Phụng Hoàng Cảnh Sách

Tập 4



∗ LỜI ĐẦU

Thiền sư ra đi không để lại dấu vết. Như tùng soi bóng nước, mây trôi trên trời. Bao thế hệ đi qua, hình bóng người xưa đã trở thành thiên cổ nhưng mạch nguồn Thiền tông vẫn chảy mãi không dừng. Là có chăng! Là không chăng!

Mười năm ở Thiền viện Trúc Lâm là đoạn ngắn trong khoảng đường dài tu tập nhưng kết quả lại không ngờ. Đó là nhờ những lời dạy tâm huyết thiết tha của Hoà thượng Ân sư. Bao năm qua những lời răn nhắc của Người đã len lỏi trong từng ngõ ngách tâm hồn, thấm vào máu thịt dưỡng nuôi hạt giống trí tuệ chúng tôi. Âm hưởng lời giáo huấn vang xa từ đỉnh Phụng Hoàng là tiếng chuông cảnh tỉnh, thôi thúc chúng tôi nhanh chân rảo bước về nhà.

Giờ đây Hoà thượng sắp đóng cửa nhập thất trưởng dưỡng Thánh thai. Chúng tôi góp nhặt những lời Người khuyên dạy Tăng Ni lúc thỉnh nguyện cũng như lời sách tấn trên băng đá mỗi chiều. Ghi lại thành tập “Phụng Hoàng Cảnh Sách” để làm quyển sách gối đầu nằm, làm kim chỉ nam đưa lối trong khoảng đường tu tập hiện tại và mai sau.

Vì là văn nói nên không sao tránh khỏi nhiều sơ sót. Kính mong các bậc cao minh phủ chính cho.

Kính ghi

Cuối Đông Nhâm Ngọ – 2002

Ni chúng Thiền viện Trúc Lâm

∗ THỈNH NGUYỆN TĂNG (1)

Ngày 28-10 Ất Hợi (19-12-1995)

Kỳ thỉnh nguyện này, trong chúng ai có lỗi đều nhận thức rõ ràng ra sám hối, những người có lỗi mà không biết cũng đã được huynh đệ chỉ cho để chừa sửa, cố gắng tiến tu. Đó là điều rất tốt. Sau đây tôi có ít lời nhắc nhở chúng.

Vừa rồi quí vị có coi lại phim khánh thành Phật Quang chưa? Trong đó có bài ca vọng cổ nói về Thiền viện Trúc Lâm làm tôi thêm lo. Theo tinh thần bài ca đó, Phật tử tán thán Thiền viện Trúc Lâm, tán thán sự tu hành thanh tịnh của chư Tăng Ni. Ngày trước chúng ta lên đây tu, mọi người đều đinh ninh rằng mình chỉ lo cố gắng tu, không cần ai biết đến, cũng không cần ai khen ngợi. Như vậy việc tu của mình rất thầm lặng, yên ổn. Nhưng ngày nay, chúng ta tu chưa tiến được bao nhiêu mà Phật tử có những bài hát tán thán mình giữa quần chúng đông đảo, tự nhiên tôi thấy lo. Nếu lời tán thán đó không đúng sự thật thì vô tình người ta tưởng mình mướn, hay mượn Phật tử quảng cáo mình. Vì vậy khi nghe họ hát, tôi càng lo, chớ không mừng.

Thật ra, người Phật tử lúc nào cũng chân thành quí kính chư Tăng Ni. Nghe ở đâu tu hành đàng hoàng chân chánh, họ rất mừng, hoan hỉ tán thán. Những lời đó, người ta đặt ra để ca chơi thôi, không ngờ bây giờ một số Phật tử đem ra ca giữa quần chúng. Nên tôi thấy, nếu Tăng Ni ở đây tu hành không ra gì thì thật là một sự quảng cáo rỗng.

Bởi vậy, tôi mong tất cả chư Tăng ở đây, quí vị nên tự kiểm lại mình, nếu tu hành có chỗ nào yếu, chỗ nào lơ là, phải ráng làm sao phấn phát lên, đừng để chìm lặng. Vị nào còn có những hành động, tư cách thô tháo thì phải chỉnh sửa lại cho được tốt đẹp. Làm sao để những lời Phật tử tán thán chúng ta là một lẽ thật, không phải lời quảng cáo suông. Được vậy thì rất tốt, chúng ta không hổ thẹn khi được người khác tán thán. Tôi lo vì không biết Tăng Ni ở đây có xứng đáng với những lời khen đó hay không?

Hôm nay có toàn thể đại chúng ở đây, tôi nhắc cho quí vị tinh tấn tu hành, kiểm điểm lại mình, đừng để thiếu sót, đừng để bệnh giải đãi lấn át làm cho sự tu không tiến. Đó là điều tôi nhắc nhở tất cả. Ở đây sắp được ba năm rồi, khi nào tôi rảnh việc, bên Tăng cũng như bên Ni, mỗi tháng cho ba hoặc bốn người lên trình sự tu hành trong thời gian qua, để tôi kiểm lại coi quí vị tiến bộ thế nào. Vậy tôi mới yên lòng, chớ nghe người ta tán thán quá tôi rất ngại. Quí vị nhìn trong phim, khi họ ca bài Trúc Lâm thấy mặt tôi có hớn hở hay không? Tôi hơi méo méo một bên!

Kế đây, tôi nhắc lại một câu hỏi Phật pháp cho tất cả nghe. Hồi sáng tôi có tiếp một Phật tử ở Virginia, là huynh trưởng Gia đình Phật tử chùa Hoa Nghiêm. Trong khóa học huynh trưởng, huynh đệ trong đoàn có một hai điều vướng mắc.

Kỳ này về, y đem máy đến nhờ tôi giải thích giùm, thâu lại để đem về bên đó phổ biến cho anh em cùng nghe.

Y trình bày vấn đề:

– Học kinh Bát-nhã, được nhiều thầy chỉ dạy các pháp là không, không có thật. Bởi thấy các pháp không, không thật nên Bồ-tát mới qua hết khổ nạn. Mình tu nếu thấy được các pháp không thật thì sẽ dứt sạch phiền não…

Y đặt lại nghi vấn: Nếu các pháp không, không có thật thì trong đời này có cái gì quan trọng mà phải thành lập Gia đình Phật tử, phải xây dựng cho con em mình hay, tốt? Vì những lợi ích này có thật đâu! Rồi bỗng dưng y thấy học kinh mà dùng không được.

Tôi giải thích cho y nghe hai phần. Trước hết tôi định nghĩa rõ chữ không trong kinh Bát-nhã. Chúng ta đừng hiểu lầm không là không có gì hết hoặc không là đối với có. Không này là không có thực thể, không có tự tánh. Tại sao Phật nói các pháp không có thực thể? Vì căn cứ trên lý nhân duyên thì các pháp do nhân duyên sanh. Với trí tuệ, Phật thấy rõ như vậy.

Không có một sự vật nào tự hình thành, tất cả đều do nhân duyên hoà hợp mà có. Nhân duyên hoà hợp thì không có thực thể, không có chủ thể; nếu có chủ thể thì không có hoà hợp. Vì vậy, chữ không ở đây là ngay trong tướng hoà hợp biết nó không có chủ thể. Thí dụ như cái nhà này, mình đang ở trong nhà, nhưng biết cái nhà chẳng qua là do tất cả những thứ vật liệu đất, cát, gạch, ngói, gỗ, xi măng… ráp lại mà thành, chớ không có chủ thể cái nhà. Cho nên nói “sắc tức là không”.Không đó không phải là không ngơ.

Từ đó chúng ta hiểu được tất cả mọi hình sắc, sự vật đều không có chủ thể. Như thân mình, Phật nói là không. Không tức là không có chủ thể, chỉ do năm uẩn kết hợp mà thành. Nếu nó có chủ thể thì không đợi năm uẩn kết hợp. Như vậy thân người do năm uẩn hay tứ đại hợp, không có chủ thể, nên nó không thật. Muôn sự muôn vật trên thế gian này cũng vậy, cái gì có hình tướng đều do duyên hợp mà thành, duyên tan thì hoại, nên nói “sắc tức là không”.

Như vậy, không đó là không có chủ thể chớ đừng nói không ngơ. Ví dụ như vật này rõ ràng trước mắt, thấy được rờ được, làm sao nói là không. Cho nên phải hiểu chữ không đó là không có chủ thể. Tất cả sự thành, hoại, từ con người đến muôn vật đều theo duyên, mà đã theo duyên thì không phải chân thật. Nên nói các pháp như huyễn như hóa, không thật. Huyễn hóa nghĩa là tạm bợ chớ không phải là không ngơ, không có gì hết.

Tôi giải thích cho chú ấy hiểu nghĩa không trong Bát-nhã. Y nói rằng: “Muốn xây dựng một xã hội tốt, mà bây giờ mình biết các pháp duyên hợp không có thực thể, là hư dối, thì xây dựng cũng vô ích.”

Tôi bèn nói tiếp: Tuy mình đang sống với thân hư dối, cảnh hư dối, nhưng nếu muốn cho cuộc sống được an lạc, bình yên mình phải tạo những duyên tốt để đi tới an lạc bình yên. Còn nếu tạo duyên xấu sẽ đi tới chỗ khổ đau, khó chịu, bực bội. Dù cho những người đang có mặt ở đây biết rằng thân mình sẽ hoại, nhưng trong lúc còn sống ai cũng muốn được an lạc, bình yên. Muốn vậy phải tạo duyên tốt, đừng tạo duyên xấu.

Tôi thí dụ như mình muốn đóng cái ghế phải có gỗ, đinh, bào, đục… và người thợ mộc. Giả sử mọi vật liệu đều tốt mà ông thợ mộc vụng thì cái ghế đóng có tốt được không? Nếu thiếu một duyên thì kết quả không tốt. Bởi vậy phải tạo những duyên tốt. Muốn cho cái ghế hoàn bị tốt đẹp phải đủ các yếu tố: gỗ tốt, bào đục tốt và ông thợ mộc giỏi đóng cái ghế mới hoàn hảo.

Nói vậy để thấy rõ muốn cho xã hội tốt đẹp, chúng ta phải tạo nhân tốt. Nhân tốt đó là xây dựng con người tốt. Nếu nhân tốt không có thì kết quả xã hội sẽ không đẹp. Vì vậy, biết cuộc đời là tạm bợ mà đức Phật luôn luôn dạy chúng ta phải hướng dẫn, chỉ dạy cho những người chung quanh biết điều hay lẽ phải để thực hành, chừa bỏ điều xấu dở để thành những con người xây dựng xã hội tốt.

Tôi giải thích như vậy, nhưng y còn thắc mắc:

– Thưa Thầy, nếu cứ nhớ trong đầu mình cái gì cũng giả dối, như huyễn như hóa thì làm sao can đảm làm cái việc giúp đỡ người ta lâu dài?

Tôi trả lời: Đạo Phật dạy người tu phải đủ hai mặt trí tuệ và từ bi. Nếu chỉ có trí tuệ sẽ trở thành khô cằn, vô dụng, còn chỉ có từ bi sẽ trở nên mù tối. Cho nên trí tuệ ví như đôi mắt, còn từ bi như hai chân. Thân này muốn đi tới được nơi này nơi kia đúng mục tiêu mình nhắm thì hai cái đó không thể thiếu được. Nếu không có mắt, dù chân mạnh bao nhiêu đi một hồi không lọt hầm cũng rớt hố. Còn có con mắt sáng mà chân yếu cũng không đi đâu được.

Như vậy hai cái hỗ tương, thiếu một thì không thể thực hiện được đầy đủ công đức của người tu. Nếu chúng ta dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu sẽ thấy các pháp như huyễn như hóa, như mộng… Tuy nhiên, cái không thật đó không phải là không ngơ, vì tạm thời nó vẫn có.

Thí dụ, trong lúc mình ngồi chơi, có người bên cạnh đang ngủ nằm mộng, người ấy thấy mộng dữ nên vừa khóc vừa la. Biết họ đang nằm mộng rồi chúng ta mặc kệ họ khóc la khổ sở như vậy sao? À, phải lại gần kêu, đánh thức họ tỉnh dậy. Khi người ấy tỉnh thì những cái khổ trong mộng chấm dứt. Như vậy người có lòng từ bi, dù biết đó là mộng, nhưng thấy người ta khổ cũng không nỡ bỏ. Nếu mình cứ theo lý trí: “ôi, mộng mà! kệ nó, làm gì thì làm”, như vậy là thiếu lòng từ bi.

Cho nên với con mắt trí tuệ Bát-nhã, nhìn thấy các pháp duyên hợp, tạm bợ, không có thực thể, thân mình cũng như thân người đều tạm bợ; nhưng đối với người mê, thấy thân của họ thật, thấy cảnh thật, nên chuyện được mất trong đời làm họ đau khổ, chịu không nổi. Vì vậy mình phải cố gắng giải thích, hướng dẫn, tạo cái duyên cho họ bớt khổ. Khi bớt khổ rồi phải dạy cho họ thức tỉnh, biết cuộc đời là không thật. Đó là cứu họ trọn vẹn.

Nếu chúng ta chỉ an ủi người trong khi khổ mà không chỉ cho họ thức tỉnh thì cái khổ cũng không hết. Ví như thấy có người đang khóc la trong mộng, mình đứng gần đó nói: “cô đừng có sợ”, nói vậy người đó hết khổ chưa? Chỉ khi nào đánh thức họ dậy thì mới hết khổ. Như vậy, từ bi của đạo Phật là phải làm sao cho người ta tỉnh giác, thì mọi khổ đau theo đó mới chấm dứt; nếu chưa tỉnh giác, dù mình giúp thứ gì người ta cũng không bao giờ hết khổ đau. Đó là trọng tâm của đạo Phật.

Tôi giải thích tới đó y nghe mừng lắm, hiểu được ý nghĩa Bát-nhã, không phải thấy các pháp như huyễn rồi tha hồ muốn làm gì thì làm, ai khổ sao mặc họ. Trái lại, chúng ta vẫn lao mình vào cảnh khổ để giúp đỡ người. Đó mới đúng tinh thần đạo Phật.

Hôm nay sẵn dịp tôi kể lại cho chư Tăng nghe, những điều này rất thiết yếu trong sự tu. Nếu mình nhìn mọi sự thấy là thật, thân thật, cảnh thật, muôn vật thật thì không làm sao hết đau khổ được. Chắc chắn một trăm phần trăm! Phải thấy tất cả pháp không có thực thể, chỉ là duyên hợp tạm có. Không có gì duyên hợp mà bền lâu. Thân này tạm bợ còn mất tùy duyên. Một khi duyên nghịch hay duyên thiếu thì nó tự hoại, không thể giữ được.

Thấy và hiểu như vậy, tất cả chúng ta đối với người, mới có thể bỏ qua những điều trái ý, và đối với mình, bỏ qua những điều mình cho là thiệt thòi mất mát. Bằng không, cứ nhìn thấy huynh kia sao được ưu, mình không được ưu, hay người kia được khen còn mình bị chê hoài, đừng nghĩ như vậy mà buồn vô ích. Nên thấy các pháp không thật rồi tùy duyên xử sự, đừng để mắc kẹt.

Cho nên nói Bát-nhã là phá chấp, phá chấp tức hết khổ, đương nhiên như vậy. Đó là cái gốc tu hành rất cần thiết đối với người xuất gia. Quí vị thấy trong kinh Pháp Bảo Đàn, phần đầu Lục Tổ giảng là Bát-nhã, mới thấy Bát-nhã rất hệ trọng. Chính Thiền tông cũng gọi cửa Thiền là cửa Không. Chúng ta phải hiểu rõ tinh thần Bát-nhã để ứng dụng tu mới không bị trì trệ. Nếu bị mắc kẹt trong ngã và ngã sở, chỉ khiến sự tu tăng thêm phiền não chớ không hết khổ. Đó là tôi nhắc nhở cho tất cả nhớ.

Ngày 15-11 Ất Hợi (5-1-1996)

Phần thỉnh nguyện đã xong, giờ đây tôi có ít lời nhắc nhở trong chúng.

Tôi thấy tất cả Tăng chúng ở đây, khi đã quyết tâm xuất gia, dù lớn hay nhỏ đều có chí nguyện tu để được giác ngộ, giải thoát sanh tử. Đó là một lý tưởng cao siêu, một con đường vượt trên thế gian. Đã quyết tâm đi con đường rộng lớn và có một lý tưởng cao cả vượt bậc, như vậy thì phải nhớ dè dặt. Tất cả những chuyện nhỏ bé, tầm thường đừng nên bận bịu.

Chúng ta tu, nhiều khi không trở ngại ở việc lớn mà lại vướng mắc việc nhỏ. Việc nhỏ là sống trong chúng có những điều không được như ý, hoặc kẻ này phê bình, kẻ kia chỉ trích gì đó, mình không làm chủ được rồi sanh bực bội, đi đến thối tâm. Chúng ta đi tu, mục tiêu cao cả là giác ngộ giải thoát, lại để những chuyện nhỏ, có thể nói là chuyện trẻ con làm cho mình bị thối chuyển trên con đường rộng lớn, cao cả thì thật vô lý. Vì vậy người nào để chuyện nhỏ làm trở ngại việc lớn là không được thông minh, sáng suốt. Người nào biết vì việc lớn bỏ qua những điều nhỏ mới gọi là người nhìn xa thấy rộng, biết nhắm thẳng mục đích mà tiến tới.

Trên đường tu, tất cả cái chướng nhỏ đều không đáng kể. Sự thật, lâu nay tôi đã từng nói với toàn chúng, mình tu không có gì gọi là chướng hết. Bởi vì trở ngại là những thử thách coi ý chí, đạo lực của mình mạnh hay yếu. Như vậy, chính nó là cơ hội để mình vươn lên, không phải là chướng. Nếu gặp trở ngại mình lùi bước mới thật là chướng.

Đối với người quyết tu thì không có gì là trở ngại, là chướng hết. Nhờ có thử thách, chúng ta vươn lên, đạt được mục đích tối thượng của mình. Như vậy mỗi người tự nhớ, tự xét, đừng vì những chuyện nhỏ mà làm hư việc lớn của mình, điều đó không hay. Nhất là trong chư Tăng, tôi thấy tuy tu nhưng sự nóng nảy hình như còn nhiều lắm.

Hôm qua, trong bài giảng “Cư Trần Lạc Đạo Phú” của ngài Trần Nhân Tông lúc còn làm Thái thượng hoàng, có đoạn Ngài nói về tam đồ khổ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh là từ tham, sân, si. Tôi cũng đã vạch ra cho mọi người thấy tham sân si là cái gốc làm chướng trên đường giác ngộ của mình. Không phải kẻ này hay người kia làm chướng, mà chính tham, sân, si mới là chướng.

Quí vị nhớ, sân là một điều không có giá trị gì. Thí dụ như có người nói mình là chó, là trâu, bò, nếu nghe câu nói đó mình vẫn mỉm cười bỏ qua, thì câu đó trở thành vô nghĩa. Còn nếu người ta nói mình là chó, là trâu bò, mình nổi sân lên thì câu đó trở thành có nghĩa. Tại sao có nghĩa? Bởi vì cái nhân của địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh là tham, sân, si. Nhất là sân, dễ tạo nghiệp ác, nổi sân là cái nhân để rơi ba đường ác. Nhẹ nhất là súc sanh.

Nếu người ta nói một tiếng chó mà mình nổi sân lên, tức là chấp nhận đi trên con đường súc sanh. Còn khi nghe người ta nói vậy chỉ cười thôi, thì lời nói đó như gió thổi qua rồi mất, không có giá trị thật. Như vậy chúng ta tu là cốt làm sao nghe những lời nói hư giả đó mình đừng bị dính kẹt thì sự tu mới tới chỗ an vui giải thoát được.

Ngày xưa, các vị Tổ, các vị Bồ-tát tu hành trải qua biết bao thử thách, có người xin cả thân thể, tay chân, đầu mắt mà các ngài còn sẵn sàng cho; nay chúng ta chỉ nghe một lời nói trái tai mà chịu không nổi, đó là dính mắc quá sâu quá đậm, tâm sân hận còn nhiều. Cho nên phải tự chinh phục mình, dẹp bỏ tham sân si, đó là cái gốc. Còn lời người ta nói, dù thô nặng mình vẫn coi thường, chỉ là tiếng nói qua tai rồi mất chớ không thật, không lâu bền. Do mình cố chấp nên tạo thành nghiệp, sanh trong đường xấu, đó là điều dại khờ trên đường tu.

Mong tất cả đại chúng ý thức được sự tu hành. Những điều thiên hạ cho là chướng, là nhục nhã, đối với mình chỉ là một trò chơi, một trận cười thôi, không có gì đáng để sợ. Được vậy, chúng ta mới đạt đến kết quả như chí nguyện của mình. Đó là lời nhắc nhở của tôi.

Ngày 28-11 Ất Hợi (18-1-1996)

Thỉnh nguyện hôm nay những vị có lỗi rất nhỏ cũng biết thành tâm sám hối, đó là điều rất đáng quí. Đồng thời những người có lỗi mà không tự biết cũng được huynh đệ nhắc cho. Như vậy phần tự giác, giác tha được đầy đủ trong buổi thỉnh nguyện. Tôi mong tất cả chúng mỗi ngày trên đường tu mỗi tăng tiến hơn, tránh được những lỗi lầm, để bản thân mình càng đầy đủ đức hạnh và làm cho mọi người chung quanh thấy được tư cách đạo đức, nề nếp tốt mà phát tâm hướng đến Phật pháp.

Kế đây tôi có ít lời nhắc nhở toàn chúng. Qua lời Thông Giác trình hồi nãy, thấy rằng khi lãnh một trách nhiệm hay lo lắng Phật sự gì, nếu gặp những trở ngại, khó khăn nhiều lúc cũng dễ thối tâm. Đây là điều tôi muốn nhắc nhở chung cho quí vị hiểu.

Hồi xưa lúc còn là Học tăng, tôi cứ thắc mắc một điều. Khi Đức Phật đi tu, Ngài nguyện thành đạo để độ tất cả chúng sanh trong lục đạo luân hồi, đủ tất cả những loài thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, noãn sanh. Nhưng không biết tại sao khi Ngài tu gần thành Phật thì ma quỉ tới phá? Sao không để Ngài thành Phật độ cho thoát khổ mà lại phá Ngài? Người quyết tâm cứu mình mà mình lại phá thì thật là khó hiểu.

Sau này tôi đọc kỹ lại trong các kinh A-hàm, thấy có một bài kinh kể rằng, khi Đức Phật tu sắp thành đạo thì tất cả cung điện Ma vương rung động như sắp sụp đổ. Nó hoảng hốt tìm xét lý do thì biết vì Phật tu sắp thành đạo. Ma vương lo sợ, nếu Phật thành đạo rồi Ngài giáo hóa chúng sanh, người ta tu sẽ qua khỏi sanh tử thì không còn ai cho nó sai sử nữa. Do đó, Ma vương hoảng sợ tìm mọi cách phá Phật.

Qua câu chuyện đó tôi mới thấy rằng chúng ta ngày nay làm Phật sự cũng vậy. Khi nào có tà và có chánh, thì hai cái không dung hoà với nhau được, vì tà không chấp nhận chánh, chánh cũng không dung được tà. Khi người ta làm một việc sai, lại bảo mình phải hoà với điều sai đó tất không thể nào chấp nhận được, như vậy tự nhiên có sự hiềm khích, chống chọi nhau, không thể tránh khỏi.

Cho nên chúng ta đừng nghĩ chủ quan rằng mình làm việc tốt mọi người đều khen và kính mến. Chúng ta làm được việc tốt thì người tốt sẽ khen, họ mừng vui và giúp đỡ chúng ta. Ngược lại, người không tốt sẽ chống chọi, phá vỡ cái tốt của mình. Thí dụ như ở nhà quê, trẻ con xuống sông tắm, vừa tắm vừa vọc sình chơi. Có một nhóm lên trước mặc đồ sạch vô, thì nhóm trẻ còn dơ ở dưới nước móc bùn vẩy lên mấy người ở trên cho họ bị dính bùn dơ lại như mình. Đó là thái độ của con nít, nó không muốn ai sạch hơn mình.

Trong cuộc sống cũng vậy, chúng ta càng cố gắng trong sạch chừng nào thì những người không trong sạch sẽ chống đối mình, tìm cách làm cho mình dơ như họ. Nếu không được thì họ tìm cách chọc phá mình. Cho nên trên con đường hành đạo, chúng ta đừng tưởng mọi việc đều sẽ như ý, đừng nghĩ mình làm Phật sự tốt thì ai cũng chấp nhận và ủng hộ. Nghĩ như vậy là lầm!

Chúng ta phải chuẩn bị trước rằng, khi quyết tâm làm Phật sự, chúng ta sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn và những điều bất như ý. Chúng ta phải chấp nhận, dầu khó khăn gian khổ mấy vẫn phải vượt qua, cương quyết đem thân này phụng thờ chánh pháp. Bởi vì chúng ta khơi sáng ngọn đèn chánh pháp thì tất cả điều tà sẽ chống lại, điều đó không nghi. Chuẩn bị tinh thần trước khi làm Phật sự và sẵn sàng chấp nhận hết những khó khăn, chúng ta mới yên lòng vượt qua được, bằng không mình dễ thối chí. Đó là điều thứ nhất.

Thứ hai là cần phải biết rõ, điều mình làm thuận với người này sẽ nghịch với người kia. Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy rằng: Từ xưa đến nay và trong tương lai, không bao giờ có một ai hoàn toàn bị chê, cũng không có một ai trọn vẹn được khen. Thí dụ như đối với mấy chú ăn trộm, ăn cướp, mình cứ nghĩ thiên hạ ai cũng chê ghét, nhưng khi nó đem tiền về thì vợ con thương và khen nó phải không? Nhờ nó trộm cướp mà cả nhà có tiền xài. Ngoài ra, kẻ trộm cướp cũng có đồng bọn trộm cướp ưa thích, khen ngợi. Như vậy kẻ xấu ác cũng có người thương, người hiền lành cũng có kẻ ghét.

Những việc mình chủ trương, được một số này hưởng ứng sẽ có một số khác phản đối, không bao giờ tất cả đều bằng lòng. Hiểu như thế khi bị phản đối mình chỉ cười thôi. À, đó là chuyện đương nhiên không sao tránh khỏi, sẵn sàng chấp nhận. Được vậy Phật sự của mình sẽ không thối chuyển. Nếu cứ ngỡ việc mình chủ trương là hay tốt, ai cũng phải hưởng ứng theo, đến lúc bị phản đối, đâm ra nản lòng thì Phật sự mình làm không được vuông tròn.

Trên đường tu tất cả chúng Tăng cũng vậy, chúng ta biết việc tu của mình là việc rất tốt, rất đáng khen, nhưng chỉ tốt với người ham tu thôi, còn những người không ham tu sẽ thấy chướng mắt trái ý nên chống đối, điều đó không nghi. Vì vậy, chúng ta sẵn sàng nghe chê, nghe chửi vẫn không nản lòng, xem đó là những thử thách, giúp chúng ta lập chí vững hơn chớ không phải là trở ngại cho mình.

Đó là tôi nhắc nhở riêng Thông Giác, cũng nhắc nhở cho toàn chúng biết để mai kia làm Phật sự không bị thối chuyển.

Ngày 28-12 Ất Hợi (16-2-1996)

Hôm nay là ngày thỉnh nguyện cuối năm, toàn chúng đã có những bước tiến đáng mừng và đa số đều không lỗi lầm. Một ít vị có lỗi cũng không phải hoàn toàn cố ý. Đồng thời những người sai sót đều được nhắc giữa chúng để biết mà sửa. Đó là có tinh thần tự giác để cùng tu với nhau.

Bây giờ tôi có ít lời nhắc nhở toàn chúng.

Tất cả chúng ta có duyên lành nên mới tụ hội một nơi để cùng tu, cùng học với nhau, đó là nhân duyên sâu dày mới được như vậy. Nhưng tất cả đều là những người đang tu nên vẫn còn có các điều xấu dở. Vì vậy Phật mới dạy chúng ta trong nửa tháng có buổi Bố-tát, đọc tụng lại giới luật của Phật để nhớ việc sai lầm của mình mà sửa. Ở đây thay vì Bố-tát, tụng giới, thì mỗi nửa tháng có buổi thỉnh nguyện. Trong buổi thỉnh nguyện có tụng đọc mười giới của Sa-di làm căn bản. Đồng thời chúng ta ứng dụng theo nội qui là nếp sống thích hợp với Thiền viện để mọi người trong chúng đều được đầy đủ đức hạnh.

Ngày nay là cuối năm, mọi cái dở năm rồi quí vị nhớ quyết tâm đừng tái phạm trong năm tới. Đừng nghĩ rằng năm nay sám hối vậy là xong, năm tới có lỡ xảy ra cũng được. Không phải vậy! Những cái dở của năm cũ tuy đã sám hối, nhưng tập khí đó vẫn còn ẩn náu ở trong, bây giờ chuẩn bị sang năm mới phải bỏ hết, xả hết, đừng nuôi dưỡng, chất chứa nữa.

Kế đó chúng ta chuẩn bị sang năm mới phải tu hành tinh tấn hơn, phải bước đi dõng mãnh, sáng suốt hơn. Mỗi năm qua, nếu chúng ta cứ đứng yên một chỗ hay giậm chân tại chỗ là không hay. Chúng ta phải tiến, tiến mãi. Bởi vì tuổi thọ của mình mỗi năm mỗi giảm, mất một tuổi là mất một phần sống, chúng ta không thể nào đứng y chỗ cũ. Nếu đứng y chỗ cũ thì đến ngày lìa đời, mình sẽ không tiến được bao nhiêu. Cho nên mỗi năm phải mỗi tiến, vậy mới kịp với thời gian, để khi sắp mãn cuộc đời này, những gì mình muốn làm đều đã làm được. Nếu tu chỉ để mà tu, không tiến chút nào thì uổng đi một đời.

Vậy tôi mong tất cả chư Tăng chuẩn bị qua năm mới, những cái xấu dở cũ đều phải bỏ hết. Mình biết nó là dở rồi thì phải bỏ, đừng nuôi dưỡng, đừng tiếp tục. Đồng thời chuẩn bị cho năm tới, những gì mình chưa đạt đến, chưa thấu suốt thì phải thấu suốt, phải đạt đến. Như vậy sự tu của chúng ta mới không uổng phí. Mong tất cả cố gắng.

