Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao biết được tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát? Vì sao biết được sự phát tâm hướng đến Đại-thừa của đại Bồ-tát? Đại-thừa đó từ đâu mà ra, đến trụ ở nơi nào? Đại-thừa ấy làm thế nào mà trụ? Ai nương Đại-thừa ấy mà xuất hiện?
Phật bảo: Thiện Hiện! Ngươi hỏi vì sao mà biết được cái tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát? Sáu phép Ba-la-mật-đa là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát. Những gì là sáu? Đó là bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là bố thí Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự bố thí tất cả sở hữu trong ngoài, cũng khuyên người khác bố thí sở hữu trong ngoài. Duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là bố thí Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tịnh giới Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự an trú mười thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người khác an trú muời thiện nghiệp đạo, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là tịnh giới Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là an nhẫn Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự làm đầy đủ và tăng thượng an nhẫn, cũng khuyên người khác làm đầy đủ và tăng thượng an nhẫn, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là an nhẫn Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tinh tấn Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với sáu phép Ba-la-mật-đa, tự siêng năng tu tập chẳng dừng nghỉ, cũng khuyên người khác đối với sáu phép Ba-la-mật-đa, siêng năng tu tập chẳng dừng nghỉ, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là tinh tấn Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tịnh lự Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự mình có thể khéo léo nhập vào các tịnh lự vô lượng, vô sắc, hoàn toàn chẳng theo thế lực ấy mà thọ sanh, cũng có thể khuyên người khác nhập vào các tịnh lự, vô lượng, vô sắc giống như sự khéo léo của mình, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là tịnh lự Ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát phát tâm tương ưng với trí nhất thiết trí và đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, có khả năng tự quán sát như thật tất cả pháp tánh, đối với các pháp tánh, không có sự chấp trước, cũng khuyên người khác quán sát như thật tất cả pháp tánh, đối với các pháp tánh, không có sự chấp trước, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Thiện Hiện, đó là Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát.
Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh. Đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là nội không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nội nghĩa là nội pháp, tức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Trong đó, nhãn gắn liền với cái không của nhãn. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý gắn liền với cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là nội không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là ngoại không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Ngoại nghĩa là ngoại pháp, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Trong đó, sắc gắn liền với cái không của sắc. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thanh, hương, vị, xúc, pháp gắn liền với cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là ngoại không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là nội ngoại không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nội ngoại nghĩa là nội, ngoại pháp, tức là nội lục xứ, ngoại lục xứ. Trong đó, nội lục xứ gắn liền với cái không của ngoại lục xứ. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Ngoại lục xứ gắn liền với cái không của nội lục xứ. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là nội, ngoại không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là không không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Không nghĩa là tất cả pháp đều không. Cái không này gắn liền với cái không của không. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là không không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Đại nghĩa là mười phương, tức là đông, nam, tây, bắc, tứ vi, thượng, hạ. Trong đó, phương đông gắn liền với cái không của phương đông. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Phương nam, tây, bắc, tứ vi, thượng, hạ gắn liền với cái không của phương nam, tây, bắc, tứ vi, thượng, hạ. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là đại không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là thắng nghĩa không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Thắng nghĩa nghĩa là Niết bàn. Thắng nghĩa này gắn liền với cái không của thắng nghĩa. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là thắng nghĩa không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là hữu vi không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Hữu vi nghĩa là Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới. Trong đó, Dục giới gắn liền với cái không của Dục giới. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Sắc, Vô Sắc giới gắn liền với cái không của Sắc, Vô Sắc giới. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là hữu vi không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô vi không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Vô vi nghĩa là không sanh, không trụ, không dị, không diệt. Vô vi này gắn liền với cái không của vô vi. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô vi không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tất cánh không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Tất cảnh nghĩa là cái rốt cùng của các pháp, chẳng thể nắm bắt được. Cái rốt cùng này gắn liền với cái không rốt cùng. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tất cánh không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô tế không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Vô tế nghĩa là không có ranh giới giữa cái khởi đầu, ở giữa và sau cùng, có thể nắm bắt được, và không có cái ranh giới giữa đi và đến, có thể nắm bắt được. Vô tế này gắn liền với cái không của vô tế. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô tế không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tán không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Tán nghĩa là có buông, có bỏ, có xả, có thể nắm bắt được. Tán này gắn liền với cái không của tán. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tán không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô biến dị không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Vô biến dị nghĩa là không buông, không bỏ, không xả, có thể nắm bắt được. Cái vô biến dị này gắn liền với cái không của vô biến dị. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô biến dị không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là bản tánh không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Bản tánh nghĩa là bản tánh của tất cả pháp, hoặc tánh của pháp hữu vi, hoặc tánh của pháp vô vi, đều chẳng phải Thanh-văn làm ra, chẳng phải Độc-giác làm ra, chẳng phải Bồ-tát làm ra, chẳng phải Như Lai làm ra, cũng chẳng phải ai khác làm ra. Bản tánh này gắn liền với cái không của bản tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là bản tánh không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tự tướng không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Tự tướng nghĩa là tự tướng của tất cả pháp, như biến ngại là tự tuớng của sắc, lãnh nạp là tự tướng của thọ, thủ tượng là tự tướng của tưởng, tạo tác là tự tướng của hành, liễu biệt là tự tướng của thức; hoặc là tự tướng của pháp hữu vi, hoặc là tự tướng của pháp vô vi, cũng như vậy. Tự tướng này gắn liền với cái không của tự tướng. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tự tướng không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là cộng tướng không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Cộng tướng nghĩa là tướng chung của tất cả pháp. Như khổ là cộng tướng của pháp hữu lậu, vô thường là cộng tướng của pháp hữu vi; không, vô ngã là cộng tướng của tất cả pháp, có vô lượng cộng tướng như vậy. Cộng tướng này gắn liền với cái không của cộng tướng. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là cộng tướng không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhất thiết pháp không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nhất thiết pháp nghĩa là pháp năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, hoặc là pháp hữu sắc, vô sắc, hữu kiến, vô kiến, hữu đối, vô đối, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi. Nhất thiết pháp này gắn liền với cái không của nhất thiết pháp. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là nhất thiết pháp không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là bất khả đắc không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Bất khả đắc nghĩa là trong tất cả pháp này, chẳng thể nắm bắt được, hoặc quá khứ chẳng thể nắm bắt được, vị lai chẳng thể nắm bắt được, hiện tại chẳng thể nắm bắt được; hoặc trong quá khứ không có vị lai hiện tại, có thể nắm bắt được; hoặc trong vị lai không có quá khứ, hiện tại, có thể nắm bắt được; hoặc trong hiện tại không có quá khứ, vị lai, có thể nắm bắt được. Bất khả đắc này gắn liền với cái không của bất khả đắc. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là bất khả đắc không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô tánh không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Vô tánh nghĩa là không có một mảy may tánh có thể nắm bắt được. Vô tánh này gắn liền với cái không của vô tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô tánh không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là tự tánh không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Tự tánh nghĩa là tự tánh năng hòa hợp của các pháp. Tự tánh này gắn liền với cái không của tự tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là tự tánh không.
Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô tánh tự tánh không?
Phật dạy: Thiện Hiện! Vô tánh tự tánh nghĩa là các pháp không có tánh năng hòa hợp nhưng có tự tánh sở hòa hợp. Vô tánh tự tánh này gắn liền với cái không của vô tánh tự tánh. Vì sao? Vì chẳng phải thường, chẳng phải hoại, bản tánh là như vậy. Thiện Hiện! Đó là vô tánh tự tánh không.
Lại nữa, Thiện Hiện! Hữu tánh gắn liền với cái không của hữu tánh; vô tánh gắn liền với cái không của vô tánh; tự tánh gắn liền với cái không của tự tánh; tha tánh gắn liền với cái không của tha tánh.
Thế nào là hữu tánh gắn liền với cái không của hữu tánh? Hữu tánh nghĩa là năm uẩn. Hữu tánh này gắn liền với cái không của hữu tánh. Vì tánh sanh của năm uẩn chẳng thể nắm bắt được. Đó là hữu tánh gắn liền với cái không của hữu tánh.
Thế nào là vô tánh gắn liền với cái không của vô tánh? Vô tánh nghĩa là vô vi. Vô tánh này gắn liền với cái không của vô tánh. Đó là vô tánh gắn liền với cái không của vô tánh.
Thế nào là tự tánh gắn liền với cái không của tự tánh? Nghĩa là tự tánh của tất cả pháp đều là không. Không này chẳng phải do trí làm ra, chẳng phải do kiến làm ra, cũng chẳng phải do cái gì khác làm ra. Đó là tự tánh gắn liền với cái không của tự tánh.
Thế nào là tha tánh gắn liền với cái không của tha tánh? Nghĩa là hoặc Phật xuất thế, hoặc chẳng xuất thế, tất cả pháp, pháp trụ, pháp định, pháp tánh, pháp giới, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, chơn như, tánh bất hư vọng, tánh bất biến dị, thật tế, đều gắn liền với tha tánh nên là không. Đó là tha tánh gắn liền với cái không của tha tánh.
Thiện Hiện! Nên biết, đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là Tam-ma-địa Kiện hành, Tam-ma-địa Bảo ấn, Tam-ma-địa Sư tử du hý, Tam-ma-địa Diệu nguyệt, Tam-ma-địa Nguyệt tràng tướng, Tam-ma-địa Nhất thiết pháp dũng, Tam-ma-địa Quán đỉnh, Tam-ma-địa Pháp giới quyết định, Tam-ma-địa Quyết định tràng tướng, Tam-ma-địa Kim-cang-dụ, Tam-ma-địa Nhập pháp ấn, Tam-ma-địa Vương, Tam-ma-địa Thiện an trú, Tam-ma-địa Thiện lập định vương, Tam-ma-địa Phóng quang, Tam-ma-địa Vô vong thất, Tam-ma-địa Phóng quang vô vong thất, Tam-ma-địa Tinh tấn lực, Tam-ma-địa Trang nghiêm lực, Tam-ma-địa Đẳng dũng, Tam-ma-địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định, Tam-ma-địa Nhập nhất thiết danh tự quyết định, Tam-ma-địa Quán phương, Tam-ma-địa Tổng trì ấn, Tam-ma-địa Chư pháp đẳng thú hải ấn, Tam-ma-địa Vương ấn, Tam-ma-địa Biến phú hư không, Tam-ma-địa Kim-cang luân, Tam-ma-địa Tam luân thanh tịnh, Tam-ma-địa Vô lượng quan, Tam-ma-địa Vô trước vô chướng, Tam-ma-địa Đoạn chư pháp luân, Tam-ma-địa Khứ xả trân bửu, Tam-ma-địa Biến chiếu, Tam-ma-địa Bất thuấn, Tam-ma-địa Vô tướng trụ, Tam-ma-địa Bất tư duy, Tam-ma-địa Hàng phục tứ ma, Tam-ma-địa Vô cấu đăng, Tam-ma-địa Vô biên quang, Tam-ma-địa Phát quang, Tam-ma-địa Phổ chiếu, Tam-ma-địa Tịnh kiên định, Tam-ma-địa Sư tử phấn tấn, Tam-ma-địa Sư tử tần thân, Tam-ma-địa Sư tử khiếm khư, Tam-ma-địa Vô cấu quang, Tam-ma-địa Diệu lạc, Tam-ma-địa Điển đăng, Tam-ma-địa Vô tận, Tam-ma-địa Tối thắng tràng tướng, Tam-ma-địa Đế tướng, Tam-ma-địa Thuận minh chánh lưu, Tam-ma-địa Cụ oai quang, Tam-ma-địa Ly tận, Tam-ma-địa Bất khả động chuyển, Tam-ma-địa Tịch tịnh, Tam-ma-địa Vô hà khích, Tam-ma-địa Nhật đăng, Tam-ma-địa Tịnh nguyệt, Tam-ma-địa Tịnh nhãn, Tam-ma-địa Tịnh quang, Tam-ma-địa Nguyệt đăng, Tam-ma-địa Phát minh, Tam-ma-địa Ưng tác bất ưng tác, Tam-ma-địa Trí tướng, Tam-ma-địa Kim-cang man, Tam-ma-địa Trụ tâm, Tam-ma-địa Phổ minh, Tam-ma-địa Diệu an lập, Tam-ma-địa Bửu tích, Tam-ma-địa Diệu pháp ấn, Tam-ma-địa Nhất thiết pháp bình đẳng tánh, Tam-ma-địa Khí xả trần ái, Tam-ma-địa Pháp dũng viên mãn, Tam-ma-địa Nhập pháp đỉnh, Tam-ma-địa Bửu tánh, Tam-ma-địa Xả huyên tránh, Tam-ma-địa Phiêu tán, Tam-ma-địa Phân biệt pháp cú, Tam-ma-địa Quyết định, Tam-ma-địa Vô cấu hạnh, Tam-ma-địa Tự bình đẳng tướng, Tam-ma-địa Ly văn tự tướng, Tam-ma-địa Đoạn sở duyên, Tam-ma-địa Vô biến dị, Tam-ma-địa Vô phẩm loại, Tam-ma-địa Nhập danh tướng, Tam-ma-địa Vô sở tác, Tam-ma-địa Nhập quyết định danh, Tam-ma-địa Vô tướng hạnh, Tam-ma-địa Ly ế ám, Tam-ma-địa Cụ hành, Tam-ma-địa Bất biến động, Tam-ma-địa Độ cảnh giới, Tam-ma-địa Tập nhất thiết công đức, Tam-ma-địa Vô tâm trụ, Tam-ma-địa Quyết định trụ, Tam-ma-địa Tịnh diệu hoa, Tam-ma-địa Cụ giác chi, Tam-ma-địa Vô biên biện, Tam-ma-địa Vô biên đăng, Tam-ma-địa Vô đẳng đẳng, Tam-ma-địa Siêu nhất thiết pháp, Tam-ma-địa Quyết phán chư pháp, Tam-ma-địa Tản nghi, Tam-ma-địa Vô sở trụ, Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm, Tam-ma-địa Dẫn phát hành tướng, Tam-ma-địa Nhất hành tướng, Tam-ma-địa Ly chư hành tướng, Tam-ma-địa Diệu hạnh, Tam-ma-địa Đạt chư hữu để viễn ly, Tam-ma-địa Nhập nhất thiết thi thiết ngữ ngôn, Tam-ma-địa Kiên cố bảo, Tam-ma-địa Ư nhất thiết pháp vô sở thủ trước, Tam-ma-địa Điển diệm trang nghiêm, Tam-ma-địa Trừ khiển, Tam-ma-địa Vô thắng, Tam-ma-địa Pháp cự, Tam-ma-địa Tuệ đăng, Tam-ma-địa Thú hướng bất thối chuyển thần thông, Tam-ma-địa Giải thoát âm thanh văn tự, Tam-ma-địa Cự sí nhiên, Tam-ma-địa Nghiêm tịnh tướng, Tam-ma-địa Vô tướng, Tam-ma-địa Vô trược nhẫn tướng, Tam-ma-địa Cụ nhất thiết diệu tướng, Tam-ma-địa Cụ tổng trì, Tam-ma-địa Bất hỷ nhất thiết khổ lạc, Tam-ma-địa Vô tận hành tướng, Tam-ma-địa Nhiếp phục nhất thiết chánh tà tánh, Tam-ma-địa Đoạn tắng ái, Tam-ma-địa Ly vi thuận, Tam-ma-địa Vô cấu minh, Tam-ma-địa Cực kiên cố, Tam-ma-địa Mãn nguyệt tịnh quang, Tam-ma-địa Đại trang nghiêm, Tam-ma-địa Vô nhiệt điển quang, Tam-ma-địa Năng chiếu nhất thiết thế gian, Tam-ma-địa Năng cứu nhất thiết thế gian, Tam-ma-địa Định bình đẳng tánh, Tam-ma-địa Vô trần hữu trần bình đẳng lý thú, Tam-ma-địa Vô tránh hữu tránh bình đẳng lý thú, Tam-ma-địa Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc, Tam-ma-địa Quyết định an trụ chơn như, Tam-ma-địa Khí trung dũng xuất, Tam-ma-địa Thiêu chư phiền não, Tam-ma-địa Đại trí tuệ cự, Tam-ma-địa Xuất sanh thập lực, Tam-ma-địa Khai xiển, Tam-ma-địa Hoại thân ác hạnh, Tam-ma-địa Hoại ngữ ác hạnh, Tam-ma-địa Hoại ý ác hạnh, Tam-ma-địa Thiện quán sát, Tam-ma-địa Như hư không, Tam-ma-địa Vô nhiễm trước như hư không. Có vô lượng trăm ngàn Tam-ma-địa như vậy, là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Kiện hành?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, mà có khả năng thọ tất cả cảnh giới Tam-ma-địa, có khả năng thực hành vô biên kiện hành thù thắng, có khả năng dẫn đầu tất cả đẳng trì, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Kiện hành.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bảo ấn?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng thấu triệt tất cả cảnh giới Tam-ma-địa và quyết định hành tướng việc làm, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Bảo ấn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Sư tử du hý?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, du hý tự tại, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Sư tử du hý.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Diệu nguyệt?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, như mặt trăng tròn đầy trong sáng chiếu khắp các định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Diệu nguyệt.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nguyệt tràng tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng chấp trì hết tất cả tướng định, như mặt trăng tròn đầy trong sáng tỏa xuống luồng ánh sáng vi diệu, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nguyệt tràng tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhất thiết pháp dũng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng xuất hết các Tam-ma-địa, như suối, ao lớn phun ra các dòng nước, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhất thiết pháp dũng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quán đỉnh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng quán đến điểm cao nhất của tất cả Tam-ma-địa, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Quán đỉnh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Pháp giới quyết định?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, quyết định chiếu rõ tất cả pháp giới, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Pháp giới quyết định.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết định tràng tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng quyết định duy trì vững chắc các định tràng tướng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Quyết định tràng tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Kim-cang-dụ?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng làm chủ các định, chẳng bị các định kia lôi cuốn, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Kim-cang-dụ.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập pháp ấn?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng chứng nhập hết tất cả pháp ấn, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhập pháp ấn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa vương Tam-ma-địa?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, thống nhiếp các định tự tại như vua, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa vương Tam-ma-địa.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Thiện an trú?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khéo duy trì các công đức, chẳng khiến khuynh động, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Thiện an trú.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Thiện lập định vương?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các định vương, có khả năng khéo kiến lập, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Thiện lập định vương.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phóng quang?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với ánh sáng của các định, có khả năng khai phát hết, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Phóng quang.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô vong thất?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với hành tướng của cảnh giới các đẳng trì, có khả năng ghi nhớ không sót cảnh nào, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô vong thất.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phóng quang vô vong thất?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, phóng ánh sáng định thù thắng, chiếu các loại hữu tình, khiến họ nhớ lại những việc đã qua, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Phóng quang vô vong thất.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tinh tấn lực?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng phát ra sức mạnh tinh tấn của các định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tinh tấn lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Trang nghiêm lực?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng dẫn phát sức mạnh trang nghiêm của các định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Trang nghiêm lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đẳng dũng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến cho các đẳng trì bình đẳng hiện ra, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Đẳng dũng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với khắp tất cả ngôn từ quyết định đều có khả năng ngộ nhập, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập nhất thiết danh tự quyết định?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với khắp tất cả danh tự quyết định đều có khả năng ngộ nhập, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhập nhất thiết danh tự quyết định.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quán phương?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với hướng đến của các định, có khả năng quán chiếu khắp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Quán phương.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tổng trì ấn?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng giữ gìn hết ấn tượng của các diệu định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tổng trì ấn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Chư pháp đẳng thú hải ấn?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến cho các định thù thắng đều thu nhập, như đại hải ấn, nhiếp thọ các dòng sông, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Chư pháp đẳng thú hải ấn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vương ấn?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến các sự nghiệp đều được quyết định, như được ấn của vua, điều mong muốn đều thành tựu, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vương ấn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Biến phú hư không?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, có khả năng bảo hộ che chở, không có chỗ trống, như hư không rộng lớn, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Biến phú hư không.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Kim-cang luân?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng giữ gìn hết tất cả định thù thắng, khiến chẳng tan hoại, như bánh xe Kim-cang, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Kim-cang luân.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tam luân thanh tịnh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng chấp trước các định, người nhập định và cảnh định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tam luân thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô lượng quang?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, phóng các thứ ánh sáng, vựot qua các số lượng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô lượng quang.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa vô trước vô chướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp, không chấp không ngại, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa vô trước vô chướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đoạn chư pháp luân?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng cắt đứt tất cả các pháp lưu chuyển, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Đoạn chư pháp luân.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Khí xả trân bảo?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với tướng của các định đều xả bỏ, huống là chẳng xả bỏ tướng của các phiền não, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Khí xả trân bảo.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Biến chiếu?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chiếu khắp các định, khiến ánh sáng các định ấy hiện rõ, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Biến chiếu.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bất thuấn?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với đẳng trì này, tâm ý chuyên nhất, với các định khác, pháp khác, không thủ, không cầu, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Bất thuấn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tướng trụ?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng thấy các pháp định có mảy may tướng có thể an trụ, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô tướng trụ.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bất tư duy?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng khởi tất cả tâm và tâm sở, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Bất tư duy.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Hàng phục tứ ma?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với bốn thứ ma oán, đều có khả năng hàng phục, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Hàng phục tứ ma.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô cấu đăng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, như cầm đèn tịnh chiếu rõ các định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô cấu đăng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô biên quang?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng phát ánh sáng lớn chiếu sáng vô cùng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô biên quang.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phát quang?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chiếu các đẳng trì, khiến không gián đoạn, dẫn phát các thứ ánh sáng thù thắng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Phát quang.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phổ chiếu?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các môn định đều có khả năng chiếu khắp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Phổ chiếu.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh kiên định?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chứng đắc tánh thanh tịnh bình đẳng của các đẳng trì, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tịnh kiên định.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Sư tử phấn tấn?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các cấu uế, dù tùy ý xả bỏ, như sư tử chúa hùng dũng tiến tới, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Sư tử phấn tấn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Sư tử tần thân?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, phát khởi thần thông thù thắng, tự tại vô úy, hàng phục tất cả ma quân bạo ác, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Sư tử tần thân.