Nội dung:
Thiền sư ra đi không để lại dấu vết. Như tùng soi bóng nước, mây trôi trên trời. Bao thế hệ đi qua, hình bóng người xưa đã trở thành thiên cổ nhưng mạch nguồn Thiền tông vẫn chảy mãi không dừng. Là có chăng! Là không chăng!
Mười năm ở Thiền viện Trúc Lâm là đoạn ngắn trong khoảng đường dài tu tập nhưng kết quả lại không ngờ. Đó là nhờ những lời dạy tâm huyết thiết tha của Hoà thượng Ân sư. Bao năm qua những lời răn nhắc của Người đã len lỏi trong từng ngõ ngách tâm hồn, thấm vào máu thịt dưỡng nuôi hạt giống trí tuệ chúng tôi. Âm hưởng lời giáo huấn vang xa từ đỉnh Phụng Hoàng là tiếng chuông cảnh tỉnh, thôi thúc chúng tôi nhanh chân rảo bước về nhà.
Giờ đây Hoà thượng sắp đóng cửa nhập thất trưởng dưỡng Thánh thai. Chúng tôi góp nhặt những lời Người khuyên dạy Tăng Ni lúc thỉnh nguyện cũng như lời sách tấn trên băng đá mỗi chiều. Ghi lại thành tập “Phụng Hoàng Cảnh Sách” để làm quyển sách gối đầu nằm, làm kim chỉ nam đưa lối trong khoảng đường tu tập hiện tại và mai sau.
Vì là văn nói nên không sao tránh khỏi nhiều sơ sót. Kính mong các bậc cao minh phủ chính cho.
Kính ghi
Cuối Đông Nhâm Ngọ – 2002
Ni chúng Thiền viện Trúc Lâm
Ngày 27-8 Bính Tý (9-10-1996)
Hôm nay tôi không nói chuyện xa xôi mà muốn rà soát lại trong chúng coi có thực hành bản Thanh qui không. Bây giờ hỏi toàn chúng, trừ Tri khố với Thủ bổn ra, có ai giữ tiền không? Nếu có đưa tay coi! Như vậy là không ai giữ tiền, thế mà tôi được nghe có người gửi cho mấy vị đi chợ mua món này món kia. Tôi không hiểu cái đó ở đâu ra. Đó là điều không hay.
Tôi giải thích cho quí vị hiểu vì sao trong Thanh qui có điều lệ này. Lâu nay tôi thường trách ở chùa thường xảy ra những việc bất công, ai có thân nhân, thí chủ tặng biếu tiền bạc hoặc đồ vật gì cũng được giữ xài riêng. Có người thân nhân hoặc thí chủ khá giả nên gửi cho nhiều thành ra dư. Có người thân nhân nghèo lại không có thí chủ nên sống một cách đạm bạc thiếu thốn. Đôi khi những người thiếu thốn nhìn thấy huynh đệ có tiền bạc dư dả liền để ý, khi nào huynh đệ sơ hở, để quên thì khởi lòng tham muốn lấy. Do đó xảy ra chuyện trộm cắp ở chùa. Đây là điều đáng ra không nên có, mà vẫn có, xuất phát từ sự bất công đó. Cùng sống trong chúng là những người đồng đạo, đồng tu mà kẻ dư, người thiếu thì dễ nảy sanh sự bất bình, rồi đi đến chuyện tham lam không tốt.
Qua kinh nghiệm đó, tôi cố gắng thực hiện cho được phép lục hoà. Trong Thanh qui có nói tất cả tài sản trong Thiền viện là của chung, không ai được quyền giữ phần nhiều hơn hoặc giữ riêng cho mình, đó là nói tổng quát. Trong giới thứ mười của Sa-di cũng có ghi là không được giữ tiền bạc. Vì vậy tôi muốn toàn chúng ở đây ai cũng là người giữ giới thanh tịnh, tối thiểu là mười giới. Đồng thời ai cũng là người sống hoà đồng với toàn chúng, không có sự hơn kém. Có vậy nếp sống đạo mới được tốt đẹp.
Khi chúng ta chủ trương lục hoà mà có người giữ chút ít của riêng là phạm giới. Lại còn gửi mua cái này cái kia ăn riêng là tội mích chúng, không hoà. Như vậy không tốt. Nếu một người làm được, những người khác cũng bắt chước theo. Vô tình mấy chú phá hủy những gì tôi chủ trương, phá hủy những gì tốt đẹp của Thiền viện. Trong khi tôi tán thán chúng ở đây sống lục hoà, giữ giới luật thanh tịnh, lại có một hai người không nhớ, không giữ, vậy là làm hư cả chúng. Điều đó mới thấy dường như nhỏ, nhưng thật ra rất hệ trọng, làm mất nề nếp nghiêm chỉnh của mình, rồi cũng giống như các nơi không hơn không kém.
Vậy nên có ai lỡ giữ tiền hãy đem nộp cho Thủ bổn, vì Thủ bổn là người giữ của chung. Giữ cho Tam Bảo thì không phạm giới, còn giữ riêng cá nhân xài là phạm giới. Mong rằng tất cả chúng hiểu được chủ trương, đường lối của Thiền viện mà xử sự cho đúng, đừng sai chạy. Nhiều khi quí vị gửi những người đi chợ, nếu họ không nhận sợ quí vị buồn, còn nhận thì họ áy náy. Cho nên ngang đây tôi tuyên bố hẳn: Nếu ai gửi tiền mua đồ riêng thì người gửi bị tội mười, còn người nhận bị tội năm, đó là tội đồng lõa.
Vậy để cho tốt đẹp, mỗi người nên cố gắng một chút, sao cho toàn chúng được thanh tịnh. Đừng vì một hai lý do nhỏ làm hư tập thể của mình. Không phải giữ giới không có tài sản riêng là được giải thoát, nhưng nhờ giữ giới đó khiến tâm mình an tịnh. Thí dụ: Có tiền liền muốn mua cái này sắm cái nọ, phải nghĩ ngợi, tính toán; còn nếu trong tay không có đồng xu thì có nghĩ gì đâu, cho gì ăn nấy, cần gì cứ đến Phó quản chúng hoặc Tri sự xin.
