên khéo tu thần thông biến hóa vô lượng”
“Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ-kheo tu tập đại trí, lợi trí, tập trí, giải thoát trí, thậm thâm trí, quảng trí, vô biên trí, vô thắng trí, thật trí, thành tựu đầy đủ trí huệ như vậy, tâm bình đẳng đối với người thân kẻ thù, nghe đức Như Lai nhập Niết-bàn chẳng lo buồn, nếu nghe Như Lai thường trụ chẳng nhập Niết-bàn cũng chẳng mừng rỡ, Tỳ-kheo này thời có thể trang nghiêm rừng ta-la song thọ.”
“Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời Tỳ-kheo Xá-lợi-phất chính là người trang nghiêm. Vì Xá lợi phất khéo thành tựu đầy đủ đại trí huệ như vậy.”
Ta-la song thọ là đại Niết-bàn. Phật tuần tự nêu đức tánh của những người có thể trang nghiêm rừng ta-la song thọ. Những đức tánh này, những đại đệ tử của Phật đều có. Ban đầu là người đa văn học rộng có thể trang nghiêm, thì Bồ-tát Sư Tử Hống kết luận là ngài A-nan. Người được thiên nhãn thanh tịnh, như ngài A-nậu-lâu-đà.
Kế là thiểu dục tri túc… như ngài Đại Ca-diếp. Được Không tam-muội, Vô tránh tam-muội như Tu-bồ-đề. Có thần thông như ngài Mục-kiền-liên. Có trí tuệ vô biên… như ngài Xá-lợi-phất.
“Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ-kheo có thể nói chúng sanh đều có Phật tánh, được thân kim cang không có ngằn mé, thường, lạc, ngã, tịnh, thân tâm vô ngại được tám môn tự tại. Tỳ-kheo này thời có thể trang nghiêm rừng ta-la song thọ.”
“Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời chỉ có đức Như Lai mới là người trang nghiêm. Vì thân Như Lai là thân kim cang không ngằn mé, là thường, lạc, ngã, tịnh, thân tâm vô ngại đủ tám môn tự tại.
Người nào có thể nói chúng sanh đều có Phật tánh, được thân kim cang không có ngằn mé, thường lạc ngã tịnh, thân tâm vô ngại được tám môn tự tại, Tỳ-kheo này có thể trang nghiêm rừng ta-la song thọ. Ngài Sư Tử Hống kết luận chỉ có Phật. Như vậy đến chỗ cứu cánh của trang nghiêm đại Niết-bàn thì chỉ có Phật. Còn các vị kia thì chưa đầy đủ.
Bạch Thế Tôn! Chỉ có đức Như Lai mới có thể trang nghiêm rừng ta la song thọ, nếu không đức Như Lai thời chẳng trang nghiêm. Ngưỡng mong đấng đại từ bi vì trang nghiêm mà thường ở trong rừng ta-la này.”
Vì chỉ có Phật mới trang nghiêm được rừng ta-la này, cuối cùng Bồ-tát Sư Tử Hống thỉnh cầu đức Phật thường trụ ở trong rừng ta-la song thọ này để trang nghiêm.
“Này thiện nam tử! Tất cả các pháp tánh vốn trụ nơi vô trụ, sao ông lại cầu mong đức Như Lai trụ.
Này thiện nam tử! Phàm nói rằng trụ đó thời gọi là sắc pháp từ nơi nhân duyên mà sanh, nên gọi là trụ. Nhân duyên không nơi chỗ nên gọi là vô trụ.
Đức Như Lai đã dứt tất cả sự ràng buộc của sắc, sao lại nói rằng Như Lai trụ? Như sắc pháp, thọ tưởng hành thức cũng vậy.
Này thiện nam tử! Trụ gọi là kiêu mạn, vì kiêu mạn nên chẳng được giải thoát, vì chẳng được giải thoát nên gọi là trụ. Ai có kiêu mạn? Từ chỗ nào mà đến? Do đây nên được gọi là trụ nơi vô trụ.
Phật giải thích tất cả pháp tánh vốn trụ mà vô trụ. Thường thường nói trụ thì có nơi chốn, nhưng các pháp đều do nhân duyên sanh tự tánh là không, làm sao nói là trụ được. Sắc là trụ, thọ tưởng hành thức đều là trụ, Như Lai đã phá tất cả sắc thọ tưởng hành thức, sao nói Như Lai là trụ? Trụ gọi là kiêu mạn, như có người tu tới bậc Tu-đà-hoàn thỏa mãn cho là cao rồi, bèn dừng ngang đó. Những người dứt hết kiêu mạn và không có thấy từ đâu đến, những người đó trụ nơi vô trụ.
Đức Như Lai đã dứt tất cả kiêu mạn, sao lại nói rằng ngưỡng mong đức Như Lai trụ?
Trụ đó gọi là pháp hữu vi, đức Như Lai đã dứt pháp hữu vi, nên là chẳng trụ.
Trụ đó gọi là pháp Không. Đức Như Lai đã dứt pháp Không như vậy nên được thường, lạc, ngã, tịnh. Tại sao nói rằng ngưỡng mong đức Như Lai trụ?
Trụ đó gọi là hai mươi lăm cõi. Đức Như Lai đã dứt hai mươi lăm cõi. Sao lại nói rằng ngưỡng mong đức Như Lai trụ?
Trụ đó chính là tất cả phàm phu. Các bậc thánh nhân thời không khứ, không lai, không trụ. Đức Như Lai đã dứt những tướng khứ, lai, trụ. Sao lại nói rằng ngưỡng mong đức Như Lai trụ?
Hữu vi tức là hình tướng, phàm có trụ là có hình tướng, là có sanh diệt, Như Lai đã hết sanh diệt làm sao gọi là Như Lai trụ?
Thế gian kẹt hai bên hoặc có hoặc không. Hữu vi là có, chấp hữu vi gọi là trụ, nhưng nếu chấp không cũng là trụ, nên nói rằng trụ là pháp không, Như Lai vượt qua cả chấp có và chấp không nên không thể nói rằng Như Lai trụ.
Luận về vô trụ gọi là vô biên thân. Vì thân vô biên nên chớ nói rằng ngưỡng mong đức Như Lai trụ nơi rừng ta-la. Nếu trụ nơi rừng này thời là hữu biên. Nếu là thân hữu biên thời là vô thường. Đức Như Lai là thường, sao lại nói rằng trụ?
Luận về vô trụ gọi là hư không, tánh của Như Lai đồng với hư không, sao lại nói rằng trụ?
Lại vô trụ gọi là Kim cang tam-muội. Kim cang tam-muội phá hoại tất cả trụ. Kim cang tam-muội chính là Như Lai, sao lại nói rằng trụ?
Lại vô trụ gọi là huyễn, Như Lai đồng huyễn, sao lại nói rằng trụ?
Như Lai đồng huyễn vậy thì Như Lai là huyễn sao? Chúng ta thường nghĩ huyễn là hư ảo không thật, nhưng ở đây Phật giải thích vô trụ để thấy tất cả pháp do nhân duyên sanh không thật có, vì không thật có nên như huyễn, không dừng trụ ở một chỗ, Như Lai đồng với chỗ không dừng trụ nên nói Như Lai như huyễn, sao lại nói rằng Như Lai trụ.
Lại vô trụ gọi là vô chung vô thủy, tánh Như Lai không có thủy chung, sao lại gọi rằng trụ.
Lại vô trụ là pháp giới vô biên, pháp giới vô biên chính là Như Lai, sao lại nói rằng trụ?
Lại vô trụ gọi là Thủ-lăng-nghiêm tam-muội. Tam-muội này biết tất cả pháp mà không chấp trước, vì không chấp trước nên gọi là Thủ-lăng-nghiêm. Đức Như Lai đầy đủ chánh định Thủ-lăng-nghiêm, sao lại gọi rằng trụ?
Thủ-lăng-nghiêm tam-muội là chánh định biết tất cả mà không chấp trước.
Lại vô trụ gọi là xứ phi xứ trí lực. Đức Như Lai thành tựu trí lực này, sao lại gọi rằng trụ?
Lại vô trụ gọi là Đàn ba-la-mật. Nếu Đàn ba-la-mật mà có trụ thời chẳng đến được Thi-la ba-la-mật, nhẫn đến Bát-nhã ba-la-mật, do nghĩa này nên Đàn ba-la-mật gọi là vô trụ. Đức Như Lai chẳng trụ Đàn ba-la-mật nhẫn đến chẳng trụ Bát nhã ba-la-mật, sao lại nguyện rằng đức Như Lai thường trụ nơi rừng ta-la.
Trụ có nghĩa là chấp, là mắc kẹt, là bám vào một chỗ. Xứ phi xứ trí lực tức là trí lực ở chỗ nơi mà không chỗ nơi, cũng như trụ mà vô trụ, không có dừng ở một chỗ cố định.
Đàn ba-la-mật là bố thí cứu cánh, nếu chỉ bố thí cứu cánh thôi thì làm sao đủ lục độ cho nên bố thí rồi phải trì giới, phải tinh tấn, tới nhẫn nhục, tới thiền định, tới trí tuệ, phải tiến lên luôn luôn như vậy cho nên nói rằng bố thí không có trụ. Nếu mình trụ nơi bố thí thì không đủ năm độ kia, không viên mãn hạnh của Bồ-tát.
Lại vô trụ gọi là tu pháp tứ niệm xứ. Nếu đức Như Lai trụ nơi pháp tứ niệm xứ, thời không thể được vô thượng Bồ-đề, đây gọi là trụ nơi chẳng trụ.
Lại vô trụ gọi là chúng sanh giới vô biên. Đức Như Lai đã đến tột ngằn mé vô biên của tất cả chúng sanh giới mà không chỗ trụ.
Lại vô trụ gọi là không nhà cửa, không nhà cửa gọi là không chỗ có, không chỗ có gọi là vô sanh, vô sanh gọi là vô diệt, vô diệt gọi là vô tướng, vô tướng gọi là không hệ phược, không hệ phược gọi là không chấp trước, không chấp trước gọi là vô lậu, vô lậu chính là thiện, thiện chính là vô vi, vô vi chính là đại Niết-bàn, đại Niết-bàn chính là thường, thường chính là ngã, ngã chính là tịnh, tịnh chính là lạc. Thường lạc ngã tịnh chính là Như Lai.
Như vậy chúng ta mới thấy rõ chỗ ngộ của Lục Tổ ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Ngài thốt lên “đâu ngờ pháp tánh lâu nay thường còn, đâu ngờ pháp tánh là thanh tịnh..” tức là ngài thấy được cái thường lạc ngã tịnh của đại Niết-bàn. Chúng ta nghe không trụ tưởng là thường, nhưng đó là chỗ cứu cánh. Mình học đạo mà còn chấp chỗ này kẹt chỗ kia thì đều là trụ, không đến chỗ cứu cánh nổi.
Này thiện nam tử! Như hư không chẳng trụ mười phương, đức Như Lai cũng như vậy chẳng trụ mười phương.
Này thiện nam tử. Nếu có ai nói rằng thân, khẩu, ý ác mà được quả lành thời là không đúng. Thân, khẩu, ý lành mà được quả ác cũng là không đúng.
Nếu nói phàm phu đặng thấy Phật tánh, còn Thập trụ Bồ-tát chẳng được thấy, lời nói này không đúng.
Nếu nói hạng nhất-xiển-đề phạm tội ngũ nghịch, hủy báng kinh Đại thừa phá bốn giới trọng mà được vô thượng Bồ-đề, lời nói này cũng không đúng.
Nếu nói Lục trụ Bồ-tát do phiền não mà dọa ba ác đạo, lời nói này cũng không đúng.
Nếu nói đại Bồ-tát dùng thân người nữ thật mà được vô thượng Bồ-đề, lời nói này cũng không đúng. Nếu nói nhất-xiển-đề là thường còn, Tam bảo là vô thường, lời nói này cũng không đúng,
Nếu nói đức Như Lai trụ nơi thành Câu-thi-na, lời nói này cũng không đúng như vậy.
Này thiện nam tử! Nay đức Như Lai ở nơi thành Câu-thi-na này nhập đại tam-muội, vào trong hang thiền định thậm thâm. Vì chúng sanh chẳng thấy Như Lai nên gọi là đại Niết-bàn.”
Phật vào trong đại thiền định sâu xa, tức là thể nhập vào pháp thân, không còn giữ hóa thân này nữa, chúng sanh chẳng thấy Phật nên gọi là đại Niết-bàn. Sự thật không phải là Phật mất. Kinh Đại thừa luôn luôn chủ trương vô trụ, chính cái không trụ đó mới là cứu cánh.
“Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai cớ chi vào nơi hang thiền định?”
“Này thiện nam tử! Vì muốn độ thoát chúng sanh. Người chưa gieo trồng căn lành làm cho được gieo trồng. Người đã gieo trồng căn lành nay được tăng trưởng. Người quả lành chưa thành thục làm cho được thành thục. Đức Như Lai vì người căn lành đã thành thục mà nói thú hướng vô thượng Bồ-đề. Làm cho người khinh tiện pháp lành sanh lòng tôn trọng. Làm cho những kẻ phóng dật rời bỏ sự phóng dật. Vì cùng Văn-thù-sư-lợi các vị đại Bồ-tát luận bàn diệu nghĩa. Vì muốn giáo hóa người thích đọc tụng làm cho ưa thích thiền định. Vì đem thánh hạnh, Phạm hạnh, thiên hạnh giáo hóa chúng sanh. Vì quan sát pháp tạng bất cộng thậm thâm. Vì muốn quở trách hàng đệ tử phóng dật. Đức Như Lai thường tịch tịnh mà còn ưa chuộng thiền định, huống là các ông chưa dứt hết phiền não mà sanh lòng phóng dật. Vì muốn quở trách các Tỳ-kheo ác nhận tám thứ vật bất tịnh, và chẳng biết thiểu dục, chẳng biết tri túc. Vì khiến chúng sanh tôn trọng pháp thiền định đã nghe. Do những nhân duyên trên đây nên đức Như Lai vào hang thiền định.”
Phật nhập Niết-bàn tại thành Câu-thi-na này là vào hang thiền định thậm thâm thôi chứ không phải ngài mất. Ngài Sư Tử Hống hỏi lý do Phật nhập định, Phật trả lời, vì những người chưa gieo trồng căn lành khiến cho được gieo trồng. Cũng như chúng ta có những người thân, lúc còn sống mình không quyến luyến lắm, khi người đó vắng mặt mình cảm thấy nhớ thương nhiều, chính vì nhớ thương nhiều chúng ta mới làm theo những lời dạy, hành động của người thân. Cũng vậy, khi Phật còn tại thế chúng sanh ỷ lại chưa lo tu hành, đến khi ngài nhập Niết-bàn mới hoảng hốt, từ đó mới phát tâm tu hành, cho nên gọi là gieo trồng căn lành.
Người đã gieo trồng căn lành nay được tăng trưởng, tức là những người biết tu rồi, thấy Phật nhập Niết-bàn liền cố gắng tu thêm nữa. Người quả lành chưa thành thục làm cho được thành thục. Quả chưa được viên mãn thì gọi là chưa thành thục, nhân đó cố gắng tu để được viên mãn..
Đó là những phương tiện của Phật để khích lệ cho chúng sanh tu hành. Tâm chúng sanh ưa chán ưa lờn, nên người dù hay mấy giỏi mấy ở bên cạnh họ hoài, lâu ngày họ cũng coi thường không thèm nghe, không cho là quan trọng nữa, nhiều khi còn tìm những lỗi xấu. Người khéo giáo hóa khi thấy chúng sanh có vẻ hơi lờn thì phải tránh để họ có tâm khao khát mới có kết quả tốt. Phật biết rõ tâm lý chúng sanh, ngài không để chúng sanh lờn nên khi ngài truyền bá tạm đủ và đồ đệ có người kế thừa được, ngài vào Niết-bàn ẩn đi. Ngài ẩn đi sẽ giúp cho họ phát tâm mạnh mẽ, cố gắng tu hành đạt được điều họ mong muốn.
Một lý do nữa, sở dĩ Như Lai thường nhập trong thiền định để nhắc nhở, Phật tâm thường tịch tịnh mà còn ưa chuộng thiền định huống là những người chưa dứt hết phiền não mà sanh lòng phóng dật. Theo kinh A-hàm, sau bữa cơm trưa Phật vào rừng trải tọa cụ ngồi kiết già nhập định. Có vị Tỳ-kheo hỏi Phật tại sao Thế Tôn đã chứng quả rồi còn thiền định làm gì nữa, Phật dạy rằng: Ta nhập thiền định có hai lý do, một là nhập định cho tâm an lành khỏe khoắn, hai là khích lệ nhắc nhở đệ tử của ta, ta đã đạt đạo rồi mà còn ngồi thiền định huống nữa là những kẻ chưa đạt đạo dám bê tha phóng dật hay sao. Kinh A-hàm diễn tả buổi xế chiều Phật từ thiền định an tường ra, đi thong thả, chúng ta mỗi lần xả định thì xuất mồ hôi hột, mặt mày méo xẹo, đau nhức gần chết, có khỏe gì đâu mà an tường đứng dậy đi. Nhưng nếu ngồi cho thuần, nhất là buổi khuya khí hậu thanh sảng, ngồi đúng hai giờ đồng hồ buông ra thấy nhẹ nhàng, nghe vui nhè nhẹ, mình cảm thấy sự an tường rõ ràng, mới biết Kinh không nói gạt mình. Tại chúng ta ngồi chưa tới nên thấy khổ quá. Như mấy chú mới ngồi chừng nửa giờ một giờ mà nghe nói ngồi chừng vài tiếng đồng hồ hết tê đâu có tin, nhưng sự thật ngồi tới hai giờ thì hết tê. Muốn tin lời Phật nói phải tu, không tu thì không tin nổi. Cho nên người càng tu tin Phật càng sâu, càng tin sâu thì tiến mãi không lùi, tin nông cạn dễ lùi lắm.
“Bạch Thế Tôn! Chánh định vô tướng gọi là đại Niết-bàn, nên đại Niết-bàn gọi là vô tướng. Do nhân duyên gì gọi là vô tướng?”
“Này thiện nam tử! Vì không có mười tướng sắc, thinh, hương, vị, xúc, sanh, trụ, hoại, nam, nữ, đây gọi là mười tướng. Vì không mười tướng như vậy nên gọi là vô tướng.
Này thiện nam tử! Luận về người chấp tướng thời hay sanh ra si, vì si mà sanh ái, vì ái nên ràng buộc, vì ràng buộc nên thọ sanh, vì sanh nên có tử, vì tử nên là vô thường.
Bồ-tát Sư Tử Hống hỏi do nhân duyên gì mà Niết-bàn gọi là vô tướng?
Ngoài mười tướng đó gọi là vô tướng, chứ không phải là không.
Chấp tướng giả mà cho rằng thật tức là si, rồi sanh ưa thích, nó mất thì luyến tiếc, đó là sự ràng buộc, vì ràng buộc nên thọ sanh, vì sanh nên có tử, đó là vô thường.
Người chẳng chấp tướng thời chẳng sanh si, vì không si nên không ái, vì không ái nên không ràng buộc, vì không ràng buộc nên chẳng thọ sanh, vì chẳng thọ sanh nên không có tử, vì không có tử nên gọi là thường. Do nghĩa này nên Niết-bàn gọi là thường.”
Đây là yếu điểm của sự tu hành, hết sức rõ ràng. Từ kinh điển Nhị thừa cho đến Đại thừa, Phật đều chỉ cho chúng ta biết chấp tướng là si, không chấp tướng là hết si. Như kinh A-hàm, Phật luôn chia chẻ thân tâm thành năm thứ: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, gọi là năm uẩn để chúng ta không chấp thân tâm này là thật. Sắc do tứ đại hợp thành nên không thật, không thấy nó thật thì không chấp tướng nên nói thân là vô ngã, sự vật bên ngoài cũng do tứ đại tạo thành nên cũng vô ngã… Nếu mình phá được chấp tướng là hết si, hết si là hết luận hồi. Qua kinh Đại thừa, bước đầu từ Bát-nhã cho tới các bộ kinh, luôn luôn Phật dạy thân này hay cảnh này đều là nhân duyên hợp nên không thật có, như huyễn như hóa, không bao giờ nói chúng là thật. Nếu nhận được là huyễn là hóa, là mộng thì chúng ta sẽ không dính mắc vào chúng nữa, tự nhiên thoát khỏi luân hồi.
Thấy mình thật người thật thì dễ phân biệt người này xấu người kia đẹp, đưa tới ưa ghét, đó là gốc của trầm luân sanh tử. Khi thấy người là tứ đại năm uẩn giả hợp, có như huyễn như hóa không thật, thì niệm yêu ghét đâu còn, hết bị sắc trần ràng buộc. Những người nói tu nhiều mà chấp tướng nặng, đó là bệnh chứ không phải giải thoát; người giải thoát không chấp tướng. Nhiều người hiểu lầm không chấp tướng thì làm cư sĩ cũng tốt, xuất gia cũng tốt, ăn mặn cũng tốt, ăn chay cũng tốt, mặc áo tràng cũng tốt, ở trần cũng tốt. Có người ăn mặc xốc xếch rồi nói mấy người ăn mặc nghiêm chỉnh là chấp tướng còn tôi không chấp tướng. Đó là bệnh. Mình ăn mặc chỉnh tề mà thấy mình không thật, cảnh không thật thì có hại gì đâu, như vậy không phải phá tướng hay sao? Phật dạy rành rẽ mình phải thấy rõ bản thân mình không có thật, kế đó mới nhìn ra ngoại cảnh, như vậy đường tu của mình chắc chắn là giải thoát, người nào đối với thân này không còn luyến ái, không còn tham trước thì người đó giải thoát một cách dễ dàng, như con hạc bay lên cao. Sở dĩ mình chưa giải thoát tại chưa dứt luyến ái thân mình, luyến ái luôn cả những cái bên ngoài, đó là gốc của trầm luân.
“Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo nào có thể dứt được mười tướng?”
“Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ-kheo luôn luôn tu tập ba tướng này thời dứt được mười tướng: luôn luôn tu tập tướng tam-muội chánh định, luôn luôn tu tập tướng trí huệ, luôn luôn tu tập tướng xả.”
Tướng chánh định, tướng trí tuệ và tướng xả là ba tướng rất quan trọng. Bởi vì có chánh định nên chặn đứng tâm chạy theo ngoại cảnh, tâm lực sẽ mạnh để quán sát kỹ càng thân không thật cảnh không thật đó là tướng trí tuệ. Khi quán sát kỹ thân cảnh không thật thì liền xả bỏ không luyến ái. Đó là giải thoát, dứt được mười tướng.
“Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tướng chánh định, tướng trí huệ và tướng xả?
Chánh định là tam-muội, tất cả chúng sanh đều có tam-muội, tại sao nay mới nói rằng tu tập tam-muội?
Nếu tâm duyên ở một cảnh thời gọi là tam-muội, nếu lại duyên cảnh khác thời chẳng gọi là tam-muội. Nếu như chẳng định thời chẳng phải là nhất thiết trí, chẳng phải là nhất thiết trí sao lại gọi là định?
Nếu do một hạnh mà được tam-muội, những hạnh khác thời chẳng phải là tam-muội, nếu chẳng phải là tam-muội, thời chẳng phải là nhất thiết trí, nếu chẳng phải nhất thiết trí sao lại gọi rằng tam-muội? Tướng trí huệ và tướng xả cũng như vậy.”
“Này thiện nam tử! Như lời ông nói duyên nơi một cảnh được gọi là tam-muội, nếu duyên các cảnh khác chẳng gọi là tam-muội, lời nói này không đúng nghĩa. Vì duyên những cảnh khác như vậy cũng vẫn là một cảnh. Do một hạnh cùng những hạnh khác cũng như vậy.
Thông thường tâm duyên một cảnh gọi là định, nếu duyên nhiều cảnh không được gọi là định, ví dụ như vẽ một vòng tròn trước mặt, ngồi nhìn thẳng vô đó, chăm chú không nghĩ gì khác thì tâm định, còn nghĩ cái gì khác là loạn. Hoặc để tâm vào chóp mũi, vào rốn cũng vậy. Ở đây Phật nói như lời ông nói duyên nơi một cảnh được gọi là tam-muội, nếu duyên nơi các cảnh khác không được tam-muội, lời nói này không đúng nghĩa. Tại sao? Vì dù duyên những cảnh khác cũng vẫn là một cảnh. Ví dụ nhìn cây tôi biết tứ đại làm thành, nhìn con người, cái nhà đều thấy là tứ đại làm thành, sự vật gì cũng biết là tứ đại làm thành, không có cái gì khác thì tâm vẫn định như thường. Tuy thấy tất cả cảnh mà cũng là một cảnh, cũng đều là tứ đại.
Nếu dùng trí tuệ Bát-nhã, khi nhìn thấy người, cảnh, vật… đều biết tự tánh là không, như huyễn thì dù nhiều cảnh mà tâm vẫn định.
Trường hợp thứ ba, nhìn thấy sơn hà đại địa, chúng sanh… đều từ tâm mình biến, ngoài tâm không cảnh, ngoài cảnh không tâm. Tất cả cảnh đều từ tâm mà hiện, không cảnh nào ngoài tâm mà có, như vậy tuy thấy tất cả cảnh mà cũng là ở trong định. Thiền sư Thiền Lão nói:
Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh,
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.
Dịch:
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác,
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân.
Như vậy thấy trăng cũng là thấy tâm, thấy trúc cũng là thấy tâm, đâu có cảnh khác mà nói rằng thấy cảnh khác là không định. Vì vậy Phật quở ngài Sư Tử Hống nói không đúng. Duyên cảnh khác cũng vẫn là một cảnh, tuy thấy là nhiều nhưng sự thật cũng là một thôi, do một hạnh cùng các hạnh khác cũng như vậy gọi là Nhất hạnh tam-muội. Phật muốn hướng chúng ta tới định cứu cánh. Ngồi thiền cũng định, đi ra cũng định, thấy người cũng định, thấy cảnh cũng định, lúc nào cũng định.
Ông lại nói chúng sanh trước đã có tam-muội chẳng cần tu tập, lời này cũng chẳng phải. Vì nói tam-muội đây, là nói thiện tam-muội, thật ra tất cả chúng sanh chưa có sao lại nói rằng chẳng cần tu tập? Do trụ trong thiện tam-muội như vậy mà quan sát tất cả pháp thời gọi là tướng thiện trí huệ.
Chẳng thấy tướng tam-muội cùng tướng trí huệ sai khác nhau thời gọi là tướng xả.
Tức là định tuệ quân bình được thì gọi là xả.
Lại này thiện nam tử! Nếu chấp tướng sắc, dase không thể quan sát tướng thường tướng vô thường của sắc thời gọi là tam-muội. Nếu có thể quan sát tướng thường và tướng vô thường của sắc thời gọi là tướng trí huệ. Tam-muội cùng trí huệ đồng quan sát tất cả pháp thời gọi là tướng xả.
Chú tâm vào một cảnh là chấp tướng sắc. Khi chú tâm vào một cảnh mà không quan sát nó là thường hay vô thường thì gọi là tam-muội. Quán sát tướng là thường hay vô thường của sắc thì gọi là trí tuệ. Tam-muội cùng trí tuệ đồng quan sát tất cả pháp là tướng xả.
Này thiện nam tử! Như người đánh xe bốn ngựa giỏi, điều khiển chậm mau phải lúc. Bồ-tát cũng như vậy, nếu tam-muội nhiều thời tu tập trí huệ, nếu trí huệ nhiều thời tu tập tam-muội. Tam-muội cùng trí huệ đồng nhau thời gọi là xả.
Khi tu thấy những cái đổi thay lạ trong người thì phải trình thầy, phải thật tình đối với thầy, không bao giờ giấu giếm, để thầy xét xem tại mình đang tu nghiêng về cái gì. Cũng như khám bệnh, phải khai thật thì bác sĩ mới không cho lầm thuốc, chứ cứ giấu để bác sĩ tự nghiệm thì nguy. Không có thầy thì mình phải khôn ngoan khéo léo, còn vụng về không khéo thì tu lại thêm bệnh.
Người tu thiền phải như người đánh xe ngựa kéo, khéo điều khiển sao cho ngựa chạy mau chậm đúng lúc thì chiếc xe đi êm. Chú tâm vào một cảnh thì dễ yên nhưng hay sanh buồn ngủ, nếu để vậy hoài thì ma hôn trầm chiếm hết thời giờ, còn quán chiếu các pháp lại dễ sanh loạn tưởng. Khi thấy tâm loạn quá thì cần phải định, khi định nhiều muốn buồn ngủ cần phải quán, quán tới chừng nghe đau đầu thì phải dừng lại, phải chỉ, nếu quán nữa sẽ sanh bệnh. Biết thì dễ, không biết thì sanh bệnh.
Này thiện nam tử! Thanh văn và Duyên giác sức tam-muội nhiều sức trí huệ ít, do đây nên chẳng thấy Phật tánh. Thập trụ Bồ-tát sức trí huệ nhiều sức tam-muội ít, nên thấy Phật tánh chẳng rõ ràng. Chư Phật Thế Tôn vì tam-muội cùng trí huệ đồng, nên thấy Phật tánh rõ ràng không chướng ngại như xem trái am-ma-lặc trong bàn tay. Thấy Phật tánh gọi đó là tướng xả.
Tu mà tam-muội và trí tuệ không đều cũng làm kém phần sáng suốt. Bồ-tát dùng Bát-nhã trí mạnh, trí tuệ nhiều định ít nên thấy Phật tánh hơi mờ mờ chưa rõ. Phật nói thấy Phật tánh là tướng xả.
Này thiện nam tử! Xa-ma-tha gọi là hay dứt trừ, vì hay dứt trừ tất cả phiền não, Lại Xa-ma-tha gọi là hay điều phục, vì hay điều phục những căn ác chẳng lành. Lại Xa-ma-tha gọi là tịch tịnh, vì có thể làm cho thân, khẩu, ý đều tịch tịnh.
Xa-ma-tha là chỉ, phương pháp tu chỉ, là dừng lại hay dứt trừ phiền não. Ví dụ khi khởi lòng giận mình chặn nó lại thì đó là dứt trừ. Dứt trừ cái gì? Dứt giận, giận là phiền não. Tu chỉ là chặn đứng sáu căn mình không cho chạy theo những điều ác, như nghe tiếng ca véo von làm loạn động tâm thần thì mình phải chú tâm vào một điểm nào đó, gọi là chỉ. Chú tâm vào một chỗ thì tiếng ca không còn xâm phạm mình nữa, đó là mình hay điều phục được nhĩ căn. Các căn kia cũng vậy. Vì chỉ làm cho thân khẩu ý được yên lặng.
Lại Xa-ma-tha gọi là viễn ly, vì có thể làm cho chúng sanh xa lìa ngũ dục. Lại Xa-ma-tha gọi là hay lóng trong, vì hay lóng trong ba pháp nhơ đục: tham dục, sân khuể, ngu si. Do những nghĩa này nên gọi là tướng chánh định.
Chỉ là dừng lại, nên xa lìa được ngũ dục. Chỉ là lóng trong, khiến tham sân si từ từ lặng xuống.
Chỉ hay dứt trừ phiền não, hay điều phục sáu căn, hay làm cho thân khẩu ý tịch tịnh, hay làm cho xa lìa ngũ dục, hay lóng trong tham sân si, cho nên gọi là chánh định.
Tỳ-bà-xá-na gọi là chánh kiến, cũng gọi là liễu kiến, năng kiến, biến kiến, thứ đệ kiến, biệt tướng kiến, đây gọi là trí huệ.
Tỳ-bà-xá-na gọi là quán. Quán là có những nhận định đúng đắn, gọi là chánh kiến, cũng gọi là liễu kiến là thấy rõ ràng, năng kiến là hay thấy biết, biến kiến là hay thấy khắp, thứ đệ kiến là thấy theo thứ lớp. Ví dụ phân chia thân này có tứ đại, đất nước gió lửa.
Đất là những chất cứng trong thân như tóc lông răng móng, da thịt gân xương… Nước là mồ hôi nước mắt… Gió là những lay động trong người. Lửa là hơi ấm. Biệt tướng kiến tức là thấy riêng từng phần từng tốp, như thân mình gồm ngũ uẩn rồi chia sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.
Chánh kiến, liễu kiến, năng kiến, biến kiến, thứ đệ kiến, biệt tướng kiến gọi chung là trí tuệ! Nhiều người nói mình tu lâu sao không có trí tuệ! Tưởng tu rồi hôm nào trí tuệ sáng bừng lên, như công tắc đèn hư lâu nay, mở nó bừng sáng lên. Không phải như vậy. Trí tuệ chỉ là dùng trí quán chiếu đúng theo phương thức Phật đã dạy. Thường tại sao đợi ngồi thiền mới quán? Vì khi ngồi thiền định tâm, sức quán mạnh nên hiệu quả hơn, lâu ngày thành sức mạnh gọi là đạo lực hay trí tuệ cứng cỏi, tâm Bồ-đề tăng trưởng. Nghe nói tụng kinh niệm Phật tâm Bồ-đề tăng trưởng, nhưng tụng kinh không biết kinh nói gì, niệm Phật cứ niệm suông! Bây giờ thấy rõ niệm Phật để dừng trụ tâm, niệm Phật là phương pháp chỉ niệm Phật tới tam-muội. Trong tam thập lục quán nói về những pháp quán niệm Phật, có cả chỉ và quán, Hằng ngày tâm mình cứ tính chuyện này chuyện kia chuyện nọ lăng xăng, lúc nào buông hết không có tính nữa, lúc đó là định, là chỉ. Cho nên tu phải khéo, đừng tưởng cả ngày phải chăm bẵm hoài, không có cái gì dấy lên mới là định. Người mới tu làm sao được như vậy! Ngồi thiền phút giây nào tâm niệm không dấy lên tức là định, trước chúng ta ngồi một giờ nghĩ liên miền thì không định là phải, còn bây giờ ngồi một giờ chỉ có ba bốn vấn đề thôi, vấn đề xảy ra mình chặn lại được thì là định rồi. Định ngắn từ năm phút, mười phút, hai mươi phút cho tới khi nào thuần thục thì cả ngày định. Như vậy là có định mà ngắn chứ không phải là không có.
Tuệ cũng vậy, Phật ngồi dưới cội bồ-đề phát minh tứ đế, thập nhị nhân duyên, các pháp như huyễn hóa… Chúng ta áp dụng những pháp Phật phát minh, quán chiếu giống như Phật, đó là trí tuệ. Như thế những giờ phút quán chiếu là có trí tuệ chứ đâu phải ngu si. Ngày xưa nghe nói tứ đế chúng ta không biết, bây giờ biết thân này là khổ, là vô thường, biết thân này là năm uẩn giả hợp không thật là có trí tuệ rồi. Quán xét mãi là thành tựu trí tuệ. Trí tuệ mạnh thì lòng ái tiếc thân cảnh không còn, đó là giải thoát.
Chuyện tu hành kết quả rõ như ban ngày. Chúng ta được mà không được vì trí tuệ quán chiếu thấy mọi vật không thật, nếu được thì còn có cái thật. Hiểu, quán như vậy là thật tu định tuệ. Ngày nào, giờ nào, phút nào tu như vậy thì có định có tuệ. Chúng ta phải khéo nhận định mới thấy bước tiến của mình để phấn chí mà tu. Không nhận định rõ, chúng ta cứ thấy như mình chưa được cái gì hết, tưởng tượng phải được lục thông v.v…, đó là lầm lẫn. Phải biết có tu là có tiến, tùy theo sức mạnh yếu mà có mau có chậm thôi. Nhiều người không biết tu thấy đáng thương, bao nhiêu năm vẫn thấy cái gì cũng thật, rồi lo tính hơn thua… Tu như thế làm sao tiến được! Nếu nhận thức rõ ràng, biết cái nào giả cái nào thật, cái nào huyễn hóa cái nào không huyễn hóa, cái nào là loạn cái nào là định, dụng công tu hành tức là có tiến.
Ưu-tất-xoa gọi là bình đẳng, cũng gọi là vô tránh, vô quán, vô hành, đây gọi là xả.
Này thiện nam tử! Có hai thứ Xa-ma-tha: thế gian và xuất thế gian.
Lại có hai thứ: chẳng thành tựu và thành tựu. Chẳng thành tựu là nói Thanh văn cùng Bích-chi Phật. Thành tựu là nói chư Phật và Bồ tát.
Lại có ba thứ: hạ, trung và thượng. Hạ là nói hàng phàm phu. Trung là nói Thanh văn và Duyên giác. Thượng là nói chư Phật và Bồ-tát.