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Sư tử khiếm khư?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, dẫn phát biện tài khéo léo, ở chỗ đông không sợ sệt, phá dẹp tất cả tà tông ngoại đạo, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Sư tử khiếm khư.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô cấu quang?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng dứt trừ tất cả cấu uế của định, cũng có khả năng chiếu khắp các đẳng trì thù thắng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô cấu quang.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Diệu lạc?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, lãnh thọ niềm vui nhiệm màu của tất cả đẳng trì, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Diệu lạc.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Điển đăng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chiếu các đẳng trì như ánh sáng điện chớp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Điển đăng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tận?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, dẫn phát khởi công đức vô tận của các đẳng trì mà chẳng thấy tướng tận, chẳng tận của nó, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô tận.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tối thắng tràng tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, vượt lên trên tướng các định, như cờ tối thắng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tối thắng tràng tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đế tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, chứng đắc tướng tự tại, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Đế tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Thuận minh chánh lưu?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với dòng định tưởng sáng suốt, chơn chánh, hoàn toàn tùy thuận, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Thuận minh chánh lưu.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ oai quang?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, riêng nó oai quang tràn đầy, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Cụ oai quang.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly tận?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì, tất cả đều vô tận, mà chẳng thấy tướng của một mảy may pháp nào có tận hoặc chẳng tận, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Ly tận.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bất khả động chuyển?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến các đẳng trì không động, không trước, không thối chuyển, không hý luận, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Bất khả động chuyển.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịch tịnh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, đều thấy tịch tịnh, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tịch tịnh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô hà khích?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến các đẳng trì, quán chiếu không kẻ hỡ, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô hà khích.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhật đăng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các môn định, phát ra ánh sáng chiếu khắp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhật đăng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh nguyệt?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, phá tan bóng tối như mặt trăng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tịnh nguyệt.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh nhãn?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng khiến cho năm loại mắt đều được thanh tịnh, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tịnh nhãn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh quang?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, được bốn vô ngại, cũng khiến các định ấy đều có thể phát khởi, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tịnh quang.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nguyệt đăng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, diệt trừ sự ngu si tăm tối của các hữu tình như mặt trăng chiếu sáng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nguyệt đăng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phát minh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến các môn định phát ánh sáng chiếu khắp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Phát minh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ưng tác bất ưng tác?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, biết tất cả đẳng trì, nên thực hiện, chẳng nên thực hiện, cũng khiến các định thành tựu như việc này, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Ưng tác bất ưng tác.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Trí tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, thấy tướng sở hữu của các đẳng trì, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Trí tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Kim-cang man?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, thông đạt tất cả đẳng trì và pháp, đối với định và pháp, đều không có sở kiến, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Kim-cang man.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Trụ tâm?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, tâm chẳng lay động, chẳng chuyển, chẳng chiếu, cũng chẳng thiếu sót, chẳng nghĩ có tâm, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Trụ tâm.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phổ minh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với ánh sáng các định, có khả năng chiếu khắp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Phổ minh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Diệu an lập?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, có khả năng an lập mầu nhiệm, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Diệu an lập.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bảo tích?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì đều như khối báu, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Bảo tích.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Diệu pháp ấn?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, in đậm các đẳng trì, vì dùng cái vô ấn mà in, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Diệu pháp ấn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhất thiết pháp bình đẳng tánh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, không thấy có pháp lìa tánh bình đẳng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhất thiết pháp bình đẳng tánh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Khí xả trần ái?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các pháp định, xả bỏ trần ái, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Khí xả trần ái.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Pháp dũng viên mãn?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến các pháp Phật hiện ra tròn đầy, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Pháp dũng viên mãn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập pháp đảnh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng diệt trừ vĩnh viễn tất cả pháp tối tăm, cũng vượt lên các định mà đứng đầu, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhập pháp đảnh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bảo tánh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng phát ra vô biên sự quí báu của đại công đức, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Bảo tánh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Xả huyên tránh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, xả bỏ các thứ tranh cải huyên náo trong thế gian, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Xả huyên tránh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phiêu tán?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, làm tiêu tan tất cả pháp chấp về đẳng trì, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Phiêu tán.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Phân biệt pháp cú?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng khéo léo phân biệt pháp cú của các định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Phân biệt pháp cú.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết định?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với pháp đẳng trì đều được quyết định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Quyết định.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô cấu hạnh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng phát ra vô biên hạnh thanh tịnh thù thắng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô cấu hạnh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tự bình đẳng tướng? Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chứng đắc tướng bình đẳng các danh tự đẳng trì, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tự bình đẳng tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly văn tự tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, chẳng thủ đắc một chữ, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Ly văn tự tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đoạn sở duyên?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, dứt hết cảnh tướng sở duyên của các đẳng trì, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Đoạn sở duyên.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô biến dị?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng thấy có tướng biến dị của các pháp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô biến dị.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô phẩm loại?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng thấy tướng phẩm loại sai khác của các pháp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô phẩm loại.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập danh tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, ngộ nhập thật tế danh tướng của các pháp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhập danh tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô sở tác?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, tất cả việc làm đều dừng nghỉ, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô sở tác.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập quyết định danh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, ngộ nhập danh tự quyết định của các pháp đều không có sở hữu, chỉ giả bày ra, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhập quyết định danh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tướng hành?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với tướng các định đều không có sở đắc, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô tướng hành.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly ế ám?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú trong Tam-ma-địa này, sự che khuất của các định đều trừ hết, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Ly ế ám.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ hành?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, ở trong việc hành định, tuy thấy mà chẳng thấy, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Cụ hành.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bất biến động?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú trong Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, chẳng thấy biến động, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Bất biến động.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Độ cảnh giới?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, vượt lên cảnh giới sở duyên của các đẳng trì, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Độ cảnh giới.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tập nhất thiết công đức?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng tập hợp công đức có được của các định, đối với tất cả pháp không có ý tưởng tập hợp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tập nhất thiết công đức.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tâm trụ?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các định, tâm không chuyển, không đọa, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô tâm trụ.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết định trụ?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các định, tâm tuy quyết định an trụ, nhưng biết rõ ràng tướng của nó chẳng thể nắm bắt được, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Quyết định trụ.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tịnh diệu hoa?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến các đẳng trì đều được thanh tịnh, trang nghiêm sáng rõ giống như hoa quí, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tịnh diệu hoa.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ giác chi?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến tất cả định, đối với bảy chi giác ngộ, mau được viên mãn, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Cụ giác chi.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô biên biện?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, ở trong các pháp, được biện tài vô biên, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô biên biện.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô biên đăng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp, đều có khả năng chiếu rõ, giống như cây đèn sáng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô biên đăng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô đẳng đẳng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến các đẳng trì, đạt được bậc cao nhất, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô đẳng đẳng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Siêu nhất thiết pháp?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với pháp ba cõi, đều khả năng siêu vượt, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Siêu nhất thiết pháp.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết phán chư pháp?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, thấy các thắng định và tất cả pháp, vì các hữu tình, phân biệt rõ ràng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Quyết phán chư pháp.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tán nghi?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì và tất cả pháp, có nhiều nghi ngờ, đều có thể dẹp tan, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tán nghi.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô sở trụ?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng thấy các pháp có chỗ an trụ, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô sở trụ.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng thấy các pháp có hai tướng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhất tướng trang nghiêm.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Dẫn phát hành tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì và tất cả pháp, tuy có khả năng dẫn phát các thứ hành tướng, nhưng hoàn toàn chẳng thấy cái khả năng dẫn phát, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Dẫn phát hành tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhất hành tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì không có hai hành tướng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhất hành tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly chư hành tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì hoàn toàn không có hành tướng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Ly chư hành tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Diệu hành?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến các đẳng trì, tuy khởi các thứ hạnh thù thắng vi diệu nhưng không có sự chấp trước, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Diệu hạnh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đạt chư hữu để viễn ly?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì và tất cả pháp, chứng đắc trí thông đạt, đắc trí này rồi, đối với các pháp hữu, thông đạt, viễn ly, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Đạt chư hữu để viễn ly.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhập nhất thiết thi thiết ngữ ngôn?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, ngộ nhập tất cả pháp Tam-ma-địa, mượn lời nói trình bày, mà không có sự ỷ thị, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhập nhất thiết thi thiết ngữ ngôn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Kiên cố bảo?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng dẫn phát vô biên điều quí báu của công đức thù thắng, vi diệu, không thối chuyển, không tan hoại, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Kiên cố bảo.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ư nhất thiết pháp vô sở thủ trước?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, ở trong các pháp không có sự thủ trước, vì tất cả pháp lìa tánh tướng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Ư nhất thiết pháp vô sở thủ trước.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Điển diệm trang nghiêm?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, phát ra các thứ ánh sáng chiếu các chỗ tối tăm, lại dùng vô lượng công đức trang nghiêm, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Điển diệm trang nghiêm.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Trừ khiển?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, diệt trừ vô biên phiền não, tập khí, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Trừ khiển.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Pháp cự?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chiếu rõ tự tướng, cộng tướng của các pháp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Pháp cự.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Tuệ đăng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chiếu rõ lý không, vô ngã của các pháp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Tuệ đăng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Thú hướng bất thối chuyển thần thông?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng dẫn phát vô lượng thần thông tối thắng, khó hàng phục, chẳng thối chuyển, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Thú hướng bất thối chuyển thần thông.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Giải thoát âm thanh văn tự?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, thấy các đẳng trì giải thoát tất cả cái tướng âm thanh, văn tự, tịch diệt, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Giải thoát âm thanh văn tự.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cự xí nhiên?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, chỉ có oai đức của nó là rất lớn, chiếu rõ các định, giống như ngọn đuốc bừng cháy, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Cự xí nhiên.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nghiêm tịnh tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, làm cho tướng của chúng được trang nghiêm, thanh tịnh, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nghiêm tịnh tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì chẳng thấy tướng của chúng, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô trược nhẫn tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với tất cả pháp, đạt được cái nhẫn vô trược, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô trược nhẫn tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ nhất thiết diệu tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, diệu tướng các định đều đầy đủ, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Cụ nhất thiết diệu tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cụ tổng trì?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng giữ gìn hết sự thù thắng của các định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Cụ tổng trì.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Bất hỷ nhất thiết khổ lạc?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với tướng khổ vui của các đẳng trì, chẳng thích quán sát, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Bất hỷ nhất thiết khổ lạc.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tận hành tướng?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng thấy có sự chấm dứt của hành tướng các định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô tận hành tướng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Nhiếp phục nhất thiết chánh tà tánh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với tánh chánh, tánh tà các đẳng trì, nhiếp phục các kiến chấp, đều khiến chẳng khởi, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Nhiếp phục nhất thiết chánh tà tánh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đoạn tắng ái?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng thấy tướng ghét, tướng ưa của các pháp định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Đoạn tắng ái.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Ly vi thuận?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng thấy có tướng thuận, tướng nghịch của các pháp định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Ly vi thuận.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô cấu minh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì, hoặc rõ, hoặc mờ, đều chẳng thấy, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô cấu minh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Cực kiên cố?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến các đẳng trì đều được kiên cố, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Cực kiên cố.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Mãn nguyệt tịnh quang?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến công đức của các đẳng trì đầy đủ, như mặt trăng trong sáng, tròn đầy làm nước các biển dâng lên, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Mãn nguyệt tịnh quang.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đại trang nghiêm?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến các đẳng trì thành tựu các sự trang nghiêm lớn, hy hữu, vi diệu, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Đại trang nghiêm.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô nhiệt điển quang?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, phóng ánh sáng trong mát, chiếu các loại hữu tình, khiến dứt tất cả tối tăm, độc hại, nóng bức, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô nhiệt điển quang.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Năng chiếu nhất thiết thế gian?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chiếu các đẳng trì và các pháp, khiến cho các loại hữu tình đều được hiểu rõ, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Năng chiếu nhất thiết thế gian.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Năng cứu nhất thiết thế gian?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, có khả năng cứu độ các thứ lo sầu, khổ não của thế gian, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Năng cứu nhất thiết thế gian.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Định bình đẳng tánh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng thấy sự sai biệt giữa định và tán của các đẳng trì, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Định bình đẳng tánh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô trần hữu trần bình đẳng lý thú?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, liễu đạt tính chất bình đẳng hữu trần, vô trần của các định và tất cả pháp, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô trần hữu trần bình đẳng lý thú.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô tránh hữu tránh bình đẳng lý thú?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, chẳng thấy sự sai biệt giữa tánh và tướng hữu tránh, vô tránh của các pháp và tất cả định, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô tránh hữu tránh bình đẳng lý thú.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, phá các sào huyệt, bỏ các cờ lịnh, đoạn các ái lạc mà không chấp trước, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô sào huyệt vô tiêu xí vô ái lạc.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Quyết định an trụ chơn như?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các đẳng trì và tất cả pháp, thường chẳng xả bỏ thật tướng chơn như, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Quyết định an trụ chơn như.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Khí trung dũng xuất?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến các đẳng trì xuất sanh công đức, như do phước lực trời mà thức ăn trong bát hiện ra, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Khí trung dũng xuất.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Thiêu chư phiền não?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đốt cháy các phiền não chẳng sót tí nào, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Thiêu chư phiền não.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Đại trí tuệ cự?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, phát ánh sáng trí tuệ soi thấu tất cả, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Đại trí tuệ cự.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Xuất sanh thập lực?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, khiến mười lực Phật mau được viên mãn, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Xuất sanh thập lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Khai xiển?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, thường vì hữu tình, khai xiển pháp yếu, khiến mau giải thoát đại khổ sanh tử, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Khai xiển.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Hoại thân ác hạnh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, tuy chẳng thấy có thân nhưng mà dứt ác hạnh của thân, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Hoại thân ác hạnh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Hoại ngữ ác hạnh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, tuy chẳng thấy có tiếng mà dứt ác hạnh của lời nói, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Hoại ngữ ác hạnh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Hoại ý ác hạnh?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, tuy chẳng thấy có tâm mà dứt ý ác hạnh của ý, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Hoại ý ác hạnh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Thiện quán sát?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các hữu tình có khả năng khéo quán sát và hiểu rõ căn tánh để mà độ thoát, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Thiện quán sát.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Như hư không?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, đối với các hữu tình có khả năng nhiêu ích khắp cả mà tâm bình đẳng như hư không rộng lớn, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Như hư không.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Tam-ma-địa Vô nhiễm trước như hư không?