Tôi đã nói trước với toàn chúng rằng khi tôi còn sống đây, phần lo cho chúng, tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn không để cho quí vị thiếu. Và quí vị cũng đừng vì quyền lợi cá nhân mà giữ riêng không tốt. Dù ai tặng cho một hai trăm ngàn cũng đem giao Thủ bổn, để nói lên tâm hồn cao thượng của mình, không tham ái tiền bạc. Nếu không thì từ tham ái tiền bạc sẽ sanh ra nhiều cái tham khác.
Đừng nghĩ cái gì của thân nhân cho mình cứ giữ riêng, không đúng. Nếu thân nhân hay thí chủ phát tâm cúng vài chục ngàn, mình nên cho họ biết luật của Thiền viện là không được giữ riêng, nếu phát tâm nên cúng chung toàn chúng, đừng cúng riêng. Người ta nghe sẽ hiểu, từ đó họ có tâm rộng rãi hơn, không thiên về một người.
Một điều khổ tâm trong nhà đạo là thí chủ hay Phật tử khi thấy ông thầy nào sáng sủa dễ thương là cứ nhét cho, gửi cho, cúng riêng. Thấy ông thầy nào hơi đen đúa, nói năng khô khan thì không thương, cũng không cho gì hết. Từ tâm phân biệt riêng tư như vậy, lần lần khiến cho trong đạo nảy sanh những cái dở.
Bởi vậy, chúng ta phải làm sao tập cho người Phật tử có cái nhìn bình đẳng. Trong chùa cùng tu cùng học với nhau thì công đức ngang nhau. Muốn giúp nên giúp chung, không muốn giúp thì thôi, đừng có tâm phân biệt vì cá nhân. Tâm niệm bình đẳng đó khiến cho Phật tử nhìn người trong đạo với cái nhìn đẹp. Nếu mạnh ai nấy nhận rồi xài riêng sẽ tạo sự sai biệt trong chúng, từ đó dễ sanh ra những chuyện bất hoà.
Tôi mong rằng trong toàn chúng, ai đó có giữ tiền riêng đem ra giao cho Thủ bổn, cúng hết vô của chung, khi nào bệnh, hoặc có duyên sự đi đâu thì Thủ bổn xuất tiền. Ăn mặc đã có đủ, còn cái gì phải lo, phải bận tâm? Ở đây ai bệnh, thuốc men dầu mắc hay rẻ, Thủ bổn cũng phải xuất. Phải chi Thủ bổn giới hạn, chỉ xuất tiền từ bốn năm trăm ngàn trở xuống, không được vượt quá, rồi quí vị lo sợ bệnh nhiều, không đủ điều kiện chữa chạy nên phải giữ riêng. Ở đây không như vậy, Thiền viện bao thầu tất cả. Những khó khăn của quí vị Thiền viện đều chịu trách nhiệm bảo bọc hoàn toàn, thì có lý do gì mà giữ riêng?
Giữ riêng là điều không tốt, làm hư mình, hư người khác nữa. Tôi mong toàn chúng phải có cái nhìn sáng suốt và bình đẳng, đừng nhìn thiên vị không hay. Đó là lời tôi nhắc nhở hôm nay, mong toàn chúng nhớ để cố gắng thực hiện.
Ngày 13-11 Bính Tý (22-12-1996)
Qua một tháng rưỡi tôi vắng mặt, quí vị có ít nhiều sai sót, điều đó cũng đáng buồn. Lý đáng không nên có những cái dở đó, mà thỉnh thoảng cũng có, đây là điều không hay.
Bây giờ tôi nhắc nhở thêm trong chúng để nhớ tiến tu. Tôi muốn nói đến đức hỉ xả của người tu. Tất cả chúng ta tu theo Phật, bốn chữ từ, bi, hỉ, xả là bốn hạnh mà người tu không bao giờ được thiếu. Tôi chắc rằng hạnh từ bi quí vị ai cũng có, nếu không có thì không thể nào đi tu được. Còn đức hỉ xả tôi thấy quí vị còn lơ là, chưa thực hiện được.
Tại sao phải nói hỉ xả? – Vì tất cả chúng ta ai cũng có những thói quen, tập khí cũ. Bởi vậy khi sống chung trong một tập thể đông người không làm sao tránh khỏi va chạm, từ ý kiến đến hành động đều không giống nhau nên dễ sanh bực bội, chống đối. Nếu có bực bội, chống đối là gốc của phiền não, của tham sân si chớ không phải gốc đạo đức. Bởi vậy Phật dạy chúng ta tu là phải tập đức hỉ xả. Dù gặp điều gì quá lắm đi nữa mình cũng vui vẻ bỏ qua. Có người xúc phạm đến danh dự, quyền lợi, xúc phạm đến bản ngã cá nhân, mình cũng phải khéo bỏ qua, bỏ một cách vui vẻ chớ không phải gượng ép.
Chúng ta nên nhớ mình đã là người tu, khi bị xúc phạm là cơ hội thử thách để coi mình còn phiền não nhiều ít. Cho nên gặp những trường hợp đó, mình cứ nghĩ đây là dịp tốt để vươn lên, do đó vui vẻ dẹp bỏ tự ái, bản ngã để tiến tu, đó là khéo tu. Vậy là mình đã vượt lên một lần phiền não. Còn nếu không khéo có cái gì xảy ra liền bực bội, nhiều khi không nói ra lời nhưng cứ ấp ủ trong lòng, như vậy cũng chưa có hỉ xả. Tôi khuyên tất cả quí vị, khi gặp những điều trở ngại, ý kiến bất đồng, nên giải quyết qua rồi bỏ, sau đó vui vẻ chớ không nên ôm ấp bực bội. Nếu không nó sẽ làm chướng cho sự tu, không có lợi gì hết mà còn có hại.