Lại có bốn thứ: một là thối, hai là trụ, ba là tấn, bốn là có thể lợi ích lớn.
Xa-ma-tha là chỉ, Tỳ-bà-xá-na là quán, Ưu-tất-xoa là xả, đó là chữ Phạn dịch âm. Xả là tuệ và định quân bình, xả cũng gọi là vô tránh tức là không có tâm tranh cãi, xả là vô quán vì không có quán, xả là vô hành tức là không khởi công dụng. Học hết bài kinh này chúng ta biết tất cả môn tu thiền.
Xa-ma-tha là chỉ, có chỉ thế gian và chỉ xuất thế gian. Như vẽ vòng đỏ hay vòng xanh lên vách tường, hoặc đốt cây hương, ngồi nhìn chăm vào đó là chỉ thuộc về thế gian, tu chỉ này tâm yên thôi chứ không có giải thoát. Chỉ xuất thế gian là do biết được tham sân si là tội lỗi, chúng vừa dấy lên mình quở mắng, quở mắng những cái xấu trong lòng mình để dừng nó lại, đó là chỉ xuất thế. Vì chúng ta biết có tham sân si là tội lỗi nên mình dừng, cái dừng này do trí tuệ mới biết mà dừng nên là xuất thế. Chúng ta thường nghe tịch chiếu, chiếu là quán, tịch là chỉ hay chiếu là tuệ, tịch là định. Chúng ta tu chủ yếu hai thứ tịch chiếu, chỉ quán, định tuệ, nếu khéo biết dùng đúng thời đúng lúc có lợi vô cùng.
Thanh văn cùng Bích-chi Phật chưa hoàn toàn thành tựu. Hoàn toàn thành tựu là Phật.
Tu thiền có nhiều bậc hạ, trung, thượng. Lại có bốn thứ: một là thối, hai là trụ, ba là tấn, bốn là có thể lợi ích lớn.
Lại có năm thứ chính là năm trí tam-muội: một là Vô thực tam-muội, hai là Vô quá tam-muội, ba là Thân ý thanh tịnh nhất tâm tam-muội, bốn là Nhân quả câu lạc tam-muội, năm là Thường niệm tam-muội.
Một là Vô thực tam-muội. Trong khi định có ăn hay sao mà vô thực? Thường thường trong kinh hay dùng chữ thực, ví dụ xúc thực tức là năm căn mắt tai mũi lưỡi thân xúc chạm với năm trần là món ăn của nó, Vô thực tam-muội là khi được chánh định không còn chạm, không còn dính mắc với trần bên ngoài nữa.
Hai là Vô quá tam-muội. Vô quá là không có lỗi, tức là tam-muội này chặn được tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…
Ba là Thân ý thanh tịnh nhất tâm tam-muội, tức là tâm chuyên nhất làm cho thân và ý được thanh tịnh.
Bốn là Nhân quả câu lạc tam-muội, tức là tam-muội này vừa nhân vừa quả đồng được vui.
Năm là Thường niệm tam-muội, tức là tam-muội thường niệm, như Niệm Phật tam-muội tức là do niệm Phật khi không còn dụng công nữa mà niệm ấy vẫn triền miên không dứt. Nếu người chuyên niệm tứ niệm xứ không quên, được định cũng gọi là thường niệm tam-muội. Luận Đại Thừa Khởi Tín của tổ Mã Minh có nói, đối với chân như không bao giờ quên, không bao giờ xao lãng, hằng hướng về chân như thì gọi là thường niệm tam-muội hay thường niệm chân như.
Lại có sáu thứ: một là Quán cốt tam-muội, hai là Từ tam-muội, ba là Quán thập nhị nhân duyên tam-muội, bốn là Xuất tức nhập tức tam-muội, năm là Chánh niệm giác quán tam-muội, sáu là Quán sanh trụ dị diệt tam-muội.
Tam-muội này là chánh định do quán mà được, tâm ở một cảnh hay một tướng trạng đó mãi không dời đổi thì đó là từ quán mà được chỉ. Như Quán cốt tam-muội tức là quán bạch cốt thì cứ quán tưởng thân minh chứ nếu quán tưởng thân người khác thì không hay, Quán tưởng thân mình từ đầu đến chân như bộ xương cách trí. Không còn thấy da thịt, chỉ thấy xương không, nhớ rõ ràng mình là bộ xương đi đứng nằm ngồi thì thành công. Bộ xương đó ban đầu trắng như vỏ ốc, lần lần sáng ngời lên thì thành công. Sơ thiền tới Tứ thiền do quán bạch cốt mà được. Pháp tu thiền rất giản dị nhưng cũng rất phức tạp, phức tạp vì trong khi quán có thể có nhiều chứng bệnh phát ra từ thân hoặc tâm, biết quán thì qua, không biết thì bị chặn đứng.
Hai là Từ tam-muội. Khi ngồi thiền nghiêm chỉnh chúng ta phát khởi lòng thương, nếu mới tập thì trước phát khởi lòng thương cha mẹ anh em, người xuất gia thì mở lòng thương đến thầy bạn, nguyện sự yên tịnh này lan tỏa đến thầy mình bạn mình, rồi tưởng đem hết lòng vui vẻ ban cho tất cả mọi người, lòng thương rộng mở dần từ hai ba người đến năm người mười người, lần lần cả trăm cả vạn người, cho tới khắp chúng sanh, đó là Từ tam-muội. Bao giờ thương mọi loài như thương thân mình thì thành công, gọi là Từ bi quán.
Ba là Quán thập nhị nhân duyên tam-muội. Do quán thập nhị nhân duyên mà được định, định thuộc về chỉ. Khi ngồi xong, đặt câu hỏi tại sao có già chết? Tại có sanh mới có già chết. Tại sao có sanh? Do nghiệp đời trước mình đã tạo nên mới có sanh, nghiệp là hữu, như vậy sanh từ hữu mà có, Hữu từ đâu mà có? Vì chấp nên mới có, như vậy hữu từ thủ mà có. Tại sao lại có thủ? Vì yêu thích, thủ từ ái mà có. Tại sao có yêu thích? Vì có thọ nhận, nhận cái này là hay là đẹp, cái kia là dở là xấu, bởi có thọ nhận nên mới có ái, như vậy ái từ thọ mà có. Hỏi tại sao có thọ? Vì có xúc chạm, mắt thấy cảnh, tai nghe tiếng, tức là có sáu căn xúc chạm sáu trần cho nên có thọ, như vậy thọ từ nơi xúc mà có. Tại sao có xúc? Tại có lục nhập, tức là có mắt tại mũi lưỡi thân ý, bởi có sáu căn tiếp xúc sáu trần, cho nên xúc là từ lục nhập mà có. Tại sao có lục nhập? Do bào thai có danh và sắc, tức là tinh thần và vật chất, bào thai hợp lại mới có thân này, như vậy lục nhập từ danh sắc mà có. Tại sao có danh sắc? Tại thức mà có, do thức vào trong bụng mẹ, kết hợp cả tinh thần và vật chất thành bào thai, nên danh sắc từ thức mà có. Tại sao có thức? Vì nghiệp quá khứ thúc đẩy thức đi tới thọ thai, nên thức từ hành mà có. Tại sao có hành? Vì mê lầm nên mới phát ra hành động, thành ra gốc từ vô minh mà có.
Như vậy mình quán xét từ đầu tới cuối, lặp đi lặp lại, hỏi tới hỏi lui, tìm ra lẽ thật. Lâu ngày tâm định gọi là chánh định do quán mười hai nhân duyên. Đó là phương pháp tu. Nhiều khi chúng ta chỉ kể tên giải nghĩa mà không biết cách quán. Quán là phải quán như trên. Người tu mà si mê nhiều, tập quán mười hai nhân duyên sẽ có trí tuệ. Vì cứ phăn lần phăn lần tìm đúng lẽ thật do bậc giác ngộ trước kia nói ra, chúng ta sẽ có trí tuệ phá được ngu si.
Tu thiền thật ra có cả ngàn muôn pháp chứ đâu phải là một pháp, hiểu rồi thì muốn dạy tu cách nào cũng được, cái nào cũng là thiền, Thiền này thuộc về thiền Nhị thừa.
Bốn là Xuất tức nhập tức tam-muội. Đó là tam-muội đếm hơi thở, là sổ tức, là Lục diệu pháp môn. Lục diệu pháp môn gồm sáu giai đoạn: sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn và tịnh. Đếm sổ tức tới lúc không lẫn lộn thì chuyển qua tùy tức, là không đếm nữa mà chỉ theo dõi hơi thở, khi thuần thục thì qua chỉ, là tâm định một chỗ không còn để ý hơi thở nữa, khi chỉ được rồi phải qua quán, quán được rồi phải qua hoàn, hoàn được rồi phải qua tịnh Như vậy là tu phương pháp sổ tức đến nơi đến chốn.
Năm là Chánh niệm giác quán tam-muội. Phương pháp tu này tương tự như pháp quán Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Mình phải dùng chánh niệm mà quán chiếu. Như quán thân này do tứ đại giả hợp, cứ quán tới quán lui, lâu rồi tâm được định, cũng gọi là chánh niệm quán chiếu. Hay là quán về các pháp do nhân duyên mà có, không thật, cứ quán tới quán lui vấn đề đó thì gọi là chánh niệm quán chiếu.
Sáu là Quán sanh trụ dị diệt tam-muội. Quán bốn tướng sanh trụ dị diệt của các pháp. Như thấy một cái cây thì biết cây này từ hạt sanh ra, cây lớn lên dừng lại một thời gian gọi là trụ, lần lần nó già là dị, già rồi nó chết khô là diệt. Quán người và sự vật cũng vậy, gọi là quán sanh trụ dị diệt. Do quán mà tâm được định gọi là tam-muội.
Lại có bảy thứ chính là bảy giác chi: một là niệm xứ giác chi, hai là trạch pháp giác chi, ba là tinh tấn giác chi, bốn là hỷ giác chi, năm là trừ giác chi, sáu là định giác chi, bảy là xả giác chi.
Niệm xứ giác chi tức là dùng tứ niệm xứ. Trạch pháp giác chi là phải chọn lựa, trong khi tham thiền phải chọn pháp nào là chân, pháp nào là giả để quán. Tinh tấn giác chi là trong khi tu mình cố gắng.
Lại có bảy thứ; một là Tu-đà-hoàn tam-muội, hai là Tư đà hàm tam-muội, ba là A-na-hàm tam-muội, bốn là A-la-hán tam-muội, năm là Bích-chi Phật tam-muội, sáu là Bồ-tát tam-muội, bảy là Như Lai giác tri tam-muội.
Bảy tam-muội này là để chỉ cho định của bảy hạng hiền thánh từ Tu-đà-hoàn đến Phật.
Lại có tám thứ chính là tám môn giải thoát tam-muội: một là trong có sắc tướng, ngoài quán Sắc giải thoát tam-muội, hai là trong không sắc tướng, ngoài quán Sắc giải thoát tam-muội, ba là Tịnh giải thoát thân chứng tam-muội, bốn là Không xứ giải thoát tam-muội, năm là Thức xứ giải thoát tam-muội, sáu là Vô sở hữu xứ giải thoát tam-muội, bảy là Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ giải thoát tam-muội, tám là Diệt tận định xứ giải thoát tam-muội.
Một là trong có sắc tướng, ngoài quán Sắc giải thoát tam-muội. Đây là lối quán bất tịnh, trong có sắc tướng tức là quán trong thân mình ô uế cũng như một cái túi đựng đồ dơ, ngoài quán sắc giải thoát tam-muội tức là quán sắc ở ngoài như thây chết… Nghĩa là quán trong ngoài đều ô uế, như vậy được giải thoát thì gọi là trong có sắc tướng, ngoài quán Sắc giải thoát tam-muội.
Hai là trong không sắc tướng, ngoài quán Sắc giải thoát tam-muội. Không quán trong thân ô uế mà chỉ quán thây chết. Quán từ lúc mới tắt thở, rồi lạnh, tới thân bầm xanh, lần lần sinh lên rồi thối, tới rã rục, giòi tửa bu lại ăn, tới rã hết còn bộ xương, đem đốt thành tro… Quán như vậy gọi là quán bên ngoài mà không quán trong thân. Khi quán xong, kết luận thân mình cũng giống như vậy.
Ba là Tịnh giải thoát thân chứng tam-muội. Sau khi quán bất tịnh rồi, trở lại quán tịnh tức là quán một mảnh xương ở trong thân hoặc là ở trên trán, hoặc là ở sống mũi hoặc ở ngực, tưởng miếng xương này bị lột da thịt chỉ còn một miếng xương trắng, nhìn và tưởng như nó trong, sạch, sáng, lần lần nó phát hào quang lên, gọi là quán tịnh. Khi quán bất tịnh thành công rồi, gớm lắm thì phải qua quán tịnh tức là thấy bộ xương của thân đều phát hào quang sáng, lúc đó hết gớm. Từ quán bất tịnh chuyển qua quán tịnh tam-muội.
Bốn là Không xứ giải thoát tam-muội. Quán không này và cái không của Thiền tông khác nhau chỗ nào? Trước hết ngồi tưởng cái không trong người mình, như không trong lỗ tai, không trong lỗ mũi hay không trong buồng ngực. Chúng ta tưởng cái không đó trong người mình, không nhớ gì khác. Nhớ mãi tới khi hiện rõ trước mắt thì tưởng hư không tràn ra trùm cả cái nhà, rồi quán hư không trùm cả bầu trời, nghĩa là không thấy cây cối nhà cửa núi sông cây cỏ, chỉ thấy toàn là không, thì thành tựu quán không, tức đi tới Không vô biên xứ tam-muội, cái không này từ tưởng mà ra. Không vô biên xứ này là quán từ cái không nhỏ tới cái không lớn, cho tới trùm hết mười phương không còn thấy cây cỏ núi sông gì hết, thì thành tựu Không vô biên xứ. Còn Không của Thiền tông không phải là do tưởng mà do trí tuệ thấy các pháp không có tự tánh cho nên khác với cái Không do quán tưởng kia.
Năm là Thức xứ giải thoát tam-muội. Kế đó quán Thức vô biên xứ cũng vậy, tức là quán thức trùm khắp hư không.
Sáu là Vô sở hữu xứ giải thoát tam-muội. Bỏ thức vô biên trên, tiến lên quán ngay cả thức trên cũng trống rỗng, không còn gì cả, gọi là Vô sở hữu xứ giải thoát tam-muội.
Bảy là Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ giải thoát tam-muội. Quán này vượt trên định Vô sở hữu, đã bỏ thức, phi hữu, chỉ còn cái an tịnh trong tâm gọi là phi hữu tưởng phi vô tưởng.
Từ tam-muội thứ tư cho đến thứ bảy đều là thức tưởng, nhưng càng lên càng tế hơn.
Tám là Diệt tận định xứ giải thoát tam-muội. Tức là dứt sạch hết những cái tưởng tế đó nữa thì tới giải thoát. Tới định thứ tám này rồi mới thành A-la-hán, còn nếu tới cái thứ bảy mà dừng lại thì bị mắc kẹt về ngoại đạo lên cõi trời Phí phi tưởng.
Lại có chín thứ chính là cửu thứ đệ định: tứ thiền, Tứ không và Diệt tận định tam-muội.
Lại có mười thứ chính là mười nhất thiết xứ tam-muội: một là Địa nhất thiết xứ tam-muội, hai là Thủy nhất thiết xứ tam-muội, ba là Phong nhất thiết xứ tam-muội.
Mấy loại này đều là phương pháp quán của Thanh văn. Địa nhất thiết xứ tam-muội là gì? Đây là dùng đất làm đề mục quán. Quán vật bằng đất trước mặt, rồi từ từ quán đất lan ra cả nhà, cả khu vực, lan rộng cả thế giới thì gọi là Địa nhất thiết xứ tam-muội, tức là thấy đất trùm hết tất cả chỗ. Thứ hai là quán nước. Quán nước cũng thế lần lần tràn ra đầy cả nhà, cả khu vực, rồi đầy cả bầu trời, toàn là nước thì được Thủy nhất thiết xứ tam–muội. Thứ ba là quán gió xúc chạm qua cơ thể mình, rồi trùm hết, không còn thấy nhà cửa núi sông, không thấy gì hết, là được Phong nhất thiết xứ tam-muội.
Bốn là Thanh nhất thiết xứ tam-muội, năm là Huỳnh nhất thiết xứ tam-muội, sáu là Xích nhất thiết xứ tam-muội, bảy là Bạch nhất thiết xứ tam-muội.
Bốn loại này là quán màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng. Đối tượng có thể là một miếng giấy có màu mình chọn. Ban đầu thấy màu trong phạm vi miếng giấy, rồi lần lần tưởng màu đó trùm khắp.
Tám là Không nhất thiết xứ tam-muội, chín là Thức nhất thiết xứ tam-muội, mười là Vô sở hữu nhất thiết xứ tam-muội.
Lại có vô số thứ chính là chư Phật và Bồ tát. Đây gọi là tướng tam-muội.
Ba loại trên như trước đã nói.
Như vậy có nhiều cách tu Thiền. Ngoài ra còn vô số định của chư Phật và Bồ-tát. Đây là tướng tam-muội.
Này thiện nam tử! Huệ có hai thứ: thế gian và xuất thế gian.
Tuệ thế gian tức là những khôn ngoan hiểu biết ở thế gian, rành những chuyện làm ăn, thông suốt những sách vở thế gian thì gọi là tuệ thế gian. Tuệ xuất thế gian tức là tuệ do xét biết tất cả các pháp nghĩa này không thật để không còn nhiễm trước.
Lại có ba thứ: Bát-nhã, Tỳ-bà-xá-na và Xà-na Bát-nhã gọi là tất cả chúng sanh. Tỳ-bà-xá-na là tất cả thánh nhân, Xà-na là chư Phật và Bồ-tát, Lại Bát-nhã gọi là biệt tướng, Tỳ-bà-xá-na gọi là tổng tướng, Xà-na gọi là phá tướng.
Bát-nhã là trí thế gian, gọi là trí tất cả chúng sanh. Tỳ-bà-xá-na là trí của thánh nhân. Xà-na là trí của chư Phật và Bồ-tát. Biệt tướng tức là trí quán riêng. Tổng tướng tức là trí quán chung. Phá tướng tức là trí phá tất cả các chấp tướng.
Lại có bốn thứ huệ, chính là quán tứ chân đế.
Thường thường chúng ta nghe quán tứ để là Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Quán tứ đế chúng ta phải quán theo hai chiều, nhân quả thế gian và nhân quả xuất thế gian.
Quán nhân quả thế gian, phải xét thân này có bốn khổ: sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ. Hoặc xét rộng nữa là tám khổ: thương yêu xa lìa khổ, chán ghét mà gặp mãi khổ, cầu mong không được khổ, thân ngũ ấm là khổ, quán tới quán lui thân này là khổ.
Tại sao có cái thân khổ này? Có thân khổ này là do đời trước tham sân si làm nhân gây ra, tức là từ Khổ đế mà quán Tập đế, là biết nhân thế gian.
Làm sao diệt tập nhân này? Tức là quán Diệt đế, tập nhân này làm cho mình khổ, tham sân si là gốc khổ, phải làm sao để diệt tập nhân là Diệt đế.
Muốn diệt phải tu bát thánh đạo hay là tu theo ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đó gọi là quán Đạo đế. Hai đế sau là xuất thế gian.
Chúng ta cứ xét hai chiều, thế gian và xuất thế gian, xét cho kỹ thì mới gọi là quán tứ đế. Chứ còn nói quán tứ đế là Khổ đế Tập đế Diệt đế Đạo đế, đó là kể không chứ không phải là quán. Phương pháp tu mà chúng ta nhận cho kỹ thì thấy hay lắm.
Này thiện nam tử! Vì ba việc mà tu Xa-ma-tha: một là vì chẳng phóng dật, hai là vì trang nghiêm đại trí, ba là vì được tự tại.
Học kỹ chúng ta thấy rõ ràng tại sao phải tu chỉ. Tu chỉ là để dừng buông lung, làm cho trí tuệ mình càng ngày càng phát triển, được tự tại không bị lỗi chạy theo ngũ dục. Đó là ba lý do tập tu chỉ.
Lại vì ba việc mà tu Tỳ-bà-xá-na: một là vì sanh tử, hai là vì muốn tăng trưởng các căn lành, ba là vì phá tất cả phiền não.”
Tu quán để phá dẹp tất cả quả báo ác của sanh tử không cho tiếp tục. Hai là vì muốn tăng trưởng các căn lành. Ví dụ quán thân này là ô uế bất tịnh, để phá nhiễm ô về ái dục vốn là gốc của sanh tử ác. Phá được nhiễm ô này gọi là phá quả báo ác sanh tử. Vì thấy thân ô uế cho nên chúng ta không cung dưỡng nó, lại thích tu các pháp lành cho nên càng tăng trưởng căn lành. Ba là vì phá tất cả phiền não, quán để dẹp sạch hết bao nhiều phiền não còn ở trong tâm.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Như trong kinh nói nếu Tỳ-bà-xá-na có thể phá phiền não cớ gì lại tu tập Xa-ma-tha?”
Đây là Bồ-tát Sư Tử Hống hỏi về quán có thể phá phiền não cớ sao lại tu tập Xa-ma-tha tức là tu chỉ?
Phật nói: “Này thiện nam tử! Ông nói Tỳ-bà- xá-na phá phiền não, lời này không đúng. Vì lúc có trí huệ thời không phiền não, lúc có phiền não thời không trí huệ. Sao lại nói rằng Tỳ-bà-xá-na có thể phá phiền não?
Ví như lúc sáng thời không tối, lúc tối thời không sáng. Nếu nói rằng sáng có thể phá tối, thời không đúng.
Lúc chúng ta nổi sân lên thì mình có trí để nhận phải quấy hay không? Quên hết. Khi mình biết phải quấy hối hận lại thì lúc đó còn sân không? Hết sân. Khi mình biết phải quấy thì hết sân mà lúc nổi sân thì quên hết. Như vậy có cái này thì không có cái kia, có cái kia thì không có cái này, sao gọi là phá? Nói phá là căn cứ vào tinh thần Nhị thừa, ở đây Phật đi thẳng vào tinh thần đại Niết-bàn, không có một pháp thật, phiền não không thật thì trí tuệ cũng không thật. Nói phá tức là thấy thật nên Phật không chấp nhận. Chúng ta kinh nghiệm thấy rõ ràng nói phá mà không phá gì cả. Như khi hai người đánh lộn, người này nắm cổ người kia, người kia nắm áo người nọ, giằng co với nhau như vậy là phá, nhưng ở đây có cái này thì cái kia mất, có cái kia thì cái này mất. Như tâm lúc loạn thì không biết, vừa biết là vọng thì nó mất tiêu nên có phá gì đâu.
Ngày trước có những điều chúng ta cho là linh thiêng, nhưng bây giờ biết thì thấy không có gì lạ. Như nằm chiêm bao thấy ma nhát mình sợ quá, vội niệm Nam-mô Phật hoặc niệm Quán Thế Âm, ma biến mất.
Khi thức dậy mình mừng quá nói niệm Phật thật là linh. Nhưng không ngờ cảnh dữ cũng là tâm hiện ra, nhớ Phật cũng từ tâm mình chứ có ai khác đâu. Dấy phiền não cũng là tâm, biết nó quấy cũng là tâm. Nếu tỉnh thì hết mê, không có đem thứ này phá thứ kia. Chính đó là kinh nghiệm tu của chúng ta.
Nếu sắp chết, những tâm niệm đen tối như hờn giận, buồn phiền, ác độc từ quá khứ dồn chứa thì cảnh địa ngục hiện trước mắt. Còn tâm nhớ Phật hoặc nhớ những pháp Phật dạy, sáng suốt tỉnh táo an lành, thì đó là cảnh giải thoát hiện. Phiền não là ta, Bồ-đề cũng là ta. Ma là ta, Phật cũng là ta. Hiểu cho đúng đắn thì Phật ma cũng không ngoài mình. Tâm mình tỉnh thì những điên cuồng hết, vậy thôi. Thấy rõ tất cả đều gốc tại mình thì tu tiến. Đó là nói rõ phiền não và trí tuệ không có đồng thời.
Này thiện nam tử! Ai có trí huệ? Ai có phiền não? Sao lại nói rằng trí huệ có thể phá phiền não. Nếu phiền não là không thời không chỗ phá.
Này thiện nam tử! Nếu nói trí huệ có thể phá phiền não, là đến mà phá, hay chẳng đến mà phá Nếu chẳng đến mà phá thời lẽ ra phàm phu cũng phá được (Cần gì trí huệ làm chi, tự nó phá rồi). Nếu đến mà phá thời niệm ban đầu lẽ ra đã phá. Nếu niệm ban đầu chẳng phá thời niệm sau cũng chẳng phá. Nếu niệm ban đầu đến bèn đã phá đây thời là chẳng đến. Sao lại nói rằng trí huệ hay phá phiền não? Nếu nói rằng đến cùng chẳng đến mà có thể phá đó thời không đúng nghĩa.
Đâu có hai, trí tuệ phiền não đều là mình. Phiền não không thật thì phá cái gì, phiền não không thật thì trí tuệ cũng không thật. Như lâu nay ngu si chấp tướng, bây giờ đừng chấp tướng nữa thì hết ngu si. Lẽ ra vừa khởi đừng chấp tướng nữa thì từ đó về sau ngu si hết luôn vì niệm ban đầu phá được rồi, giống như cái bồn bị đập bể thì đâu còn bồn nữa. Nhưng mà niệm ban đầu có phá được không? Đến mà đã phá thì tất nhiên đâu còn gọi là đến nữa. Như thế trí tuệ không phá phiền não.
Kinh Niết-bàn rất khó giảng. Nếu mấy phần này không học kỹ thì đọc không hiểu nổi, khó mà chỉ lẽ thật, từng phương pháp. Vì vậy chúng ta học thì phải nhận cho kỹ ý chỉ của sự tu, nhận kỹ rồi thì nói tới pháp thiền nào mình có thể biết liền không có khó.
Lại Tỳ-bà-xá-na phá phiền não đó, là đơn độc có thể phá hay là có bạn mới phá? Nếu đơn độc có thể phá cớ gì Bồ-tát tu bát chánh đạo? Nếu có bạn mới phá thời nên biết rằng đơn độc chẳng phá được. Nếu đơn độc chẳng phá được thời bạn cũng chẳng phá được. Như một người mù chẳng thấy được màu sắc, dầu dắt cả lũ bạn mù cũng chẳng thấy được. Tỳ-bà-xá-na cũng như vậy.
Đơn độc phá không được thì cả đám phá cũng không được. Đó là Phật nói trí tuệ không phá phiền não đơn độc và có bạn.
Này thiện nam tử! Như địa đại thời tánh chất là cứng, hỏa đại tánh chất là nóng, thủy đại tánh chất là ướt, phong đại tánh chất là động. Tánh chất cứng của địa đại nhẫn đến tánh chất động của phong đại, chẳng phải nhân duyên làm ra, tánh của nó tự như vậy. Như tánh chất của tứ đại, phiền não cũng vậy, tánh của nó là tự phải dứt mất. Nếu là tự dứt mất sao lại nói rằng trí huệ hay dứt. Do nghĩa này nên rằng Tỳ-bà-xá-na quyết định chẳng thể phá các phiền não.
Đất thì tánh nó tự cứng, lửa tánh nó tự nóng, nước tánh nó tự ướt, gió tánh nó tự động. Tánh tự cứng, tánh tự ướt, tánh tự động… không phải nhân duyên làm ra mà tánh của nó như vậy. Tánh phiền não là tự dứt mất, cho nên không thể nói trí tuệ dứt nó. Bởi vì tánh phiền não là không, nên khi mình biết thì phiền não tự hết chứ không có đánh phá gì. Như nghe ai nói trái tại thì nổi giận ầm ầm lên, khi biết giận là sai, nó nguội xuống, kiếm không có dấu vết thì biết tánh nó là không, chỉ duyên khởi huyễn có vậy thôi. Người ta hay tự vỗ ngực nói rằng tánh tôi nóng lắm, khi nói vậy là chấp nhận cái nóng đó là thật không cải đổi được. Chấp nhận phiền não là thật thì không trị được phiền não. Biết phiền não không thật, tin phiền não không có duyên thì rất dễ hết phiền não.
Này thiện nam tử! Như chất muối là mặn làm cho vật khác mặn, chất mật là ngọt làm cho vật khác ngọt, chất nước là ướt làm cho vật khác ướt. Tánh của trí huệ là diệt làm cho các pháp diệt, nghĩa này chẳng đúng. Vì nếu pháp không diệt thời trí huệ làm thế nào diệt được?
Nói trí tuệ có tánh diệt phiền não thì nghĩa đó không đúng. Vì sao? Nếu pháp đó không thể diệt được thì dù có trí tuệ cũng không thể diệt được.
Nếu nói muối mặn làm cho vật khác mặn, tánh trí huệ là diệt cũng làm cho pháp khác diệt, lời này cũng chẳng đúng. Vì tánh của trí huệ niệm niệm diệt. Nếu niệm niệm diệt thời đâu có thể diệt pháp khác. Do nghĩa này nên biết rằng tánh trí huệ chẳng phá phiền não.
Trí tuệ niệm niệm sanh ra, cũng niệm niệm diệt đi, chính nó đã là diệt thì làm sao nó diệt cái khác. Như vậy trí tuệ không phá phiền não. Tánh phiền não không thật, tánh trí tuệ cũng không thật. Phật nói không phá là để cho mình thấy phiền não không thật thì trí tuệ cũng không thật, nhưng khi phiền não dấy lên cũng tạm mượn trí tuệ để soi, phiền não mất tạm nói là phá, sự thật không có phá. Vì không đến nhau và vì không thật cho nên không có nghĩa phá, nhưng mà vẫn có hiệu dụng như thường.
Này thiện nam tử! Tất cả các pháp có hai thứ diệt: một là tánh diệt, hai là rốt ráo diệt. Nếu là tánh diệt sao lại nói rằng trí huệ có thể diệt.
Nếu nói trí huệ có thể diệt phiền não như lửa đốt cháy đồ vật, nghĩa này chẳng đúng. Vì như lửa đốt cháy đồ vật thời có tro tàn, trí huệ nếu như vậy thời lẽ ra cũng còn có tàn dư.
Vì tánh phiền não là diệt mà nói rằng trí tuệ diệt phiền não là vô lý. Nếu như trí tuệ phá phiền não thì tất nhiên phải có tàn tích. Ví dụ khi dẹp bọn cướp thì lúc đó bọn cướp hoặc bị bắt làm tù nhân, hoặc bị giết thì có xác, chôn đi thì có mả có mồ, là có tàn tích. Còn phiền não dứt lại không có tàn tích. Vì vậy biết trí tuệ không diệt phiền não, mà phiền não tánh tự diệt. Do tánh tự diệt cho nên vừa nhìn là nó mất, chứ không phải đợi đập phá mới mất.
Như búa chặt cây, chỗ bị chặt có thể thấy được, trí huệ nếu như vậy thời có gì là có thể thấy được?
Trí huệ nếu có thể làm cho phiền não rời lìa đó, thời phiền não kia lẽ ra hiện ra chỗ khác. Như các ngoại đạo rời sáu thành lớn mà hiện đến ở nơi thành Câu-thi-na. Nếu phiền não này chẳng hiện ra nơi khác, thời biết rằng trí huệ chẳng có thể làm cho phiền não rời lìa.
Trí tuệ nếu dẹp phiền não mà mình không thấy vết tích dẹp nên biết tánh nó tự diệt, tự tánh là không. Đó là lý của Đại thừa.
Tham sân si dấy lên, nếu nó rời lìa thì đuổi chỗ này nó sẽ chạy ẩn chỗ khác. Như sáu nhà ngoại đạo, Phật đến chỗ này mà họ không kham thì họ đến chỗ kia, Phật đến chỗ kia họ đi chỗ nọ, tức là phải rời chỗ này đến chỗ nọ. Phiền não cũng vậy, nếu do trí tuệ làm nó rời lìa, thì phải chạy từ chỗ này đến chỗ khác, nhưng sự thật không phải vậy, cho nên biết trí tuệ không thể làm cho phiền não rời lìa.
Này thiện nam tử! Tất cả các pháp nếu tánh nó tự không, thời ai có thể làm cho nó sanh? Ai có thể làm cho nó diệt? Sanh khác diệt khác, không ai tạo tác. Nếu người tu tập chánh định thời được biết được thấy chân chánh như vậy. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói: Nếu có Tỳ-kheo tu tập chánh định, thời có thể thấy tướng sanh diệt của ngũ ấm.
Nó đã tự không thì không ai làm cho nó sanh mà cũng không ai làm cho nó diệt. Tại sao? Vì đủ duyên thì hiện, hết duyên thì không, vì tự tánh không thật. Chúng ta tu là dẹp hết các duyên khiến phiền não khởi, tự nhiên phiền não hết. Chỉ có người nào tu tập chánh định rồi mới thấy biết rõ ràng điều đó.
Tu tập chánh định chúng ta mới thấy tướng sanh diệt của ngũ ấm. Ví dụ như những vị tu sổ tức quán, khi tới giai đoạn tùy tức, họ sẽ được mười sáu đặc thắng, như họ ngồi thở, thấy các lỗ chân lông cũng thở đều đều theo nhịp thở của họ, rồi nghe từng mạch máu nhảy… Trong chánh định thấy sự sanh diệt của thân này rõ ràng. Còn chúng ta đang làm việc này tính việc nọ, không bao giờ thấy những điều đó, không bao giờ biết rằng hơi thở theo lỗ chân lông ra vào như thế nào, cũng không thấy các mạch máu nhảy như thế nào. Vì tâm ồn náo quá nên không thấy được trong thân mình. Người mà nhập định yên tịnh rồi mới thấy rõ trong thân mình nên biết không lầm. Kinh thường nói do định mà thấy được cái chân thật.
Này thiện nam tử! Nếu chẳng tu tập chánh định, thời việc thế gian còn không thể rõ biết huống là ở nơi đạo xuất thế. Nếu người không có chánh định, thời té ngã nơi đất bằng, tâm duyên pháp khác, miệng nói lời khác, tai nghe tiếng khác, ý hiểu nghĩa khác, muốn đọc chữ khác, tay biên văn khác, muốn đi đường khác thân bước nẻo khác. Nếu người có tu tập tam-muội chánh định thời được lợi ích lớn nhẫn đến được vô thượng Bồ-đề.
Tâm rối loạn, việc thế gian nhiều khi còn tính không ra huống nữa là việc xuất thế. Hằng ngày công việc bề bộn quá, bị việc này việc kia kêu gọi lăng xăng, có việc cần phải suy nghĩ tính toán để sắp đặt nhưng suy nghĩ không được, đầu óc rối loạn. Muốn tính được thì phải dừng lại nghỉ một chút, ngồi yên lặng suy nghĩ mới ra, sắp đặt mới ổn… Như làm bài luận mà có khách ồn thì cũng không làm gì được; phải vắng khách, tâm thần khoan khoái tỉnh táo, viết mới được.
Phật nói thật rõ ràng. Người ngồi thiền, bị ngứa lấy tay gãi thì biết chưa được định; phải giữ thân không động, cái gì xảy ra mặc nó thì mới định được. Làm việc này lẫn việc kia thì không định. Đi cũng vậy, có khi vấp cục đá té nhào, vì thân một đường mắt một ngả bị phân tâm. Nếu tâm định thì đi biết đi, ngồi biết ngồi, tâm ý dồn vào một chỗ thì làm gì cũng nghiêm chỉnh. Sáu căn mỗi cái duyên theo một việc thì bị phân tán chẳng khác trong nhà có sáu người mỗi người chạy đi mỗi nơi, ăn cướp vô nhà như vô nhà trống tự do hoành hành. Nếu sáu người gom ở trong nhà thì ăn trộm vô họ tống ra dễ dàng. Người an trụ được trong định thì muốn nghĩ thì nghĩ, không muốn nghĩ thì thôi. Cho nên tập tâm an định là một việc rất hay, chẳng những hay cho người tu xuất thế mà người thế gian biết tập thì cũng mạnh mẽ.
Ở Nhật có những chỗ tham thiền công cộng cho dân chúng, họ quen tập tham thiền, tập định tâm nên khi làm việc họ chăm chú, đem hết tinh thần mà làm nên họ làm được việc, còn mình tâm tán loạn yếu ớt thành ra dễ thất bại. Khi nào người Việt Nam hiểu được thiền, biết ngồi thiền mỗi sáng nửa giờ hoặc một giờ rồi đi làm thì có thể chúng ta sẽ có sức mạnh, làm việc trôi chảy vì mình đem hết tâm trí vào việc làm thì công việc sẽ thành tựu tốt đẹp và mau lẹ. Tu thiền giúp cho người dân mạnh và giúp cho người tu đủ sức chiến thắng phiền não, đến vô thượng Bồ-đề.