Ngày 13-1 Bính Tý (2-3-1996)

Hôm nay tôi có vài vấn đề nhắc nhở trong toàn chúng. Trước hết tôi nhắc cho quí vị thấy tất cả chúng ta họp nhau một nơi để chung lo tu hành, đó là điều rất tốt. Họp nhau ở chung chúng ta cần phải hoà, vì lục hoà là then chốt mở cửa giải thoát.

Tôi đặt nặng lục hoà làm chủ yếu vì ở trong chúng năm mươi, bảy mươi người, nếu điều hoà được “như nước với sữa” theo lời Phật dạy thì không có vấn đề gì phải phiền não, nên sự tu hành tinh tấn. Nếu trong chúng thiếu hoà thì có phiền não, sự tu bị thối chuyển. Do vậy, lục hoà là bước đầu để chúng ta tiến đến an lành thanh tịnh nội tâm, từ đó mới đi tới trí tuệ sáng suốt giác ngộ. Khi chúng ta buồn giận, tâm trí sẽ mờ tối, không thể sáng được, bởi vậy hoà là thiết yếu.

Ở trong quí vị, mấy người nhỏ có thể đi tu vì một hoàn cảnh hoặc một trường hợp đặc biệt nào đó, còn quí vị lớn ai cũng ý thức trên đường tu của mình phải đi tới nơi tới chốn, do đã nhận định kỹ càng rồi mới phát tâm xuất gia. Quí vị đã chung họp lại đây và được tôi phân công mỗi người mỗi trách nhiệm, nếu mỗi người ở vị trí của mình đều làm tròn thì sanh hoạt chung của Thiền viện tốt đẹp vô cùng. Còn nếu chỗ này làm tròn mà chỗ kia tắc trách thì cũng đáng buồn, đáng lo.

Vì vậy chúng ta phải chung lo xây dựng cho mình và huynh đệ, mỗi người đều cố gắng làm tròn bổn phận của mình, tất nhiên tập thể cũng được tốt trọn vẹn. Chỉ cần một bộ phận nào đó không vuông tròn thì sẽ có những hư hao, tai hại chung. Cho nên ở trong chúng khi thấy huynh đệ nào làm tròn bổn phận của họ tốt đẹp phải nên quí kính và mang ơn người đó đã đóng góp lớn cho tập thể và đã gánh vác một trách nhiệm cho Thiền viện. Người có tinh thần biết chung lo thì chỉ mang ơn chớ không bao giờ khởi niệm đố kỵ. Nếu thấy ai làm được việc, mình buồn là trái đạo lý.

Ở trong đây, những phần trách nhiệm tôi giao, người nào cũng nhiệt tình làm tròn, có khi làm hơn nữa, tôi thấy đáng tán thán. Nhưng trong sự nhiệt tình đó thỉnh thoảng thấy bên này va chạm bên kia, vậy là không tốt. Vì thế, tôi mong rằng tất cả quí vị kể từ đây về sau, khi thấy người làm được việc cho Thiền viện phải coi đó là một sự hi sinh, là một cái ơn giúp cho chúng yên tu. Người đó vì công việc phải chịu thiệt thòi trong sự tu tập.

Thí dụ như Hương đăng, Tri khách, mỗi ngày phải tiếp khách liên miên, tự nhiên tâm cũng khó yên, khó định tĩnh. Như vậy là quí vị đã hi sinh lớn rồi, phải cẩn thận làm sao trong sự đối tiếp giữa đồng đạo với nhau khéo hoà thuận, vui vẻ thì mới có lợi cho mình và tập thể. Chúng ta phải biết vì sự giải thoát, vì lợi ích cho đạo mà bỏ qua những điều nhỏ nhặt, không đáng kể, khéo điều hoà cho cuộc sống an vui.

Điều thứ hai là tôi nghe nói một số người thấy ban Lãnh chúng còn trẻ tuổi nên không kiêng nể. Đó là điều sai lầm. Người tu không phải trọng ở tuổi lớn mà trọng nơi đức hạnh. Không phải trọng cái tài bên ngoài mà trọng cái đức trong đạo. Người nào đủ đức đủ hạnh, dầu thấy họ có vẻ như khờ khạo, chúng ta vẫn quí.

Thí dụ như Lục Tổ đâu phải là người có tài so với ngài Thần Tú, nhưng người ta vẫn quí Lục Tổ hơn ngài Thần Tú, đó là quí đạo đức chớ không phải quí ở tài học. Ngày xưa trong đạo có những vị tuổi rất nhỏ mà tu hành sáng, còn người tuổi lớn lại tu hành không sáng. Học luật Sa-di quí vị thấy có câu: “Sa-di thuyết pháp Sa-môn thính, bất trọng niên cao trọng tánh linh”, tức là người ta trọng chỗ thấy đạo, hiểu đạo hơn là người thọ giới cao, tuổi đời cao.

Cho nên ở đây quí vị phải hiểu cho thật rõ, tôi nhắm tinh thần đạo đức hơn là nhắm tài năng bên ngoài. Vì vậy, tôi thấy Thông Phương tu từ thuở nhỏ tới bây giờ, đã sống lâu trong đạo, thấm nhuần vị đạo rồi nên mới cho làm Quản chúng. Mặc dầu tuổi đời Thông Phương không cao nhưng tuổi đạo đã cao, dầu không lanh lẹ bên ngoài nhưng đã thấm nhuần đạo lý.

Như vậy, chúng ta phải quí trọng người lãnh đạo có đức và có trí tuệ. Đừng nghĩ rằng phải lớn tuổi hoặc học cao ngoài đời, mà phải nghĩ tới đạo đức sâu của người đó. Vì vậy những người tôi cử ra giữ trọng trách, không đặt nặng chuyện lanh lẹ, khôn ngoan mà cần phải có đạo đức thật, nhận hiểu giáo lý thâm sâu, đó mới là chỗ tôi tin tưởng.

Tháng năm nào quí vị còn ở Thiền viện thì đều được hun đúc, nhắc nhở để cố gắng tu, đó là trách nhiệm của tôi. Nhưng quí vị đừng lầm rằng ở đây tôi phải nhờ quí vị để được danh được lợi. Đừng hiểu lầm như vậy! Tôi chỉ nghĩ lập Thiền viện là để lo cho Tăng Ni tu. Tăng Ni tu được là mãn nguyện của tôi. Nếu mỗi khi ai có chuyện vui buồn liền xách gói bỏ đi thì chỉ thiệt thòi cho chính mình. Tôi lãnh trách nhiệm hướng dẫn quí vị, nếu quí vị có tâm tha thiết trên đường đạo thì tôi đem hết tâm thành trợ giúp, còn nếu quí vị không ưng tu, không muốn thực hiện lý tưởng của mình, ra đi thì tôi cũng đành chịu chớ không hối tiếc. Bởi vì bổn phận tôi đã làm tròn.

Như vậy nếu tự kiểm điểm thấy ở đây có lợi cho sự tu hành, quí vị cứ hợp tác chung lo để cùng nhau tu tập, và tôi có bổn phận phải hướng dẫn chu đáo. Nếu vị nào cảm thấy ở không có lợi ích mà chỉ sanh phiền não, muốn lui chỗ khác thì tôi cũng hoan hỉ, không trách cứ, cũng không bắt buộc điều kiện nào hết. Bởi vì bổn phận tôi phải làm cho tròn, còn chuyện trách nhiệm của quí vị tròn hay không là phần quí vị.

Lâu nay tôi thường nghĩ, người xuất gia có tâm nguyện hết sức tốt, nhất là những người đã có gia đình mà dám cắt bỏ tất cả để đi tu. Những người chưa có gia đình thì dám bỏ cha mẹ xuất gia, cũng đâu phải việc thường. Trước người ta có tâm tốt như vậy, tại sao vô tu một thời gian rồi lại chán bỏ đi, là do đâu?

Chính vì môi trường không tốt, sự hướng dẫn không tốt làm người ta thối tâm. Tôi trách người lãnh đạo, trách người có bổn phận đi trước không lo cho người đi sau. Bởi vậy tôi cố gắng tạo điều kiện làm sao có được một môi trường tốt, sao cho tròn bổn phận của người đi trước dìu dắt kẻ sau. Nay hai cái đó tôi làm tròn rồi mà quí vị cũng bỏ đi thì đó là duyên của quí vị chớ không phải lỗi của tôi, cho nên tôi không hối hận.

Như vậy nói cho tất cả hiểu rằng, lòng tôi chỉ muốn làm sao Tăng Ni tu được đến nơi đến chốn và mai kia ra làm Phật sự xứng đáng một vị Tăng. Đó là sở nguyện của tôi, chớ không phải tôi muốn nuôi Tăng chúng cho đông để có uy tín. Tôi không cần điều đó bởi vì đó là ảo tưởng, giả danh chớ không có thật. Thực chất là tôi lo cho đạo, muốn giữ mối đạo được bền lâu. Ngọn đèn trước gần tàn thì ngọn đèn kế phải tiếp nối, chớ để nó tắt ngúm làm tăm tối thế gian.

Tất cả quí vị nếu ý thức được chuyện của mình thì chung lo tu hành, hoà hợp nhau cùng làm Phật sự, để mai kia lợi ích cho Phật pháp. Lợi cho Phật pháp tức là nuôi dưỡng công đức của mình. Công đức lớn thì sau này mới dễ đạt đạo, còn tu lơ là sau không đi tới đâu.

Do đó, tôi nhắc tất cả luôn nhớ bổn phận của mình là phải cố gắng tu và xả bỏ cái ngã riêng tư, xả bỏ những hư danh hão huyền để đạt được đạo chân thật, vậy mới là cứu kính. Đừng mắc kẹt những cái nhỏ mà quên mất việc lớn, uổng một đời tu của mình. Quí vị đừng nghĩ rằng mình ở trong thất riêng là tu hay, nhiều khi do không có ai kềm chế, nên thong thả rồi có khi phóng túng, từ phóng túng hư đi một đời tu. Đó là lời tôi nhắc nhở toàn chúng.

Ngày 28-1 Bính Tý (17-3-1996)

Hôm nay toàn chúng thỉnh nguyện thấy có những lỗi nhỏ đều ý thức để sám hối, điều đó rất tốt. Đây tôi nhắc thêm cho tất cả nhớ tu.

Thời gian gần đây, nhìn qua trong chúng, tôi thấy tập khí là điều làm tôi thở dài. Bởi vì có nhiều người thông minh sáng suốt, nghe dạy liền hiểu, biết rõ ràng cái gì hay cái gì dở, nhưng tập khí sâu dày vẫn chưa bỏ được.

Nói đến tập khí, tôi muốn giảng rõ cho quí vị biết. Chữ tập là nhóm họp, khí là hơi. Thí dụ: Mình để cái khăn tay gần một món đồ thơm trong một thời gian rồi đem ra ngửi nghe có mùi thơm.

Cũng vậy, để cái khăn gần đồ hôi nó sẽ hôi. Sức huân tập của mùi thơm, mùi hôi càng lâu càng thấm nhiều. Tập khí của chúng ta không phải mới đời này mà đã huân tập từ nhiều đời. Tuy đời này biết đạo lý, biết tu hành nhưng thói quen cũ vẫn chưa bỏ được. Bình thường mình không thấy ở đâu, nhưng gặp duyên nó xuất hiện không lường trước được.

Thí dụ trường hợp của N.T ở V.C. Trước khi bỏ V.C đi lên chùa T.T, một hôm nó tới chỗ võng tôi đang ngồi, quì xuống chắp tay lạy ba lạy. Tôi ngạc nhiên hỏi:

– Bữa nay có chuyện gì mà con lạy Thầy?

Nó thưa:

– Con lạy Thầy xin nguyện từ đây về sau, nếu có lưu lạc ở đâu thì đời sau con cũng sẽ gặp lại Thầy, nhờ Thầy cứu con trở về chánh pháp.

Nó nói như vậy, tôi ngẩn ngơ không biết tại sao, thấy kỳ cục quá! Tôi mới nói rằng:

– Con đang ở đây tu tập theo Thầy, có gì đâu mà lo!

Nhưng sau đó ít bữa nó bỏ đi.

Như vậy mới thấy rằng tập khí của nó thuộc về Mật giáo, cho nên dù nó tu với mình, nghe, hiểu và thực hành, nhưng một lúc nào đó cũng quay lại với Mật giáo. Đó là cái tôi thấy không thể lường nổi.

Như câu chuyện trong kinh kể, ngài Ca-diếp là vị tu hành khổ hạnh nhất trong chúng của Phật, tức là đầu-đà bậc nhất. Một hôm thần Càn-thát-bà đánh nhạc cúng dường Phật, trên hư không trỗi nhạc thì dưới này ngài Ca-diếp đứng dậy múa. Một vị Tỳ-kheo chứng quả A-la-hán rồi mà tập khí cũ vẫn còn trỗi dậy. Sau đó đức Phật mới giải thích: Ca-diếp thuở xưa có nhiều đời làm nhạc công nên bây giờ tập khí cũ vẫn còn.

Tôi thấy ngày xưa vậy, ngày nay cũng thế. Mỗi người trong chúng đều có một tập khí, một thói quen riêng, chẳng những đời này mà đã huân tập từ nhiều đời trước. Bây giờ nghe kinh, học đạo ai cũng biết rõ cái dở, cái hay nhưng gặp duyên thì không làm chủ được. Cho nên trong chúng, người nào nhiều tập khí là đáng thương, không phải đáng ghét. Còn bản thân mình, khi biết có tập khí gì đó, phải cố gắng mài dũa cho thật sạch thì mới tiến được.

Tôi nói gần nhất là sân, ai cũng biết nó tai hại. Mình có thể giảng dạy về cái sân cho người khác nghe, nhưng khi gặp việc trái ý mình vẫn nổi nóng như thường. Đó là tập khí cũ tích lũy bên trong chớ không phải bên ngoài, nên hiểu thì hiểu mà tập khí chưa phải hết. Do đó người tu phải rất cẩn thận. Tuy rằng mình có hiểu đạo, lóe thấy được chân lý nhưng tập khí không phải dễ bỏ, vậy nên mỗi người phải ráng tu hành chín chắn. Mỗi khi thấy mình có gì sai sót liền sửa, lâu ngày nó mới sạch.

Tôi rất tán thán việc ở trong chúng, vì khi ở thất riêng, tập khí của mình không ai thấy, không ai nhắc, làm sao biết để sửa? Nhờ ở trong chúng nên những gì mình xấu mà chưa tự biết, hay khi quên, nó bộc lộ ra, người khác thấy được liền chỉ cho mình. Nhờ vậy mà chúng ta sửa đổi, bào gọt từ từ cho mỏng, có ngày mới hết; còn sống riêng tư không bao giờ hết tập khí. Đừng tưởng sống trong chúng là thiệt thòi, khó tu. Chính nhờ sống trong chúng mới biết được những cái hư xấu của mình để sửa, trở nên người tu hành chân chánh.

Như vậy, chúng ta đừng bao giờ tự đắc mình là người thanh tịnh, tâm hồn không còn bợn nhơ. Đừng bao giờ tự đắc như vậy! Tôi thấy tập khí con người rất nặng nề, không đơn giản. Có người khi trình bày chỗ nhận được tưởng chừng họ tiến bộ đáng kể lắm, nhưng lâu lâu, gặp duyên gặp cảnh những cái cũ vẫn còn. Biết vậy, phải ráng luôn luôn tự cảnh tỉnh mình, vì tập khí không thể lường nổi, nay thấy tốt, ngày mai gặp duyên chưa chắc đã tốt. Do đó, cố gắng vừa khiêm tốn vừa cẩn thận tu tập cho có kết quả, đừng tưởng mình đã thành công trên đường tu, đến khi sai sót hiện ra hối hận không kịp.

Hôm nay tôi nhắc cho toàn chúng ý thức được sự tu hành của mình vẫn còn nhiều gay go lắm. Mỗi người ráng cẩn thận, phải vui mừng biết ơn khi có ai nhắc nhở lỗi lầm, nhờ đó mình càng ngày càng vươn lên. Nếu không được nhắc nhở, chúng ta ngày càng lún sâu trong vũng bùn tập khí, khó bề ra khỏi.

Ngày 13-3 Bính Tý (30-4-1996)

Phần thỉnh nguyện đã xong, tất cả quí vị có lỗi đều tự nhận biết ra sám hối. Những điều mình không thấy nhờ huynh đệ chỉ cũng thành tâm sám hối. Đó là thực hiện đúng tinh thần tự giác, giác tha. Thỉnh nguyện xong, tôi có ít lời nhắc nhở cho quí vị.

Tất cả chúng ta là người tu, nhất là tu hạnh xuất gia cầu giải thoát sanh tử thì chắc rằng trong lòng ai cũng muốn cố gắng tu làm sao cho được giác ngộ, giải thoát. Trong khi tu chúng ta nhớ thật kỹ đừng lầm lẫn, mình tu là phải khéo trừ dẹp những niệm xấu dở của bản thân, đừng để nó hoành hành, đó là điều thứ nhất. Thứ hai là chúng ta phải làm sao có sức mạnh làm chủ, không để những gì bên ngoài hoặc bên trong làm chủ mình, tức là đừng đầu hàng, đừng chịu thua nó.

Muốn làm chủ thì phải nỗ lực tọa thiền để có sức mạnh dẹp bỏ các thói quen, tư tưởng. Bình thường mình dẹp không được nhưng lúc tọa thiền có sức mạnh hơn. Thiền định là sức mạnh để dẹp tan những vọng niệm và thói quen xấu có sức lôi cuốn. Khi chúng ta làm chủ được, những chuyện bên ngoài vừa xâm phạm mình liền thấy, liền biết. Ngược lại, không làm chủ thì không thể thấy kịp, không biết kịp, đó là do sức tu còn yếu.

Cho nên tất cả chúng ta phải nhớ hai việc: buông xả vọng niệm, dứt bỏ những nghĩ suy không hợp đạo lý, trừ sạch đám giặc bên trong; đồng thời phải có sức làm chủ để chiến thắng những thử thách, cám dỗ bên ngoài, khi nó tới mình không bị xao xuyến. Đó là những điều rất quan trọng, người tu phải nắm vững và thực hiện được, mới mong thành tựu chí nguyện của mình là giác ngộ và giải thoát. Đây là điều tôi cần nhắc cho toàn chúng biết rõ.

Ngày 13-5 Bính Tý (28-6-1996)

Buổi thỉnh nguyện hôm nay trong chúng ít ai có lỗi lầm, đó là điều đáng mừng. Càng ngày thấy chúng càng sống thuần thục, chỉ còn có những phiền não vi tế trong nội tâm. Mỗi người cố gắng tiêu trừ nó, làm sao cuộc đời tu hành của mình mỗi năm, mỗi tháng, mỗi ngày đều được tăng trưởng thanh tịnh, đừng để nảy sanh phiền não làm trở ngại đường tu của mình và chướng ngại cho người khác.

Vừa rồi đi Indonesia, tôi thấy có một Phật tử thật đáng quí. Đó là ông Silvie, người bảo lãnh tôi qua bên đó. Ông là cư sĩ tại gia, bận đủ thứ việc trong công tác làm ăn mà rất nhiệt tình lo cho Phật pháp. Bất cứ lúc nào, chùa nào có Phật sự là ông bỏ hết để đi làm. Ông thường nói với những người xung quanh rằng ông sợ Phật pháp mất đi. Bởi vì ở Indonesia, hồi thế kỷ 16 Phật giáo gần như là quốc giáo, mà bây giờ chỉ còn lại hai phần trăm dân số là Phật tử. Cho nên lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ.

Hôm đó chủ nhật, ông lên thăm tôi, đi bằng xe hơi, dọc đường thấy người Công giáo đi nhà thờ, già trẻ bé lớn đủ cả, nhất là lớp trẻ đi càng đông, ông than với tôi: “Chùa chiền chỉ có mấy ông bà già đi, còn nhà thờ thì lớp trẻ cũng đi, coi chừng Phật giáo Việt Nam sẽ đi tới chỗ suy đồi như Phật giáo Indonesia!”

Người cư sĩ mà nhiệt tâm lo cho đạo như vậy, tôi thấy thật là cảm động. Nhưng tôi nói cho ông biết: Chủ trương của tôi không phải là thu hút Phật tử đi chùa đông, cũng không phải truyền bá ra ngoài cho rộng, mà phải làm sao cho Tăng Ni tu đến nơi đến chốn, phải nhận ra được cái chân thật của mình, nói cách khác là thấy được đạo, đó là gốc Phật giáo không mất. Ví dầu mình có tổ chức hay, dùng mọi thuật quyến rũ người ta đi chùa nhiều, nhưng nếu Tăng Ni tu không ra gì thì cũng khó giữ mối đạo lâu dài. Cho nên chủ trương của tôi là tạo duyên cho Tăng Ni tu được, sáng được đạo. Như thế tôi tin rằng Phật giáo không mất.

Tại sao tôi tin như vậy? Vì thời đức Phật tuy số lượng Tăng, Ni và Phật tử người Ấn Độ không đông, nhưng những vị xuất gia đa số đều chứng quả A-la-hán, nên Phật giáo còn truyền mãi đến ngày nay. Cho nên chúng ta muốn duy trì Phật pháp thì mỗi người phải ráng tu, làm sao thấy rõ chánh pháp, nhận ra được cái chân thật của chính mình thì mới duy trì Phật pháp lâu dài. Vì vậy mong tất cả chư Tăng hiểu được ý đó mà cố gắng, trong thời gian mình còn khỏe, còn đủ điều kiện tiến tu đừng để phí thời giờ vô ích.

Tôi tin rằng ai quyết tâm tu và buông hết những thứ lăng xăng nhỏ nhít chung quanh thì sẽ có kết quả tốt không nghi ngờ. Tôi thấy từ bản thân mình có kết quả rõ ràng như vậy. Cho nên trong Thanh qui tôi dẫn ba điều kiện theo tinh thần ngài Trúc Lâm, mà điều kiện đầu là phải dứt khoát. Nghĩa là khi quyết tu thì mọi việc buông hết, chỉ làm những việc trong đạo do Thiền viện giao cho mình, còn bao nhiêu chuyện lăng xăng nghĩ ngợi về gia đình, xã hội… phải gạt qua một bên, chuyên tâm làm một việc, nhất định sẽ có kết quả.

Những năm tôi còn học và đi giảng, thật ra công chuyện rất nhiều, mỗi tháng tối thiểu cũng viết ba mươi lá thư trả lời cho Phật tử, rồi còn đủ thứ chuyện khác nữa. Đến khi nhập thất, tôi nghĩ rằng đời mạt pháp mình cứ quyết tâm tu chớ không mong gì có kết quả. Nhưng khi tôi buông hết mọi việc, quyết tâm nhập thất, chết sống ở trong đó không nghĩ tới chuyện gì khác, thì chỉ sau ba tháng tôi thấy có kết quả rõ ràng.

Như vậy từ kinh nghiệm bản thân tôi thấy rõ: Ai quyết tâm tu thì đời mạt pháp cũng có kết quả như đời chánh pháp. Nếu đời chánh pháp mà mình không cố gắng tu cũng không đi tới đâu. Bởi vậy, trọng tâm của sự tu là phải quyết tử. Nghĩa là chết sống trong việc tu, mọi việc phải gác qua hết, chỉ dốc sức tu thôi thì chắc chắn có kết quả. Đừng ngồi tu mà cứ lảng vảng trong đầu chuyện gia đình, xã hội, bạn bè…, dầu cho tu bao lâu cũng không có kết quả.

Đó là kinh nghiệm của bản thân tôi và tôi thấy mục tiêu duy trì chánh pháp là như vậy. Cho nên tất cả chư Tăng phải hiểu được ý đó và cố gắng thực hiện cho được. Chúng ta muốn lo cho chánh pháp lâu dài thì chính mình phải tu cho được, đó là điều căn bản không sai chạy. Vậy mong tất cả chúng Tăng nỗ lực tu hành.

∗ THỈNH NGUYỆN TĂNG (2)

Ngày 12-6 Bính Tý (26-7-1996)

Thỉnh nguyện hôm nay đa số có lỗi nhỏ không đáng kể, cũng đều biết thành tâm sám hối, nói lên lòng tự giác cao.

Kế đây tôi nhắc chúng về đường lối tu. Chúng ta tu hành phải có mẫu mực, không nên xem thường.

Chúng Tăng hay có cái bệnh là quan trọng việc gì lớn, còn việc nhỏ thường không để ý. Thí dụ như ngồi thiền có ba phần: nhập, trụ, xuất. Khi nhập thì dễ, còn khi xuất ở đây dường như chưa thống nhất, kẻ nhanh, người chậm, kẻ làm thế này, người làm thế kia… Tôi cũng đã chỉ nhiều lần rồi nhưng chưa chắc làm đúng.

Nay mai sẽ có hai vị Linh mục lên đây xin tập tu với mình. Nếu họ thấy xả thiền mỗi người mỗi kiểu, họ biết học theo ai? Thầy Quản chúng chỉ, rồi xuống thấy những người ngồi trước mặt hoặc kế bên mình, người xả kiểu này, kẻ xả cách kia, họ biết bắt chước ai. Cái đó hơi nguy. Những gì tôi nghiên cứu đem ra dạy quí vị không phải là bỗng dưng làm theo xu hướng nhất thời. Đó là điều tôi đã kinh nghiệm đưa ra ứng dụng. Giờ tôi nói dài dòng một chút.

Trước hết kể chuyện ngày xưa, lúc còn ở Ấn Quang tôi đi dạy, đi giảng rất nhiều. Vào khoảng 1960, 1961 tôi dạy ở chùa Pháp Hội, Hoà thượng Viện trưởng triệu tập các vị Trụ trì về đó để học khóa Như Lai Sứ Giả. Có chừng sáu mươi, bảy mươi vị tham dự khoá học. Trong mùa an cư chư Tăng khép mình tu hành trú dạ lục thời, nghĩa là ngày đêm sáu thời tụng niệm. Khi tôi dạy là gần cuối mùa hè, nhìn lại thấy thầy nào thầy nấy mặt xanh mét, mắt hơi đục đục. Tôi biết đó là hiện trạng không tốt, nếu tu như vậy sẽ đi tới phế nhân chớ không đạt kết quả gì.

Tôi nhớ có một bài kinh A-hàm kể rằng: Một hôm vua Ba-tư-nặc đi đến thăm Phật. Khi tới ngoài cổng, Vua thấy có hai chú Sa-di đang thong thả đi thiền hành, vua Ba-tư-nặc xá chào hai vị, nhìn thấy vị nào da dẻ cũng bóng láng và rất tươi. Khi vào trong, ông đảnh lễ Phật thưa: “Bạch Thế Tôn, chư Tăng ở đây ngày ăn có một bữa, ngủ ít, thức nhiều mà tại sao những vị đó lại tươi tắn đẹp đẽ, da dẻ bóng láng như vậy?” Đức Phật trả lời rằng: “Do chư Tăng tu thiền được an định nên cơ thể hiện ra những tướng tốt đó.”

Qua câu chuyện đó, tôi nghĩ người xưa tu hành càng ngày càng tươi tắn khoẻ mạnh, tại sao bây giờ càng tu da dẻ càng xanh xao, con mắt lờ đờ không sáng. Như vậy mình tu có đúng lời Phật dạy hay không? Không khéo đường tu của mình tới chỗ kiệt quệ rồi thành phế nhân. Nếu tu mà thành phế nhân thì tu làm gì? Đó là một dấu hỏi lớn tôi đặt ra trong lúc còn đang làm việc và tu học theo nếp cũ, tức tu Tịnh độ, niệm Phật, tụng kinh.

Trường hợp thứ hai như Hoà thượng Trí Minh bây giờ còn sống, lớp của Ngài cũng gần với Hoà thượng Viện trưởng. Chúng tôi thường nghe Hoà thượng Viện trưởng khen nức nở: Hoà thượng Trí Minh học kinh Lăng Nghiêm Trực Chỉ thuộc lòng hết chánh văn, học đâu nhớ đó, vừa thông minh, ham học lại vừa ham tu. Nhưng tới chừng Hoà thượng Trí Minh nghỉ học thì kiệt lực, không làm gì được nữa hết. Năm đó Hoà thượng về ở một cái thất nhỏ gần Thủ Đức. Tôi nghe quí Hoà thượng khen ngợi nên tìm tới thăm. Thấy Hoà thượng ở trong thất lá, tự nấu cơm ăn. Đến lúc nói chuyện, tiếng nói Ngài khàn khàn ở cổ không nghe rõ được. Suy kiệt đến mức ấy. Từ đó về sau Hoà thượng thành phế nhân luôn, không làm được gì nữa.

Như vậy chúng ta mới thấy, ham tu ham học là đức tánh hết sức tốt, vậy mà không khéo trở thành phế nhân. Khi thành phế nhân rồi thì sự tu học của mình không làm lợi ích gì cho ai được. Vì vậy tôi kinh nghiệm kỹ, thấy rõ nếu mình cứ tu theo đà đó, tụng kinh, niệm Phật và giảng dạy nhiều sẽ đi tới kiệt quệ. Mà quả nhiên, trường hợp tôi cũng như vậy.

Lúc đó tôi tu học đều đặn và đi giảng dạy khá nhiều, đến tối vẫn theo chúng tụng kinh. Tới năm 1961 tôi bệnh phổi. Khi bệnh rồi, tôi nghĩ đời mình tới đây là tàn, không làm được gì nữa. Tôi vào bệnh viện Đồn Đất trị ba tháng, thấy bớt ra viện. Ông bác sĩ người Pháp dặn cứ mỗi hai tháng trở lại xem bệnh, đồng thời cho thuốc chích và uống thường xuyên.

Sau đó, tôi được thầy Nhất Hạnh cho đất cất thất gần Phương Bối Am. Tôi nghĩ mình bị bệnh phổi, sống gần chúng có thể nguy hiểm cho người khác, nên nhất định không ở trong chúng, lên Phương Bối Am tịnh dưỡng. Tôi nhờ Phật tử ở Bến Tre cất cho cái thất, thầy Nhất Hạnh đặt tên giùm là Thiền Duyệt thất.

Thật ra, những năm đó đâu có bổn đạo nhiều, chỉ có vợ chồng Như Thông lúc ấy làm dược sĩ bán thuốc, lâu lâu lên ủng hộ. Mỗi lần lên, y cho tôi bánh mì khô và ít hộp sữa. Buổi sáng tôi khuấy một ly sữa chấm bánh mì khô ăn, không có gì khác. Trưa có dì Thợ đằng Phương Bối, tôi gửi tiền cho dì mua thức ăn nấu giùm bữa cơm trưa. Chiều uống ly sữa. Đứng về mặt bồi dưỡng thì không có gì đáng kể.