Đối với người tu, đức hỉ xả thật là thiết yếu, giúp mình vượt qua tất cả những chướng ngại trên đường tu. Bất cứ tập thể nào cũng có sự va chạm, chống trái nhau, hoặc lớn hoặc nhỏ, vì trên đời không ai giống ai cả, nhưng mình nên xem đó là cơ hội tốt để thấy được mình rõ hơn. Nếu sống ở nơi mọi người đều tâng bốc, quí kính mình thì không bao giờ tập đức hỉ xả, tu hạnh nhẫn nhục được. Vì vậy trong chúng, nếu thấy có những điều huynh đệ làm trái ý nên xem đó là việc rất thường, là cơ hội tốt để nhìn lại coi mình có còn sân si, bực bội hay không. Nếu còn, đó là đạo đức mình chưa sâu, chưa cao. Đừng thấy còn hờn giận là hay, nghĩ như vậy là không biết tu, không biết tiến trên đường đạo.
Cho nên tất cả người tu chúng ta đều phải khéo xoay lại mình khi có việc đụng chạm với nhau. Có những chuyện có thể thành tóe lửa, nhưng nếu chúng ta biết vui vẻ, xả bỏ, không có một ý niệm hờn trách, thì đó là một bước tiến đáng kể của mình. Đừng nên cố chấp, cố chấp là trái đạo lý.
Ngày nay chúng ta sống trong chúng, ai cũng giữ luật giữ giới như nhau mà còn có những va chạm, huống nữa mai kia ra làm Phật sự, đâu phải việc gì cũng toại nguyện như ý hết. Chúng ta sẽ gặp những khó khăn, nếu không khéo hỉ xả, không bỏ qua được tất sẽ bực bội rồi sanh phiền muộn, làm sao vuông tròn Phật sự được?
Cho nên có lần tôi nói với đại chúng: Tôi không thích chúng nhập thất miên viễn, bởi vì ở trong thất lâu, tự thấy mình thanh tịnh rồi hài lòng với sự thanh tịnh đó. Đến khi ra thất, gặp những điều trái ý dễ sanh bực bội, thành ra vẫn còn bị kẹt, không có lợi gì. Lâu lâu mỗi người được nhập thất một thời gian rồi ra sống với chúng, với huynh đệ để thử coi sự tu, đạo lực của mình có vượt qua các trở ngại hay không. Nếu vượt qua được mới tin rằng đạo đức của mình khá, có tiến.
Vừa rồi đi nước ngoài, tôi cho Phật tử tham vấn, có người hỏi rằng:
– Thưa Thầy, có nhiều vị nói rằng mình tu chứng cái này, đắc cái kia. Vậy lấy gì làm thước đo để tin được người đó thực tu thực chứng?
Tôi trả lời:
– Phật dạy có cây thước tám gió: lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Chừng nào tám gió thổi không động thì người đó là thứ thật, còn nếu mới một gió mà nổi sân si lên, đó là giả hiệu.
Quí vị lấy cây thước đó đo coi mình giả hiệu hay thứ thật, nếu còn bị các thứ gió làm quay cuồng, tức chưa phải thứ thật.
Đôi khi giới tu sĩ chúng ta có người hay khoe đắc cái này, chứng cái nọ mà khi gặp việc bệnh nào tật nấy y nguyên. Do đó Phật bảo phải lấy tám gió làm cây thước đo. Nếu chúng ta thật là người đạt đạo thì tám gió đến không lay chuyển nổi, còn chúng ta tu chưa tới đâu, chỉ một gió đã bay rồi. Đó là lẽ thật. Cho nên trong chúng quí vị đừng ngỡ rằng giờ phút này tâm mình thanh tịnh là sẽ thanh tịnh hoài. Không phải vậy đâu! Khi nào đối diện với bát phong mà không lay động mới là thanh tịnh thật!
Sống yên trong chúng thì thuận nhiều, nghịch ít. Còn khi ra đương đầu với bên ngoài, không phải mình nói đâu mọi người nghe đó, có khi họ tán thành, có lúc họ chống đối. Làm sao khi họ thuận nghe mình hoan hỉ, lúc chống lại mình cũng hoan hỉ, không bực bội gì thì làm Phật sự mới vuông tròn được.
Thật ra đời tôi những khi đi làm Phật sự đâu được suôn sẻ như Tăng Ni, Phật tử tưởng, không phải tới đâu người ta cũng tán thán, công kênh mình, có những trường hợp họ cũng chống đối. Mình không thắng được các gió thì Phật sự không bao giờ vuông tròn.
Chúng ta là người chịu trách nhiệm, vừa phải cố gắng tu cho đạt đạo, vừa đem chánh pháp truyền bá cho mọi người. Vì trọng trách đó nên phải tập rèn cho đủ những đức tánh tốt, nhất là đức hỉ xả, để vui trong những chướng ngại, buông hết không bận lòng. Được vậy, việc tu và Phật sự của mình mới có kết quả. Nếu còn ôm ấp phiền não thì tu không được, làm Phật sự cũng không thể thành tựu. Bởi vậy tôi muốn ai cũng có trách nhiệm khi được giao việc này việc kia, đồng thời để ý tự xét coi tâm mình đã an ổn chưa hay còn có gì gút mắc, để cố gắng cởi mở, đừng cho kẹt nữa.
Quí vị đừng nghĩ rằng ở trong chúng cực quá, kiếm cái thất riêng ở tu, nghĩ vậy là hết sức sai lầm. Có một cái thất riêng thì dễ rồi, nhưng còn bao nhiêu thứ chuyện phức tạp khác. Như mình nhập thất mà người hộ thất đến trễ cũng thấy hơi buồn, ở trong thất nghe bên ngoài có gì lao xao, lộn xộn cũng lắng nghe, gặp hộ thất liền hỏi. Điều đó chứng tỏ mình chưa an ổn, còn mắc kẹt bên ngoài.