Thiện Hiện! Nếu khi an trú Tam-ma-địa này, quán tất cả pháp đều không có sở hữu, giống như hư không, không nhiễm, không đắm, thì như vậy gọi là Tam-ma-địa Vô nhiễm trước như hư không.
Thiện Hiện! Có vô lượng trăm ngàn Tam-ma-địa như vậy, nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là bốn niệm trụ. Những gì là bốn? Đó là thân niệm trụ, thọ niệm trụ, tâm niệm trụ, pháp niệm trụ.
Thiện Hiện! Thân niệm trụ là khi đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với nội thân, trụ quán khắp thân, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu thế gian. Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với ngoại thân, trụ quán khắp thân, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh trí, vì muốn điều phục tham ưu thế gian. Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với nội ngoại thân, trụ quán khắp thân, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu thế gian. Thiện Hiện! Đó là thân niệm trụ của đại Bồ-tát.
Thiện Hiện! Thọ niệm an trụ là các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với nội thọ, trụ quán khắp thọ, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về thọ, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với ngoại thọ, trụ quán khắp thọ, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về thọ, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với nội ngoại thọ, trụ quán khắp thọ, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về thọ, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Thiện Hiện! Đó là thọ niệm trụ của đại Bồ-tát.
Thiện Hiện! Tâm niệm trụ là các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với nội tâm, trụ quán khắp tâm, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về tâm, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với ngoại tâm, trụ quán khắp tâm, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về tâm, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với nội ngoại tâm, trụ quán khắp tâm, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về tâm, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Thiện Hiện! Đó là tâm niệm trụ của đại Bồ-tát.
Thiện Hiện! Pháp niệm trụ là các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với nội pháp, trụ quán khắp pháp, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về pháp, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với ngoại pháp, trụ quán khắp pháp, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về pháp, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tuy đối với nội ngoại pháp, trụ quán khắp pháp, nhưng rốt ráo chẳng khởi tầm tư về pháp, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian. Thiện Hiện! Đó là pháp niệm trụ của đại Bồ-tát.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội ngoại của thân, thọ, tâm, pháp, trụ quán khắp thân, thọ, tâm, pháp, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, khi đi biết là đi, khi đứng biết là đứng, khi ngồi biết là ngồi, khi nằm biết là nằm, cứ như thế, như thế, sự sai khác về oai nghi của tự thân như thế nào, biết chính xác, đầy đủ, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, biết chính xác qua lại, biết chính xác nhìn ngắm, biết chính xác cúi ngước, biết chính xác co duỗi, mặc Tăng-già-lê, cầm nắm y bát, ăn uống, nằm nghỉ, kinh hành, ngồi, đứng lên, đón tiếp, thức ngủ, nói im, vào ra các định đều nhớ biết chính xác, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, khi thở vào thì biết như thật là thở vào, khi thở ra thì biết như thật là thở ra; khi thở vào dài thì biết như thật là thở vào dài, khi thở ra dài thì biết như thật là thở ra dài; khi thở vào ngắn thì biết như thật là thở vào ngắn, khi thở ra ngắn thì biết như thật là thở ra ngắn. Như thợ bánh xe hoặc học trò của y, khi sức bánh xe quay nhiều vòng thì biết như thật là sức bánh xe quay nhiều vòng, khi sức bánh xe quay ít vòng thì biết như thật là sức bánh xe quay ít vòng. Các đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, thở vào thở ra, hoặc dài hoặc ngắn, đều biết như thật, cũng lại như vậy, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, nghĩ biết như thật bốn giới sai biệt, đó là địa giới, thủy, hỏa, phong giới. Như người đồ tể giỏi hoặc học trò của y, giết chết trâu rồi, lại dùng dao bén, cắt xẻ thân trâu, chia làm bốn phần, hoặc ngồi hoặc đứng, quán biết như thật. Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, nghĩ biết như thật sự sai biệt của bốn giới địa, thủy, hỏa, phong, cũng lại như vậy, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, nghĩ biết như thật, từ chân đến đầu, đầy dẫy các loại bất tịnh trong đó, ngoài là lớp da mỏng bao bọc, đó là tóc, lông, móng, răng, da, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, tim, gan, tỳ, thận, phổi, mật, dạ dày, ruột già, ruột non, phân, nước tiểu, nước miếng, nước mũi, nước dãi, nước mắt, cấu bẩn, mồ hôi, đàm, mủ, mỡ lá, màng óc, ghèn, cứt ráy, những loại bất tịnh như vậy đầy dẫy trong thân, như trong kho của nông phu hoặc các trưởng giả, chứa đầy các thứ tạp cốc, đó là nếp, mè, lúa tẻ, đậu, lúa mì v.v… Có người sáng mắt mở kho thấy hết, liền biết như thật, trong đó chỉ có các thứ tạp cốc, nếp, mè, lúa tẻ v.v… Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán kỹ tự thân, nghĩ biết như thật, từ chân đến đầu, chỉ có các thứ bất tịnh hôi thối đầy dẫy trong đó, cũng lại như vậy, kẻ trí nào lại quý mến thân này, chỉ có phàm phu mới mê lầm đắm trước, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng, quán tử thi vứt bỏ, tử thi trải qua một ngày, hay trải qua hai ngày, cho đến bảy ngày, tử thi ấy phình trướng, biến thành màu xanh bầm thối rữa, da thủng, mủ máu chảy ra, thấy sự ấy rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, có đầy đủ hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng như vậy; kẻ trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê lầm đắm trước, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, tử thi trải qua một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, bị các loài cầm thú như chim điêu, thứu, quạ, bồ cắt, xi, kiêu, hổ, báo, chồn, sói, dã can, chó v.v… hoặc mổ hoặc bấu, xương thịt rơi rã, cắn rứt mổ ăn; thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ các hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng như vậy, kẻ trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê lầm đắm trước, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, cầm thú ăn rồi, tử thi tan rã nhầy nhụa gớm ghiết, mủ máu tràn lan, có vô lượng trùng dòi nhúc hôi thối ghê tởm hơn là chó chết, thấy việc ấy rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ các hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê lầm chấp trước, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, trùng dòi ăn rồi, thịt rã xương lòi, lóng đốt liền nhau, gân ràng máu dính, chỉ còn thịt thối rữa; thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê lầm chấp trước, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, còn bộ xương, máu thịt đều hết, chỉ còn gân gắn liền; thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ những hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê lầm chấp trước, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, chỉ còn sót lại ít xương, màu xương trắng hếu như ốc tuyết kha, các gân tan nát, lóng đốt rời rả; thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê lầm chấp trước, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, đã thành xương trắng, lóng đốt phân tán, vung vải khắp nơi, đó là xương bàn chân, xương ống chân, xương đầu gối, xương đùi vế, xương bàn tọa, xương sống, xương sườn, xương ngực, xương bắp tay, xương cánh tay, xương bàn tay, xương cổ sau, xương cằm, xương má, xương đầu, mỗi xương nằm riêng một chỗ; thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng như thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê lầm tham trước, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, hài cốt ngổn ngang, gió thổi nắng đốt, mưa chan, sương phủ, trải nhiều năm tháng, màu như tuyết kha; thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng như thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê lầm chấp trước, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đến nơi hoang vắng quán tử thi vứt bỏ, xương còn vung vãi trên đất, trải nhiều trăm năm, hoặc nhiều ngàn năm, xương biến thành màu xanh, giống như màu chim cáp, hoặc có xương mục nát bủn như bụi, hòa lẫn trong đất, chẳng thể phân biệt; thấy việc này rồi, tự nghĩ thân mình có tính chất như vậy, đầy đủ hiện tượng như vậy, chưa được giải thoát, chung quy cũng thế, người trí nào lại quý mến thân này, chỉ có kẻ ngu si mới mê lầm chấp trước, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian.
Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với sự sai biệt của nội thân như vậy, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian, đối với ngoại thân, trụ quán khắp thân, đối với nội ngoại thân, trụ quán khắp thân, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian, tùy theo sở thích, cũng lại như vậy.
Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội ngoại của cả thọ, tâm, pháp, trụ quán khắp thọ, tâm, pháp, mạnh mẽ tinh tấn, đầy đủ niệm chánh tri, vì muốn điều phục tham ưu của thế gian, tùy theo sở thích, nói rộng như trên.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát như vậy, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với nội ngoại thân cùng đồng thọ, tâm, pháp, khi trụ khắp thân thọ, tâm, pháp, tuy quán như vậy mà không có sở đắc. Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là bốn chánh đoạn. Những gì là bốn?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với các pháp ác bất thiện chưa sanh thì đừng cho sanh, nên sanh ý muốn thúc đẩy phát khởi sự siêng năng chân chính, thúc giục tâm giữ tâm, đó là chánh đoạn thứ nhất.
Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với các pháp ác bất thiện đã sanh, thì làm cho đoạn trừ vĩnh viễn, nên sanh ý muốn thúc đẩy phát khởi sự siêng năng chân chính, thúc giục tâm giữ tâm, đó là chánh đoạn thứ hai.
Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thiện pháp chưa sanh thì khiến cho phát sanh, nên sanh ý muốn thúc đẩy phát khởi sự siêng năng chân chính, thúc giục tâm giữ tâm, đó là chánh đoạn thứ ba.
Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thiện pháp đã sanh thì khiến cho an trụ, chẳng quên tăng trưởng mở rộng, bội tu viên mãn, nên sanh ý muốn thúc đẩy phát khởi sự siêng năng chân chính, thúc giục tâm giữ tâm, đó là chánh đoạn thứ tư.
Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là bốn thần túc. Những gì là bốn?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu thần túc Dục Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu thì nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xả, đó là thần túc thứ nhất.
Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu thần túc Cần Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu, thì nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xả, đó là thần túc thứ hai.
Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu thần túc Tâm Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu, thì nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xả, đó là thần túc thứ ba.
Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu thần túc Quán Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu, thì nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng rồi xả, đó là thần túc thứ tư.
Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là năm căn. Những gì là năm?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì đối tượng tu hành là tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là năm lực. Những gì là năm?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì đối tượng tu hành là tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là bảy chi đẳng giác. Những gì là bảy?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì đối tượng tu hành là niệm đẳng giác, trạch pháp đẳng giác, tinh tấn đẳng giác, hỷ đẳng giác, khinh an đẳng giác, định đẳng giác, xả đẳng giác, nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xả.
Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là tám chi thánh đạo. Những gì là tám?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì đối tượng tu hành là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, nương vào ly, nương vào vô nhiễm, nương vào diệt, hồi hướng xả.
Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là ba Tam-ma-địa. Những gì là ba?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, quán tự tướng của tất cả pháp đều là không, tâm được an trụ, thì gọi là pháp môn giải thoát không, cũng gọi là Tam-ma-địa không, đó là Tam-ma-địa thứ nhất.
Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì quán tự tướng của tất cả pháp là không, nên đều không có tướng, tâm được an trụ, thì gọi là pháp môn giải thoát vô tướng, cũng gọi là Tam-ma-địa vô tướng, đó là Tam-ma-địa thứ hai.
Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì quán tự tướng của tất cả pháp là không, nên đều không có sở nguyện, tâm được an trụ, thì gọi là pháp môn giải thoát vô nguyện, cũng gọi là Tam-ma-địa vô nguyện, đó là Tam-ma-địa thứ ba.
Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là pháp trí, loại trí, thế tục trí, tha tâm trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sanh trí, như thật trí, đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp trí?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết sự chuyển biến tướng sai biệt của năm uẩn v.v… thì đó là pháp trí.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là loại trí?