Từ đây tôi nhất định nghiên cứu cuốn Lục Diệu Pháp Môn của ngài Trí Giả đại sư, lúc trước ở Ấn Quang tôi đã dịch ra, nay đem nghiên cứu, ứng dụng tu. Mới tu tới Sổ tức, Tùy tức thôi. Ngày ngồi thiền, đêm ngồi thiền liên miên như vậy. Tôi lấy sự tu để trị bệnh, nguyện rằng một khi ra khỏi nhà thương thì không trở lại lần thứ hai. Thuốc men ngang đó không có ai chích nên cũng bỏ luôn. Không chích, không uống thuốc rồi cũng không trở về khám bệnh lại.

Tôi cố tình ứng dụng tu thiền. Tu được hơn một năm, thấy trong người khỏe lại. Đến lúc ở Phương Bối không được nữa, tôi trở về ở nhờ chùa Linh Sơn – Vũng Tàu ba tháng, trong một cái cốc nhỏ. Rồi Như Thông với ông Minh Đạo cho cái thất lá ở An Dưỡng Địa. Tôi về ở đó cũng chuyên tu thiền thôi, qua hai năm thấy khỏe hẳn, không đi tái khám nữa.

Lúc đó Hoà thượng Giám đốc và Hoà thượng Viện trưởng kêu tôi: “Bây giờ Thanh Từ khỏe rồi, về Ấn Quang tiếp dạy với quí Thầy.” Tôi thưa: “Giờ con tuy khỏe nhưng con không thể sống chỗ ồn ào nổi. Nếu quí Hoà thượng đặt cho một lớp học ở ngoài này thì con có thể làm được.” Quí Ngài đồng ý, do đó cất Phật học viện Huệ Nghiêm. Tôi mời thêm thầy Bửu Huệ, thầy Thiền Tâm, hai vị về hợp tác làm việc và dạy.

Năm 1964, tôi khởi sự dạy ở Huệ Nghiêm, Dược Sư, dạy luôn đằng Vạn Hạnh, dạy liên miên. Phổi yếu mà tôi làm việc như vậy. Trong suốt thời gian đó về sau tôi vẫn ngồi thiền. Ban ngày giảng dạy, khuya và tối ngồi thiền. Như vậy mãi đến 1968 tôi lên Chân Không tu thiền luôn. Bấy giờ phổi tôi hoàn toàn lành mạnh, trong khi vẫn giảng dạy không dừng.

Thế là thấy kết quả rõ ràng, nếu mình không khéo tu sẽ đưa tới chỗ bệnh hoạn, phế nhân. Còn khéo tu thì có thể chuyển bệnh hoạn trở thành mạnh khỏe để làm Phật sự. Từ đó tôi thấy lợi ích cụ thể của việc tu thiền nên nhất định theo hướng này. Tuy nhiên tôi chưa phăng tìm ra manh mối, đường lối tu nên rất dè dặt, vì mình không có được một vị lớn đi trước hướng dẫn, mà phải mò mẫm trong kinh điển tự tu. Có người dọa: “coi chừng tu thiền điên”, nhưng tôi thấy rõ là nhờ tu thiền sức khỏe được tăng thêm, đồng thời tâm trí ngày càng sáng suốt hơn. Bởi vậy tôi tuyên bố nhập thất.

Năm 1966 tôi ra Vũng Tàu cất Pháp Lạc thất. Năm đầu không tu được gì bởi vì phải dọn rừng, ban ngày làm, ban đêm tu. Lúc đó chỉ một mình nên tôi tự nấu nướng lấy. Có người quen ở dưới chợ cứ một tuần đem đồ ăn lên một hai lần. Mấy Phật tử cho tiền, tôi đưa cho họ mua thức ăn.

Buổi sáng tôi cũng ăn bánh mì khô với một ly sữa rồi đi phát quang cây cỏ, bụi rậm. Tới mười giờ vô tắm rửa, nấu cơm. Có hai bếp dầu (réchaud), một cái nấu cơm và một cái nấu canh. Bởi ở một mình, lại không có thời gian nên hai ba thứ rau, hoặc cà rốt khoai tây gì đó, tôi cứ gọt xắt rồi bỏ vô nồi, đổ thêm nước, nêm muối mẳn mẳn, vừa làm canh, vừa làm kho luôn. Mỗi bữa có một món duy nhất vậy thôi.

Chiều tôi xem Đại tạng kinh, tìm hiểu những lời Phật dạy để phăng mò cho biết đường tu. Bởi vậy lúc đó đâu có gọi “Thiền thất”, chỉ đặt là “Pháp Lạc thất”, tức là vui với chánh pháp chớ chưa vui với thiền. Tu một năm trời như vậy, đến năm thứ hai mới có một ít người lui tới. Bà Bảy với mấy cô ra ở dưới am Dương Chi, họ nấu cơm giùm đem lên mỗi bữa trưa. Từ đây tôi mới bắt đầu nhập thất. Tháng tư nhập thất tới tháng bảy ra, chỉ có ba tháng.

Khi còn làm Tri tạng ở Ấn Quang tôi thường xem Tạng kinh, nhất là những bộ nói về thiền. Nhưng càng đọc tôi càng bí, không hiểu các ngài dạy gì. Chỉ hiểu các cuốn Lục Diệu Pháp Môn, Tọa Thiền Chỉ Quán, còn qua tới Thiền ngữ thì chẳng thể hiểu nổi, thấy các ngài nói cái gì đâu đâu, không chỉ thật cho mình. Bởi vậy khi nhập thất, tôi không có đường lối tu cụ thể, chỉ lấy Lục Diệu Pháp Môn làm chuẩn để tu.

Ban đầu tôi sổ tức. Khi thấy không còn lộn hay quên gì nữa, tôi qua tùy tức, theo hơi thở vô ra rất có kết quả. Sau đó, tôi chuyển sang chỉ. Trong sách dạy dừng tâm ở đầu mũi, hoặc dừng ở trán hay ngực. Tôi dừng ở đầu mũi để thấy hơi thở vô ra. Giai đoạn này bị ngủ gục, không thể nào kềm nổi. Tôi chỉ còn niệm Phật, sám hối chớ không biết làm sao. Tu chỉ không được làm sao tu quán, thành ra Lục Diệu Pháp Môn tôi chỉ tu tới chừng đó.

Rồi tôi tu qua Tứ niệm xứ. Trước hết quán thân bất tịnh. Tôi quán ba mươi sáu vật trong thân, quán tới quán lui cho đến một hôm tôi gớm muốn ói, nhớ tới thân là rùng mình. Trong sách có dặn kỹ, khi có triệu chứng đó thì dừng không quán bất tịnh nữa. Nếu quán bất tịnh nữa có thể tự tử. Bởi vậy tôi dừng, chuyển sang quán tịnh.

Quán tịnh tức là tưởng xẻ trước trán ra bày một chút xương. Quán xương ban đầu đục, lần lần thành trong, rồi đến phát hào quang sáng. Đó là thành công quán tịnh. Tôi cũng y vậy làm theo. Xẻ ở trán quán ít bữa đau nhức chịu không nổi. Tôi lại tưởng xẻ ở sống mũi, quán một thời gian nhức lỗ mũi chịu không nổi. Tôi bèn tưởng xẻ xương ngực quán, nghe tức ngực không thể tiếp tục.

Như vậy Lục Diệu Pháp Môn bị dừng, qua quán bất tịnh cũng kẹt. Quán thân bất tịnh không được thì làm sao quán thọ, tâm, pháp?

Bởi vậy tu thật là khổ sở. Tôi thấy đường lối tu của mình có lẽ bế tắc. Cho nên mỗi sáng mỗi tối tôi lạy Phật sám hối. Tôi sám hối đơn giản lắm, chỉ quì trước bàn thờ Phật khóc, nói: “Con nghiệp chướng sâu dày, nay xin thành tâm sám hối, xin Phật cho con nghiệp chướng tiêu trừ.” Tôi lạy khóc kể lể chớ không biết nói gì nữa. Thầy không có, bạn cũng không, đành chịu. Kinh sách mình nắm vững mà tu không được, tu tới đâu kẹt tới đó. Do đó tôi ráng lễ Phật sám hối. Trong vòng ba tháng thì một chuyện xảy ra, hư thực không thể lường.

Một đêm nọ, tôi ngủ mộng thấy đi vào một ngôi chùa rất cổ, có thể giống như chùa Trung Hoa hay chùa Phước Hậu hồi chưa sửa vậy. Tôi bước vô nhà Tổ thấy có hai vị. Vừa thấy, tôi liền biết đây là Tổ sư Huệ Khả, đây là Tổ sư Tăng Xán. Tổ Huệ Khả mặt hơi vuông, đầu tóc ngắn, còn Tổ Tăng Xán mặt tròn tóc dài như một tháng chưa cạo. Tôi thấy rõ, nhớ hình dáng tới bây giờ vẫn không quên. Tôi liền chạy kêu Trụ trì: “Hai Tổ ngồi trên này, Trụ trì đâu mà không trà nước gì hết?” Tôi vừa kêu thì hai vị đứng dậy bước ra rồi đi thẳng.

Giật mình thức dậy, tôi chắc mình cũng có duyên với chư Tổ, nhất là Tổ Huệ Khả. Bởi vậy thấy Tổ tôi nhớ rất rõ. Chùa Vĩnh Tràng ở Mỹ Tho có một tượng đội mũ ở ngoài, dáng đội mũ thì không giống Tổ, nhưng gương mặt vuông vuông rất giống.

Sau đó, tôi tiếp tục cố gắng sám hối và ngồi thiền, hết cái này đổi cái kia. Có hôm tôi đổi qua tu thoại đầu, cũng đắc lực lắm. Lúc đầu đặt câu hỏi: “trước khi cha mẹ chưa sanh mình là cái gì” rồi ngồi tu. Trước đây tôi có dịch cuốn Tham Thiền Yếu Chỉ của ngài Hư Vân nên nắm vững lắm. Tu như vậy đến một hôm đề không được nữa. Nó cứng như đá, như cây, kỳ cục lạ lùng! Rồi tôi cứ ngồi trơ trơ, đề thoại đầu mãi không lên. Quí vị thấy, thật là cay đắng! Cuối cùng tôi xả ra khóc, rồi lạy Phật chớ không biết làm sao!

Một đêm thứ hai tôi nằm mộng, thấy Tổ Huệ Khả hẳn hoi. Ngài lại nói một bài thơ, nghe không biết bài thơ gì mà câu chót là: “Không bình không trắc.” Rồi tôi giật mình thức dậy. Khuya buổi đó tôi ngồi thiền, ngẫm nghĩ tại sao “không bình không trắc”? Tôi ngồi yên, vừa đặt câu hỏi như vậy, tự nhiên sáng được lẽ đó. Sáng được lẽ đó rồi, tôi cười hoài ba ngày, không biết nói gì. Sau đó tôi đem các kinh sách trong Tạng ra đọc, nhất là cuốn Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự(*). Ngang đây tôi mới hiểu rõ những gì chư Tổ nói, thấy được lý Thiền tông.

Bởi vậy, khi mình quyết chí tu, dù hiện tại không gặp pháp tu thích hợp thì long thần hộ pháp cũng gia hộ trợ giúp. Với quyết tâm của mình, mọi việc làm đều có kết quả. Vậy nên tôi mới nói: Đừng than mình sống thời mạt pháp. Hãy nghĩ dù chúng ta ra đời gặp Phật mà tu lơ là, lôi thôi thì tuy là thời chánh pháp kết quả tu hành cũng giống như thời mạt pháp. Còn bây giờ là thời mạt pháp, nhưng nếu mình quyết tử để tu thì cũng có thể chuyển như thời chánh pháp không khác. Tôi cương quyết nói như vậy vì đó là điều tôi thấy rõ ràng.

Từ khi đọc cuốn Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự, tôi mới thấy rõ những gì Tổ chỉ và nắm vững được đường lối tu thiền. Chư Tổ chỉ dạy hết sức đầy đủ tại sao mình không biết tu! Giờ biết rồi không thể làm thinh tu một mình, nên tôi xả thất ra lập Thiền viện.

Hồi nhập tôi có nói: “Tôi nhập thất kỳ này không có hạn kỳ, không có thời gian, không biết chừng nào ra.” Bởi vì tôi nghĩ mình tu thời mạt pháp, nghiệp chướng sâu dày, quí thầy Tịnh Độ đã dạy không thể nào tu thiền được, bây giờ mình liều chết tu chắc cũng không tới đâu. Vậy mà mới hơn ba tháng tôi ra, thiên hạ cười, nói rằng: Mới ba tháng đã chịu không nổi, thế mà tuyên bố nhập thất không hạn kỳ!

Nhưng tôi luôn luôn chủ trương rằng: Mình làm cái gì mà thấy lợi ích cho mình, hữu ích cho người thì phải làm. Nhất là khi tôi biết được điều gì hay cũng muốn đem dạy người, chớ không thể giấu giếm được. Bây giờ tôi đã thấy rõ thiền rất thiết yếu cho đời tu. Nếu tu Phật mà không tu thiền thì khó mở sáng con mắt trí tuệ. Bởi vậy, sự nhiệt tình đó thúc đẩy tôi mở cửa sớm, với tâm niệm mình có được lợi ích gì thì cũng muốn làm cho người khác được như vậy, chớ không phải cho riêng cá nhân mình thôi.

Lúc tôi vào thăm thầy Bửu Huệ, thuật lại việc tu hành và dự định mở cửa để ra làm Phật sự, thầy Bửu Huệ hơi trách, phải chi tôi ở trong thất năm bảy năm nữa sẽ tiến bộ nhiều lắm, mở cửa như vậy sớm quá. Nhưng với tâm nhiệt thành, khi thấy được điều hay, tôi không giấu giếm một mình được, phải chỉ cho mọi người cùng biết. Do đó tôi khẳng định mở Thiền viện.

Năm 1970 tôi tuyên bố cất Thiền viện Chân Không. Hoàn cảnh khi đó thật khó khăn, không có tiền bạc gì nhiều, chỉ có một ít Phật tử thân tín ủng hộ cất được một Thiền đường. Thiền đường chiều ngang hẹp, chiều dài dài, để vừa lạy Phật, tụng kinh, vừa tọa thiền được, chớ nếu cất chiều ngang rộng quá thì không có bề sâu. Chánh điện cất sơ sài trước, rồi nhà Tăng từ từ cất sau.

Tôi rất dè dặt, vì nghĩ rằng bản thân mình tu thiền được sự tiến bộ như vậy cũng nhờ túc duyên. Nhưng hiện tại quí Thầy lớn cứ nói tu thiền điên nên tôi rất ngại, mở Thiền viện mà không dám thâu nhiều người vì hai lý do: một là sợ người ta điên, hai là sợ họ tu không nổi, nên tôi chỉ thu có mười người đáng tin cậy thôi.

Đợt đầu ba năm, không thấy ai điên mà kinh tế cũng không đến nỗi nào, tôi yên lòng. Đợt thứ hai tôi chuẩn bị thâu nhiều hơn, luôn bên Ni, cho tới chùa Linh Quang ở Cát Lở, tổng số gần bảy mươi người. Tôi tính ba năm nữa, khi lớp cũ tu kha khá thì cho nhập thất, còn lớp sau tu xong rồi tôi sẽ nhập thất lại. Nhưng không ngờ lớp sau mới tu nửa chừng thì dở dang. Năm 1974 mới bắt đầu khóa hai thì tới 1975 có thay đổi. Xã hội thay đổi, sự tu hành của mình cũng bị chuyển theo. Nên ngang đó chúng không mãn khóa được, tôi cũng không có thời gian nhập thất, kéo dài cho đến ngày nay, rốt cuộc tôi cũng chưa nghỉ.

Nói chuyện dài dòng như vậy để quí vị biết tôi làm gì cũng rất cẩn thận. Điều gì có trải qua và đã làm được, tôi mới dạy, chớ không phải nghe ai nói đâu đó rồi bắt chước làm theo.

Như bản thân tôi bệnh phổi, nhờ tu lần lần khỏe lại. Từ năm 1964 tôi dạy ba bốn năm trời mà phổi vẫn tốt. Sau này tôi nghỉ ít năm, rồi giảng dạy luôn đến bây giờ. Có nhiều người nghe tôi giảng trong băng mà không biết mặt, đến khi gặp tôi, họ nói: “Tụi con nghe tiếng trong băng ngỡ Thầy còn trẻ lắm, giọng Thầy không có khàn như mấy ông già.” Chính nhờ tôi tu nên tâm trí sáng suốt và cơ thể được nhẹ nhàng, khỏe khoắn. Đó là sự thật tôi đã kinh nghiệm.

Lúc tôi nhập thất năm 1968, mới có một tháng thì màng thịt trong con mắt kéo qua sát mí tròng đen. Như Thông là dược sĩ, thấy vậy nói: “Con mắt Thầy phải trị, chớ khi màng kéo qua lấp tròng đen là không thấy đường.” Tôi thấy mình vô thất mới hơn một tháng mà đi trị bệnh thì không ổn.

Tôi nhớ lại Hoà thượng Long Sơn ở dưới Tiểu Cần. Năm đó Hoà thượng đã hơn bảy mươi tuổi, Ngài cũng bị màng thịt như vậy, đi chữa trị một thời gian về rồi mù luôn. Tôi nghĩ, thời gian mình nhập thất không có bao nhiêu, sự tu hành đối với tôi còn xa tít mù, chẳng biết đến lúc nào mới có một hai ánh sáng chiếu soi để mở con mắt trí tuệ. Vậy mà bây giờ mở cửa thất đi trị bệnh thì vô lý quá! Thà chết, thà mù chớ không đi!

Trước đây tôi có đọc trong Tọa Thiền Chỉ Quán, ngài Trí Khải có dạy: Nếu bị bệnh ung nhọt gì ở đâu thì trụ tâm ở đó, lần lần nó sẽ tan. Vì trụ tâm chỗ nào thì hơi nóng tập trung chỗ ấy, có thể tan được nhọt. Tôi nhớ trong sách dạy lúc xả thiền xoa tay áp vô mắt cho ấm, vì mình nhìn lâu mắt bị khô. Nhưng bây giờ muốn màng thịt trở lui, đừng kéo vô tròng đen nữa phải làm sao đây? Tôi lấy hai ngón tay giữa, chà cho thật ấm rồi xoa lên mắt, đẩy màng thịt lui. Khi đẩy tưởng nó tan đi, mỗi khi xả thiền làm chín lần như vậy. Từ từ cái màng lùi lại, cho tới bây giờ không lấn ra nữa.

Tôi thấy rõ ràng nếu khéo tu có thể chữa hết bệnh, đó là kinh nghiệm bản thân. Quí vị nhớ thân tôi không phải là ít bệnh. Hồi xưa bệnh phổi cũng là nan y, sau hết bệnh phổi qua bệnh tim vì mấy năm tôi không được vui nên phát bệnh. Ngoài ra còn những bệnh lặt vặt nữa, nhưng nhờ tôi tu thiền, tâm không chao đảo, loạn động, nên được khỏe về tâm. Khi tâm khỏe thì thân cũng ảnh hưởng một hai phần. Hơn nữa, khi ngồi thiền, tôi ngồi đúng pháp và khi xả thiền cũng xả đúng pháp nên thân được khỏe. Đó là điều tôi muốn nhắc cho quí vị, hiện giờ khi ngồi thiền ứng dụng như thế nào để tâm được yên, và phải xả thiền như thế nào để thân mình khỏe mạnh. Những điều này tôi đã kinh nghiệm qua, ứng dụng cho bản thân có kết quả nên mới chỉ dạy người khác.

Trong kinh có dạy: Nếu ngồi thiền buông ra mà xả không đúng pháp hoặc xả dối sẽ có hai cái hại. Thứ nhất là khi chúng ta ngồi yên một chỗ, lại tréo chân trên bồ đoàn lâu, gân cốt và mấy mạch máu bị cấn, bàn tọa của mình chịu ảnh hưởng có thể bị thần kinh tọa. Hai là nếu gân không mềm dẻo thì có thể bị cứng gân, sẽ đơ người, nên phải xoa bóp kỹ.

Hồi trước tôi cũng xoa bóp thường thôi. Nhưng một hôm tôi vào thăm thầy Bửu Huệ bệnh, thấy có mời mấy vị chuyên trị về Đông y đến, mấy vị đó bảo mỗi ngày phải xoa mặt ba lần, mỗi lần chừng hai mươi cái. Tôi hỏi xoa để làm gì, họ nói tất cả các huyệt quan trọng của mình đều nằm ở mặt, nên dùng điện châm để trị bệnh. Lỗ tai cũng xoa hai mươi cái như vậy thì các huyệt lưu thông tốt, không bị nghẽn sanh bệnh. Ở đầu cũng vậy. Bác sĩ chỉ rõ chỗ nào tác dụng ra sao và bảo thầy Bửu Huệ phải làm theo.

Do đó tôi thấy rằng hồi trước xả thiền mình xoa bình thường, bây giờ phải xoa kỹ hơn, nên tôi dạy chúng xoa cho đúng cách. Xoa từ trên xuống dưới, nếu đúng thì nghe ấm khỏe. Sách Đông y nói rằng: “thông tắc bất thống, thống tắc bất thông”, nghĩa là máu huyết được lưu thông thì không đau nhức, còn đau nhức là do lưu thông không được.

Bây giờ làm sao khí huyết trong cơ thể lưu thông được hết? Muốn vậy khi xả thiền quí vị khéo xoa cho đều, trong người khỏe khoắn thì sau đó chúng ta đi, đứng hoặc làm gì cũng hăng hái vui vẻ. Trái lại, xả thiền lôi thôi sẽ sanh bệnh. Đó là điều tôi kinh nghiệm kỹ rồi mới ứng dụng và thấy có kết quả thật tốt.

Như vậy, khi xả thiền quí vị xoa đều và mạnh để da ấm hồng lên, thông các huyệt và điều hoà máu huyết. Hai lỗ tai cũng có nhiều huyệt, xoa cho mạnh vừa giúp cơ thể khỏe, vừa trị được các bệnh. Còn đầu mình ảnh hưởng đến thần kinh nên phải xoa thật kỹ, mỗi động tác hai mươi lần, bản thân tôi làm hai mươi lăm lần. Xoa cho mạnh chớ không phải xoa nhè nhẹ. Xoa xong nghe ấm lên mới đúng.

Có những cái rất khó trị mà nhờ xả thiền kỹ tôi trị được, chẳng hạn như con mắt tôi, nên quí vị ráng làm cho đúng cách. Hôm trước nghe có người bị đau thần kinh tọa. Tôi cũng có lần ngồi nghe đau thần kinh tọa, nhức giật giật trong chân, tôi xoa thật nhiều và mạnh, sau này tự động nó hết, không uống thuốc gì cả. Quí vị phải khéo, chỗ nào yếu hoặc đau nhiều thì xoa mạnh và kỹ hơn, sẽ có kết quả.

Tôi đã kinh nghiệm qua, thấy có lợi ích và không bị bệnh hoạn nên bảo quí vị phải làm. Ráng làm đúng như vậy thì trong thời gian tu cơ thể quí vị không bị tổn hại và sự tu hành tinh tấn, đồng thời mai kia quí vị lớn lên làm thầy chỉ dạy người ta có kết quả tốt đẹp. Từ hồi đó tới giờ, những người đến học và làm đúng lời tôi dạy không sanh bệnh hoạn. Tôi luôn tự nguyện với lòng rằng nếu do mình mà người ta khổ và bệnh tật thì nhất định không làm. Nên khi tôi thấy có kết quả thật sự từ thân đến tâm mới dám dạy người. Tôi không làm để lấy danh hoặc làm cho có hình tướng.

Vậy nên quí vị cẩn thận, làm sao để trong khi tu, về thân được khỏe mạnh không tốn tiền thuốc và không mất thời giờ tu. Thân khỏe thì tâm cũng có ảnh hưởng tốt. Tâm an ổn tu hành, sớm tỉnh giác là điều thiết yếu trên đường tu chớ không phải thường. Cho nên quí vị đừng lười biếng. Nếu quí vị ngồi thiền mười lăm phút hoặc ba mươi phút thì có thể xả dối được. Còn ngồi hai tiếng đồng hồ mà xả thiền không đúng cách thì chỗ ngồi lâu bị cấn, máu huyết không lưu thông, bị ngăn trệ lâu ngày thành bệnh.

Chúng ta làm không đúng cách sau này dạy ai cũng thành bệnh luôn. Bây giờ nếu trong quí vị có một người làm sai thành bệnh, sau này dạy hai, ba mươi người cũng thành bệnh, càng nguy hiểm. Vậy nên quí vị phải cẩn thận, tự mình được lợi ích dạy người mới có lợi ích, còn quí vị ngồi sanh bệnh sau này dạy người cũng sanh bệnh. Đừng để người ta nói do ngồi thiền hay do tu thiền sanh bệnh.

Vì vậy tất cả phải siêng, đây là trách nhiệm của mình, thấy như việc nhỏ mà nguy hại rất lớn. Quí vị cẩn thận đừng có xem thường. Người hướng dẫn lúc nào cũng có trách nhiệm nặng nên chúng ta phải làm đàng hoàng, phải kinh nghiệm trong đời tu của mình, thấy rõ cái gì hay, cái gì làm trở ngại. Điều trở ngại chúng ta tránh, cái hay đem ứng dụng rồi dạy cho người. Nếu quí vị không có ý thức, siêng thì làm lười biếng liền thôi, vậy là nguy lắm, sau này thành thói quen, khi muốn chỉ dạy ai trở nên lúng túng.

Đó là tôi nói về cá nhân. Còn nói về tập thể, những người hiện thời đang chú ý nhiều đến tập thể này. Người ta thấy như là một cái mới, tuy tôi thấy rất xưa, nên họ chú ý và chờ xem kết quả của mình, coi quí vị tu ở đây có người nào bị điên không? có người nào bại liệt không? Nếu có người điên hoặc bại liệt người ta sẽ đồn với nhau, rồi mình bị cười chê, chế giễu, không những riêng bản thân quí vị mà cười cả đường lối tôi dạy, ảnh hưởng cho tập thể lớn lắm. Bởi vậy những gì tôi dạy, quí vị phải nghiền ngẫm và ứng dụng cho đúng, đừng để sai chạy.

Sau này tôi đọc sách thấy Tổ Đạt-ma có dạy phải dùng phương pháp “lộc lô song quan” để ngừa bệnh cảm, tôi ứng dụng thêm lộc lô. Sau mỗi lần xả thiền ra, tôi lộc lô mỗi động tác năm mươi lần, đầu hôm và khuya đều đặn như vậy.

Khi lên Đà Lạt, tôi gặp một ông già tám mươi tuổi lại thăm Phước Tịnh, ngồi nói chuyện chơi. Ông nói sở dĩ lớn tuổi như vậy mà khỏe mạnh là nhờ tập gạch đều đặn. Ông kể, có chú hàng xóm thách đố làm ổng nổi giận, lại cặp tay vô cổ ông giở lên, tưởng ông già tám mươi không làm gì nổi. Ai dè ông trả đòn làm thằng kia hoảng hồn, nó lạy ổng. Có khi ông đạp xe đi chợ, thấy các bà các cô yếu đuối đi coi bộ chậm chạp, ông kêu lên xe chở giùm. Già mà chở người ta bằng xe đạp! Tôi thấy lối tập đó hữu hiệu nên ứng dụng theo, sáng nào cũng cầm hai cục gạch tập bốn mươi mấy lần. Nhờ vậy tay tôi cứng và mạnh, không bị run, chớ già yếu tay dễ run lắm!

 Những cái tôi làm có hiệu quả rõ ràng. Quí vị thấy tôi già nhưng khi trở trời, trở gió cũng chỉ nhảy mũi thôi, không bị cảm như một số người.

Còn bây giờ nhiều người trẻ quá mà đủ thứ bệnh, vì không chịu khó, không ráng tập. Phải tập thể dục. Mình có thân thì phải ráng điều hoà, tập cho nó được tốt. Như tập lộc lô đứng trong phòng cũng được, rất đơn giản. Còn tập gạch thì kiếm một góc nào đó, rất dễ dàng, không khó. Nhờ tôi khéo tập, khéo tu mà bệnh giảm đi. Đó là điều quan trọng.

Tôi muốn làm sao tất cả Tăng Ni ở đây, khi tu phải nắm vững đường lối tu của mình, thân được khang kiện, tâm thanh tịnh, vậy là kết quả tốt. Còn càng tu càng bạc nhược, yếu đuối thì rủ người ta không ai dám tu.

Hôm qua có mấy Phật tử nói: “Tụi con chịu nước da như Sư ông vậy đó.” Thấy mình khỏe mạnh người ta ham, họ muốn con cháu họ cũng khỏe mạnh như mình. Vậy để thấy rằng nếu chúng ta khéo điều thân đúng cách, được khỏe mạnh thì dạy dỗ ai cũng tin. Tu theo tôi được khỏe mạnh nên bước đầu họ dễ có cảm tình, rồi lần lần tâm mới thanh tịnh, sáng suốt. Còn mới vô thấy mình uể oải, đau ốm ai tin nổi, tu hành đau ốm quá tu làm gì!

Quí vị phải khéo tự điều hoà để bản thân được khỏe mạnh. Muốn được vậy phải chịu cực, đừng lười biếng. Khi xả thiền phải làm đúng cách mới giữ được sức khỏe. Sau đó lộc lô, mỗi động tác chừng năm mươi lần, làm cho đúng quí vị sẽ thấy cơ thể mình có sức khỏe tốt.

Đó là những kinh nghiệm tôi đã trải qua, đã ứng dụng trong cuộc sống. Nhắc lại cho tất cả biết, rồi lát nữa sau khi hồi hướng, giải y xong, tôi sẽ ngồi lại, xả thiền đúng thứ tự cho quí vị nhớ thật kỹ. Chừng khoảng ba tháng thì Thông Phương phải kiểm lại, ngồi thiền, xả thiền sao cho đúng, đừng sai chạy.

