Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa

Hội thứ nhất 14. Phẩm Áo Giáp Đại Thừa



Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Như nói Bồ tát Ma ha tát là kẻ mặc áo giáp Đại thừa. Vì sao gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc áo giáp Đại thừa? Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp bố thí Ba la mật đa, mặc giáp tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tắt mặc giáp Đại thừa. Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp bốn tĩnh lự, mặc giáp bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp bốn niệm trụ; mặc giáp bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chỉ, tám thánh đạo chi. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp nội không; mặc giáp ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp năm nhãn, mặc giáp sáu thần thông. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Phật mười lực; mặc giáp bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp các công đức thân tướng Phật. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp các công đức như vậy thảy, phóng đại quang minh khắp soi Tam thiên đại thiên thế giới, khiến cho thế giới này sáu thứ ba phen biến động. Trong ấy khổ cụ địa ngục lửa thảy và thân tâm hữu tình kia đau nhức đều được tiêu trừ. Bồ tát biết kia đã lìa các khổ, bèn vì ngợi khen công đức ngôi Tam Bảo, kia được nghe rồi thân tâm an vui. Từ loại mình chết, sanh trong trời người, liền được gần gũi phụng sự các Phật, Bồ tát, thân thừa củng dường, lãnh tiếng Chánh pháp. Loại bàng sanh trong ấy, tàn hại lẫn nhau, roi đánh đuổi ngặt, các khổ nhiều vô lượng, đều được diệt trừ. Bồ tát biết kia đã lìa các khố, cũng vì ngợi khen công đức Tam Bảo, kia được nghe rồi, thân tâm an vui. Từ loại mình chết, sanh trong trời người, liền được gần gũi phụng sự các Phật, Bồ tát, thân thừa cúng dường, lãnh tiếng Chánh pháp. Quỷ giới trong ấy khủng bố đói khát, thân tâm tiều tụy, khổ não nhiều vô lượng, đều được trừ diệt. Bồ tát biết kia đã lìa các khổ, cũng vì ngợi khen công đức Tam Bảo, kia được nghe rồi thân tâm an vui. Từ loại mình chết, sanh trong trời người, liền được gần gũi phụng sự các Phật, Bồ tát, thân thừa cúng dường, lãnh tiếng Chánh pháp. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.

Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc các giáp công đức như vậy thảy, phóng đại quang minh soi khắp thế giới các Phật mười phương đều như hằng hà sa thảy, cũng khiến cho cõi kia sáu thứ ba phen biến động, địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, trong ấy bao nhiêu các khổ đều được trừ diệt. Bồ tát biết kia đã lìa các khổ, cũng vì ngợi khen công đức Tam Bảo, kia được nghe rồi thân tâm an vui. Từ loại mình chết, sanh trong trời người, liền được gần gũi phụng sự các Phật, Bồ tát, thân thừa cúng dường, lãnh tiếng Chánh pháp. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Thiện Hiện! Như huyền sư giỏi hoặc đệ tử y, ở trước đại chúng nơi ngã tư đường, huyễn làm địa ngục, bàng sanh, quỷ giới và vô lượng hữu tình đều chịu các khổ, cũng lại làm phóng quang biến động đại địa khiến cho các khổ của hữu tình kia đều dứt. Rồi lại vì ngợi khen Phật, Pháp, Tăng Bảo khiến kia nghe rồi thân tâm an vui. Từ loại mình chết, sanh trong trời người, thừa sự cúng dường các Phật, Bồ tát, ở chỗ các Phật, lãnh tiếng Chánh pháp. Thiện Hiện! Nơi ý ngươi hiểu sao? Huyễn sự như thế là có thật hay chăng? Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát mặc các giáp công đức như vậy thảy, phóng đại quang minh, biến động đại địa, cứu vớt vô lượng thế giới hữu tình ba ác thú khổ khiến sanh trời người, thấy Phật nghe Pháp, cũng lại như vậy. Tuy có ra làm mà không một thật. Vì sao thế? Thiện Hiện! Vì các pháp tánh không, đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa khắp hóa Tam thiên đại thiên thế giới như ngọc lưu ly xanh, cũng hóa tự thân làm vua Chuyển luân, bảy báu quyến thuộc, dõi theo doanh vậy. Chúng hữu tình trong ấy cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần áo cấp áo, cần xe cấp xe, hương xoa, hương bột, hương đốt, tràng hoa, phòng nhà, đồ nằm, đèn nến, thuốc men, vàng bạc ngọc báu, san hô ngọc bích và những bao các thứ đồ cần dùng tư sanh, tùy kia cần dùng thí cho tất cả. Làm thí này rồi, lại vì tuyên nói pháp tương ưng với sáu Ba la mật đa, khiến kia nghe rồi cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mà đối với pháp tương ưng sáu Ba la mật đa, thường chẳng bỏ lìa. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc đệ tử y, ở trước đại chúng, nơi ngã tư đường, huyễn làm các hạng hữu tình: Bần cùng cô lộ, căn chi tàn khuyết, tật bệnh ốm đau; tùy kia cần gì, đều huyễn cấp cho. Thiện Hiện! Nơi ý ngươi hiểu sao? Huyễn sự như thế là có thật hay chăng? Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa hoặc hóa thế giới như ngọc lưu ly xanh, hoặc hóa tự thân làm Luân vương thảy, tùy loài hữu tình cần gì cho nấy và vì tuyên nói pháp tương ưng sáu Ba la mật đa, cũng lại như vậy. Tuy có ra làm mà không một thật. Vì sao thế? Thiện Hiện! Vì các pháp tánh không, đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự an trụ tịnh giới Ba la mật đa, vì muốn lợi vui các hữu tình vậy, nên sanh vào nhà Chuyển luân vương, nối ngôi vua Chuyển luân, an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muốn ức hữu tình nơi mười thiện nghiệp đạo. Hoặc lại an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muốn ức hữu tình nơi bốn tĩnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc lại an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức hữu tình nơi bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tầm thánh đạo chỉ. Hoặc lại an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muốn ức hữu tình nơi không giải thoát môn, hoặc vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Hoặc lại an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muốn ức hữu tình nơi bố thí Ba la mật đa; hoặc tịnh giới, an nhẫn, tỉnh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba là một đa. Hoặc lại an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức hữu tình nơi năm nhãn, hoặc sáu thần thông. Hoặc lại an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muốn ức hữu tình nơi Phật mười lực; hoặc bốn vô sở ủy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Khiến cho an lập xong, cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, với pháp như thế thường chẳng bỏ rời. Thiện Hiện Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc đệ tử y, ở trước đại chúng, nơi ngã tư đường, huyễn làm vô lượng hữu tình khiến trụ trong mười thiện nghiệp đạo; hoặc lại cho trụ bốn tĩnh lự, cho đến nhất thiết tướng trí. Thiện Hiện! Nơi ý ngươi hiểu sao? Huyễn sự như thế là có thật hay chăng? Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát vì hữu tình vậy, nên sanh vào nhà Chuyển luân vương, nối ngôi vua Chuyển luân, an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng hữu tình nơi mười thiện nghiệp đạo. Hoặc lại an lập vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức hữu tình nơi bốn tĩnh lự cho đến Nhất thiết trí trí, cũng lại như vậy. Tuy có ra làm mà không một thật. Vì sao thế? Thiện Hiện! Vì các pháp tánh không, đều như huyền vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự an trụ an nhẫn Ba la mật đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muốn ức hữu tình khiến trụ an nhẫn Ba la mật đa. Thiện Hiện! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tự trụ an nhẫn Ba la mật đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức hữu tình khiến trụ an nhẫn Ba la mật đa? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát từ sơ phát tâm cho đến chứng được Nhất thiết trí trí, mặc giáp an nhẫn, thường tự nghĩ rằng: “Giả sử tất cả hữu tình cầm dao, gậy, hòn thảy đến làm tổn hại ta, ta trọn chẳng khởi một niệm giận lòng và khuyên các hữu tình khác cũng nhẫn như vậy”. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này như tâm đã nghĩ, cảnh đến không chống trái, khuyên các hữu tình an trụ nhẫn như vậy cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, với nhẫn như vậy thường chẳng bỏ lìa. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc đệ tử y, đối trước đại chúng, nơi ngã tư đường, huyễn làm các thứ các loại hữu tình, mỗi mỗi cầm nắm dao gậy hòn thảy, gia hại huyễn sự hoặc đệ tử y. Lúc ấy thầy trò huyễn sư, đối huyền hữu tình đều chẳng khởi lòng muốn làm trả thù, mà lại khuyên kia an trụ an nhẫn như vậy. Thiện Hiện! Nơi ý ngươi hiểu sao? Huyễn sự như thế là có thật hay chăng? Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát mặc giáp an nhẫn tự trụ an nhẫn Ba la mật đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muốn ức hữu tình khiến trụ an nhẫn Ba la mật đa thường chẳng bỏ lìa, cũng lại như vậy. Tuy có ra làm mà không một thật. Vì sao thế? Thiện Hiện! Vì các pháp tánh không, đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự trụ tinh tiến Ba la mật đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muốn ức hữu tình khiến trụ tỉnh tiến Ba la mật đa. Thiện Hiện! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tự trụ tinh tiến Ba la mật da, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muốn ức hữu tình khiến trụ tinh tiến Ba la mật đa? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, thân tâm tinh tiến, dứt các ác pháp, tu các thiện pháp, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức hữu tình tu tập thân tâm tỉnh tiến như vậy, cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, với tinh tiến như vậy thường chẳng bỏ lìa. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc đệ tử y, đối trước đại chúng nơi ngã tư đường, huyễn làm các thứ các loại hữu tình, mà kẻ huyện giỏi kia tự hiện rõ ràng, thân tâm tinh tiến, cũng khuyên thứ huyễn sở hiện khiến tu tinh tiến rõ ràng như vậy. Thiện Hiện! Nơi ý ngươi hiểu sao? Huyễn sự như thế là có thật hay chăng? Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, thân tâm tinh tiến, dứt các ác pháp, tu các thiện pháp, cũng khuyên hữu tình tu tập thân tâm tinh tiến như vậy thường chẳng bỏ lìa, cũng lại như vậy. Tuy có ra làm mà không một thật. Vì sao thế? Thiện Hiện! Vì các pháp tánh không, đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự trụ tĩnh lự Ba la mật đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muốn ức hữu tình khiến trụ tĩnh lự Ba la mật đa. Thiện Hiện! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tự trụ tĩnh lự Ba la mật đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức hữu tình khiến trụ tĩnh lự Ba la mật đa? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp trụ bình đẳng định, chẳng thấy các pháp có định có loạn, mà thường tu tập tĩnh lự Ba la mật đa như vậy. Cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức hữu tình tu tập bình đẳng tĩnh lự như thế, cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, đối định như vậy thường chẳng bỏ lìa. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc đệ tử y, đối trước đại chúng nơi ngã tư đường, huyễn làm các thứ các loại hữu tình, mà kẻ huyễn giỏi kia tự hiện nơi pháp trụ bình đẳng định, cũng khuyên huyễn sở hiện khiến tu tĩnh lự bình đẳng như vậy. Thiện Hiện! Nơi ý ngươi hiếu sao? Huyễn sự như thế là có thật hay chăng? Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp trụ bình đẳng định, cũng khuyên hữu tình tu tập tĩnh lự bình đẳng như vậy thường chẳng bỏ lìa, cũng lại như vậy. Tuy có ra làm mà không một thật. Vì sao thế? Thiện Hiện! Vì các pháp tánh không, đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự trụ bát nhã Ba la mật đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức hữu tình khiến trụ bát nhã Ba la mật đa. Thiện Hiện! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tự trụ bát nhã Ba la mật đa, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức hữu tình khiến trụ bát nhã Ba la mật đa? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự trụ vô hý luận bát nhã Ba la mật đa, chẳng thấy các pháp có sanh có diệt, có nhiễm có tịnh và bất đắc bờ đây bờ kia sai khác. Cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức hữu tình an trụ vô hý luận huệ như vậy, cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, với huệ như vậy thường chẳng bỏ lìa. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Thiện Hiện! Như huyễn sự giỏi hoặc đệ tử y, đối trước đại chúng nơi ngã tư đường, huyễn làm các thứ các loại hữu tình, mà kẻ huyễn giỏi kia tự hiện an trụ vô hý luận huệ, cũng khuyên huyễn sở hiện khiến kia tu tập bát nhã như thế. Thiện Hiện! Nơi ý ngươi hiểu sao? Huyễn sự như thế là có thật hay chăng? Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát tự trụ vô hý luận bát nhã Ba la mật đa, cũng khuyên hữu tình tu tập vô hý luận huệ như vậy thường chẳng bỏ lìa, cũng lại như vậy. Tuy có ra làm mà không một thật. Vì sao thế? Thiện Hiện! Vì các pháp tánh không, đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp các công đức như trên vừa nói, khắp ở thế giới các Phật mười phương, đều như hằng hà sa thảy, dùng sức thần thông tự biến thân mình khắp đầy thế giới các Phật như thế, tùy các hữu tình ưa muốn mà thị hiện. Rồi tự trụ bố thí Ba la mật đa, khuyên kẻ xan tham khiến trụ bố thí. Tự trụ tịnh giới Ba la mật đa, khuyên kẻ phạm giới chẳng thấy các pháp có sanh có diệt, có nhiễm có tịnh và bất đắc bờ đây bờ kia sai khác. Cũng khuyên vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức hữu tình an trụ vô hý luận huệ như vậy, cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, với huệ như vậy thường chẳng bỏ lìa. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa. Thiện Hiện! Như huyễn sự giỏi hoặc đệ tử y, đối trước đại chúng nơi ngã tư đường, huyễn làm các thứ các loại hữu tình, mà kẻ huyễn giỏi kia tự hiện an trụ vô hý luận huệ, cũng khuyên huyễn sở hiện khiến kia tu tập bát nhã như thế. Thiện Hiện! Nơi ý ngươi hiểu sao? Huyễn sự như thế là có thật hay chăng? Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát tự trụ vô hý luận bát nhã Ba la mật đa, cũng khuyên hữu tình tu tập vô hý luận huệ như vậy thường chẳng bỏ lìa, cũng lại như vậy. Tuy có ra làm mà không một thật. Vì sao thế? Thiện Hiện! Vì các pháp tánh không, đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp các công đức như trên vừa nói, khắp ở thế giới các Phật mười phương, đều như hằng hà sa thảy, dùng sức thần thông tự biến thân mình khắp đầy thế giới các Phật như thế, tùy các hữu tình ưa muốn mà thị hiện. Rồi tự trụ bố thí Ba la mật đa, khuyên kẻ xan tham khiến trụ bố thí. Tự trụ tịnh giới Ba la mật đa, khuyên kẻ phạm giới không, đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát mặc giáp các công đức như trên vừa nói, đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm thượng thủ, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, lợi ích an vui tất cả hữu tình, chẳng xen tác ý Thanh văn, Độc giác, nghĩa là chẳng tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi bố thí Ba la mật đa, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi bố thí Ba la mật đa”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi nội không, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi nội không”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi bốn tĩnh lự, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi bốn tĩnh lự”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi bốn vô lượng, bốn vô sắc định, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi bốn vô lượng, bốn vô sắc định”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi bốn niệm trụ, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi bốn niệm trụ”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi không giải thoát môn, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi không giải thoát môn”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi năm nhãn, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi năm nhãn”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi sáu thần thông, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi sáu thần thông”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi Phật mười lực, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô SỐ VÔ biên hữu tình nơi Phật mười lực”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi bốn vô sở ủy cho đến nhất thiết tướng trí”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi quả Dự lưu, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi quả Dự lưu”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề”. Chẳng nên tác lên nghĩ này: “Ta nên an lập ngần ấy hữu tình nơi Bồ tát đạo, Vô thượng Bồ đề, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập”. Chỉ nên tác lên nghĩ này: “Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi Bồ tát đạo, Vô thượng Bồ đề”. Thiện Hiện! Như vậy gọi là Bồ tát Ma ha tát mặc giáp Đại thừa.