Thiện Hiện! Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết uẩn giới, xứ và các duyên khởi, hoặc tổng, hoặc biệt là vô thường v.v… thì đó là loại trí.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là thế tục trí?
Thiện Hiện! Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tất cả pháp là danh tự giả thiết, thì đó là thế tục trí.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tha tâm trí?
Thiện Hiện! Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tâm, tâm sở pháp của hữu tình và tu hành chứng diệt, thì đó là tha tâm trí.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là khổ trí?
Thiện Hiện! Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết khổ nên chẳng thọ sanh, thì đó là khổ trí.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tập trí?
Thiện Hiện! Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tập nên đoạn trừ vĩnh viễn, thì đó là tập trí.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là diệt trí?
Thiện Hiện! Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết diệt nên tác chứng, thì đó là diệt trí.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đạo trí?
Thiện Hiện! Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết đạo nên tu tập, thì đó là đạo trí.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tận trí?
Thiện Hiện! Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết tham, sân, si hết, thì đó là tận trí.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô sanh trí?
Thiện Hiện! Nếu trí lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết cõi đến của chúng sanh chẳng sanh lại, thì đó là vô sanh trí.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là như thật trí?
Thiện Hiện! Trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng của Như Lai, đó là như thật trí.
Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là ba Vô lậu căn. Những gì là ba? Đó là vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn.
Lúc bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là vị tri đương tri căn?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu các hành giả, đối với các Thánh đế, chưa được hiện quán, chưa được Thánh quả, nhưng có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, thì đó gọi là vị tri đương tri căn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là dĩ tri căn?
Thiện Hiện! Nếu các hành giả đối với các Thánh đế đã được hiện quán, đã được Thánh quả, lại có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, thì đó gọi là dĩ tri căn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là cụ tri căn?
Thiện Hiện! Các hành giả, hoặc là A-la-hán, hoặc là Độc-giác, hoặc là Bồ-tát đã trụ thập địa, hoặc là chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, thì đó gọi là cụ tri căn.
Thiện Hiện! Ba căn như vậy, nếu ai lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là ba Tam-ma-địa. Những gì là ba? Đó là Tam-ma-địa hữu tầm hữu tứ, Tam-ma-địa vô tầm duy tứ, Tam-ma-địa vô tầm vô tứ.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là Tam-ma-địa hữu tầm hữu tứ?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỷ lạc, nhập tịnh lự ban đầu và an trú trọn vẹn trong đó, thì đó là Tam-ma-địa hữu tầm hữu tứ.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô tầm duy tứ?
Thiện Hiện! Nếu là định ở giữa tịnh lự ban đầu và tịnh lự thứ hai, thì đó là Tam-ma-địa vô tầm duy tứ.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là Tam-ma-địa vô tầm vô tứ?
Thiện Hiện! Nếu là tịnh lự thứ ba cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ, thì đó là Tam-ma-địa vô tầm vô tứ.
Thiện Hiện! Với ba Tam-ma-địa như vậy, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện ấy, thì nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là mười tùy niệm. Những gì là mười? Đó là tùy niệm Phật, tùy niệm Pháp, tùy niệm Tăng, tùy niệm giới, tùy niệm xả, tùy niệm thiên, tùy niệm tịch tịnh yểm ly, tùy niệm nhập xuất tức, tùy niệm thân, tùy niệm tử.
Thiện Hiện! Với mười tùy niệm như vậy, nếu ai lấy vô sở đắc làm phương tiện ấy, thì nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát nghĩa là đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ v.v… có bao nhiêu thiện pháp, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là mười lực của Phật. Những gì là mười? Đó là xứ phi xứ trí lực, nghiệp dị thục trí lực, chủng chủng giới trí lực, chủng chủng thắng giải trí lực, căn thắng liệt trí lực, biến hành hành trí lực, tịnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực, túc trụ tùy niệm trí lực, tử sanh trí lực, lậu tận trí lực.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là xứ phi xứ trí lực?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết như thật tướng xứ phi xứ của các pháp nhân quả, thì đó là xứ phi xứ trí lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là nghiệp dị thục trí lực?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật, cái tướng của các nghiệp pháp và các thứ nhân quả phải chịu ở quá khứ, vị lai, hiện tại của các loài hữu tình, thì đó là nghiệp dị thục trí lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là chủng chủng giới trí lực?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng giới vô lượng của các loài hữu tình, thì đó là chủng chủng giới trí lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là chủng chủng thắng giải trí lực?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng thắng giải vô lượng của các loại hữu tình, thì đó là chủng chủng thắng giải trí lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là căn thắng liệt trí lực?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng căn thắng liệt của các loài hữu tình, thì đó là căn thắng liệt trí lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là biến hành hành trí lực?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng hoạt động cùng khắp của các loại hữu tình, thì đó là biến hành hành trí lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tịnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, tạp nhiễm, thanh tịnh, căn, lực, giác chi, đạo chi v.v… của các loại hữu tình, thì đó là tịnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí tạp nhiễm thanh tịnh trí lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là túc trụ tùy niệm trí lực?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng sự việc ở vô lượng vô số đời trước của các loại hữu tình, thì đó là túc trụ tùy niệm trí lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tử sanh trí lực?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật tướng vô lượng vô số việc sanh tử của các loại hữu tình, thì đó là tử sanh trí lực.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là lậu tận trí lực?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, biết rõ như thật các lậu dứt hẳn, tâm vô lậu giải thoát, tuệ vô lậu giải thoát, ở trong hiện pháp, tự tác chứng, an trú hoàn toàn, có khả năng chánh tri: Ta, sự sanh diệt dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau, thì đó là lậu tận trí lực.
Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là bốn vô sở úy. Những gì là bốn? Đó là chánh đẳng giác vô úy, lậu tận vô úy, chướng pháp vô úy, tận khổ đạo vô úy.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là chánh đẳng giác vô úy?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta là bậc Chánh Đẳng Giác, dù có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, ma, phạm hoặc kẻ thế tục nào khác, y vào pháp lập vấn nạn và nghĩ nhớ nói rằng đối với pháp ấy, chẳng phải là Chánh đẳng giác thì ta đối với sự vấn nạn kia, thấy rõ là không có lý do; vì đối với sự vấn nạn kia, thấy không có lý do, nên được an trú trong yên ổn, không sợ, không hãi; tự xưng ta ở ngôi vị Đại tiên tôn quí, ở trong đại chúng, chính thức rống lên tiếng rống sư tử, chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu, bánh xe đó thanh tịnh, chính chơn vô thượng; tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, ma, phạm, hoặc kẻ thế tục nào khác đều không ai có khả năng chuyển bánh xe pháp như vậy, thì đó là chánh đẳng giác vô úy.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là lậu tận vô úy?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, tự xưng ta đã hết hẳn các lậu, dù có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, ma, phạm, kẻ thế tục nào khác y vào pháp lập vấn nạn và nghĩ nhớ nói rằng, có lậu như vậy, chưa hết hẳn, thì ta đối với sự vấn nạn kia, thấy rõ là không có lý do; vì đối với sự vấn nạn kia, thấy không lý do, nên được trong yên ổn, không sợ, không hãi; tự xưng ta ở ngôi vị Đại tiên tôn quí, ở trong đại chúng, chính thức rống lên tiếng rống sư tử, chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu, bánh xe ấy thanh tịnh, chính chơn vô thượng; tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, ma, phạm, hoặc kẻ thế tục nào khác, đều không có ai có khả năng chuyển bánh xe pháp như vậy, thì đó là lậu tận vô úy.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là chướng pháp vô úy?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì các đệ tử nói rõ pháp trở ngại đạo, dù có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, ma, phạm hoặc kẻ thế tục nào khác y pháp lập vấn nạn và nghĩ nhớ nói rằng làm theo pháp này chẳng có khả năng chướng ngại đạo; ta đối với sự vấn nạn kia, thấy rõ là không có lý do; vì đối với sự vấn nạn kia, thấy không có lý do, nên được an trú trong sự yên ổn, không sợ, không hãi, tự xưng ta ở ngôi vị Đại tiên tôn quí, ở trong đại chúng, chính thức rống lên tiếng rống sư tử, chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu, bánh xe này thanh tịnh, chính chơn vô thượng; tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, ma, phạm, hoặc kẻ thế tục nào khác đều không có ai có khả năng chuyển bánh xe pháp như vậy, thì đó là chướng pháp vô úy.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tận khổ đạo vô úy?
Thiện Hiện! Nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, vì các đệ tử nói đạo dứt hết khổ, dù có Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, ma, phạm hoặc kẻ thế tục nào khác, y vào pháp lập vấn nạn và nghĩ nhớ nói rằng tu đạo này chẳng thể dứt hết khổ. Ta đối với sự vấn nạn kia, thấy rõ là không có lý do; vì đối với sự vấn nạn kia, thấy không lý do, nên được an trú trong sự yên ổn, không sợ, không hãi; tự xưng ta ở ngôi vị Đại tiên tôn quí, ở trong đại chúng, chính thức rống lên tiếng rống sư tử, chuyển bánh xe pháp nhiệm mầu, bánh xe này thanh tịnh chánh chơn vô thượng; tất cả Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc trời, ma, phạm, hoặc kẻ thế thục nào khác đều không có khả năng chuyển bánh xe pháp như vậy, thì đó là tận khổ đạo vô úy.
Thiện Hiện! Nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là bốn sự hiểu biết thông suốt. Những gì là bốn? Đó là sự hiểu biết thông suốt về nghĩa, sự hiểu biết thông suốt về pháp, sự hiểu biết thông suốt về từ, sự hiểu biết thông suốt về biện luận.
Thiện Hiện! Với bốn sự hiểu biết thông suốt như vậy, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, năm loại mắt, sáu phép thần thông, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Thiện Hiện! Với các pháp như vậy, nếu lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là mười tám pháp Phật bất cộng. Những gì là mười tám? Đó là Ta, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, từ đêm mới chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, cho đến đêm cuối cùng, việc làm đã làm xong, nhập Vô-dư-y đại Niết-bàn, ở trong khoảng giữa, thường không lầm lẫn, không một lời vội vàng, thô bạo, không có niệm lơ đễnh, không có tâm bất định, không nghĩ mông lung, có trạch có xả, chí muốn không lùi, tinh tấn không lùi, niệm không lùi, tuệ không lùi, giải thoát không lùi, giải thoát tri kiến không lùi, tất cả thân nghiệp, trí là dẫn đầu, tùy trí mà chuyển; tất cả ngữ nghiệp, trí là dẫn đầu, tùy trí mà chuyển; tất cả ý nghiệp, trí là dẫn đầu, tùy trí mà chuyển, đối với quá khứ phát khởi trí kiến không đắm không ngại, đối với đời vị lai phát khởi trí kiến không đắm không ngại, đối với đời hiện tại phát khởi trí kiến không đắm không ngại. Thiện Hiện! Mười tám pháp Phật bất cộng như vậy, đều lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát là các pháp môn văn tự Đà-la-ni.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp môn văn tự Đà-la-ni?
Phật dạy: Thiện Hiện! Tánh bình đẳng của văn tự, tánh bình đẳng của ngôn ngữ, tánh bình đẳng của ngôn thuyết lý thú, nhập vào các pháp môn văn tự, đó là pháp môn văn tự Đà-la-ni.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhập vào các pháp môn văn tự?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, thì do nhập vào pháp môn chữ “Khả” nên ngộ tất cả pháp vốn bất sanh; do nhập vào pháp môn chữ “Lạc” nên ngộ tất cả pháp lìa cấu trần; do nhập vào pháp môn chữ “Bả” nên ngộ thắng nghĩa giáo của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ “Giả” nên ngộ tính không sanh tử của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ “Na” nên ngộ tính vô đắc thất xa lìa danh tướng của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ “Lả” nên ngộ tính xuất thế gian của tất cả pháp, nhân duyên của ái vĩnh viễn chẳng hiện; do nhập vào pháp môn chữ “Đà” nên ngộ tính điều phục, tịch tịnh, chơn như, bình đẳng, vô phân biệt của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ “Bà” nên ngộ tính lìa ràng buộc của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ “Trà” nên ngộ tính lìa nóng nảy, kiêu mạn, cấu uế của tất cả pháp, được thanh tịnh; do nhập vào pháp môn chữ “Sa” nên ngộ tính vô quái ngại của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ “Phược” nên ngộ tính ngôn âm đạo đoạn của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ “Đả” nên ngộ tính chơn như bất động của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ “Dã” nên ngộ tính như thật bất sanh của tất cả pháp; do nhập vào pháp môn chữ “Sắc tra” nên ngộ tướng chế phục nhậm trì của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Ca” nên ngộ tác giả của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Ta”, nên ngộ tánh bình đẳng về thời gian của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Ma”, nên ngộ tánh ngã và ngã sở của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Già” nên ngộ tính hành thủ của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Tha” nên ngộ tính của tất cả pháp xứ sở là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Xà” nên ngộ sự sanh khởi tính của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Thấp phược”, nên ngộ tánh an ổn của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Đạt” nên ngộ tính giới của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Xả”, nên ngộ tánh tịch tịnh của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Khư”, nên ngộ tánh như hư không của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Sạn”, nên ngộ tánh cùng tận của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Tát đả” nên ngộ tính nhậm trì xứ phi xứ khiến chẳng động chuyển của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Nhã”, nên ngộ tánh được biết rõ của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Lặc tha”, nên ngộ tánh chấp trước nghĩa của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Kha”, nên ngộ tánh nguyên nhân của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Bạc”, nên ngộ tánh có thể phá hoại của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Xước”, nên ngộ tánh che khuất của dục lạc của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Táp ma”, nên ngộ tánh có thể nhớ nghĩ của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Hạp phược”, nên ngộ tánh có thể mời gọi của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Ta”, nên ngộ tánh dõng kiện của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Kiện”, nên ngộ tánh bình đẳng rộng lớn của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Soai”, nên ngộ tánh chứa nhóm của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Nõa” nên ngộ lìa tất cả việc tranh cải ồn ào, không lại, không qua, đi, đứng, nằm, ngồi của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Phả” nên ngộ quả báo đầy đủ cùng khắp của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Tắt ca”, nên ngộ tánh tích tụ chứa nhóm của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Dật Ta”, nên ngộ tánh tướng già suy của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Chước ” nên ngộ dấu vết của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Tra”, nên ngộ tánh bức bách xua đuổi nhau của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được; do nhập vào pháp môn chữ “Trạch” nên ngộ chỗ cứu cánh của tất cả pháp là chẳng thể nắm bắt được.
Thiện Hiện! Pháp môn văn tự như vậy là có khả năng ngộ nhập đến tận cùng pháp không; trừ văn tự như vậy, còn cái biểu thị về cái không của các pháp lại chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Thiện Hiện! Ý nghĩa của văn tự như vậy chẳng thể nói ra được, chẳng thể hiển thị được, chẳng thể chấp thủ, chẳng thể ghi chép giữ gìn, chẳng thể quán sát, vì lìa các tướng.
Thiện Hiện! Giống như hư không là nơi qui thú của tất cả vật, các pháp môn văn tự này, cũng lại như vậy. Nghĩa không các pháp đều nhập vào pháp môn này mới được rõ bày.
Thiện Hiện! Nhập vào chữ “Khả” này v.v… gọi là nhập vào các pháp môn văn tự. Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với việc nhập vào các pháp môn văn tự như vậy thì đạt được trí thiện xảo, đối với sự nói năng, sự phô diễn, sự tiêu biểu của các thứ âm thanh, ngôn ngữ đều không bị trở ngại; đối với tánh bình đẳng không của tất cả pháp,có khả năng chứng đắc và duy trì hết; đối với các thứ âm thanh, ngôn ngữ đều được thông suốt.