Hôm nay tôi nói chuyện dài để tất cả trong chúng ý thức được sự tu hành của mình, từ những hình thức rất nhỏ mà khéo dùng đúng cách sẽ hữu ích, không khéo lại có hại. Cái hại đó trước cho mình, sau dạy người khác hại lây nữa, nên quí vị ráng cẩn thận. Khi người khác tới học với mình, họ thấy ai cũng như ai, từ cách ngồi thiền đến cách xả đều đúng như nhau mới không nghi ngờ. Đừng để mai kia có ai muốn học thiền, gặp ông thầy này dạy cách này, qua thầy khác dạy cách khác, họ sẽ thắc mắc không biết quí thầy ở trường nào mà mỗi người làm mỗi cách như vậy. Người ta sẽ cười mình tu hành không thống nhất.

Tôi nhắc nhở, tất cả quí vị lưu ý thực hành.

Ngày 28-6 Bính Tý (11-8-1996)

Kỳ thỉnh nguyện này trong chúng chỉ có một hai lỗi nhỏ, đã tự thức tỉnh ra sám hối, đó là điều rất tốt. Chúng Tăng tu càng ngày tâm tánh càng thuần thục, trong hành động cũng được đầy đủ oai nghi tế hạnh, đây là tiến bộ đáng mừng.

Hôm nay tôi có ít điều nhắc nhở cho toàn chúng thấy rõ con đường tu của mình. Thật tình mỗi khi có vị nào phạm lỗi lầm, nhất là những lỗi do sân hận, tôi đều có nhắc nhở nhưng chưa hết ý. Giờ đây tôi giảng lại cho tường tận để mỗi vị tự kiểm điểm lại mình rồi theo đó tu hành.

Trong nhà Phật, trọng tâm của tất cả giáo lý đều đi tới vô ngã. Vô ngã nghĩa là không có ta. Nếu tu mà không có ta thì tu sao được, tu rồi rốt cuộc thành cái gì? Đó là những nghi vấn nhiều người đã đặt ra.

Thật tình vô ngã ở đây là chỉ cho chúng ta tu cốt làm sao phá được chấp ngã. Trong kinh Bát-nhã nói “soi thấy năm uẩn đều không”. Trong năm uẩn, sắc uẩn thuộc cái ngã về thân; thọ, tưởng, hành, thức thuộc cái ngã của tâm. Như vậy, Bồ-tát tu sở dĩ được tự tại qua hết khổ ách là do phá được ngã về thân và ngã về tâm.

Sắc uẩn gồm bốn thứ: đất, nước, gió, lửa. Chúng ta ngồi lại xét kỹ, thấy thân này từ tứ đại hợp thành rồi cũng theo tứ đại mà bại hoại mất đi. Nó không có gì thật hết, mà người thế gian mê lầm, nghĩ thân tứ đại là thật, rồi chạy theo những đòi hỏi của nó: mắt chạy theo sắc, tai chạy theo âm thanh, mũi theo mùi hương, lưỡi theo vị, thân theo cảm xúc. Năm phần này nhà Phật gọi là ngũ dục lạc.

Sở dĩ năm căn ưa đuổi theo ngũ dục là vì tưởng lầm nó thật, nên theo hoài không chán, không dừng. Cuộc đời mấy mươi năm chỉ chạy theo ngũ dục cho tới lúc bại hoại, lo cho nó đầy đủ, sung mãn, rốt cuộc rồi cũng đi đến tan rã, không giữ được. Đó là chuyện làm công không vô ích. Cho nên Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ thân tứ đại là do duyên hợp, không thật có. Nhớ nó không thật thì tất cả những xúc chạm đến thân, mình không phản ứng, không tức giận. Thân vô ngã là bước thứ nhất để chúng ta quán xét không lầm lẫn.

Thứ hai là thọ, tưởng, hành, thức. Bốn cái đó thuộc về tâm, cũng vô ngã. Thọ là những cảm xúc. Tưởng là tưởng tượng, hoặc thế này, hoặc thế nọ. Ai tưởng khác với mình thì không chấp nhận. Hành có chỗ dịch là ý chí, có chỗ dịch là tâm ý. Tâm ý chúng ta chuyển dịch, đổi dời luôn luôn. Cũng như khi đi, bước này vừa chạm xuống đất thì bước kế tiếp nối liền. Nó đổi dời liên tục nên gọi là hành. Như vậy tâm trí của mình là dòng chuyển biến không ngừng, không có gì là thật hết. Kế đến, thức là phân biệt, mắt phân biệt sắc, tai phân biệt tiếng… Theo Duy thức học, phân biệt có ba phần: ở trong có căn, ngoài có trần, căn trần tiếp xúc nhau khởi ra thức phân biệt. Như vậy, sở dĩ phân biệt phát sanh là do ba duyên tụ hội: căn, trần và thức, chớ cái thức tự nó không có, đợi đủ duyên mới có.

Như vậy, xét cho tường tận, ngũ uẩn là tướng giả hợp không có thực thể, nên Phật dạy là vô ngã. Trong kinh Bát-nhã nói năm uẩn đều không. Không là không có chủ thể. Nếu chúng ta hằng thấy, hằng nhớ như vậy thì khi có chuyện gì làm cho thân này thua thiệt, ta chỉ cười: “Thân giả dối có gì quan trọng!” Nếu có điều gì xúc chạm đến nội tâm tức thọ, tưởng, hành, thức, ta cũng thấy đó chỉ là dòng chuyển biến hư giả không thật. Phải nhớ rõ như vậy! Cái không thật mà mình cho là thật, rồi sanh ra nóng giận, bực bội, buồn phiền là khờ dại, không sáng suốt.

Mỗi ngày soi xét, chiếu kiến luôn luôn như vậy, trên đường tu chúng ta sẽ thoát ra được những vướng mắc mê lầm. Chẳng những thoát khỏi mê lầm mà còn được an nhiên tự tại. Từ thân tâm vô ngã đó, ta mới nhận ra chân ngã hay Bản lai diện mục của mình, được giải thoát sanh tử.

Vì vậy, muốn tiến tới chỗ giải thoát sanh tử, trước phải nhận ra cái giả, đừng lầm nó. Lầm cái giả cho là thật thì dầu cái thật hiện tiền hiển nhiên mình cũng không bao giờ biết được, vì mãi bám vào cái giả cho là thật rồi thì bao giờ thấy được cái thật! Cho nên biết giả là giả, đừng lầm lẫn thì một ngày kia mình sẽ thấy rõ cái chân thật. Chính đó là đường đưa mình tới giải thoát sanh tử. Vậy mong đại chúng khi tu phải nhận thức cho tường tận. Nếu tất cả Tăng chúng không có bệnh chấp ngã thì tôi nghĩ đây cũng là cõi Cực Lạc rồi, không đợi phải về Tây phương mới có.

Mong toàn chúng ráng tu hành tinh tấn, soi thấy tường tận bản thân và nội tâm mình, đừng lầm lẫn.

Ngày 28-7 Bính Tý (10-9-1996)

Phần thỉnh nguyện đã xong, bây giờ tôi có mấy lời nhắc toàn chúng về một điểm trong bản Thanh qui.

Ở đây chủ trương chư Tăng phải sống thanh đạm, đó là điều tôi chú ý nhiều. Chư Tăng nên hiểu rằng chúng ta dù cho có phương tiện để sống đầy đủ, nhưng người quyết tâm tu thì lúc nào cũng phải sống đạm bạc, vì đạm bạc là hạnh tốt. Nếu chúng ta sống quá sung túc, quá dư thừa e tổn phước, đồng thời người khác nhìn vào sẽ phê bình rằng người tu mà thụ hưởng, không hay.

Có một câu chuyện trước đây tôi cũng thường kể cho đại chúng nghe. Năm 1961 tôi bị bệnh phổi, vô nằm bệnh viện Đồn Đất. Những năm đó tôi đi giảng nhiều nên Phật tử thương, họ thuê cho tôi phòng hạng nhất, được săn sóc chu đáo lắm. Khi ấy ở bên phòng hạng nhì có một Linh mục cũng bị đau phổi. Phòng nhì thì hai người ở chung, còn phòng của tôi chỉ có một mình. Những lúc rỗi qua lại thăm hỏi cho vui. Tôi thấy người ta là Linh mục, mình là thầy tu, mà mình nằm hạng nhất còn người ta hạng nhì. Tôi hỏi:

– Sao Linh mục không thuê phòng hạng nhất nằm cho yên ổn?

Ông trả lời:

– Vì tiết kiệm tiền nhà chung nên tôi không dám nằm phòng hạng nhất.

Nghe vậy tự nhiên tôi thấy xấu hổ. Tôi biết đồng tiền thuê phòng cho tôi là do Phật tử đóng góp chớ không phải lấy của chùa, nhưng tôi cũng cảm thấy áy náy. Người ta biết gìn giữ không làm hao tốn của nhà chung nên nằm như vậy. Tôi xấu hổ vì thấy rằng tinh thần tổ chức trong đạo của mình không được dè dặt, tiết kiệm như người ta.

Chính vì vậy nay tôi nhắc tới nhắc lui cho toàn chúng điều này. Tất cả những gì chúng ta có ở đây là của chung, chư Tăng cần gì có quyền xin mua sắm đúng như nhu cầu, hoặc do ban Quản chúng mua sắm cho, như vậy không có lỗi. Nhưng nếu mua sắm sang là có lỗi, bởi vì sang là quá mức cuộc sống đạm bạc của mình.

Tôi nói thí dụ như trường hợp T.L chẳng hạn, vừa rồi đi mua cặp kính lão, nghe Thủ bổn báo cáo là bốn trăm ba chục ngàn đồng. Như vậy là thiếu sự tiết kiệm của chung. Vẫn biết đây là của chung chớ không phải của cá nhân nào, nhưng mình xài cho vừa phải, đừng quá đáng. Một cặp kính vừa gọng vừa kính chừng hai trăm là được rồi, mua tới hơn bốn trăm tôi thấy sang quá!

Trong đây nếu mỗi người già đều sắm cặp kính như vậy tốn chừng bao nhiêu tiền? Ở đây chúng ta sống theo lục hoà, nếu ông thầy này mua cặp kính như vậy thì ông thầy kia cũng phải vậy, kết quả là chi phí quá nặng. Đó là tôi nói sở phí, lại còn sự phê bình nữa. Phật tử thấy quí thầy ăn mặc sang trọng, mang kiếng tốt ắt sẽ phê bình. Đó là điều cần phải dè dặt, bằng không người ta sẽ phê phán mình ở đây xài sang. Nếu sang thì ý nghĩa cuộc sống đạm bạc đề ra trong Thanh qui đã mất rồi.

Vậy toàn chúng mỗi vị đều phải ý thức rằng chúng ta sống một đời sống đạm bạc, ăn uống chừng mực, mặc vừa đủ ấm. Tất cả nhu cầu cũng vừa phải thôi, theo cái nếp người bình dân chớ không phải theo cách sống của người sang cả. Như vậy chúng ta mới tránh khỏi sự phê bình của người khác. Nếu sống theo lối sang cả là phản bội tinh thần bản Thanh qui mình đã đề ra, đồng thời Phật tử sẽ nói chúng ta ở đây tu mà thích sang. Thích sang tức là tâm tu hành không đầy đủ, thiếu quyết liệt, bởi vì người ham tu không màng vật chất, nên lúc nào cũng đơn giản đạm bạc chớ không thể sang cả được. Nên trong chúng mỗi người phải ý thức rõ mình đang sống một nếp sống đạm bạc để yên tu. Đạm bạc không có nghĩa là thiếu thốn, chúng ta đủ nhưng đủ trong nếp bình dân.

Hồi tôi qua Pháp, có một bà Phật tử xin cúng dường một cái xe mới. Tôi nói:

– Quí Phật tử phát tâm cúng dường như vậy là tốt, nhưng ở Việt Nam đóng thuế mắc lắm, một chiếc xe mới về đóng thuế một trăm phần trăm, có khi hơn nữa, cúng cho tôi một chiếc cũng bằng tôi mua một chiếc nữa, như vậy tiền đâu mà đóng?

Các Phật tử trả lời:

– Chúng con xin chịu hết mọi phí tổn.

Tôi nói:

– Mấy Phật tử thương nói như vậy, nhưng thật ra tôi sống trong Thiền viện còn phải lo cho Tăng Ni, chớ không phải chỉ nghĩ riêng phần mình. Số tiền lớn như vậy nếu tôi nhận, hoặc bằng lòng cho quí Phật tử chịu trọn vẹn để tôi sung sướng sang trọng trong khi Tăng Ni không đủ sống thì tôi không nỡ. Thôi chuyện đó để dành khi khác!

Vậy là tôi từ chối. Quí vị nghĩ xem, được người ta cho, mình khỏi tốn gì hết mà tôi còn từ chối, vì không dám làm cái gì tỏ ra mình sang. Ở đây quí vị thấy, tôi chịu đi mấy chiếc xe cũ kỹ người ta cho, chớ không thích sắm xe mới. Thà Phật tử đến rước giùm hay cho mượn thì xe gì cũng được, còn ở chùa thật tình tôi không muốn cái gì sang hết.

Như vậy chúng ta phải làm sao sống đúng tinh thần đạm bạc. Hơn nữa, quí vị biết trách nhiệm của tôi không chỉ lo riêng Thiền viện Trúc Lâm, mà còn bao nhiêu việc khác nữa, thí dụ như lo cho mấy Thiền viện kia. Cụ thể vừa rồi ở Huệ Chiếu có năm cái thất hồi xưa lợp lá, bây giờ mục hết, mưa dột, đến thưa với tôi: “Thưa Thầy, bây giờ tụi con chỉ đủ khả năng sửa hai cái thôi, còn ba cái kia không biết làm thế nào?” Quí vị nghĩ sao? Tôi phải ứng ra cho họ sửa, đâu có thể chỗ này dư chỗ kia thiếu được. Trách nhiệm của tôi không đơn giản chỉ một nơi, một chỗ, mà chỗ nào rộng tôi đem bù cho chỗ thiếu, chỗ nào có nhu cầu như chùa hư, không có tiền sửa thì mình giúp đỡ.

Như vậy chư Tăng nên hiểu mình không nên nghĩ ở đây dư rồi xài thoải mái. Nếu dư thì phải chia sớt cho chỗ nào thiếu hụt. Chúng ta chưa có khả năng chia sớt cho toàn thể các chùa, thì ít ra cũng chia sớt trong các Thiền viện của mình cho cuộc sống được quân bình, yên ổn để tu. Không phải ở đâu có là ở đó tự hưởng hết, dư hưởng theo dư, thiếu phải chịu thiếu. Điều đó lâu nay tôi đã không đồng ý. Tôi thường trách là trong đạo của mình chỗ thì thừa chỗ thì thiếu, không được quân bình để giúp cho chư Tăng Ni yên ổn tu.

Bây giờ cá nhân tôi không thể nào lo cho tất cả nổi, thì ít ra trong những Thiền viện, chỗ nào rộng phải giúp chỗ thiếu hụt, sang qua sớt lại để trong thời tôi còn sống, các Thiền viện đều được an ổn. Chỗ nào dư để phòng, khi có chỗ nào thiếu mình phụ vô. Như vậy cuộc sống tu hành có đạo vị hơn. Mình chia sớt nhau để được bình an tu hành, đừng nên ỷ viện mình có tiền là cứ xài hết. Nếu có dư phải để phụ chỗ khác thiếu, đừng ích kỷ không tốt.

Đó là những điều tôi nhắc cho toàn chúng biết, chúng ta phải sống cuộc sống rất đạm bạc. Đạm bạc ở đây đồng nghĩa với tinh thần tu thiền không thụ hưởng, không xa hoa, để đời sống mình bình an tự tại, không bị vật chất quyến rũ, lôi kéo, như vậy sự tu hành mới dễ tiến. Nếu chúng ta còn nặng về vật chất, bị vật chất chi phối thì đời tu không tiến được. Đó là điều tôi đã từng thấy và lưu tâm. Bởi vậy tất cả chư Tăng phải hiểu rõ và thông cảm.

Lại nữa, ví dụ ba thầy cùng đi ra với nhau, mỗi thầy đều phải mang kiếng lão, nhưng có thầy mang kiếng tốt, có thầy mang kiếng xấu, người ta đánh giá thế nào? Họ sẽ thắc mắc sao Thầy chủ trương lục hoà mà có kẻ này người khác. Như vậy là không tốt. Vậy nên quí vị ráng cẩn thận, dè dặt. Những nhu cầu mình cần, trước hết nên nhìn lại trong chúng, nhìn chung quanh xem họ có hay không. Đừng nghĩ mình có cứ xài. Dù tiền cha mẹ cho cũng đừng xài quá mức cần thiết, không tốt. Đó là điều tất cả nên lưu ý. Tôi nhắc nhở ít lời như vậy để toàn chúng biết nếp sống của mình, sao cho khế hợp với sự tu hành, đừng nên làm sai biệt.

Ngày 13-8 Bính Tý (25-9-1996)

Hôm nay tôi có vài điều nhắc nhở đại chúng.

Chúng ta tu là nương theo pháp Phật. Lời Phật dạy không phải chỉ để đọc hoặc giảng nói mà để chúng ta tu. Tu là thực hành lời Phật dạy, dẹp bỏ những xấu dở, điên đảo của nội tâm, chớ không phải chúng ta chỉ có hình thức bên ngoài là người tu, hoặc ngoài miệng tụng kinh là đủ. Nếu quên ứng dụng những lời Phật dạy để tự răn, sửa lấy mình, chừa bỏ những điều hư dở thì chưa hẳn là tu.

Như vậy, chúng ta tu phải khéo ứng dụng hằng ngày, hằng giờ, hằng phút ở nội tâm. Vừa có một niệm xấu dấy lên liền phải ngăn chặn, ngừa đón nó, như vậy là tu. Nếu những tâm niệm xấu dở chúng ta không dẹp bỏ được cũng chưa hẳn là tu. Có nhiều người nói tu nhưng khi gặp việc buồn, hoặc trái ý liền nổi sân. Chúng ta chưa làm chủ được mình nên thân, khẩu, ý dễ tạo nghiệp thành tội.

Cho nên nói tu là nói tới chỗ khéo điều hoà, khéo làm chủ nội tâm, sao cho cuộc sống của mình giữa mọi người luôn đem lại an vui. Nếu với huynh này mình không ưa, huynh kia mình ghét, huynh nọ mình thù…, đó là người thế gian chớ không phải kẻ xuất gia. Người xuất gia thì tất cả những điều đó không nên có. Nhưng nếu không khéo tu lại khó tránh khỏi.

Cho nên ở đây tôi mong tất cả quí vị nhớ trong lục hoà có ý hoà đồng duyệt, không khéo tu thì không bao giờ thực hiện được ý hoà đồng duyệt. Bởi vì ý mỗi người mỗi khác, nên dễ có chuyện bất đồng, rồi tự mình không bằng lòng, không vui nên không “đồng duyệt” được. Phật dạy chúng ta phải tâm ý vui hoà với huynh đệ. Nếu có những ý kiến sai khác, mình cũng phải khéo điều hoà, đừng để trở thành bực bội hay chống đối, thù ghét.

Người tu chúng ta cần sống trong ý hoà đồng duyệt, bằng không mỗi người là một vũ trụ riêng, không ai hợp với ai được, đó chính là cái họa của Phật pháp. Nghĩa là chư Tăng, chư Ni rất đông mà không thể hoà hợp thì đạo pháp sẽ đi tới chỗ suy vong. Chỉ vì người này chỉ trích người kia, người kia phê bình người nọ, cứ như vậy mà bao nhiêu phiền hà, hư dở xảy ra liên miên, khiến cho tất cả Phật tử chán ngán, không còn muốn đến với đạo nữa. Chúng ta tu mà đem lại bất mãn cho Phật tử thì Phật pháp khó truyền bá sâu rộng.

Bởi vậy chúng ta phải khéo điều phục nội tâm mình, đừng để nó dấy động khiến huynh đệ sanh ra buồn phiền không tốt. Trong cuộc sống chung tu hành, nếu chúng ta không xem nhau như ruột thịt thì cũng phải thấy như người cùng lý tưởng. Do đồng lý tưởng nên phải khéo hoà hợp để chung lo, chung sức làm được những Phật sự tốt trong ngày nay và cả mai sau, như vậy Phật pháp mới lâu bền. Nếu mỗi người cứ giữ lập trường: ta hơn hết, ta trong sạch, còn người khác là xấu dở, ngu ngốc…, đó là hỏng lớn, chỉ làm cho tập thể mình ngày càng suy lụn, có tội rất nặng.

Vậy mong rằng tất cả chúng Tăng nhớ kiểm điểm lại mình, nếu thấy còn những ý niệm dở, buồn giận người này, ghét hiềm người nọ thì phải xóa sạch và điều hoà lại để sống với nhau cho vui vẻ, yên hoà. Được như vậy mai kia tôi có theo Phật, quí vị mới chung nhau lo Phật sự được. Nếu bây giờ ở chung mà không ai bằng lòng ai, đến khi tôi mất rồi làm sao hợp tác chung lo? Phật sự không phải một mình có thể làm được mà phải nhờ nhiều người. Kẻ hay điều này, người khéo việc kia, chung vai gánh vác mới có kết quả. Đừng bao giờ nghĩ một mình là đủ, không cần hợp tác với ai.

Tu không phải chỉ tụng kinh hay, thuyết pháp giỏi, mà tu là khéo điều phục được những ý niệm xấu dở, những tâm hành ngã mạn, kiêu căng của mình, trở thành con người ôn nhu, khiêm tốn, thuận thảo, sống hoà vui với tất cả. Đây là cái khéo trên đường tu, cũng là nền tảng để mai kia mình làm được Phật sự lớn lao cho đạo. Đó là lời nhắc nhở của tôi.

∗ THỈNH NGUYỆN NI (1)

Ngày 28-10 Ất Hợi (19-12-1995)

Hôm nay Thầy có những điều nhắc nhở toàn chúng.

Ở đây, với tinh thần Thiền viện, Thầy sẵn sàng để ngỏ, khi nào có ai chán ở đây cứ thưa rõ, Thầy cho đi liền, lại có tiền xe đi, còn nếu trốn thì không có tiền xe. Cứ việc thưa: “con không thích ở đây nữa, cho con đi chỗ khác”, Thầy cho đi liền, không bao giờ ngăn một lời, sẵn sàng cho đi không có điều kiện gì hết, cũng không khuyên răn, rầy phạt hay bắt bồi hoàn gì. Xin là cho đi ngay.

Thầy từng nói với tất cả tụi con, Thầy muốn những người tới đây đều quyết tâm nhiệt tình tu giải thoát sanh tử, nên Thầy tạo duyên cho tu, còn ai không thích ở nữa, muốn rời đi chỗ khác, Thầy sẵn sàng vui vẻ cho đi để người khác đến tu. Chính bây giờ còn nhiều người xin mà Thầy không nhận vì chỗ có giới hạn, khi nào ai vắng Thầy cho người khác vào, chớ không phải vì sợ không có chúng mà giữ lại. Giả sử ở đây còn chừng mười người mà quyết tâm tu Thầy cũng hoan hỉ như thường, chớ không cần đông số lượng để khoe người ta. Thầy không chủ trương như vậy.

Cho nên, cửa Viện để ngỏ, tụi con đứa nào không thích ở đây nữa cứ thưa, Thầy nói Thủ bổn cho tiền xe đi, chớ không ngăn, không rầy. Đừng muốn đi rồi trốn, người ta sẽ nghĩ ở đây chắc Thầy khó khăn lắm, sợ bồi hoàn gì đó nên phải trốn đi, không dám thưa trình. Đó là điều không tốt, làm cho người ta nghĩ xấu về Thiền viện.

Từ xưa tới giờ, Thầy thâu đệ tử hay thâu chúng ở các Thiền viện, Thầy thường nói vô thì khó mà ra rất dễ. Tại sao vậy? Vì vô phải có đủ điều kiện, có cha mẹ cho phép, có giấy tờ hợp pháp Thầy mới nhận. Còn ra thì vị nào có ý chán không thích ở nữa Thầy cho đi, không bao giờ ngăn. Thầy không sợ mất người, mất số Tăng Ni rồi Thiền viện mình vắng, ít. Thầy không có quan niệm đó.

Thầy từng nói với tụi con, Thầy làm Phật sự là vì chúng sanh chớ không phải cho bản thân Thầy, hay vì củng cố địa vị. Thấy tụi con quyết tâm nên Thầy tạo duyên cho tụi con tu. Nếu người lớn không tạo duyên cho người nhỏ tu, đó là lỗi của người lớn. Vì Thầy thấy các nơi, người mới xuất gia rất tốt. Xuất gia thời gian lâu rồi thối tâm, đó là lỗi của người lớn không khéo sắp đặt, không hướng dẫn đúng mức.

Ở đây Thầy chủ trương rõ ràng: chỉ một việc tu thôi, không có việc gì khác. Bởi vậy nên cấm đi đây, đi kia là muốn cho tụi con yên tu. Cấm không được kết bè bạn vì sợ tụi con phiền não, rối tâm tu không được. Cấm không cho giữ tiền bạc vì sợ tụi con bận lo lắng này kia. Cấm làm những chuyện phi pháp vì sợ tụi con lãng phí thời giờ vô ích. Tất cả những cấm đoán đó là vì tụi con, muốn tụi con trong thời gian ở đây năm, mười năm tu có kết quả tốt, mỗi đứa đều có tiến, dù không tới chỗ cao tột cũng phải có tiến, chớ không phải ở đây đi ra rồi cũng như hồi mới đến.

Bởi trách nhiệm đó nên Thầy cố gắng tạo duyên cho tụi con tu. Mà tạo duyên thuận trên đường tu thì nghịch trên đường đời, phải không? Ba mẹ bệnh không cho về lâu, bạn bè gởi thư lên không trả lời, cũng không rủ lên thăm, đó là trái với đời. Chính vì trái với đời mà thuận với đạo. Đó là kinh nghiệm bao nhiêu năm của Thầy ở Phật học đường.

Từ nhiều năm nay Thầy lo cho Tăng Ni tu hành, Thiền viện này là chuyến chót. Thầy dồn hết sức lực, hết khả năng để lo cho tụi con yên tu, làm sao để năm bảy năm tụi con tu có kết quả thật sự Thầy mới vui. Bởi vậy cái gì lo được cho tụi con Thầy đều ráng lo. Chỗ tận lực của Thầy, ai quyết tâm tu sẽ thấy, còn đứa nào mãi theo các duyên bên ngoài thì không thấy.

Không phải Thầy kể công với tụi con, mà muốn cho tụi con biết rằng bổn phận của người lớn là lo cho có người sau tiếp nối. Ngọn đèn trước sắp tắt, ngọn đuốc trước sắp tàn, thì phải có ngọn đèn sau, cây đuốc sau nối tiếp. Đó là trách nhiệm của người đi trước. Không phải Thầy lo cho tụi con học giỏi, học hay, có danh tiếng để Thầy nhờ. Thầy không nghĩ vậy. Thầy nghĩ cái gì người trước làm được thì người sau phải kế thừa, tiếp nối, cho mỗi ngày mỗi tốt hơn, sáng hơn, chớ không để tối tăm, mờ mịt. Đó là chỗ Thầy trông đợi và quyết tâm làm cho được.

Vì vậy, ai quyết tu thì những cái nghịch với thế gian phải cố gắng chấp nhận làm cho được. Đồng thời những cái thuận với sự tu cũng phải làm cho được, đừng có lơ lửng mất hết thì giờ quí báu. Tuổi tụi con còn thanh niên, còn đủ sức lực, đủ sáng suốt, phải ráng thực hiện cho được. Đừng để mai kia già yếu, muốn vươn lên cũng không được. Nên thời gian ở đây là thời gian quí báu chớ không phải thường, tụi con đừng xem thường cái quí báu của mình. Mỗi đứa phải cố gắng thực hành cho tốt.

Hiện nay việc ăn, mặc, ở đối với tụi con đã tạm đủ, tới uy tín Thiền viện Thầy cũng gây được cho tụi con. Đã tạo uy tín lớn cho tụi con rồi, Thầy rất lo ngại mai kia tụi con ra, không đúng như những gì người ta tin tưởng, đó là điều đáng tiếc.

Bởi vậy Thầy mong tất cả tụi con, đứa nào cũng ráng tu, nghĩa là những gì người ta trông đợi tụi con mười phần, ít ra cũng phải được năm, bảy phần, chớ rồi không có gì hết là rất dở.

Tụi con thử nghĩ, từ ngày ở Chân Không cho tới nay là bao nhiêu năm? Hồi ở Chân Không không ai biết tới thiền, Thầy cố gắng một mình vận động, tu hành, giảng dạy khiến cho nhiều người trong nước được biết, rồi đến những người ở nước ngoài cũng biết, rằng Phật giáo Việt Nam có những cái rất hay.

Chỉ cá nhân Thầy thôi mà đã gây được uy tín như vậy, tụi con Tăng Ni dồn lại mấy trăm người, nếu đứa nào cũng nỗ lực tu học, thâm nhập lý thiền, thấy rõ đường lối của chư Tổ Việt Nam, nhận được cái hay đó đem ứng dụng vào đời sống của mình được kết quả tốt, thì mai kia người ta sẽ thấy Phật giáo Việt Nam có những cái kỳ đặc. Thầy thường nói với những người tới hỏi han về đường lối tu ở đây rằng Thầy đang làm bổn phận của Thầy:

– Một là tạo hình thức về kiến trúc Thiền viện thuần túy Việt Nam. Điều đó Thầy đã làm được.

– Hai là Thầy ráng giảng cho hết những tài liệu của Thiền học Phật giáo Việt Nam để in thành sách.

– Ba là tạo duyên cho Tăng Ni tu có kết quả.

Thầy thường nói, dù mình khen Phật giáo Việt Nam hay đến thế nào, nếu người tu theo không ra gì, rốt cuộc lời khen ngợi tán thán của mình chỉ là lời rỗng, không có ý nghĩa. Vì vậy, Thầy vừa tán thán Phật giáo Việt Nam, vừa phải cố gắng tạo điều kiện tốt để tụi con tu theo cho có kết quả. Mai kia người ta thấy lời của chư Tổ rất hay, nhìn lại sự tu của tụi con cũng hay, chừng đó mới tin chắc Phật giáo Việt Nam thật là cao quí. Nếu chúng ta nói hay mà làm không được, làm sao người ta tin?