Trong kinh A-hàm Phật cũng dạy như vậy: Khi đi phải biết mình đi, đó là thiện hay là ác, đi để làm gì. Khi nói phải biết mình nói thiện hay nói ác, nói để làm gì… Tức là phải luôn luôn kiểm soát những hành động của mình, đừng hành động một cách vô ý thức, như vậy là mình kiểm soát được tâm, làm chủ được. Tôi thường hay dạy phải tập làm sao cho tâm mình giống như tủ của mấy tiệm thuốc Bắc, khi cần món gì thì rút một ngăn đó thôi, như vậy thì mình tuy làm việc mà không động, Giờ nào ngồi thiền thì chỉ có một việc ngồi thiền, giờ lạy Phật chỉ có việc lạy Phật, giờ công tác thì chỉ công tác. Đừng có công tác ở đây mà làm việc khác, đang ngồi thiền mà nghĩ tới chuyện công tác ngày mai, đó là lộn xộn. Tập quen thì mình có sức mạnh làm chủ. Đó là nói giai đoạn tập, đến khi thuần thục rồi thì đi đứng nằm ngồi, làm gì cũng thiền.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát đầy đủ hai pháp thời có lợi ích lớn: một là định, hai là trí.
Này thiện nam tử! Như cắt cỏ ống nếu kéo mạnh quá thời đứt. Đại Bồ-tát tu tập hai pháp này cũng như vậy.
Này thiện nam tử. Như nhổ cây cứng, trước dùng tay lay động, lúc sau nhổ lên dễ. Bồ-tát cũng như vậy, trước dùng định để động, rồi sau dùng trí để nhổ.
Phải khéo léo. Ai ở miền quê thì chắc biết cắt cỏ ống. Cỏ ống dài cả sải, lóng ở giữa, nếu kéo mạnh thì đứt lóng nên phải khéo cắt rồi kéo nhẹ nhẹ thì nó lên, không đứt. Phật dạy trước phải dùng định để động và có tuệ để nhổ thì mới được việc là dứt phiền não.
Tam Bình, thị giả ngài Đại Điền cũng dẫn câu này để giải thích việc gõ giường thiền của mình: Dùng định để động rồi dùng trí để nhổ. Bồ-tát lúc nào cũng vậy, dùng định để động phiền não rồi mới dùng trí nhổ lên.
Này thiện nam tử! Như giặt y dơ, trước dùng nước tro, sau dùng nước trong, thời y được sạch sẽ. Định huệ của Bồ-tát cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như trước dọc tụng rồi sau hiểu nghĩa. Định huệ của Bồ tát cũng như vậy.
Như người dũng kiện trước dùng khôi giáp đao trượng để tự võ trang, rồi sau ra trận có thể phá tan quân địch. Định huệ của đại Bồ-tát cũng như vậy.
Như người thợ dùng kềm cùng khuôn để gắp và đựng vàng tự tại theo ý muốn: khuấy trộn đất cháy. Định huệ của Bồ-tát cũng như vậy.
Ví như gương sáng chói rõ mặt mắt. Định huệ của Bồ-tát cũng như vậy.
Như trước dọn đất rồi sau mới gieo giống, trước theo thầy học rồi sau mới suy nghĩ nghĩa lý. Định huệ của Bồ-tát cũng như vậy.
Do những nghĩa trên đây, nên đại Bồ-tát tu tập hai pháp này thời được lợi ích rất lớn.
Trước đọc tụng là dụ cho định, sau hiểu nghĩa dụ cho tuệ. Khôi giáp đao trượng dụ cho định, phá tan quân địch dụ cho tuệ. Dùng những món đồ để đựng dụ cho định, khuấy trộn đốt cháy là tuệ. Gương sáng dụ cho định, soi tỏ mặt mắt dụ cho tuệ. Người làm vườn trước dọn đất là dụ cho định, sau gieo giống là dụ cho tuệ. Người trước theo thầy học là định, sau hiểu được nghĩa lý là tuệ.
Đại Bồ-tát tu tập hai pháp định huệ này, điều nhiếp năm căn, kham nhẫn các sự khổ: đói, khát, lạnh, nóng, đánh đập, mắng nhục, thú dữ cắn, muỗi mòng chích, thường nhiếp tâm mình chẳng cho phóng dật, chẳng vì lợi dưỡng mà làm việc phi pháp, khách trần phiền não chẳng nhiễm ô được, chẳng bị những thuyết tà ngoại làm mê lầm, thường có thể xa lìa những ác giác quán, chẳng bao lâu sẽ thành tựu vô thượng Bồ-đề, vì muốn thành tựu lợi ích tất cả chúng sanh.
Chính vì thành tựu vô thượng Bồ-đề để làm lợi ích tất cả chúng sanh, do định và tuệ mà chúng ta mới kham nhẫn được đói khát lạnh nóng… và mới nhiếp phục được tâm phóng dật, nhiếp phục được khách trần phiền não, không bị nhiễm ô. Như ngồi thiền ban đêm, muỗi cắn nhiều quá, nếu không có định tuệ thì chịu nổi không? Một con cắn còn ráng, hai con cắn hơi bực bội, ba con thì chắc cái tay không dung thứ, lúc đó mình loạn rồi. Muốn thắng được phải nhờ định, phải nhiếp tâm không thèm chú ý tới nó. Nhưng chỉ có định thì không được, muỗi cắn đau quá cũng nổi nóng; phải có tuệ, quán thân mình cũng như thân chúng sanh, mình có chừng hai hoặc bốn lít máu, mười con muỗi cắn mất chút xíu máu, có chết chóc đâu mà sợ, bố thí nó một chút đi. Dùng trí quán như vậy thì làm thinh, đau cũng bỏ qua. Như vậy có định có tuệ mới có thể thắng được.
Ví dụ bị người ta mắng là con chó, mình giận nhưng dằn xuống, suy nghĩ họ nói ta là chó mà ta đã là chó chưa? Phải chỉ nói là chó mà mình biến thành bốn chân chạy la ăng ẳng thì giận là phải, vì họ làm mình khổ; nhưng mình vẫn là người như thường thì có gì mà giận. Đó là quán, là trí tuệ. Phải đủ định tuệ mới có thể nhẫn được, nếu không có định tuệ thì nhịn không nổi. Người đời động tới thì việc nhỏ biến thành việc lớn, người tu nhiều khi những việc lớn bằng trời mà trở thành việc nhỏ vì có định tuệ. Phật dạy định tuệ là then chốt tu hành, nếu thiếu nó thì không thể nào tu được.
Đại Bồ-tát tu hai pháp định huệ này thời bốn luồng gió dữ tứ đảo chẳng thể thổi động, như núi Tu-di. Các tà ma dị thuật chẳng thể phỉnh lầm. Thường hưởng thọ sự vui vi diệu thứ nhất.
Tứ đảo là thân bất tịnh mà tưởng là tịnh, thân khổ mà tưởng là lạc, thân vô thường tưởng là thường, thân vô ngã tưởng là ngã. Nhờ định tuệ biết rõ sự thật nên bốn luồng gió dữ của tứ đảo này thổi không động, vững vàng như núi Tu-di.
Có sức định tuệ thì nhận ra tà chánh, không bị mê lầm. Có người dám cúng chùa năm ba trăm ngàn, một hai triệu mà không chịu tu định tuệ, cho nên cúng thì có cúng nhưng gặp duyên tà my thấy hấp dẫn hơn thì họ theo liền. Nếu tu định tuệ biết tà mỵ thì đâu bị gạt, tâm sẽ an lành, đó là sự vui vi diệu đệ nhất.
Có thể hiểu nghĩa bí mật rất sâu của Như Lai. Được vui chẳng mừng gặp khổ chẳng buồn. Chư thiên và người đời cung kính tán thán. Thấy rõ sanh tử và chẳng sanh tử. Có thể rõ biết pháp giới pháp tánh pháp thân thường, lạc, ngã, tịnh, đây thời gọi là đại Niết-bàn.
Người có định tuệ biết được nghĩa sâu xa của Như Lai, gặp vui cũng không quá xao động, gặp khổ cũng không chán nản, nên nói vui chẳng mừng khổ chẳng buồn, được trời người khen ngợi. Do định tuệ mà biết rõ sanh tử nên không bị nó lôi, vì vậy mà chẳng sanh tử.
Này thiện nam tử! Định tướng gọi là Không tam-muội. Huệ tướng gọi là Vô nguyện tam muội. Xả tướng gọi là Vô tướng tam-muội.
Không duyên theo tất cả pháp gọi là Không tam-muội. Biết các pháp huyễn hóa nên không mong cầu là Vô nguyện tam-muội. Không kẹt trong tất cả tướng là Vô tướng tam-muội.
Này thiện nam tử! Nếu có đại Bồ-tát biết rành thời gian định, thời gian huệ, thời gian xả, và biết phi thời, đây gọi là đại Bồ-tát thật hành đạo Bồ-đề.” “Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát biết thời cùng phi thời?”
“Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát vì hưởng thọ sự vui mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì thuyết pháp mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì tinh tấn mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì hiểu nghĩa vấn đáp giỏi mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì gần bạn ác mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì bố thí nhiều mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì có công đức lành thế gian mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì được người giàu sang cung kính mà sanh lòng kiêu mạn, nên biết những lúc như vậy chẳng nên tu tập trí huệ, mà phải tu tập chánh định, đây gọi là Bồ-tát biết thời cùng phi thời.
Khi Bồ-tát dấy tâm kiêu mạn vì những nhân duyên trên, thì không nên tu trí tuệ, nên tu định cho tâm lặng xuống thì kiêu mạn mới chìm, nếu suy nghĩ nữa thì loạn. Đó là biết thời.
Nếu có Bồ-tát tinh tấn tu hành chưa được quả Niết-bàn an lạc, vì chẳng được mà sanh lòng hối hận, vì độn căn nên chẳng điều phục được ngũ căn, vì thế lực phiền não thạnh, vì tự nghi giới luật có kém tổn, nên biết rằng lúc như vậy chẳng nên tu chánh định, mà phải tu tập trí huệ, đây gọi là Bồ-tát biết thời và phi thời.
Khi gặp phiền não, thắng không nổi rồi nghi ngờ mình giới luật suy yếu, tu hành không tiến… lúc đó nên dùng trí tuệ mà quán chiếu, quán phiền não không thật, hay các pháp đều là không, thân năm uẩn này là giả dối như hoa đốm trong hư không… để cho tâm mạnh lên thì mới có thể tiến được. Cho nên khi sanh lòng hối hận, thế lực phiền não quá thạnh… lúc đó nên tu quán mà không nên tu định. Bồ-tát biết thời và phi thời là như thế.
Nếu có Bồ-tát hai pháp định huệ chẳng bình đẳng, nên biết lúc như vậy chẳng nên tu hạnh xả lúc định huệ bình đẳng thời nên tu hạnh xả, đây gọi là Bồ-tát biết thời và phi thời.
Nếu có Bồ-tát lúc tu tập định huệ nếu có phiền não khởi lên, nên biết lúc như vậy chẳng nên tu hạnh xả, mà phải đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thiên, niệm Thí xả, đây gọi là tu xả.
Nếu có Bồ-tát tu tập ba pháp tướng như vậy, do nhân duyên này đặng vô tướng Niết-bàn.”
Hai pháp định tuệ chẳng bình đẳng tức là có khi quá định hoặc quá tuệ, không quân bình thì không nên tu xả. Khi nào hai pháp định tuệ quân bình thì mới nên tu xả.
Phật dạy những phương tiện khéo léo, khi phiền não khởi phải đi đọc tụng biên chép kinh…, quên nó một lúc đi cho tâm lặng xuống, ngồi lại mới được. Lúc phiền não mạnh quá, mình kìm chừng nào nó càng giãy giụa chừng nấy, khiến đau đầu rồi sanh bệnh, nên biết phải bỏ qua làm chuyện khác. Sự thật chúng ta lâu lâu có những chuyện bất thường xảy đến, nhất là những vấn đề quan trọng, giải quyết không được thì phải khéo chuyển qua cái khác. Cho nên tu biết phương tiện thì không có gì khó, không biết thì giải quyết không nổi.
Nếu tu tập khéo léo như vậy thì sẽ được vô tướng Niết-bàn.
“Bạch Thế Tôn! Vì không mười tướng gọi là đại Niết-bàn là vô tướng. Lại do nhân duyên gì gọi là vô sanh, vô xuất, vô tác, là nhà cửa, cồn bãi, chỗ về, là an ổn, diệt độ Niết-bàn, tịch tịnh, không các bệnh khổ, là không chỗ có?”
Niết-bàn là không có mười tướng như trước đã nói đủ rồi, tại sao lại nói Niết-bàn là vô sanh, vô xuất, vô tác, nhà cửa, cồn bãi, chỗ về… Bồ-tát Sư Tử Hống muốn đức Phật giải thích rõ những nghĩa sau.
“Này thiện nam tử! Vì không nhân duyên nên gọi là vô sanh, vì vô sanh nên gọi là vô xuất. Vì không tạo nghiệp nên gọi là vô tác. Vì chẳng vào năm thứ tà kiến nên gọi là nhà cửa. Vì rời lìa bốn dòng nước mạnh nên gọi là cồn bãi. Vì điều phục chúng sanh nên gọi là quy y. Vì phá hoại giặc phiền não nên gọi là an ổn. Vì lửa kiết sử tắt nên gọi là diệt độ. Vì lìa giác quán nên gọi là Niết-bàn. Vì xa ồn náo nên gọi là tịch tịnh. Vì dứt hẳn sanh tử nên gọi là không bệnh tử. Vì tất cả không có nên gọi là không chỗ có. Nếu đại Bồ-tát quan sát như vậy thời đặng thấy rõ Phật tánh.”
“Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát thành tựu bao nhiêu pháp thấy được vô tướng Niết-bàn như vậy nhẫn đến không chỗ có?”
Vì được Niết-bàn là được Phật tánh. Đó là lý do Niết-bàn mang nhiều tên. Bồ-tát thấy Niết-bàn vô tướng, vô sanh, vô xuất, vô tác, cồn bãi.. cho đến không chỗ có.
“Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát thành tựu mười pháp thời thấy rõ Niết-bàn vô tướng, nhẫn đến không chỗ có: một là tín tâm đầy đủ, nghĩa là thâm tín Phật, Pháp và Tăng là thường trụ, thập phương chư Phật phương tiện thị hiện. Tất cả chúng sanh và nhất xiển-đề đều có Phật tánh. Chẳng tin đức Như Lai là sanh lão bệnh tử và tu khổ hạnh. Chẳng tin Đề-bà-đạt-đa là thật phá Tăng làm thân Phật ra máu. Chẳng tin đức Như Lai rốt ráo nhập Niết-bàn, chánh pháp diệt hết. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ tín tâm.
Phật dạy cũng tin Phật pháp tăng, nhưng tin Phật pháp tăng đều thường trụ. Sở dĩ thường trụ đó nên nói rằng thập phương chư Phật phương tiện thị hiện ra sanh tử, chứ không phải thật sanh tử. Tin như vậy là tin được Phật tánh nơi mình và nơi mọi người kể cả nhất-xiển-đề đều có Phật tánh.
Vì tin Phật thường trụ nên không tin Như Lai là sanh lão bệnh tử và tu khổ hạnh. Chẳng tin Đề-bà-đạt-đa là thật phá Tăng làm thân Phật ra máu. Chẳng tin đức Như Lai rốt ráo nhập Niết-bàn, chánh định diệt hết. Vì sao? Vì mình biết Đề-bà-đạt-đa là một Bồ-tát hóa thân thị hiện để cho Phật đầy đủ công đức thành Phật, chứ không phải là người ác.
Phật tuy nhập Niết-bàn mà biết đó là thị hiện còn pháp thân là thường trụ, chánh pháp cũng không bao giờ diệt hết, vì chánh pháp là pháp chân thật, là chân lý nên không thể diệt được. Người tin được như vậy mới gọi là đầy đủ tín tâm.
Hai là đầy đủ tịnh giới. Nếu có Bồ-tát tự nói rằng giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng với người nữ kia hòa hiệp, lúc thấy người nữ hoặc cùng nhau nói chuyện cợt đùa cười giỡn, Bồ tát như vậy thành dục pháp hủy phá tịnh giới ô nhục Phạm hạnh khiến giới tạp uế chẳng được gọi là đầy đủ tịnh giới.
Giới này là giới của Bồ-tát chứ không phải giới của Thanh văn, Tuy không có phạm những cái thô nhưng còn thích, còn đùa cợt thì đó cũng coi như phạm, chưa được thanh tịnh.
Lại có Bồ-tát tự nói giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng người nữ hòa hiệp cợt đùa giỡn cười nhưng cách vách nghe những tiếng vòng vàng chuỗi ngọc của người nữ khua động, trong lòng sanh niệm ái trước, Bồ-tát như vậy làm thành dục pháp hủy phá giới thanh tịnh, ô nhục Phạm hạnh, làm cho giới tạp uế, chẳng được gọi là đầy đủ tịnh giới.
Nghĩa là chỉ nghe tiếng mà sanh niệm ái trước cũng là phạm giới chứ chưa được thanh tịnh.
Lại có Bồ-tát tự nói giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng người nữ hòa hiệp cợt đùa giỡn cười nghe tiếng khua động, nhưng lúc thấy người nam đi theo người nữ, hoặc lúc thấy người nữ đi theo người nam, bèn sanh niệm tham đắm, Bồ-tát như vậy làm nên pháp dục, hủy phá tịnh giới, ô nhục Phạm hạnh khiến giới tạp uế, chẳng được gọi là đầy đủ tịnh giới.
Nghĩa là chỉ thấy nam nữ đi chung mà mình thấy thích, thì cũng là tham đắm chưa được thanh tịnh.
Lại có Bồ-tát tự nói giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng người nữ hòa hiệp cợt đùa, nghe tiếng khua, thấy nam nữ theo nhau, nhưng lại muốn sanh cõi trời thọ vui ngũ dục, Bồ tát như vậy làm nên pháp dục, hủy phá tịnh giới ô nhục Phạm hạnh khiến giới tạp uế, chẳng được gọi là đầy đủ tịnh giới.
Muốn về cõi trời hưởng đầy đủ ngũ dục thì cũng là phạm giới, nghĩa là phạm giới ở tương lai, chưa thấy, chưa gì hết mà cũng vẫn phạm, tức là còn ý niệm về hưởng dục cũng là phạm giới. Dứt được mầm ái thật sạch thì mới hoàn toàn là tịnh giới, còn chưa dứt hết mầm ái thì Phật cho rằng chưa được hoàn toàn tịnh giới.
Này thiện nam tử! Nếu có Bồ-tát trì giới thanh tịnh mà chẳng vì giới, chẳng vì Thi-la ba-la-mật, chẳng vì chúng sanh, chẳng vì lợi dưỡng, chẳng vì Niết-bàn, chẳng vì Bồ-đề, chẳng vì Thanh văn và Bích-chi Phật, chỉ vì đệ nhất nghĩa tối thượng mà hộ trì cấm giới, đây gọi là Bồ-tát đầy đủ tịnh giới.
Bồ-tát trì giới chỉ vì một việc là đệ nhất nghĩa, tức là vì đến chỗ cứu cánh Niết-bàn mà trì giới chứ không phải vì gì khác, thì mới gọi là giới thanh tịnh đầy đủ.
Ba là gần gũi thiện tri thức. Nếu có người có thể nói tín, giới, đa văn, bố thí, trí huệ, làm cho mọi người thọ trì thật hành, đây gọi là Bồ-tát thiện tri thức vậy.
Đức Phật dạy, thiện tri thức là người hay nói cho mình đầy đủ niềm tin đối với Tam bảo, nói về trì giới luật, hay dạy cho chúng ta hiểu được Phật pháp nhiều gọi là đa văn, hay dạy cho biết cách thức bố thí, hay mở mang trí tuệ cho mình thì gọi là Bồ-tát thiện tri thức, nên gần gũi.
Bốn là ưa thích nơi tịch tịnh, nghĩa là thân tâm tịch tịnh quan sát pháp tánh thậm thâm của các pháp.
Năm là tinh tấn. Nghĩa là nhiếp tâm quán bốn chân đế, giả sử lửa cháy trên đầu cũng chẳng buông bỏ.
Ở chỗ vắng vẻ thân tâm tịch tịnh để quan sát pháp tánh rất sâu của các pháp không có lầm lẫn.
Khi nhiếp tâm quán một pháp nào đó, dù có gì đến bất thần như lửa cháy trên đầu cũng không sợ, thì mới gọi là tinh tấn.
Sáu là đầy đủ chánh niệm. Nghĩa là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thiên, niệm Thí xả.
Bảy là nhuyến ngữ. Nghĩa là lời nói chân thật, lời nói hòa diệu, hỏi thăm trước, nói phải thời, nói chân chánh.
Tám là hộ pháp. Nghĩa là mến thích chánh pháp, thường ưa diễn thuyết, đọc tụng, biên chép, tư duy ý nghĩa, tuyên dương sâu rộng làm cho chánh pháp được lưu bố, nếu thấy người khác biên chép giải thuyết đọc tụng, tán thán tư duy ý nghĩa, vì sanh sống mà cúng dường y phục, ẩm thực, đồ nằm, thuốc men, vì hộ pháp nên chẳng tiếc thân mạng.
Tự mình tuyên dương đọc tụng biên chép diễn thuyết chánh pháp, lại thấy ai làm những việc đó mình cũng sẵn sàng cúng dường bố thí giúp đỡ thuốc men… để cho họ đủ phương tiện, như vậy gọi là hộ pháp,
Chín là đại Bồ-tát thấy có bạn đồng học đồng giới thiếu thốn đồ cần dùng, như y phục, thuốc men, đồ uống ăn, phòng nhà v.v.., thời đi khất xin người khác để cung cấp các vị ấy.
Đi xin những người khác để cung cấp giúp đỡ cho bạn đồng học đồng giới khỏi thiếu thốn.
Mười là đầy đủ trí huệ. Nghĩa là quan sát nơi đức Như Lai thường, lạc, ngã, tịnh, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, quan sát hai tướng không và bất không của các pháp.
Hai tướng không và bất không của các pháp tức là những pháp duyên sanh tự tánh là không. Phật tánh, pháp thân, Niết-bàn không phải duyên sanh nên là bất không. Chúng ta phải thường quán sát hai pháp này.
Thường cùng vô thường, lạc cùng vô lạc, ngã cùng vô ngã, tịnh cùng bất tịnh, pháp khác có thể dứt, pháp khác chẳng thể dứt, pháp khác từ duyên sanh, pháp khác từ duyên thấy, pháp khác từ duyên thành quả, pháp khác chẳng phải duyên thành quả, đây gọi là đầy đủ trí huệ.
Này thiện nam tử! Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ mười pháp, có thể thấy rõ Niết-bàn vô tướng.”
Tóm lại, Phật dạy cho chúng ta phải nhìn tường tận các pháp, cái nào sanh diệt, cái nào không sanh diệt. Sanh diệt gọi là không, chẳng sanh diệt gọi là bất không. Cái nào sanh diệt là vô thường, chẳng sanh diệt là thường, Cái nào là lạc, cái nào là vô lạc. Pháp thế gian vì vô thường nên vô lạc, cái không vô thường là lạc. Ngã và vô ngã cũng vậy, Phải luôn luôn nhận định rõ ràng pháp sanh diệt và pháp bất sanh diệt, đừng lầm lẫn thì đó là trí tuệ.
“Bạch Thế Tôn! Như trước kia đức Phật bảo Thuần-đà: Nay ông đã được thấy Phật tánh, được đại Niết-bàn, thành vô thượng Bồ-đề. Lời đó nghĩa thế nào?
Ngài Sư Tử Hống hỏi trước kia Phật nói Thuần-đà đã thấy Phật tánh, được đại Niết-bàn thành vô thượng Bồ-đề, nhưng ngài Sư Tử Hống xét về quả báo, thấy lời đó chưa đúng nên ngài hỏi lời đó nghĩa thế nào?
Bạch Thế Tôn! Như trong kinh nói: Nếu bố thí cho súc sanh thời được phước báo trăm lần hơn, bố thí cho nhất-xiển-đề được phước báo ngàn lần hơn, bố thí cho người trì giới được phước báo trăm ngàn lần hơn, bố thí cho ngoại đạo dứt phiền não được phước báo vô lượng, dâng cúng cho bậc Tứ hướng nhẫn đến bậc Tứ quả cùng Bích-chi Phật thời được phước báo vô lượng, dâng cúng cho bậc bất thối Bồ-tát, bậc đại Bồ-tát thân rốt sau, chư Phật Thế Tôn, thời đặng phước báo vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm.
Bạch Thế Tôn! Nếu ông Thuần-đà hưởng thọ vô lượng như vậy, phước báo này vô tận, thời chừng nào ông sẽ được vô thượng Bồ-đề?
Bạch Thế Tôn! Trong kinh lại có nói nếu có người do tâm ân trọng mà tạo nghiệp thiện nghiệp ác, chắc chắn được quả báo, hoặc hiện đời, hoặc đời kế hoặc đời sau. Nay ông Thuần-đà do tâm ân trọng mà tạo nghiệp thiện, quyết định được phước báo. Nếu quyết định được phước báo thời thế nào chứng được vô thượng Bồ-đề? Thế nào lại được thấy Phật tánh?
Được phước báo vô lượng rồi thì phải hưởng vô lượng kiếp, được phước báo nhiều thì phải hưởng nhiều, làm sao được Niết-bàn? Phật nói ông Thuần-đà được Niết-bàn ngài không tin, vì nếu đúng như vậy ông Thuần-đà phước báo vô tận phải hưởng thọ vô lượng, thì chừng nào sẽ được vô thượng Bồ-đề.
Thuần-đà tâm ân trọng cúng dường Phật và chư tăng, như vậy phước báo lớn quá làm sao được Bồ-đề, sao thấy được Phật tánh? Đó là dẫn cái nghiệp được phước nhiều nên khó được vô thượng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Trong kinh lại nói bố thí cho ba hạng người thời được phước báo vô tận: một là người bệnh, hai là cha mẹ, ba là chư Phật Như Lai.
Bạch Thế Tôn! Và lại trong kinh đức Phật bảo A-nan: Tất cả chúng sanh nếu không có nghiệp cõi Dục thời được vô thượng Bồ-đề, không có nghiệp cõi Sắc cõi Vô sắc cũng như vậy.
Bạch Thế Tôn! Như bài kệ trong kinh Pháp Cú:
Chẳng phải hư không, trong biển cả,
Chẳng phải vào núi, trong kẹt đá,
Tất cả mọi nơi, tất cả chỗ,
Không chỗ nào thoát khỏi quả báo.
Lại thuở kia A-nậu-lâu-đà bạch Phật: Tôi nhớ đời trước nhờ bố thí một bữa ăn mà trong muôn kiếp chẳng đọa ác đạo.
Bạch Thế Tôn! Bố thí một bữa ăn còn được phước báo như vậy, huống là Thuần-đà do tâm kính tín mà cúng dường Phật thành tựu đầy đủ Đàn ba-la-mật.
Bạch Thế Tôn! Nếu phước báo lành là vô tận, thời hủy báng Đại thừa phạm tội ngũ nghịch phá bốn giới trọng, tội nhất-xiển-đề thế nào hết được?
Nếu chẳng hết được thời thế nào có thể được thấy Phật tánh, thành vô thượng Bồ-đề?”
Những đoạn sau dẫn trong kinh cũng một ý. Tóm lại ông Thuần-đà do bố thí cúng dường Phật được vô lượng công đức, nhất là khi Phật sắp Niết-bàn mà còn cúng dường được bữa cơm cuối cùng, đó là phước đức vô lượng vô biên. Trong một bài kinh Phật nói rằng do quán từ bi một ngày một đêm mà được phước bảy đời sanh lên làm vua, bao nhiêu đời làm trời Đế-thích, vô lượng đời ở cõi trời… Như vậy ông này bố thí cho Phật thì phải sanh lên cõi trời vô lượng đời để hưởng phước thì đâu được vô thượng Bồ-đề.
Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Chỉ có hai hạng người có thể được vô lượng vô biên công đức chẳng thể tính đếm chẳng thể tính nói, có thể cạn dòng sông sanh tử, hàng phục ma oán, xô ngã tràng ma, có thể chuyển pháp luân vô thượng. Một là người khéo hỏi, hai là người khéo đáp.
Này thiện nam tử! Trong mười trí lực của Phật, nghiệp trí lực là rất sâu hơn cả.
Có những chúng sanh ở trong nghiệp duyên lòng khinh dễ chẳng tin, vì độ họ mà Phật nói như vầy: Tất cả nghiệp gây tạo ra, có nghiệp nhẹ có nghiệp nặng. Hai nghiệp lại đều có hai: một là quyết định, hai là bất định.
Có hai thứ, nghiệp nặng và nghiệp nhẹ, hai thứ này đều có định và bất định.
Này thiện nam tử! Hoặc có người cho rằng ác nghiệp không quả, nếu nói ác nghiệp quyết định có quả báo, tại sao Khí Hứ Chiên-đà-la mà được sanh lên trời? Ương-quật-ma-la được quả giải thoát? Do đây nên biết tạo nghiệp có quyết định được quả báo và chẳng quyết định được quả báo.
Khí Hứ Chiên-đà-la là người sát sanh được Phật độ lên cõi trời. Ương-quật-ma-la là người giết nhiều nhân mạng cho đến muốn giết cả mẹ, được Phật độ rồi giải thoát. Như vậy nghiệp đó có quyết định trả và không quyết định trả, trả tức là quả báo.
Ta vì trừ tà kiến này, nên trong kinh ta nói rằng tất cả nghiệp tạo ra không nghiệp nào chẳng có quả báo.
Này thiện nam tử! Hoặc có nghiệp nhẹ có thể làm cho nặng. Chẳng phải tất cả người chỉ có ngu và trí. Do dây nên biết chẳng phải tất cả nghiệp đều quyết định có quả, dầu chẳng quyết định có quả nhưng cũng chẳng phải là chẳng có.
Phật sợ người ta thấy Ương-quật-ma-la là người sát sanh được giải thoát, Khí Hứ Chiên-đà-la là người sát sanh được Phật độ lên cõi trời, như vậy nghiệp không có quả báo. Vì muốn trừ tà kiến đó nên Phật nói tất cả nghiệp thiện nghiệp ác đều có quả báo.
Ở đời không chỉ có hai hạng người ngu và trí thôi, mà cũng có người ngu ít người ngu nhiều, người trí ít người trí nhiều, người nửa ngu nửa trí… Không có quyết định mà cũng không phải là không quyết định.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh có hai hạng: người trí và kẻ ngu. Người trí nhờ sức trí huệ có thể làm cho nghiệp địa ngục rất nặng trở thành quả báo nhẹ hiện đời. Người ngu si thời hoặc lại làm cho nghiệp nhẹ hiện đời trở thành quả báo nặng nơi địa ngục.”
Nghiệp có thể chuyển chứ không phải là cố định, có thể chuyển thành nhẹ mà cũng có thể làm nặng thêm. Như có người ăn cướp ăn trộm, gây nghiệp địa ngục, súc sanh… nhưng bây giờ họ ăn năn thức tỉnh, phát tâm quy y Tam bảo, phát tâm tu hành, phát tâm làm phước, bao nhiêu công hạnh đó họ đều nguyện hồi hướng tiêu trừ những nghiệp cũ. Những nghiệp lẽ ra phải đọa địa ngục thì bây giờ họ chỉ bị bệnh hoạn hoặc mắc những tai nạn gì trong hiện đời rồi hết chứ không xuống địa ngục. Đó gọi là người trí chuyển nghiệp nặng thành nhẹ.
Trường hợp thứ hai là người ngu. Họ chẳng phải là kẻ cướp hay kẻ giết người, nhưng tham lam hoặc giận dữ mắng chửi thiên hạ. Tội nhẹ không đến nỗi phải đọa địa ngục, nhưng họ cho đó là hay, là hơn người, cứ nuôi dưỡng những thói xấu ấy mỗi ngày mỗi tăng, gây oán thù với người, nghiệp trở thành nặng phải đọa địa ngục. Đó là người ngu, tuy làm nghiệp nhẹ mà rồi phải đọa địa ngục.
Chúng ta tu hành, nếu ai từ quá khứ có làm những điều ác, bây giờ phải đau ốm, bệnh hoạn, tật nguyền… thì nên vui vẻ mà chịu, “Tôi biết nghiệp của tôi là nghiệp địa ngục, bắt tôi trả bây giờ thì tôi khỏi địa ngục”, mừng vì mình trả hiện tại để khỏi đọa địa ngục, chứ không nên buồn tại sao tu mà có những tai nạn này, phiền phức kia… Người mà phiền hà là không biết chuyển nghiệp, người biết thì nó hiện ra chừng nào mình mừng chừng nấy, vì biết dù chịu khổ gì đi nữa cũng nhẹ hơn đọa địa ngục. Đọa địa ngục là khổ gấp nghìn triệu lần cái khổ của nhân gian này, vì vậy không than phiền, không buồn trách gì hết, cười mà thọ thì đó là người hiểu lẽ chuyển nghiệp. Người thế gian không hiểu, tu hành khá khá gặp những tai nạn dồn dập quá chịu không nổi, cầu xin cho đừng đổ nghiệp nữa. Đó là người muốn âm thầm xuống địa ngục. Khổ ở thế gian này cao lắm là hai ba chục năm, còn khổ địa ngục là vô lượng kiếp, cái nào dài cái nào ngắn? Cái nào khổ nhiều cái nào khổ ít? Cho nên hiểu được lẽ đó, gặp trường hợp như vậy chúng ta đừng bảo họ coi chừng đổ nghiệp, mà bảo họ ráng tu cho đổ nghiệp nhiều chừng nào tốt chừng nấy, hết là sạch. Đó là lẽ chuyển nghiệp Phật đã dạy, vì nghiệp có định và bất định, tuy nghiệp nặng mà vẫn có cái bất định nên cố gắng tu thì chuyển nó được, chuyển được thì nghiệp sẽ nhẹ, nếu để nguyên vẹn thì nó còn nặng hơn.
Có nhiều người phân bì, thấy người làm ác quá chừng mà sao suốt đời yên ổn. Đâu ngờ chính suốt đời yên ổn đó là cái nghiệp để xuống địa ngục chịu, vì ở đây không đủ sức trả. Còn người biết ăn hiền ở lành, làm việc phước đức mà sao cứ tai nạn dồn dập! Cũng là những nghiệp hoặc đời này hay đời trước làm khổ thiên hạ, lẽ ra phải chịu ở tương lai lâu hơn, bây giờ nó hiện dồn, mình chịu thì trả cho hết. Cũng như thiếu nợ một triệu, người ta chưa đòi thì mình chưa trả, lúc đó thấy như an lành lắm, sung túc lắm. Nhưng tới lúc bị đòi thì tán gia bại sản. Còn thiếu một triệu mà người ta thấy mình ăn ở lương thiện giảm bớt cho mình phân nửa, còn có năm trăm ngàn người ta đòi liền, đòi liền thì mình cũng hơi nhót ruột, nhưng ráng trả thì hết nợ, sung sướng quá còn gì nữa. Như vậy chuyển nghiệp từ nặng biến thành nhẹ, từ định biến thành bất định cũng được chứ không phải không. Cho nên Phật nói người trí chuyển nghiệp nặng thành nhẹ, người ngu chuyển nghiệp nhẹ thành nặng. Ngu vì cho rằng việc nhỏ, cứ tạo hoài cho tới ngày nó biến thành lớn.
“Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời chẳng nên cầu Phạm hạnh thanh tịnh cùng quả giải thoát.”
“Này thiện nam tử! Nếu tất cả nghiệp quyết định có quả thời chẳng nên cầu Phạm hạnh giải thoát. Vì nghiệp bất định nên phải tu Phạm hạnh và quả giải thoát.
Này thiện nam tử! Nếu xa lìa được tất cả nghiệp ác thời được quả lành. Nếu xa lìa nghiệp lành thời mang quả báo ác. Nếu tất cả nghiệp quyết định có quả, thời chẳng nên cần tu tập thánh đạo, nếu chẳng nên tu thánh đạo thời không được giải thoát. Tất cả thánh nhân sở dĩ tu tập thánh đạo vì để phá hoại định nghiệp thành quả báo nhẹ, và làm cho nghiệp bất định không có quả báo.