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát có khả năng nghe và nhập vào tướng ấn, cú ấn của các pháp môn văn tự như vậy, nghe rồi thọ trì, đọc tụng rành rọt, vì người khác giảng giải, chẳng ham danh lợi thì do nhân duyên này mà đạt được hai mươi thứ công đức thù thắng. Những gì là hai mươi? Đó là được nghĩ nhớ dai, được tàm quí hơn hết, được sức kiên cố, được chỉ thú của pháp, được sự hiểu biết tăng thượng, được trí tuệ thù thắng, được biện tài vô ngại, được pháp môn tổng trì, được sự không nghi hoặc, được sự không giận hay ưa đối với lời nói nghịch thuận, được an trú trong sự bình đẳng không cao thấp, được sự thông suốt đối với âm thanh ngôn ngữ của hữu tình, được uẩn hoàn hảo, xứ hoàn hảo, giới hoàn hảo, được duyên khởi hoàn hảo, nhân hoàn hảo, duyên hoàn hảo, pháp hoàn hảo, được trí hoàn hảo phân biệt sự thắng liệt của căn, được trí hoàn hảo biết tâm người khác, được sự quán sát khéo léo về tinh tú niên lịch, được trí thiên nhĩ hoàn hảo, trí túc trụ tùy niệm hoàn hảo, trí thần cảnh hoàn hảo, trí hoàn hảo biết sống chết, được trí lậu tận hoàn hảo, được trí hoàn hảo nói về xứ phi xứ, được oai nghi hoàn hảo, qua lại trên đường.
Thiện Hiện! Đó là được hai mươi công đức thù thắng.
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đạt được pháp môn văn tự Đà-la-ni, thì nên biết đó là tướng Đại-thừa của đại Bồ-tát.
Phật bảo Thiện Hiện! Ngươi hỏi thế nào là nên biết đại Bồ-tát phát tâm hướng đến Đại-thừa ư?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, từ bậc này đến bậc khác, thì nên biết đó là đại Bồ-tát phát tâm hướng đến Đại-thừa.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát, khi tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, từ bậc này đến bậc khác?
Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát biết tất cả pháp không từ đâu đến, cũng chẳng đến đâu, vì sao? Vì tất cả pháp không đi không đến, không chỗ khởi hành, không có đích để đến, vì các pháp ấy không biến hoại, đại Bồ-tát ấy, đối với chỗ khởi hành và chỗ đến, chẳng ỷ lại, chẳng tư duy, tuy tu sửa nghiệp ở bậc của mình mà chẳng thấy bậc ấy, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ-tát, khi tu hành sáu phép Ba-la-mật-đa, từ bậc này đến bậc khác.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sử nghiệp ở bậc của mình?
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc ban đầu là Cực hỷ, nên khéo léo tu sửa mười thứ nghiệp thù thắng. Những gì là mười? Một là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp ý lạc thù thắng thanh tịnh, vì việc ý lạc thù thắng chẳng thể nắm bắt được; hai là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình, vì tất cả hữu tình chẳng thể nắm bắt được; ba là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp bố thí vì người cho, kẻ nhận và vật được cho chẳng thể nắm bắt được; bốn là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp thân cận thiện hữu, vì thiện hữu, ác hữu không có hai tướng; năm là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp cầu pháp, vì các pháp được cầu chẳng thể nắm bắt được; sáu là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp thường ưa xuất gia, vì việc xả bỏ nhà cửa chẳng thể nắm bắt được; bảy là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp mến thích thân Phật, vì các tướng tốt và vẻ đẹp kèm theo chẳng thể nắm bắt được; tám là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp khai xiển giáo pháp, vì pháp được phân biệt chẳng thể nắm bắt được; chín là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp phá trừ kiêu mạn, vì các pháp hưng thịnh chẳng thể nắm bắt được; mười là lấy vô sở đắc làm phương tiện, tu sửa nghiệp ngôn ngữ chắc thật, thường hằng vì tánh của tất cả ngôn ngữ chẳng thể nắm bắt được.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi an trú bậc ban đầu là Cực hỷ, nên khéo tu sửa mười nghiệp thù thắng như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ hai là Ly cấu, nên đối với tám pháp, tư duy, tu tập, khiến mau viên mãn. Những gì là tám? Một là cấm giới thanh tịnh, hai là tri ân báo ân, ba là trụ sức an nhẫn, bốn là thọ hoan hỷ thù thắng, năm là không bỏ hữu tình, sáu là hằng khởi đại bi, bảy là đối với các Sư trưởng đem tâm kính tin để thăm hỏi, thừa sự, cúng dường, tưởng như phụng sự Phật, tám là khuyên cầu tu tập Ba-la-mật-đa.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ hai là Ly cấu, nên đối với tám pháp như vậy, tư duy, tu tập, khiến mau viên mãn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ ba là Phát quang, nên trụ năm pháp. Những gì là năm? Một là cần cầu đa văn, thường không nhàm chán và không cho là đủ, đối với pháp đã nghe chẳng chấp trước văn tự; hai là lấy tâm vô nhiễm, thường hành pháp thí, tuy mở rộng giáo hóa mà không tự cao; ba là vì nghiêm tịnh cõi nước mà trồng các căn lành, tuy là để hồi hướng mà chẳng tự đề cao; bốn là vì giáo hóa hữu tình, tuy chẳng mệt mỏi chán nản với việc sanh tử vô biên mà chẳng tự cao; năm là tuy trụ tàm quí mà không chấp trước.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ ba là Phát quang, nên thường an trú năm pháp như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ tư là Diệm tuệ, nên trụ mười pháp thường tu chẳng bỏ. Những gì là mười? Một là ở chỗ thanh vắng, thường chẳng xa lìa, hai là thiểu dục, ba là hỷ túc, bốn là thường chẳng lìa bỏ công đức đầu đà, năm là đối với các học xứ chưa từng xả bỏ, sáu là đối với dục lạc hết sức sanh nhàm chán, xa lìa, bảy là thường ưa phát khởi tâm vắng lặng, tám là bỏ các sở hữu, chín là tâm chẳng ngưng trệ chìm đắm, mười là đối với các sở hữu không có gì luyến tiếc đoái hoài.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ tư là Diệm tuệ, nên an trú mười pháp như vậy, thường hành chẳng bỏ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ năm là Cực nan thắng, phải xa lìa mười pháp. Những gì là mười? Một là phải xa lìa nhà ở, hai là phải xa lìa Bí-sô-ni, ba là phải xa lìa nhà keo kiệt, bốn là phải xa lìa chúng hội tranh cãi, năm là phải xa lìa sự khen mình chê người, sáu là phải xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện, bảy là phải xa lìa sự tăng thượng kiêu mạn ngạo nghễ, tám là phải xa lìa sự điên đảo, chín là phải xa lìa sự do dự, mười là phải xa lìa tham, sân, si.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ năm là Cực nan thắng, phải thường xa lìa mười pháp như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ sáu là Hiện tiền, phải viên mãn sáu pháp. Những gì là sáu? Một là phải viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa, hai là phải viên mãn tịnh giới Ba-la-mật-đa, ba là phải viên mãn an nhẫn Ba-la-mật-đa, bốn là phải viên mãn tinh tấn Ba-la-mật-đa, năm là phải viên mãn tịnh lự Ba-la-mật-đa, sáu là phải viên mãn Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Lại phải xa lìa sáu pháp. Những gì là sáu? Một là phải xa lìa tâm Thanh-văn, hai là phải xa lìa tâm Độc-giác, ba là phải xa lìa tâm nhiệt não, bốn là thấy kẻ hành khất đến tâm chẳng bực bội lo lắng, năm là bỏ vật sở hữu tâm không lo buồn hối tiếc, sáu là đối với kẻ đến cầu xin, hoàn toàn chẳng kiêu ngạo dối gạt.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ sáu là Hiện tiền, phải viên mãn sáu pháp như vậy và phải xa lìa sáu pháp như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc thứ bảy là Viễn hành, phải xa lìa hai mươi pháp. Những gì là hai mươi? Một là phải xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp cái biết, chấp cái thấy, hai là phải xa lìa chấp đoạn, ba là phải xa lìa chấp thường, bốn là phải xa lìa chấp tướng, năm là phải xa lìa chấp nhơn kiến, sáu là phải xa lìa chấp danh sắc, bảy là phải xa lìa chấp uẩn, tám là phải xa lìa chấp xứ, chín là phải xa lìa chấp giới, mười là phải xa lìa chấp Thánh đế, mười một là phải xa lìa chấp duyên khởi, mười hai là phải xa lìa chấp trụ trước ba cõi, mười ba là phải xa lìa chấp tất cả pháp, mười bốn là phải xa lìa chấp như lý và chẳng như lý của tất cả pháp, mười lăm là phải xa lìa kiến chấp nương vào Phật, mười sáu là phải xa lìa kiến chấp nương vào Pháp, mười bảy là phải xa lìa kiến chấp nương vào Tăng, mười tám là phải xa lìa kiến chấp nương vào giới, mười chín là phải xa lìa sự sợ hãi pháp không, hai mươi là phải xa lìa sự trái chống tánh không. Lại phải viên mãn hai mươi pháp. Những gì là hai mươi? Một là phải viên mãn sự thông đạt cái không, hai là phải chứng đắc sự viên mãn vô tướng, ba là phải viên mãn sự hiểu biết vô nguyện, bốn là phải viên mãn ba luân thanh tịnh, năm là phải viên mãn tâm bi mẫn hữu tình và đối với hữu tình không có sự chấp trước, sáu là phải viên mãn cái thấy bình đẳng về tất cả các pháp và ở trong đó không có sự chấp trước, bảy là phải viên mãn cái thấy bình đẳng về tất cả hữu tình và ở trong đó không có sự chấp trước, tám là phải viên mãn sự thông đạt lý thú chơn thật và ở trong đó không có sự chấp trước, chín là phải viên mãn cái trí Vô-sanh-nhẫn, mười là phải viên mãn cái thuyết tất cả pháp đều qui lý nhất tướng, mười một là phải viên mãn sự diệt trừ phân biệt, mười hai là phải viên mãn sự xa lìa các tưởng, mười ba là phải viên mãn sự xa lìa các kiến chấp, mười bốn là phải viên mãn sự xa lìa phiền não, mười lăm là phải viên mãn sự Sa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na (chỉ quán), mười sáu là phải viên mãn sự điều phục tâm tánh, mười bảy là phải viên mãn sự tịch tịnh tâm tánh, mười tám là phải viên mãn tánh vô ngại trí, mười chín là phải viên mãn sự không ái nhiễm, hai mươi là phải viên mãn sự tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, tự hiện thân trong chúng hội của Phật.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ bậc thứ bảy là Viễn hành, phải xa lìa hai mươi pháp như vậy và phải viên mãn hai mươi pháp như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc thứ tám là Bất động, phải viên mãn bốn pháp. Những gì là bốn? Một là phải viên mãn sự ngộ nhập tâm hạnh của tất cả hữu tình, hai là phải viên mãn các thần thông du hý, ba là phải viên mãn cái thấy các cõi Phật, và như cái thấy ấy mà tự trang nghiêm các cõi Phật, bốn là phải viên mãn sự cúng dường, thừa sự chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như Lai, quán sát như thật.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc thứ tám là Bất động, phải viên mãn bốn pháp như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc thứ chín là Thiện tuệ, phải viên mãn bốn pháp. Những gì là bốn? Một là phải viên mãn vế cái trí căn cơ thắng, liệt của các hữu tình, hai là phải viên mãn sự nghiêm tịnh cõi Phật, ba là phải viên mãn đẳng trì như huyễn, thường nhập vào các định, bốn là phải viên mãn sự tùy theo thiện căn thuần thục của các hữu tình mà nhập vào các cõi, tự hiện hóa sanh.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc thứ chín là Thiện tuệ, phải viên mãn bốn pháp như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc thứ mười là Pháp vân, phải viên mãn mười hai pháp. Những gì là mười hai? Một là phải viên mãn đại nguyện nhiếp thọ vô biên xứ sở, tùy theo sở nguyện đều được viên mãn, hai là phải viên mãn cái trí biết âm thanh của các loài khác nhau như là chư thiên, long, dược xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn, phi nhơn v.v… ba là phải viên mãn trí biện thuyết vô ngại, bốn là phải viên mãn sự nhập thai hoàn hảo, năm là phải viên mãn sự đản sanh hoàn hảo, sáu là phải viên mãn gia tộc hoàn hảo, bảy là phải viên mãn chủng tánh hoàn hảo, tám là phải viên mãn quyến thuộc hoàn hảo, chín là phải viên mãn sanh thân hoàn hảo, mười là phải viên mãn xuất gia hoàn hảo, mười một là là phải viên mãn trang nghiêm cây Bồ-đề hoàn hảo, mười hai là là phải viên mãn sự hoàn thành tất cả công đức hoàn hảo.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi trụ ở bậc thứ mười là Pháp vân, phải viên mãn mười hai pháp như vậy. Thiện Hiện! Nên biết đã viên mãn bậc thứ mười là Pháp vân, đại Bồ-tát cùng các Như Lai phát ra lời nói không khác.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp ý lạc thù thắng thạnh tịnh?