Bởi vậy phải làm sao trong lúc tu giữa huynh đệ với nhau, chúng ta vẫn mừng là mình rất có diễm phúc được sống trong một tập thể tốt lành như thế này. Đồng thời mình cũng hân hoan rằng trên đường tu có thầy có bạn, khi sai sót có người nhắc nhở. Nếu ở trong thất một mình, có sai sót ai biết, ai nhắc nhở? Rốt cuộc mười năm, hai mươi năm trong thất ra rồi những thói thế tục cũng chưa dẹp bỏ được. Nhiều người hiểu lầm, cứ tưởng vô thất là tu hay, không ngờ đôi khi có lợi, đôi khi không. Nhất là nếu ở trong thất lâu, tu có cái gì lạ lạ, mình không biết dè dặt thận trọng, đem khoe nói tùm lum khiến cho tổn đức, rồi sanh ra những thương tổn khác không lường được.
Cho nên ở đây tôi hết sức dè dặt. Trong chúng mỗi khi có gì tiến bộ, tôi mừng, vui rằng trên con đường làm Phật sự hướng dẫn Tăng Ni tu hành được một chút tiến bộ. Nhưng tôi vui trong dè dặt, không bao giờ dám khoe với ai, chỉ thỉnh thoảng nói chút ít để người ta vững lòng tin đối với sự tu hành của Tăng Ni ở đây. Tuy nhiên, tôi không bao giờ đề cao một cá nhân nào, chỉ thầm lặng để cho tất cả yên tu. Nhờ đó mà đức hạnh Tăng Ni càng ngày càng sáng hơn, đầy đủ hơn.
Trong một tập thể, nếu tất cả huynh đệ đều có chí hướng quyết tu là điều đáng mừng. Chúng ta sống bên thầy bên bạn, khi làm gì sai trái liền có người nhắc nhở, chỉ bảo, do đó đời tu của mình càng ngày càng vững vàng, cứng cỏi hơn. Đây là điều hết sức thiết yếu. Đừng lầm lẫn cho rằng mình ở thất riêng tu hay được một trăm phần, còn ở chúng thì thua sút. Đừng nghĩ như vậy, không đúng lẽ thật. Tôi đã thấy nhiều người nhập thất năm năm, mười năm rồi ù lì, trì trệ không được gì, nhiều khi còn có những cái chướng làm trở ngại lớn lao cho đường tu nữa.
Bởi vậy trong chúng mỗi người phải ý thức rằng, chúng ta sống trong tập thể nên hỉ xả, mở lòng rộng rãi, bao dung với nhau. Huynh đệ người ý kiến này người ý kiến nọ, điều hay thì dùng, việc dở bỏ qua, không hờn giận trách móc gì nhau. Ai cũng có quyền góp ý kiến, nhưng cái gì hay mình làm, dở thì thôi. Đừng thấy có ý kiến trái mình rồi sanh bực bội là không tốt. Đó là tâm chưa được bao dung rộng rãi.
Thật ra khi tôi làm Phật sự có cả năm trăm, bảy trăm Tăng Ni ở dưới, nếu tôi có tâm bực bội như vậy thì sẽ phiền não suốt ngày, không bao giờ yên được. Người ta ai cũng có bệnh riêng, nếu họ khéo biết hoặc mình nhắc cho sửa sẽ trở nên tốt. Không nên vì một, hai tật xấu của họ mà bực bội.
Nhưng ở đây, chú nào xin đi tôi không có một lời khuyên ngăn giữ lại. Như vậy có thiếu lòng từ bi hay không? Thật ra, tôi nghĩ tôi đã làm hết sức mình, đã tròn trách nhiệm của tôi, cố gắng bảo bọc mà họ không cảm thấy ưng ý, bằng lòng ở đây thì thôi. Nếu cố giữ chỉ làm họ thêm phiền não, không có lợi, lại khiến họ đâm ra cao mạn, tưởng rằng mình quan trọng. Bởi vậy, nếu ai muốn đi, tôi sẵn sàng cho chớ không khuyên ở lại. Không bao giờ tôi bắt buộc một người nào ở lại để làm việc gì riêng cho cá nhân tôi.
Toàn chúng phải hiểu được ý nghĩa đi tu là hi sinh cả một cuộc đời để làm điều cao thượng, quí báu chớ không phải làm chuyện tầm thường. Muốn đời mình trở thành cao thượng, quí báu thì phải ráng tập có tâm bao dung, rộng rãi, hỉ xả, bỏ qua hết những lỗi lầm của huynh đệ để lòng mình rỗng rang trong sáng. Nếu còn cố chấp, tâm mình sẽ trở thành hẹp hòi, thiếu độ lượng. Ở trong chúng chỉ bốn mươi, năm mươi người mà mình không kham chịu nổi, khi ra đương đầu với cả muôn, ức người làm sao an nhẫn được? Cho nên phải ráng! Khéo biết xả bỏ những phiền não đang chất chứa trong lòng, sống vui hoà hợp với nhau để cùng tu hành, cùng lo Phật sự, đó là người quyết chí tu. Ngược lại, nếu ôm ấp những điều riêng tư, hờn giận nhau rồi làm trở ngại đường tu, mai mốt lui sụt thì phí cả một đời mà kết quả không đến đâu.
Vậy hôm nay nhân ngày thỉnh nguyện, tôi nhắc toàn chúng từ lớn đến nhỏ tập sống với tâm rộng rãi, bao dung. Không nên vì một vài hành động nhỏ nhặt của huynh đệ mà đâm ra chán nản, bực bội, thối thất. Phải luôn tha thứ, hỉ xả cho nhau để cuộc sống được hoà vui, tu hành càng tiến, như vậy mới xứng đáng mang trọng trách tự giác, giác tha. Nếu không được như vậy sẽ uổng phí cả một đời tu cao quí của mình. Đó là lời nhắc nhở của tôi.
Ngày 13-12 Bính Tý (21-1-1997)
Phần thỉnh nguyện đã xong, tôi có ít lời nhắc nhở chư Tăng tinh tấn tu hành.