Thiện Hiện! Như huyễn sư giỏi hoặc đệ tử y, đối trước đại chúng nơi ngã tư đường, huyễn làm vô lượng vô số vô biên hữu tình an lập nơi sáu Ba la mật đa, cho đến an lập nơi Vô thượng Bồ đề. Thiện Hiện! Nơi ý ngươi hiểu sao? Huyễn sự như vậy là có thật hay chăng? Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm thượng thủ, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện. An lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi sáu Ba la mật đa, cho đến an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi Vô thượng Bồ đề, cũng lại như vậy. Tuy có ra làm mà không một thật. Vì sao thế? Thiện Hiện! Vì các pháp tánh không, đều như huyễn vậy.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như tôi hiểu nghĩa Phật vừa nói, Bồ tát Ma ha tát chẳng mặc giáp công đức, phải biết đấy mới là mặc giáp Đại thừa. Vì sao thế? Vì tất cả pháp, tự tướng không vậy. Sở vì sao? Bạch Thế Tôn! Sắc, sắc tướng không; thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức tướng không. Nhãn xứ, nhãn xứ tướng không; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tướng không. Sắc xứ, sắc xứ tướng không; thanh hương vị xúc pháp xứ, thanh hương vị xúc pháp xứ tưởng không. Nhãn giới, nhãn giới tướng không; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tướng không. Nhĩ giới, nhĩ giới tướng không; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tướng không. Tỷ giới, tỷ giới tướng không; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tướng không. Thiệt giới, thiệt giới tướng không; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ, vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tướng không. Thân giới, thân giới tướng không; xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tướng không. Ý giới, ý giới tướng không; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tướng không.

Địa giới, địa giới tướng không; thủy hỏa phong không thức giới, thủy hỏa phong không thức giới tướng không. Khổ thánh đế, khổ thánh để tướng không; tập diệt đạo thánh đế, tập diệt đạo thánh để tướng không. Vô minh, vô minh tướng không; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não, hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não tướng không. Nội không, nội không tướng không; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không tướng không. Bốn tĩnh lự, bốn tĩnh lự tướng không; bốn vô lượng, bốn vô sắc định, bốn vô lượng, bốn vô sắc định tướng không. Bốn niệm trụ, bốn niệm trụ tướng không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi tướng không. Không giải thoát môn, không giải thoát môn tướng không; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tướng không. Bố thí Ba la mật đa, bố thí Ba la mật đa tướng không; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa tướng không. Năm nhãn, năm nhãn tướng không; sáu thần thông, sáu thần thông tướng không. Phật mười lực, Phật mười lực tướng không; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí tưởng không. Bồ tát, Bồ tát tướng không. Mặc giáp công đức, mặc giáp công đức tướng không. Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này, Bồ tát Ma ha tát chẳng mặc giáp công đức, phải biết đấy mới là mặc giáp Đại thừa.

Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như lời ngươi vừa nói. Thiện Hiện! Phải biết Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác. Bồ tát Ma ha tát vì việc này vậy, nên mặc giáp Đại thừa. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác, Bồ tát Ma ha tát vì việc này vậy, nên mặc giáp Đại thừa?

Phật nói: Thiện Hiện! Do vì các tác giả bất khả đắc, nên Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác. Sở vì sao? Thiện Hiện! Ngã chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì sao thế? Vì ngã rốt ráo bất khả đắc vậy. Hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, khiến khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, kiến giả chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì sao thế? Vì hữu tình cho đến kiến giả, rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Huyễn sự chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì huyễn sự rốt ráo bất khả đắc vậy. Cảnh mộng, tượng, vang, bóng sáng, không hoa, ánh nắng, thành tầm hương, việc biến hóa chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì cảnh mộng cho đến việc biến hóa rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Sắc chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì sắc rốt ráo bất khả đắc vậy. Thọ tưởng hành thức chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì thọ tưởng hành thức rất ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Nhãn xứ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì nhãn xứ rốt ráo bất khả đắc vậy. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Sắc xứ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì sắc xứ rốt ráo bất khả đắc vậy. Thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì thanh hương vị xúc pháp xứ rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Nhãn giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì nhãn giới rốt ráo bất khả đắc vậy. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Nhĩ giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì nhĩ giới rốt ráo bất khả đắc vậy. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Tỷ giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì tỷ giới rốt ráo bất khả đắc vậy. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Thiệt giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì thiệt giới rốt ráo bất khả đắc vậy. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Thân giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì thân giới rốt ráo bất khả đắc vậy. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Ý giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì ý giới rốt ráo bất khả đắc vậy. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Địa giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì địa giới rốt ráo bất khả đắc vậy. Thủy hỏa phong không thức giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì thủy hỏa phong không thức giới rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Khổ thánh để chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì khổ thánh để rốt ráo bất khả đắc vậy. Tập diệt đạo thánh để chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì tập diệt đạo thánh để rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Vô minh chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì vô minh rốt ráo bất khả đắc vậy. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Nội không chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì nội không rốt ráo bất khả đắc vậy. Ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không, rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Bốn tĩnh lự chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì bốn tĩnh lự rốt ráo bất khả đắc vậy. Bốn vô lượng, bốn vô sắc định chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì bốn vô lượng, bốn vô sắc định rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Bốn niệm trụ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì bốn niệm trụ rốt ráo bất khả đắc vậy. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi, rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Không giải thoát môn chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì không giải thoát môn rốt ráo bất khả đắc vậy. Vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì vô tướng, vô nguyện giải thoát môn rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Bố thí Ba la mật đa chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì bố thí Ba la mật đa rốt ráo bất khả đắc vậy. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Năm nhãn chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì năm nhãn rốt ráo bất khả đắc vậy. Sáu thần thông chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì sáu thần thông rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Phật mười lực chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì Phật mười lực rốt ráo bất khả đắc vậy. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí, rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Chơn như chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì chơn như rốt ráo bất khả đắc vậy. Pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, pháp trụ, pháp định, ly sanh tánh, bình đẳng tánh, thật tế chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì pháp giới cho đến thật tế, rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Bồ tát chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì Bồ tát rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì cớ sao? Vì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rất ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Do nhân duyên này, Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác. Bồ tát Ma ha tát vì việc này vậy, nên mặc giáp Đại thừa. Thiện Hiện! Do vì nghĩa này, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng mặc giáp công đức, phải biết đấy mới là mặc giáp Đại thừa.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như tôi hiểu nghĩa Phật vừa nói. Sắc không buộc không mở; thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Sắc tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Sắc tánh xa lìa, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Sắc tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Sắc tánh không, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh không, nên không buộc không mở. Sắc tánh vô tướng, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Sắc tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Sắc tánh vô sanh, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Sắc tánh vô diệt, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Sắc tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Sắc tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; thọ tưởng hành thức tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ không buộc không mở; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Nhãn xứ tánh xa lìa, nên không buộc không mở; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Nhãn xứ tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Nhãn xứ tánh không, nên không buộc không mở; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh không, nên không buộc không mở. Nhãn xứ tánh vô tướng, nên không buộc không mở; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Nhãn xứ tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Nhãn xứ tánh vô sanh, nên không buộc không mở; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Nhãn xứ tánh vô diệt, nên không buộc không mở; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Nhãn xứ tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Nhãn xứ tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Sắc xứ không buộc không mở; thanh hương vị xúc pháp xứ không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Sắc xứ tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; thanh hương vị xúc pháp xứ tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Sắc xứ tánh xa lìa, nên không buộc không mở; thanh hương vị xúc pháp xứ tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Sắc xứ tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; thanh hương vị xúc pháp xứ tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Sắc xứ tánh không, nên không buộc không mở; thanh hương vị xúc pháp xứ tánh không, nên không buộc không mở. Sắc xứ tánh vô tướng, nên không buộc không mở; thanh hương vị xúc pháp xử tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Sắc xứ tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; thanh hương vị xúc pháp xứ tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Sắc xứ tánh vô sanh, nên không buộc không mở; thanh hương vị xúc pháp xứ tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Sắc xứ tánh vô diệt, nên không buộc không mở; thanh hương vị xúc pháp xứ tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Sắc xứ tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; thanh hương vị xúc pháp xứ tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Sắc xứ tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; thanh hương vị xúc pháp xứ tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Nhãn giới không buộc không mở; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Nhãn giới tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Nhãn giới tánh xa lìa, nên không buộc không mở; sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Nhãn giới tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Nhãn giới tánh không, nên không buộc không mở; sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không, nên không buộc không mở. Nhãn giới tánh vô tướng, nên không buộc không mở; sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Nhãn giới tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Nhãn giới tánh vô sanh, nên không buộc không mở; sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Nhãn giới tánh vô diệt, nên không buộc không mở; sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Nhãn giới tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Nhãn giới tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới không buộc không mở; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Nhĩ giới tánh xa lìa, nên không buộc không mở; thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Nhĩ giới tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Nhĩ giới tánh không, nên không buộc không mở; thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không, nên không buộc không mở. Nhĩ giới tánh vô tướng, nên không buộc không mở; thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Nhĩ giới tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Nhĩ giới tánh vô sanh, nên không buộc không mở; thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Nhĩ giới tánh vô diệt, nên không buộc không mở; thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Nhĩ giới tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Nhĩ giới tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Tỷ giới không buộc không mở; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Tỷ giới tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Tỷ giới tánh xa lìa, nên không buộc không mở; hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Tỷ giới tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Tỷ giới tánh không, nên không buộc không mở; hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không, nên không buộc không mở. Tỷ giới tánh vô tướng, nên không buộc không mở; hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Tỷ giới tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Tỷ giới tánh vô sanh, nên không buộc không mở; hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Tỷ giới tánh vô diệt, nên không buộc không mở; hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Tỷ giới tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Tỷ giới tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Thiệt giới không buộc không mở; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Thiệt giới tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Thiệt giới tánh xa lìa, nên không buộc không mở; vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Thiệt giới tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Thiệt giới tánh không, nên không buộc không mở; vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không, nên không buộc không mở. Thiệt giới tánh vô tướng, nên không buộc không mở; vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Thiệt giới tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Thiệt giới tánh vô sanh, nên không buộc không mở; vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Thiệt giới tánh vô diệt, nên không buộc không mở; vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Thiệt giới tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Thiệt giới tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Thân giới không buộc không mở; xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Thân giới tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Thân giới tánh xa lìa, nên không buộc không mở; xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Thân giới tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Thân giới tánh không, nên không buộc không mở; xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không, nên không buộc không mở. Thân giới tánh vô tướng, nên không buộc không mở; xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Thân giới tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Thân giới tánh vô sanh, nên không buộc không mở; xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Thân giới tánh vô diệt, nên không buộc không mở; xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Thân giới tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Thân giới tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Ý giới không buộc không mở; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Ý giới tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Ý giới tánh xa lìa, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Ý giới tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Ý giới tánh không, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không, nên không buộc không mở. Ý giới tánh vô tướng, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Ý giới tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Ý giới tánh vô sanh, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Ý giới tánh vô diệt, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô Ý diệt, nên không buộc không mở. Ý giới tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Ý giới tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Địa giới không buộc không mở; thủy hỏa phong không thức giới không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Địa giới tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; thủy hỏa phong không thức giới tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Địa giới tánh xa lìa, nên không buộc không mở; thủy hỏa phong không thức giới tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Địa giới tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; thủy hỏa phong không thức giới tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Địa giới tánh không, nên không buộc không mở; thủy hỏa phong không thức giới tánh không, nên không buộc không mở. Địa giới tánh vô tướng, nên không buộc không mở; thủy hỏa phong không thức giới tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Địa giới tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; thủy hỏa phong không thức giới tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Địa giới tánh vô sanh, nên không buộc không mở; thủy hỏa phong không thức giới tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Địa giới tánh vô diệt, nên không buộc không mở; thủy hỏa phong không thức giới tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Địa giới tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; thủy hỏa phong không thức giới tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Địa giới tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; thủy hỏa phong không thức giới tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Khổ thánh để không buộc không mở; tập diệt đạo thánh để không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Khổ thánh để tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; tập diệt đạo thánh để tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Khổ thánh để tánh xa lìa, nên không buộc không mở; tập diệt đạo thánh để tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Khổ thánh để tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; tập diệt đạo thánh để tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Khổ thánh để tánh không, nên không buộc không mở; tập diệt đạo thánh đế tánh không, nên không buộc không mở. Khổ thánh để tánh vô tướng, nên không buộc không mở; tập diệt đạo thánh để tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Khổ thánh để tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; tập diệt đạo thánh để tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Khổ thánh để tánh vô sanh, nên không buộc không mở; tập diệt đạo thánh để tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Khổ thánh để tánh vô diệt, nên không buộc không mở; tập diệt đạo thánh để tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Khổ thánh để tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; tập diệt đạo thánh để tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Khổ thánh để tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; tập diệt đạo thánh để tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Vô minh không buộc không mở; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Vô minh tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Vô minh tánh xa lìa, nên không buộc không mở; hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Vô minh tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Vô minh tánh không, nên không buộc không mở; hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não tánh không, nên không buộc không mở. Vô minh tánh vô tướng, nên không buộc không mở; hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Vô minh tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Vô minh tánh vô sanh, nên không buộc không mở; hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Vô minh tánh vô diệt, nên không buộc không mở; hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Vô minh tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; hành cho đến lão tử sầu thân khổ ưu não tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Vô minh tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Nội không không buộc không mở; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Nội không tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Nội không tánh xa lìa, nên không buộc không mở; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Nội không tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Nội không tánh không, nên không buộc không mở; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không tánh không, nên không buộc không mở. Nội không tánh vô tướng, nên không buộc không mở; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Nội không tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Nội không tánh vô sanh, nên không buộc không mở; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Nội không tánh vô diệt, nên không buộc không mở; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Nội không tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Nội không tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Bốn tĩnh lự không buộc không mở; bốn vô lượng, bốn vô sắc định không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bốn tĩnh lự tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; bốn vô lượng, bốn vô sắc định tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Bốn tĩnh lự tánh xa lìa, nên không buộc không mở; bốn vô lượng, bốn vô sắc định tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Bốn tĩnh lự tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; bốn vô lượng, bốn vô sắc định tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Bốn tĩnh lự tánh không, nên không buộc không mở; bốn vô lượng, bốn vô sắc định tánh không, nên không buộc không mở. Bốn tĩnh lự tánh vô tướng, nên không buộc không mở; bốn vô lượng, bốn vô sắc định tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Bốn tĩnh lự tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; bốn vô lượng, bốn vô sắc định tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Bốn tĩnh lự tánh vô sanh, nên không buộc không mở; bốn vô lượng, bốn vô sắc định tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Bốn tĩnh lự tánh vô diệt, nên không buộc không mở; bốn vô lượng, bốn vô sắc định tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Bốn tĩnh lự tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; bốn vô lượng, bốn vô sắc định tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Bốn tĩnh lự tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; bốn vô lượng, bốn vô sắc định tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ không buộc không mở; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Bốn niệm trụ tánh xa lìa, nên không buộc không mở; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Bốn niệm trụ tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Bốn niệm trụ tánh không, nên không buộc không mở; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi tánh không, nên không buộc không mở. Bốn niệm trụ tánh vô tướng, nên không buộc không mở; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Bốn niệm trụ tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Bốn niệm trụ tánh vô sanh, nên không buộc không mở; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Bốn niệm trụ tánh vô diệt, nên không buộc không mở; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Bốn niệm trụ tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Bốn niệm trụ tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.

Bạch Thế Tôn! Không giải thoát môn không buộc không mở; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn không buộc không mở. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Không giải thoát môn tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tánh vô sở hữu, nên không buộc không mở. Không giải thoát môn tánh xa lìa, nên không buộc không mở; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tánh xa lìa, nên không buộc không mở. Không giải thoát môn tánh vắng lặng, nên không buộc không mở; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tánh vắng lặng, nên không buộc không mở. Không giải thoát môn tánh không, nên không buộc không mở; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tánh không, nên không buộc không mở. Không giải thoát môn tánh vô tướng, nên không buộc không mở; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tánh vô tướng, nên không buộc không mở. Không giải thoát môn tánh vô nguyện, nên không buộc không mở; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tánh vô nguyện, nên không buộc không mở. Không giải thoát môn tánh vô sanh, nên không buộc không mở; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tánh vô sanh, nên không buộc không mở. Không giải thoát môn tánh vô diệt, nên không buộc không mở; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tánh vô diệt, nên không buộc không mở. Không giải thoát môn tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tánh vô nhiễm, nên không buộc không mở. Không giải thoát môn tánh vô tịnh, nên không buộc không mở; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn tánh vô tịnh, nên không buộc không mở.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.