Phật dạy: Thiện Hiện: Nếu đại Bồ-tát lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí, tu tập tất cả thiện căn, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp ý lạc thanh tịnh thù thắng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp của tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí dẫn phát bốn thứ vô lượng: Từ, bi, hỷ, xả, thì đó là của đại Bồ-tát tu sửa nghiệp tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp bố thí?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với tất cả hữu tình không có phân biệt mà hành bố thí, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp bố thí.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp thân cận thiện hữu?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thấy các thiện hữu khuyến hóa hữu tình, khiến họ tu tập trí nhất thiết trí, liền thân cận cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thăm hỏi, thọ lãnh chánh pháp, ngày đêm vâng lời, phụng sự, tâm không lười mỏi, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp thân cận thiện hữu.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp cầu pháp?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát lấy tâm tương ưng trí nhất thiết trí, cần cầu Chánh pháp Vô Thượng của Như Lai, chẳng rơi vào các bậc Thanh-văn, Độc-giác, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp cầu pháp.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp thường ưa xuất gia?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tất, ở tất cả nơi chốn sanh ra, thường chán sự tạp nhạp ồn ào của lao ngục gia cư, thường ưa vui với Phật Pháp, thanh tịnh xuất gia, không gì có thể ngăn trở, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp thường ưa xuất gia.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp ưa mến thân Phật?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chỉ thoáng thấy hình tượng Phật rồi cho đến khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, hoàn toàn chẳng xả tác ý nghĩ nhớ đến Phật, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp ưa mến thân Phật.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp triển khai giáo pháp?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi Phật còn tại thế và sau khi nhập Niết-bàn, vì các hữu tình truyền khai giáo pháp, lúc đầu khoảng giữa và sau đều thiện, văn nghĩa xảo diệu, thuần nhất viên mãn, phạm hạnh trong sạch, đó là khế kinh, ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, duyên khởi, thí dụ, bổn sự, bổn sanh, phương quảng, hy pháp, luận nghĩa, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp triển khai giáo pháp.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp phá bỏ kiêu mạn?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thường giữ sự khiêm tốn, cung kính điều phục tâm kiêu mạn, do đó chẳng sanh vào giòng họ hạ tiện, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp phá bỏ kiêu mạn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp ngôn ngữ chắc thật thường hằng?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát nói ra tương xứng với sự hiểu biết, lời nói và việc làm hợp nhau, thì đó là đại Bồ-tát tu sửa nghiệp ngôn ngữ chắc thật thường hằng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát giữ cấm giới thanh tịnh?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chẳng khởi tác ý Thanh-văn, Độc-giác và các việc khác về phá giới, chướng ngại, giác ngộ, thì đó là đại Bồ-tát giữ cấm giới thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tri ân báo ân?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bồ-tát hạnh, đối với việc được một ơn nhỏ còn chẳng quên báo đáp, huống là đối với ân huệ lớn mà chẳng báo đền, thì đó là đại Bồ-tát tri ân báo ân.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát trụ sức an nhẫn?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát dù có các hữu tình đến xúc phạm, hủy nhục, nhưng đối với họ không có tâm tức giận, làm hại, thì đó là đại Bồ-tát trụ sức an nhẫn.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát thọ hoan hỷ thù thắng?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát việc giáo hóa hữu tình đã được thành thục, thân tâm vui vẻ, hưởng niềm hoan hỷ thù thắng, thì đó là đại Bồ-tát thọ hoan hỷ thù thắng.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát chẳng bỏ hữu tình?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát cứu độ hữu tình, tâm hằng chẳng bỏ, thì đó là đại Bồ-tát chẳng bỏ hữu tình.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát hằng khởi đại bi?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát, khi tu hành Bồ-tát hạnh, khởi lên ý nghĩ thế này: Ta vì nhiêu ích tất cả hữu tình, giả sử trải qua vô lượng vô số trăm ngàn kiếp, ở trong đại địa ngục chịu các khổ kịch liệt, hoặc thiêu hoặc nấu, hoặc chém hoặc chặt, hoặc đâm hoặc treo, hoặc xay hoặc giã, chịu vô lượng sự khổ như vậy. Cho đến vì muốn khiến họ nương nơi Phật thừa mà nhập Niết-bàn, thế giới của tất cả hữu tình như vậy mà hết, nhưng tâm đại bi chưa từng mệt mỏi chán nản, thì đó là đại Bồ-tát hằng khởi đại bi.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát đối với các Sư trưởng đem tâm kính tín, thăm hỏi, phụng sự, cúng dường tưởng như phụng sự Phật?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì cầu quả vị giác ngộ cao tột, cung thuận Sư trưởng, không để tâm đến điều gì khác, thì đó là đại Bồ-tát đối với các bậc Sư trưởng lấy tâm kính tín, thăm hỏi phụng sự, cúng dường tưởng như phụng sự Phật.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát cần cầu tu tập Ba-la-mật-đa?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với các Ba-la-mật-đa chuyên tâm cầu học, xa lìa các việc khác, thì đó là đại Bồ-tát cần cầu tu tập Ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát cần cầu đa văn, thường không chán nản, không cho là đủ, đối pháp được nghe chẳng đắm vào văn tự?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát phát khởi sự siêng năng tinh tấn, nghĩ rằng: Đối với Chánh pháp của Phật ở cõi này hoặc chư Phật Thế Tôn ở mười phương thế giới đã nói, ta đều nghe, tu tập đọc tụng, thọ trì, nhưng đối với những giáo pháp ấy, chẳng đắm trước văn tự, thì đó là đại Bồ-tát cần cầu đa văn, thường không chán nản, không cho là đủ, đối với pháp đã nghe, chẳng đắm trước văn tự.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát lấy tâm vô nhiễm thường hành pháp thí, tuy mở rộng giáo hóa nhưng chẳng tự cao?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì các hữu tình tuyên thuyết chánh pháp còn chẳng tự duy trì thiện căn này hồi hướng quả Giác ngộ, huống là cầu việc khác, tuy hóa đạo nhiều mà chẳng tự thị, thì đó là đại Bồ-tát lấy tâm vô nhiễm thường hành pháp thí, tuy mở rộng giáo hóa nhưng chẳng tự cao.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát vì nghiêm tịnh cõi nước, trồng các căn lành, tuy để hồi hướng nhưng chẳng tự đề cao?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát dõng mãnh tinh tấn tu các căn lành, vì muốn trang nghiêm các cõi Phật thanh tịnh và làm thanh tịnh tâm của mình và người, tuy làm việc như vậy mà chẳng tự cao, thì đó là đại Bồ-tát vì nghiêm tịnh cõi nước, trồng các căn lành, tuy là để hồi hướng mà chẳng tự đề cao.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát vì giáo hóa hữu tình, tuy chẳng chán nản mệt mỏi với sanh tử vô biên, nhưng chẳng tự cao?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì muốn thành thục tất cả hữu tình, trồng các căn lành, nghiêm tịnh cõi Phật, cho đến khi chưa được viên mãn trí nhất thiết trí, tuy chịu sự cần khổ của vô biên sanh tử, nhưng không chán nản mỏi mệt, cũng chẳng tự cao, thì đó là đại Bồ-tát vì giáo hóa hữu tình, tuy chẳng mệt mỏi chán nản với vô biên sanh tử, nhưng chẳng tự cao.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tuy trụ tàm quí nhưng không đắm trước?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chuyên cầu quả vị giác ngộ cao tột, đối với ý nghĩ Thanh-văn, Độc-giác đầy đủ tàm quí, hoàn toàn chẳng móng khởi, nhưng ở trong đó, cũng không đắm trước, thì đó là đại Bồ-tát, tuy trụ tàm quí nhưng không đắm trước.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát trụ nơi thanh vắng thường chẳng rời bỏ?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì cầu quả vị giác ngộ cao tột, vượt lên các bậc Thanh-văn, Độc-giác v.v… thường chẳng rời bỏ nơi thanh vắng, thì đó là đại Bồ-tát trụ nơi thanh vắng thường chẳng rời bỏ.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát thiểu dục?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với quả vị Giác ngộ còn chẳng tự mong cầu, huống là muốn tiếng khen lợi dưỡng v.v… của thế gian, thì đó là đại Bồ-tát thiểu dục.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát hỷ túc?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chỉ vì chứng đắc trí nhất thiết trí, nên đối với các việc khác không đắm trước, thì đó là đại Bồ-tát hỷ túc.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát thường chẳng rời bỏ công đức đầu đà?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thường đối với pháp thâm diệu, khởi lên sự kiên nhẫn, quán sát kỹ lưỡng, thì đó là đại Bồ-tát, thường chẳng rời bỏ công đức đầu đà.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát đối với các học xứ chưa từng xả bỏ?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với giới đã học, giữ vững chẳng sai lệch, nhưng ở trong đó, thường chẳng chấp tướng, thì đó là đại Bồ-tát đối với các học xứ chưa từng xả bỏ.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát đối với các dục lạc sanh nhàm chán sâu sắc, xa lìa?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với dục lạc ngọt ngào hấp dẫn, chẳng khởi dục tâm, thì đó là đại Bồ-tát, đối với các dục lạc sanh nhàm chán sâu sắc, xa lìa.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát thường hay phát khởi tâm tịch diệt vốn có?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đạt được tất cả pháp nhưng không hề khởi tác, thì đó là đại Bồ-tát thường hay phát khởi tâm tịch diệt vốn có.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát bỏ các sở hữu?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với pháp nội ngoại, không hề chấp thủ, thì đó là đại Bồ-tát bỏ các sở hữu.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát tâm chẳng ngưng trệ chìm đắm?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với các thức đã trụ chưa từng khởi tâm, thì đó là đại Bồ-tát tâm chẳng ngưng trệ chìm đắm.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát, đối với các vật sở hữu, không tham luyến đoái hoài?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với tất cả vật, không có sự tư duy, thì đó là đại Bồ-tát đối với các sở hữu không có sự tham luyến đoái hoài.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát xa lìa nhà ở?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ý chí muốn đi đến các cõi Phật, tùy theo nơi sanh ra, thường ưa xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thọ trì bình bát, khoác ba pháp y, hiện làm Sa-môn, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa nhà ở.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa Bí-sô-ni?
Thiện Hiện! Nếu là đại Bồ-tát, thường phải xa lìa Bí-sô-ni, chẳng cùng ở chung dù trong khoảnh khắc, đối với họ cũng lại chẳng khởi dị tâm, thì đó là lý do của đại Bồ-tát phải xa lìa Bí-sô-ni.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa nhà keo kiệt?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý nghĩ: Ta nên ở trong đêm dài tăm tối, làm việc lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, khiến các hữu tình này do phước lực của họ mà cảm được nhà thí chủ tốt đẹp, cho nên ta ở trong đó, chẳng nên tham lam, tật đố, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa nhà keo kiệt.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chúng hội tranh chấp giận dữ?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý nghĩ thế này: Nếu ở trong chúng hội, mà trong chúng đó, hoặc có Thanh-văn, Độc-giác, nói thừa ấy là tương ưng với pháp yếu, khiến ta thối thất tâm Đại Bồ-đề, vì thế nhất định phải xa lìa chúng hội; lại khởi lên ý nghĩ thế này: Các kẻ tranh chấp giận dữ có thể khiến hữu tình phát khởi sân hại, tạo tác đủ các loại nghiệp ác bất thiện, việc ấy còn trái với đường thiện, huống là đại Bồ-đề, vì thế nhất định phải xa lìa sự tranh chấp giận dữ, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chúng hội tranh chấp.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa việc tự khen mình chê người?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với pháp nội, ngoại, đều không thấy có, nên xa lìa việc khen mình chê người, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa việc tự khen mình chê người.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý nghĩ thế này: Mười pháp ác này, còn trở ngại đường thiện, Nhị-thừa, Thánh-đạo, huống là vị đại Giác ngộ, cho nên phải xa lìa, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa mười nghiệp đạo bất thiện.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa sự ngạo mạn tăng thượng?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chẳng thấy có pháp có thể khởi ngạo mạn, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa sự ngạo mạn tăng thượng.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa điên đảo?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán việc điên đảo hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa điên đảo.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa do dự?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán việc do dự hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát nên xa lìa do dự.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa tham, sân, si?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát hoàn toàn chẳng thấy có việc tham, sân, si, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa tham, sân, si.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sáu phép Ba-la-mật-đa?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát viên mãn sáu phép Ba-la-mật-đa, vượt lên các bậc Thanh-văn và Độc-giác, lại trụ sáu phép Ba-la-mật-đa này, Phật và Nhị-thừa có khả năng vượt qua năm thứ bờ biển sở tri. Những gì là năm? Một là quá khứ, hai là vị lai, ba là hiện tại, bốn là vô vi, năm là bất khả thuyết, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải viên mãn sáu phép Ba-la-mật-đa.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa tâm Thanh-văn?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm của các Thanh-văn chẳng phải thứ tâm chứng đạo đại Giác ngộ Vô thượng, cho nên phải xa lìa, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa tâm Thanh-văn.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa tâm Độc-giác?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm của các Độc-giác nhất định chẳng có khả năng chứng đắc trí nhất thiết trí, cho nên ta nay phải xa lìa nó, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa tâm Độc-giác.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa tâm nhiệt não?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm sợ hãi sanh tử nhiệt não, chẳng phải là tâm chứng đắc đạo Giác ngộ cao tột, cho nên phải xa lìa, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa tâm nhiệt não.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát thấy kẻ ăn xin đến, tâm chẳng nhàm chán lo lắng?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm nhàm chán lo lắng này đối với đại Bồ-đề, chẳng có khả năng chứng đạo, nên ta nay nhất định phải xa lìa, thì đó là lý do đại Bồ-tát thấy kẻ ăn xin đến, tâm chẳng nhàm chán lo lắng.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát bỏ các vật sở hữu không có tâm hối tiếc?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm hối tiếc này đối với việc chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, nhất định là chướng ngại nên ta phải bỏ, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải bỏ các vật sở hữu, không có tâm hối tiếc.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát đối với người đến cầu xin, hoàn toàn chẳng kiêu mạn, dối gạt?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khởi lên ý nghĩ thế này: Tâm kiêu mạn dối gạt này, nhất định chẳng phải là đạo Giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì đại Bồ-tát khi mới phát tâm cầu quả vị giác ngộ cao tột, có phát lời thề rằng: Hễ ta có vật gì đều cho người đến xin, tùy theo ý muốn, không làm lơ, nhưng tại sao bây giờ lại kiêu ngạo, dối gạt họ, thì đó là lý do đại Bồ-tát đối với người đến xin, hoàn toàn chẳng kiêu ngạo dối gạt.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp cái biết, chấp cái thấy?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán ngã, hữu tình cho đến cái biết, cái thấy, rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp cái biết, cái thấy.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp đoạn?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán nghĩa rốt ráo của tất cả pháp là bất sanh, vô đoạn, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp đoạn.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp thường?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh của tất cả pháp là vô thường, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp thường.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa tướng tưởng?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh tạp nhiễm chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa tướng tưởng.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp về nhân v.v…?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát hoàn toàn chẳng thấy có các tánh thấy, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp về nhân v.v…
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp danh sắc?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh của danh sắc hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa các danh sắc.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp uẩn?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh của năm uẩn hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp uẩn.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp xứ?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh của mười hai xứ hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp xứ.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp giới?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh của mười tám giới v.v… hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp giới.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp đế?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh của các đế hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp đế.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp duyên khởi?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh của các duyên khởi, chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp duyên khởi.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp sự trụ trước tam giới?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh của tam giới hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp sự trụ trước tam giới.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp tất cả pháp?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh của các pháp đều như hư không, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa tất cả pháp.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa chấp sự như lý, bất như lý đối với tất cả pháp?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tánh của các pháp hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, và tánh của các pháp không có sự như lý hoặc bất như lý, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa chấp sự như lý, bất như lý của tất cả pháp.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Phật?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát biết sự kiến chấp nương vào Phật, chẳng được thấy Phật, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Phật.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Pháp?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đạt được chơn pháp tánh là chẳng thể thấy được, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Pháp.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Tăng?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát biết chúng hòa hợp là vô tướng, vô vi chẳng thể thấy được, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp nương vào Tăng.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp nương vào giới?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát biết tánh tội phước hoàn toàn chẳng có, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải xa lìa kiến chấp nương vào giới.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa sự sợ hãi pháp không?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán các pháp không đều không có tự tánh, đối tượng của sự sợ hãi rốt ráo chẳng có, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải xa lìa sự sợ hãi pháp không.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải xa lìa tánh chống trái cái không?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát quán tự tánh của tất cả pháp đều không, cái chẳng phải không cùng cái không có sự chống trái, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải xa lìa tánh chống trái cái không.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự thông đạt cái không?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đạt tự tướng của tất cả pháp đều là không, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự thông đạt cái không.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự chứng đắc vô tướng?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả tướng, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự chứng đắc vô tướng.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự hiểu biết về vô nguyện?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với pháp của ba cõi, tâm không có chỗ trụ, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự hiểu biết về vô nguyện.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn ba luân thanh tịnh?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thanh tịnh hoàn toàn mười thiện nghiệp đạo, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn ba luân thanh tịnh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn lòng bi mẫn hữu tình và đối với hữu tình không có sự chấp trước?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đã chứng đắc đại bi và nghiêm tịnh cõi nước, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải viên mãn lòng bi mẫn hữu tình và đối với hữu tình không có sự chấp trước.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn cái thấy bình đẳng đối với tất cả pháp và ở trong đó không có sự chấp trước?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với tất cả pháp, chẳng tăng, chẳng giảm và đối với trong ấy không thủ, không trụ, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn cái thấy bình đẳng đối với tất cả pháp và ở trong đó không có sự chấp trước.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn cái thấy bình đẳng đối với tất cả hữu tình và trong đó không có sự chấp trước?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với các hữu tình chẳng tăng, chẳng giảm và đối với trong đó không thủ, không trụ, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn cái thấy bình đẳng đối với tất cả hữu tình và ở trong đó không có sự chấp trước.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự thông đạt lý thú chơn thật và ở trong đó không có sự chấp trước?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với lý thú chơn thật của tất cả pháp, tuy như thật thông đạt nhưng không có đối tượng thông đạt và ở trong đó không thủ, không trụ, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự thông đạt lý thú chơn thật và ở trong đó không có sự chấp trước.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn trí Vô-sanh-nhẫn?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát chịu đựng sự không sanh, không diệt, không có sự tạo tác của tất cả pháp và biết danh sắc rốt ráo chẳng sanh, thì đó là lý do đại Bồ-tát phải viên mãn trí Vô-sanh-nhẫn.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn thuyết tất cả pháp đều qui về lý nhất tướng?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với tất cả pháp hành, không hai tướng, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn thuyết tất cả pháp đều qui về lý nhất tướng.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự diệt trừ phân biệt?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với tất cả pháp, chẳng khởi sự phân biệt, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự diệt trừ phân biệt.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự xa lìa các tưởng?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa tất cả tưởng lớn nhỏ vô lượng, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự xa lìa các tưởng.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự xa lìa các kiến chấp?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xa lìa tất cả kiến chấp của Thanh-văn, Độc-giác v.v… thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự xa lìa các kiến chấp.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự xa lìa phiền não?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát xả bỏ sự tương tục của tất cả tập khí phiền não hữu lậu, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự xa lìa phiền não.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn bậc Sa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn bậc Sa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự điều phục tâm tánh?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với pháp của ba cõi, chẳng ưa, chẳng động, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự điều phục tâm tánh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự tịch tịnh tâm tánh?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khéo nhiếp sáu căn, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự tịch tịnh tâm tánh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn tánh vô ngại trí?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu hành chắng đắc Phật nhãn, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn tánh vô ngại trí.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự không ái nhiễm?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đối với ngoại lục xứ, có khả năng khéo xả bỏ, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự không ái nhiễm.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, tự hiện thân trong chúng hội của Phật?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu hành thần thông thù thắng, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, thỉnh chuyển pháp luân, làm lợi ích tất cả, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự tùy theo ý muốn đến các cõi Phật, tự hiện thân trong chúng hội của Phật.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự ngộ nhập tâm hành của tất cả hữu tình?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát dùng trí nhất tâm, biết khắp như thật tâm và tâm sở của tất cả hữu tình, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự ngộ nhập tâm hành của tất cả hữu tình.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn các thần thông du hý?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát dùng các thứ thần thông tự tại dạo chơi, để được thấy Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cũng lại chẳng sanh ý tưởng về sự dạo chơi cõi Phật, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn các thần thông du hý.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn cái thấy các cõi Phật và như cái thấy ấy, mà tự trang nghiêm các cõi Phật?
Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát an trụ ở một cõi Phật mà có khả năng thấy vô biên các cõi Phật trong mười phương, cũng có khả năng thị hiện nhưng chẳng từng sanh ý tưởng về cõi Phật, lại vì thành thục các hữu tình, nên hiện ở trong thế giới ba lần ngàn, ở ngôi Chuyển luân vương mà tự trang nghiêm, cũng có khả năng xả bỏ mà không có sự chấp trước, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn cái thấy các cõi Phật, và như cái thấy ấy mà tự trang nghiêm các cõi Phật.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự cúng dường, thừa sự chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như Lai, như thật quan sát?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì muốn lợi ích cho các hữu tình, nên đối với nghĩa thú của pháp, như thật phân biệt, như vậy gọi là dùng pháp cúng dường, thừa sự chư Phật, lại phải quan sát kỹ pháp thân chư Phật, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự cúng dường, thừa sự chư Phật Thế Tôn, đối với thân Như Lai, như thật quan sát.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự hiểu biết về cái trí thắng, liệt của căn cơ các hữu tình?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát an trú mười lực Phật, biết rõ như thật, các căn thắng liệt của tất cả hữu tình, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự hiểu biết về cái trí thắng, liệt của căn cơ các hữu tình.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự nghiêm tịnh cõi Phật?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, nghiêm tịnh tâm hành tất cả hữu tình, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự nghiêm tịnh cõi Phật.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn đẳng trì như huyễn, thường nhập vào các định?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát trụ đẳng trì này, tuy có khả năng hoàn thành tất cả sự nghiệp mà tâm chẳng động, lại tu đẳng trì đến thành thục cùng tột, chẳng khởi gia hạnh mà luôn luôn hiện tiền, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn đẳng trì như huyễn, thường nhập vào các định.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự tùy theo thiện căn thuần thục của các hữu tình để nhập vào các cõi, tự hiện hóa sanh?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì muốn thành thục thiện căn thù thắng của các loài hữu tình, tùy theo điều kiện thuận tiện của họ nên nhập vào các cõi mà thị hiện thọ sanh, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát tùy theo căn cơ thành thục của các hữu tình, nhập vào các cõi tự hiện hóa sanh.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn đại nguyện nhiếp thọ vô biên xứ sở, tùy theo sở nguyện đều viên mãn?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vì đã tu đầy đủ sáu phép Ba-la-mật-đa hết sức viên mãn rồi, nên hoặc vì nghiêm tịnh các cõi Phật, hoặc vì thành thục các loại hữu tình, tùy sở nguyện của tâm, đều được viên mãn, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn đại nguyện nhiếp thọ vô biên xứ sở, tùy theo sở nguyện đều viên mãn.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn trí hiểu biết âm thanh, tùy theo các loài khác nhau như chư thiên, rồng, Dược xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v…?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu tập sự hiểu biết vô ngại về ngôn từ thù thắng, biết rõ sự sai biệt về âm thanh ngôn ngữ của hữu tình, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn trí hiểu biết âm thanh, tùy theo các loài khác nhau như chư thiên, rồng, Dược xoa, Kiền-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v… khác nhau.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn trí biện thuyết vô ngại?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tu tập sự hiểu biết vô ngại, biện tài thù thắng, vì các hữu tình thường thuyết không dừng nghỉ, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn trí biện thuyết vô ngại.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự nhập thai hoàn hảo?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát tuy đối với tất cả chỗ sanh ra, sự thật là thường hóa sanh, nhưng vì lợi ích hữu tình nên hiện nhập thai tạng, ở trong đó, đầy đủ các việc thù thắng, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn việc nhập vào thai hoàn hảo.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sự đản sanh hoàn hảo?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vào khi xuất thai, thị hiện các việc thù thắng hy hữu, khiến các hữu tình thấy đều hoan hỷ, được lợi lạc lớn, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự đản sanh hoàn hảo.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn gia tộc hoàn hảo?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát hoặc sanh vào nhà thuộc dòng họ lớn Sát-đế-lợi, hoặc sanh vào nhà thuộc dòng họ lớn Bà-la-môn, việc nương vào cha mẹ để ra đời không thể chê trách, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn gia tộc hoàn hảo.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn chủng tánh hoàn hảo?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thường hội nhập trong chủng tánh các đại Bồ-tát ở quá khứ mà sanh ra, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn chủng tánh hoàn hảo.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn quyến thuộc hoàn hảo?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát thường lấy vô lượng vô số Bồ-tát làm quyến thuộc, chẳng phải là các loại hỗn tạp tầm thường, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn quyến thuộc hoàn hảo.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn sanh thân hoàn hảo?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vào lúc sơ sinh, thân thể hoàn hảo, tất cả tướng tốt, phóng hào quang lớn, chiếu khắp vô biên thế giới chư Phật, cũng khiến thế giới ấy, sáu thứ biến động, hữu tình gặp được đều được lợi ích, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sanh thân hoàn hảo.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn xuất gia hoàn hảo?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát vào lúc xuất gia, vô lượng vô số trời, rồng, Dược xoa, nhơn phi nhơn v.v… đi theo hai bên, đi đến đạo tràng, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, thọ trì bình bát, hướng dẫn vô lượng vô số hữu tình, khiến nương vào ba thừa mà hướng đến viên tịch, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn việc xuất gia hoàn hảo.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn việc trang nghiêm cây Bồ-đề hoàn hảo?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát có thiện căn thù thắng, nguyện lực rộng lớn, đều được cây Bồ-đề đẹp đẽ như thế này: Dùng ngọc quí phệ lưu ly làm thân, vàng ròng làm gốc, cành, lá, hoa, quả đều dùng loại bảy báu hảo hạng làm thành; cây này cao rộng phủ khắp cõi Phật trong thế giới ba lần ngàn, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp vô số thế giới chư Phật trong mười phương, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn sự trang nghiêm cây Bồ-đề hoàn hảo.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát phải viên mãn tất cả công đức hoàn hảo?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát đầy đủ tư lương trí tuệ thù thắng, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, thì đó là lý do mà đại Bồ-tát phải viên mãn tất cả công đức hoàn hảo.
Bạch Thế Tôn! Vì sao nên biết đã viên mãn bậc thứ mười là Pháp vân, đại Bồ-tát cùng chư Như Lai phát ra lời nói không khác?
Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ấy đã viên mãn sáu phép Ba-la-mật-đa, đã viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; đã viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; đã viên mãn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; đã viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; đã viên mãn mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; đã viên mãn tất cả pháp Phật, lại nếu đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả phiền não tập khí, thì liền trụ Phật địa, vì vậy nên biết là đã viên mãn bậc thứ mười là Pháp vân, đại Bồ-tát cùng với chư Như Lai phát ra lời nói không khác.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Làm thế nào từ bậc thừ mười là Pháp vân, đại Bồ-tát hướng đến bậc Như Lai?
Phật dạy: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, dùng phương tiện thiện xảo hành sáu phép Ba-la-mật-đa, tu vô lượng tịnh lự, định vô sắc, ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, ba pháp môn giải thoát; học năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, vì tất cả pháp Phật đã được viên mãn, nên vượt lên bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc thứ tám, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Ðộc-giác và mười bậc Bồ-tát, đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tập khí phiền não, mới thành Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác
Thiện Hiện! Như vậy bậc thứ mười là Pháp vân đại Bồ-tát hướng đến bậc Như Lai.
Thiện Hiện! nên biết đó là đại Bồ-tát phát tâm hướng đến Ðại-thừa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi hỏi Ðại-thừa như vậy phát xuất từ chỗ nào và đến an trụ ở đâu?
Thiện Hiện! Ðại-thừa như vậy từ trong ba cõi mà ra và đến an trụ trong trí nhất thiết trí; do vì trí nhất thiết trí mà hiện ra ba cõi, nhưng vì không có hai, nên không (từ đâu) ra không (có chỗ) đến. Vì sao? Vì hoặc Ðại-thừa, hoặc trí nhất thiết trí, hai pháp như vậy chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng nhất tướng, gọi đó là vô tướng. Pháp vô tướng không (từ đâu) ra không (có chỗ) đến. Vì sao? Thiện Hiện! Pháp vô tướng chẳng đã (từ đâu) ra và đã (có chỗ) đến, chẳng phải sẽ (từ đâu) ra và sẽ (có chỗ) đến, chẳng phải đang (từ đâu) ra và đang (có chỗ) đến.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến chơn như có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì chơn như chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến trụ trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì chơn như và tự tánh của chơn như là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng ấy có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, định pháp, trụ pháp, bổn vô, thật tế, có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì pháp giới cho đến thật tế chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp giới và tánh của pháp giới là không, cho đến thật tế và tánh của thật tế là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sắc có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sắc chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc và tự tánh của sắc là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thọ, tưởng, hành, thức có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến nhãn xứ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì nhãn xứ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sắc xứ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sắc xứ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc xứ và tự tánh của sắc xứ là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến nhãn giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì nhãn giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc giới và tự tánh của sắc giới là không, cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến nhĩ giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì nhĩ giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhĩ giới và tự tánh của nhĩ giới là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thanh giới và tự tánh của thanh giới là không cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến tỷ giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì tỷ giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tỷ giới và tự tánh của tỷ giới là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì hương giới và tự tánh của hương giới là không, cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thiệt giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thiệt giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thiệt giới và tự tánh của thiệt giới là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì vị giới và tự tánh của vị giới là không, cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thân giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thân giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thân giới và tự tánh của thân giới là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì xúc giới và tự tánh của xúc giới là không, cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến ý giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì ý giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ý giới và tự tánh của ý giới là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp giới và tự tánh của pháp giới là không, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến địa giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì địa giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thủy, hỏa, phong, không, thức giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Thánh đế khổ, có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ và tự tánh của Thánh đế khổ là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Thánh đế tập, diệt, đạo có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Thánh đế tập, diệt, đạo và tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến vô minh có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vô minh chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì vô minh và tự tánh của vô minh là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì hành và tự tánh của hành là không, cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tự tánh của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sự huyễn có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sự huyễn chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sự huyễn và tự tánh của sự huyễn là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến cảnh mộng, ảnh tượng, tiếng vang, bóng sáng, hoa đốm giữa hư không, sóng nắng, ảo thành, sự biến hóa có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì cảnh mộng cho đến sự biến hóa chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cảnh mộng và tự tánh của cảnh mộng là không, cho đến sự biến hóa và tự tánh của sự biến hóa là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến cái không nội có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì cái không nội chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cái không nội và tự tánh cái không nội là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cái không ngoại và tự tánh của cái không ngoại là không, cho đến cái không không tánh tự tánh và tự tánh của cái không không tánh tự tánh là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bố thí Ba-la-mật-đa có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa và tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn tịnh lự có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn tịnh lự chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn vô lượng, bốn định vô sắc có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn niệm trụ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn niệm trụ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn chánh đoạn và tự tánh của bốn chánh đoạn là không, cho đến tám chi thánh đạo và tự tánh của tám chi thánh đạo là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp môn giải thoát không có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến năm loại mắt có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì năm loại mắt chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì năm loại mắt và tự tánh của năm loại mắt là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sáu phép thần thông có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sáu phép thần thông chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sáu phép thần thông và tự tánh của sáu phép thần thông là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến mười lực của Phật có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì mười lực của Phật chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì mười lực của Phật và tự tánh của mười lực của Phật là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn điều không sợ và tự tánh của bốn điều không sợ là không, cho đến trí nhất thiết tướng và tự tánh của trí nhất thiết tướng là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bậc Dự-lưu sanh vào đường ác có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bậc Dự-lưu sanh vào đường ác chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bậc Dự-lưu sanh vào đường ác và tự tánh của bậc Dự-lưu sanh vào đường ác là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần, bậc Bất-hoàn sanh vào Dục giới, bậc đại Bồ-tát sanh ra để tự lợi, bậc A-la-hán, Ðộc-giác, Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần cho đến Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần và tự tánh của bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần là không, cho đến Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác và tự tánh của Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả và tự tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Ðộc-giác hướng, Ðộc-giác quả, Bồ-tát, Như Lai có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả cho đến Như Lai chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả và tự tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả là không, cho đến Như lai và tự tánh của Như Lai là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết và tự tánh của danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết là không.
Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi và tự tánh của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi là không.
Thiện Hiện! Do duyên này, nên việc Ðại-thừa từ trong tam giới mà ra, đến an trú trong trí nhất thiết trí, là vô nhị, nên không (từ đâu) ra, không (có chỗ) đến, vì là pháp vô tướng, nên không động không chuyển.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi hỏi, Ðại-thừa như vậy là trụ ở chỗ nào?
Thiện Hiện! Ðại-thừa như vậy hoàn toàn vô sở trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở trụ. Vì sao? Vì chỗ trụ của các pháp chẳng thể nắm bắt được.
Thiện Hiện! Nhưng Ðại-thừa trụ vô sở trụ.
Thiện Hiện! Như tánh của chơn như chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh chơn như là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh chơn như tức là cái không của tánh chơn như.
Thiện Hiện! Như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, định pháp, trụ pháp, tánh bổn vô, thật tế chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp giới cho đến tánh thật tế là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh pháp giới, tức là cái không của tánh pháp giới, cho đến tánh thật tế là cái không của tánh thật tế.
Thiện Hiện! Như tánh của sắc chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của sắc là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh sắc là cái không của tánh sắc
Thiện Hiện! Như tánh của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh thọ, tưởng, hành, thức là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thọ, tưởng, hành, thức là cái không của tánh thọ, tưởng, hành, thức.
Thiện Hiện! Như tánh của nhãn xứ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh nhãn xứ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh nhãn xứ tức là cái không của tánh nhãn xứ.
Thiện Hiện! Như tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tức là cái không của tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Thiện Hiện! Như tánh của sắc xứ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của sắc xứ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh sắc xứ là cái không của tánh sắc xứ.
Thiện Hiện! Như tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tức là cái không của tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Thiện Hiện! Như tánh của nhãn giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh nhãn giới tức là cái không của tánh nhãn giới.
Thiện Hiện! Như tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh sắc giới cho đến tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh sắc giới tức là cái không của tánh sắc giới, cho đến tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.
Thiện Hiện! Như tánh của nhĩ giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của nhĩ giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh nhĩ giới tức là cái không của tánh nhĩ giới.
Thiện Hiện! Như tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của thanh giới cho đến tánh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thanh giới tức là cái không của tánh thanh giới, cho đến tánh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.
Thiện Hiện! Như tánh của tỷ giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của tỷ giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh tỷ giới tức là cái không của tánh tỷ giới.
Thiện Hiện! Như tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của hương giới, cho đến tánh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh hương giới tức là cái không của tánh hương giới, cho đến tánh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.