Vừa rồi có Phật tử hỏi tôi:
– Thưa Thầy, người tu theo Thiền tông có nhân duyên gì để khởi tâm từ bi?
Tôi trả lời rằng:
– Người tu theo Thiền tông khi có tỉnh, có giác rồi tự nhiên khởi tâm từ bi. Bởi vì trong nhà Phật luôn luôn dạy người xuất gia chúng ta phải là người chèo thuyền Bát-nhã để cứu vớt chúng sanh đương chìm đắm trong biển mê, đưa họ lên bờ giác ngộ. Đó là trọng trách của người tu. Khi chúng ta tu có được những lợi ích, những phút tỉnh giác, mới thấy sự quí báu, cao siêu của đạo. Khi ấy không cần khởi niệm từ bi mà tự nhiên chúng ta vẫn thương những người đang sống trong mê lầm.
Tôi ví dụ như chúng ta ngồi chơi, người bạn bên cạnh đang ngủ mê thấy mộng dữ la khóc, lúc đó chúng ta làm sao cứu họ? Chỉ cần lay gọi cho họ tỉnh, khi thức rồi thì mộng dữ tan mất. Cũng vậy, chúng sanh đang mê lầm đắm chìm trong biển khổ, trăm ngàn muôn ức điều khổ dồn dập, người nào cũng than thở đau khổ, trong khi chúng ta tỉnh giác rồi làm sao nỡ để họ mặc tình chịu khổ đau! Cho nên lúc nào chúng ta cũng sẵn sàng lao mình vào cảnh khổ để đánh thức, lôi họ dậy đừng mê lầm nữa.
Như vậy mê là nhân của đau khổ. Cho nên người tu thiền hay tu theo đạo Phật chỉ cốt được giác, giác mới hết khổ. Không phải tu để được một chút bình yên hay vui vẻ trong cuộc sống rồi cho đó là đủ, mà tu cho tới giác ngộ. Nếu chưa giác ngộ cao siêu thì ít ra cũng giác ngộ từng phần. Nhờ đó mình nhìn lại mới thấy chúng sanh là đáng thương.
Thí dụ chúng ta ngồi thiền, một niệm dấy lên liền biết nó hư dối nên gọi là vọng tưởng, không theo, đó là tỉnh, là giác. Bởi vì từ ngàn xưa đến nay chúng ta cứ tưởng niệm khởi là mình nghĩ, mình tính nên chạy theo, chấp nó là mình, tạo nghiệp rồi thọ khổ, đó là mê. Ngày nay biết tu, thấy rõ các niệm chỉ là bóng dáng duyên theo trần cảnh mà dấy khởi, không phải tự có. Thấy rõ như vậy, biết nó là ảo ảnh hư dối, mình không theo, tức không bị lầm mê. Thấy biết được vọng tưởng là tỉnh, là giác. Tuy chưa tỉnh giác trọn vẹn nhưng vẫn luôn luôn đi theo đường tỉnh giác không lạc đường mê.
Như vậy chúng ta tu thiền cốt làm sao tới phút giây nào đó những mê lầm vọng tưởng không còn quấy nhiễu nữa, trí tuệ trong sáng hiện tiền, đó là giác. Tuy giác chưa tròn nhưng vẫn được một đôi phần. Từ đó chúng ta mới thương những người đang sống mê trong cuộc đời tạm bợ này, họ đã gây không biết bao thứ nghiệp là nhân của khổ đau. Do đó chúng ta mới đem hết các phương tiện để cứu vớt họ.
Cho nên chư Tổ thường nói, người tu là kẻ đưa đò. Chèo thuyền Bát-nhã cứu vớt người trong biển mê đưa lên bờ giác, đó là hình ảnh cụ thể nói lên sứ mạng của chúng ta. Như vậy trọng tâm của người tu không gì ngoài giác ngộ. Tất cả đau khổ của chúng sanh đều bắt nguồn từ cái mê. Trong kinh có một đoạn Phật dạy: Người bị thiêu đốt trong địa ngục chưa phải khổ, bị làm ngạ quỉ đói khát chưa là khổ, bị làm trâu bò kéo cày kéo bừa nặng nề, người ta đánh đập cũng chưa phải là khổ, chỉ có kẻ si mê không biết lối đi, đó mới là khổ.
Như vậy, cái khổ Phật nói không phải ở địa ngục, làm ngạ quỉ hay súc sanh. Chính si mê mới là nguồn gốc của đau khổ. Nếu còn si mê thì lục đạo luân hồi hay ba đường ác chực sẵn, chúng ta ra vào liên miên không dừng, không dứt. Đó là nỗi khổ triền miên muôn kiếp. Vì khổ đọa địa ngục, làm ngạ quỉ còn có ngày hết, còn si mê thì trầm luân mãi mãi. Bởi vậy trong mười hai nhân duyên, đức Phật chỉ rõ cái nhân đầu đi trong sanh tử là vô minh, si mê, mờ tối, không biết lẽ thật. Từ vô minh mới có hành v.v…, cứ vậy mà vòng quanh luân chuyển không cùng không tận.
Bây giờ muốn thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử đó chúng ta phải dừng lại. Muốn dừng phải dùng giác, giác mới phá được vô minh. Nếu không giác thì vô minh không bao giờ phá được. Như vậy trọng tâm của đạo Phật lấy giác ngộ làm cứu kính chớ không phải cái gì khác. Giác ngộ rồi mới thương tất cả chúng sanh, đó là từ bi, như tôi dẫn ở trước.
Ngày xưa đức Phật đi tìm đạo, Ngài chỉ chuyên tâm gắng sức tu cho được giác ngộ. Giác ngộ rồi Ngài mới đem chánh pháp dìu dắt người gần kẻ xa, ngót bốn mươi chín năm tiếp tục rộng truyền con đường giác ngộ đó, không có việc gì khác. Như vậy lòng từ bi của Phật phát triển mạnh mẽ sau khi Phật đã giác ngộ rồi, từ đó Ngài mới sẵn sàng hi sinh đời mình để truyền bá chánh pháp, truyền bá con đường giác ngộ cho chúng sanh.