Vậy nên Thầy nhắc nhở tụi con, đứa nào có duyên đến đây thì phải quyết tâm tu, tu làm sao cho có kết quả tốt. Đó là tụi con đáp lại sự mong mỏi của Thầy, đáp lại sự trông đợi của Phật tử. Nếu tụi con lơ là, phí thời giờ vô ích, đó là tụi con không làm tròn bổn phận của mình, làm cho Phật giáo Việt Nam ngày mai không còn có giá trị đúng như thuở xưa.

Hôm nay, nhân H.C trốn đi, Thầy nhắc lại cho chúng biết rõ ràng mục tiêu Thầy nhắm. Thầy không bao giờ thấy người đó đi rồi mà Thầy hối tiếc. Bởi vì, ai không muốn ở Thầy rất hoan hỉ cho đi. Nhưng Thầy trách một điều là ở đây Thầy để ngỏ mà không đi ngõ chánh, lại chui rào, đó là đáng trách. Nếu ai muốn đi cứ đến thưa đàng hoàng Thầy cho đi ngay, đừng chui rào không hay. Thầy nói cho tất cả tụi con hiểu, nên theo đó thực hành.

Ngày 15-11 Ất Hợi (5-1-1996)

Thỉnh nguyện hôm nay xét thấy trong chúng có những lỗi nhỏ đều biết sám hối để chừa bỏ, đó là rất tốt. Nay có những sơ sót đó, tuy nhỏ không đáng kể nhưng là cái mầm, nếu biết chừa và trừ dẹp thì lỗi lớn không xảy ra.

Hôm nay Thầy nhắc chung tất cả, chúng ta là người tu, dù ít dù nhiều đều đã nhận định được đâu là thông minh sáng suốt, đâu là mù tối mê mờ. Tất cả tụi con đều có lý tưởng cao cả, có chí nguyện quyết cầu giải thoát sanh tử đã nguyện hứa từ khi phát tâm xuất gia cho đến hôm nay. Vì tụi con có nguyện lớn đó, nên phải biết thận trọng đừng nuôi dưỡng ba độc tham, sân, si.

Ba độc là nhân dẫn chúng sanh tới con đường sanh tử đau khổ, đưa mình đọa trong ba đường ác: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Cái đau khổ của kiếp người còn rất nhẹ so với địa ngục. Ở đó một ngàn lần khổ, thế gian chưa có khổ nào bằng, vậy mà người thế gian đã đổ biết bao nhiêu nước mắt, thì cái khổ địa ngục biết ngần nào tính kể! Nhẹ nhất trong ba đường ác là súc sanh như bò, trâu, dê, chó… Những con vật đó mình thấy dường như ít khổ, nhưng thật ra chúng khổ dai dẳng. Chẳng hạn như những con chó chùa nuôi, mình thương, săn sóc, cho ăn uống đầy đủ, nhưng nó lúc nào cũng ngứa ngáy, nằm đâu gãi đó, lăng xăng đủ thứ. Đó là cái khổ tự thân của chúng, ngoài ra vì ngu khờ dại dột, chúng làm những điều trái ý người, nên bị rầy la đánh đập… Đó là nói sơ cái khổ của các loài.

Bởi vậy, biết tu rồi tụi con phải hằng tỉnh giác, đừng nuôi dưỡng cái nhân đi trong ba đường ác. Trái lại, phải gỡ bỏ hết các mầm xấu xa đó để vươn lên, vượt hẳn những con người tầm thường, thành bậc Thánh nhân, chớ đâu thể chấp nhận tầm thường mãi. Nếu còn nuôi dưỡng tham, sân, si là không nhớ tới lý tưởng cao siêu của mình nữa.

Trong khi tu, không thể một lúc bừng giác ngộ liền, mà phải thường tỉnh sáng, các nhân xấu đưa tới chỗ đọa tụi con phải trừ dẹp. Dẹp những cái đó trước, rồi các quả cao siêu mới đến với tụi con được. Ngồi đó mong giác ngộ mà những điều xấu dở lại nuôi dưỡng thì làm sao được quả tốt. Vậy nên tụi con luôn kiểm điểm lại tâm mình, đừng để cho tham, sân, si che lấp, lôi kéo đi trong ba đường xấu ác. Dẹp hết ba độc thì tâm tỉnh giác mới hiện tiền, bằng không chỉ là mong rỗng.

Tụi con nên dè dặt, cẩn thận trong cuộc sống chung đụng giữa mình với huynh đệ. Khi tụi con thấy bản thân mình đang gỡ bỏ ba độc thì cũng nhắc cho huynh đệ gỡ bỏ, dứt trừ, như vậy mới đồng tiến, đồng vươn lên. Nếu mình nuôi dưỡng ba độc thì người khác cũng dễ nhiễm theo, phải không? Ví dụ mình nổi sân nói bậy, người kia cũng nổi sân nói bậy lại, như vậy gây ra một đám sân si với nhau.

Cho nên trong chúng, một người tu được tốt, được hay thì những người khác từ từ bắt chước theo. Ngược lại, có một người xấu cũng sẽ gây mầm ung độc cho bao người. Vậy nên tụi con ráng dè dặt, chúng ta tu đừng mong cái gì cao siêu đến, mà phải hằng tỉnh giác dẹp bỏ những thứ dở xấu đang che đậy nội tâm mình. Đừng ngồi mơ ước một hôm nào đó mình sẽ phát hào quang, thấy được mười phương thế giới. Mơ ước vậy mà ai động tới liền nổi sân thì có mâu thuẫn không?

Không có ông Phật nào còn tham sân si. Ba món đó hết mới đạt được Phật quả. Nên tụi con phải ráng nhìn lại mình cho thật tường tận để gạt bỏ hết những thứ hư dở, chính mình được an nhiên thanh tịnh rồi, mai kia mới được giác ngộ. Đó là điều Thầy nhắc tụi con nhớ, nhớ cho thật kỹ, thật sâu để sự tu hành của mình đúng với nhân, đạt đến quả. Đừng mong quả mà không chịu tu nhân. Nhân sạch tam độc mới có quả giác ngộ. Đó là điều chắc chắn không nghi ngờ. Vậy tất cả tụi con cố gắng!

Ngày 28-11 Ất Hợi (18-1-1996)

Hôm nay có ít lời nhắc nhở tụi con.

Trong kinh dạy: “trực tâm là đạo tràng”, tức là người biết giữ tâm ngay thẳng chân chất thì gần đạo, sống đúng với đạo. Tụi con sống với Thầy, với ban Lãnh đạo và huynh đệ, cần cái gì nên nói thẳng cái ấy, không giấu giếm, không sợ sệt gì hết, bởi vì đó là chuyện thật có sao nói vậy.

Tụi con cứ thật thà ngay thẳng với nhau thì cuộc sống sẽ đem lại một tình thương. Chính nhờ chân thật mới có lòng tin. Người ta thường nói “tin yêu”, nghĩa là có tin mới có thương mến, nếu không tin không bao giờ thương được. Vì vậy toàn chúng phải tập, thấy thế nào thì nói thế ấy, nghe thế nào thuật lại như vậy, đừng nên tô điểm thêm theo ý riêng của mình rồi sanh ra nghi ngờ huynh đệ.

Lúc nào tụi con cũng thành tâm nhiệt tình nhắc nhở nhau trên sự tu hành, luôn luôn phải có lòng chân thật thương giúp nhau, thấy cái gì trở ngại chướng đạo phải răn nhắc nhau để chừa bỏ. Làm sao cho Thầy thấy tụi con yên ổn tu học tiến bộ Thầy mới yên tâm, đồng thời những người chịu trách nhiệm trong chúng mới có thể vừa lo cho tụi con, vừa được tu thanh tịnh.

Nếu tụi con thiếu thật thà ngay thẳng hay nghi ngờ nhau, sẽ làm trong chúng xáo trộn. Từ sự xáo trộn đó, việc tu của tụi con không an thì tất cả sự trông đợi của Thầy không bao giờ có kết quả. Thầy không mong tụi con nói những điều cao siêu, chỉ mong trong cuộc sống thực tế gần gũi, tụi con thật thà với nhau và thật thà với người trên. Như vậy tụi con dễ tu dễ tiến, vì đường tu là con đường đạo đức, đạo đức quí trọng tâm thật thà ngay thẳng. Thiếu thật thà thì không thể có đạo đức.

Phật dạy người cư sĩ giữ năm giới, trong năm giới có giới không nói dối. Huống nữa chúng ta xuất gia rồi, thọ Tỳ-kheo rồi, lại còn những lời nói trái với lẽ thật, không tốt. Nên Phật thường răn dạy chúng ta tu “trực tâm”, tức là tâm ngay thẳng. Chính nhờ tâm ngay thẳng, chúng ta gần đạo và sống đúng với đạo, cho nên nói “đạo tràng”. Nếu tâm mình quanh co là trái đạo, dù cho ngồi trong chùa hay trước Phật cũng không gần Phật được.

Vậy nên người biết tu phải dè dặt tự ngừa đón, những gì mình thấy có vẻ quanh co không được ngay thẳng thì sửa liền, đừng để thành bệnh. Tất cả chúng ta đang tu chớ không phải Thánh nên vẫn còn cái xấu. Nay học lời Phật, Tổ dạy, nghe lời Thầy nhắc nhở cố gắng sửa, nhờ sự sửa đổi đó mai kia tụi con mới hay, tốt và đạt được đạo. Biết rõ như vậy, chúng ta đồng cố gắng chuyển hoá từ tâm phàm tình lần lần thành tâm trong sáng, đầy đủ trí tuệ và tình thương để tự mình giác ngộ rồi dìu dắt mọi người.

Nếu chúng ta tâm không ngay thẳng, không chân thật thì làm sao có được trí tuệ và lòng từ bi? Bởi vì trí tuệ là thấy đúng như thật, từ bi là lòng thương chân thành, chớ không phải tình thương ngoài miệng hoặc chiều uốn. Huynh đệ thương nhau vì cùng chung lý tưởng giải thoát, cùng nhau giúp đỡ tu để có kết quả tốt, đó là tình thương chân chánh. Nếu thương nhau vì tình cảm riêng tư quanh co, đó là lòng tà. Trí tuệ cũng vậy, nếu người thấy đúng như thật rồi dạy người khác cái thấy biết đó để ứng dụng tu hành giải thoát gọi là chánh trí. Ngược lại, trí khôn ngoan xảo ngụy là tà. Tà trí hay thế trí không phải là trí giác ngộ giải thoát.

Vậy nên tụi con phải tập thấy biết đúng như thật, có tình thương đúng như thật và đối với người, lúc nào cũng xử sự đúng như thật. Được như thế, tụi con sẽ là người mẫu mực tu hành, có đủ tư cách để hướng dẫn người sau. Nếu không như vậy, chính mình không ra gì làm sao dìu dắt người khác được.

Thầy mong tất cả tụi con sống đúng như thật, thấy nghe, chỉ dạy hay nói năng đều giữ tâm chân thật.

Ngày 28-12 Ất Hợi (16-2-1996)

Thỉnh nguyện hôm nay chỉ có những lỗi nhỏ, tụi con biết sám hối sửa đổi là tốt. Nếu lỗi nhỏ mà không sửa, lần lần thành lỗi lớn, làm chướng ngại sự tu của mình.

Thầy lúc nào cũng mong mỏi, trông đợi tụi con cố gắng. Một là tự tu, tâm mình càng ngày càng thanh tịnh sáng suốt. Hai là đối với chị em chung quanh thường hướng dẫn, giúp đỡ, nhắc nhở, sao cho tất cả trong chúng trở thành người hay, người tốt. Phải đầy đủ cả hai phần trí tuệ và đạo đức chớ không thể chỉ có một bên. Kẻ dở mà biết tu sửa sẽ trở thành hay, còn người hay mà cố chấp những bệnh của mình rồi cũng thành dở.

Thầy mong tất cả tụi con, khi biết mình còn những sơ sót vì thói quen tập nghiệp cũ, nay được nhắc nhở, chỉ bảo phải cố gắng sửa. Như thế từ đây về sau mới trở thành người tốt. Thầy lo lắng cho tụi con, không phải vì muốn có đông người tu để được tiếng tốt cho Thầy, cũng không phải cố kềm tụi con trong hình thức thời khóa, nói năng, đi đứng nghiêm chỉnh để cho người ta thấy mà nể phục. Điều Thầy lo là làm sao khi Thầy nhắm mắt rồi, tụi con đủ khả năng gánh vác chút ít Phật sự, duy trì chánh pháp trong thời hiện tại này.

Cho nên Thầy muốn tụi con là những người quyết tâm tu hành. Quyết tâm thì trên đường tu sẽ có những cái hay, lúc ấy tụi con nghĩ thương những người chưa biết, chưa sáng, cố gắng trợ giúp họ. Những người mới tới với tụi con không thể nào đầy đủ tất cả các hạnh. Tụi con chỉ cần sống đúng tư cách một người tu hành có đức hạnh thì những người sau đến đây, được tụi con hướng dẫn cũng sẽ có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh. Như vậy mới có thể duy trì được Phật pháp lâu dài.

Nếu có hạnh mà không có trí cũng khó làm lợi cho đạo. Còn có trí lại không hạnh thì không đủ tư cách để người ta quí mến, cũng không lợi cho đạo bao nhiêu. Vì vậy cả hai mặt, tụi con cố gắng giữ tròn thì mai kia mới làm được nhiều điều lợi ích. Được vậy, tụi con sẽ thẳng tiến trên con đường tu hành lợi mình lợi người đầy đủ.

Chúng ta tu, nếu không nghĩ tới lợi ích chung cho chúng sanh, thì lối tu đó chưa thật tình theo Phật, vì đạo Phật không cho phép ích kỷ, trái lại phải luôn luôn có tâm từ bi. Mình lợi lạc được bao nhiêu thì đem chỉ dạy người khác cũng được lợi như mình. Không phải mình tu phần mình, còn ai sao mặc kệ.

Thầy mong tất cả tụi con, một năm qua là một bước tiến, những gì còn vướng mắc trong năm bây giờ bỏ hết để chuẩn bị qua năm mới có những cái hay hơn, tốt hơn. Đó là sự trông đợi của Thầy.

Ngày 13-1 Bính Tý (2-3-1996)

Hôm nay là buổi thỉnh nguyện đầu năm, trong chúng thấy có ít lỗi không đáng kể. Tất cả tụi con tu hành trong một năm qua chắc chắn nội tâm có những chuyển biến tốt. Sống chung trong chúng tụi con không còn phiền hà nhau, không còn những sai sót đáng trách nữa, đó là điều đáng mừng.

Như trong kinh A-hàm kể rằng: Khi Phật thấy chư Tăng hoà hợp chung sống với nhau liền khen: “Hạnh phúc thay, Tăng già hoà hợp!” Khi xưa, chúng Tăng hoà hợp tu hành vui vẻ được tán thán, đó là hạnh phúc, là bước tiến đáng kể của người xuất gia. Hôm nay tụi con sống trong đoàn thể bốn, năm mươi người cũng được hoà hợp tu hành yên ổn, thật là tốt!

Có những người nhập thất năm, ba tháng có được những bước tiến đáng mừng, nhưng khi ra khỏi thất, đối duyên xúc cảnh, lâu lâu cũng bị xao lãng. Ở đây tụi con tuy không có những bước tiến vượt bậc đó, nhưng mỗi ngày tu đều đặn, sống trong huynh đệ đông đảo, thông cảm và tha thứ nhau, giúp đỡ nhau nên không có chuyện gì đáng trách xảy ra. Như vậy, tuy sống trong chúng nhiều người mà lòng không phiền não, tâm vẫn an ổn. Đó là một điều rất tốt, chứng tỏ tập khí tụi con có phần giảm nhẹ, không sanh bỉ thử, thị phi nên sống trong hoà hợp. Tuy tụi con không tiến nhanh, chỉ từng bước đều đều, nhưng bước nào vững bước ấy, thì tới một ngày nào đó tụi con sẽ đủ sức, đủ điều kiện bước ra khỏi Thiền viện để làm Phật sự không ngại. Người xưa thường nói: “Đức chúng như hải.” Tụi con ở trong đoàn thể, cùng nhau tu hành, sống theo nếp đạo thì phước đức dần dần được tăng trưởng.

Tụi con sống trong chúng coi như thường nhưng người ngoài thấy nếp sống, nếp tu hành của tụi con, họ rất hoan hỉ. Dù không giảng nói một câu nào, nhưng hành động và sự tu hành vững chắc của tụi con người ta nhìn thấy đều phát tâm, tùy hỉ. Đây là một điều đáng mừng. Vì vậy Thầy thường nhắc tụi con hãy lo tu, tu cho đúng tinh thần đạo lý, đó chính là truyền bá Phật pháp. Tụi con chỉ yên lặng tu, nhưng nhờ có đức hạnh mà người ngoài cảm mến quí phục. Từ tâm cảm mến quí phục đó họ tiến gần với đạo.

Thầy thường nói đây là thời mạt pháp, có nhiều điều phức tạp, trong giới tu hành xảy ra những chuyện không vui. Vậy mà tụi con khép mình vào đây, chịu sự hướng dẫn của Thầy, hoà hợp trong tình huynh đệ, quyết chí lo tu. Tuy chưa làm gì quan trọng, nhưng chính nhờ chỗ tu hành miên mật của tụi con mà Phật tử đặt nặng lòng tin, xem là nơi nương tựa. Nếu số Tăng Ni đông mà tìm không ra người quyết tâm tu đúng với tinh thần đạo đức, hoặc ở chung một chỗ một nơi mà không hoà hợp với nhau thì lòng tin của Phật tử sẽ mất từ từ.

Là người tu, chúng ta có bổn phận giữ gìn ngôi Tam Bảo mãi trường tồn, mỗi ngày mỗi sáng sủa hơn. Chúng ta còn phải làm sao cho lòng tin Tam Bảo của Phật tử mỗi ngày mỗi vững mạnh hơn, khiến họ luôn giữ được tâm mến đạo kính Tăng. Vì vậy, đầu năm Thầy thấy tụi con hoà hợp, nương nhau tiến tu, Thầy rất vui mừng. Mong rằng nề nếp này được duy trì mãi mãi, để tụi con bước từng bước vững chắc đến chỗ viên mãn. Đó là lời nhắc nhở của Thầy.

Ngày 28-1 Bính Tý (17-3-1996)

Phần thỉnh nguyện xong, Thầy có ít lời nhắc nhở trong chúng.

Gần đây Thầy có đọc một quyển sách khoa học có liên hệ đến người tu thiền. Trong đó người ta cho rằng những người suy nghĩ nhiều cái đầu thường nóng, nên bị yểu, sống không lâu; còn người tu thiền để tâm yên không suy nghĩ, không dấy động, nên trong đầu mát dịu có thể sống dai. Họ còn nói người ở xứ lạnh dễ sống dai hơn người xứ nóng. Bởi vì người xứ lạnh như được ở trong tủ lạnh hoài nên mát mẻ, không chết yểu. Ở xứ nóng đã nóng nực, còn thêm suy nghĩ, thần kinh căng thẳng rất có hại cho sức khoẻ.

Ngồi thiền tuy không bị căng thẳng nhưng do tập trung nhiều nên hơi ấm xông lên. Bởi vậy khi ngồi thiền tụi con hay đội mũ, quấn khăn là không tốt, phải để cho cái đầu thoáng mát mới dễ chịu.

Trừ hôm nào lạnh quá thì đội mũ sợ lạnh lỗ tai bị cảm, còn thường nên để đầu trống, khi hơi ấm xông lên không bị nhức đầu. Thầy tối ngồi thiền cũng bỏ mũ không đội, chỉ trừ khi trời gió. Thầy nói cho tụi con hiểu, nhiều khi tụi con không biết, tưởng giữ ấm là không bệnh, chính như vậy mới là bệnh. Khi nào đầu mới cạo, sợ lạnh đầu bị cảm mới cần đội mũ.

Ngày 13-2 Bính Tý (31-3-1996)

Tất cả trong chúng đều cố gắng nỗ lực tu hành, nên những lỗi lầm ngày càng giảm bớt, Thầy rất hoan hỉ.

Kế đây Thầy nhắc tụi con, ở trong chúng nên dè dặt cẩn thận, đừng nói thị phi, vì thị phi dễ gây mích lòng người này người kia, sanh chuyện không tốt. Thị là phải, phi là quấy, nói người này phải, người kia quấy thì người quấy thế nào cũng buồn. Chúng ta nên dè dặt, đừng nói việc phải quấy của huynh đệ. Như có trách nhiệm trưởng liêu, huynh đệ sai, mình chỉ. Khi không có trách nhiệm gì, nếu huynh đệ yêu cầu chỉ chỗ sai trái, mình cũng vui vẻ chỉ cho. Nếu người ta không muốn mà mình chỉ, người ta sẽ phiền não.

Bệnh của con người, ai cũng như ai, ngồi lại một hồi là kể chuyện người này hay người kia dở. Người xưa thường nói: “Điểm thiết hóa thành kim ngọc dị, khuyến nhân trừ khước thị phi nan.” Chỉ khối sắt biến thành vàng chuyện đó dễ làm, khuyên bảo người ta bỏ thị phi còn khó hơn. Thật ra, điều này bên Ni dễ phạm hơn Tăng. Phái nữ tụi con tuy không nổi sân to tiếng, nhưng hay kể lể khen chê, sanh ra giận hờn nhau làm nội tâm dấy động, trở ngại việc tu hành.

Bởi vậy Thầy khuyên tụi con chỉ nên nói chuyện vui vẻ với nhau. Chúng ta người nào cũng còn tâm chúng sanh, hoặc nhiều hoặc ít. Trong đó có đủ cả dở lẫn hay chớ chưa ai hoàn toàn thánh thiện. Nếu thấy huynh đệ nào có tật xấu mà không biết sửa, nói ra mích lòng, thì đến kỳ thỉnh nguyện trình lên trước đại chúng Thầy sẽ nhắc cho. Ở đây Thầy chịu trách nhiệm rầy nhắc tụi con. Thầy nhắc rồi thôi, không ôm ấp trong lòng, còn tụi con tâm phàm phu hơi nhiều, ai hay thì khen, dở thì chê, không phải nói một lần mà nhắc đi nhắc lại năm bảy lượt, khiến người nghe sanh phiền não.

Vì vậy tụi con dè dặt bớt nói phải quấy, chỉ cần bàn nhắc nhau những gì chưa hợp với đạo lý rồi bỏ, cái nào hợp đạo lý thì tu. Sống trong chúng, tụi con nên sách tấn nhau về việc tu hành chớ đừng gây phiền não cho nhau. Lỗi thị phi rất nặng, bỏ rất khó. Điều hết sức khó làm mà tụi con làm được mới hay.

Thầy nhớ trong bài Sơn Phòng Mạn Hứng của vua Trần Nhân Tông khi ở trên non Yên Tử có câu đầu là: “Thị phi niệm trục triêu hoa lạc.” Ngài diễn tả niệm thị phi của Ngài giống như những cánh hoa rơi lả tả. Tụi con tu làm sao cho niệm thị phi rơi từng cánh, sáng ra thấy nó rụng hết, trơ trụi chẳng còn gì.

Người xưa cũng khổ vì thị phi chớ không riêng gì tụi con. Đây là bệnh chung. Tụi con thấy có lắm vị làm Pháp sư giảng kinh rồi cũng chỉ trích người này người kia, đó cũng là thị phi. Người lớn còn vậy huống là nhỏ như tụi con làm sao tránh khỏi điều đó. Chúng ta tu để được an ổn thì những cái chướng đạo, những điều không thanh tịnh phải bỏ. Cố gắng tập rồi sẽ bỏ được chớ không khó. Đó là điều Thầy nhắc trong chúng, mỗi đứa tụi con nên cố gắng.

Điều thứ hai tụi con phải tập là ái ngữ. Tại sao lời nói của mình người khác nghe khó ưa? Mình nghĩ tại người ta có ác ý với mình. Không phải đâu! Do lời nói mình có vẻ xẵng quá hay chua chát quá, người ta khó thương. Nên phải tập nói năng nhẹ nhàng, tao nhã một chút, mới dễ nghe, dễ mến.

Ái ngữ là một trong Tứ nhiếp pháp. Không phải mình nói lời chiều lòng người để cho họ thương, nhưng người tu lúc nào cũng phải nhẹ nhàng, dù cho mình nhắc nhở người những điều sai lầm, họ nghe rồi cũng không giận. Còn những lời nói không khéo, dù cho người ta quấy một trăm phần trăm mà nghe mình nói họ giận liền. Đó là tại ngôn ngữ mình thiếu ái ngữ.

Muốn giáo hoá hay làm lợi ích cho chúng sanh, tụi con phải dè dặt, tập lời nói sao cho êm ái nhẹ nhàng, tao nhã, đừng nên thô xẵng. Khi nào nổi giận thì đừng nói, vì nói ra không bao giờ êm ái được. Nếu cảm thấy trong lòng bực bội, hãy bỏ đi chơi một hồi, chừng nào dịu lại rồi nói. Bởi vì chúng ta tuy bớt được tham, sân, si thô nhưng vẫn còn phần tế. Nó vẫn còn, khó mà hết được, nên khi trong lòng đang khó chịu, nếu ta nói nó sẽ tuôn ra theo ngôn ngữ. Do đó, tụi con phải khéo, dù ở hoàn cảnh nào cũng xử sự một cách nhẹ nhàng, êm ái, từ lời nói đến hành động đều dễ thương và có đạo đức. Đừng nên nói xẵng lè, nghe chát lỗ tai, như vậy người ta sẽ cười: “Quí vị này tu cái gì mà ăn nói không êm ái chút nào hết!”

Thầy mong tụi con ráng tập, tuy nó không phải là điều thiết yếu trên con đường giải thoát, nhưng nó cũng trợ duyên cho sự giải thoát và sự giáo hoá chúng sanh nên mình không được xem thường. Đó là lời Thầy nhắc nhở hôm nay, mong tất cả cố gắng.

∗ THỈNH NGUYỆN NI (2)

Ngày 13-3 Bính Tý (30-4-1996)

Đây là lời nhắc nhở toàn chúng. Sau chuyến đi Hà Nội về, Thầy thấy Phật tử ngoài Bắc cũng như trong Nam đều hướng trọn lòng tin về Thiền viện Trúc Lâm. Người ta đang trông chờ để mai kia được tụi con hướng dẫn chỉ dạy. Thật ra, từ khi Thiền viện được thành lập, người ta không biết tụi con tu như thế nào, mà chỉ biết qua Thanh qui và qua sự giảng dạy của Thầy. Họ nhắm vào đó nên trông cậy nhiều.

Khi đã được mọi người tin tưởng, tụi con từ lớn tới nhỏ đều phải hiểu trách nhiệm của mình là tự lợi và lợi tha. Trong thời gian còn ở đây, tụi con cố gắng tu học, đó là tự lợi. Chính do sự cố gắng đó, những Phật tử xa gần khi tới ở tập tu đôi ba hôm, thấy nề nếp tu hành của mình đáng quí, họ về sẽ kể lại cho nhiều người nghe. Như vậy, từ một người có lòng tin với mình sẽ có nhiều người tin theo, đó là lợi tha. Tuy tụi con không nói với họ điều gì nhưng đã ảnh hưởng không ít.

Thầy cố gây ảnh hưởng tốt cho Thiền viện, bổn phận tụi con là phải tu hành nghiêm chỉnh, giữ đúng theo những gì Thầy dạy trong Thanh qui, để người Phật tử khi tới đây họ tăng thêm lòng tin tưởng. Không phải đợi đến mai kia tụi con ra giáo hóa mới là lợi tha, ngay khi tu tụi con cũng đã có lợi tha rồi.

Lúc Thầy ở Chân Không chưa ai biết đến thiền. Dần dần Thầy cố gắng gầy dựng để người ta biết được chút ít, cho đến khi xuống Thường Chiếu càng ngày càng lan rộng ra. Tới bây giờ, chẳng những trong nước mà nước ngoài cũng biết mình, biết đường lối Thầy hướng dẫn cho tụi con tu. Phật tử tin tưởng vì thấy đạo Phật còn có tia sáng, mai kia sẽ có người hướng dẫn họ tu hành. Cũng như họ tin rằng sau khi Thầy trăm tuổi sẽ có người tiếp tục hướng dẫn họ, tiếp tục hoằng dương Phật pháp và truyền bá Thiền tông.

Vì vậy, Thầy mong tất cả tụi con từ lớn đến nhỏ đều ý thức trách nhiệm của mình, không phải chỉ đơn thuần là an ổn tu thôi mà còn làm mẫu mực cho nhiều người. Thầy đâu ở đời hoài để tụi con ngồi không tu. Đến ngày Thầy mệt mỏi không làm được nữa, lúc đó tới phiên tụi con phải gánh vác mọi việc để cho Phật pháp được lâu dài, và để Phật giáo Việt Nam có được một nền tảng chắc chắn. Những điều làm lợi mình, lợi người đó nói theo từ chuyên môn là tự giác, giác tha. Không phải chỉ riêng một người nào, mà tất cả tụi con đều có trách nhiệm lớn: tự mình an ổn để thành tựu công phu tu và khiến cho mọi người phát tâm mạnh mẽ.

Khi nói chuyện với một số người, họ thấy Thầy có lập trường tu hành rõ ràng, liền đặt câu hỏi: “Ngoài Thầy ra còn có ai thay thế không?” Thầy trả lời: “Hiện giờ chưa có nhưng sau này sẽ có, vì tôi đang chuẩn bị, không phải tôi nghỉ rồi là tắt luôn.” Thầy trả lời vậy để người ta có đủ hi vọng. Hiện giờ Thầy làm cho mọi người biết Phật giáo Việt Nam có Thiền tông tu hành cao cả như vậy, khi Thầy mất đi sẽ có những đồ đệ tiếp nối xứng đáng, không đến nỗi buồn tủi là không có người kế tục.

Do đó Thầy mong tất cả tụi con phải thấy rõ bổn phận của mình là sẽ tiếp nối một việc lớn chớ không phải làm việc tầm thường. Cho nên bây giờ trong sự tu tập hằng ngày tụi con phải sống có nề nếp, có tư cách tốt, phải cố gắng vượt qua những vướng mắc nhỏ nhặt. Nếu không thắng được những cái nhỏ thì mai kia e khó làm được việc lớn. Đó là lời Thầy nhắc nhở, mong tất cả cố gắng.

Ngày 28-3 Bính Tý (15-5-1996)

Hôm nay thỉnh nguyện ai có lỗi đều ra sám hối. Tụi con thấy ở đây kiểm lại dường như khó hơn các nơi khác, phải không? Thầy sẽ nói cho tụi con rõ mục tiêu của Thầy nhắm.

Như vừa rồi ra ngoài Bắc có một số người phát tâm qui y, như vậy chủ trương, đường lối của Thầy càng ngày càng được nhiều người hưởng ứng từ gần đến xa. Tụi con thấy nếu cây to tàng lớn mà rễ cạn thì sẽ lo cái họa gì? Lo có một cơn giông lớn là ngã, phải không? Bởi vì ở ngoài người ta đang phát tâm hướng về Thiền viện mình rất đông, giống như cây có tàn lớn, nếu chư Tăng Ni không có sức tu hành thâm hậu là điều đáng lo ngại. Sự tu hành của chư Tăng Ni là rễ cái. Nếu rễ cái sâu thì dù cho cây tàn lớn cũng không nguy hiểm. Còn rễ cái cạn mà tàn cây quá lớn e nguy hiểm sau này. Bởi vậy tụi con phải ráng nỗ lực tu. Bao nhiêu lòng tin người ta đang dồn về mình, người ta để ý từng lời nói, từng hành động của mình. Nếu tụi con lôi thôi, Phật tử sẽ dễ thối tâm. Càng được nhiều người chú tâm hướng về, trách nhiệm chúng ta càng nặng nề.

Thầy từng tuyên bố với tụi con và với mọi người Thiền viện Trúc Lâm này là lý tưởng tối hậu của đời Thầy. Trước kia đã có những Thiền viện như: Thường Chiếu, Linh Chiếu, Viên Chiếu, Huệ Chiếu… nhưng lúc ấy Thầy không sắp đặt được như ý. Mặc dù trong đó cũng có một số người tu tốt tu hay, nhưng Thầy chưa thực hiện được tất cả những gì Thầy muốn.

Nơi này là lý tưởng tối hậu của Thầy. Chưa có Thiền viện nào mỗi tháng Thầy phải ngồi thỉnh nguyện hai lần như ở đây, nhắc nhở không những chỉ việc tu thôi, mà còn phải dạy tụi con từ lời nói đến hành động sao cho thuần túy đạo đức, để khi mọi người tới đây, tiếp xúc với tụi con lòng tin họ tăng trưởng. Đó là đúng với bản nguyện của Thầy.

Những nơi kia Thầy không nói là lý tưởng tối hậu, vì Thầy không thực hiện được ý nguyện lục hoà, đồng thời các công tác cũng còn bận bịu bên ngoài nhiều. Còn ở đây ròng rã cho tụi con chuyên tu, Tăng Ni khỏi bận tâm lo lắng ăn mặc, thuốc men…, lao động vừa phải để đủ sức khỏe chớ không đặt nặng vấn đề kinh tế. Kế nữa là Tăng Ni ở đây rất ít đi đâu, nhờ vậy tâm hồn không bị dao động, dễ hướng đến chỗ thanh tịnh. Cảnh trí mát mẻ, yên tĩnh, thích hợp cho người tu thiền.

 Chỉ còn một điều chót là tụi con thành tâm, nhiệt tình tu cho đạt kết quả, đó là duyên lành cho Phật pháp lâu dài. Thầy muốn Tăng Ni ở Trúc Lâm này là những người mai kia đi ra hoằng hóa làm lợi ích chúng sanh, đúng như những gì Thầy đã ước mơ lúc còn tu học ở các trường cho đến khi ra làm Phật sự.

Bởi vậy ở đây dù một lỗi nhỏ tụi con cũng có thể bị rầy. Ở những chỗ khác thì không ai để ý, không ai nhắc nhở kỹ. Do Thầy đặt Trúc Lâm là lý tưởng cuối cùng của đời Thầy nên Phật tử tin tưởng mà nhắm tới, hướng về. Nếu sự tu tập và việc làm, lời nói của tụi con còn sơ sót lôi thôi, người ta dễ sanh chán nản rồi mất lòng tin, thì lý tưởng của Thầy không thành, Phật tử cũng buồn chán.

Do đó, ở đây Thầy không muốn chúng đông, chỉ chừng bốn mươi người thôi, mà sống có đạo đức, giới luật tinh nghiêm, theo đúng lục hoà và quyết tâm chết sống vì đạo, để cho những người tới thấy có thể phát tâm. Đồng thời đòi hỏi tụi con tu phải sáng đạo. Nếu Thầy nói một đàng trò sống một ngả thì tất cả uy tín của Thầy sẽ theo đó suy giảm, đến khi Thầy mất rồi tụi con làm Phật sự cũng không được.

Cho nên tất cả tụi con ráng giữ quyết tâm tu hành chết sống và giữ thái độ hoà nhã đối với huynh đệ chung quanh. Tuy tụi con hoà mà không đồng, vì mỗi người đều có một nghiệp riêng, có thói quen riêng. Mặc dù không đồng nhưng vẫn hoà hợp chớ không thù nghịch chống đối. Nếu nội tâm mình có thù nghịch chống đối thì thế nào cũng thể hiện ra thành sự bất bình nhau.

Tụi con phải có tâm hoà hợp, sống như nước hoà với sữa. Tất cả những gì hơn thua, phải quấy đều vô giá trị, đều không thật, tụi con phải thấy cho tường tận. Tất cả ngôn ngữ thế gian chỉ tuỳ theo niệm thương ghét mà sanh ra lời hay tiếng dở, chớ không có giá trị thật. Người biết tu coi khen chê, phải quấy như trò chơi. Làm sao trước mọi cảnh, tâm mình thản nhiên không động, đó mới là đạo đức chân thật.

Người ta cứ nghĩ Tăng Ni ở Trúc Lâm này rất thuần thục, thanh tịnh. Nếu có ai đến đây tập tu mà thấy có những điều dở, nghĩa là còn đủ tham sân si, người ta sẽ đánh giá chung cả Thiền viện mình. Nếu ở đây tụi con vẫn thị phi, bỉ thử, nhân ngã thì vô phước cho Thiền viện, cũng là vô phước cho Phật tử.

Cho nên tụi con phải sống và tu sao cho tốt để Trúc Lâm có đủ uy tín. Mai kia Thầy nhắm mắt, người nào từ Thiền viện ra, người ta đều tin đó là những người Thầy đã chọn lựa để làm Phật sự kế tiếp Thầy. Nếu tụi con lơ là, không có được ý chí chết sống với đạo, không có tâm bao dung hoà hợp, mai kia người ta thấy được, sẽ cười tụi con lại còn chê trách Thầy. Thầy đã dồn hết tâm lực trong những ngày tháng cuối cùng mà không ra gì, không đến đâu, như vậy uổng công của Thầy. Nên tất cả phải chấp nhận cái khó. Khó ở đây là khép tụi con vào nề nếp, để xứng đáng với lòng tin của mọi người, ngày sau có thể làm được các Phật sự, chớ không phải tụi con bị khó vì những lý do vô nghĩa.

Sau này người ta tin tưởng, hưởng ứng tu theo đường lối của Thầy ngày càng nhiều, nếu ở đây tụi con tu hành đàng hoàng, thâm hậu, đó là điều rất tốt. Còn nếu mọi người ở ngoài phát tâm tu theo mình nhiều, mà ở đây tụi con tu hời hợt, rời rạc, không có một cái gì xứng đáng để cho người ta học hỏi thì đó là điều nguy hiểm, uổng công Thầy mở rộng mà không gìn giữ được.

Vì vậy hôm nay nhắc nhở tụi con phải ý thức được trách nhiệm chung. Tất cả tụi con ở đây, Thầy đều đem hết tâm lực chỉ dạy nhắc nhở, lo lắng, để tụi con tu thành công, mai sau xứng đáng cho người ta tin tưởng và có đủ khả năng tiếp tục việc làm của Thầy chưa xong. Đó là lời Thầy nhắc nhở tất cả.

Ngày 13-5 Bính Tý (28-6-1996)

Hôm nay thỉnh nguyện chỉ có những lỗi lầm nhỏ không đáng kể, như vậy là tốt.

Bây giờ Thầy nhắc nhở thêm. Tụi con tu là phải nuôi trong tâm mình một ý chí thật mạnh mẽ, như trong lời nói đầu bản Thanh qui đã ghi: phải có tinh thần dứt khoát. Dứt khoát nghĩa là làm cái gì hẳn cái đó, đừng bị cái khác làm trở ngại mất thời giờ. Khi phát nguyện tụi con đâu có nói tu nửa vời, mà là phát nguyện giải thoát sanh tử. Đó là một thái độ hết sức dứt khoát. Nhưng con người có thói quen yếu đuối, làm cái gì trong thời gian ngắn thì lập trường không thay đổi, còn thời gian dài lại dễ quên và lơi lỏng. Nên mỗi tháng Thầy phải nhắc tới nhắc lui cho tụi con nhớ, để việc tu hành có được kết quả.

Ở thế gian, khi người ta lớn lên phải chọn một nghề hoặc một nếp sống nào đó để hướng trọn đời mình theo. Bây giờ tụi con đã chọn một lối đi thì phải vạch một con đường ra khỏi sanh tử. Con đường đó Phật, Tổ đã chỉ rồi, bây giờ mình chịu khó cương quyết đi, bền chí không nản lòng thì có ngày sẽ đến đích. Một khi đã can đảm chọn một lối đi từ buổi đầu, thì từ đây về sau phải luôn luôn tỉnh giác, đừng để những điều nhỏ nhặt, tầm thường làm trở ngại con đường cao cả của mình.

Thầy nghĩ rằng người nào tu cũng quyết chí. Đường đi lâu và dài nên ý chí phải rất mạnh. Tuy nhiên, sức mạnh này cũng có giới hạn, chừng mực, nên một thời gian nó yếu đi. Thầy muốn nuôi dưỡng nó càng ngày càng tăng trưởng nên mỗi tháng phải nhắc, phải rầy để tụi con tỉnh và nhớ những gì mình đã quyết tâm. Đó là tinh thần thỉnh nguyện của mỗi tháng.

Tuy vậy, lâu lâu Thầy có việc phải đi nơi này nơi kia nên không thể nhắc đều. Thầy nghĩ tụi con tu đến nay đã được ba năm, đường lối tu đã nắm vững và lập trường tu cũng đã cứng cỏi rồi, có lẽ lâu lâu Thầy bỏ qua không nhắc, tụi con cũng không đến đỗi bị xao lãng. Dầu sao Thầy vẫn thấy bổn phận của Thầy là phải nhắc luôn luôn để tụi con tiến.

Từ đây về sau Thầy có một hai trường hợp đi xa. Tụi con phải luôn nhớ con đường mình đang đi, nguyện lớn mình đã nguyện, làm sao ngày, tháng, năm nào cũng là những ngày tháng tu hành thanh tịnh. Đừng đợi có nhắc mới ráng tu, không nhắc thì thả trôi giống như lục bình dưới sông, nước chảy lên nó trôi lên, nước chảy xuống nó trôi xuống, suốt cuộc đời cũng không ra gì.

Tụi con là người quyết tâm, dù cho gặp trường hợp thuận hay nghịch vẫn nhất định vươn lên không thối chuyển. Được như vậy thì đời tu mới có giá trị cao cả. Thầy mong tất cả tụi con nhận định rõ ràng dứt khoát và nuôi dưỡng trong thâm tâm mình một ý chí mãnh liệt. Khi đã chọn một con đường thì phải đi đến nơi đến chốn. Mình quyết làm gì thì phải làm cho có kết quả, không bỏ dở nửa chừng. Như vậy mới không uổng một đời tu, lợi ích cho mình và cho người. Nếu tụi con tiến không tiến mà lùi cũng không lùi, cứ lỡ dở như vậy chỉ làm trò cười cho thế gian, làm cho người thân buồn nản.

Tu hành là một việc làm rất cao cả và đầy đủ phước đức, nhưng nếu mình không cố gắng cũng sẽ thành dở xấu. Cho nên, chưa đạt được kết quả thì không bao giờ yên lòng, tụi con phải ráng vượt lên, ráng đi đến nơi đến chốn, đừng tự mãn ta tu vậy đủ rồi, hay hơn người khác rồi. Phải dứt khoát, cố gắng đi cho tới kết quả cuối cùng mới thôi. Như vậy mới xứng đáng người con dòng họ Thích, xứng đáng là người tu hạnh giải thoát sanh tử.

Thầy có ít lời nhắc nhở, mong tất cả tụi con cố gắng!

Ngày 28-5 Bính Tý (13-7-1996)

Qua kỳ thỉnh nguyện, thấy chúng có tâm tự giác ra sám hối, đó là điều tốt.

Giờ đây Thầy có ít lời nhắc toàn chúng để nỗ lực tu hành.

Trong Thanh qui phần đầu nói rõ rằng chúng ta tu phải có tinh thần dứt khoát và ý chí kiên quyết. Hôm nay Thầy nói về kiên quyết cho tất cả trong chúng hiểu. Trên thế gian này muốn hoàn thành một công việc gì, dù lớn hay nhỏ cũng phải kiên quyết, nói theo từ ngữ bây giờ là quyết tâm. Đối với người tu không những quyết tâm mà còn quyết tử, đã quyết định làm một việc gì thì phải cương quyết, dù khó khăn, trở ngại cũng vượt qua, không để nó ngăn trở bước tiến của mình. Nếu quyết chí tu, liều chết tu thì trong thời gian ngắn mà có kết quả tốt. Còn ngược lại, tu lơ mơ cho qua ngày sẽ mất thời gian dài mà kết quả rất ít.

Đọc sử Phật giáo Trung Hoa, chúng ta thấy có ngài Huyền Trang đã để lại tấm gương kiên trì, quyết liệt ai nghe cũng kính nể. Ngài đi thỉnh kinh bằng ngựa, từ Trung Quốc sang Ấn Độ trải qua bao nhiêu nước, bao nhiêu sa mạc, bao rừng núi hiểm trở. Nếu không quyết tâm thì không bao giờ dám đi. Quyết tâm như vậy mà khi đi cũng gặp rất nhiều trở ngại.

Trong sử ghi: Khi Ngài đến sa mạc thì không còn một miếng nước nào, Ngài thầm nghĩ chắc phải chết. Vậy mà Ngài vẫn quyết tâm đi cho đến lúc ngất xỉu vì nắng gắt và quá khát. Chợt có trận gió mát dần, dường như Ngài thấy đức Quan Âm rải nước cho Ngài hồi tỉnh, rồi Ngài đi tìm được nước uống. Sau đó Ngài khỏe lại và tiếp tục vượt hết con đường, đến được Ấn Độ. Nếu ai nhút nhát, sợ hãi không bao giờ làm được việc như Ngài.

Gần nhất, chúng ta thấy đức Bổn sư, khi đi tu cũng quyết chết sống. Nói rằng Ngài là vị Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, mà chúng ta thấy đương thời Ngài quyết tâm phi thường. Từ khi ra khỏi cung đi tầm học, tu khổ hạnh, cuối cùng đến cội cây bồ-đề, Ngài thề rằng: “Nếu không thành đạo, dù thịt nát xương tan, ta quyết không đứng dậy khỏi chỗ này.” Nhờ cương quyết như vậy, Ngài đã chứng đạt đạo quả.

Gương quyết tâm của người xưa không phải chỉ một, hai mà rất nhiều. Nếu quyết tâm thì dù con đường khó khăn hay gặp trở ngại gì người ta cũng đến nơi được. Còn nếu tu lừng chừng lấy có, dù hoàn cảnh thuận mấy cũng không đi đến đâu. Bởi vậy trong nhà thiền thường dạy chúng ta trên đường tu phải có tâm quyết tử. Không phải quyết tử với người thù oán, mà là quyết chiến đấu với nội tâm mình.

Trong khi tu, có khi vì tập khí lâu đời làm trở ngại, có khi vì thân bệnh, nghĩ chắc mình tu không được, sanh buồn chán đi đến chỗ thối lui. Có khi tu gặp những hoàn cảnh bên ngoài, như thầy hay bạn xử sự với mình không tốt, rồi chán nản lui sụt. Hoặc ở chỗ khó khăn, thiếu ăn thiếu mặc, nếu mình không cương quyết, không liều chết thì không tiến lên nổi.

Thầy mong trên đường tu, tụi con đứa nào cũng lập chí quyết liệt, thầm quyết định với lòng mình, dù ở hoàn cảnh nào, thân bệnh, người xử tệ, hoặc chướng ngại nội tâm, đều phải vượt qua, thà chết chớ không lùi bước. Nhờ quyết tâm đó, trên đường tu tụi con sẽ thành công không nghi ngờ. Ai còn nhút nhát, sợ sệt, do dự thì không bao giờ tu đến nơi đến chốn được. Đó là điều Thầy đã kinh nghiệm qua.

Quyết tâm chính là ý chí, lập trường. Người có ý chí và lập trường thì làm mọi việc đều đạt kết quả, bằng không sẽ bị gió này gió nọ thổi đùa nghiêng ngả, bị thối lui hoặc không thể yên ổn. Cho nên khi đã đặt mình trên con đường tu rồi, tụi con nên nghĩ: một là tu để được giác ngộ, tự lợi lợi tha, hai là chết trên con đường đó, chớ không có ý nghĩ thứ ba rằng lỡ mình tu không được thì làm cái gì. Đừng bao giờ có ý nghĩ đó, chỉ một lòng tu. Nếu có chết trong ý niệm quyết liệt đó thì đời sau sẽ tiếp tục không nghi ngờ. Phải đi đến đích để làm lợi ích cho đời cho đạo, đó là quyết định của mình, không có con đường nào khác.

Tóm lại, trên đường tu, điều kiện thiết yếu là phải lập tâm quyết tử, tu đến chết thôi. Chỉ một con đường đó, hoặc chết hoặc thành công, chớ không có con đường thứ ba.

Ở thế gian người nào có ý chí và quyết tâm đều làm được việc lớn. Trong đạo cũng vậy, người có ý chí và quyết tâm thì sẽ thành công trên đường tu. Thầy mong tụi con đứa nào cũng phải có lập trường và ý chí vững chắc, không để bị lung lay dù gặp bất cứ trận gió nào.

Ngày 12-6 Bính Tý (26-7-1996)

Hôm nay trong buổi thỉnh nguyện hầu hết chúng đều được thanh tịnh không lỗi lầm, đó là điều rất tốt. Chúng ta tu ở đây gần tròn ba năm. Trên phương diện tu hành mỗi vị đều có nỗ lực, có cố gắng rất nhiều, nhưng cũng không tránh khỏi bệnh thâm căn cố đế là chấp ngã.

Chúng ta hầu hết ai cũng mang bệnh chấp ngã rất nặng, đó là gốc của luân hồi sanh tử. Chấp các ý kiến của mình là chấp ngã về tâm. Còn chấp ngã về thân gọi là ái thân, bởi ái thân nên khi thân này bại hoại liền tìm thân khác, không bao giờ dừng được.

Vì vậy đức Phật dạy mình tu trước phải thấy rõ thân này là vô thường bại hoại, là khổ, không, vô ngã. Thuyết vô thường, khổ, không, vô ngã của Phật dạy cốt đi tới trọng tâm dẹp ngã. Muốn dẹp ngã, trước hết phải thấy các pháp là vô thường, bại hoại, đó là khổ. Kế đến, pháp đó bại hoại tức thành không, mà thành không thì đâu còn cái gì là ta, nên tới cuối cùng là vô ngã.

Vô thường, khổ, không, vô ngã là pháp Phật dạy tất cả Tăng Ni, Phật tử ứng dụng tu hành. Vì vậy chúng ta tu là phải nhớ luôn luôn, đối với thân là tướng vô thường sanh diệt, không có giá trị gì hết. Ngày nay nó còn, mai sẽ bại hoại, không có gì bảo đảm. Đã không bảo đảm thì có gì quan trọng để hơn thua, phải quấy. Cho nên từ vô thường, rồi khổ, tới không, để chúng ta không còn một tí chấp nào về bản ngã.

Chấp ngã đưa tới đủ thứ bệnh. Từ chấp ngã là si đưa tới ái thân là tham. Do ái thân nên động tới thân mình liền nổi sân. Như vậy tham sân si, nói theo thông thường, hoặc là si tham sân, ba thứ theo nhau luôn luôn, vì vậy mà chúng ta tạo bao nhiêu thứ nghiệp sanh tử luân hồi.

Giờ đây chúng ta tu hạnh giải thoát thì phải phá si, tức là phá cái tâm niệm chấp thân này là thật, chấp tâm suy nghĩ của mình là thật. Phá được cái chấp thân, chấp tâm, không còn thấy nó thật, đó là phá si. Thân tâm không thật thì còn cái gì để cho mình mến yêu, nên ái ngã theo đó cũng hết. Không mến yêu nên không còn tham. Không tham thì có gì để nổi sân! Vì sân là do đụng tới bản ngã của mình, nay rõ bản ngã không thật thì còn gì nữa mà sân.

Cho nên Phật thường dạy chư Tỳ-kheo, nếu thấy thân này như đất, người ta đi, người ta giẫm đạp, hoặc đổ đồ dơ lên trên đất, đất cũng không oán hờn. Lại phải quán thân này như nước, tất cả đồ dơ người ta tuôn xuống nước, nước cũng không giận, không chống trái.

Đất, nước, gió, lửa là tứ đại bên ngoài, khi kết hợp thành thân này gọi là tứ đại bên trong. Tứ đại bên ngoài không tranh chấp, sao tứ đại bên trong lại hơn thua tranh chấp? Quán như thế để tu hạnh nhẫn nhục, dù cho có gì trái ý, ngược với sở thích của mình, mình vẫn an nhiên, không bực bội, tức tối. Đó là làm cho cái ngã càng ngày càng mòn mỏng bớt.

Thầy nói cho tụi con thấy tinh thần tu của đạo Phật, kể cả Đại thừa và Tiểu thừa đều tu như vậy. Còn về Thiền tông lại càng rõ nét hơn, bởi vì không có một Thiền sư nào thấy thân này là thật hết. Thí dụ chúng ta đọc bài thơ của Thiền sư Vạn Hạnh, Ngài thấy thân người chỉ như bóng chớp, có rồi không. Rồi qua các vị Thiền sư khác, không có bài kệ nào nói thân này thật. Do vậy, chúng ta mới đào sâu, biết được Thể chân thật bất sanh bất diệt của chính mình. Còn nếu thấy thân giả tạm này và tâm sanh diệt huyễn hóa này là thật thì không bao giờ thấy được cái thâm sâu, chân thật của chính mình.

Vì vậy Thầy nhắc tất cả tụi con từ lớn đến nhỏ, đều phải nhớ rõ ràng thân này là hư huyễn, ảo hóa không thật, còn mất bất thường. Tâm sanh diệt cũng hư vọng, nên gọi là vọng tưởng. Không thật thì còn cái gì mà chấp. Không chấp cái hư dối mới thấy được cái chân thật. Cái chân thật này ai cũng có, cho nên Bồ-tát Thường Bất Khinh không dám khinh ai. Bây giờ chúng ta khinh người này dại, người kia khờ…, đó là chúng ta cũng chỉ nhìn trên tướng giả của thân tâm, còn Thể chân thật không ai hơn ai thì có gì để khinh!

Hiểu như vậy rồi chúng ta tu mới dễ, còn không thì hay sanh bệnh. Càng tu lại càng sân, càng chấp ngã. Hồi mới đi tu gọi là xả thân cầu đạo, dù ai chê, ai chửi bới mình cũng coi thường. Nhưng tu riết lên cao rồi, ai nói động liền nổi giận. Như vậy tu lâu là tiến hay lùi?

Hồi mới tu cái gì cũng xả, tu lâu rồi động tới nổi sân. Như vậy mới thấy vô tình chúng ta xả cái ngã thế gian rồi lại chấp cái ngã trong đạo. Ngã trong đạo chấp mình là Hoà thượng, Thượng tọa, là thầy của nhiều người, có chùa to, Phật lớn… rồi tự nhiên thấy mình quan trọng, cái ngã sống lại hồi nào không hay.

Cho nên chúng ta phải khéo cảnh giác, đừng để mê lầm phủ che. Chúng ta phải vạch nó ra để thấy được lẽ thật. Tu lâu cái ngã càng cao là sai lầm, chúng ta không thể như vậy được. Do đó, Thầy mong toàn thể đại chúng phải ý thức được trên đường tu làm sao mỗi ngày chúng ta mỗi mòn mỏng bản ngã. Nếu còn nặng quá thì không bao giờ chúng ta ngộ nhập được Tâm thể chân thật. Có chăng chỉ là thoáng qua thôi chớ không nhập nổi. Đó là lời nhắc nhở của Thầy.

Kế đây, Thầy nhắc thêm về chuyện xả thiền. Ở đây không phải chỉ riêng tụi con tu, còn có các Phật tử và những vị tôn giáo bạn tới xin tập tu. Nếu tụi con mỗi đứa xả theo mỗi ý là không được. Tất cả nên cẩn thận, khi xả thiền làm động tác nào cũng phải đúng cách và có chừng mực để người khác tới có thể quan sát học hỏi.

Khách tập tu ngồi chung trong Thiền đường nên tụi con nhập thiền, xả thiền ra sao họ nhìn theo bắt chước. Đừng nghĩ đã có quí Cô lớn dạy họ rồi, mình làm đúng sai gì chắc họ không quan tâm. Tụi con là hình ảnh cụ thể gần nhất, rất quan trọng. Bởi vậy hành động nào tụi con cũng phải dè dặt, từ việc tụng kinh, ngồi thiền cho đến cuộc sống hằng ngày. Trách nhiệm chúng ta rất nặng, tụi con đừng xem thường, nhiều khi xem thường quá người ta mất niềm tin, tổn phước.

Không phải có khách mình mới tu, mới nghiêm chỉnh. Tụi con vẫn sống thực như lâu nay chớ không giả bộ, nhưng phải dè dặt, đừng nói năng, hành động quá trớn, vì nhiều khi tụi con sống với nhau thường chủ quan, sơ sót chút ít không để ý. Vậy nên phải cẩn thận. Trong giờ thiền, từ cách ngồi đến cách xả, hoặc choàng khăn, đội mũ, đều thanh thản mà nghiêm trang. Tâm niệm của chúng ta không ai thấy, người ngoài chỉ thấy hình tướng và nghe lời nói của mình, nên hành động và lời nói là cái họ đánh giá trước tiên, còn chuyện ngộ đạo hay không ngộ đạo ở tâm mình người ta chưa thấy được. Cho nên khi tới đây, quan sát mọi hành động, cách cư xử và nói năng của tụi con, người ta đánh giá ngay.

Khi làm một hành động từ lớn đến nhỏ, tụi con lúc nào cũng đàng hoàng khoan thai, không nên hấp tấp. Tu đâu không biết mà đi vội vàng, nói hấp tấp, làm cẩu thả, người ta sẽ cười, đó là chưa có đạo lý thật. Cho nên phải bình tĩnh, điềm đạm, khoan thai. Có gì cũng từ từ nói, từ từ giải quyết, đừng vội vã quá. Làm cái gì cũng vừa phải, dù nói chuyện vui hay có chuyện gì không vừa ý mình cũng điềm đạm. Bởi vì trong cuộc sống tu hành, người ta thường nói các vị Thiền sư rất bình tĩnh, điềm đạm, nếu khách vô đây trông thấy các Thiền sinh thô tháo, hấp tấp, người ta sẽ cười.

Về lời nói, nếu thấy có giá trị, hợp thời, đúng lúc mới nói, không thì thôi, để giữ cho tâm sáng suốt thanh tịnh. Đừng phát ngôn bừa bãi, người ta thấy mình không biết thúc liễm.

Tụi con đừng xem thường hình thức, hình thức cũng làm cho người mới đến đánh giá mình. Nên từ hình thức đến nội tâm, tất cả khéo giữ gìn, để cho sự tu hành của mình vừa thanh tịnh, an ổn, mà người ngoài nhìn vào cũng hoan hỉ, quí mến và học theo. Thầy nghĩ mỗi lần có khách như vậy tụi con lại được tiến bộ hơn. Đừng nên quan niệm: “Tôi hiểu đạo, tôi thấy đạo đủ rồi.” Chúng ta sống trong hoàn cảnh một trăm người chưa được một người biết tu Thiền. Nếu tụi con tu Thiền mà không có đức hạnh bằng tu Tịnh độ thì người ta sẽ cười mình. Hoàn cảnh chúng ta muốn mở mang, đòi hỏi phải đủ về phần đạo lý của nội tâm và có oai nghi đức hạnh. Hai cái đó không thể thiếu một.

Vậy tụi con phải cố gắng tối đa để xứng đáng với trách nhiệm mình đang nhận. Đó là lời Thầy nhắc nhở hôm nay.

Ngày 28-7 Bính Tý (10-9-1996)

Ở đây có vị chưa thông suốt về thỉnh nguyện. Khi bắt đầu thỉnh nguyện, tụi con nghe Tri sự đọc bản nội qui, rồi kiểm tra lại nơi nội tâm, hành động mình trong một tháng, nếu có lỗi mới ra sám hối. Trong trường hợp tâm chạy theo cảnh, hay dính mắc gì đó mà trong nội qui chưa nêu, thì tụi con tự biết ráng tu cho hết, khỏi ra thỉnh nguyện. Nếu phạm giới luật, lục hoà và nội qui mới ra sám hối, còn không thì thôi. Đó là Thầy nhắc chung cho tụi con được rõ.

Bây giờ Thầy nhắc thêm vài điều, tụi con cố gắng tu hành để mau được kết quả như sở nguyện. Tất cả tụi con đến đây đều với ý chí cố gắng tu, để từ ba đến năm năm có kết quả tốt, xứng đáng với tâm nguyện tu hành của mình. Khi vào đây, buổi đầu tụi con ngỡ ngàng vì nếp sống nơi này không giống các chỗ khác, phải luôn luôn dè dặt, cẩn thận, không được tự do như những nơi tụi con đã ở qua. Chính cái dè dặt cẩn thận đó là sự tiến bộ đáng kể nơi tụi con.

Chẳng hạn như ngày xưa tụi con thấy lòng mến thương huynh đệ là bình thường, nhưng giờ đây lại đặt thành vấn đề quan trọng. Đương nhiên buổi đầu tụi con bỡ ngỡ, hơi lạ trước sự nghiêm khắc này, nhưng bây giờ tụi con xét lại mới thấy đó là bước tiến vượt bậc. Thầy thường trách giới tu sĩ chúng ta, lúc còn trẻ và khỏe, có đủ tinh thần sáng suốt để tu và làm Phật sự lại phí thời giờ vì những điều không đáng, như có tình cảm với huynh này, huynh nọ. Từ tình huynh đệ rồi trói buộc, từ trói buộc sanh ra phiền não, chính cái đó làm cho sự tu hành của tụi con trễ nải.