Bồ-tát Sư Tử Hống khởi nghi, nếu nghiệp chuyển như vậy thì chẳng nên cầu Phạm hạnh thanh tịnh cùng quả báo giải thoát vì chuyển được thì không cần cầu tu.
Phật giải thích, nếu tất cả nghiệp quyết định có quả báo thì chẳng nên cầu Phạm hạnh giải thoát, vì nghiệp bất định nên phải tu Phạm hạnh và quả giải thoát. Ngài Sư Tử Hống tưởng lầm, nếu nghiệp quyết định thì mới tu, nghiệp bất định thì không tu. Trái lại Phật nói nếu nghiệp quyết định thì không cần tu, nếu nghiệp quyết định thì tạo nhân gì phải lãnh quả nấy không tránh được, tu làm gì. Nhờ nghiệp bất định nên mới tu, vì có thể tu chuyển phàm thành thánh. Nghiệp chuyển được chúng ta mới cổ tu thánh đạo, tu thánh đạo mới được giải thoát. Sở dĩ chúng ta tu tập vì cố chuyển những nghiệp nặng biến thành nhẹ, rồi nhẹ làm cho nó tiêu hết mới được giải thoát.
Nếu tất cả nghiệp quyết định có quả, thời chẳng nên cầu tu tập thánh đạo. Nếu ai xa lìa thánh đạo thời không bao giờ được giải thoát. Chẳng được giải thoát thời không được Niết-bàn.
Như vậy rõ ràng Phật nói nghiệp tuy có định và bất định, có nặng và nhẹ, nhưng tất cả đều chuyển được hết, Chữ Nghiệp của đạo Phật là chỉ cho hành động, hành động thì không phải cố định, mà là di chuyển, dời đổi. Một số người tu mở miệng ra nói số mình nghèo, số mình giàu, tức là chấp nhận thuyết định mệnh của Nho giáo, số ra sao phải chịu thế ấy. Đạo Phật không chấp nhận lẽ đó, đời mình có thể chuyển được, thay đổi được cho nên không thể gọi là số, mà là nghiệp duyên. Bởi nghiệp duyên xấu nên mình ráng tu để thành tốt, nghiệp duyên u mê nên mình ráng học hỏi cho sáng suốt. Chúng ta đừng hiểu lầm.
Này thiện nam tử! Nếu tất cả nghiệp quyết định có ngã, thời một đời tạo nghiệp thuần thiện lẽ ra phải mãi mãi thường hưởng thọ quả an vui. Một đời gây tạo tội ác rất nặng lẽ ra cũng mãi mãi chịu quả khổ lớn. Nếu nghiệp quả như vậy thời không có sự tu thánh đạo cùng giải thoát và Niết-bàn. Người làm người thọ, Bà-la-môn làm Bà-la-môn thọ. Nếu như vậy thời lẽ ra chẳng có giòng hạ tiện người hạ tiện. Người lẽ ra luôn luôn là người, Bà-la-môn lẽ ra mãi mãi là Bà-la-môn. Lúc nhỏ tạo nghiệp lẽ ra lúc nhỏ thọ báo chẳng nên đến lúc trung niên và lúc già mới thọ. Lúc già tạo nghiệp ác khi sanh vào trong địa ngục, thân địa ngục lúc trẻ lẽ ra chẳng chịu khổ. Nếu lúc già chẳng sát sanh chẳng nên thuở tráng niên được sống còn, nếu thuở tráng niên chẳng sống còn thời thế nào có tuổi già, vì nghiệp không mất, nếu nghiệp không mất thế nào mà có tu hành thánh đạo đến quả Niết bàn.
Ngã đây là chủ tể, hay là thường nhất, nếu tất cả nghiệp quyết định có chủ tể thì đời đời kiếp kiếp phải hưởng quả an vui chẳng mất, vì chủ tể quyết định. Nếu nghiệp quả như vậy thì không có ai được giải thoát, vì làm phước hưởng phước hoài, làm tội chịu tội hoài, làm sao tiến được? Cho nên không thể tu thánh đạo được, mình có chuyển được nên mới tu thánh đạo. Giai cấp nào ở mãi giai cấp đó. Lúc nào tạo nghiệp, lúc ấy chịu khổ vì nghiệp không mất.
Chỗ này Phật giải thích nghiệp chuyển được chứ không cố định, nếu cố định thì làm lúc nào phải chịu đúng lúc đó không có đổi dời, nhưng có đổi dời tức là có chuyển.
Này thiện nam tử! Có hai thứ nghiệp: định và bất định. Định nghiệp có hai: báo định và thời định. Hoặc có báo định mà thời gian bất định, lúc duyên hiệp thời thọ báo, hoặc ba thời gian thọ báo nghĩa là đời hiện tại thọ, đời kế thọ, đời sau thọ.
Này thiện nam tử! Nếu định tâm làm những nghiệp lành, nghiệp ác, làm rồi sanh lòng rất tin vui mừng, nếu phát nguyện cúng dường Tam bảo, đây gọi là định nghiệp.
Định nghiệp có báo định và thời gian định. Định tâm tức là quyết tâm quyết chí thì thành định nghiệp. Quyết tâm làm lành làm ác thì thành định nghiệp, định tâm cúng dường Tam bảo đều gọi là định nghiệp hết.
Này thiện nam tử! Người trí căn lành sâu chắc khó lay động nên có thể làm cho nghiệp nặng thành nhẹ. Người ngu si điều bất thiện sâu dày nên có thể làm cho nghiệp nhẹ trở thành quả báo nặng. Do nghĩa này nên tất cả nghiệp chẳng gọi là quyết định.
Người sát nhân mà biết tội lỗi của mình, ăn năn hối cải, làm lành làm phước thì chuyển được. Người ngu si quá nặng làm chuyện ác nhỏ, như chửi mắng người không phải cướp giật sát hại, nhưng họ cứ làm mãi thì nó trở thành nghiệp lớn nên từ nghiệp nhẹ mà biến thành nặng. Tóm lại tất cả nghiệp đều chẳng gọi là quyết định.
Đại Bồ-tát không có nghiệp địa ngục, vì chúng sanh mà phát nguyện sanh trong địa ngục.
Này thiện nam tử! Thuở xưa lúc chúng sanh tuổi thọ trăm năm, có hằng sa chúng sanh bị quả báo địa ngục, lúc đó ta thấy như vậy liền phát nguyện thọ thân địa ngục. Nên biết rằng lúc đó Bồ-tát thật không có nghiệp địa ngục, vì chúng sanh mà thọ thân địa ngục. Ở trong địa ngục cả vô lượng năm, và vì những người tội mà phân biệt giảng nói mười hai bộ kinh. Những người tội được nghe kinh pháp thoát khỏi quả báo ác làm cho địa ngục trống không, trừ hạng nhất xiển-đề.
Đây gọi là đại Bồ-tát chẳng phải nơi đời hiện tại, đời kế, đời sau thọ lấy nghiệp ác.
Này thiện nam tử! Trong Hiền kiếp này có vô lượng chúng sanh đọa trong loài súc sanh chịu phải nghiệp báo ác. Ta thấy như vậy, vì muốn thuyết pháp độ chúng sanh, nên phát nguyện làm cheo, nai, gấu, khỉ, rồng, voi, kim sí điểu, bồ câu, cá, tranh, thỏ, rắn, bò, ngựa.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát thật không có nghiệp súc sanh như vậy, vì nguyện lực muốn độ chúng sanh, nên hiện thọ thân súc sanh. Đây gọi là đại Bồ-tát chẳng phải hiện đời, đời kế, đời sau thọ nghiệp ác như vậy.
Này thiện nam tử! Trong Hiền kiếp này, lại có vô lượng vô biên chúng sanh đọa trong loài ngạ quỷ, hoặc ăn đờm dãi, mỡ, thịt, máu, mủ, phẩn giải, thọ mạng vô lượng trăm ngàn muôn năm, không bao giờ nghe đến tên nước huống là con mắt ngó thấy mà được uống. Giả sử thấy nước đằng xa trong lòng muốn đến để uống, nhưng khi đến gần thời nước biến thành lửa đỏ và máu mủ. Hoặc có lúc nước chẳng biến khác, nhưng lại có nhiều người tay cầm binh khí ngăn cản không cho đến uống. Hoặc có lúc trời mưa, nước mưa rớt đến thân họ liền thành lửa. Đây gọi là nghiệp báo ác.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát thật không những nghiệp quả ác như vậy, vì hóa độ chúng sanh làm cho được giải thoát, nên phát nguyện thọ những thân như vậy. Đây gọi là đại Bồ-tát chẳng phải hiện đời, dời kế, đời sau thọ lấy nghiệp quả ác như vậy.
Bồ-tát không có nghiệp địa ngục nghiệp ngạ quỷ nghiệp súc sanh, vì thương chúng sanh cho nên phát nguyện vào đó độ họ. Bồ-tát không có những nghiệp hạ tiện nhưng vì thương chúng sanh nên hiện thân hạ tiện để giáo hóa họ… Tất cả đều là vì thương chúng sanh mà Bồ-tát hiện trong những cảnh khổ, hiện những thân xấu xa… chứ không phải do nghiệp bắt buộc phải chịu như vậy.
Này thiện nam tử! Trong Hiền kiếp này, ta từng sanh vào nhà hàng thịt, nuôi gà, nuôi heo, nuôi bò dê, đi săn bắn, lưới chim, bắt cá, sanh trong nhà Chiên-đà-la, làm kẻ cướp kẻ trộm. Đại Bồ-tát thật không nghiệp ác như vậy, vì muốn độ chúng sanh cho được giải thoát, nên dùng nguyện lực lớn thọ những thân như vậy. Đây gọi là đại Bồ-tát chẳng phải hiện đời, đời kế, đời sau thọ nghiệp báo ác như vậy.
Này thiện nam tử! Trong Hiền kiếp này, ta lại sanh vào chốn biên địa, làm nhiều việc tham dục, sân khuể, ngu si, quen làm những điều phi pháp, chẳng tin Tam bảo và quả báo đời sau, chẳng cung kính cha mẹ tôn trưởng. Thật ra lúc đó Bồ-tát không có những ác nghiệp như vậy. Vì muốn làm cho chúng sanh được giải thoát, nên dùng nguyện lực lớn mà thọ sanh. Đây gọi là đại Bồ-tát chẳng phải hiện đời, đời kế, đời sau thọ ác nghiệp như vậy.
Này thiện nam tử. Trong Hiền kiếp này ta lại thọ lấy thân nữ, thân ác, thân tham, thân sân, thân si, thân tật đố, thân bản sẻn, thân ảo thuật, thân dối trá, thân đần độn. Thật ra lúc đó Bồ-tát không có những nghiệp như vậy, chỉ vì muốn độ chúng sanh cho được giải thoát nên dùng nguyện lực lớn mà được thọ sanh. Đây gọi là đại Bồ-tát chẳng phải hiện đời, đời kế, đời sau thọ lấy nghiệp ác như vậy.
Đại Bồ-tát hiện thọ những thân huỳnh môn, không căn, hai căn và căn bất định cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Trong Hiền kiếp này, ta lại học tập giáo pháp của ngoại đạo Ni-kiền tử, tin thọ giáo pháp của họ: không bố thí, không thờ phụng, không báo bố thí thờ phụng, không nghiệp thiện nghiệp ác, không quả báo thiện ác, không đời hiện tại, không đời vị lai, không đây không kia, không thánh nhân, không thân biến hóa, không đạo Niết-bàn. Thật ra Bồ-tát không có những ác nghiệp như vậy, vì muốn độ chúng sanh cho được giải thoát, nên dùng nguyện lực lớn mà thọ học những tà pháp như vậy. Đây gọi là đại Bồ-tát chẳng phải hiện đời, đời kế, đời sau thọ những ác nghiệp như vậy.
Phật kể lại những chuyện tiền thân trong Hiền kiếp của chính ngài, ngài thọ nhiều thân nghiệp ác nhưng không phải có những nghiệp ấy, mà chỉ vì muốn độ sanh nên dùng nguyện lực thọ sanh, không phải thọ nghiệp ác.
Này thiện nam tử! Ta nhớ thuở xưa cùng Đề-bà-đạt-đa đồng làm chủ đoàn con buôn, mỗi người đều có năm trăm khách buôn, dem nhau đến trong biển lớn để tìm lấy châu báu. Vì nghiệp duyên ác nên dọc đường gặp gió to ghe thuyền hư bể, khách buôn đều chết cả. Lúc đó ta cùng Đề-bà-đạt-đa nhờ nghiệp duyên bất sát được quả báo trường thọ, nên gió thổi tấp vào đất liền. Đề-bà-đạt-đa vì tham tiếc của cải châu báu, nên quá sầu khổ mà khóc lóc. Ta bảo Đề-bà-đạt-đa chẳng nên kêu khóc. Đề-bà-đạt-da liền nói với ta rằng: Như có người nghèo cùng khốn khổ, đến trong gò mả tay nắm tử thi mà nói rằng trông mong người bố thí sự chết vui cho ta, ta sẽ bố thí đời sống nghèo cùng này cho ngươi. Lúc đó tử thi liền ngồi dậy bảo người nghèo cùng rằng: Đời sống nghèo cùng người tự thọ lấy, nay ta rất thích sự chết vui này thật chẳng ham đời sống nghèo cùng của người.
Đề-bà-đạt-đa nói tiếp: Nhưng ngày nay tôi đã không được chết vui mà lại gồm cả sự nghèo cùng, bảo tôi chẳng khóc sao được.
Lúc đó ta lại an ủi rằng: Ông chớ sầu khổ, hiện nay tôi còn được hai viên bảo châu giá trị vô lượng, tôi sẽ chia cho ông. Ta liền chia một viên bảo châu cho Đề-bà-đạt-đa, rồi đến nằm ngủ dưới một cội cây.
Vì quá tham lam nên Đề bà đạt đa sanh ác tâm đâm đui hai mắt của ta để cướp lấy viên bảo châu còn lại rồi bỏ đi.
Lúc đó vì quá đau đớn nên ta rên rỉ. Có một cô gái nghe tiếng rên đến gạn hỏi ta. Ta liền đem tất cả việc trước thuật lại. Cô gái nghe rồi lại hỏi ta: Ông danh hiệu là gì? Ta đáp rằng: Tôi tên là Thật Ngữ. Cô gái lại nói: Làm thế nào biết được ông là Thật Ngữ. Ta liền phát thệ rằng: Nếu hiện nay tôi có lòng quấy nói vu cho Đề-bà-đạt-đa, thời cặp mắt tôi phải mù lòa vĩnh viễn, nếu tôi không hư dối thời xin đôi mắt sáng lại như cũ. Ta phát thệ vừa xong thời đôi mắt ta bình phục như cũ.
Này thiện nam tử! Đây gọi là đại Bồ-tát nói về quả báo đời hiện tại.
Này thiện nam tử! Ta nhớ thuở xưa ta sanh trong nhà Bà-la-môn nơi thành Phú-đơn-na ở Nam Thiên Trúc. Thuở đó có quốc vương tên Ca-la phú tánh tình hung dữ tự cao tự mạn, tuổi trẻ say đắm sắc đẹp ngũ dục.
Vì muốn độ chúng sanh, nên ta ở ngoài thành ngồi yên lặng tham thiền. Lúc đó quốc vương cùng với cung nhân thể nữ ra ngoài thành dạo chơi, dừng ở dưới rừng cây. Các thể nữ nhân đi chơi giỡn bỏ quốc vương mà đến chỗ ta ngồi thiền. Ta liền vì các thể nữ thuyết pháp cho họ bỏ lòng tham dục.
Quốc vương đi tìm các thể nữ, thấy họ đang ngồi quỳ xung quanh ta. Quốc vương giận dữ hỏi ta rằng: Nay nhà ngươi đã chứng quả A-la-hán chưa? Ta nói chưa chứng. Quốc vương lại hỏi nhà ngươi đã được quả A-na-hàm chưa? Ta đáp chưa được. Quốc vương lại nói: Nay nhà ngươi chưa được hai quả ấy thời là người còn đầy đủ tham dục, tại sao nhà ngươi dám buông lung nhìn ngó các thể nữ của ta? Ta liền thưa rằng: Đại vương nên biết cho, nay tôi dầu chưa dứt phiền não tham dục, nhưng trong tâm tôi thật không có niệm tham đắm.
Quốc vương nói: Người ngu si! Trong đời có các tiên nhân khổ hạnh thấy sắc đẹp còn tham, huống là nhà ngươi tuổi còn trai trẻ, chưa dứt tham dục, làm sao thấy sắc đẹp mà chẳng tham đắm?
– Tâu Đại vương! Người thấy sắc đẹp chẳng tham đắm, thật chẳng phải do khổ hạnh, mà do nhiếp tâm quán vô thường bất tịnh.
Quốc vương nói: Nếu khinh khi người khác mà phỉ báng, thời thế nào đặng gọi là tu trì tịnh giới?
– Tâu Đại vương! Nếu có tâm đố kỵ thời có phỉ báng, tôi không tâm đố kỵ thời đâu có phỉ báng.
Quốc vương nói: Này Đại đức! Thế nào gọi là giới?
– Tâu Đại vương! Nhẫn nhục gọi là giới.
Quốc vương nói: Nếu nhẫn nhục là giới, ta sẽ cắt lỗ tai của nhà ngươi, nếu nhà ngươi nhẫn chịu được thời biết là nhà ngươi trì giới.
Quốc vương liền cắt hai tai. Ta dầu bị cắt tai, nhưng nhan sắc chẳng biến đổi. Các quan theo vua thấy việc như vậy liền can gián rằng: Bậc đại sĩ như vậy, Đại vương chẳng nên làm hại.
Quốc vương càng thêm giận bảo các quan: Tại sao các khanh biết là bậc đại sĩ?
– Tâu Đại vương! Vì lúc bị cắt hai tai, chúng tôi thấy dung sắc chẳng biến đổi.
Quốc vương nói: Ta sẽ thí nghiệm coi dung sắc biến đổi hay chẳng biến đổi. Nói xong, Quốc vương liền thẻo mũi chặt tay, chặt chân của ta.
Vì Bồ-tát đã trải qua vô lượng vô biên đời tu tập từ bi thương xót chúng sanh, nên không khổ cũng không giận.
Lúc đó Tứ thiên vương bất bình liền làm mưa cát mưa đá. Quốc vương sợ hãi quỳ trước ta mà thưa rằng: Ngưỡng mong xót thương cho tôi sám hối.
Ta nói: Đại vương! Trong lòng của tôi không sân hận cũng như không tham đắm.
Quốc vương nói: Này Đại đức! Làm thế nào biết được rằng tâm Đại đức không sân hận?
Ta liền phát thệ: “Nếu tôi thật không sân hận nguyện cho thân của tôi bình phục như cũ.” Phát nguyện vừa xong thân thể của ta liền bình phục.
Đây gọi là đại Bồ-tát nói quả báo đời hiện tại.
Phật nói về nghiệp báo đời hiện tại. Những câu chuyện của Bồ-tát thị hiện qua các nơi giáo hóa bị tai nạn, nhưng sau khi phát thệ thì tai nạn đó liền qua.
Này thiện nam tử! Nghiệp lành có quả báo đời kế, quả báo đời sau, nghiệp chẳng lành cũng như vậy. Đại Bồ-tát lúc được vô thượng Bồ-đề, tất cả các nghiệp đều được quả báo hiện tại.
Nghiệp ác chẳng lành mắc lấy quả báo hiện tại như Quốc vương làm ác bị trời mưa cắt mưa đá. Cũng như có người chỉ chỗ ở của gấu và nai bảo sắc, tay người chỉ liền rụng rớt. Đây gọi là nghiệp ác thọ lấy quả báo trong hiện tại.
Đời kế thọ quả báo, như nhất-xiển-đề phạm bốn tội trọng và tội ngũ nghịch.
Quả báo đời sau, như người trì giới phát nguyện lớn: Nguyện đời vị lai thường được giới thân thanh tịnh như vậy. Như có chúng sanh lúc tuổi thọ trăm năm, tám chục năm, trong thời kỳ sẽ làm Chuyển luân thánh vương giáo hóa chúng sanh.
Này thiện nam tử! Nếu là nghiệp quyết định được quả báo trong hiện đời, thời không thể được quả báo đời kế cùng đời sau.
Đại Bồ-tát tu nghiệp nhân ba mươi hai tướng tốt, thời không thể được quả báo trong đời hiện tại. Nếu là nghiệp chẳng thọ lấy ba thứ quả báo như vậy thời gọi là nghiệp bất định.
Này thiện nam tử! Nếu cho rằng những nghiệp nhân quyết định có quả báo, thời chẳng được có sự tu tập Phạm hạnh, giải thoát Niết-bàn. Nên biết rằng người nói lời này chẳng phải là đệ tử của Phật mà chính là quyến thuộc của ma.
Nếu nói rằng các nghiệp có định nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp thời có quả báo hiện tại, quả báo đời kế, quả báo đời sau. Bất định nghiệp thời lúc nhân duyên hội hiệp bèn thọ báo, chẳng hội hiệp thời chẳng thọ báo. Do đây nên có tu Phạm hạnh, giải thoát Niết-bàn. Nên biết rằng người nói lời này thật là đệ tử Phật.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh gây tạo nghiệp bất định thời nhiều, tạo định nghiệp thời ít. Vì thế nên có tu tập đạo hạnh. Do tu tập đạo hạnh nên định nghiệp trọng có thể làm cho thọ báo nhẹ, những nghiệp bất định chẳng thọ quả báo đời kế.
Này thiện nam tử! Có hai hạng người: một là hạng người với nghiệp bất định làm thành quả báo quyết định, quả báo hiện đời làm thành quả báo đời kế, quả báo nhẹ làm thành quả báo nặng, đáng lẽ thọ báo trong loài người mà lại thọ báo ở địa ngục. Hai là hạng người với định nghiệp làm thành bất định nghiệp, đáng lẽ thọ báo đời kế làm cho thọ báo đời hiện tại, báo nặng làm thành báo nhẹ, đáng thọ báo địa ngục làm cho thọ báo nhẹ trong loài người. Hai hạng này, một là kẻ ngu, một là người trí. Người trí làm thành nhẹ. Người ngu khiến cho nặng.
Này thiện nam tử! Ví như hai người mắc tội với nhà vua, người có quyến thuộc đông đảo thời tội tất sẽ nhẹ, người quyến thuộc ít tội nhẹ trở thành nặng. Người trí kẻ ngu si cũng như vậy. Người trí nhờ nghiệp lành nhiều nên tội trọng mà thọ quả báo nhẹ. Người ngu vì nghiệp lành ít nên tội nhẹ mà thọ quả báo nặng.
Này thiện nam tử! Ví như hai người một thời mập mạnh, một thời gầy yếu. Hai người này đều té xuống bùn sâu. Người mập mạnh lên được, người gầy yếu thời lún mất.
Này thiện nam tử! Ví như hai người đồng uống thuốc độc. Một người có thần chú và thuốc A-già đà. Một người không có. Người có thần chú và thuốc thời độc chẳng làm hại được. Người không có bị chất độc hại chết.
Này thiện nam tử! Ví như hai người đồng uống nước trái cây ép. Một người nhiệt lực thạnh, một người suy yếu. Người nhiệt lực nhiều thời tiêu hóa được. Người suy yếu thời bị nước ấy làm thành bệnh.
Này thiện nam tử! Ví như hai người bị nhà vua bắt trói. Một người có trí huệ, một người thời ngu si. Người có trí thời có thể được thoát khỏi. Người ngu si thời không có thời kỳ thoát khỏi.
Này thiện nam tử! Ví như hai người đồng đi trên đường hiểm trở. Một thời mắt sáng. Một thời mù lòa. Người mắt sáng đi thẳng qua không hại gì. Người mù bị sụp té xuống hố sâu.
Này thiện nam tử! Ví như hai người đồng uống rượu. Một thời ăn nhiều. Một thời ăn ít. Người ăn nhiều uống rượu không bị hại. Người ăn ít uống rượu thời thành bệnh.
Này thiện nam tử! Ví như hai người đều đối địch với giặc thù. Một người thời võ trang đầy đủ, một người thời tay không. Người có võ trang ắt phá được kẻ thù. Người tay không tất chẳng khỏi bị hại.
Này thiện nam tử! Ví như hai người bị phẩn như vậy vào y phục. Một người vừa biết liền giặt y phục. Một người biết mà chẳng chịu giặt. Người giặt liền đó thời y phục sạch sẽ. Người chẳng chịu giặt thời nhơ uế càng tăng thêm.
Này thiện nam tử! Lại có hai người đều ngồi xe. Một xe có trục có căm, một xe thời không trục không căm. Người ngồi xe có trục có căm thời tùy ý mà đi. Người ngồi xe không trục không căm thời không đi đâu được.
Lại có hai người đều đi trên đường hoang vắng. Một người có mang lương thực, một người thời đi không. Người có mang lương thời qua khỏi được con đường hiểm. Người đi không ắt chẳng qua được.
Lại có hai người bị kẻ cướp giật. Một người có kho báu kín, một người thời không. Người có kho báu kín thời không lo rầu. Người không có kho báu thời sầu khổ.
Kẻ ngu người trí cũng như vậy. Người trí có kho báu lành nên nghiệp nặng mà thọ báo nhẹ. Người không có báu lành thời nghiệp nhẹ phải thọ báo nặng.
Phật dùng mười hai ví dụ về nghiệp báo. Nếu người biết khéo tu hành sửa đổi thì từ nặng biến thành nhẹ, người không biết tu hành không biết sửa đổi thì từ nhẹ dồn dập trở thành nặng.
Như có người chỉ chỗ ở của gấu và nai bảo sắc, tay người chỉ liền rụng. Nai bảo sắc là con linh dương, nai chúa có sắc đẹp lạ thường. Nếu ai chỉ chỗ của nó liền bị rụng tay. Đây chỉ quả báo hiện tại. Khi làm ác quả báo ác tới liền, khi làm lành quả báo lành cũng tới liền.
Chúng ta thấy rõ nghiệp báo không phải chỉ một đời mà có thể nhiều đời, chẳng phải chỉ có quá khứ mà cả hiện tại vị lại nữa, nên phải dè dặt. Nhất là người trí khi lỡ tạo nghiệp ác mà biết hối cải biết sửa đổi thì nghiệp ác sẽ từ từ chuyển nặng thành nhẹ, đáng lẽ đời sau thọ mà liền hiện đời thọ. Hiện đời thọ dù sao đi nữa cũng nhẹ hơn những nghiệp báo của địa ngục nặng gấp ngàn gấp muôn lần, nên trong kinh thường nói, nghiệp báo mà chuyển cho hiện đời thọ là nghiệp báo nhẹ, còn để đời sau thọ là nghiệp báo nặng.
Tôi nhắc lại lần nữa, những kẻ làm ác mà hiện đời không thọ gì hết, đừng tưởng là họ sung sướng! Hưởng hết phước cũ rồi, họ sẽ lãnh trọn vẹn quả địa ngục. Còn những người trước làm ác bây giờ biết tu, bị tật nguyền bệnh hoạn đau khổ, đó là chuyển nghiệp lẽ ra phải đọa địa ngục, bây giờ do sức tu hành nên chịu đau khổ trong hiện tại là hết. Biết như vậy mình hăng hái vui vẻ tiến tu, chứ nghe nói bị nghiệp đổ thôi ngưng không tu nữa thì chẳng khác nào những người làm tội lẽ ra bị phạt ba tháng tù, nghe nói đánh ba roi rồi thả, sợ quá nói “Tôi không chịu nổi ba roi, để ở ba tháng tù! Thà chịu đánh ba roi ra liền, hơn là để ba tháng khổ. Chuyển nghiệp là thế đó, đừng nói tụng kinh đổ nghiệp, không bao giờ có chuyện tu mà thành tội. Tu và tụng kinh chỉ làm bớt tội thôi chứ không có thêm tội.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Như lời Phật nói chẳng phải là tất cả nghiệp đều thành quả nhất định cũng chẳng phải tất cả chúng sanh quyết định thọ báo. Bạch Thế Tôn! Chúng sanh làm thế nào khiến quả báo nhẹ hiện tại phải thọ báo nặng ở địa ngục? Làm thế nào khiến quả báo nặng địa ngục trở thành báo nhẹ trong đời hiện tại?”
Không phải quả báo nhất định và cũng không phải quyết định thọ báo. Bồ-tát Sư Tử Hống nghi không biết làm sao quả báo nặng có thể chuyển thành nhẹ, quả báo nhẹ biến thành nặng. Bồ-tát đã vì mình mà hỏi để hiểu tường tận nghĩa này.
Phật nói: “Có hai hạng chúng sanh: một là trí hai là ngu. Nếu có thể tu tập thân, giới, tâm, huệ, nơi tâm thời gọi là người trí. Nếu chẳng thể tu tập thời gọi là kẻ ngu.
Người biết tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ thì đó là người trí, còn người mà không thể tu tập gọi là người ngu. Nghĩa là dù phạm tội nặng mà biết phát tâm tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ thì tội chuyển thành nhẹ, còn dù tội nhẹ mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ thì tội nhẹ lần lần trở thành nặng.
Nếu chẳng thể điều nhiếp năm căn thời gọi là chẳng tu thân. Nếu chẳng thể thọ trì bảy thứ tịnh giới thời gọi là chẳng tu giới. Vì chẳng điều tâm nên gọi là chẳng tu tâm. Chẳng tu tập thánh hạnh thời gọi là chẳng tu huệ.
Lại người chẳng tu thân thời không thể đầy đủ giới thể thanh tịnh. Người chẳng tu giới thời nhận chứa tám thứ vật bất tịnh. Người chẳng tu tâm thời chẳng thể tu tập ba thứ tướng. Người chẳng tu huệ thời chẳng tu tập Phạm hạnh.
Năm căn là mắt tại mũi lưỡi và thân, chúng ta không khéo điều nhiếp, không khéo chinh phục nó làm chủ nó tức là không biết tu thân. Phải thọ trì bảy thứ tịnh giới, người nào không biết thọ trì bảy thứ tịnh giới là không biết tụ giới. Không biết điều phục tâm gọi là chẳng tu tâm. Chẳng tu hạnh thánh gọi là chẳng tu tuệ.
Lại người chẳng tu thân thời chẳng thể quán thân, quán sắc, và quán sắc tướng, chẳng quán thân tướng, chẳng biết thân số, chẳng biết thân này từ đây đến kia, ở trong chẳng phải thân mà tưởng là thân, ở trong chẳng phải sắc mà tưởng là sắc, do đây nên tham đắm thân và thân số, đây gọi là chẳng tu thân.
Quán thân, quán sắc tức là quán tất cả hình sắc và quán tướng của sắc. Chẳng tu thân là không biết quán thân này do tứ đại giả hợp mà thành, cũng không quán được hình tướng bên ngoài, nên không biết rõ tướng của thân và cũng chẳng biết thân số. Những thành phần hợp lại làm thân gọi là thân số. Thân do tứ đại là đất nước gió lửa bốn thứ hợp lại, hoặc ngũ uẩn tức là do sắc thọ tưởng hành thức năm thứ chung lại làm thành. Không biết được thân số là không biết những thành phần chung hợp làm thân.
Chẳng biết thân này từ đây đến kia là không biết thân này do nhân duyên mà hợp, cũng do nhân duyên quả báo mà tan, tan rồi theo nghiệp phải sanh nơi khác. Ở trong chẳng phải thân mà tưởng là thân, thân này không thật mà cứ tưởng là thật của mình. Ở trong chẳng phải sắc mà tưởng là sắc, sắc là sự giả dối kết hợp của tứ đại mà mình tưởng là sắc thật.
Do đây nên tham đắm thân và thân số, đây gọi là chẳng tu thân.
Người chẳng tu giới nếu thọ hạ giới thời chẳng gọi là tu giới, thọ trì biên giới, giới vì tự lợi, giới vì tự điều phục, chẳng thể làm cho khắp chúng sanh được an vui, chẳng phải vì hộ trì chánh pháp vô thượng, vì sanh lên cõi trời hưởng thọ ngũ dục, đây chẳng gọi là tu giới.
Những người tuy thọ giới mà vẫn chẳng phải là người tu giới vì giới họ thọ thuộc loại hạ giới, hoặc là thuộc biên giới tức giới một bên, hoặc là tu giới vì tự lợi, họ tự điều phục bản thân mà không phải vì chúng sanh, chẳng thể làm cho khắp chúng sanh được an vui, chẳng phải vì hộ trì chánh pháp mà vì hưởng thọ sự an vui trên cõi trời. Như vậy tuy giữ giới mà chưa gọi là tu giới.
Người chẳng tu tâm thời tâm tán loạn không thể chuyên nhất duyên nơi tự cảnh. Tự cảnh chính là tứ niệm xứ. Cảnh khác là nói ngũ dục. Nếu không thể tu tập tứ niệm xứ thời gọi là chẳng tu tâm.
Ở trong nghiệp ác nếu chẳng khéo giữ gìn tâm niệm thời gọi là chẳng tu huệ.
Không duyên được nơi tự cảnh tức là không duyên tứ niệm xứ. Đây là nói chẳng tu thân, chẳng tu giới, chẳng tu tâm, chẳng tu tuệ.
Lại người chẳng tu thân thời không thể quan sát thấu đáo thân này là vô thường, là vô trụ, là mỏng mạnh, là niệm niệm diệt hoại, là cảnh giới của ma.
Người chẳng thể tu giới thời không thể đầy đủ Thi-la ba-la-mật. Người chẳng tu tâm thời không thể đầy đủ Thiền-na ba-la-mật. Người chẳng tu huệ thời không thể đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật.
Không quán sát được thân là vô thường, vô trụ, mỏng manh, niệm niệm diệt, là cảnh giới của ma. Không tu giới thì không đủ giới cứu cánh. Không tu tâm thì không thiền cứu cánh. Không tu tuệ thì không Bát-nhã cứu cánh.
Lại người chẳng tu thân thời tham đắm thân ta và thân sở hữu của ta, cho rằng thân ta thường hằng không có biến đổi. Người chẳng tu giới thời vì tự thân mà tạo mười nghiệp ác. Người chẳng tu tâm thời ở trong nghiệp ác không thể nhiếp tâm. Người chẳng tu huệ do vì không nhiếp tâm nên không phân biệt được những pháp thiện ác.
Lại người chẳng tu thân thời chẳng dứt ngã kiến. Người chẳng tu giới thời không dứt được giới thủ. Người chẳng tu tâm thời tạo nghiệp tham sân mà phải đọa địa ngục. Người chẳng tu huệ thời không dứt được tâm si.
Thân sở hữu của ta là thân của những người quyến thuộc. Không tu giới cho nên vì thân mà tạo nghiệp ác…
Lại người chẳng tu thân thời không thể quán thân, dầu thân không lỗi lầm nhưng nó luôn là kẻ oán thù. Ví như có người bị kẻ thù theo dõi, nếu người này có trí thời cẩn thận giữ gìn, nếu không thận trọng ắt bị kẻ thù làm hại, thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy, thường phải dùng đồ uống món ăn, đồ lạnh đồ ấm để nuôi dưỡng, nếu chẳng khéo giữ gìn nuôi dưỡng thời nó sẽ tan rã.
Như Bà-la-môn kính thờ lửa, họ thường dâng hương hoa tán thán lễ bái, hạn kỳ phải đủ trăm năm, nếu lúc chạm đến liền đốt cháy tay người. Dầu lửa này được cung kính cúng dường như vậy, nhưng trọn không một niệm báo ân cho người phụng sự. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy, dầu trong nhiều năm dùng hương hoa châu ngọc, y phục, đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men tẩm bổ mà cung cấp đó, nếu gặp những duyên xấu hoặc trong hoặc ngoài thời liền hoại diệt, nó trọn chẳng nhớ tưởng đến ơn cung cấp ngày trước.
Phật dạy thân không bền chắc lâu dài, luôn là kẻ thù của mình, tại sao? Thường thường ai cũng thấy thân mình là quý, phải cung dưỡng phải nuôi nấng, phải săn sóc, tẩm bổ thuốc men. Vậy mà gặp duyên xấu nó bỏ chúng ta liền không chút thương tiếc, không chút nghĩ tới công ơn mình nuôi nó từ nào đến giờ. Như Bà-la-môn thờ lửa, dù thường dâng hương hoa lễ bái, nhưng chạm đến nó thì bị đốt cháy tay.