Cho nên ngày nay chúng ta tu ở đây, phải dốc lòng cố gắng đi đến chỗ tỉnh giác, không phải tu để có phước nhiều, đời sau trở lại hưởng. Nếu chúng ta tỉnh giác ít thì lòng từ bi ít, tỉnh giác nhiều lòng từ bi nhiều. Không phải mình tu tập pháp riêng để có lòng từ bi. Ở đây tôi giản trạch rõ, trọng tâm tu thiền, nhất là Thiền tông, chỗ cứu kính là giác, từ giác mới có tâm từ bi. Còn tu theo thiền của Nhị thừa hay Nguyên thủy thì dùng quán trợ duyên để thành tựu từ bi, tức là Từ bi quán. Từ bi quán là mình ngồi tu, tâm yên tịnh rồi chan rải lòng từ đến người thân như cha mẹ, anh em, rồi lần lần đến người sơ, tức là những người hàng xóm chung quanh, những người không quen biết, sau cùng rải lòng từ đến người thù của mình.
Vậy người tu thiền Nguyên thủy lấy Từ bi quán làm trợ nhân phát triển tâm từ bi, còn mình tu theo Thiền tông không dùng lối quán đó, chỉ khi nào thật ngộ, khởi niệm thương kẻ mê, rồi lo cứu giúp họ. Trong lúc tu, chúng ta không tạo duyên gì để khởi niệm từ bi hết, nhưng khi chúng ta tỉnh giác rồi thì lòng từ bi đó được thể hiện đầy đủ, thực tế.
Dùng Từ bi quán khởi niệm thương người, đem phước đức của mình chia sớt cho họ, là do tâm tưởng bủa khắp. Còn bên này khi giác rồi, thấy người mê mình thương, giúp họ một cách thực tế, tạo duyên, tạo điều kiện để đánh thức họ thật sự. Đó là hành động từ bi, không có khởi niệm, thương một cách tự nhiên chớ không phải thương do quán tưởng.
Từ đó chúng ta nghiệm xa hơn chút nữa, như hiện giờ chư Tăng, chư Ni thường nói bận rộn nhiều Phật sự. Nhưng mình đặt câu hỏi lại, Phật sự là cái gì? Các việc cúng đám, làm tuần… có phải là Phật sự không? Nếu chúng ta cho như vậy là Phật sự thì đó là điều làm giảm giá trị của đạo Phật. Vậy thời Phật không cúng đám, làm tuần… là Phật không làm Phật sự sao?
Vậy mới thấy từ ngữ “làm Phật sự” thường dùng không có bản chất thật. Vì nói tới Phật là nói tới giác, làm việc giác ngộ mới gọi là Phật sự.
Cho nên Phật dạy Tăng Ni đi giáo hoá nơi này, nơi kia để đánh thức mọi người. Người nghe biết tỉnh giác thì đó là Phật sự. Chúng ta phải hiểu cho tường tận để đừng lầm lẫn ý nghĩa Phật sự rồi hài lòng đi làm mãi những việc không đáng mà chẳng chịu lo tu, rốt cuộc đời mình không giác, làm sao giúp người giác được.
Không làm cho người giác được thì dù chúng ta làm trăm ngàn việc, có gọi là Phật sự không? Đó là điều tôi muốn nhắc cho tất cả quí vị hiểu tường tận, đường lối tu từ đức Phật cho mãi đến chúng ta đặt cái gì là chủ, cái gì là gốc. Nhờ đó chúng ta biết được rành rẽ gốc ngọn của sự tu để chỉ dạy lại người sau đúng với lẽ thật. Không nên tưởng tượng đặt cái này, cái kia rồi mê say trong những cái gọi là Phật sự, mà xét kỹ bản chất lại không phải. Bởi vì thiếu điều kiện làm cho người tỉnh giác thì không phải là Phật sự.
Cho nên chúng ta phải hiểu, muốn làm Phật sự trước hết phải tu đến chỗ tỉnh giác. Sau khi tỉnh giác rồi dùng các phương tiện để giáo hoá chúng sanh. Mình tạo duyên đánh thức cho người tỉnh giác, duyên đó gọi là Phật sự.
Thí dụ: Trong mười mục chăn trâu, đến mục thứ mười vị Thiền sư buông thõng tay vào chợ, đi đến quán rượu, phòng trà, tới những chỗ cờ bạc để làm gì? Không vì mê nhiễm các thứ đó mà tới, chỉ là để tạo cơ hội đánh thức những người đang say mê, đang tạo nghiệp trong đó, giúp họ tỉnh giác, bỏ những điều dở xấu, như vậy là làm Phật sự. Người đời có thể không hiểu, cười nói: Ông thầy đó trở chứng, ổng đi tới sòng bạc, quán rượu v.v… Đó là cái nhìn của thế gian. Nhưng với tâm giác ngộ, các ngài thấy đến bất cứ đâu mà đánh thức người ta được, giúp người ta tỉnh đều là Phật sự hết. Hiểu vậy mình mới không lấy làm lạ.
Như vậy, trên đường tu cái gốc là phải tỉnh, phải giác. Từ chỗ tỉnh giác rồi chúng ta mới tùy duyên làm những việc lợi ích cho chúng sanh, đưa họ tới tỉnh giác, đó mới là Phật sự chân thật. Nếu chúng ta chưa tỉnh giác mà nói làm Phật sự, e không phải là Phật sự. Tôi nói cho tất cả hiểu tinh thần này để sau quí vị có ra làm đừng lầm lẫn.
Cho nên tu theo Phật phải hiểu cái gốc từ đức Phật đã làm cái gì, rồi đến chư Tổ, các vị A-la-hán làm gì, để mình lấy đó làm khuôn mẫu hướng theo cho đúng ý nghĩa của đạo. Tôi mong tất cả chư Tăng hiểu được con đường mình đi thế nào, làm lợi ích cho chúng sanh ra sao, phải nắm cho vững, đừng lầm lẫn để uổng một đời tu, phí bao nhiêu công phu vô ích. Đó là lời nhắc nhở của tôi hôm nay.