Thiện Hiện! Như tánh của thiệt giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của thiệt giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thiệt giới tức là cái không của tánh thiệt giới.
Thiện Hiện! Như tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của vị giới cho đến tánh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh vị giới tức là cái không của tánh vị giới, cho đến tánh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.
Thiện Hiện! Như tánh của thân giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh thân giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thân giới tức là cái không của tánh thân giới.
Thiện Hiện! Như tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh xúc giới cho đến tánh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh xúc giới tức là cái không của tánh xúc giới, cho đến tánh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.
Thiện Hiện! Như tánh của ý giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh ý giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh ý giới tức là cái không của tánh ý giới.
Thiện Hiện! Như tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp giới, cho đến tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh pháp giới tức là cái không của tánh pháp giới, cho đến tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.
Thiện Hiện! Như tánh của địa giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh địa giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh địa giới tức là cái không của tánh địa giới.
Thiện Hiện! Như tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới tức là cái không của tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Thiện Hiện! Như tánh của Thánh đế khổ, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh Thánh đế khổ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh Thánh đế khổ tức là cái không của tánh Thánh đế khổ.
Thiện Hiện! Như tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh Thánh đế tập, diệt, đạo là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh Thánh đế tập, diệt, đạo tức là cái không của tánh Thánh đế tập, diệt, đạo.
Thiện Hiện! Như tánh của vô minh chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh vô minh là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh vô minh tức là cái không của tánh vô minh.
Thiện Hiện! Như tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh hành cho đến tánh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh hành tức là cái không của tánh hành, cho đến tánh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não tức là cái không của tánh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.
Thiện Hiện! Như tánh của sự huyễn chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh sự huyễn là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh sự huyễn tức là cái không của tánh sự huyễn.
Thiện Hiện! Như tánh của cảnh mộng, ảnh tượng, tiếng vang, bóng sáng, hoa đốm giữa hư không, sóng nắng, ảo thành, sự biến hóa chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh cảnh mộng cho đến tánh sự biến hóa là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh cảnh mộng tức là cái không của tánh cảnh mộng, cho đến tánh sự biến hóa tức là cái không của tánh sự biến hóa.
Thiện Hiện! Như tánh của cái không nội chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh cái không nội là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh cái không nội tức là cái không của tánh cái không nội.
Thiện Hiện! Như tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh cái không ngoại cho đến tánh cái không không tánh tự tánh là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh cái không ngoại tức là cái không của tánh cái không ngoại, cho đến tánh cái không không tánh tự tánh tức là cái không của tánh cái không không tánh tự tánh.
Thiện Hiện! Như tánh của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bố thí Ba-la-mật-đa là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bố thí Ba-la-mật-đa tức là cái không của tánh bố thí Ba-la-mật-đa.
Thiện Hiện! Như tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là cái không của tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Thiện Hiện! Như tánh của bốn tịnh lự chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bốn tịnh lự là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bốn tịnh lự tức là cái không của tánh bốn tịnh lự.
Thiện Hiện! Như tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bốn vô lượng, bốn định vô sắc tức là cái không của tánh bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Thiện Hiện! Như tánh của bốn niệm trụ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bốn niệm trụ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bốn niệm trụ tức là cái không của tánh bốn niệm trụ.
Thiện Hiện! Như tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bốn chánh đoạn tức là cái không của tánh bốn chánh đoạn, cho đến tám chi thánh đạo tức là cái không của tánh tám chi thánh đạo.
Thiện Hiện! Như tánh của pháp môn giải thoát không chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp môn giải thoát không là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh pháp môn giải thoát không tức là cái không của tánh pháp môn giải thoát không.
Thiện Hiện! Như tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện tức là cái không của tánh pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Thiện Hiện! Như tánh của năm loại mắt chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh năm loại mắt là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh năm loại mắt tức là cái không của tánh năm loại mắt.
Thiện Hiện! Như tánh của sáu phép thần thông chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh sáu phép thần thông là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh sáu phép thần thông tức là cái không của tánh sáu phép thần thông.
Thiện Hiện! Như tánh của mười lực Phật chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh mười lực của Phật là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh mười lực của Phật tức là cái không của tánh mười lực của Phật.
Thiện Hiện! Như tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tuớng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bốn điều không sợ, cho đến tánh trí nhất thiết tướng là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bốn điều không sợ tức là cái không của tánh bốn điều không sợ, cho đến tánh trí nhất thiết tướng tức là cái không của tánh trí nhất thiết tướng.
Thiện Hiện! Như tánh của bậc Dự-lưu sanh vào đường ác chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bậc Dự-lưu sanh vào đường ác là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bậc Dự-lưu sanh vào đường ác tức là cái không của tánh bậc Dự-lưu sanh vào đường ác.
Thiện Hiện! Như tánh của bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần, bậc Bất-hoàn sanh vào cõi Dục, bậc đại Bồ-tát sanh ra để tự lợi, bậc A-la-hán, Ðộc-giác, Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần cho đến tánh Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần tức là cái không của tánh Nhất-lai sanh lại nhiều lần, cho đến tánh Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau tức là cái không của tánh Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau.
Thiện Hiện! Như tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả tức là cái không của tánh Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả.
Thiện Hiện! Như tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Ðộc-giác hướng, Ðộc-giác quả, Bồ-tát, Như Lai chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả cho đến tánh Như Lai là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả tức là cái không của tánh Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, cho đến tánh Như Lai tức là cái không của tánh Như Lai.
Thiện Hiện! Như tánh của danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh danh tự, giả tưởng, thi thiết ngôn thiết là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết tức là cái không của tánh danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết.
Thiện Hiện! Như tánh của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Ðại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng vô vi là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng vô vi tức là cái không của tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi.
Thiện Hiện! Do vì duyên này, Ðại-thừa như vậy, tuy hoàn toàn không có chỗ trụ nhưng trụ vô sở trụ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi hỏi, ai là người lại nương vào Ðại-thừa ấy mà xuất hiện?
Thiện Hiện! Hoàn toàn không có ai nương vào Ðại-thừa ấy mà xuất hiện. Vì sao? Hoặc chỗ để nương và người nương do lẽ này, vì lẽ này, mà chỗ xuất hiện, chỗ đi đến, lúc xuất hiện, lúc đi đến, tất cả điều ấy đều không có sở hữu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều không có sở hữu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, rốt ráo thanh tịnh, thì như vậy tại sao có thể nói là có chỗ để nương, người nương có sự xuất hiện, sự đi đến và lúc xuất hiện lúc đi đến?
Thiện Hiện! Nên biết, ngã không có sở hữu nên chẳng thể nắm bắt được, kẻ nương Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy không có sở hữu nên chẳng thể nắm bắt được. Kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, chơn như không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, định pháp, trụ pháp, bổn vô, thật tế, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, sắc không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, nhãn xứ không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, sắc xứ không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, nhãn giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, nhĩ giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, tỷ giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, thiệt giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, thân giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, ý giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, địa giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, Thánh đế khổ không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, Thánh đế tập, diệt, đạo không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, vô minh không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, sự huyễn không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, cảnh mộng, ảnh tượng, tiếng vang, bóng sáng, hoa đốm giữa hư không, sóng nắng, ảo thành, việc biến hóa, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, cái không nội không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, bố thí Ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, bốn tịnh lự không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, bốn niệm trụ không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, pháp môn giải thoát không không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, năm loại mắt không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, sáu phép thần thông không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, mười lực của Phật không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, bậc Dự-lưu sanh vào đường ác không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần, bậc Bất-hoàn sanh vào cõi Dục, đại Bồ-tát sanh ra để tự lợi, A-la-hán, Ðộc-giác, Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Ðộc-giác hướng, Ðộc-giác quả, Bồ-tát, Như lai không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, khoảng trước, khoảng giữa và khoảng sau không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, sự vãng lai không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, sự đi đứng không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, vô sanh không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, sự tăng giảm không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, bậc Cực hỷ không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, bậc Tịnh quán không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, bậc Chủng tánh, bậc Ðệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Ðộc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, sự thành thục hữu tình không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Nên biết, sự nghiêm tịnh cõi Phật không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Ðại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Pháp nào, chẳng thể nắm bắt được, nên nói là ngã v.v…, chẳng thể nắm bắt được?
Phật dạy: Thiện Hiện! Tánh ngã, chẳng thể nắm bắt được, nên nói ngã chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh cái thấy, chẳng thể nắm bắt được, nên nói cái thấy, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh ngã cho đến tánh cái thấy chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh chơn như, chẳng thể nắm bắt được, nên nói chơn như, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh thật tế, chẳng thể nắm bắt được, nên nói thật tế, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh chơn như, cho đến tánh thật tế, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh sắc, chẳng thể nắm bắt được, nên nói sắc, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh thức, chẳng thể nắm bắt được, nên nói thức, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh sắc cho đến tánh thức, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh nhãn xứ, chẳng thể nắm bắt được, nên nói nhãn xứ, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh ý xứ, chẳng thể nắm bắt được, nên nói ý xứ, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh nhãn xứ cho đến tánh ý xứ chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh sắc xứ, chẳng thể nắm bắt được, nên nói sắc xứ, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh pháp xứ, chẳng thể nắm bắt được, nên nói pháp xứ, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh sắc xứ cho đến tánh pháp xứ chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh nhãn giới, chẳng thể nắm bắt được, nên nói nhãn giới, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, nên nói các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh nhãn giới cho đến tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh nhĩ giới, chẳng thể nắm bắt được, nên nói nhĩ giới, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, nên nói các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh nhĩ giới cho đến tánh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh tỷ giới, chẳng thể nắm bắt được, nên nói tỷ giới, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, nên nói các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh tỷ giới cho đến tánh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh thiệt giới, chẳng thể nắm bắt được, nên nói thiệt giới, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, nên nói các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh thiệt giới cho đến tánh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh thân giới, chẳng thể nắm bắt được, nên nói thân giới, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, nên nói các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh thân giới cho đến tánh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh ý giới, chẳng thể nắm bắt được, nên nói ý giới, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được, nên nói các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh ý giới cho đến tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh địa giới, chẳng thể nắm bắt được, nên nói địa giới, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh thức giới, chẳng thể nắm bắt được, nên nói thức giới, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh địa giới cho đến tánh thức giới, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh Thánh đế khổ, chẳng thể nắm bắt được, nên nói Thánh đế khổ, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh Thánh đế đạo, chẳng thể nắm bắt được, nên nói Thánh đế đạo, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh Thánh đế khổ cho đến tánh Thánh đế đạo chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh vô minh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói vô minh, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng thể nắm bắt được, nên nói lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh vô minh cho đến tánh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh sự huyễn, chẳng thể nắm bắt được, nên nói sự huyễn, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh sự biến hóa, chẳng thể nắm bắt được, nên nói sự biến hóa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh sự huyễn cho đến tánh sự biến hóa, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh cái không nội cho đến tánh cái không không tánh tự tánh, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể nắm bắt được, nên nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến tánh Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh bốn tịnh lự, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bốn tịnh lự, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh bốn định vô sắc, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bốn định vô sắc, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh bốn tịnh lự cho đến tánh bốn định vô sắc chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh bốn niệm trụ, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bốn niệm trụ, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh tám chi thánh đạo, chẳng thể nắm bắt được, nên nói tám chi thánh đạo, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh bốn niệm trụ cho đến tánh tám chi thánh đạo chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh pháp môn giải thoát không, chẳng thể nắm bắt được, nên nói pháp môn giải thoát không, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh pháp môn giải thoát vô nguyện, chẳng thể nắm bắt được, nên nói pháp môn giải thoát vô nguyện, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh pháp môn giải thoát không cho đến tánh pháp môn giải thoát vô nguyện chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh năm loại mắt, chẳng thể nắm bắt được, nên nói năm loại mắt, chẳng thể nắm bắt được; tánh sáu phép thần thông, chẳng thể nắm bắt được nên nói sáu phép thần thông, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh năm loại mắt, tánh sáu phép thần thông chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh mười lực của Phật, chẳng thể nắm bắt được, nên nói mười lực của Phật, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh trí nhất thiết tướng, chẳng thể nắm bắt được, nên nói trí nhất thiết tướng, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh mười lực của Phật, cho đến tánh trí nhất thiết tướng chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh bậc Dự-lưu sanh vào đường ác, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bậc Dự-lưu sanh vào đường ác, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau, chẳng thể nắm bắt được, nên nói Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh bậc Dự-lưu sanh vào đường ác, cho đến tánh Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng thể nắm bắt được, nên nói Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh Như lai, chẳng thể nắm bắt được, nên nói Như lai, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả cho đến tánh Như lai chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết, chẳng thể nắm bắt được, nên nói danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi, chẳng thể nắm bắt được, nên nói vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh khoảng đầu, giữa, sau, chẳng thể nắm bắt được, nên nói khoảng đầu, giữa, sau, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh khoảng đầu, giữa, sau chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh vãng lai, chẳng thể nắm bắt được, nên nói vãng lai, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh vãng lai, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh đi đứng, chẳng thể nắm bắt được, nên nói đi đứng, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh đi đứng chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh tử sanh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói tử sanh, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh tử sanh chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh tăng giảm, chẳng thể nắm bắt được, nên nói tăng giảm, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh tăng giảm chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh bậc Cực hỷ, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bậc Cực hỷ, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh bậc Pháp vân, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bậc Pháp vân, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh bậc Cực hỷ cho đến tánh bậc Pháp vân chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh bậc Tịnh quán, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bậc Tịnh quán, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh bậc Như Lai, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bậc Như Lai, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh bậc Tịnh quán cho đến tánh bậc Như Lai chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh thành thục hữu tình, chẳng thể nắm bắt được, nên nói thành thục hữu tình, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh thành thục hữu tình chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng thể nắm bắt được, nên nói nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh nghiêm tịnh cõi Phật chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bố thí cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bố thí cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa ở trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc ở trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói năm loại mắt, sáu phép thần thông, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói năm loại mắt, sáu phép thần thông, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh năm loại mắt, sáu phép thần thông trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói mười lực của Phật cho đến trí nhất thiết tướng, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói mười lực của Phật cho đến trí nhất thiết tướng, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng ở trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Ðộc-giác hướng, Ðộc-giác quả, Bồ-tát, Như Lai ở trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, cho đến Bồ-tát, Như Lai, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Ðộc-giác hướng, Ðộc-giác quả, Bồ-tát, Như Lai ở trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả cho đến Bồ-tát Như Lai, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Ðộc-giác hướng, Ðộc-giác quả, Bồ-tát, Như Lai ở trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân ở trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân ở trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh bậc Cực hỷ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân ở trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc Ðệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Ðộc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai ở trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bậc Tịnh quán cho đến bậc Như Lai, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc Ðệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Ðộc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai ở trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói bậc Tịnh quán cho đến bậc Như Lai, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc Ðệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Ðộc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai ở trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh thành thục hữu tình ở trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói thành thục hữu tình, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh thành thục hữu tình trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói thành thục hữu tình, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh thành thục hữu tình ở trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Thiện Hiện! Tánh nghiêm tịnh cõi Phật ở trong cái không nội, chẳng thể nắm bắt được, nên nói nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng thể nắm bắt được, cho đến tánh nghiêm tịnh cõi Phật trong cái không không tánh tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nên nói nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tánh nghiêm tịnh cõi Phật ở trong đó, chẳng phải đã nắm bắt được, chẳng phải sẽ nắm bắt được, chẳng phải đang nắm bắt được, vì rốt ráo thanh tịnh.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tuy quán tất cả pháp đều không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được, rốt ráo thanh tịnh, nên không nương vào Ðại-thừa mà xuất hiện và đi đến, nhưng lấy vô sở đắc làm phương tiện, nương vào Ðại-thừa ra khỏi sanh tử ba cõi, đến trí nhất thiết trí, lợi ích, an ổn tất cả hữu tình, đến tận cùng đời vị lai, thường không dừng nghỉ.