Ví như có quốc vương nuôi bốn con rắn độc trong một cái rương, giao phó cho một người bảo phải nuôi nấng săn sóc. Trong bốn con rắn này, nếu một con nổi giận thời có thể hại chết người. Người có phận sự săn sóc rắn luôn luôn lo sợ thường tìm món ăn thức uống giữ gìn nuôi nấng. Thân tứ đại của tất cả chúng sanh cũng như vậy, nếu một đại nổi giận thời có thể làm cho thân phải hư hoại.
Chúng ta là kẻ chăn rắn, bốn con rắn là rắn hổ lửa, rắn nước, rắn hổ đất, rắn hổ ngựa, chạy như ngựa đó là gió. Cả ngày mình cứ dỗ dành con này, nuôi dưỡng con kia. Thấy khô khô thì kiếm nước cho rắn nước uống. Nghe hơi lành lạnh thì kiếm gì âm ấm cho con rắn hổ lửa… Như vậy mà chúng cứ thay nhau trợn mắt phùng mang muốn làm dữ. Khổ nhọc đem hết tài năng sức lực của cải để nuôi mấy con rắn mà rốt cuộc có công ơn gì đâu! Tới khi chúng nổi giận hại nhau rồi bỏ đi.
Phật chỉ rõ thân này là oán thù của mình, nhưng có người nào dám nghĩ như vậy? Chúng ta lỡ mang thân này thật khổ vô cùng vô tận. Khi nào nhận ra được cái bất sanh bất diệt ngay trong thân sanh diệt này, chúng ta mới thấy rõ thân như bốn con rắn độc. Ví dụ này nghe có vẻ quá đáng, nhưng sự thật là vậy. Bồ-tát khi bỏ thân này, các ngài không tiếc nuối tí nào hết, cười mà chết vì xả được một gánh nặng.
Còn mang thân là còn sanh tử, còn khổ. Chúng ta cho rằng có thân mới biết ăn biết nói, biết đi chơi, biết cười biết giỡn thì mang thân là sung sướng. Đâu ngờ mang thân là mang một cái ách nặng nề đầy bất trắc. Bồ-tát chỉ vì lòng đại bi quá lớn nên buộc lòng phải mang thân để giáo hóa chúng sanh. Hàng Thanh văn khi chứng quả A-la-hán rồi, các ngài thấy thân là vật ô uế gớm nhờm, cho nên Phật ví dụ bốn con rắn độc là chính xác.
Chúng ta phải quan niệm cho rõ ràng, thân là bất tịnh, xấu xa, chúng ta mượn nó để qua khỏi biển khổ, qua khỏi sông sanh tử. Kinh thường ví dụ là đeo tử thi để vào bờ. Nó là thây thối nhưng cần qua bờ phải ráng mà đeo nó, chứ không lầm vì nó. Thế gian lầm nên cả đời phụng sự cho nó, tỉnh và mê là tại chỗ này.
Như người mang bệnh lâu phải nên hết lòng tìm y sĩ chữa trị, nếu chẳng siêng lo điều trị ắt phải chết. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy, thường phải nhất tâm chẳng nên buông lung, nếu buông lung thời hoại diệt.
Mang thân này là mang bệnh nặng, bệnh trầm trọng, thì phải cố gắng tìm thầy thuốc trị. Tức là tìm người chỉ cho phương pháp tu hành, chứ buông lung thì phải chết.
Ví như bình đất chưa hầm thời không chịu được gió mưa đập ném dằn đè. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy, chẳng chịu được đói khát lạnh nóng, gió mưa đánh đập mắng nhiếc.
Như mụn nhọt chưa muồi phải thường giữ gìn chớ cho người chạm đến, nếu để dụng chạm thời dau đớn lắm. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy.
Thân mình như bình chưa hầm, bở, đụng tới là nát là bể nên thân này khó giữ gìn. Dưới chân mang dép, trên đầu đội khăn, xung quanh thì mặc áo che đậy đủ hết, mà còn nghiêng bên này chạm bên kia, rên la hoài.
Thân này như mụn nhọt chưa bể chưa muồi đang sưng lên, đụng tới là đau là nhức phải gìn giữ nó. Hai ví dụ chỉ cho thân này tạm bợ yếu đuối như cái bình chưa hầm, đau khổ khó chịu như mụn nhọt.
Ví như con la mang thai nghén thời tự hại lấy thân nó. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy, nếu trong thân có phong lãnh thời thân phải bị hại. Ví như cây chuối trổ buồng thời phải khô chết. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy. Như cây chuối không có lõi cứng. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy. Như rắn, chuột, chó sói, mỗi con thường sanh lòng oán hại lẫn nhau. Tứ đại của chúng sanh cũng như vậy.
Ví như con ngỗng chúa chẳng thích gò mả. Bồ-tát cũng như vậy đối với thân thể cũng chẳng ưa thích.
Phong lãnh tức là gió lạnh, làm cho máu đặc lại, thân bị hại cũng như con la mang thai vậy.
Cây chuối trổ buồng rồi thì cây sẽ khô chết. Người ta cũng vậy, lớn lên sanh con, nuôi cho lớn, làm ăn được thì mình sửa soạn đi. Cứ như vậy, lớp này tới lớp khác. Cây chuối lột từng lớp từng lớp ra, rốt cuộc tìm không ra cái lõi cứng, thân mình cũng vậy, chia ra từng bộ phận không có cái gì là trụ cốt.
Thật là ví dụ đủ loài, trên thì bốn con rắn độc, đây tới rắn, chuột, chó sói, ví dụ cho tứ đại, lúc nào nó cũng chạm nhau, rình rập ăn nhau, không yên ổn.
Bồ-tát đối với thân không thích nhưng vì lợi ích chúng sanh nên các ngài ráng mang nó.
Như giòng Chiên-đà-la bảy đời nối nhau chẳng bỏ nghiệp hèn, do đây nên bị người khinh tiện. Chủng tử của thân này cũng như vậy, tinh huyết hội tanh hoàn toàn bất tịnh. Vì bất tịnh nên chư Phật và Bồ-tát quở khinh, Thân này chẳng phải như núi Ma-la-da mọc cây chiên đàn, cũng chẳng thể sanh hoa ưu-bát-la, hoa phân-đà-lợi, hoa chiêm-bà, hoa ma-lợi-ca, hoa bà-sư-ca. Chín lỗ của nó thường chảy ra máu mủ bất tịnh, chỗ nó sanh hôi do xấu xa đáng gớm, nó thường cùng các loài trùng đồng ở một chỗ.
Chiên-đà-la chuyên nghiệp làm thịt, bị người khinh. Thân cũng vậy vốn là bất tịnh, Phật và Bồ-tát quở khinh, còn mình lại ưa lại quý.
Núi Ma-la-da thường mọc các thứ chiên-đàn, hoa sen thơm quý… còn thân mình thì thường bài tiết những đồ hội hám nhơ nhớp. Thật là một đấy da hôi thối, như miệng dùng để biện luận hơn thua phải quấy khôn dại, mà nếu hà hơi gần người, người cũng tránh né không dám gần. Ở xa xa nhìn thì thấy dễ coi, lại gần thì ghê gớm mà người ta cứ mê lầm hoài. Phật dạy là tại con mắt nghiệp, như người nghiệp ái nặng nên sanh những tư tưởng sai lầm, tưởng là đẹp là sạch sẽ… Như người ta thấy những đống phân dơ nhớp, nhưng mang mắt nghiệp heo mắt nghiệp chó thì thấy là ngon là quý. Bồ-tát, Phật gỡ được con mắt nghiệp, các ngài mới thấy thân này hôi hám bẩn thỉu xấu xa, chúng ta chưa gỡ được nên vẫn thấy là quý là đẹp v.v…
Ví như trong đời dầu có vườn rừng thanh tịnh xinh đẹp, nhưng trong nhà chứa tử thi thời là bất tịnh, mọi người đều lìa bỏ chẳng ưa thích. Cõi Sắc cũng như vậy, dầu là thanh tịnh tốt đẹp, nhưng vì có thân nên bị chư Phật cùng Bồ-tát lìa bỏ đó.
Này thiện nam tử! Nếu người chẳng thể quan sát như vậy thời chẳng gọi là tu thân.
Phật không thích cõi Sắc vì cũng có thân, có thân thì bị dơ bẩn. Như trong vườn nhà đẹp đẽ sạch sẽ mà để thây thối, người ta không ai muốn tới. Cõi Sắc là đẹp đẽ sạch sẽ nhưng có thân thì hết sạch sẽ. Ví dụ như khu đất này, thấy sạch sẽ đẹp đẽ, nhà cửa tạm gọi là văn minh, nhưng ở vài chục người mà không có nhà vệ sinh thì tới đó cũng ngán ngẩm. Chỗ nào có người là có hơi hám. Có thân người là có bẩn thỉu, thân này ô uế bất tịnh không có gì quý cả.
Quán sát như vậy gọi là tu thân. Tu thân tức là căn cứ vào thân này quán sát, biết nó không bền vững như bình đất chưa hầm, không lâu dài mà luôn luôn chống chọi nhau như bốn con rắn độc ở chung một rương, không chắc thật như cây chuối, không sạch sẽ như mụn nhọt, cũng không tốt đẹp cũng như vườn sạch mà có thây thối… Xét tới xét lui thân mình kỹ mà chán ghét thì không còn mang thân nữa. Đó là phương tiện để tiến tới giải thoát. Sở dĩ chúng ta trầm luân bởi vô minh và ái. Vô minh là giả mà tưởng là thật, Phật phá cái tưởng thật này, ngài chia chẻ phân tích nó ra từng phần từng phần cho mình thấy biết nó là giả. Biết nó là giả tức là hết vô minh.
Muốn dứt ái thì làm sao? Phải biết thật kỹ thân là dơ bẩn hôi hám, xấu xa đê tiện, tạm bợ giả dối, như vậy thì hết ái. Hết vô minh hết ái tức là giải thoát, đó là tu, Ngồi suy xét như vậy tức là tu chứ không phải ngồi gõ mõ tụng kinh, ăn mặc trang trọng là tu. Chính nhờ quán sát kỹ càng lòng ái thần mới dứt, ái người ái cảnh cũng dứt, tự nhiên chúng ta sẽ giải thoát. Đó là xong phần quán thân.
Này thiện nam tử! Nếu chẳng thể quan sát giới luật là thềm thang của tất cả pháp lành, cũng là cội gốc của tất cả pháp lành, như mặt đất là chỗ dựa nương của tất cả cây cối, là đạo thủ của các thiện căn, như thương chủ dẫn dắt đoàn người buôn.
Giới là thắng tràng của tất cả pháp lành như thắng tràng của Thiên Đế-thích dựng. Giới có thể dứt hẳn tất cả nghiệp ác và ba ác đạo, có thể trị lành những bệnh dữ như dược thọ. Giới là tư lương trên con đường hiểm sanh tử. Giới là giáp trượng đánh dẹp những giặc phiền não hung ác. Giới là thần chú hay diệt rắn độc kiết sử. Giới là cây cầu đi qua khỏi nghiệp ác. Nếu chẳng thể quan sát như vậy thời gọi là chẳng tu giới.
Đạo thủ tức là người đi đầu dẫn đường. Phật khéo dùng bao nhiêu ví dụ để cho chúng ta thấy:
1) Giới là thềm thang của tất cả pháp lành.
2) Giới là cội gốc của tất cả pháp lành.
3) Giới là mặt đất, là chỗ tựa nương cho cây cối.
4) Giới là người dẫn đường cho thiện căn.
5) Giới như người dẫn đường cho đoàn đi buôn.
6) Giới như thắng tràng của trời Để-thích.
7) Giới dứt hết tất cả nghiệp ác trong ba đường ác.
8) Giới như vị thuốc hay, dược thọ hay là cây thuốc hay trị lành tất cả bệnh
9) Giới như tự lương để qua khỏi đường sanh tử.
10) Giới như trượng giáp để đánh giặc phiền não.
11) Giới như thần chú hay trị được rắn độc kiết sử.
12) Giới như cây cầu đi qua khỏi nghiệp ác.
Khi nào quán sát giới chúng ta nhớ mười hai ví dụ đó, cố gắng giữ giới. Đó là phương pháp quán sát về giới.
Nếu không thể quan sát tâm niệm động chuyển lăng xăng, khó nắm lấy khó điều phục, lung chạy như voi dữ, niệm niệm mau chóng như chớp nháng, nhảy nhót chẳng dừng như khỉ vượn, như huyễn, như dương diệm, tâm niệm này là cội gốc của tất cả điều ác, ngũ dục khó vừa lòng như lửa thêm củi, như biển cả nuốt hết các giòng sông, như núi Mạn-đà cỏ cây quá nhiều, chẳng thể thấy biết sanh tử hư vọng, mê lầm say đắm đến nỗi thành bệnh, như cá nuốt lưỡi câu.
Đây là quán sát về tâm niệm. Tâm mình niệm niệm sanh diệt, tính toán đủ thứ chạy theo ngũ dục, mỗi ngày không biết bao nhiêu là tâm niệm, niệm này sanh niệm kia diệt. Nhưng ngũ dục khó vừa lòng như lửa mà thêm củi, chúng ta muốn cái này được thì lại muốn cái khác, được cái khác lại muốn cái khác nữa. Càng muốn nhiều chừng nào tham dục càng thêm lớn chừng nấy, như lửa thêm củi, như biển nuốt sông, như núi Mạn đà cỏ cây quá nhiều khiến người ta say đắm đến nỗi thành bệnh. Lòng ham muốn say đắm ngũ dục chẳng khác nào như cá nuốt lưỡi câu, tham muốn ngũ dục bị ngũ dục cuốn vào đau khổ.
Thường đi trước dẫn theo những tội nghiệp như con bối mẫu dắt đàn con. Tham đắm ngũ dục chẳng thích Niết-bàn, như lạc đà ăn mật nhẫn đến chết chẳng đoái cỏ non. Quá tham đắm sự vui hiện tại chẳng nhìn đến lỗi lầm ngày sau, như bò tham ăn lúa mạ chẳng sợ roi gậy. Chạy khắp hai mươi lăm cõi, như gió mạnh thổi bông nâu-la. Chỗ chẳng đáng tìm cầu mà cầu đó không nhàm đủ như người vô trí cầu lửa không nóng. Thường thích sanh tử chẳng ưa giải thoát, như trùng nhiệm-bà thích cây nhiệm-bà. Mê lầm tham đắm sanh tử hội nhơ, như kẻ ngục tù thích gái ngục tốt, cũng như heo trong chuồng ưa chỗ bất tịnh. Nếu có người không thể quan sát như vậy thời gọi là chẳng tu tâm.
Bối mẫu đi đâu thì đàn con theo sau, con bối mẫu ra sao chúng ta không thấy, chứ như heo nái hay gà, mẹ đi trước bầy con theo sau. Niệm niệm của chúng ta cũng dẫn tội ác theo sau như thế. Niệm dấy nghĩ không dừng được thì kéo tới miệng nói thân làm, ví dụ như nghĩ móc túi người ta lấy tiền, nếu không chặn ý nghĩ đó được thì bắt đầu chân đi, tay làm việc, miệng nói láo…
Người ta kể rằng lạc đà thích mật lắm, gặp mật ăn hoài cho tới chết, chứ không nghĩ tới cỏ non. Cũng vậy, chúng ta thích ngũ dục tới chết thôi chứ không nghĩ tới Niết-bàn, không hề nghĩ tới giải thoát. Cho nên nói người giàu sang quá khó tu là vậy, đầy đủ ngũ dục quá dễ quên, ít có thức tỉnh. Phải có duyên lành nhiều đời mới dễ thức tỉnh.
Ở quê, trâu bò khi thấy mấy đám mạ xanh um là lội vào ăn, mấy chú chăn bò đập đánh cũng ráng ăn. Chúng ta cũng vậy, cứ say mê vui theo ngũ dục hiện tại mà quên tội lỗi đời sau, như trâu bò ham ăn mạ quên roi quên gậy của mục đồng.
Tâm niệm tham sân si này thúc mình chạy trong hai mươi lăm cõi, cũng như là gió mạnh thổi bông gòn bay tứ tung.
Cầu không bao giờ được mà cứ cầu, chỗ không đáng tìm cầu mà cầu hoài. Như có nhiều người mong sống lâu, bốn mươi tuổi mong sống được năm mươi, năm mươi tuổi mong được sáu mươi, sáu mươi tuổi mong được bảy mươi… Nghĩa là cứ mong sống hoài chứ không khi nào mong mau chết. Mong không thể được mà vẫn cứ mong, như người cầu lửa không nóng mà vẫn cứ cầu. Ưa trong sanh tử như mấy con sâu con mọt thích ăn cây.
Phật dùng nhiều ví dụ mạt sát đáo để, mình ưa ngũ dục cũng như heo ưa mấy chỗ dơ, hay là những kẻ ngục tù thích gái ngục tù, cam ở trong đó luôn.
Tâm này lăng xăng khó điều phục, chạy lung như voi dữ, niệm niệm mau chóng như chớp nhoáng. Tâm này nhảy nhót như khỉ vượn, giả dối tạm có như bóng nắng ngoài trời. Tâm này không thật, không có cội gốc. Tâm này là cội gốc của tất cả điều ác. Tâm dẫn đầu tạo nên bao nhiêu tội lỗi, kéo chúng ta trong ngũ dục chịu bao nhiêu thứ khổ không bao giờ dừng không bao giờ hết. Nếu thường quán như vậy là biết tu tâm.
Người chẳng tu huệ, chẳng quan sát trí huệ có thế lực lớn, như kim-sí-điểu có thể hoại nghiệp ác, như ánh sáng mặt trời phá tan tối tăm, trí huệ có thể nhổ cây ngũ ấm như nước đẩy trôi đồ vật, đốt cháy tà kiến như lửa hừng, trí huệ là cội gốc của tất cả pháp lành, là chủng tử của Phật và Bồ-tát. Nếu không thể quan sát như vậy thời gọi là chẳng tu trí huệ.
Tu trí tuệ là quán sát trí tuệ này có thế lực lớn. Trí tuệ có khả năng có sức mạnh chẳng khác nào kim sí điểu có thể phá hoại nghiệp ác, như ánh sáng mặt trời phá tan tối tăm, trí tuệ có thể nhổ cây ngũ ẩm, như nước đẩy trôi đồ vật, trí tuệ có thể đốt cháy rừng tà kiến như lửa mạnh, trí tuệ là cội gốc của tất cả pháp lành, là chủng tử của Phật và Bồ-tát. Chúng ta nhớ và nghĩ vậy luôn luôn, ráng nuôi dưỡng trí tuệ, đó gọi là biết quán sát trí tuệ.
Đó là bốn thứ tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ.
Này thiện nam tử! Trong đệ nhất nghĩa, nếu thấy thân, thân tướng, thân nhân, thân quả, nhiều thân, thân một, thân hai, thân đây, thân kia, thân diệt, thân bình đẳng, thân tu, người tu, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng tu thân.
Đệ nhất nghĩa là nghĩa chân thật, cứu cánh, tức là nghĩa Phật tánh, nghĩa đại Niết-bàn. Trong Phật tánh và đại Niết-bàn không chấp thân là thật, không thấy thân là thật. Thân mình, thân người không thật, thân trước, thân sau không thật, nên nói rằng không thấy thân, không thấy thân tướng, nếu thấy thân tướng thì không phải đệ nhất nghĩa, chưa gọi là tu thân, Thân mình không thật, thân người cũng không thật. Thân một thân hai là chỉ cho thân nhiều người, thân đây thân kia là thân mình, thân kẻ khác… Tóm lại trong đệ nhất nghĩa không thấy có thân thật, nếu thấy thân thật thì chưa phải là người tu thân.
Này thiện nam tử! Nếu thấy giới, giới tướng, giới nhân, giới quả, giới thượng, giới hạ, giới tụ, giới một, giới hai, giới đây, giới kia, giới diệt, giới bình đẳng, giới tu, người tu, giới ba-la-mật, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng tu giới.
Này thiện nam tử! Nếu thấy tâm, tâm tướng, tâm nhân, tâm quả, tâm tu, tâm vương, tâm sở, tâm một, tâm hai, tâm đây, tâm kia, tâm diệt, tâm bình đẳng, tâm tu, người tu, tâm thượng trung hạ, tâm thiện, tâm ác, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng tu tâm.
Này thiện nam tử! Nếu thấy huệ, huệ tướng, huệ nhân, huệ quả, huệ tu, huệ một, huệ hai, huệ đây, huệ kia, huệ diệt, huệ bình đẳng, huệ thượng trung hạ, huệ lợi, huệ độn, huệ tu, người tu, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng tu huệ.
Tu giới, tu tâm, tu tuệ cũng vậy. Trong đệ nhất nghĩa mà còn thấy có tướng giới, có thấy kết quả của giới và tu nhân giới, giới của mình giữ, giới của người giữ, giới thấp, giới cao… là còn chấp tướng giới thật, mà chấp tướng giới thật thì chưa phải là đệ nhất nghĩa, chưa gọi là tu giới. Tâm nhân, tâm quả, tâm vương, tâm sở… đều là không thật hết, vì không thật mà chấp là thật thì chưa phải tu tâm. Căn cứ đệ nhất nghĩa, nếu thấy có tuệ, tuệ tướng v.v… thì cũng chưa phải là tu tuệ.
Sau khi giải thích tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ rồi, Phật liền trở lại chủ đích của kính Đại Bát-niết-bàn là căn cứ vào Phật tánh, là đại Bát-niết-bàn thì không có tướng thân thật, tướng giới thật, tướng tâm thật và tướng tuệ thật. Nếu còn chấp bốn tướng thật thì chưa phải là người biết tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ.
Này thiện nam tử! Nếu chẳng tu thân giới tâm huệ, những người như vậy ở nơi nghiệp ác nhỏ mà mắc phải quả báo lớn. Do vì khủng bố nên thường nghĩ rằng: Tôi thuộc người địa ngục làm hạnh địa ngục. Dầu nghe người trí nói khổ địa ngục, thường nghĩ rằng như sắt đập sắt, như đá trở lại đập đá, như gỗ tự đập gỗ, như vi trùng lửa thích lửa, thân địa ngục trở lại giống địa ngục, nếu giống địa ngục thời có gì là khổ.
Ví như con lằn xanh bị dính nơi nước miếng chẳng thể bay được, người này cũng vậy ở trong tội nhỏ không thể thoát khỏi, trọn không lòng ăn năn, chẳng thể tu pháp lành, che giấu tội lỗi, dầu có tất cả nghiệp lành thuở quá khứ, nhưng đều bị tội này làm cấu nhơ. Người này có báo nhẹ đáng lẽ hiện đời thọ lấy mà trở lại thành quả báo rất nặng nơi địa ngục.
Như trong chậu nước nhỏ để vào một thăng muối, nước đó mặn chát khó uống được, tội nghiệp của người này cũng như vậy.
Ví như có người mắc nợ một tiền chẳng trả được nên thân bị trói buộc chịu nhiều sự khổ, tội nghiệp của người này cũng như vậy.”
Đây là lối lý luận của những kẻ liều, thường thường người ta gọi là “lươn không sợ lấm đầu”. Nhiều người làm ác, nếu có ai khuyên coi chừng đọa địa ngục khổ lắm, họ nói “Tôi ở địa ngục rồi, sống tôi đã khổ rồi, khổ mà gặp khổ cũng thừa, có gì đâu! Thì cũng như đá đập đá, như sắt đập sắt, như gỗ đập gỗ, như vi trùng lửa trong lửa, có gì đâu mà sợ.” Lý luận liều như thế nên tội không phải địa ngục mà họ cứ lỳ chịu, không biết ăn năn hối cải. Do đó tội càng ngày càng lớn càng nặng rồi phải đọa địa ngục.
Phật ví dụ, như ở thế gian có người phạm tội nặng hết sức mà trở thành nhẹ, có người làm tội nhẹ hết sức mà trở thành nặng. Tôi có gặp những trường hợp này. Hồi xưa ở trong trường, có nhiều người phạm tội trọng, như ăn cắp tiền trong chúng. Luật của nhà trường là phải đuổi vì đó là tội trọng, không chối cãi được. Nhưng lỡ ăn cắp rồi, người kia chưa hay mất tiền, họ đã vội vã khăn áo chạy lên vị có trách nhiệm đảnh lễ sám hối thú nhận. Thú tội rằng hôm đó con lỡ dại ăn cắp số tiền của huynh đó, giờ con xin sám hối con chịu hết, để con xin tiền ba má con đền. Như vậy mình đuổi họ được không? Đúng luật là đuổi, nhưng người ta biết ăn năn, mình chưa điều tra, chưa bắt được mà người ta đã tự nhận lỗi, tự sám hối, xin hứa trả thì đâu có đuổi họ được, phải không? Như vậy tội đó là tội lớn mà người ta biết hối cải thì liền trở thành nhỏ.
Còn người phạm tội nhỏ như nói nặng nói nhẹ huynh đệ, người ta lên mách, vị có trách nhiệm kêu lên hỏi, người đó chối. Cứ chối bướng, dù hai ba người làm chứng vẫn chối luôn. Như vậy mắc thêm một tội nói láo nữa, nói dối người nhỏ và cả luôn người lớn, cuối cùng bị đuổi vì có lỗi mà không biết hối cải. Tội nhỏ mà biến thành lớn, còn kia tội lớn mà biến thành nhỏ.
Người trí phạm tội nặng nhưng do lòng ăn năn hối cải, biết tu thân tu giới tu tâm tu tuệ, tội lớn lần lần chuyển thành nhỏ, lẽ ra đời sau đọa địa ngục mà liền chuyển đời này họ chịu khổ rồi hết. Còn người ngu không có tội nặng mà cứ một bề che giấu, một bề liều lĩnh, lỡ xấu rồi cho xấu luôn, lâu ngày thành nặng nề. Phật ví như con lằn xanh dính trong nước đàm nước dãi mắc kẹt không bay lên được.
Phật giải thích cho biết rõ ràng, tội nặng chuyển được thành nhẹ, tội nhẹ không khéo biến thành nặng là do những lẽ như vậy.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Cớ gì người này làm cho quả báo nhẹ hiện đời trở thành quả địa ngục?”
Phật nói: “Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh nếu đủ năm việc thời làm cho quả báo nhẹ hiện đời trở thành quả địa ngục: một là vì ngu si, hai là vì căn lành kém ít, ba là vì ác nghiệp sâu nặng, bốn là vì chẳng sám hối, năm là vì chẳng tu nghiệp lành hiện đang tu tập.
Bồ-tát Sư Tử Hống lại muốn hỏi riêng từng phần, từng người, tại sao người ngu quả báo nhẹ mà lần lần trở thành nặng phải đọa địa ngục.
Một là vì ngu si, phạm tội nhẹ lâu dần biến thành nặng. Hai là vì căn lành kém ít, tức là mình có tội mà không có phước lành. Ba là vì ác nghiệp sâu nặng, việc ác này nhỏ nhưng còn nghiệp ác đời trước mình đã làm thêm vào. Bốn là vì chẳng sám hối, làm mà không hối hận, lại che giấu. Năm là hiện tại không chịu tu tập nghiệp lành cho nên nghiệp nhỏ trở thành to. Đó là năm trường hợp thứ nhất.
Lại có năm việc: một là vì tu tập nghiệp ác, hai là vì không giới đức, ba là vì xa lìa căn lành, bốn là vì chẳng tu thân giới tâm huệ, năm là vì gần gũi bạn ác.
Này thiện nam tử! Do vì đủ những việc trên đây, nên chúng sanh làm cho quả báo nhẹ hiện đời thành quả báo địa ngục.”
Nhẹ mà biến thành nặng. Đã có tội lỗi mà gần người ác càng chìm sâu trong tội lỗi.
“Bạch Thế Tôn! Những người nào có thể chuyển báo địa ngục thành quả báo nhẹ hiện đời?”
“Này thiện nam tử! Nếu có người tu tập thân giới tâm huệ như đã nói ở trên, có thể thấy các pháp đồng với hư không (tức là các pháp không thật), chẳng thấy trí huệ cũng như chẳng thấy người trí, chẳng thấy ngu si cũng như chẳng thấy kẻ ngu, chẳng thấy tu tập và người tu tập, đây gọi là người trí.
Ngài hỏi làm sao những người trí chuyển quả báo nặng ở địa ngục trở thành quả báo nhẹ hiện đời, Phật đáp: Chẳng thấy có trí thật, không thấy có người thật, chẳng thấy ngu thật và chẳng thấy kẻ ngu thật, không thấy có pháp tu tập thật và không thấy có người tu tập thật. Người thấy được như vậy là người trí.
Người này có thể tu tập thân giới tâm huệ, Người này có thể làm cho báo địa ngục trở thành quả nhẹ hiện đời. Giả sử người này gây tạo ác nghiệp rất nặng, nhờ tư duy quan sát có thể làm cho nghiệp nặng thành nhẹ. Người này nghĩ rằng: Nghiệp của ta dầu nặng nhưng chẳng bằng nghiệp lành. Như bông vải dầu nhiều nặng cả trăm cân, nhưng chẳng thể sánh bằng một lượng vàng ròng. Như đem một thăng muối ném vào trong sông Hằng, nước sông không vị mặn người uống chẳng biết. Như người giàu to dầu thiếu người ngàn muôn vật báu cũng không ai bắt bớ làm khổ được. Như đại hương tượng có thể bứt dây xích sắt mà đi tự tại. Người trí huệ cũng như vậy, thường suy nghĩ rằng công đức lành của tôi nhiều, nghiệp ác kém yếu, tôi có thể phát lồ sám hối trừ hết tội ác, tôi có thể tu tập trí huệ làm cho sức trí huệ nhiều, sức vô minh ít.
Chúng ta có gây tội, có nghiệp ác thật nhưng cũng đã làm rất nhiều nghiệp lành nên nghiệp ác không thể lôi mình nổi, chẳng khác nào có một trăm cân bông vải cũng không quý bằng một lượng vàng ròng.
Nếu đổ một thăng muối trong một chậu nước thì uống không được, nhưng đổ dưới sông Hằng thì uống được. Nếu có vô lượng công đức, làm nhiều việc lành thì dù có ác nhỏ, ác đó có thể chuyển chẳng khác nào đem thăng muối đổ xuống sông Hằng. Như con voi mạnh, dù có cột dây xích, nó vẫn bứt đi một cách tự tại.
Do suy nghĩ như vậy, người ta cố gắng thêm và hết tội lỗi. Chúng ta dùng trí tuệ quán chiếu, càng ngày tội lỗi càng nhẹ rồi từ từ thoát khỏi. Do quan niệm đúng nên tiến lên được mới gọi là trí, còn quan niệm sai gọi là ngu.
Nghĩ như vậy rồi, gần gũi bạn lành tu tập chánh kiến, thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh. Sanh lòng cung kính đối với những người trì tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, và đem những y phục, đồ uống ăn, phòng nhà, giường nệm, thuốc men, hoa hương mà cúng dường, thường tôn trọng tán thán, đi đến đâu cũng đều khen ngợi hạnh lành của người đó, chẳng nói đến việc kém dở của người đó. Thường cúng dường Tam bảo kính tin pháp Đại thừa kinh Đại Niết-bàn, tin đức Như Lai thường hằng không có biến đổi. Tin tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Người này có thể làm cho báo nặng địa ngục trở thành quả nhẹ hiện đời.
Này thiện nam tử! Do những nghĩa trên đây nên chẳng phải tất cả nghiệp đều quyết định có quả, cũng chẳng phải tất cả chúng sanh đều quyết định thọ báo.”
Người trí chuyển nghiệp nặng thành nhẹ, người ngu để cho nghiệp nhẹ biến thành nặng. Nghiệp không cố định. Chúng ta nhiều khi đơn giản quá, thường nói gây nhân nào thì thọ quả nấy. Câu nói đơn giản đó không đủ ý nghĩa lý nhân quả của đạo Phật. Nếu nói nhân nào quả nấy thì hết chuyển rồi. Lỡ giết người thì chắc chắn bị người ta giết lại, tu cũng vô ích. Phải biết nhân quả vẫn có nhưng không quyết định, nó có thể chuyển từ nặng thành nhẹ, cũng không phải quyết định thọ vào lúc nào, có khi nặng quá thì để đời sau, nhẹ thì chuyển về đời này, khác nhau ở chỗ đó.
Hiểu cho tường tận lý nhân quả không nghi, là mình đã tiến bộ, tu khỏi lầm khỏi ngại. Nếu ngờ vực lẽ nhân quả thì tu không tiến, cho nên tôi muốn tất cả tu sĩ hiểu nhân quả cho đúng. Tin được lý nhân quả mới thật là người chánh tín, chứ tin không được thì chưa phải là chánh tín. Chánh tín tu hành mới vững vàng, còn không thì dễ thối chuyển lắm. Phật giải thích nhân quả, luôn nhắc chẳng phải tất cả nghiệp đều quyết định có quả, cũng chẳng phải tất cả chúng sanh đều quyết định thọ báo. Có nhiều người có làm mà không thọ, thì đâu gọi là quyết định thọ báo. Tất cả nghiệp đâu phải là quyết định có quả, nếu chuyển được thì quả liền mất. Hiểu như vậy gọi là thấy đúng lý nhân quả, hiểu khác thì sai.
“Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả nghiệp chẳng quyết định có quả, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, lẽ ra phải tu tập tám thánh đạo, cớ gì tất cả chúng sanh đều chẳng được đại Niết-bàn này?
Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thời sẽ quyết định được vô thượng Bồ-đề, cần gì phải tu tập tám thánh đạo?
Bồ-tát Sư Tử Hống đặt nhiều câu hỏi về Phật tánh. Câu thứ nhất ngài nói nghiệp đã không quyết định có quả thì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh là chánh nhân, lẽ ra phải tu tập bát thánh đạo là trợ nhân để được đại Niết-bàn, mà tại sao lại không được.
Câu hỏi thứ hai: Có Phật tánh là nhân thì Niết-bàn là quả, thẳng như vậy khỏi cần bát thánh đạo trợ duyên cũng có thể được. Những người bệnh không đến nỗi phải chết, cho nên gặp thầy thuốc, gặp người săn sóc giỏi hay không họ cũng vẫn mạnh.
Bạch Thế Tôn! Như trong kinh này nói người có bệnh nếu gặp đặng thuốc hay và người khám bệnh tùy theo bệnh mà cho ăn uống, hoặc chẳng được như vậy tất cả cũng đều được lành mạnh. Tất cả chúng sanh cũng như vậy, nếu gặp Thanh văn, Bích-chi Phật, chư Phật, Bồ-tát, những bậc thiện tri thức, nghe chánh pháp, tu tập thánh đạo, hoặc chẳng được gặp được nghe, được tu tập, cũng đều sẽ được thành vô thượng Bồ-đề. Tại sao vậy? Vì do Phật tánh vậy.
Câu hỏi thứ ba: Mỗi chúng sanh đã sẵn có Phật tánh, thì dù gặp bạn lành hay không gặp bạn lành cũng vẫn đến được Niết-bàn, vì đã có sẵn nhân thì phải đến quả, chứ không cần đợi đến gặp bạn lành hay là gặp Bồ-tát gặp Phật mới tiến được.
Bạch Thế Tôn! Ví như không ai có thể ngăn mặt trời, mặt trăng đi vòng khắp bốn châu thiên hạ, tất cả chúng sanh cũng như vậy, không ai có thể ngăn trở làm cho có thể được đến vô thượng Bồ-đề. Tại sao vậy? Vì do Phật tánh vậy.
Bạch Thế Tôn! Cứ theo nghĩa này thời tất cả chúng sanh chẳng cần tu hành, do năng lực của Phật tánh đều đáng được vô thượng Bồ-đề.
Câu hỏi thứ tư: Không ai có thể ngăn trở làm cho chúng sanh không thể tiến đến vô thượng Bồ-đề như không ai ngăn được mặt trời mặt trăng đi khắp bốn châu thiên hạ.
Chúng sanh đã có Phật tánh thì dù gặp bạn ác thầy ác, cũng vẫn tiến tới thành Phật như thường, chứ không do bạn ác thầy ác mà bị thối lui. Cũng như mặt trời mặt trăng nhất định là mọc ở phương đông, lặn ở phương tây không ai ngăn được, như có Phật tánh thì không ai ngăn được nên nhất định phải tiến tới thành Phật. Đã có Phật tánh thì do năng lực của Phật tánh tiến tới Bồ-đề khỏi cần tu. Trước là không cần gần bạn lành, sau không bị bạn ác ngăn trở, tới đây cũng không cần tu luôn.