Ngày 13-1 Đinh Sửu (19-2-1997)
Hôm nay là buổi thỉnh nguyện đầu năm, trong đây toàn chúng đều không có lỗi và huynh đệ cũng không thấy lỗi để chỉ, đó là một tiến bộ đáng mừng. Nhưng tôi được biết có một khuyết điểm chung mà không ai thấy, đó là tọa thiền nhiều người ngủ gục. Tháng này nhiều người ngủ gục tôi nghĩ cũng có lý do, vì thời gian cuối năm công tác hơi nhiều nên mỗi người đều tích cực làm cho xong trước Tết, do lao động nhiều cho nên giờ tu không được nghiêm chỉnh, sáng suốt lắm. Nhưng ở đây tôi xin nhắc lại tất cả quí vị, thật ra tôi đã thấy từ lâu lao động có trở ngại cho sự tu hành, nhưng tất cả chúng ở đây là những người lớn, có nghị lực, có ý chí thì những trở ngại đó tôi tin là có thể vượt qua được. Trừ khi mình thiếu nghị lực, thiếu ý chí mới bị nó chi phối.
Nếu chúng ta tu cầm chừng, ngày qua ngày để suốt đời thành người tu thôi, điều đó mới nhìn thấy cũng tốt, giữ yên phận là người tu, không phạm những giới lớn, cũng không làm điều tà quấy, chỉ có những cái nhẹ nhẹ mình không làm chủ thôi. Đối với thế gian đó cũng là một người tu tốt, nhưng đối với trong đạo, nhất là người tu thiền thì không cho phép chúng ta như vậy.
Bởi vì người tu thiền phải lập chí quyết liệt, chết sống trong sự tu hành, không bao giờ thả trôi hay lừng chừng. Tôi thấy như trong kinh A-hàm có một đoạn đức Phật nói về Tứ niệm xứ, Ngài dạy rằng: Nếu Tỳ-kheo trong bảy ngày trụ tâm trong Tứ niệm xứ không dời đổi, vị đó sẽ chứng từ quả A-na-hàm đến A-la-hán. Rồi Phật nói chẳng những bảy ngày mà có thể sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, ba ngày…, những người đó có thể chứng từ Sơ quả đến Tam quả.
Như vậy nghĩa là khi chúng ta hạ thủ công phu mà quyết tâm không xê dịch, không dời đổi, một còn một mất thì thành quả chắc chắn sẽ được. Còn mình tu tính năm tháng dài lâu mà không quyết chí, không đem hết sức lực ứng dụng tu thì thời gian dài mấy cũng không có kết quả. Bởi vậy Thiền sư Cao Phong Diệu ngày xưa cũng thường nói rằng: “Nếu các người sử dụng một lối tu từ một ngày đến bảy ngày không hề xê dịch, dời đổi mà không ngộ đạo thì chặt đầu ta đi.” Đó là những lời nói quyết liệt chỉ cho chúng ta thấy trên đường tu nếu khẳng định, quyết tâm một còn một mất để tiến tu thì có thể rút ngắn thời gian rất nhiều. Còn nếu tu trì trệ, yếu đuối, dù thời gian dài cũng không có kết quả gì.
Bởi vậy, tôi nghĩ tất cả quí vị ở trong chúng, ai đến đây cũng đều quyết tâm, nguyện tu hành đạt được kết quả chớ không phải tu cho có chừng, tu để có hình thức người tu. Muốn đạt được kết quả, bước đầu phải dứt hết các duyên, đừng bận bịu, lo nghĩ những gì bên ngoài không phải là trách nhiệm trong đạo của mình.
Bước thứ hai là phải lập chí quyết định trên đường tu, phải tiến tới chỗ lâu nay mình khao khát, mong đợi, chớ không phải chỉ tu cho có phước thôi, đó là lập chí quyết định.
Kế đó mình phải có nghị lực dũng mãnh, lúc nào cũng sẵn sàng vươn lên, dù chết cũng không sợ. Nhờ có nghị lực dũng mãnh đó, trên đường tu chúng ta mới đạt được kết quả như ý muốn. Suốt đời luôn luôn phải giữ nghị lực đó, đừng cho gián đoạn mới mong thành tựu tốt đẹp được. Như hồi xưa có ngài Huệ Lăng Trường Khánh ngồi thiền tới rách bảy cái bồ đoàn mà chưa ngộ đạo, nhưng Ngài cương quyết tu chừng nào được mới thôi, cho nên sau này được ngộ.
Như vậy để thấy rằng trên đường tu đòi hỏi chúng ta phải có tâm dứt khoát như trong bản Thanh qui tôi đã nêu. Dứt khoát khi tu chỉ làm tròn trách nhiệm trong đạo. Ngoài ra những chuyện khác mình không bận tâm, không để lòng, như vậy nhẹ đi một gánh nặng. Quí vị phải đủ ý chí, có một lập trường thật vững không bao giờ lay chuyển, quyết tiến tu cho đạt kết quả. Phải có nghị lực vừa mạnh mẽ, vừa lâu dài, thì trên đường tu sẽ có kết quả tốt đẹp chắc chắn.
Tôi có kinh nghiệm qua một số người quyết tâm tu, tuy thời gian nhập thất không lâu mà gặt hái kết quả tốt. Còn nếu yếu đuối chần chờ, dù kéo dài một đời lê thê cũng không có kết quả gì. Bởi vậy, khi quí vị lên bồ đoàn tọa thiền phải có ý chí dũng mãnh, quyết liệt vươn lên. Giờ ngồi thiền là giờ quyết liệt chớ không được thả trôi. Khi ngồi phải lập chí cho vững, phải có nghị lực cho mạnh, mọi thứ gì vừa tới liền đuổi. Phải tỉnh sáng chớ không để êm êm rồi ngủ, đó là thả trôi, không đi tới đâu hết. Nhất định mình phải thắng nó chớ đừng để nó thắng mình.