Có lắm chuyện Thầy đã từng nghe, từng thấy. Cứ hai người thân thiết với nhau quá, bị rầy, thấy mất tự do rủ nhau đi ở nơi khác. Đến một lúc cảm thấy không còn hợp nhau nữa, rã gánh, rồi ra đời. Chuyện này vẫn thường xảy ra. Mới đầu thấy không có gì quan trọng, cho là tình trong đạo, huynh đệ mến thương nhau, nhưng sự thật càng đi sâu càng nguy hiểm. Bởi vì từ tình đạo, dần dần biến thành tình cảm thế gian, đưa tới chỗ thối tâm lùi bước trên đường tu. Nên ở đây Thầy bắt tụi con phải tự thúc liễm. Sống với nhau chỉ là tình đạo cao thượng trong sáng, chớ không ái nhiễm gây trở ngại trên bước đường tu. Gần mãn ba năm, tu tập theo lời dạy và sự sắp đặt của Thầy, tụi con đã vượt qua được những cái tầm thường đó.

Từ đây về sau đứa nào cũng phải can đảm, gan dạ, quyết chí tiến tu đến chỗ giải thoát. Những gì có tánh cách trói buộc, tụi con phải mạnh dạn bứt bỏ để không trở ngại đường tu của mình. Như vậy trong ba, bảy năm mới có kết quả thật sự. Bằng không hình thức bên ngoài tu hành dường như nghiêm chỉnh, mà bên trong lại bị những khó khăn, phiền não dai dẳng chướng ngại đường tu, thành ra thời gian quí báu của Thầy dành cho tụi con, tụi con không tận dụng để thực hiện lời Thầy dạy. Mà bây giờ không thực hiện được, khi Thầy già không còn dạy dỗ nữa, hoặc Thầy theo Phật thì tụi con không tiến bao nhiêu. Rốt cuộc trên đường tu chỉ uổng công, không có kết quả.

Bởi vậy tất cả những gì Thầy thấy không hay, làm chướng ngại đường tu Thầy dạy phải dứt khoát buông bỏ, tụi con nên nỗ lực ráng làm theo lời Thầy nhắc nhở. Nếu có một chút dính mắc, vướng víu, tụi con phải cắt đứt liền, chớ để nó làm phiền hà, lãng phí thời giờ quí báu, sau này không tìm lại được nữa. Điều Thầy nhắc tuy ít mà tụi con gẫm lại sẽ thấy có lợi ích rất lớn trên đường tu của mình.

∗ CÂU CHUYỆN BUỔI CHIỀU

Hôm rồi bị bệnh đột ngột, Thầy kinh nghiệm và có bài pháp. Chỉ do mình sơ ý trong vòng mười lăm phút mà bệnh phải nằm bao nhiêu ngày. Vừa rồi, trong khi Thầy đang tắm ở vòi nước nóng, bất chợt điện cúp, nước trở lạnh thình lình, hậu quả là Thầy bị cảm nặng.

Như vậy tụi con mới thấy, do sơ ý thiếu dè dặt, sự cố xảy ra rồi sanh bệnh về thân. Về tâm cũng vậy. Nếu bất cẩn không dè dặt, thân tâm có phản ứng mạnh liền, nên người tu phải cẩn thận tối đa. Như Thầy sau vụ đó, khi tắm bảo chú Thị giả cho thùng nước ấm vào múc tắm là bảo đảm; còn máy móc Thầy sợ rồi, bất chợt có sự cố tai họa không lường nổi. Máy móc dụ cho những buồn bực phiền não của mình, bất chợt không làm chủ được phát ra. Đó là Thầy kinh nghiệm qua việc tắm bị bệnh.

Bây giờ Thầy có mấy vấn đề nói với tụi con.

Vấn đề thứ nhất: Mục đích tụi con tu để đạt đến cái gì? – Để cầu giải thoát sanh tử. Tại sao Thầy nói câu đó? Vì đức Phật đi tu mục đích là giải thoát cảnh sanh già bệnh chết, giải thoát sanh tử.

Vấn đề thứ hai: Tại sao mình phải sanh tử?

– Do nghiệp dẫn đi trong lục đạo luân hồi. Như vậy nghiệp là cái dẫn tụi con đi trong sanh tử.

Vấn đề thứ ba: Cái gì tạo nghiệp? – Từ thân, khẩu, ý, ba cái gốc đó tạo ra nghiệp. Muốn giải thoát sanh tử là phải giải thoát nghiệp. Nhưng nghiệp từ đâu ra? Phải đào bới cho tận gốc, từ thân khẩu ý, mà gốc là ý. Bởi vậy ý nghĩ tốt thì miệng nói tốt, thân làm tốt; ý nghĩ xấu miệng nói xấu, thân làm xấu. Như vậy ý nghĩ tốt tạo ba nghiệp lành, ý nghĩ xấu tạo ba nghiệp dữ. Ba nghiệp lành thì sanh về cõi trời, a-tu-la, người; ba nghiệp ác rơi vào đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Tóm lại, dẫn chúng ta đi cõi lành hay cõi dữ gốc là nghiệp, nghiệp từ ba món thân, khẩu, ý mà ra. Đó là trả lời cho vấn đề thứ ba.

Thân khẩu ý tạo nghiệp, mà ý là chủ. Bây giờ muốn hết nghiệp phải làm sao? – Phải lặng ý, vì ý là chủ động, ý dừng thì mấy cái kia dừng. Như tụi con hiện giờ tu trong giờ ngồi thiền là tu cái gì? Là tu để dừng ý, ý nghiệp dừng thì mấy cái kia dừng, giải thoát sanh tử luân hồi.

 Vậy đã thấy cái gốc sự tu chưa? Nhiều khi tu mà không rõ tại sao phải ngồi thiền, rồi cứ giải thích trên trời trên mây không thực tế. Thầy nhắc lại, nghiệp từ thân khẩu ý, ý là chủ động, nên muốn dừng ba nghiệp trước phải dừng ý. Ý lặng là định. Tụi con ngồi thiền cốt được định, ngay khi định là có tuệ. Vậy hiểu nguồn gốc của nó chưa?

Nếu bây giờ giả sử có người đặt câu hỏi: “Khi ý lặng thì còn gì? Hết nghiệp rồi hết trơn luôn sao? Làm sao chứng minh cái chân thật hiện tiền?”

Bài thuyết pháp hết sức đơn giản mà nói lên bản hoài chúng ta là câu chuyện Lục Tổ. Khi người ta rượt đuổi giành y bát, ngài Huệ Năng nói: “Y bát là vật làm tin, có thể dùng sức mà tranh sao?” Rồi Ngài đặt y bát lên bàn thạch, vào ẩn trong bụi cây. Huệ Minh đuổi theo kịp, tới ôm y bát mà không nhấc lên nổi, ông mới thấy giành y bát là tâm niệm thế tục. Y bát là biểu tín Tổ Tổ truyền nhau, đây không phải là chuyện phàm tục có thể làm được, nên ông chuyển tâm thế tục thành tâm cầu đạo. Huệ Minh mới kêu lớn:

– Cư sĩ! tôi vì pháp mà đến, chớ không phải vì y bát.

 Khi nghe nói vì pháp, ngài Huệ Năng ở trong bước ra:

– Nếu ông cầu pháp thì lắng tâm nghe ta hỏi: Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?

 Ngay đó Huệ Minh liền ngộ. Ngộ cái gì? – Ngộ cái Bản lai diện mục khi không nghĩ thiện không nghĩ ác. Như vậy tu là nghĩ xấu cũng bỏ, nghĩ tốt cũng bỏ, đó là dừng cả nghiệp ác lẫn nghiệp lành, vì lành hay dữ cũng đều là luân hồi trong lục đạo. Buông hết niệm lành dữ thì Bản lai diện mục hiện tiền. Khi ngồi mà tâm không có niệm nào hết, lúc đó tụi con biết không?

– Dạ, biết.

Vậy thì cái biết đó hiện tiền đâu có mất. Như vậy niệm khởi là động cơ tạo nghiệp, dẫn mình đi trong luân hồi, nay không muốn tạo nghiệp thì phải dừng động cơ đó. Rõ chưa?

– Dạ, rõ.

Chỉ mấy vấn đề đó tụi con nắm vững thì trên đường tu không nghi ngờ gì.

Thứ nhất: Mục đích tu để đạt cái gì? – Tu để giải thoát sanh tử.

Thứ hai: Cái gì dẫn mình đi trong sanh tử luân hồi? –  Chính là nghiệp.

Thứ ba: Nghiệp từ đâu ra? – Nghiệp từ thân khẩu ý ra, ý là chủ động. Bây giờ muốn dứt ý chủ động thì phải tu thiền để dừng các ý nghĩ thiện ác. Còn có nghĩ, có niệm tưởng là còn tạo nghiệp luân hồi. Dừng ý nghiệp thì cái chân thật hiện tiền.

Tư tưởng của mình lát thế này, lát thế kia, đâu có thật, còn cái hằng giác hằng tri mới là chân thật. Cái thật của mình có sẵn, nhưng bị nghiệp che lấp. Nên Lục Tổ bảo dừng lại, không nghĩ thiện, không nghĩ ác thì cái chân thật hiện bày, chớ không có gì khác.

Bài thuyết pháp ngắn này tụi con nhớ để tu. Hiểu rõ rồi thì không phiền trách sao Thầy cứ bắt bỏ vọng tưởng hoài mà không làm gì khác.

***

Người tu nếu không được bào gọt, đẽo đục thì đâu thành pháp khí. Bào gọt đục đẽo tất phải bị đau, không có cách nào nhẹ nhàng êm ái hết. Nên đi tu thường phải bị rầy. Ở nhà ba má không rầy, vào chùa bị rầy hoài tưởng chừng ở chùa dở hơn ở ngoài. Nhưng không phải vậy, vì ở ngoài sống theo thế gian, những cái xấu nhỏ ba má không để ý; còn ở đây sống trong đạo lý, cầu giải thoát sanh tử, nên tất cả thói quen, tật xấu nhỏ lớn đều phải dũa gọt. Lớn thì quở theo lớn, nhỏ rầy theo nhỏ, làm sao cho càng ngày càng sạch. Như vậy tụi con mới giải thoát sanh tử được, chớ sống theo thế gian làm sao giải thoát!

Hiểu rồi tụi con không trách vì sao vào chùa bị rầy nhiều, phải nghĩ đây là cơ hội tốt để mình sớm trong sạch hơn, sớm thảnh thơi độc hành độc bộ. Tụi con muốn độc hành hay đa hành? Nhiều khi Thầy thấy tức cười, ai cũng cầu giải thoát mà đi một mình không chịu, cứ kéo lôi người này người kia cùng đi, như vậy làm sao đi tới nơi? Cho nên người tu phải can đảm. Nói như vậy cũng đừng hiểu lầm quí Thầy độc hành độc bộ là chỉ lo cho riêng mình.

Độc hành nghĩa là trên đường tu không có gì trói buộc, lôi kéo, đi một cách thong thả tự tại, chớ không phải chỉ lo cho mình còn ai mặc họ. Như Thầy đi cả đoàn mà vẫn độc hành độc bộ, đường Thầy Thầy đi, còn ai đi sau cứ thấy mà theo chớ không bị trói cột.

Đa số người tu thường bị trói cột, người này đi người kia giật dây lại, cứ nhùng nhằng như vậy hoài, rồi lạc đường không đi tới đâu. Đi tu rất tốt nhưng phải gan. Cái gì không đúng đạo lý giải thoát phải cắt gỡ, như vậy trên đường tu mới giải thoát được, còn cứ cột trói hoài làm sao giải thoát nổi.

Nghĩa lý giải thoát hết sức đơn giản, như bị cột trói thì bây giờ mở ra. Mở ra tức tự do, còn trói thì hết tự do. Nhưng cái gì trói cột chúng ta? Ai cột chúng ta? Đó là điều thật phi lý. Tâm niệm hướng về giải thoát, dứt khoát sự trói buộc của gia đình, đi tu là nguyện cắt đứt hết, cho nên khi cắt tóc nói: cát ái từ sở thân. Vậy mà vô chùa cột lại, vô lý làm sao! Vô lý không thể tha thứ được! Do đó phải gan dạ, cắt được rồi là cắt luôn, đừng để bị cột trói bởi cái gì hết. Được như vậy mới tự tại.

Thí như dòng suối nhỏ, nước ở trên chảy tràn xuống, tụi con thấy dòng nước chảy mạnh. Còn nếu ở dòng sông lớn, nước chảy nhè nhẹ, ra tới biển thì không thấy dòng nước chảy nữa mà vẫn có thủy triều đều đều. Cũng vậy, lòng mình hẹp hòi thì những ràng buộc vô lý sẽ siết chặt, còn nếu mở rộng lòng ra, mọi cột trói đều không đáng kể.

Như vậy, tu mở rộng lòng là cắt mấy sợi dây ràng buộc nhỏ, mở rộng ra đoàn thể lớn. Nếu rộng ra như biển cả thì tâm mình thênh thang. Người tu phải như vậy. Đừng để cắt đời rồi vào đạo cột lại, vô tình sư chú sư bác, sư huynh sư đệ mình cũng hơn người khác. Tụi con ở trong chúng, ai cũng như ai, phải quí trọng giống nhau.

Hồi xưa, Thầy phục Hoà thượng Giám đốc cũng vì vậy. Hoà thượng có hai chủng tử là cô Như Hoa và thầy Tịnh Đức. Thầy Tịnh Đức nhỏ tuổi hơn Thầy một chút, người hiền hoà sáng suốt, học lớp gần với Thầy, học giỏi và cần mẫn giống Hoà thượng. Hoà thượng làm Giám đốc ở trong trường nhưng không bao giờ gọi thầy Tịnh Đức lên hầu, không bao giờ gọi riêng người thân của mình để sai bảo.

 Có người kể lại, không biết có thật không. Kể rằng ngày Hoà thượng đi tu, thầy Tịnh Đức còn chạy lẫm đẫm. Khi Hoà thượng xuống thuyền, thầy Tịnh Đức chạy theo. Hoà thượng xô thuyền ra, thầy Tịnh Đức nhào xuống sông mà Hoà thượng vẫn đi thẳng. Người nhà vớt lên. Thật là gan quá! Tụi con có gan vậy không?

Bởi vậy, đi tu rồi, mình là người của tất cả chớ không của riêng ai, đó là tinh thần sống vì người. Nhờ vậy các ngài làm Phật sự dễ. Tụi con bây giờ đi tu rồi, cũng còn coi người thân là nặng là quí, sơ thì không quí, đó là còn phân biệt. Chúng ta nên khéo tu một chút, sao cho tâm không còn thân sơ. Nếu còn cột đó là người thân của mình, người đó vui hay buồn đều có dính đến mình, phải chịu lây. Còn nếu thấy ai cũng như ai thì người buồn hay vui mình cũng thấy bình thường, lòng không xao xuyến. Tu như vậy mới khỏe, lòng mới an ổn. Còn trói buộc hoài, tu năm này tháng nọ, cuối cùng vẫn vụng về dốt nát, không tới đâu. Cho nên phải sáng suốt, khôn ngoan và can đảm.

Như kỳ thầy Tịnh Đức bệnh sắp tịch, Hoà thượng Giám đốc đứng phía trên đầu, Thầy đứng bên cạnh. Thầy Tịnh Đức bệnh mê man mà cứ tụng kinh Di-đà không sót một chữ, lại hô chuông thật lảnh lót, không ai nghĩ đó là người sắp chết. Đến lúc thầy Tịnh Đức ra đi, Thầy rớt nước mắt mà thấy Hoà thượng vẫn bình an không rơi một giọt nước mắt. Chứng kiến cảnh đó ai cũng nể!

Người xưa tinh thần rất mạnh, tuy đi tu muộn nhưng ý chí quyết liệt. Hoà thượng đi tu vào thời Pháp thuộc, đến đâu cũng phải có giấy thuế thân, nếu không ở lâu bị bắt bớ khó lòng lắm. Vậy mà Hoà thượng ra tới Huế là xé hết giấy tờ bỏ không dùng nữa. Thư nhà gởi ra xé bỏ sọt rác không đọc. Còn tụi con bây giờ trông thư quá, phải không? Thầy được gần Hoà thượng, rất quí chỗ can đảm đó. Tụi con ráng tập gan dạ như vậy thì chuyện tu hành dễ thành công. Nhiều người còn nặng gia đình quá, bỏ lên cân cũng tương đương với chùa, vậy là dở.

Đó là ràng buộc nơi gia đình và người thân, lại còn ràng buộc của bản ngã nữa. Tụi con thấy ràng buộc bản ngã chưa? Chuyện mình thì nặng, chuyện người thì nhẹ. Thí dụ mình đau một chút rên rỉ, còn người khác đau thì coi nhẹ, không dính gì với mình. Đó là cái yếu, nghĩ về mình nhiều quá.

Hôm rồi, Thầy nói Thầy tu ích kỷ, nhưng ích kỷ của Thầy khác, không phải một bề tiêu cực lo cho mình. Thầy ích kỷ là dẹp hết các duyên lăng xăng bên ngoài, nỗ lực phăng tìm cho ra con người thật, biết rõ thân tứ đại và tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là hư ảo nên không coi trọng. Thấy được cái thật rồi đem chỉ dạy cho mọi người thì hết ích kỷ, trở thành cao thượng.

Người đời ích kỷ vì chấp thân tứ đại. Bây giờ giả sử tụi con ăn tất cả những món ngon vật lạ, uống tất cả các thứ quí, được khỏe mạnh sống dai tới chừng nào? Nhiều lắm là trăm tuổi. Có nhiều khi ăn ngon, sống sung túc quá, lại hay sanh bệnh phải uống thuốc. Bởi vậy, thân này không bảo đảm an toàn. Dù ta có yêu quí, bảo vệ đúng mức, sớm muộn gì nó cũng hoại.

 Biết rõ rồi phải cố gắng tu, tìm cho ra cái chân thật nơi mình. Chư Tổ đã nói hết lời, còn Thầy nhắc hoài, chỉ để tụi con nhận ra cái thật. Thấy được cái đó thì bình an, sống thảnh thơi tự tại, xứng đáng một đời tu.

***

Quí Phật tử về đây tu tiến bộ nhiều ít? Không ai dám nói, thôi để tôi nhắc cho quí Phật tử tu.

Nhiều người nghĩ rằng tu niệm Phật tụng kinh, tụng được mấy bộ kinh, niệm được mấy xâu chuỗi, còn kể ra được, chớ ngồi thiền làm thinh hoài, không thấy cái gì hay lạ, vậy tu có ích lợi gì? Đó là điều tôi muốn nói hôm nay.

Bình thường, sáu căn chúng ta, mắt tai mũi lưỡi thân ý cứ chạy theo sáu trần bên ngoài, giống như cây đèn rọi ra ngoài. Khi rọi ra thì sáng bên ngoài, còn ở phía trong tối. Nếu người tu chạy theo bên ngoài, dính mắc với trần cảnh thì theo đó tạo nghiệp sanh tử luân hồi. Nay muốn đừng dính cảnh nữa phải soi lại mình. Bởi vậy trọng tâm sự tu là biết mình. Người thế gian mê muội, sống không biết mình là gì. Bây giờ vào đây tu cốt làm sao biết lại mình.

Như quí Cô ở đây, khi ngồi thiền muốn cho các căn của mình soi sáng trở lại thì phải mượn phương tiện là hơi thở. Hít vô thở ra, nương nơi hơi thở mà tâm an định. Biết hơi thở vô ra, niệm dấy lên cũng biết, như vậy là phản quan, soi sáng lại mình. Nhờ soi sáng lại mình nên mới thấy rõ được hơi thở ra vô, thấy rõ được tâm niệm sanh diệt. Nếu tu quán, khi thấy hơi thở ra vô liền nghĩ, thân này còn là do hơi thở, nếu thở ra không hít vào là chết. Như vậy mạng sống vô thường chỉ trong một hơi thở. Đó là nương hơi thở để quán.

Ở đây không dùng quán, biết thân này là vô thường, chắc chắn không nghi. Bây giờ chỉ cần biết tâm của mình là thật hay giả. Khi tâm dấy khởi biết không thật thì nó tự lặng. Rồi dấy niệm khác, liên tục hết niệm này đến niệm kia, mình cũng biết rõ ràng. Tôi dùng từ vọng tưởng hư dối, vì nó sanh diệt mà lâu nay lầm chấp là tâm mình. Do chấp nó là tâm mình nên gây ra nhiều tai họa vô kể. Vì nghĩ đó là tâm tôi, cho tâm tôi là thật, nên tôi nghĩ cái gì cũng đúng, người nào nghĩ khác tôi sẽ nổi giận, rồi phiền não, cãi lẫy hơn thua…

Quí Phật tử thấy tâm mình hư dối, chợt có chợt không, chợt sanh chợt diệt. Suy nghĩ hư dối làm sao là chân lý được? Không phải chân lý thì người khác tin hiểu giống như mình cũng tốt, không giống cũng được, đó là quyền của người ta. Cái suy nghĩ của mình không thật, của người kia cũng giả, cả hai cùng giả thì hơn thua để làm gì!

Thế gian chấp thân này là thật, dồn mọi sự lo lắng, ăn uống cho nó. Nếu mình có, người khác không có thì họ giành với mình, hoặc người khác có mình không thì mình giành với họ. Giành giật vật chất để bồi dưỡng cho thân. Nay chúng ta biết thân không thật mọi nhu cầu sẽ giảm đi. Quí Phật tử biết thân không thật, ăn thịt cá hay rau cỏ cũng vậy thôi, cốt duy trì mạng sống tạm chớ không cố chấp.

Đối với tâm, chúng ta thường chấp thật. Do chấp thật nên phiền não. Ở gia đình, vợ chồng không hoà nhau, chồng nghĩ thế này vợ nghĩ thế kia, nghĩ khác nhau nên bất đồng ý kiến rồi cãi vã, nhiều khi sanh ra chuyện đổ vỡ chia tay. Đối với mẹ con, anh em cũng như thế. Mẹ nghĩ như vầy đúng, con nghĩ khác cũng cho đúng, rồi sanh chuyện cãi nhau. Từ chỗ chấp cho mình là đúng mà tình cốt nhục chia lìa, nghĩa huynh đệ phân ly. Bây giờ biết nó là vọng tưởng hư dối thì đâu còn chấp.

Như khi nãy bên đồi kia chuyển mưa, sấm sét nổi ầm ầm, mình nghĩ gió thổi qua hướng này, nhất định chút nữa bên này mưa. Nếu có ai nói không mưa thì giận liền. Đâu ngờ một lát gió thổi tạt chỗ khác, không mưa. Như vậy sự suy nghĩ không đúng lẽ thật. Tại sao mình suy nghĩ không bảo đảm đúng mà lại bắt người khác phải theo?

Bây giờ quí Phật tử thử xem lại, từ xưa đến giờ mình nghĩ nhiều hay ít? Nghĩ trăm việc đúng được chừng ba mươi việc là cùng. Vậy mà bắt người khác phải theo sự suy nghĩ của mình. Đó là điều sai lầm hết sức lớn.

Cho nên người tu thiền, lúc đầu phải thấy thân này là vô thường tạm bợ, thở ra không hít vô lại là chết. Mạng sống vô thường, không có gì lâu bền. Đã không lâu bền mà ham thụ hưởng nhiều vật chất để làm gì? Sống vừa phải, không chấp tài sản, của cải, các vật dụng và nhu cầu của mình. Không chấp, không đòi hỏi là thức tỉnh thứ nhất.

 Thức tỉnh thứ hai là biết tâm nghĩ tưởng của mình không thật, không phải là chân lý. Nếu có ai nói mình nghĩ sai, liền biết vọng tưởng không thật, có gì đúng sai, nên chẳng buồn phiền. Đó là đã thức tỉnh. Đâu có Thiền sư nào nói thân thật, vọng tưởng thật.

Bước kế đó là khi tất cả vọng tưởng lặng xuống, mới thấy cái thật của mình sẵn có đầy đủ mà lâu nay bỏ quên.

Hôm nay tôi chưa nói tới bước kế, chỉ nói hai bước đầu là giác ngộ thân không thật, không lâu bền và tâm suy nghĩ lăng xăng là hư ảo. Rõ hai cái đó là giác ngộ, còn thế gian chấp thân thật, chấp tâm suy nghĩ thật, nên gọi là mê. Vậy mấy cô tỉnh kha khá chưa? Hay nghe tôi nói thì tỉnh, gặp việc rồi lại quên, trở thành mê? Đâu phải chỉ cư sĩ mới mê, kể cả người tu lâu lâu gặp việc cũng mê như thường.

– Dạ, tụi con mê một chút tỉnh liền.

– Mê một chút là không ai chịu nổi rồi! Vừa mê thì miệng nói bậy thân làm bậy, tỉnh lại chuyện đã rồi.

***

Có khi ngồi thiền rất khó chịu, lại có khi ngồi rất thoải mái, tụi con biết tại sao không? Có khi nào mấy đứa ngồi nghe đau, muốn đứng dậy đi liền không?

– Dạ, có.

Khi ngồi tâm an định, ngồi hoài không muốn xả. Hôm nào bất an, ray rứt thì ngồi không yên. Đó là kinh nghiệm tọa thiền, tụi con phải khéo điều hoà một chút.

Thầy báo cho tụi con biết, vừa rồi có hai Xơ xin Thầy tháng 3 dương lịch cho hai mươi Xơ lên đây tập tu với tụi con. Hỏi lý do gì mà xin đông như vậy, các Xơ cho biết lúc trước có mấy Xơ ở Thủ Đức lên đây tập tu, thân cũng có bệnh, lên tập ngồi thiền được khỏe mạnh tới nay nên ai cũng thích. Thầy nói, lên hai mươi người một lượt e không có đủ chỗ để ngồi thiền, Thầy cho mười người lên một đợt, còn mười người kỳ sau, nghĩa là hai mươi người chia làm hai đợt để tập tu.

Như vậy tụi con mới thấy, chúng ta tọa thiền, nói chuyện giải thoát sanh tử thì hơi xa, chuyện gần nhất là nó đem lại sức khỏe rất tốt. Nếu tụi con ngồi đau nhức là có lý do, chớ không phải do ngồi thiền. Có khi chúng ta ngồi rất thoải mái, có khi bực bội, khó chịu. Lý do tại sao tụi con thử nghiên cứu xem.

Cái bồ đoàn rất quan trọng. Tụi con ngồi sao cho xương cùng ở giữa bồ đoàn, còn hai đầu gối phải chấm xuống tọa cụ. Lúc nào tụi con ngồi bồ đoàn cao và lớn, hai đầu gối không chấm xuống thì bữa đó đau. Nếu nghe đau hai bắp đùi, biết là bồ đoàn thấp ngồi bị cấn, phải sửa cao lên. Ngồi sao cho thoải mái, hai đầu gối chấm xuống mới được, còn hai đầu gối trợt ra là sai rồi. Có nhiều đứa ngồi lót đầu gối là bậy lắm. Đầu gối chấm xuống ngồi mới không đau, nếu chêm một đầu gối thì còn hổng một bên, mất quân bình của thế ngồi. Thầy sợ tụi con chêm tùm lum, mấy Xơ lên thấy tưởng làm như vậy đúng, bắt chước theo rồi ngồi thiền sanh bệnh. Ngồi sai nguyên tắc một chút là sanh bệnh.

Ai xài bồ đoàn lớn quá, nó bè ra hai bên, bị cấn dễ đau thần kinh tọa. Bởi vậy Thầy cho kích thước bồ đoàn bao nhiêu nên làm đúng theo, chỉ gia giảm chút thôi. Người nào mập thì rộng thêm một chút, ai chân ngắn bớt chiều cao của bồ đoàn. Phải ngồi cho nó trống chớ không cho bị kẹt, kẹt là bệnh. Có nhiều đứa ngồi không ổn phải không?

– Dạ, phải.

Ngồi không ổn thì tu không ổn, sau dạy người ta tu cũng không ổn luôn. Cho nên ngồi phải có kinh nghiệm, luôn luôn hai đầu gối phải chấm xuống tọa cụ, xương cùng ở giữa bồ đoàn, xương sống phải thẳng, hai vai ngang nhau, như vậy người mới cân bằng và không bị đau.

Khi ngồi nếu ngửa người ra cố giữ cho thăng bằng thì nóng lắm, còn đầu gối chấm xuống, tư thế vững vàng, thoải mái sẽ ít nóng. Tụi con phải ngồi nghiêm chỉnh, không được chêm hay lót cái gì dưới chân. Bàn tay nào thấp thì vai bên đó nghiêng, nên lấy gối nhỏ lót vào bên thấp. Nếu ngồi quá thẳng sẽ đau ngực, nhiều khi nhói tim, lâu ngày thành đau tim. Khi nào nghe tức ngực nên rùn nhẹ người xuống một chút. Đau xương sống là do ngồi bị cong, phải ngồi thẳng lại; còn đau ngực là ngồi quá thẳng. Đau mông vì ngồi ngửa người ra phía sau, phải chỉnh lại cho ngay. Ngồi vừa chừng, thoải mái nhẹ nhàng sẽ được an ổn. Khi xả thiền nhớ xoa bóp cho đều.

Hồi xưa ở Chân Không, Thầy hay nói Thầy cho bác sĩ hưu trí, bởi vì khi nào bị cảm gió hay hơi có bệnh, Thầy ngồi thiền đầu hôm và buổi khuya, sáng khỏe hẳn. Sau này công việc thất thường nên không làm được như vậy. Tuy nhiên, trúng nước trị không nổi chớ trúng gió trị hết ngay. Thầy có gốc bệnh phổi, nếu để bị cảm ho bệnh cũ sẽ trở lại, còn ngồi thiền có sức khỏe, không bị cảm thì hết hẳn bệnh cũ.

Như vậy, khéo ngồi vừa trị bệnh cho mình vừa được thân tâm an ổn. Người ta thích tới với mình vì nghĩ mình ngồi đúng phương pháp, lại trị được bệnh, nên tụi con lôi thôi là không được. Thầy dặn mấy người đi giám thiền, thấy ai kê đầu gối phải lôi ra, sửa lại cho đúng cách. Bởi vì chúng ta tu còn chỉ dạy người khác nữa. Nhiều người đến tập tu, ngồi không hết giờ, xả ra ngồi ngó tụi con. Đứa nào lôi thôi người ta thấy liền, ai ngồi nghiêm chỉnh người ta cũng thấy, và bắt chước theo. Tụi con nếu không khéo, ngồi dở làm cho người ta dở theo, đó là không tốt.