Bạch Thế Tôn! Nếu nhất-xiển-đề phạm bốn tội trọng năm tội nghịch chẳng được vô thượng Bồ-đề lẽ ra cần phải tu tập, vì do Phật tánh quyết định sẽ được, chẳng phải do tu tập rồi sau mới được.
Câu hỏi thứ năm; nhất-xiển-đề tức là những người bất kính, không tin, phạm bốn tội trọng năm tội nghịch chẳng được vô thượng Bồ-đề lẽ ra cần phải tu tập, nhưng do Phật tánh quyết định sẽ được, chẳng phải do tu tập rồi sau mới được. Ý câu hỏi này là dù cho phạm tội nặng như nhất-xiển-đề khỏi cần tu cũng được thành Phật, Vì sao? Vì đã có Phật tánh rồi sớm muộn cũng sẽ thành.
Bạch Thế Tôn! Ví như đá nam châm dầu cách xa sắt, nhưng do sức của nó mà sắt bị hút dính. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, nên chẳng cần siêng năng tu tập thánh đạo.”
Ngài hỏi dồn dập nhiều câu nhưng đều có một lý do chính, là mình sẵn có Phật tánh, thì không ngại gì sẽ thành Phật bằng cách này hay cách khác, dù có bạn lành hay không có bạn lành cũng thành Phật, dù có tu hay không tu cũng thành Phật, dù có tội cũng thành Phật chứ không có gì trở ngại hết.
Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Như bên sông Hằng có bảy hạng người hoặc vì tắm rửa, hoặc vì sợ giặc cướp, hoặc vì hái hoa mà vào trong sông.
Người thứ nhất vào nước thời chìm, vì yếu đuối lại chẳng biết lội.
Người thứ hai dầu bị chìm lại nổi lên nổi rồi lại chim, vì người này có sức mạnh nên có thể nổi lên, vì chẳng biết lội nên lại chìm.
Người thứ ba chìm rồi liền nổi lên, nổi lên chẳng chìm nữa, vì người này thân nặng nên chìm, do sức mạnh nên nổi lên, vì biết lội nên không bị chìm nữa.
Người thứ tư vào nước bên chìm, chìm rồi lại nổi lên, nổi lên rồi bèn chẳng chìm nữa mà ngó khắp bốn phương, vì người này thân nặng nên chìm, sức mạnh lại nổi lên, biết lội nên không chìm nữa, chẳng biết lên phía nào nên ngó khắp bốn phương, Người thứ năm vào nước liền chìm, lại nổi lên rồi không chìm nữa, nhìn ngó phương hướng mà lội đi, vì có lòng sợ sệt.
Người thứ sáu vào nước liền lội đi, đến chỗ cạn thời đứng lại, vì để xem giặc cướp gần hay xa.
Người thứ bảy đã qua đến bờ kia leo lên núi lớn không còn sợ sệt, thoát khỏi giặc cướp lòng rất vui sướng.
Phật ví dụ bảy hạng người qua sông Hằng. Người thứ nhất vừa rơi xuống nước thì chìm, vì yếu đuối không biết lội. Người thứ hai rớt xuống bị chìm, nổi lên rồi chìm luôn. Người thứ ba chìm rồi nổi lên, không bị chìm nữa vì họ biết lội. Người thứ tư chìm, nổi lên rồi xem bốn phương. Người thứ năm chìm rồi nổi lên, xem phương hướng rồi lội đi. Người thứ sáu tới chỗ cạn đứng dừng lại xem cướp gần hay xa. Người thứ bảy không chìm, đi thẳng qua bờ bên kia hết sợ sệt. Sông Hằng dụ cho sông sanh tử.
Này thiện nam tử! Sông lớn sanh tử cũng như vậy, có bảy hạng người vì sợ giặc phiền não mà muốn lội qua sông sanh tử, nên xuất gia cạo tóc thân mặc pháp phục. Đã xuất gia rồi gần gũi bạn ác nghe theo lời của họ mà lãnh thọ tà pháp. Họ bảo rằng thân chúng sanh tức là năm ấm, năm ấm gọi là năm đại, chúng sanh nếu chết thời năm đại dứt hẳn, đã dứt hẳn cần gì tu tập những hạnh nghiệp lành dữ, do đây nên biết rằng không có lành dữ cũng như không có quả báo lành dữ. Hạng người này gọi là nhất-xiển-đề, gọi là dứt căn lành, vì căn lành đã dứt nên chìm trong sông sanh tử không thể ra được, vì nghiệp ác của họ quá nặng, vì họ không có đức tin, như người thứ nhất bên bờ sông Hằng.
Này thiện nam tử! Nhất-xiển-đề có sáu nhân duyên phải chìm trong ba đường ác không thể thoát được: một là vì tâm ác quá thạnh, hai là vì chẳng thấy đời sau, ba là vì ưa huân tập phiền não, bốn là vì xa lìa căn lành, năm là vì nghiệp ác ngăn cách, sáu là vì gần gũi bạn ác. Lại có năm điều khiến họ chìm trong ba đường ác: một là làm việc phi pháp đối với các Tỳ-kheo, hai là làm việc phi pháp đối với các Tỳ-kheo-ni, ba là tự do dùng vật của chúng tăng, bốn là làm việc phi pháp với mẹ, năm là sanh sự thị phi đối với năm bộ Tăng. Lại có năm điều làm cho họ chìm trong ba đường ác: một là nói không quả báo thiện ác, hai là giết chúng sanh phát Bồ-đề tâm, ba là ưa nói lỗi lầm của pháp sư, bốn là chánh pháp nói là phi pháp, còn phi pháp nói là chánh pháp, năm là vì tìm lỗi của chánh pháp mà đến nghe học. Lại có ba điều làm cho họ chìm trong ba đường ác: một là nói đức Như Lai vô thường nhập diệt vĩnh viễn, hai là nói chánh pháp vô thường dời đổi, ba là nói chúng tăng thật có thể hoại diệt.
Có bảy hạng người sợ giặc phiền não, muốn qua con sông sanh tử nên cạo tóc xuất gia. Nhưng người thứ nhất xuất gia rồi gần gũi bạn ác, từ từ không tu bốn thứ thân giới tâm tuệ. Bởi vậy họ tuy xuất gia mà sau này chìm trong sanh tử không thoát ra được. Đó là hạng thứ nhất bởi do gần gũi bạn ác.
Người thứ hai muốn qua khỏi sông lớn sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm không thoát được. Nói rằng thoát khỏi tức là gần gũi bạn lành thời được tín tâm, chính là tin bố thí và quả bố thí, tin nghiệp lành và quả lành, tin nghiệp ác và quả ác, tin sanh tử là khổ, là vô thường hư hoại. Do được tín tâm nên tu tập tịnh giới, trì tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, thường thích bố thí, khéo tu trí huệ. Vì độn căn nên lại gặp bạn ác, do đây nên không thể tu tập thân giới tâm huệ, trở lại thọ lấy tà pháp, hoặc gặp thời kỳ ác ở nơi cõi nước ác, nên dứt mất những căn lành mà phải chìm luôn trong sanh tử, như người thứ hai bên sông Hằng.
Người thứ hai là muốn qua khỏi sông lớn sanh tử, vì mất căn lành cho nên bị chìm, không thoát ra được. Muống thoát khỏi phải gần gũi bạn lành để được tín tâm. Như vậy người này được gần gũi bạn lành, được tín tâm, có tin bố thí, quả báo…, tu tập tịnh giới, trì tụng biên chép… Nhưng vì độn căn nên lại gặp bạn ác, tức là trước gặp bạn lành giáo hóa, cũng được chút ít đạo lý nhưng vì căn cơ chậm lụt tối tăm quá cho nên sau lại tin theo bạn ác rồi cũng chìm trong sanh tử. Đó là ví dụ cho người thứ hai, rơi xuống rồi chìm, chìm rồi nổi lên, nổi lên rồi chìm xuống lại.
Người thứ ba muốn qua khỏi sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm đắm ở trong sông. Người này gần gũi bạn lành nên được nổi lâu, tin đức Như Lai là bậc Nhất thiết trí thường hằng không biến đổi, vì chúng sanh mà nói đạo vô thượng, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Như Lai chẳng phải diệt độ, Pháp và Tăng cũng không hoại diệt. Nhất-xiển-đề nếu chẳng dứt ác pháp của họ thời trọn không thể được vô thượng Bồ-đề. Phải biết rằng cần phải xa lìa rồi sau mới đặng. Do tín tâm nên tu tịnh giới, tu tịnh giới rồi thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, vì chúng sanh mà rộng tuyên dương lưu bố, ưa bố thí, tu tập trí huệ, do căn trí lanh lợi nên trụ vững nơi tín huệ không thối chuyển, như người thứ ba bên sông Hằng.
Người thứ ba từ từ được lòng tin, tu tịnh giới, rồi thọ trì đọc tụng biên chép các kinh, tức là tu tâm, tu giới, tu trí tuệ. Do căn trí lanh lợi nên họ tự vững ở nơi tín tuệ không thối chuyển như người thứ hai.
Người thứ tư muốn qua khỏi sông sanh tử, vì dứt căn lành nên chìm trong sông, vì gần gũi bạn lành nên được tín tâm đây gọi là nổi lên. Vì được tín tâm nên được thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà rộng tuyên dương lưu bố, ưa bố thí, tu tập trí huệ, do lợi căn nên đứng vững nơi tín huệ tâm không thối chuyển, quán sát khắp bốn phương, quán sát bốn phương đây là nói bốn quả Sa-môn, như người thứ tư bên sông Hằng.
Người thứ tư cũng muốn qua sông sanh tử, bị dứt căn lành chìm trong sông, vì gần gũi bạn lành nên được bốn thứ tu thân tu giới tu tâm tu tuệ mà tâm không thối chuyển nên mới xem khắp bốn phương, đó là bốn quả Sa-môn, tức là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.
Người thứ năm muốn lội qua sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên phải chìm trong sông, nhờ gần gũi bạn lành nên được tín tâm đây gọi là nổi lên, do tín tâm nên thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà rộng tuyên dương lưu bố, ưa bố thí, tu tập trí huệ vì lợi căn nên đứng vững nơi tín huệ không thối chuyển, không thối chuyển rồi bèn thẳng đến trước, thẳng đến trước đây là nói quả Bích-chi Phật dầu có thể tự độ nhưng chẳng độ đến chúng sanh, đây gọi là đi, như người thứ năm bên sông Hằng.
Người thứ năm muốn lội qua sông sanh tử, vì dứt căn lành nên chìm trong sông mà gần gũi bạn lành nên được thân giới tâm tuệ không thối chuyển qua khỏi sông sanh tử. Đó là ví dụ cho hàng Bích-chi Phật.
Người thứ sáu muốn qua khỏi sông sanh tử, vì mất thiện căn nên chìm trong sông, nhờ gần gũi bạn lành mà được tín tâm, dây gọi là nổi lên, do tín tâm nên thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà rộng tuyên dương lưu bố, ưa bố thí, tu tập trí huệ, do lợi căn nên đứng vững nơi tín huệ không thối chuyển, rồi bèn thẳng đến trước gặp chỗ cạn đứng lại chẳng đi nữa. Đứng lại chẳng đi là nói Bồ-tát vì muốn độ chúng sanh nên trụ lại quán sát phiền não, như người thứ sáu bên sông Hằng.
Hạng người thứ sáu cũng muốn qua sông sanh tử, vì mất căn lành nên chìm trong sông, mà gần gũi bạn lành được tín tâm gọi là nổi lên, rồi do họ thọ trì đọc tụng biên chép v.v… mới được đầy đủ bốn điều thân giới tâm tuệ cho nên đi thẳng qua sông tới bờ, đó là ví dụ cho Bồ-tát.
Người thứ bảy muốn thoát khỏi sông sanh tử, vì mất căn lành nên chìm trong sông, nhờ gần gũi bạn lành mà được tín tâm đây gọi là nổi lên, do tín tâm nên thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà rộng tuyên dương lưu bố, ưa bố thí, tu tập trí huệ, do lợi căn nên đứng vững nơi tín huệ không thối chuyển, liền thẳng đến bờ kia, leo lên núi cao, lìa khỏi những sự khủng bố, hưởng nhiều sự an vui.
Này thiện nam tử! Núi cao bên bờ kia dụ cho đức Như Lai, hưởng sự an vui dụ cho Phật thường trụ, núi cao lớn dụ cho đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Những người ở bên bờ sông Hằng kia đều có đủ tay chân mà không thể qua được. Tất cả chúng sanh cũng như vậy, thật có Phật pháp tăng Tam bảo, đức Như Lai thường nói pháp yếu, có tám thánh đạo, có đại Niết-bàn, mà chúng sanh đều chẳng thể được, đây chẳng phải lỗi của Như Lai, cũng chẳng phải lỗi của thánh đạo và chúng sanh, nên biết rằng đều là lỗi ác của phiền não, do đây nên tất cả chúng sanh chẳng được đại Niết-bàn.
Hạng người thứ bảy cũng ở trong sông sanh tử mà gần gũi bạn lành cho nên sau này tiến tu đầy đủ công đức, qua khỏi sông sanh tử lên được bờ, đứng trên núi cao nhìn không còn khủng bố sợ sệt gì nữa, đó là dụ cho Phật.
Bảy hạng người đó đều do gặp bạn lành hay bạn dữ mà chìm hay qua khỏi sông. Như vậy do gặp bạn lành và biết tu nữa thì mới qua khỏi sông, không có bạn không sao qua khỏi sông được.
Bồ-tát Sư Tử Hống hỏi, tại sao chúng sanh tất cả nghiệp không có cố định để thọ quả, chúng sanh có Phật tánh, Phật lại nói có pháp bát thánh đạo, sao chúng sanh lại không tiến tới để được đại Niết-bàn. Phật nói, ai cũng có tay chân mà có người qua sông được người qua không được vì người biết lội người không biết lội… Tu hành cũng vậy, tuy người nào cũng có Phật tánh, người nào cũng nghe pháp Phật, sẵn sàng tìm nó mà có người đến được người không đến được, bởi vì gặp bạn lành hay bạn ác, biết tu hay không biết tu.
Này thiện nam tử! Như lương y biết rõ bệnh nói phương thuốc, người bệnh chẳng chịu uống, đây chẳng phải là lỗi của lương y.
Này thiện nam tử! Như có thí chủ đem tiền của bố thí cho mọi người, có người chẳng chịu nhận lấy, đây chẳng phải là lỗi của thí chủ.
Này thiện nam tử! Như mặt trời mọc lên những chỗ tối tăm đều tỏ sáng, mà người mù lòa kia chẳng thấy đường sá, đây chẳng phải là lỗi của mặt trời.
Lỗi tại bệnh nhân chứ không phải tại thầy thuốc, cũng vậy tuy có Phật pháp Tam bảo mà người ta không tu thì làm sao được Niết–bàn. Như mặt trời soi sáng mà người mù không thấy thì lỗi đó tại người mù chứ không phải lỗi tại mặt trời.
Này thiện nam tử! Như nước sông Hằng có thể giải trừ sự khát nước, có kẻ khát nước chẳng chịu uống, đây chẳng phải là lỗi của nước.
Này thiện nam tử! Như mặt đất bình đẳng nuôi sống tất cả cây cỏ, có nông phu kia chẳng chịu gieo trồng, đây chẳng phải là lỗi của mặt đất.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai khắp vì tất cả chúng sanh mà rộng mở bày phân biệt mười hai bộ kinh, chúng sanh chẳng chịu tin thọ, đây chẳng phải là lỗi của Như Lai.
Như đất sẵn sàng để trồng cây cối mà mình không trồng, không gieo giống không có ăn, lỗi tại mình chứ không phải tại đất. Phật thuyết giảng đầy đủ mười hai bộ kinh mà chúng sanh không tin nhận, không phải lỗi Phật.
Này thiện nam tử! Nếu người tu tập thánh đạo thời được vô thượng Bồ-đề.
Này thiện nam tử! Vừa rồi ông nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh đáng được vô thượng Bồ-đề, như đá nam châm hút sắt.
Lành thay! Lành thay! Do có năng lực nhân duyên của Phật tánh nên chúng sanh được vô thượng Bồ-đề.
Nhưng nếu nói rằng chẳng cần tu tập thánh đạo thời không đúng.
Này thiện nam tử! Như có người đi trong đồng hoang vắng khát nước gặp giếng, giếng này sâu thẳm tối đen, người này dầu chẳng thấy nước nhưng biết rằng chắc có nước, người này tìm dây gàu múc lên thời thấy nước. Phật tánh cũng vậy, tất cả chúng sanh mặc dầu đều có, nhưng cần phải tu tập vô lậu thánh đạo rồi sau mới đặng thấy.
Tuy có Phật tánh nhưng không tu thì cũng không được. Phật dùng các ví dụ: Ví dụ thứ nhất là giếng sâu, nhìn dưới tối om nhưng biết có nước, nếu không dùng phương tiện gàu dây để bỏ xuống múc nước thì không có nước uống, dùng phương tiện gàu dây để múc thì có nước uống. Nước là Phật tánh, gàu dây… là dụ cho bát thánh đạo, nhờ bát thánh đạo mà thấy được Phật tánh, chứ đừng ỷ lại có Phật tánh rồi không tu thì không bao giờ được, như ỷ lại dưới giếng có nước mà không có phương tiện thì cũng chết khô.
Này thiện nam tử! Như người có hột mè thời tất được thấy dầu, nhưng rời bỏ phương tiện thời chẳng thấy được. Nơi mía thấy đường cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như cung trời Đao-lợi và Bắc Câu-lô Châu dầu là có, nhưng nếu không nghiệp lành, hoặc thần thông, hoặc đạo lực, thời chẳng thấy được.
Như rễ cỏ trong đất, như mạch nước dưới đất, vì đất che nên chúng sanh chẳng thấy. Phật tánh cũng vậy, vì chẳng tu tập thánh đạo nên chẳng thấy được.
Chúng ta có mè thì chịu khó dùng phương tiện ép ra dầu mè, có mía dùng phương tiện ép ra đường.
Nếu không có phương tiện thì mè cũng không có dầu, mà mía cũng không ra đường. Dầu đường là dụ cho Phật tánh, ép ra dầu đường là những phương tiện dụ cho tu hành. Đó là những dụ ở thế gian, bây giờ ngài ví dụ những cái ngoài thế gian mà mình không biết.
Cung trời Đao-lợi và Bắc Câu-lô Châu dụ cho Phật tánh, mình thiếu thần thông, thiếu đạo lực, thiếu căn lành thì không bao giờ thấy.
Thấy có cây thì biết có rễ. Biết có rễ nhưng không phải tự nhiên mà thấy được, phải đào xới. Rễ dụ cho Phật tánh, đào xới dụ cho tu hành. Như mạch nước dưới đất, nếu không chịu đào thì cũng không thấy. Mạch nước dụ cho Phật tánh, đào dụ cho tu hành. Phật trả lời rõ rằng tuy chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh có năng lực giúp mình nhưng nếu không dùng phương tiện tu hành thì cũng không bao giờ hiện. Đây là trả lời câu tất cả chúng sanh có Phật tánh, cũng như đá nam châm hút sắt, như vậy khỏi cần tu cũng được vô thượng Bồ-đề.
Này thiện nam tử! Như vừa rồi ông nói trong đời có người bệnh nếu gặp được lương y, thuốc hay, người khám bệnh giỏi, ăn uống phải cách, hoặc chẳng gặp, đều được lành mạnh.
Này thiện nam tử! Đó là ta vì bậc Lục trụ Bồ-tát mà nói nghĩa ấy.
Này thiện nam tử! Như hư không đối với chúng sanh, nó chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, vì không phải trong ngoài nên cũng không trở ngại. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như có người để tài sản ở xứ khác, dầu của cải không hiện có, nhưng người này vẫn được tùy ý thọ dụng. Có người hỏi đến tiền của, người này đáp rằng tôi hứa cho. Tại sao vậy? Vì người này quyết định có của. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, chẳng phải đây chẳng phải kia, vì quyết định được nên ta nói tất cả chúng sanh đều có.
Hoặc chẳng gặp được lương y, chẳng gặp thuốc hay, chẳng gặp người khám bệnh giỏi, chẳng ăn uống phải cách, cũng vẫn được lành. Ở đây Phật cải chính, sở dĩ Phật nói câu đó là nhằm vào bậc Lục trụ Bồ-tát tức là Bồ-tát ở trong Thập địa mà tới hàng thứ sáu rồi chứ không phải là người thường.
Phật tánh không phải trong không phải ngoài cho nên không trở ngại. Tuy không phải hiện mình thấy nhưng vẫn có, ví dụ như người có tài sản để ở nơi khác.
Này thiện nam tử! Như chúng sanh gây tạo các nghiệp, hoặc nghiệp lành, hoặc nghiệp ác, chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nghiệp tánh này chẳng phải có chẳng phải không, lại cũng chẳng phải là trước không mà nay có, cũng chẳng phải không nhân mà có ra, chẳng phải đây làm rồi đây thọ, chẳng phải đây làm mà kia thọ, chẳng phải kia làm mà kia thọ, nghiệp tánh này không tác giả không thọ giả, lúc thời tiết hòa hiệp thời có quả báo. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, chẳng phải là trước không mà nay có, chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải đây chẳng phải kia, chẳng phải chỗ khác đến, chẳng phải không nhân duyên, cũng chẳng phải là tất cả chúng sanh chẳng thấy, có những Bồ-tát lúc thời tiết nhân duyên hòa hiệp mà được thấy. Thời tiết đây là nói bậc Thập trụ Bồ-tát tu tám thánh đạo được tâm bình đẳng đối với chúng sanh, lúc bấy giờ được thấy Phật tánh, chẳng gọi là tạo tác.
Nghiệp tánh đó khi nào thời tiết chín muồi thì hiện, Bồ-tát được đến Thập trụ thì mới thấy. Như vậy nghiệp có mà không ai tìm ra, nghiệp chúng ta bây giờ ở đâu không thấy, nhưng nhân duyên đủ thì nó hiện, Phật tánh cũng vậy, bình thường con mắt phàm không thấy, nhưng khi tu hành quả báo gần đầy đủ thì thấy.
Này thiện nam tử! Ông nói rằng như đá nam châm hút sắt, cứ nơi nghĩa thời chẳng đúng. Tại sao vậy? Vì đá ấy chẳng hút sắt, bởi đá ấy không tâm nghiệp. Này thiện nam tử! Do pháp kia có nên pháp này sanh ra, do pháp kia không nên pháp này diệt hoại, không có tác giả cũng không có hoại giả.
Bởi không tâm nghiệp nên đá có ý nghĩ đâu mà hút sắt. Chúng ta làm, chúng ta muốn… tức là có tâm nghiệp, còn đá nam châm không có ý có tâm nghiệp hút sắt, tự nhiên để gần thì hút còn không để gần thì thôi.
Đây là những giải thích rõ ràng về lý nhân duyên. Chính chỗ này chúng ta thấy Phật học gần với khoa học. Do lý nhân duyên, cái này có cho nên cái kia có, cái này sanh cho nên cái kia sanh, cái này hoại cho nên cái kia hoại. Nhân duyên hợp đủ thì hiện ra tướng trạng, nếu không đủ nhân duyên hợp thì không có. Chỉ do nhân duyên mà thôi, chứ không phải sự vật có tâm ý tìm nhau, cái kia tìm cái nọ, không có. Trong đá nam châm không có tác giả mà cũng không có hoại giả, không có người tạo ra mà cũng không có người làm cho hư hoại. Duyên đủ thì nó sinh, duyên thiếu thì nó hoại.
Này thiện nam tử! Như ngọn lửa mạnh chẳng thể đốt cháy củi, lửa ra củi hư gọi đó là cháy củi.
Thường thường mình nói lửa cháy củi, phải vậy không? Nhưng ở đây Phật nói ngọn lửa chẳng thể đốt cháy củi. Tại sao? Lửa ra, củi hư thì gọi là cháy củi. Như nói “mình ăn cơm…”, mình ăn cơm tức là có tác giả, có tâm thức muốn ăn, biết nhai biết nuốt, cho nên nói mình ăn. Nhưng giờ đây lửa có ăn củi không? Lửa bùng lên, củi cháy thành tro nên nói lửa đốt củi, nhưng sự thật thì lửa không có tâm ý đốt gì hết. Duyên hợp lại thì sự việc xảy ra vậy thôi.
Như bông quỳ xoay theo mặt trời, dầu vậy nhưng bông quỳ này không có tâm cung kính, không thức cũng không nghiệp, vì tánh chất riêng của nó mà tự xoay chuyển,
Như cây chuối nhân tiếng sấm mà được tăng trưởng, cây này không lỗ tai, không có tâm ý thức, do vì có pháp kia nên pháp này tăng trưởng, vì không pháp kia nên pháp này hư hoại.
Bông quỳ xoay theo mặt trời, nhưng thật ra nó đâu có tâm ý đó. Như bông mười giờ không biết giờ giấc, nhưng đúng mười giờ thì nó nở, chúng ta gọi là bông mười giờ. Đủ nhân duyên thì nó nở, nó xoay, không tâm ý gì cả.
Cây chuối tới mùa mưa nghe tiếng sấm mà tăng trưởng. Nó đâu có lỗ tai mà nghe, cũng không có ý thức, vậy mà có sấm nó phát ra như vậy. Chúng ta cũng thường nghe nói mấy cây khô nghe sấm đâm chồi. Trên rừng có mấy cây chưa mưa đã chớm chớm nảy chồi, mình tưởng là nó nghe sấm nhưng không phải, nhân duyên tới thì nó như vậy. Cho nên cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh.
Như cây a-thúc-ca, người nữ rờ đụng đến thời cây này trổ bông, cây này không tâm ý, cũng không giác xúc, do vì có pháp kia nên pháp này sanh ra, vì không pháp kia nên pháp này hư hoại.
Như cây quýt được tử thi thời trái thêm nhiều, cây quýt này không tâm ý cũng không giác xúc, vì có pháp kia nên pháp này thêm nhiều, vì không pháp kia nên pháp này hư hoại.
Như cây an thạch lựu do phân gạch xương thời trái thêm nhiều, cây an thạch lựu này cũng không tâm ý không giác xúc, vì có pháp khác nên pháp này thêm nhiều, vì pháp khác không nên pháp này hư hoại.
Như đá nam châm hút sắt cũng như vậy, do pháp này có nên pháp kia sanh, vì pháp này không nên pháp kia hư hoại.
Như cây a-thúc-ca (vô ưu), người nữ đụng thời nó trổ bông. Cây này cũng không có tâm ý, cũng không có xúc giác gì.
Tôi cũng nghe nói thay chó chôn dưới gốc quýt nó ra trái nhiều, nghe nói chứ tôi chưa kinh nghiệm. Như vậy thật ra cây quýt cũng không có tâm ý nhưng đủ duyên thì nó ra trái. Như cây thạch lựu mà đổ xương dưới gốc nó thì có trái nhiều. Duyên đủ thì nó hiện chứ không thể nói là có tâm ý.
Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, chẳng thể đến được vô thượng Bồ-đề.
Này thiện nam tử! Vô minh chẳng thể hút lấy hành nghiệp, hành cũng chẳng thể hút lấy thức, dầu vậy nhưng cũng gọi là vô minh duyên hành, hành duyên thức.
Hoặc có Phật hay không Phật, pháp giới vẫn thường trụ.
Phật tánh không có tâm ý muốn đến Bồ-đề, Phật tánh là tánh giác sáng suốt, không phải cái suy nghĩ tính toán theo ý thức của mình. Do dụng công tu hành, nó tự hiện.
Mỗi cái đều có vị trí riêng, duyên hợp thì nó có công dụng như vậy. Cái này duyên cái kia, cái kia duyên cái nọ.
Đây là Phật chỉ pháp giới chân thật thường trụ, dù có Phật ra đời hay không có Phật ra đời.
Nếu nói rằng Phật tánh ở trong chúng sanh, nên biết rằng pháp thường hằng thời vô trụ, nếu có chỗ ở thời là vô thường.
Nhận được Phật tánh mới biết nó vô trụ, nếu trụ một chỗ mà tìm Phật tánh thì không bao giờ được. Có trụ tức là vô thường, Phật tánh là pháp thường trụ, nên không có chỗ nơi, vì chỗ nơi đều là có hình thức, Phật tánh không hình thức nên không chỗ nơi. Vì vậy Lục Tổ nghe câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” ngài liền thấy tánh. Thấy tánh tức là thấy được Phật tánh. Khi ngài Thần Tú nói Thân thị Bồ-đề thọ, tâm như minh cảnh đài thì ngài nói ngược lại: Bồ-đề bản vô thọ, minh cảnh diệc phi đài. Ngũ Tổ nhìn qua bài kệ, ngài biết ai thấy ai chưa thấy. Ở đây kinh nói Phật tánh là thường trụ nên không chỗ nơi. Rõ ràng không còn ngờ vực gì nữa, chính cái không có chỗ nơi đó mới thấy Phật tánh.
Như mười hai nhân duyên không chỗ ở nhất định, nếu có chỗ ở thời mười hai nhân duyên chẳng được gọi là thường. Pháp thân của Như Lai cũng không chỗ ở. Pháp giới, pháp nhập, pháp ấm, hư không đều không chỗ ở, Phật tánh cũng không chỗ ở như vậy.
Này thiện nam tử! Như tứ đại dầu thế lực đồng nhau, nhưng có cứng, có nóng, có ướt, có động, có nặng, có nhẹ, có đỏ, có trắng, có vàng, có đen, mà tứ đại này cũng không có nghiệp, vì pháp giới khác nên đều chẳng giống nhau. Phật tánh cũng như vậy vì pháp giới khác đến thời kỳ thời hiện.
Này thiện nam tử! Vì tất cả chúng sanh chẳng thối mất Phật tánh nên gọi là có, vì bất thối chuyển, vì sẽ có, vì quyết định được, vì quyết định sẽ thấy, nên gọi là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Mười hai nhân duyên cứ luân chuyển luôn không dừng, không có chỗ ở. Phật tánh tuy là có, nhưng đủ duyên thì mới hiện, thiếu duyên thì không bao giờ thấy.
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tức là đều có khả năng thành Phật, đó là một sức mạnh. Chúng ta tin tưởng: “À, mình có thể thành Phật” cho nên ráng tu. Lại nói thêm Phật tánh vì bất thối chuyển, vì sẽ có, nếu tiến tu không lui sụt thì nhất định chúng ta sẽ được, sẽ thấy, không nghi ngờ gì hết. Nếu ai tin được như vậy hiểu được như vậy thì sẽ mạnh mẽ tiến, không bao giờ dừng. Chỉ có những người không tin không hiểu như vậy nên nói tu biết đời nào mới thành Phật! Nói như vậy là đã thối lui rồi. Cũng như có người leo núi, than núi cao như thế, biết bao giờ lên nổi. Vừa nói ra câu đó là muốn lui gót. Nhiều người tụ lâu quá không được gì hết rồi nói: “Chà, tu lâu quá mà không thấy thành Phật, không biết chừng nào thành Phật!” Nói như vậy là họ đã thổi chí rồi. Kinh luôn luôn thúc đẩy chúng ta: “Ông có Phật tánh, ông sẽ được, ông sẽ thấy”, vì sẽ được sẽ thấy cho nên nhất định mình cố gắng. Đó là một sức mạnh, là người bạn lành tốt nhất của mình. Nếu không có được sự thúc đẩy cho mình quả quyết, tin chắc thì chắc chắn chúng ta dễ thối chí lắm.
Ví như có quốc vương bảo một đại thần dắt một con voi đem chỉ cho người mù. Đại thần được lệnh quốc vương liền họp bọn người mù đến bên con voi. Lúc đó bọn người mù đều lấy tay rờ voi. Đại thần trở về tâu với quốc vương đã đem voi chỉ cho bọn người mù rồi. Quốc vương liền kêu bọn người mù đến hỏi riêng từng người. Con voi hình dạng như thế nào. Trong bọn người mù kia, kẻ rờ ngà bèn nói voi hình như củ cải, kẻ rờ tai nói rằng voi giống như cái kỵ, kẻ rờ đầu nói rằng voi giống như khối đá, kẻ rờ vòi nói rằng voi giống như cái chày, kẻ rờ chân nói rằng voi giống như cái cối gỗ, kẻ rờ lưng nói rằng voi như cái giường, kẻ rờ bụng nói rằng voi như cái lu, kẻ rờ đuôi nói voi như sợi dây.
Này thiện nam tử! Bọn mù kia chẳng nói trúng thân hình của voi, nhưng cũng chẳng phải là chẳng nói, các hình tướng đó đều chẳng phải hình voi, nhưng rời ngoài những hình này lại không có voi.
Này thiện nam tử! Quốc vương là dụ cho Như Lai đấng Chánh biến tri vậy. Đại thần dụ cho kinh Đại thừa đại Niết-bàn. Voi dụ cho Phật tánh. Bọn mù dụ cho tất cả chúng sanh vô minh.
Phật dùng ví dụ thật hay, ví dụ này gốc trong kinh A-hàm và kinh Đại Bát-niết-bàn. Sách ngoài cũng thường đề cập người mù sờ voi, nhưng người ta dùng với ý khác.
Có ông vua muốn biết mấy thầy bói mù nhận xét đúng sai ra sao, nên ra lệnh cho các quan đưa voi đến, cho những người mù này rờ xem nó hình dáng thế nào.
Mỗi người rờ chỗ nào thì diễn tả đúng theo chỗ mình đoán. Người rờ chân con voi nói giống như cây cột, người rờ đuôi nói như cây chổi chà, rờ tai nói như cái quạt, rờ bụng nói như cái trống… Vua nghe xong buồn cười, vì tất cả cái thấy biết cục bộ của họ không đúng với sự thật. Voi ví dụ cho chân lý, mấy người bám vào từng phần của voi là biết một phần mà cho là toàn thể chân lý, họ diễn tả chân lý theo chỗ biết của mình. Nhưng chúng ta có thể kết luận là những người đó sai được không? Tôi nói theo kinh A-hàm để thấy cái hay của đạo lý. Số người mù rờ voi dụ cho tất cả ngoại đạo. Những người này không tu theo Phật, đối với chân lý, họ có được hay không? Có được chứ, phải vậy không? Nhưng mà được từng phần. Bởi vì được từng phần nên họ nói đúng phần được của họ. Người khác thấy phần khác sẽ nói theo chỗ thấy khác của họ, hai bên nghịch nhau. Nghịch nhau thì cãi. Người khác thấy khác nữa nên cãi nữa, thành một trường tranh luận. Ai cũng quả quyết mình thấy chân lý. Chỉ có người sáng mắt như ông vua thấy toàn thể con voi, nên nói con voi như cái chổi chà vua cũng cười, nói con voi như cái cột vua cũng cười. Họ nói đó cũng đúng theo chỗ họ nắm được, nhưng mà chỉ đúng có một phần thôi. Vua có cần cãi không? Đâu có cần cãi, bởi vì đã thấy rõ, Vua là dụ cho Phật, Phật thấy tất cả mà không chấp, còn chúng ngoại đạo thấy đâu chấp đó, chấp theo chỗ thấy của mình, cho nên tranh cãi hơn thua.
Những người tranh cãi đều có lý chứ đâu phải vô lý. Nhưng chân lý đó là chân lý từng phần, chứ không phải là chân lý cứu cánh. Có chân lý phổ biến và chân lý cứu cánh, chân lý từng phần và chân lý viên mãn. Cho nên nếu mình chưa phải là người giác ngộ hoàn toàn, khi người ta nhận được điều gì người ta nói điều đó, mình đừng vội phán đoán là sai. Nếu nói sai tức là mình nhìn theo cái thấy của mình. Nếu người ta nói con voi như củ cải, mình cãi nói “con voi như cây cột, ông nói bậy”, đó là vì mình chưa nắm được cái ngà. Nếu nắm cái ngà thì mình cũng nói con voi như củ cải như họ. Người đời khi luận biện với nhau, mỗi người đều có lập trường riêng nên mới cãi. Cãi nhau thì chỉ đi tới chỗ thành kiến, chống chọi rồi giết chóc vô ích. Chúng ta phải biết toàn diện, tức phải giác ngộ hoàn toàn, biết tường tận thì hết cãi. Người học ít hay cãi lung tung, những người học nhiều họ không cãi. Lý luận thấu chỗ cùng tột thì hết lý luận. Đó là ví dụ trong kinh A-hàm.