Ngồi thiền nếu không đủ kinh nghiệm dễ sanh bệnh. Còn ngồi đúng cách có thể tự giải quyết các bệnh của mình. Tụi con mang trách nhiệm rất nặng, giống như người dẫn đường, không được dạy sai cho người ta.

Hôm nay Thầy không nói lý thuyết chỉ nói thực hành, tụi con ráng nhớ để ngồi cho đúng.

***

Bấy lâu nay các chùa thường nói tu thiền điên, chỉ có bậc thượng căn thượng trí mới tu thiền được. Khi thấy cư sĩ tu thiền nhiều người nhắc: “Coi chừng điên!” Bởi vậy các chùa không dám mời Thầy giảng. Năm nay các trường Hạ mời Thầy nói chuyện. Thầy nghĩ đó là cơ duyên tốt nên phải đi để khơi mào. Chừng năm, bảy năm nữa tụi con ra giảng người ta mới tin tưởng. Nếu bây giờ Thầy im lìm, sau này tụi con ra không có ai dùng. Cho nên thấy Thầy đi giảng nhiều, tụi con phải chuẩn bị tinh thần tu cho giỏi cho hay. Đến khi Thầy nói không nổi thì tới phiên tụi con, Thầy đâu có làm hoài được. Giảng dạy phải có người hướng dẫn trực tiếp, nghe băng đâu bằng. Đó là nói cho tụi con chuẩn bị tinh thần.

Kỳ rồi Thầy đi ba chỗ, kỳ này đi ba chỗ, kỳ sau đi năm chỗ. Chuyến sau là chùa Kim Liên, Giác Nguyên giảng ngày đầu. Ngày thứ hai giảng chùa Phổ Đà, chùa Xá Lợi và Tịnh Xá Trung Tâm. Ba chỗ này là chuyến chót của mùa an cư. Tụi con thấy Thầy già mà ráng làm để gây lòng tin cho Tăng Ni, Phật tử, để biết rằng tu thiền không điên, trái lại có lợi ích thiết thực. Rồi mai kia khi Tăng Ni ở đây đủ điều kiện tốt, có những nơi mời nói chuyện, tụi con nói cho người ta nghe về sự tu hành. Những Phật tử cũng vậy, tới đây tập tu rồi về hướng dẫn huynh đệ. Như vậy Tăng Ni cũng có, cư sĩ cũng có, thì Thiền tông mới mở mang được.

Đó là cơ duyên để Thiền tông phát triển ở Việt Nam. Tụi con phải vừa mừng vừa lo. Mừng là Thiền tông được phát triển, lo là không biết có kham nổi hay không. Ra nói mà người ta bỏ đi hết là khổ!

Kỳ rồi Thầy ra Chân Không, Phật tử yêu cầu Thầy nói chuyện. Thầy nói đề tài là: “Phật giáo nhìn lại thân con người là quí hay tiện?” Trước hết Thầy nói cái tiện. Phật thấy thân này là nhơ nhớp bất tịnh, đau khổ, thấy thân này là vô thường, duyên hợp hư dối. Như vậy nó là quí hay tiện?

– Dạ, tiện.

Còn một mặt khác thấy thân này là quí. Như Phật nói: “thân này mất rồi muốn được thân khác khó như cây sắt trổ bông”, hoặc “nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”, được thân người là khó, gặp Phật pháp càng khó hơn. Như vậy cái khó được mà được là quí hay tiện?

– Dạ, quí.

Đức Phật dùng thí dụ: Như ngoài biển cả có bộng cây trôi nổi, một con rùa mù ở dưới nước trăm năm mới trồi đầu lên một lần tìm bộng cây, chừng nào gặp được? Thật là khó tưởng tượng! Phật nói mất thân này, được thân sau cũng khó như thế. Như vậy là quí hay tiện? Được nó rồi thì sao? Thực chất thì thân này không quí, nhưng có được thân người là cơ duyên tốt để chúng ta làm những điều hay. Điều hay đó là tu hành làm lợi ích chúng sanh.

Nếu mình không biết sử dụng như vậy thì thân này coi như đồ bỏ, vô giá trị. Sống, ăn, mặc rồi chờ chết thành thây thúi đưa vô nghĩa địa. Bởi vậy, Thầy ví dụ như người đi biển bị chìm thuyền, bơi một hồi mệt quá, bất chợt gặp gốc cây mục. Gốc cây đã mục thì có quí không?

– Dạ, không.

Nhưng khi mình đang sắp chìm, gặp được nó để nương không bị chìm nữa, có quí không?

– Dạ, quí.

Quí là được khúc cây khỏi chết chìm. Nhưng nếu cứ ôm ghì hoài chờ đến khi nó rã ra là khôn hay dại? Vì vậy khi được gốc cây rồi phải vội vã làm gì?

– Dạ, bơi vào bờ.

Nếu xa quá, mình trông chờ có thuyền ghe gần đó làm hiệu cầu cứu, hoặc gần thì ráng bơi vào bờ, thoát chết được tức việc ôm gốc cây là hữu ích. Còn nếu ôm gốc cây chờ nó mục quả thật là ngu si. Thân này cũng như gốc cây mục, đủ thứ nhơ xấu mà cứ gìn giữ, tô điểm, rốt cuộc rồi cũng hoại, đến lúc hoại không ai dám ngó, như vậy có phải khờ dại không? Cho nên được thân rồi phải biết tu để làm lợi ích cho chúng sanh. Nếu biết dùng, thân này là hữu ích quí giá, còn không biết thì thân này chờ tới ngày tan rã, giống như ôm gốc cây mục chờ rã rồi chìm không có nghĩa lý gì.

Như vậy theo cái nhìn của người tu Phật, thân là quí hay tiện? Nếu biết dùng thì nó là quí, không biết dùng nó là đồ bỏ. Ai có thân này mà bo bo giữ, tham lam muốn thụ hưởng cho thỏa mãn mọi vật chất thế gian cho tới ngày nó hoại là khờ dại, không biết vươn lên. Như vậy, được thân này là cơ hội tốt, mình phải cố làm được một cái gì.

Khi chúng ta ôm gốc cây mục bơi vào bờ rồi, còn cần nó nữa không? Lúc ấy bỏ nó lên bờ thong thả. Người tu là như vậy đó. Nên cái nhìn của Phật giáo đầy đủ hai mặt: vô giá trị và hữu ích. Cũng một cái thân này, nhưng biết dùng nó là hữu ích, còn không biết dùng là vô giá trị, chỉ sống rồi chờ chết không có nghĩa lý gì.

***

Hôm qua Thầy đặt vấn đề thân này là quí hay tiện, bữa nay Thầy nói về tâm.

Điều thứ nhất: Tâm này vô thường hư huyễn, nhưng mình đủ thẩm quyền làm chủ, hướng nó tốt hay xấu theo ý mình, vậy là dễ hay khó? Cái gì quá sức, ngoài tầm tay của mình mới khó, còn tâm mình có thể chuyển được không khó. Như vậy việc làm chủ tâm này nằm trong tầm tay mình.

Điều thứ hai: Vọng tưởng và không vọng tưởng, cái nào thật? Cái không vọng tưởng là hằng hữu, bỏ không được. Còn vọng tưởng chợt có chợt không, hư dối không thật, bỏ dễ ợt đâu có gì khó! Tụi con xét thật kỹ xem, cái lặng lẽ thênh thang sáng suốt mới là cái hiện tiền không bao giờ bỏ được, không bao giờ vắng thiếu, bảo bỏ cũng không bỏ được. Còn vọng tưởng chợt có chợt không, có gì thật đâu! Cái không thật bảo bỏ nói khó là sao?

Như vậy có hai lý do tu dễ. Lý do thứ nhất là nó trong tầm tay của mình. Ở bất cứ cảnh nào, ai làm gì thì làm, còn theo hay không theo là quyền của mình. Không có người nào dự vào quyền của mình được, dù đó là ông Trời, ông Phật. Như vậy, quyền của mình thì rất dễ, mình có quyền bỏ cái này nhận cái kia.

Thứ hai là có cái thật và cái giả, bỏ cái giả còn cái thật thì hết sức dễ. Thí như đồ giả và đồ thật ở trước mắt, tụi con chọn cái thật bỏ cái giả, dễ ợt không có gì trở ngại. Còn cái thật mà bảo bỏ mới không được. Như vậy tu dễ hay khó? Nếu lý luận như đây thì thật dễ!

Vậy khó là tại cái gì? Khó là vì tập quán muôn đời. Hồi nào tới giờ chấp cái giả quên cái thật của mình, sống với cái giả đã quen nên bỏ không đành, bỏ không được. Nếu mình thức tỉnh, biết cái thật thì bỏ cái giả dễ ợt. Chỉ tại mình quen sống với cái giả, khư khư giữ nó, cũng như trẻ con chơi búp bê, nó là đồ giả mà đi đâu cũng bồng theo, bỏ thì khóc, là tại nó cố chấp, chớ thứ đó là đồ chơi đâu có giá trị gì. Hiểu như vậy mới thấy rằng, bỏ cái giả cay đắng là vì còn thấy thật.

Đúng ra, cái sẵn có mà bắt tụi con bỏ mới khó. Như khi tụi con nằm ngủ có tiếng vẫn nghe, ai làm cái “rầm” thức dậy liền, vì cái đó có sẵn ở lỗ tai. Khi có ai đi cũng biết, mở đèn thì thấy… Cái đó sẵn như vậy, kêu bỏ không bỏ được. Còn cái suy nghĩ lăng xăng, tính toán, tưởng như thật nhưng là đồ giả. Nếu nó thật thì lúc nào cũng vậy, đằng này vọng tưởng khi vầy khi khác, chợt có chợt không, rõ ràng là không thật. Cái thật lúc nào cũng có, đó là cái mình giữ, còn cái giả bỏ đi.

Vọng tưởng là hư dối, tụi con can đảm bỏ không? Đừng sợ, đừng buồn, đừng tiếc vì mấy cái đó không thật có. Biết nó là đồ giả dối chỉ cười thôi. Đừng sợ nó rồi trợn mắt bặm môi cự lại. Cũng đừng tiếc, nhiều khi có mấy cái hay hay hôm qua nghĩ không ra, giờ mới nghĩ ra bỏ không đành. Hoặc thấy điều gì vui vui, bỏ cũng uổng, như ngồi thiền ở đây nhớ bên Pháp thấy vui bỏ không đành. Nghĩ phàm buồn quá thì nghĩ Thánh cho vui nên bị xáo trộn hoài. Tụi con phải nhớ: không tiếc, không sợ, không buồn. Được ba điều này tu sẽ thành công. Tụi con có một trong ba bệnh đó không?

– Dạ, có.

Vậy tụi con phải nhớ, khi ngồi thiền vọng khởi liền buông, đừng tiếc, đừng sợ, đừng buồn, rầy nó thì trị được ngay. Hồi xưa, Thầy nghĩ nó thuộc về tâm lý nên khó, nhưng nay Thầy thấy khác. Bây giờ Thầy chỉ cho tụi con cái hằng thấy hằng nghe của mình, muốn bỏ cũng không bỏ được. Dù mình nhắm mắt mà mở đèn vẫn cảm thấy, bịt tai có tiếng động vẫn nghe. Đó là cái không bỏ được. Bỏ không được thì mang nó đi, còn cái nào bỏ được thì bỏ.

Tôn giả Nghiêm Dương là đệ tử Triệu Châu, một hôm thưa hỏi:

– Một vật chẳng đem đến thì thế nào?

Triệu Châu bảo:

– Buông xuống đi!

Sư thưa:

– Đã là một vật chẳng đem đến, buông cái gì?

Triệu Châu bảo:

– Buông chẳng được thì nên gánh đi.

Tụi con thấy cái gì buông được thì buông, còn
cái không buông được thì gánh đi. Buông bỏ cái tạp nhạp, lộn xộn, giả dối để được cái ròng rặt chân thật, hằng có hiện tiền. Vậy mà không làm là mê cỡ nào? Bởi vậy, Phật nói chúng sanh mê muội, nói hoài không chịu bỏ.

– Dạ, bỏ một lát rồi quên!

Như ở trong chúng, nếu tụi con bỏ được cái lăng xăng lộn xộn đó, cả ngày còn gì buồn không? Đi tới đi lui tỉnh táo cười hoài. Bảo cuốc cỏ thì cuốc cỏ, bảo cuốc đất thì cuốc đất, không có một niệm nào xen vào, đâu còn buồn phiền trách cứ gì ai. Chỉ vì mấy cái lăng xăng, rối loạn đó mà người này phiền giận người kia. Tụi con bỏ hết mấy thứ đó thì cảnh Niết-bàn tại đây, nếu không bỏ dù đây là cảnh tiên cũng thành phàm.

Vậy phàm tục hay Niết-bàn là do chúng ta tự chọn chớ không phải Phật cho, rõ ràng như vậy. Tụi con đủ thẩm quyền, cái nào biết không thật thì bỏ. Bỏ hết các thứ lăng xăng thì cái chân thật hiện tiền, sống trọn vẹn với nó là Niết-bàn. Điều này không có gì khó khăn cũng không gì lạ lùng, nó rất thực tế.

Ví như khi tụi con đang buồn, huynh đệ lại hỏi liền trả lời: “Tôi buồn quá!” Khi nào tụi con thấy hứng thú, có huynh đệ hỏi, trả lời: “Tôi vui quá!” Như vậy câu trả lời có đúng không?

Ai cũng ngỡ rằng vui buồn là mình. Như vậy mình là gì? Mình là vọng tưởng, phải không? Vì buồn vui thuộc về vọng tưởng. Đang buồn có ai đem tin vui lại liền hết buồn. Đang vui có chuyện buồn đến lập tức hết vui. Như vậy vui buồn là vọng tưởng theo duyên. Nói “tôi buồn”, “tôi vui” tức tụi con nhận vọng tưởng là mình. Nếu vọng tưởng là mình thì mình là thứ hư dối lộn xộn. Vô lý quá! Buồn vui là hiện trạng không thật, đổi thay theo cảnh duyên, còn mình từ thủy đến chung nào có đổi thay. Tâm chân thật không đổi thay, đổi thay là tâm vọng tưởng.

Như vậy nhận mình buồn, vui tức là nhận vọng tưởng làm mình. Tu mà nhận vọng tưởng làm mình thì uổng công tu. Thầy nói lẽ thật cho tụi con biết, cứ nắm lấy vọng tưởng làm sao nhận nơi mình có cái thật? Nhận vọng tưởng là mình thì chạy theo nó tạo nghiệp, khi nhắm mắt nó dẫn đi trong luân hồi lục đạo. Nếu sửa soạn ra đi, lỡ có niệm sân dấy lên liền rơi vào ngạ quỉ… Cái tụi con đang chấp cho là mình đó, chính là gốc dẫn đi trong sanh tử luân hồi.

Bởi vậy khi nào buồn có ai hỏi, nên trả lời: “tôi có những vọng tưởng buồn”. Có vọng tưởng buồn chớ không phải tôi buồn. Nếu vui, có ai hỏi sao vui vậy, nên nói: “bữa nay có vọng tưởng vui”. Như vậy đuổi vọng tưởng mới được. Cứ nhận vọng tưởng là mình làm sao đuổi được! Sự tu rất tế nhị, khi nào biết được cái thật thì không bị nghiệp lôi. Vọng tưởng là cái tạo nghiệp, hễ theo nó liền bị nghiệp dẫn. Phải biết rõ nó là vọng tưởng, đừng theo.

Bây giờ giả sử ai nói mình “chị ngu như bò”, giận không? Thầy nói hoài, họ nói mình ngu như bò mà mình có thành bò đâu. Có thành bò không?

– Dạ, không.

Mình vẫn tỉnh sáng bình thường. Nói “như bò” là tiếng nói bên ngoài, nó giả không thật, mình vẫn là mình. Khi người ta nói mình ngu như bò thì cười chơi: “Tôi có thành bò bao giờ!” Rồi thôi. Còn nghe “ngu như bò” liền nổi sân muốn đấm đá người ta, vậy là thành bò chưa? Người ta nói bò thì mình thành bò, người ta nói chó mình thành chó cắn người ta. Bây giờ tụi con nếu là người sáng người tỉnh, người ta nói mình ngu như bò chỉ cười là xong, có thành bò đâu! Không giận hờn gì hết thì có chuyện gì xảy ra với tụi con không? Người tu là như vậy, không cố chấp.

Giả sử có người nói: “Tôi cho chị ăn bánh xèo, ăn bánh ít, đủ thứ bánh.” Nghe nói như vậy tụi con cười hay là mang ơn? Chỉ cười, vì họ nói dóc đâu có đưa bánh cho mình ăn. Người ta nói mình con chó, mình đâu phải thành chó. Tại sao họ nói cho mình ăn, biết đó là giả cười, còn nói con chó lại giận? Nói con chó hay nói cho bánh, cả hai đều là lời rỗng. Tại sao cái kia mình cười không chấp, biết là nói gạt nói dối, còn bảo con chó lại cho là nói thật? Cứ vậy mà thiên hạ giận nhau đùng đùng, gây sự đủ thứ. Khổ đau tại cái gì? Tại si mê. Bởi vậy tụi con ráng đừng si mê nữa. Đừng chấp vọng tưởng là mình, đừng chấp những lời nói giả dối là thật thì hết khổ.

Tụi con phải luôn nhớ vọng tưởng không thật. Nó là cái bóng qua rồi mất, nhận nó là mình nên tạo nghiệp luân hồi đau khổ. Nếu không nhận nó là mình thì nó khởi bao nhiêu cứ khởi, mình vẫn ngồi an nhiên biết rõ từng tên một không lầm. Thấy nó chạy chơi như thấy mấy con chó chạy rong mà mình không phải là chó, còn nếu thấy chó là mình tức quá ngu rồi, phải không?

Vọng tưởng chợt qua chợt lại rồi mất, đâu còn hoài mà nhận là mình. Từ hồi cha mẹ sanh đến ngày nhắm mắt, mình đâu từng mất, đâu từng thiếu. Không phút giây nào thiếu, tại sao lại quên mình mà nhận vọng tưởng? Thường xét kỹ như vậy, mới hiểu tại sao nói ngồi tu phải biết vọng tưởng không theo. Đó là chỉ mặt cho biết nó là cái bên ngoài, không phải thật mình.

Nếu tụi con biết nó là vọng tưởng, lúc đó ai biết? Là mình biết. Vậy vọng tưởng là cái bị biết. Như nhìn thấy cây tùng thì cây tùng đâu phải là mình. Cũng vậy, chúng ta biết vọng tưởng thì vọng tưởng không phải là chúng ta. Tại sao cứ nhận vọng tưởng là mình rồi khổ. Chỉ có bao nhiêu đó dạy hoài mà không tỉnh, giờ tỉnh chưa?

– Dạ, tỉnh.

Nếu tụi con tỉnh sẽ có hai điều hay:

Điều thứ nhất: Ví như tụi con đau chân, lúc đó là “mình đau” hay “cái chân đau”?

– Dạ, chân đau.

Vậy mà ai cũng nói “tôi đau”. Khi chúng ta biết chân đau là có Ông chủ biết, chân là cái bị mình biết. Cho nên trong cái đau có cái không đau. Cái biết đau không hề đau. Cái chân này đau nên mình biết đau chớ không phải mình đau. Hiểu vậy rồi tụi con sẽ không bị đồng hóa với thân xác thịt này. Tất cả các vui buồn khác cũng vậy. Thấy rõ và không bị đồng hóa với những vọng tưởng vui buồn thì không còn khổ.

Điều thứ hai: Chúng ta không bị đồng hóa với thân này thì khi nhắm mắt mình không bị đau đớn khổ sở, chỉ cười: “Ờ, cho mày muốn làm gì thì làm, cuối cùng mày hoại chớ ta có hoại đâu mà sợ.” Còn nếu thấy thân này là mình, lúc chết thân nát có phải mình nát theo không? Nếu nát theo, chết rồi hết, vậy là tụi con duy vật rồi.

Cho nên biết thân này là hiện tượng duyên hợp hư giả, nó hợp rồi tan, còn cái thật của mình không mất. Chết rồi thân này rã chớ tinh thần không rã. Nếu theo nghiệp tức đi trong luân hồi lục đạo, không theo nghiệp là chấm dứt luân hồi. Theo nghiệp gốc từ chấp vọng tưởng, nên nỗ lực tu là để dẹp vọng tưởng. Vọng tưởng hết tức không còn trầm luân sanh tử, gọi là giải thoát.

***

Hôm nay Thầy kể lại cho tụi con nhớ thật sâu câu chuyện này. Đây cũng là đường lối tu của mình.

Thiền sư Duyên Quán tông Tào Động, một hôm ông Tri viên tới hỏi:

– Bạch Hoà thượng khi giặc nhà khó giữ phải làm sao?

Ngài Duyên Quán nói:

– Biết nó thì không phải oan gia.

– Sau khi biết được thì sao?

– Đày nó đến nước vô sanh.

– Nước vô sanh đâu không phải chỗ an thân lập mạng?

– Nước chết không chứa được rồng.

– Thế nào là nước sống chứa rồng?

– Dậy mòi chẳng thành sóng.

– Chợt khi đầm nghiêng núi đổ thì sao?

Ngài Duyên Quán từ trên tòa bước xuống nắm đứng lại, nói:

– Chớ nói ướt góc ca-sa của Lão tăng.

Bây giờ Thầy giải thích từng đoạn cho tụi con nhớ.

Thầy Tri viên hỏi: “Giặc nhà khó giữ phải làm sao?” Giặc nhà là gì?

– Dạ, là vọng tưởng.

Ai cũng có vọng tưởng lăng xăng, nó cứ chạy lung tung, phá phách mình kềm không nổi, gọi là giặc nhà.

Thầy Tri viên hỏi: “Giặc nhà khó giữ phải làm sao?” Ngài Duyên Quán đáp: “Biết nó thì không phải oan gia.”

Vọng tưởng dấy lên mình biết không theo thì nó không hại mình được. Oan gia là kẻ thù hại mình. Nếu không theo thì nó không làm gì được mình. Không nắm vững chỗ này không biết đường tu. Như vậy, khi nào giặc nổi loạn bên trong, biết nó là vọng tưởng, vọng tự nhiên hết, giống như tụi con tu hiện giờ vậy. Nó không hại tụi con thì không phải là oan gia.

Hỏi: “Sau khi biết được thì sao?” Ngài trả lời: “Đày nó đến nước vô sanh.”

Tức là biết vọng không theo thì nó dừng, dừng rồi lặng, hoàn toàn yên lặng. Đó là “đến nước vô sanh”. Tụi con đày nó tới đó chưa?

– Dạ, chưa.

Tại sao còn thương không chịu đày nó đi? Như vậy đi theo thứ tự, mới đầu biết nó, nó quậy phá mình không theo. Bây giờ, biết nó rồi làm sao nữa? – Phải đẩy nó tới chỗ yên lặng, là nước vô sanh. Tới chỗ yên lặng hoàn toàn rồi làm sao nữa?

Ông Tri viên hỏi tiếp: “Nước vô sanh đâu không phải chỗ an thân lập mạng?” Tức là chỗ đó phải là chỗ cứu kính, tột cùng chưa? Ngài trả lời: “Nước chết không chứa được rồng.”

Nghĩa là khi chúng ta lặng hết vọng tưởng, ngỡ đó là chỗ cuối cùng, ai dè là nước chết. Tại sao vậy? Vì vọng tưởng lặng hết mà chưa nhận ra Ông chủ nên nói “nước chết không chứa được rồng”. Đó không phải là chỗ an thân lập mạng. Tụi con tới nước chết chưa? Nước chết còn chưa tới, huống nữa là chứa rồng.

Hỏi: “Thế nào là nước sống chứa rồng?” Ngài trả lời: “Dậy mòi mà chẳng thành sóng.”

Nghĩa là nó gợn gợn mà không thành sóng. Khi tụi con biết rồi, vọng tưởng lặng, mình thường có cái biết rõ ràng. Biết rõ ràng nhưng không khởi niệm, đó là dậy mòi mà không thành sóng. Chỉ ra như vậy là đáo để rồi. Nghĩa là, tâm lặng lẽ là chỗ nước chết, còn cái biết được cái lặng đó, là tâm thật của mình. Cái tâm đó hằng tri hằng giác chớ đâu phải vô tri mà nói “nước chết không chứa được rồng”. Tụi con thấy nói quá hay: “Dậy mòi mà chẳng thành sóng.”

Ông Tri viên hỏi: “Chợt khi đầm nghiêng núi đổ thì sao?”

Nghĩa là khi mọi sự tan vỡ hết thì thế nào? Ngài từ giường thiền bước xuống nắm đứng lại nói: “Chớ nói ướt góc ca-sa Lão tăng.” Dù cho trời đất có nghiêng đổ ta vẫn hoàn toàn tự tại. Hay chưa? Bao nhiêu đó tụi con nhớ mà tu.

Đường lối tu rõ ràng như vậy, nhưng thoạt nghe thấy khó hiểu. Hiểu rồi mới thấy giá trị câu chuyện, nắm vững như vậy tu mới không bị lầm lạc. Rất tiếc là nhiều người tu chưa tới nên không thấy chỗ thâm thúy này. Tụi con tới chưa? Tới nước chết là khá lắm rồi đó. Hàng Nhị thừa hay thích chỗ tâm định, định là chỗ nước chết. Nhị thừa kẹt chỗ Niết-bàn vô sanh, chớ chưa nhận ra được Ông chủ của mình. Thôi, bao nhiêu đó đủ cho tụi con tu ba năm rồi.

***

Trong kinh Pháp Hoa có đoạn kể Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng cung kính chấp tay nói: “Tôi chẳng dám khinh các ngài vì các ngài đều sẽ thành Phật.”

Câu nói này đối với người biết tu thì thấy hữu lý, khích lệ, còn đối với người không biết tu, họ cho là nói bậy nên mắng chửi đánh đập. Cũng vậy, người biết đạo nghe tụi con nói: “người nào cũng có Phật tánh”, họ rất vui. Trái lại, người không biết đạo nghe rồi xầm xì, lúc ấy tụi con còn muốn nói nữa không? Chắc là cụt hứng. Nhưng với Bồ-tát Thường Bất Khinh thì khác. Ai đối xử sao Ngài cũng bằng lòng, chửi cũng được, đánh cũng được, ở gần sợ bị đánh nên chạy ra xa rồi cũng nói câu đó. Như vậy, câu nói đó có ý nghĩa sâu đậm đến mức nào mà Ngài cố gắng tối đa để nhắc nhở mọi người?

Đây nói lên tầm vóc quan trọng của lòng từ bi. Tất cả chúng sanh mê muội, thấy thân xác này là thật mình, cái suy nghĩ lăng xăng là tâm mình, không biết nơi mình có sẵn tánh Phật. Vì mê nên quên. Bây giờ chúng ta biết lại không nói cho họ thì tội, nên bằng mọi giá phải nói cho họ biết. Người ta nghe rồi mà không tin theo là quyền của người ta, còn mình không nói cho họ biết là mình không làm tròn bổn phận.

Cũng như Thầy thường thí dụ, chúng ta được cha mẹ chia cho châu báu, mình cất rồi biết chỗ đào lên lấy; còn anh em chúng ta người nào cũng có mà họ lại không biết. Nên chúng ta phải ráng chỉ cho họ biết, chịu đào tìm hay không là chuyện của họ. Còn phần mình nếu biết mà không chỉ thì chưa tròn bổn phận, là bỏn sẻn. Vì vậy nên dù người ta chê bai, chửi bới, hành hạ gì Bồ-tát Thường Bất Khinh cũng phải nói, còn tin hay không là quyền của người ta.

Như vậy có cực đoan không? Mới nghe như cực đoan, người ta không chịu nghe pháp mà cũng ráng nói. Thật ra, đây không phải nói pháp mà nói lẽ thật, chỉ cái có sẵn mà mọi người không biết. Trong tụi con, có đứa nghe nói tánh Phật còn không tin, huống nữa là người đời. Tụi con tin hết chưa?

– Dạ, tin.

– Tin nhẹ quá nên Thầy nói hoài, khan tiếng khô cổ vẫn cứ phải nói, chừng nào tin sâu mới thôi. Mình biết là có mà không nói là ích kỷ. Tụi con thấy trong kinh Pháp Hoa, Phật nói rất là chí thiết, nếu Ngài nói pháp Thanh văn cho các vị A-la-hán tu tới đó cho là viên mãn thì coi như Ngài bị lỗi keo kiệt, vì có cái quí hơn mà không chịu chỉ. Nên cũng trong kinh này, đức Phật nói trắng ra cho chúng ta biết mỗi người đều có hạt minh châu vô giá, phải tự tìm nhận ra. Như thế Ngài mới tròn bổn phận.

Tinh thần của người tu là biết cái gì hay phải đem nói cho mọi người cùng biết. Như vậy không có nghĩa là mình muốn làm thầy thiên hạ. Chỉ vì muốn cho mọi người cùng biết điều hay đó như mình để họ trở lại sống với cái thật. Cả thế gian này có mấy người biết mình có Tánh chân thật? Chỉ có một nhóm người thôi. Người đời tối ngày cứ lo cho thân và lo tranh đấu bảo vệ những suy nghĩ của mình, sao cho thắng được người. Vì mãi lo tranh đấu, bảo vệ cái hư dối nên không hề biết mình có cái thật. Thật là đáng thương!

Chư Phật, chư Tổ dạy chúng ta phải mồi đèn nối lửa, nghĩa là tự mình thắp sáng trí tuệ và đem truyền cho mọi người. Bây giờ Thầy rao, Thầy nói cho mọi người biết, tới tụi con cũng ráng la lên cho người ta nghe. Nhưng trước khi nói cho người ta, chính mình phải biết chắc chắn không nghi ngờ. Bởi vậy lúc này là thời gian tụi con ngồi tìm cho ra, thấy cho rõ. Chừng nào tìm ra và thấy rõ rồi, cười lên được mới nói cho người ta nghe. Đó là bổn phận của tụi con. Ở đây Thầy tạo điều kiện cho tụi con làm được việc đó.

Trang trước Mục lục Trang sau

Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.