Ở đây hơi khác một chút, khác mà không khác, Phật muốn chỉ chân lý là Phật tánh, Chân lý đó là chân lý viên mãn nơi mỗi chúng sanh. Không ngộ được viên mãn thì sẽ chấp cách này cách kia, như nhóm người mù, Chỉ một chân lý, chỉ một con voi mà hiện ra bao nhiêu tướng. Bao nhiêu tướng cũng không rời con voi, con voi cũng không rời bao nhiêu tướng đó. Nếu chấp một tướng thì sai, còn biết là nó không rời nhau thì không sai.
Những chúng sanh này cho rằng Phật đã nói xong, hoặc có kẻ nói sắc là Phật tánh, vì sắc này dầu diệt, nhưng tuần tự nối luôn do đây được ba mươi hai tướng tốt vô thượng của Như Lai, sắc tướng Như Lai là thường, vì sắc tướng Như Lai thường hằng chẳng dứt, do đây nên nói sắc là Phật tánh, như vàng thật, chất vàng dầu thay đổi nhưng màu sắc vẫn thường chẳng đổi khác, hoặc làm vòng, làm roi, làm mâm, màu vàng vẫn không đổi khác. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, tánh chất dầu vô thường mà sắc là thường, do đây nên nói sắc là Phật tánh.
Hoặc có kẻ nói thọ là Phật tánh, vì do thọ mà được chân lạc của Như Lai, thọ của Như Lai là thọ rốt ráo, là thọ đệ nhất nghĩa. Tánh thọ của chúng sanh dầu là vô thường nhưng nó tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được lạc thọ chân thường của Như Lai. Như người họ Kiều-thi-ca thân người dầu vô thường mà họ vẫn thường, trải qua ngàn muôn đời không đổi khác. Phật tánh chúng sanh cũng như vậy. Do đây nên nói thọ ấm là Phật tánh.
Lại có kẻ nói tưởng ấm là Phật tánh, vì do tưởng mà được chân thật tưởng của Như Lai. Tưởng của Như Lai gọi là tưởng mà không tưởng chẳng phải tưởng của chúng sanh, chẳng phải tưởng của nam của nữ, chẳng phải tưởng trong sắc thọ tưởng hành thức, chẳng phải tâm tưởng dứt tưởng như tưởng của chúng sanh. Dầu tưởng này vô thường nhưng do tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được tưởng thường hằng của Như Lai. Như mười hai nhân duyên của chúng sanh, dầu chúng sanh diệt mất mà nhân duyên vẫn thường. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, do đây nên nói tưởng là Phật tánh.
Lại có kẻ nói hành ấm là Phật tánh, vì hành gọi là thọ mạng. Thọ mạng làm nhân duyên nên được thọ mạng thường trụ của Như Lai. Thọ mạng của chúng sanh dầu là vô thường, nhưng vì tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được thọ mạng chân thường của Như Lai. Như mười hai bộ kinh, người nói người nghe dầu là vô thường, nhưng kinh điển này thường còn chẳng biến đổi. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Do đây nên nói hành là Phật tánh.
Lại có kẻ nói thức ấm là Phật tánh. Do thức làm nhân duyên mà được tâm bình đẳng của Như Lai. Ý thức của chúng sanh dầu là vô thường, nhưng thức tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được tâm chân thường của Như Lai. Như lửa tánh nóng, dầu ngọn lửa vô thường, nhưng tánh nóng chẳng phải vô thường. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Do đây nên nói thức là Phật tánh.
Như trong thân năm uẩn này, nếu chấp sắc ấm là Phật tánh hoặc chấp thọ ấm là Phật tánh, hoặc chấp tưởng ấm là Phật tánh hoặc chấp hành ấm là Phật tánh, hoặc chấp thức ấm là Phật tánh cũng đều sai. Tuy rời năm ấm cũng không có Phật tánh, nhưng chấp mỗi ấm là Phật tánh thì sai. Đó là chỗ chính yếu.
Lại có kẻ nói rời năm ấm có ngã, ngã này là Phật tánh, vì ngã làm nhân duyên mà được ngã tự tại của Như Lai. Có các nhà ngoại đạo nói rằng: Đứng đi thấy nghe buồn vui nói năng chính đó là ngã, ngã tướng ấy dầu vô thường nhưng ngã của Như Lai chân thật thường trụ. Như ấm nhập giới dầu là vô thường nhưng vẫn gọi là thường. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như bọn mù kia mỗi người tự nói hình tướng của voi, dầu chẳng được đúng, nhưng chẳng phải là chẳng nói tướng của voi.
Những người nói Phật tánh cũng như vậy, Phật tánh chẳng phải tức sáu pháp, nhưng cũng chẳng ly sáu pháp. Vì thế nên ta nói Phật tánh của chúng sanh chẳng phải sắc chẳng phải ly sắc, nhẫn đến chẳng phải ngã chẳng phải ly ngã.
Chia năm ấm, sắc ấm thọ ấm tưởng ấm hành ấm thức ấm, mỗi ấm đều chấp là Phật tánh, hoặc chấp rời năm ấm có Phật tánh riêng, tức là sáu lối chấp. Sáu lối chấp đều sai lầm như mấy người sờ voi ở trước, nói như vậy có trúng thì chỉ trúng một phần thôi chứ không trúng hết.
Tại sao chẳng phải sắc lại chẳng phải ly sắc? Sao nói chẳng phải ngã chẳng phải ly ngã? Bởi vì Phật tánh tràn đầy trong sáu pháp ấy, nhưng mình chấp từng pháp một là Phật tánh nên thành sai.
Có các nhà ngoại đạo dầu nói có ngã, nhưng thật ra không có ngã. Ngã của chúng sanh chính là ngũ ấm, rời ngoài ngũ ấm không có ngã riêng biệt.
Ví như cọng, cánh, tua, gương hiệp lại làm hoa sen, lìa ngoài những thứ này thời không có hoa sen riêng biệt. Ngã của chúng sanh cũng như vậy.
Như tường, vách, gỗ, tranh hòa hiệp gọi đó là nhà, lìa ngoài những thứ này thời không có nhà riêng biệt.
Như cây khư-đà-la, cây ba-la-xa, cây ni-câu-đà, cây uất-đàm-bát hiệp lại thành rừng, rời ngoài những thứ này thời không có rừng riêng biệt.
Tới đây Phật giải thích chấp ngã của ngoại đạo. Chúng sanh chấp ngã chỉ căn cứ vào ngũ ấm này, chấp sắc, thọ, tưởng, hành, thức là ngã, ngoài ngũ ấm không có cái ngã riêng biệt. Như cọng sen, cánh sen, tua sen, gương sen chung hợp lại gọi là hoa sen, ngoài những thành phần trên thì không có hoa sen thật. Cái nhà chỉ là một giả danh, do các thứ như gỗ, tranh, vách… hòa hiệp lại mà có, chứ không thật có cái nhà, khi nó tan thì cái nhà cũng không còn, cho nên là vô thường. Như nhiều thứ cây gộp chung lại thành rừng, ngoài những cây đó ra tìm rừng không có, do duyên hợp của nhiều thứ gọi tên giả là rừng. Rời năm ấm ra không có cái ngã thật.
Như chiến xa, voi, ngựa, bộ binh hiệp lại thành quân đội, rời ngoài những thứ này thời không có quân đội riêng biệt.
Như những chỉ năm màu hiệp lại dệt thành vải ngũ sắc, rời ngoài những chỉ này thời không có vải ngũ sắc riêng biệt.
Như bốn họ hiệp lại gọi là đại chúng, rời ngoài những người này thời không có đại chúng riêng biệt.
Ngã của chúng sanh cũng như vậy, rời ngoài năm ấm thời không có ngã riêng biệt.
Những ví dụ kế tiếp cũng cùng một ý. Chúng sanh sở dĩ chấp thân năm ấm làm ngã, cái ngã mà chúng sanh chấp có hai lỗi lớn, cho nên phải chịu khổ. Lỗi thứ nhất, ngã đó chỉ là giả danh không có thật, vì sắc thọ tưởng hành thức hợp lại thì gọi là ngã, ngã chỉ là giả danh không thật mà chấp, đó là vô minh. Lỗi thứ hai, ngũ uẩn vô thường thì ngã mà chúng sanh chấp là vô thường, nó là giả mà chấp là thật là vô minh, nó là vô thường sanh diệt mà chấp làm ngã thì ngã bị sanh diệt và luân hồi. Vô minh và luân hồi gốc từ chấp ngã mà ra. Đó là hai lỗi lớn vô cùng vô tận.
Này thiện nam tử! Như Lai thường trụ thời gọi là ngã. Pháp thân của Như Lai là vô biên vô ngại, là chẳng sanh chẳng diệt, được đủ tám tự tại nên gọi là ngã.
Thật ra chúng sanh không có ngã như vậy, chỉ vì quyết định sẽ được rốt ráo đệ nhất nghĩa không, nên gọi là Phật tánh.
Ngã này là ngã trong thường lạc ngã tịnh của Niết-bàn, chỉ cho Như Lai thường trụ, chỉ cho pháp thân vô biên vô ngại bất sanh bất diệt chứ không phải là cái ngã mà phàm phu chấp. Tuy đồng gọi một tên nhưng một bên do mê lầm chấp giả làm thật nên là gốc vô minh, chấp vô thường làm thường nên bị luân hồi. Một bên do giác ngộ thấy được cái bất sanh bất diệt, vô biên, tự tại giải thoát gọi là ngã. Ngã của phàm phu là lỗi lầm, là mê muội, là ngã của cao mạn, của giả dối, của sanh diệt, nên là ngã đáng chê trách. Ngã trong câu “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”, khi Thái tử mới sanh ra, chỉ trời đất nói, là ngã trong kinh Đại Niết-bàn, là ngã thường trụ bất biến, ngã của Phật tánh, của pháp thân, là duy nhất, không còn gì hơn nữa.
Này thiện nam tử! Đại từ đại bi gọi là Phật tánh, vì đại từ đại bi thường theo dõi Bồ-tát như bóng theo hình. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được đại từ đại bi, do đây nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại từ đại bi gọi là Phật tánh, Phật tánh gọi là Như Lai.
Đại hỷ đại xả gọi là Phật tánh, vì đại Bồ-tát nếu chẳng xả được hai mươi lăm cõi, thời không thể được vô thượng Bồ-đề. Bởi chúng sanh quyết định sẽ được, do đây nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại hỷ đại xả chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là đại tín tâm. Vì do tín tâm mà đại Bồ-tát được đầy đủ Đàn ba-la-mật nhẫn đến Bát-nhã ba-la-mật. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được đại tín tâm, do đây nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại tín tâm chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là nhất tử địa. Vì do nhất tử địa nên Bồ-tát được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được nhất tử địa, do đây nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Nhất tử địa chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là trí lực thứ tư. Vì do trí lực thứ tư, nên Bồ-tát có thể giáo hóa chúng sanh. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được trí lực thứ tư, do đây nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Trí lực thứ tư chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là mười hai nhân duyên. Vì do nhân duyên nên đức Như Lai được thường trụ. Tất cả chúng sanh quyết định có mười hai nhân duyên như vậy, do đây nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Mười hai nhân duyên chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là bốn trí vô ngại. Do bốn trí vô ngại nên giảng thuyết chữ nghĩa vô ngại. Do chữ nghĩa vô ngại nên có thể giáo hóa chúng sanh. Bốn trí vô ngại chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là Đảnh tam-muội. Vì do tu Đảnh tam-muội này nên có thể tổng nhiếp tất cả Phật pháp, do đây nên nói Đảnh tam-muội gọi là Phật tánh. Thập trụ Bồ-tát tu tam-muội này chưa được đầy đủ, nên dầu thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng. Vì tất cả chúng sanh quyết định được, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Này thiện nam tử! Như các thứ pháp đã nói ở trên, vì tất cả chúng sanh quyết định sẽ được, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Phật tánh chính là đệ nhất nghĩa, Phật tánh tức là đại từ đại bi, Phật tánh tức là đại hỷ đại xả, Phật tánh tức là đại tín tâm, Phật tánh tức là nhất tử địa (địa vị con một), Phật tánh tức là trí lực, Phật tánh tức là mười hai nhân duyên, Phật tánh tức là bốn trí vô ngại, Phật tánh tức là Đảnh tam-muội. Như vậy Phật tánh là chỉ tất cả những pháp lành. Chúng sanh cho Phật tánh là năm uẩn, là cái sanh diệt. Ở đây Phật tánh là tất cả pháp lành, chúng ta đừng tưởng mỗi pháp lành là Phật tánh, chấp vào đó là sai. Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả… những tam-muội này chung lại, đầy đủ thì hiển lộ được Phật tánh. Phật nói mỗi pháp đó là Phật tánh, vì mỗi pháp đó đều là những duyên, nếu tu sẽ được thấy Phật tánh. Chính vì vậy Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Này thiện nam tử. Nếu ta nói sắc là Phật tánh, chúng sanh nghe lời này tất sanh tà kiến điên đảo, do tà kiến điên đảo tất sẽ phải đọa A-tỳ địa ngục. Đức Như Lai thuyết pháp để dứt địa ngục nên chẳng nói sắc là Phật tánh, nhẫn đến chẳng nói thức là Phật tánh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Nếu chúng sanh thấy rõ Phật tánh thời chẳng cần tu tập thánh đạo. Thập trụ Bồ-tát tu tám thánh đạo còn thấy Phật tánh một phần ít, huống là người chẳng tu mà được thấy ư!
Này thiện nam tử! Các vị đại Bồ-tát như Văn-thù-sư-lợi tu tập thánh đạo đã trải qua vô lượng đời nên thấy rõ Phật tánh. Hàng Thanh văn Duyên giác làm thế nào biết Phật tánh được!
Nếu chúng sanh muốn biết rõ Phật tánh, thời phải nhất tâm thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết cúng dường cung kính tôn trọng tán thán kinh Đại Niết-bàn này. Thấy người nào trì tụng nhẫn đến tán thán kinh Đại Niết-bàn này thời phải đem bốn thứ cúng dường thật tốt mà cung cấp cho người ấy, cùng tán thán lễ bái hỏi thăm.
Năm uẩn sanh diệt, nếu nói là Phật tánh, người ta lầm tưởng Phật tánh là sanh diệt thì thành tà kiến điên đảo, là gốc của địa ngục. Vì vậy Phật không nói năm uẩn, mà ngài nói các pháp lành từ bi, hỷ xả, tam-muội… là Phật tánh. Chúng ta nỗ lực tu các pháp lành liền thấy được Phật tánh thì không có lỗi.
Người thấy Phật tánh chẳng cần tu, nhưng muốn thấy Phật tánh phải có công phu tu rất nhiều. Hàng Bồ-tát tu tới Thập trụ mà còn chưa thấy rõ, huống nữa người không tu làm sao thấy.
Kinh Đại Niết-bàn cốt chỉ cho chúng ta thấy Phật tánh, nên cố tìm hiểu đọc tụng kinh Đại Niết-bàn sẽ thấy Phật tánh. Nhưng nếu chúng ta không có duyên lành, không học hiểu kỹ, thì dầu đọc hàng trăm lần kinh Niết-bàn cũng không thấy Phật tánh như thường.
Này thiện nam tử! Nếu có người nào đã trải qua vô lượng vô biên đời gần gũi cúng dường vô lượng chư Phật trồng sâu các căn lành, rồi sau mới đặng nghe tên của kinh này.
Này thiện nam tử! Phật tánh chẳng thể nghĩ bàn. Phật, Pháp, Tăng, Tam bảo cũng chẳng thể nghĩ bàn.
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng chẳng biết được, dầu vậy mà cũng chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai thường lạc ngã tịnh cũng chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả chúng sanh nếu ai tin được kinh Đại Niết-bàn này, kẻ ấy cũng chẳng thể nghĩ bàn.”
Kinh này rất hy hữu, phải đã gieo trồng căn lành rất sâu mới được nghe tên của kinh này. Phật tánh không thể nghĩ bàn, nếu mình thấy Phật tánh là đã gần gũi vô lượng chư Phật. Đây là những lời tán thán khen ngợi. Phật chỉ cho thấy công dụng vô lượng vô biên của Phật tánh, người nào đạt được Phật tánh thì lúc đó không thể nghĩ bàn, Tam bảo thường trụ nên Tam bảo cũng không thể nghĩ bàn. Kinh này mục đích là chỉ rõ Phật tánh, tin được Phật tánh là thường trụ mới gọi là tin kinh này, còn cho rằng tụng kinh này có phước thì chưa gọi là tin.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Như lời đức Phật nói tất cả chúng sanh có thể tin kinh Đại Niết-bàn chẳng thể nghĩ bàn như đây. Bạch Thế Tôn! Trong đại chúng này có tám muôn năm ngàn ức người không có lòng tin đối với kinh này, do đây nên người nào tin kinh này thời gọi người đó là chẳng thể nghĩ bàn.
“Này thiện nam tử! Số người trên đây đến đời vị lai cũng sẽ quyết định tin được kinh điển này, được thấy Phật tánh và được vô thượng Bồ-đề.”
“Bạch Thế Tôn! Thế nào bất thối Bồ-tát tự biết quyết định có tâm bất thối?”
Bồ-tát Sư Tử Hống nói, trong đại chúng này có hơn tám muôn người không tin kinh này, người tin được thật là không thể nghĩ bàn. Phật dạy, đời sau những người này cũng sẽ tin và sẽ thành Phật. Bồ-tát Sư Tử Hống hỏi tiếp, Bồ-tát bất thối làm sao tự quyết định là bất thối chuyển?
“Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát sẽ dùng khổ hạnh để thí nghiệm lấy tâm của mình: mỗi ngày ăn một hột mè trọn bảy ngày; gạo trắng, đậu xanh, đậu trắng v.v… mỗi thứ bảy ngày, mỗi ngày một hột cũng như vậy.
Lúc ăn một hột mè, Bồ-tát nghĩ rằng: Khổ hạnh như vậy đều không lợi ích, việc không lợi ích còn làm được huống là việc lợi ích mà lại không làm.
Đối với việc không lợi ích, trong lòng có thể nhẫn được sự khổ chẳng thối chẳng chuyển, do đây nên quyết đặng vô thượng Bồ-đề.
Trong những ngày tu khổ hạnh như vậy, da thịt ốm khô lần lần, như cắt trái bầu tươi phơi nắng, Mắt của Bồ-tát thụt sâu vào như đáy giếng. Hết thịt lòi gân như nhà tranh hư mục, xương sống lộ lên như dậy thừng. Chỗ Bồ-tát ngồi như dấu chân ngựa. Muốn ngồi thời mọp xuống, muốn đứng thời ngã nghiêng. Dầu chịu lấy sự khổ không lợi ích như vậy, nhưng chẳng thối chuyển tâm Bồ-đề.
Phật giải thích, trước hết dùng khổ hạnh để nghiệm tâm. Ăn từng hột mè hột gạo, chịu sáu bảy ngày tới gầy gò đi hết muốn nổi mà tâm vẫn không thối chuyển thì Bồ-tát tự biết mình không thối chuyển. Khổ hạnh biết là vô ích mà làm, tâm không lui sụt huống là cái hữu ích, những việc phi lý còn chịu nổi thì những việc hữu lý khó khăn cách nào cũng chịu được hết, là tự biết mình bất thối chuyển.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát vì phá các sự khổ, ban sự an vui cho chúng sanh, nên có thể xả thí của, vật ngoài thân trong thân đến thân mạng của mình như bỏ cỏ khô.
Nếu có thể chẳng tiếc thân mạng như vậy, Bồ-tát này tự biết quyết định có tâm bất thối, tự biết tôi quyết định sẽ được vô thượng Bồ-đề.
Đại Bồ-tát vì pháp mà khoét thân làm đèn lấy tô du đổ vào đặt tim để đốt.
Lúc Bồ-tát thọ sự khổ lớn như vậy tự trách tâm mình rằng: Sự khổ này đối với sự khổ ở địa ngục trăm ngàn muôn phần chưa bằng một phần. Ở trong vô lượng trăm ngàn kiếp, ta chịu nhiều sự khổ não đều không đem lại mảy may lợi ích, nếu ta không chịu được sự khổ nhẹ này, thời làm sao có thể ở nơi trong địa ngục để có thể cứu khổ chúng sanh.
Lúc Bồ-tát suy nghĩ như vậy thời thân chẳng biết khổ, tâm chẳng thối chuyển, do đây Bồ-tát tự biết chắc rằng tôi quyết định sẽ được vô thượng Bồ-đề.
Này thiện nam tử! Lúc đó Bồ-tát còn đầy đủ phiền não, vì chánh pháp mà có thể đem đầu mắt óc tủy tay chân máu thịt bố thí cho người, lấy đinh đóng trên thân, nhảy từ gộp đá cao xuống, nhảy vào lửa. Dầu chịu lấy vô lượng sự khổ như vậy, nhưng nếu trong lòng chẳng có niệm thối chuyển, Bồ-tát này nên biết rằng nay tôi quyết định có tâm bất thối, sẽ được vô thượng Bồ-đề.
Thứ nữa là có thể bố thí của tiền bên ngoài, bố thí thân mạng bên trong, vì chúng sanh mà không chán nản không sợ sệt. Bồ-tát tuy còn phiền não mà không buồn không giận, không thương tiếc thân mình, sẵn sàng bố thí tất cả cho chúng sanh mà không có ý niệm lui sụt nào thì biết được bất thối chuyển.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát vì phá trừ khổ não cho tất cả chúng sanh, nên nguyện làm thân súc sanh to lớn, đem máu thịt bố thí cho chúng sanh.
Lúc chúng sanh đến lấy máu ăn, Bồ-tát lại sanh lòng thương xót, lúc đó Bồ tát nín hơi chẳng thở làm như chết, để cho những kẻ đến lấy thịt chẳng có quan niệm giết hại.
Dầu Bồ-tát thọ thân súc sanh nhưng trọn chẳng tạo nghiệp súc sanh. Vì Bồ-tát đã được tâm bất thối chuyển, thời trọn chẳng gây tạo ác nghiệp. Nếu đời vị lai Bồ-tát có nghiệp quả ác nhỏ nhặt bất định, do sức nguyện lớn vì độ chúng sanh nên đều thọ lấy đó. Như người bệnh bị quỷ dựa ở ẩn trong thân, do oai lực của chú thuật, nên liền hiện tướng quỷ: hoặc nói hoặc cười, hoặc mừng hoặc giận, hoặc mắng hoặc khóc. Đại Bồ-tát thọ lấy nghiệp quả đời vị lai cũng như vậy.
Lúc Bồ-tát thọ lấy thân gấu, thường vì chúng sanh mà diễn nói chánh pháp. Hoặc lúc thọ thân chim ca-tân-xà-la, lúc thọ thân cù-đà, thân nại, thân thỏ, thân voi, thân dê núi, thân khỉ vượn, thân bồ câu trắng, thân kim sí điểu, thân rồng, thân rắn, lúc thọ những thân súc sanh như vậy, nhưng trọn chẳng gây tạo nghiệp ác súc sanh, mà thường vì những súc sanh khác diễn thuyết chánh pháp, làm cho những súc sanh kia nhờ nghe pháp mà được mau khỏi thân súc sanh.
Lúc Bồ-tát thọ thân súc sanh mà chẳng gây tạo nghiệp ác nên biết rằng quyết định có tâm bất thối.
Đại Bồ-tát ở đời đói khát, thấy chúng sanh đói khát, nên nguyện làm thân cá lớn dài nhiều do-diên, lại nguyện những chúng sanh nào lấy thịt của tôi, lấy rồi liền sanh trở lại, ai ăn thịt của tôi thời được khỏi đói khỏi khát, tất cả đều phát tâm vô thượng Bồ-đề, do nơi tôi mà kẻ nào được khỏi đói khát, thời đời vị lai họ sẽ mau được xa lìa khổ hoạn đói khát trong hai mươi lăm cõi.
Lúc đại Bồ-tát chịu sự khổ như vậy mà tâm chẳng thối chuyển, thời nên biết quyết định sẽ được vô thượng Bồ-đề.
Nhằm đời tật dịch, Bồ-tát thấy nhiều người phải bệnh khổ, bèn suy nghĩ rằng như cây dược thọ, nếu người bệnh lấy rễ lấy cây, lấy nhánh lấy lá, lấy bông lấy trái, lấy vỏ đều trị được lành bệnh. Nguyện thân của tôi đây cũng như vậy, nếu người bệnh nghe tiếng chạm đến thân ăn thịt uống máu, nhẫn đến xương tủy đều trị lành bệnh. Nguyện chúng sanh lúc ăn thịt tôi chẳng sanh lòng ác, đều có quan niệm như ăn thịt con. Tôi trị cho họ được lành bệnh rồi sẽ thường vì họ mà thuyết pháp. Nguyện họ nghe pháp kính tin lãnh thọ suy gẫm rồi đem dạy lại người khác.
Bồ-tát đầy đủ phiền não lúc chịu sự khổ nơi thân như vậy vẫn chẳng thối chuyển tâm Bồ-đề, nên biết quyết định được tâm bất thối, sẽ thành vô thượng Bồ-đề.
Nếu có chúng sanh bị quỷ làm bệnh, Bồ-tát thấy việc này liền phát nguyện làm thân quỷ to lớn mạnh mẽ, quyến thuộc đông, khiến người bệnh kia nghe thấy liền hết bệnh quỷ.
Đại Bồ-tát vì độ chúng sanh nên siêng tu khổ hạnh, dầu có phiền não nhưng tâm chẳng nhiễm ô.
Phật nêu nhiều hạnh làm thân người, thân thú để bố thí cho chúng sanh của Bồ-tát. Khi bố thí không thấy buồn thấy giận, thấy đau đớn khổ sở chán nản, thì biết là đã được tâm bất thối. Chúng ta không cần phải lóc da xẻ thịt, thử ngồi để mấy con muỗi ba cắn mà không thấy khó khăn gì hết, mình sẵn sàng chịu thì như vậy cũng hơi bất thối rồi đó, dám không? Phật dạy kinh nghiệm về tâm bất thối chuyển. Trong trường hợp khó chịu đựng, tâm vẫn không nản không buồn, vẫn tiến mãi thì gọi là bất thối chuyển, nếu lui sụt là hạng thối chuyển. Chúng ta ở đây đều là hạng thối chuyển, nếu có hành Bồ-tát hạnh cũng là hạnh thối chuyển, chứ chưa có ai là bất thối chuyển.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát dầu tu hành lục ba-la-mật, cũng chẳng cầu quả lục ba-la-mật.
Lúc tu hành lục ba-la-mật vô thượng, Bồ-tát nguyện rằng: Nay tôi đem lục ba-la-mật này bố thí cho tất cả chúng sanh, mỗi chúng sanh nhận lấy sự bố thí của tôi rồi thời đều sẽ được thành vô thượng Bồ-đề. Tôi cũng tự vì lục ba-la-mật mà siêng tu khổ hạnh chịu những sự khổ não. Lúc đương chịu khổ nguyện tôi chẳng thối tâm Bồ-đề.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát lúc suy gẫm phát nguyện như vậy thời gọi là tướng chẳng thối chuyển tâm Bồ-đề.
Lục độ tới viên mãn cứu cánh gọi là lục ba-la-mật. Chỗ đặc biệt của Bồ-tát là làm mà không mong được quả, hay chịu khổ vì chúng sanh chỉ nguyện cho họ được vô thượng Bồ-đề.
Trong khi tu lục độ dù khổ mấy cũng nguyện không có thối tâm. Đó là tướng không thối chuyển.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn, vì biết rõ sanh tử có nhiều tội lỗi, quan sát đại Niết-bàn có công đức lớn, vì chúng sanh mà ở nơi sanh tử chịu những sự khổ tâm chẳng thối chuyển, do đây nên gọi là Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát không có nhân duyên mà vẫn sanh lòng thương xót tất cả chúng sanh, thật chẳng thọ ơn mà còn thi ơn. Dầu thi ơn mà chẳng cần đền trả, do đây nên lại gọi đại Bồ-tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Này thiện nam tử! Hoặc có chúng sanh vì lợi ích cho mình mà tu các khổ hạnh. Đại Bồ-tát vì lợi ích cho người cho chúng sanh mà tu hành khổ hạnh, dầu vậy nhưng vẫn gọi là lợi ích cho mình, do đây nên đại Bồ-tát lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Điều không thể nghĩ bàn thứ nhất, Bồ-tát đã biết sanh tử là xấu xa là đau khổ, Niết-bàn là an vui là tịch tịnh, đủ tư cách để hưởng Niết-bàn xa lìa sanh tử, mà vì thương chúng sanh nên lăn trong sanh tử để độ họ. Chúng ta thì sao? Nếu mình đủ tư cách nhập Niết-bàn, đủ tư cách xa lìa sanh tử thì nhập Niết-bàn cho rồi, chứ ai mà trở lại đây, phải không? Cho nên Bồ-tát gọi là không thể nghĩ bàn, vì vượt ngoài suy tính bàn luận của phàm phu.
Thường thường có nhân duyên thì mới thương xót chúng sanh, chứ không duyên cớ làm sao thương. Bồ-tát không phải vậy, thấy chúng sanh liền thương. Tại sao? Vì biết họ ở trong sanh tử khổ mà không hay, nên các ngài sẵn sàng thương. Quan niệm của chúng ta và Bồ-tát khác xa. Bồ-tát không thọ ơn mà lúc nào cũng muốn thi ơn, thi ơn mà không nghĩ tới đền trả, gọi là không thể nghĩ bàn.
Điều không thể nghĩ bàn nữa là khổ hạnh vì chúng sanh nhưng vẫn cho là vì mình. Vì chúng sanh mà chịu khổ nhưng không khoe mình vì chúng sanh, mà nói khổ là vì mình. Như vậy là tránh được cái danh. Người thứ nhất vì mình thì ráng chịu, không chịu vì người. Người thứ hai cao thượng hơn vì mọi người mà chịu khổ, nhưng khoe với thiên hạ, tôi làm vì người này, vì người kia. Người thứ nhất ích kỷ, người thứ hai lợi tha mà còn ham danh. Bồ-tát tuy vì chúng sanh mà lại nói rằng tôi làm là vì tôi, tại tôi. Nghĩa là không cần ai khen, không cần ai kính phục. Đó mới gọi là không thể nghĩ bàn.
Bồ-tát đầy đủ phiền não, vì phá hoại quan niệm kẻ oán người thân nên thọ những sự khổ để tu tâm bình đẳng, do đây nên Bồ-tát lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ-tát nếu thấy những chúng sanh hung ác thời hoặc quở trách, hoặc nói dịu ngọt, hoặc đuổi, hoặc bỏ. Với những kẻ tánh ác, Bồ-tát thị hiện nói lời dịu dàng. Với kẻ kiêu mạn, Bồ-tát thị hiện làm ngã mạn lớn, nhưng trong tâm của Bồ-tát thật không kiêu mạn. Đây gọi là phương tiện của Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ-tát cũng đầy đủ phiền não như chúng ta, nhưng vì muốn tâm bình đẳng đối với kẻ oán người thân nên các ngài luôn luôn chịu khổ để tập tâm bình đẳng, đó là điều không thể nghĩ bàn. Các ngài cũng đầy đủ phiền não nhưng do nguyện lực mạnh, do chí cương quyết vững, cho nên các ngài gan dạ chịu thôi.
Như con nít đau bụng thì gào khóc kêu rên, người lớn đau bụng thì ráng kìm không kêu không khóc. Cũng đau như nhau, nhưng tư cách người lớn khác, tư cách kẻ nhỏ khác, chứ đâu phải người lớn không đau. Bồ-tát cũng vậy, vì nguyện lực lớn, vì chí dũng mãnh nên các ngài chịu đựng nổi, còn chúng ta không có nguyện lực chí khí nên động một tí thì rên xiết. Hai bên khác nhau nên chúng ta không thể nghĩ bàn được công hạnh của Bồ-tát.
Chúng ta tu hạnh nào chỉ làm được hạnh đó. Ví dụ tu nhẫn nhục thì ai chửi mình nhịn, vậy thôi, chứ không biết gì nữa. Bồ-tát thì sẵn sàng nhẫn nhục mà lại đầy đủ phương tiện. Nếu gặp người dễ dạy dễ nói thì các ngài dùng lời dịu ngọt khuyên răn dạy bảo. Gặp những người ngã mạn tự cao thì các ngài ngã mạn hơn họ để chinh phục họ. Như Phật đi trên đường thấy năm trăm lực sĩ đang dời một tảng đá, nhưng ỳ ạch mãi mà tảng đá vẫn không nhúc nhích. Những lực sĩ này thường tự cao cho mình là mạnh, là anh hùng, Phật muốn chinh phục tâm ngã mạn của họ nên ngài lấy tay nhấc tảng đá lên nhẹ hều, khiến họ bị nhiếp phục. Phật muốn làm cho người ta phục mình tức là ngã mạn, nhưng không phải để đề cao mình mà vì muốn chinh phục tâm ngã mạn của họ. Đó là phương tiện khéo léo. Trong chùa có tượng các vị Bồ-tát cầm gươm cầm giáo, đó là vì muốn chinh phục những kẻ ác, hung hăng, ngã mạn, chứ không phải là Bồ-tát làm những việc ác. Vì muốn chinh phục kẻ ác mà hiện thân quái gở để chinh phục họ. Đó là những việc không thể nghĩ bàn.
Bồ-tát đầy đủ phiền não, lúc của cải ít mà người cầu xin nhiều, lòng Bồ-tát trọn chẳng hẹp nhỏ. Đây gọi là Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn.
Lúc đức Phật ra đời, Bồ-tát biết công đức của Phật, nhưng vì chúng sanh mà thọ thân biên địa nơi chỗ không Phật, như đui, như điếc, như què, như thọt. Đây gọi là Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ-tát biết rõ chúng sanh có những tội lỗi, vì muốn độ họ nên Bồ-tát thường cùng đi chung với họ, dầu làm theo ý của họ nhưng vẫn không nhiễm lấy tội lỗi. Do đây nên lại gọi Bồ-tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ-tát thấy biết rõ ràng không tướng chúng sanh, không phiền não nhiễm ô, không người tu tập thánh đạo xa lìa phiền não. Dầu vì Bồ đề nhưng không hạnh Bồ-đề, cũng không có người thành tựu hạnh Bồ-đề, không người thọ khổ và người phá khổ mà cũng có thể vì chúng sanh phá hoại sự khổ thật hành hạnh Bồ-đề. Do đây nên gọi Bồ-tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ-tát thọ thân rốt sau ở cung trời Đâu-suất, đẩy cũng gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Vì trời Đâu-suất là hơn tất cả trong cõi Dục, cõi trời dưới thời tâm phóng dật, cõi trời trên thời căn tánh ám độn, do đây nên trời Đâu-suất gọi là hơn. Tu thí, tu giới thời được thân trời cõi trên và cõi dưới. Tu thí, tu giới và tu định thời được thân trời Đâu-suất.
Tất cả Bồ-tát đã tự phá hoại tất cả cõi, trọn chẳng tạo nghiệp trời Đâu-suất để thọ thân nơi cõi trời đó. Vì Bồ-tát nếu ở nơi các cõi khác, cũng đều có thể giáo hóa thành tựu chúng sanh, thật không có dục tâm mà lại sanh vào cõi Dục, do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ-tát sanh ở trời Đâu-suất có ba việc thù thắng: một là mạng, hai là sắc, ba là danh.
Đại Bồ-tát thật chẳng cầu mạng, sắc và danh, dầu không có tâm mong cầu mà chỗ được lại thù thắng. Đại Bồ-tát rất ưa thích Niết-bàn, nhưng có nhân duyên nên mạng, sắc và danh cũng thù thắng. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ-tát mạng, sắc và danh dầu hơn chư thiên, nhưng chư thiên đối với Bồ-tát chẳng có lòng giận, lòng ganh ghét, lòng kiêu mạn, thường có lòng hoan hỷ. Bồ-tát đối với chư thiên cũng chẳng kiêu mạn, nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ-tát chẳng tạo nghiệp nhân thọ mạng, mà ở nơi trời Đâu-suất kia, Bồ-tát được thọ mạng rốt ráo, đây gọi là mạng thù thắng.
Bồ tát không tạo nghiệp nhân sắc đẹp, mà thân sắc của Bồ-tát xinh đẹp đầy đủ ánh sáng, đây gọi là sắc thù thắng.
Bồ tát ở cung trời Đâu-suất chẳng ưa ngũ dục chỉ làm pháp sự, nên tiếng đồn khắp cả mười phương, đây gọi là danh thù thắng. Do đây nên lại gọi Bồ-tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Lúc đại Bồ-tát từ trời Đâu-suất giáng sanh, cả đại địa sáu thứ chấn động, nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Vì lúc Bồ-tát giáng sanh, chư thiên cõi Dục và cõi Sắc đều đến hầu hạ đưa đi, lớn tiếng tán thán Bồ-tát, do hơi gió nơi miệng chư thiên làm cho đại địa chấn động. Lại lúc Bồ-tát mới nhập thai, có các long vương ở dưới đại địa này hoặc khủng bố, hoặc hoan hỷ, nên đại địa chấn động. Do đây nên lại gọi Bồ-tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ-tát biết rõ lúc nhập thai, lúc trụ thai, lúc xuất thai, biết cha, biết mẹ, chẳng nhiễm ô bất tịnh, như bảo châu màu xanh trên búi tóc của Đế-thích, nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Này thiện nam tử! Kinh Đại Niết-bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Bồ-tát vẫn còn phiền não là vẫn còn biết thương biết ghét biết buồn biết giận, nhưng lúc của cải ít mà người ta đến xin nhiều, Bồ-tát cũng vẫn chịu, không buồn không giận, đó là chuyện khó nghĩ bàn, Chúng ta thì đâu chịu nổi điều đó. Có một trăm đồng mà người ta xin một trăm đồng mình chịu cho không? Nếu xin mười đồng thì khả dĩ mình bố thí được, nhiều lắm là xin đến năm chục đồng cũng còn bố thí được. Chứ xin một trăm đồng, chuyện đó coi bộ khó khăn rồi. Huống nữa là xin tới trăm mốt trăm hai thì nổi cáu liền, không thể nào tránh khỏi. Sức tôi có nhiêu đây thôi, ông đòi quá! Như thế mới thấy Bồ-tát không thể nghĩ bàn.
Bồ-tát biết ra đời gặp Phật là phước đức lớn, mà lại chọn sinh vào nơi biên địa không có Phật, làm kẻ tật nguyền… để hóa độ chúng sanh. Đó thật là hy sinh không thể nghĩ bàn.
Tóm lại tất cả đoạn này là chỉ cho Bồ-tát tuy vẫn còn phiền não mà trong khi làm việc các ngài đều vượt qua cái tầm thường của chúng sanh, vì chúng sanh mà chịu khổ nhưng không bao giờ tự khoe, không bao giờ nhận danh nhận lợi, sẵn sàng hy sinh cho chúng sanh, để mình thiệt thòi, như bỏ cõi trời Đâu-suất xuống thế gian. Bồ-tát không cần danh không cần sắc, không cần những cái thù thắng mà Bồ-tát vẫn được tất cả những cái danh sắc thù thắng hơn tất cả. Không mong mỏi cái gì tốt đẹp riêng mình, nhưng Bồ-tát lại được đầy đủ tất cả. Đó là điều không thể nghĩ bàn.
Này thiện nam tử! Như biển cả có tám điều chẳng thể nghĩ bàn: một là lần lần càng sâu, hai là sâu khó đến đáy, ba là đồng một vị mặn, bốn là thủy triều chẳng quá hạn, năm là có nhiều thứ kho báu, sáu là những chúng sanh thân to lớn ở trong đó, bảy là chẳng chứa tử thi, tám là tất cả muôn dòng đổ về cùng mưa to xối xuống mà biển vẫn chẳng thêm chẳng bớt.
Này thiện nam tử! Biển lần lần càng sâu là vì có ba điều; một là phước lực của chúng sanh, hai là thuận theo gió mà chảy, ba là vì nước trong sông đổ ra. Nhẫn đến chẳng thêm chẳng bớt cũng đều có ba việc.
Ở đây Phật phối hợp tám điều chưa từng có của kinh Niết-bàn với tám điều chưa từng có của biển.
Kinh Đại Niết-bàn này cũng có tám điều chẳng thể nghĩ bàn như vậy. Một là lần lần càng sâu, nghĩa là từ giới Ưu-bà-tắc, giới Sa-di, giới Tỳ-kheo, giới Bồ-tát, quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, quả Bích-chi Phật, quả Bồ-tát, quả vô thượng Bồ-đề. Kinh Đại Niết-bàn này thuyết minh những pháp như vậy, đây gọi là lần lần càng sâu.
Thứ nhất, biển lần lần càng ra càng sâu. Kinh Đại Niết-bàn này Phật dạy ta giới thấp như giới Ưu-bà-tắc Ưu-bà-di, Sa-di, Tỳ-kheo, lần lần tới Bồ-tát; từ quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật, quả Bồ-tát cho tới quả vô thượng Bồ-đề, càng ngày càng sâu cũng như biển đi ra càng ngày càng sâu. Đó là điều thứ nhất không thể nghĩ bàn của kinh Đại Niết-bàn.
Hai là sâu khó đến đáy. Đức Như Lai Thế Tôn bất sanh bất diệt, chẳng được vô thượng Bồ-đề, chẳng chuyển pháp luân, chẳng ăn chẳng thọ, chẳng thật hành bố thí, do đây nên đặng thường lạc ngã tịnh.
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh này chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức, chẳng rời sắc thọ tưởng hành thức, là thường trụ có thể thấy; là liễu nhân chẳng phải tác nhân. Tu-đà-hoàn nhẫn đến Bích chi Phật sẽ được vô thượng Bồ-đề, cũng không phiền não cũng không trụ xứ, dầu không phiền não nhưng chẳng gọi là thường, do đây nên nói là sâu.
Thứ hai là biển sâu khó thấy đáy. Kinh này Phật dạy cho chúng ta biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Bởi có Phật tánh cho nên chúng ta cố gắng tu hành sẽ được thành vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề bất sanh bất diệt, gọi là thành Phật. Từ Phật tánh mà đi tới thành vô thượng Bồ-đề. Chứng được vô thượng Bồ-đề là chỗ người ta không thể lường đến được, cho nên nói rằng sâu khó đến đáy.
Trong kinh này hoặc có lúc nói là ngã, hoặc có lúc nói vô ngã, hoặc có lúc nói là thường, hoặc có lúc nói là vô thường, hoặc có lúc nói là tịnh, hoặc có lúc nói là bất tịnh, hoặc có lúc nói là lạc, hoặc có lúc nói là khổ, hoặc có lúc nói là không, hoặc có lúc nói là bất không, hoặc có lúc nói tất cả đều có, hoặc có lúc nói tất cả đều không, hoặc nói Nhị thừa hoặc nói Nhất thừa, hoặc nói ngũ ấm tức là Phật tánh, là Kim cang tam-muội, là trung đạo, Thủ-lăng-nghiêm tam-muội, mười hai nhân duyên, đệ nhất nghĩa không, từ bị bình đẳng đối với chúng sanh, đảnh trí, tín tâm, trí lực biết các căn, trí không chướng ngại đối với tất cả pháp, dầu có Phật tánh nhưng chẳng nói quyết định, Do đây nên gọi là rất sâu.
Kinh này có khi nói là ngã, có khi nói là vô ngã, có khi nói thường, có khi nói vô thường, khi nói lạc, khi nói bất lạc… không nói quyết định. Đó là những điều người ta không thể lường được, không thể hiểu, cho nên gọi là sâu khó tới đáy.
Ba là đồng một vị. Tất cả chúng sanh đồng có Phật tánh, đều đồng Nhất thừa, đồng một giải thoát một nhân một quả, đồng một cam lộ, tất cả đều sẽ được thường lạc ngã tịnh, đây gọi là đồng một vị.
Bốn là thủy triều chẳng quá hạn. Như trong kinh này chế các Tỳ-kheo chẳng được lẫn chứa tám vật bất tịnh. Nếu đệ tử của ta có thể thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết phân biệt kinh Đại Niết-bàn này, thà chết chứ trọn chẳng hủy phạm, đây gọi là thủy triều chẳng quá hạn.
Thứ ba, biển đồng một vị mặn, kinh này cũng vậy, đồng chỉ cho chúng sanh thấy có Phật tánh. Tất cả chúng sanh đều đồng có Phật tánh như nhau, đồng tu Nhất thừa, kinh Pháp Hoa gọi là Phật thừa và cũng đồng một giải thoát, đồng một nhân, đồng một quả, đồng một cam lồ… nên nói là một vị.
Thứ tư là biển không quá hạn, tức là không trái với thời tiết. Kinh này cũng vậy, đức Phật dạy người tu phải gìn giữ giới luật, nhất là tám điều bất tịnh không nên chứa, nếu người nào học, thọ trì, biên chép kinh này thì không nên hủy phạm những điều đó, gọi là thủy triều không quá hạn.
Năm là có nhiều thứ kho báu. Kinh này tức là kho báu vô lượng, nghĩa là tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát thánh đạo, anh nhi hạnh, thánh hạnh, Phạm hạnh, thiên hạnh, những thiện phương tiện, Phật tánh của chúng sanh, công đức của Bồ-tát, công đức của Như Lai, công đức của Thanh văn, công đức của Duyên giác, lục ba-la-mật, vô lượng tam-muội, vô lượng trí huệ, đây gọi là những kho báu.
Thứ năm là trong biển có nhiều kho báu. Kinh Đại Niết-bàn này có nhiều kho báu như tứ niệm xứ, tứ chánh cần…, nói gọn lại là ba mươi bảy phẩm trợ đạo và những hạnh như hạnh anh nhi, thánh hạnh, thiên hạnh, Phạm hạnh, những phương tiện, cho tới chỉ Phật tánh, chỉ công đức của Bồ-tát, chỉ công đức của Phật… Vì vậy nên được gọi là kho báu.
Sáu là chúng sanh thân to lớn ở trong đó. Vì chư Phật và Bồ-tát có trí huệ lớn nên gọi là chúng sanh lớn, vì thân lớn, vì tâm lớn, vì trang nghiêm lớn, vì điều phục lớn, vì phương tiện lớn, vì thuyết pháp lớn, vì thế lực lớn, vì đồ chúng lớn, vì thần thông lớn, vì từ bi lớn, vì thường chẳng biến đổi lớn, vì tất cả chúng sanh thân không chướng ngại, vì dung thọ tất cả chúng sanh. Đây gọi là chỗ ở của những chúng sanh thân to lớn.
Bảy là chẳng chứa tử thi. Tử thi là nói nhất-xiển-đề phạm bốn tội trọng năm tội vô gián, phỉ báng Đại thừa, tà pháp nói là chánh pháp, chánh pháp nói là tà pháp, nhận chứa tâm thứ vật bất tịnh, tùy ý dùng vật của Phật, vật của tăng, đối với Tỳ-kheo, với Tỳ-kheo-ni làm việc phi pháp, đây gọi là tử thi. Kinh Đại Niết-bàn này lìa những việc như vậy nên gọi rằng chẳng chứa tử thi.
Tám là chẳng thêm chẳng bớt, vì không ngằn mé, vì không thủy chung, vì chẳng phải sắc, vì chẳng phải tạo tác, vì là thường trụ, vì chẳng sanh diệt, vì đều bình đẳng với tất cả chúng sanh, vì tất cả đồng một tánh Phật tánh, đây gọi là không thêm không bớt. Do đây nên kinh Đại Niết-bàn này có tám điều chẳng thể nghĩ bàn như biển cả kia.”
Thứ sáu, trong biển có những chúng sanh thân to lớn. Cũng vậy, trong kinh Niết-bàn này có những chúng sanh to lớn. To lớn là ai? Bồ-tát, Phật có trí tuệ lớn, có từ bi lớn, nên gọi là chúng sanh to lớn.
Thứ bảy, trong biển không chứa tử thi. Kinh Niết-bàn cũng vậy, không nuôi dưỡng chứa chấp những người thọ năm tội nghịch và làm những điều phi pháp. Nếu làm những điều phi pháp và thọ năm tội nghịch thì kinh Niết-bàn không dung, cũng giống như biển không chứa tử thi.
Thứ tám là nước ở trong biển dù cho bao nhiêu sông dồn về, mưa trên trời đổ xuống mà nước không thấy thêm không thấy bớt. Kinh này cũng vậy, chỉ thẳng Phật tánh bình đẳng, tất cả chúng sanh đều có, không phải tạo tác, không có thủy chung, nó là thường trụ bất sanh bất diệt ví như nước biển không thêm không bớt. Dù có tu cũng không tăng, không tu cũng không giảm.
Phật đem tám điều không thể nghĩ bàn của biển dụ cho tám điều không thể nghĩ bàn của kinh Đại Niết-bàn.
Sư Tử Hống Bồ-tát bạch rằng:“Thế Tôn! Nếu cho rằng Như Lai bất sanh bất diệt là thậm thâm đó, thời tất cả chúng sanh có bốn loài sanh: noãn, thai, thấp, hóa. Trong bốn loài sanh này thời loài người có đủ, như Tỳ-kheo Thi-bà-la, Tỳ-kheo Ưu-bà-thi-bà-la, mẹ của trưởng giả Di-ca-la, mẹ của trưởng giả Ni-câu-đà, mẹ của trưởng giả Bán-xà-la, mỗi người đều sanh năm trăm con trai đồng là noãn sanh. Do đây nên biết rằng trong loài người cũng có noãn sanh.
Trong loài người mà thấp sanh, như Phật từng nói rằng: Thuở trước lúc ta tu hạnh Bồ-tát làm Đảnh Sanh vương và Thủ Sanh vương, và như nay cô gái Am-la, cô gái Ca-bất-ba, nên biết rằng trong loài người cũng có thấp sanh.
Thuở kiếp sơ tất cả chúng sanh đều là hóa sanh. Đức Thế Tôn đã được tám thứ tự tại, do nhân duyên gì mà chẳng hóa sanh?”
Bồ-tát Sư Tử Hống đưa ra câu hỏi, tất cả chúng sanh đều do bốn loài mà sanh, noãn sanh thai sanh thấp sanh hóa sanh. Có nhiều người tuy là con người mà cũng là thấp sanh, cũng là thai sanh, cũng là noãn sanh, cũng là hóa sanh, tại sao Phật đầy đủ thần thông tự tại mà ngài không hóa sanh cho khỏe, ngài lại ở trong thai sanh làm chi?
Phật nói: “Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ nơi bốn loài sanh mà sanh ra, khi đã được thánh pháp thời chẳng được noãn sanh và thấp sanh như trước.
Này thiện nam tử! Chúng sanh thuở kiếp sơ, thảy đều hóa sanh, trong thời kỳ đó, không có Phật ra đời.
Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh lúc mang bệnh khổ thời cần thầy cần thuốc, thuở kiếp sơ chúng sanh đều hóa sanh dầu có phiền não nhưng bệnh phiền não chưa phát, do đây nên đức Như Lai chẳng hiện ra đời. Lại chúng sanh thuở kiếp sơ, thân tâm của họ chẳng phải pháp khí, nên đức Như Lai chẳng hiện ra trong thời kỳ đó.
Kiếp sơ tức là khi thế giới mới thành, chúng sanh do hóa sanh mà có. Nhiều người thắc mắc không biết thủy tổ loài người là ai. Phật nói rằng do những người trước kia ở trên các cõi trời hết phước, thấy thế giới này hình thành, có ánh sáng, họ dùng thần thông tới xem, thấy thế giới mới có những món ăn lạ, ăn thử bị mất thần thông, hóa thành thân phàm phu và mắc kẹt ở đây. Điều này bây giờ có thể chấp nhận. Tại sao? Những phi thuyền được phóng lên mặt trăng, sao Hỏa… Nếu đến đó phi thuyền hư, về trái đất không được thì những phi hành gia phải ở đó lập nghiệp sinh sống. Họ có cả nam lẫn nữ, lần lần sẽ sinh con. Nếu sau có ai hỏi người đó từ đâu sanh thì nói làm sao? Chỉ là ở chỗ khác hết phước, di chuyển tới. Xưa thì nghĩ đó là thần thông, bây giờ người thế gian cũng có thần thông bay tận lên cung trăng. Biết đâu có ngày nào sẽ tới Hỏa tinh, Mộc tinh… rồi có chuyến nào đi máy hư không về được, rồi làm thủy tổ loài người ở đó. Chuyện đó có thể xảy ra, Xưa chư thiên vận thần thông đến chỗ này rồi mắc kẹt, bao nhiêu phép tắc thần thông mất hết nên ở lại đây, gọi là hóa sanh. Từ cõi kia mà tới cõi này, tức là đổi qua một kiếp sống khác mà không có ai sanh hết. Chỉ là do người ở cõi khác hết phước mà tới.
Những cồn đảo ngoài biển cả, xưa đâu có người ở, nhưng dân trong lục địa đi thuyền, đi buôn hoặc chài lưới, thuyền hết lương thực thình lình trôi tấp vào, ở luôn, lập nghiệp trở thành thủy tổ vùng đó. Cho nên ở đây nói chúng sanh kiếp sơ không có gì sanh ra, là hóa sanh. Lúc đó chưa có Phật ra đời. Thời kỳ hóa sanh thì chưa có bệnh khổ gì cần thiết lắm nên không có Phật ra đời. Kiếp sơ người ta lo chống chọi với thiên nhiên, đâu rảnh để đánh đập chửi mắng nhau. Chừng nào ở đông, thiếu ăn thiếu mặc, giành giật cướp bóc chửi mắng nhau, lúc đó Phật mới ra đời để dạy họ có kỷ cương trong nếp sống. Vì Phật không giáo hóa chúng sanh ở kiếp sơ nên Phật không hóa sanh, thời kỳ đó không có Phật pháp.
Này thiện nam tử! Phàm tất cả sự nghiệp của đức Như Lai đều hơn chúng sanh, như giòng họ, quyến thuộc, cha mẹ. Do hơn chúng sanh, nên chỗ thuyết pháp của Như Lai mọi người đều tin thọ. Do đây nên đức Như Lai chẳng hóa sanh.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh, hoặc là cha làm theo nghề nghiệp của con, hoặc là con làm theo nghề nghiệp của cha. Đức Như Lai nếu hóa sanh thời không có cha mẹ, nếu không có cha mẹ thời làm sao khiến tất cả chúng sanh thật hành những nghiệp lành. Do dây đức Như Lai chẳng hóa sanh.
Lý do thứ hai, Phật nói: Phàm tất cả sự nghiệp của đức Như Lai đều hơn chúng sanh. Như ở Ấn Độ có những giòng hạ tiện thì đức Phật sanh ở giòng cao quý để nói pháp cho họ tin. Vì lý do muốn cho họ tin nên Phật không hóa sanh.
Lý do thứ ba, tất cả người đều làm theo nghề nghiệp của cha mẹ, nếu Như Lai hóa sanh thì không có cha mẹ, làm sao Như Lai dạy cho chúng sanh làm theo những nghiệp lành được. Vì vậy cho nên Phật không hóa sanh.
Này thiện nam tử! Trong chánh pháp của Phật có hai thứ hộ trì: một là nội, hai là ngoại. Nội hộ là giới cấm. Ngoại hộ là thân tộc, quyến thuộc. Nếu đức Như Lai hóa sanh thời không ngoại hộ. Do đây nên đức Như Lai chẳng hóa sanh.
Này thiện nam tử. Có người ỷ giòng họ mà sanh kiêu mạn. Vì phá sự kiêu mạn như vậy, nên đức Như Lai giáng sanh trong giòng họ cao sang, mà chẳng hóa sanh.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai có cha mẹ thật, cha là vua Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Ma-da, mà còn có chúng sanh nói rằng Như Lai là người huyễn hóa, như thế thời đâu nên hóa sanh.
Lý do nữa, Phật nói rằng phàm hộ trì có hai, nội và ngoại. Nội hộ là giới luật, ngoại hộ là thân tộc quyến thuộc. Nếu ngài hóa sanh thì ngài thiếu phần ngoại hộ, nên ngài phải chọn thai sanh.
Có nhiều người ỷ giòng họ cao quý nên sanh kiêu mạn. Vì muốn chinh phục người kiêu mạn, ngài sanh trong giòng sang quý mà không hóa sanh.
Một lý do nữa là những người như Phật, sanh ra có cha có mẹ, vậy mà có khi ngài nói pháp, ngài phải thị hiện thần thông, người ta mỉa mai và nói ngài là người huyễn hóa, huống nữa là nếu ngài hóa sanh thì ai tin, vì vậy nên ngài không hóa sanh.
Này thiện nam tử! Nếu Như Lai hóa sanh, thời làm thế nào có thân thể nát ra thành xá-lợi. Đức Như Lai vì muốn cho chúng sanh tăng trưởng phước đức, nên nát ra thân thể mình thành xá-lợi để cho chúng sanh cúng dường. Do đây nên đức Như Lai chẳng hóa sanh.
Này thiện nam tử! Tất cả chư Phật đều không hóa sanh, thời làm sao ta lại riêng mình hóa sanh.”
Lý do nữa là khi nhập Niết-bàn Phật dùng lửa tam-muội thiêu thân thành xá-lợi để người ta cúng dường thờ phụng. Nếu là hóa sanh thì như huyễn như hóa đâu có thật, làm sao có xá-lợi. Vì vậy mà ngài không hóa sanh.
Cuối cùng, chư Phật thuở quá khứ đều là từ thai sanh thì ngài không có lý do gì mà hóa sanh. Đó là những lý do Phật trả lời.
Sư Tử Hống Bồ-tát liền quỳ chắp tay nói kệ tán thán Phật:
Như Lai có vô lượng công đức
Tôi chẳng thể trình bày đủ hết
Nay vì chúng sanh nói một phần
Xin Phật xót thương cho tôi nói:
Chúng sanh đi trong tối vô minh
Chịu đủ vô biên trăm thứ khổ
Phật có thể khiến họ xa lìa
Nên đời gọi Phật là đại bi.
Đến đoạn này Bồ-tát Sư Tử Hống quỳ gối chắp tay thốt lên những lời đặc biệt như sư tử rống. Trước tiên tán thán công đức của Phật, ca ngợi Phật là đại bi. Vì ngài thương xót chúng sanh đang chìm trong đêm tối vô minh chịu vô lượng thứ khổ, ngài đem đuốc tuệ soi sáng, đưa chúng sanh ra khỏi khổ trong đêm tối vô minh gọi là đại bi. Chúng ta là những người học theo Phật, cũng phải làm sao vén được màn vô minh cho chúng sanh hết khổ. Không có khổ nào dai dẳng đau đớn bằng khổ vô minh. Chỉ dứt được màn vô minh mới hết khổ. Phật là giác ngộ, đạo Phật là đạo giác ngộ cho nên chủ trương nhắm phá vô minh.
Chúng sanh đi trên dây sanh tử
Phóng dật mê hoang không an vui
Phật có thể ban cho an vui
Do đây dứt hẳn dây sanh tử.
Vì Phật cho chúng sanh an vui
Nên chẳng tham đắm vui của mình
Phật vì chúng sanh tu khổ hạnh
Nên trong đời đều cúng dường Phật.
Phật thấy chúng sanh trôi lăn trong sanh tử mà không biết, không kinh sợ, đâm ra phóng dật, mê mờ rồi hoảng loạn trong đó nên đau khổ, ngài mới ban cho sự an vui bằng cách dứt hẳn sanh tử.
Vì lòng muốn ban vui cho chúng sanh nên ngài phải chịu khổ hạnh, sau khi thành Phật ngài cũng mang y bát, lội bộ nơi này nơi kia, nước này nước nọ để độ người, ngài không dùng thần thông.
Không hưởng vui có hai điểm: Thứ nhất là không hưởng cái vui thế tục, tức là Thái tử bỏ cung vua ra đi. Hai là không hưởng cái vui Niết-bàn, nghĩa là sau khi đạt đạo, lẽ ra ngài hưởng Niết-bàn tịch tịnh, mà không thụ hưởng lại phải lăn lộn phải nhọc nhằn bốn mươi chín năm để lo giáo hóa chúng sanh. Vì vậy nhớ ơn Phật chúng ta phải cúng dường, quý kính ngài.
Thấy người chịu khổ thân run rẩy
Nên ở địa ngục chẳng biết đau
Phật vì chúng sanh chịu khổ nhiều
Nên là vô lượng không ai hơn.
Phật vì chúng sanh tu khổ hạnh
Đầy đủ sáu môn ba-la-mật
Ở trong gió tà tâm chẳng động
Nên hơn được đại sĩ trong đời.
Đây là nói về tiền thân của Phật. Thấy người chịu khổ run rẩy ở địa ngục, ngài liền hóa thân vào địa ngục để giáo hóa họ, nên Phật thật là một bậc vô lượng không ai hơn. Khi còn tu hạnh Bồ-tát, vì chúng sanh nên ngài tu khổ hạnh. Tu khổ hạnh là tà pháp mà ngài vẫn đầy đủ sáu môn ba-la-mật, tức là đủ chánh pháp. Ở trong tà mà tâm không động, vì vậy ngài là bậc đại sĩ hơn hết ở trong các đại sĩ.
Chúng sanh thường muốn được an vui
Mà chẳng biết tu nhân an vui
Phật có thể dạy bảo tu tập
Dường như cha lành thương con một.
Phật thấy chúng sanh khổ phiền não
Lòng khổ như mẹ lo con bệnh
Thường nghĩ những phương tiện lìa bệnh
Nên thân Phật hệ thuộc nơi người.
Mấy lời tán thán này thật là hay. Nghĩa là chúng sanh muốn vui mà đi giành giật của thiên hạ, muốn vui mà chạy theo dục lạc, cho nên càng muốn vui lại càng thọ khổ. Phật thương xót nên dạy họ cái nào là nghiệp lành cái nào là nghiệp dữ, cái nào nhân của trầm luân cái nào nhân của giải thoát, khiến cho họ biết làm lành tránh dữ, theo nhân giải thoát chừa nhân trầm luân, dạy bảo cho họ con đường được an vui. Thật như cha lành thương con một!
Phật không rời thân chúng sanh, như là mẹ lo cho con bệnh. Nghĩa là Phật thấy chúng sanh còn khổ phiền não thì ngài lo tìm phương tiện giáo hóa dạy bảo cho chúng sanh hết khổ, hết phiền não, như bà mẹ lo phương này kế kia để làm cho con mình hết bệnh. Thân mẹ là để che chở cho con, thân Phật cũng là để che chở cho chúng sanh. Thân mẹ thì hệ thuộc nơi con, còn thân Phật thì hệ thuộc nơi chúng sanh.
Tất cả chúng sanh làm điều khổ
Lòng họ điên đảo cho là vui
Phật diễn nói khổ vui chân thật
Nên đời gọi Phật là đại bi.
Đời đều ở trong vỏ vô minh
Không có mỏ trí mổ lủng được
Mỏ trí của Phật mổ lủng được
Nên gọi Phật là mẹ lớn nhất.
Chúng sanh làm những điều khổ mà lầm cho là vui. Chạy theo ngũ dục mà tưởng là vui, không ngờ đó là nhân đau khổ. Khổ mà tưởng là vui nên gọi là điên đảo. Phật thương xót mới vì họ mà diễn nói đâu là thật khổ đâu là thật vui để cho họ biết mà cải hóa, nên Phật là bậc đại bi thương xót chúng sanh.
Gà con còn mắc ở trong vỏ, tuy nó sống, cục của nhúc nhích nhưng không thoát ra khỏi vỏ được, phải có gà mẹ mổ mạnh cho vỏ bể, nó mới tách vỏ chui ra được. Chúng sanh cũng vậy, bị vô minh bọc kín, nhúc nhích cục cựa ra không nổi, kêu chít chít mà ra không được, Thành ra phải có cái mỏ cứng giác ngộ của Phật, Phật mổ mình chui ra mới được. Như vậy Phật thật là một bà mẹ lớn nhất của chúng ta.
Chẳng bị nhiếp trì trong ba đời
Không có danh tự và hiệu giả
Hiểu biết nghĩa sâu của Niết-bàn
Nên gọi Phật là bậc Đại giác.
Ba cõi xoay chuyển nhận chúng sanh
Vô minh mù lòa chẳng biết ra
Phật tự độ mình độ được người
Nên gọi Phật là đại thuyền sư.
Chẳng bị nhiếp trì trong ba đời quá khứ hiện tại vị lai. Không có danh tự và hiệu giả, những danh tự là giả danh không thật nên không danh tự nào chỉ được giác ngộ, chỉ được Niết-bàn hay chỉ được Phật tánh. Phải đạt được thực thể của nó, chứ còn những danh tự cũng chưa phải là thật. Hiểu được nghĩa sâu xa đó mới thật sự thấy rằng quả thật Phật là bậc đại giác. Thế gian thường mắc kẹt trên ngôn ngữ danh từ giả hiệu, Phật không chấp vào những danh từ đó, chỉ cho mình trực giác trực ngộ, đó mới thật là bậc đại giác.
Chúng ta ở trong tam giới cứ xoay chuyển mãi mãi như dòng sông cuộn trôi, như những đám lục bình hay như những gốc cây trôi ở dưới sông. Nghĩa là nước trôi lên thì theo lên, nước chảy xuống thì trôi xuống, chứ không có khả năng vượt ra được. Bởi không có khả năng vượt ra được nên cứ luân hồi ở trong đó mãi mãi không cùng không tận. Vô minh làm cho chúng ta mù lòa chẳng biết đường ra. Còn Phật chính ngài đã tự độ, lại vì chúng ta mà giải thích cho chúng ta hiểu để chúng ta ra khỏi vòng luân hồi đó, cho nên gọi Phật là đại thuyền sư, tức là một người lái thuyền giỏi.
Biết rõ được tất cả nhân quả
Cũng lại thông đạt đạo tịch diệt
Thường ban pháp dược cho chúng sanh
Nên đời gọi Phật là Y vương.
Ngoại đạo tà kiến nói khổ hạnh
Nhân hạnh này được vui vô thượng
Đức Phật diễn nói hạnh chân lạc
Làm cho chúng sanh hưởng an vui.
Như Lai Thế Tôn phá đạo tà
Chỉ dạy chúng sanh đường chân chánh
Ai đi đường này được an vui
Nên đời gọi Phật là Đạo sư.
Phật biết nhân quả rõ ràng tường tận về thời gian dài ngắn trước sau thế nào, về không gian thì có chánh có phụ như thế nào… Chẳng những hiểu sâu nhân quả mà Phật còn thông đạt luôn đạo tịch diệt, tức là đạo Niết-bàn. Ngài thường ban pháp dược tức là thuốc pháp để cho chúng ta trị được lành bệnh, vì vậy gọi Phật là ông vua thầy thuốc.
Lúc Phật tại thế có những chúng ngoại đạo chủ trương khổ hạnh, họ nói rằng tu khổ hạnh sau này sẽ được vui vô thượng. Họ hành hạ thân xác, như đứng ngoài trời nắng, đứng một chân, nằm trên gai góc… Hiện tại chịu đau khổ mà cái vui của ngày sau thì chưa có bằng chứng gì là được. Phật không dạy như vậy, ngài nói những hạnh chân lạc, tức là những hạnh vui chân thật làm cho chúng sanh hưởng được an vui, như dạy bỏ tham bỏ sân thì được an vui. Bỏ được rồi thì hiện tại lòng mình nhẹ nhàng thơ thới, sau này sẽ an vui. Cái vui Phật dạy là cái vui chân thật không có khổ, còn muốn được vui mà phải đánh đập mình, phải nằm gai, phải phơi nắng… thì vui không biết chừng nào có, còn bây giờ chỉ thấy khổ thôi. Lối dạy của Phật cho chúng ta hạnh chân thật để hưởng cái vui an lành tinh khiết, vì vậy nên gọi Phật là vị đạo sư, là vị thầy dẫn đường, đưa đường.
Chẳng phải mình và người làm ra
Chẳng phải chung làm vô nhân làm
Đức Phật giảng nói những sự khổ
Đúng thật không như các ngoại đạo.
Thành tựu đầy đủ giới định huệ
Cũng đem pháp này dạy chúng sanh
Đem pháp bố thí không lẫn tiếc
Phật hiệu là đấng vô duyên từ.
Thường thường nói về lý do khổ, phàm phu và ngoại đạo thường nói tại trời sanh mình phải chịu khổ, hay tại người làm mình khổ, hay tại mình làm ra khổ, hay mình khổ không có duyên cớ. Không điều nào đúng hết. Mỗi nỗi khổ đều do nhiều nhân duyên, có mình có người có trong có ngoài hợp lại mới thành.
Phật đã thành tựu đầy đủ giới định tuệ, ngài đem dạy chúng sanh, bố thí không chút lẫn tiếc. Nghĩa là có bao nhiêu đem dạy hết, chúng ta kính phục Phật biết ngần nào. Như khi ngộ đạo, ngài suy nghĩ làm sao đem đạo dạy thẳng cho chúng sanh. Nhưng nếu dạy thẳng người ta không hiểu, thôi nhập Niết-bàn cho rồi. Chúng ta thấy Phật không có khi dối, không muốn đem cái dở cái thấp dạy người, muốn đem hẳn cái mình được mà nói cho họ nghe. Khi được chư thiên khích lệ quá, ngài mới phương tiện nói những điều mình không muốn nói.
Ví dụ như ở đây đúng ra tôi không dạy tu sổ tức. Nhưng điều tôi muốn dạy người ta không hiểu, buộc lòng tôi dạy tu sổ tức trước rồi từ từ tiến lên. Như vậy không phải mình giấu giếm mà là chưa đến lúc nói. Thế gian thì dấu bớt bí quyết của mình không muốn dạy, Phật bố thí mà không lẫn tiếc. Nhưng sở dĩ ngài nói những cái thấp là bởi lẽ người ta không hiểu nổi, buộc lòng ngài phải nói như vậy. Bố thí không lẫn tiếc gọi là vô duyên từ. Vô duyên từ là lòng từ không cần duyên cớ.
Không tạo tác cũng không nhân duyên
Chứng đặng báo không nhân không quả
Do đây tất cả bậc trí giả
Khen nói đức Phật chẳng cầu báo.
Thường cùng thế gian hành phóng dật
Mà thân chẳng làm phóng dật hạnh
Nên gọi Phật là bất tư nghì
Tám pháp thế gian chẳng nhiễm ô.
Phật tánh không có tạo tác, cũng không phải do nhân duyên sanh. Chứng được Phật tánh sẵn có nên không nhân không quả. Do đó nên tất cả bậc trí giả khen Phật chẳng cầu báo. Ngài tu chỉ cần ngộ được cái sẵn có của mình, trí giác vô tận, chứ không cần phước đời này, đời sau. Kinh Bát-nhã có ví dụ người tu hành Bát-nhã cũng như người mặc giáp cầm thương đi ra chiến đấu với hư không. Mặc giáp cầm thương mà chiến đấu với hư không! Chiến đấu với hư không để thắng cái gì? Để thắng cơn mê. Người tu hạnh trí tuệ Bát-nhã thì không cầu quả báo, chỉ cần dẹp hết những phiền não vô minh của mình cho Phật tánh hiển lộ. Chúng ta tu là để cầu quả báo, đời này tu để đời sau hưởng, đời này nghèo tu để cho đời sau giàu, ở cõi này khổ tu để được lên thiên đường để được sung sướng… Tu để hưởng quả báo thì chưa được giải thoát. Phật vì không muốn hưởng quả báo nên ngài mới thật là người giải thoát. Ngài cùng sanh trong các giai cấp hay trong các hạng người để giáo hóa họ, họ làm nghề gì Phật cũng làm nghề ấy. Tuy làm những việc phóng dật mà thân tâm ngài không phóng dật. Vì vậy Phật thật là không thể nghĩ bàn. Tám pháp thế gian, tức là tám việc thế gian không làm cho ngài ô nhiễm. Tám pháp đó cũng có thể nói là tám gió.
Như Lai Thế Tôn không thân thù
Nên tâm của Phật thường bình đẳng
Tôi Sư Tử Hống, tán thán Phật
Rống như vô lượng sư tử rống.
Không thân thù tức là không có kẻ thân không có người thù. Bởi không có kẻ thân người thù nên tâm Phật thường bình đẳng. Bồ-tát Sư Tử Hống tán thán Phật như vậy, đó là tiếng rống của sư tử. Những tán thán đó vượt ra ngoài tất cả những tầm thường của thế gian, cho nên nói như sư tử rống, tất cả thú đều phải nhiếp phục.
Bởi có thân thù nên tâm của chúng ta bất bình đẳng. Muốn hết thân thù chỉ có một cách làm rất dễ. Người nào chửi mình, mình nghĩ đó là bạn lành họ khích lệ cho mình tiến. Người nào khen mình cũng là bạn lành nhắc nhở cho mình tiến. Chửi mình là thương bằng nghịch hạnh, khen mình là thương bằng thuận hạnh, như vậy hai người đều là bạn tốt của mình. Được như vậy thì hết thân hết thù. Thật là dễ, nhưng nếu không nỗ lực thì làm không nổi, bởi vì tâm bất bình quen rồi, nghe chửi chúng ta bất bình, không nhớ đó là người khuyến khích mình tiến bằng nghịch hạnh.