Đó là một trách nhiệm mình phải làm cho được. Chẳng lẽ đã là người tu mà suốt một đời không có gì tiến bộ, không có bước nào khác lạ thì đường tu vô nghĩa. Cho nên quí vị phải nhiệt tình, cương quyết, đừng chần chờ, đừng yếu đuối. Sở dĩ ngủ gục nhiều là tại thả trôi, ngồi một hồi thấy êm êm rồi thả trôi thì tha hồ gục. Phải luôn luôn giữ chỗ tỉnh sáng của mình, vừa thấy hơi yếu là mở mắt trừng trợn lên để tỉnh sáng, thắng con ma ngủ, đừng để nó làm chủ.
Đây là sự yếu đuối của Tăng chúng. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ở đây đều nhiệt tình, quyết tu, cần phải có nhận định chín chắn. Giờ tu là giờ vàng ngọc của mình chớ không phải thứ bỏ, không phải lên ngồi tu là ngồi ngủ, nếu ngồi ngủ thì ở dưới ngủ cho xong. Cho nên mình phải biết giờ đó là giờ quí báu, phải ráng, phải cương quyết làm sao giữ luôn luôn tỉnh sáng, không để ma ngủ dụ dỗ, lôi kéo. Như vậy sự tu hành mới có kết quả thiết thực, xứng đáng một đời tu.
Thật ra tôi thấy người tu mới vào chùa buổi đầu ai cũng nhiệt tình lắm, cương quyết lắm, nhưng lâu rồi lại thả trôi. Nhiều khi bổn phận chánh của mình không chịu làm, còn việc phụ ở đâu đâu cũng đem vô làm, rốt cuộc uổng một đời tu mà không có kết quả nào hết.
Bởi vậy hôm nay nhân ngày thỉnh nguyện đầu năm, nhân trong chúng có những cái yếu đuối như bị ma ngủ dẫn dụ, tôi có ít lời nhắc, tất cả quí vị phải nhớ và cương quyết thắng ma hôn trầm. Mình tu mà không đạt kết quả thì hi sinh một đời vô nghĩa, rất đáng buồn. Vì vậy phải dụng công có kết quả mới xứng đáng là một người quyết tâm đi tu. Cho nên đức Phật thường thí dụ người tu như một chiến sĩ ra trận.
Qua những kinh nghiệm từ các Thiền viện của mình, Tăng cũng như Ni, người nào quyết tâm khi bước vào đạo hay vào thất đều coi như là chuyển cả cuộc đời, nhất định mình phải tiến lên, những người đó tôi thấy có kết quả thật sự không ngờ. Còn những vị ban đầu đến với đạo nhiệt tình, lâu lâu phai lần, phai lần thành yếu đuối, thì không có kết quả gì hết. Bởi vậy tôi nhắc cho quí vị nhớ nuôi dưỡng tâm nguyện chân chánh của mình từ buổi đầu, phải làm sao hâm nóng, làm sao thực hiện cho được, đừng thả trôi uổng một đời. Đó là sự nhắc nhở thiết yếu trong buổi thỉnh nguyện hôm nay.
Ngày 13-3 Đinh Sửu (19-4-1997)
Hôm nay trong buổi thỉnh nguyện, hầu hết đều được thanh tịnh, không có lỗi lầm, đó là điều rất tốt. Tôi nhắc nhở thêm cho toàn chúng ý thức về sự tu hành của mình.
Tất cả chúng ta được phước duyên lành gặp Phật pháp để tiến tu. Tất cả quí vị phải nhớ lại vị Giáo chủ của chúng ta là một Hoàng tử đã xem thường sự giàu sang, danh lợi mà tột đỉnh là ngai vàng của một vị vua tương lai. Ngài từ bỏ tất cả để đi xuất gia, tìm đạo tu hành cho được giác ngộ giải thoát. Vậy đạo giác ngộ giải thoát của Phật dạy là đạo cao siêu vượt trên mọi thứ tầm thường của thế gian. Người thế gian giành nhau từng chút danh lợi, quyền thế. Đôi khi trong sự giành giật đó họ có thể giết hại nhau, hoặc làm những điều nguy hiểm cho dân chúng. Trái lại, đức Phật của chúng ta coi thường danh lợi, quyết tâm tìm đạo cho được. Cho nên đạo của Ngài tìm ra siêu xuất phi thường, cả thế gian không gì sánh bì được. Đó là nói về đức Phật.
Bây giờ tôi nói đến vị Tổ hiện giờ chúng ta đang hướng về, quí kính học hỏi theo, đó là Tổ Trúc Lâm. Tuy rằng lớn tuổi mới xuất gia, nhưng Ngài đã thông hiểu Phật pháp từ lúc còn rất trẻ. Vì hoàn cảnh phải làm một vị vua cai trị muôn dân, nhưng khi việc nước đã ổn định Ngài nhường ngôi lại cho con để đi tu. Ngài đã thấy vinh hoa, phú quí trên thế gian không có gì xứng đáng, không thể so sánh được với đạo đức và tinh thần giác ngộ của đạo Phật, nên Ngài bỏ hết để đi tu.
Như vậy chúng ta thấy ở Ấn Độ một Hoàng tử đi tu, ở Việt Nam mình một ông vua đi tu, đó là những tấm gương cao cả. Ngày xưa người ta gọi Vua là “chí tôn của muôn dân” mà các ngài vẫn bỏ địa vị chí tôn ấy để đi tu. Cho nên người ta thường tán thán các ngài bằng câu: “Xem ngai vàng như dép rách.”
Đó là tinh thần từ Phật đến Tổ mà chúng ta đang hướng đến, học hỏi và tu theo. Như vậy, trên đường tu của chúng ta không có gì quí, không có gì cao thượng bằng quyết tâm tu cho được giác ngộ giải thoát để độ mình và độ chúng sanh. Đó là điều trên tất cả. Nếu chúng ta không nhớ, không thấy được những điều đó thì đời tu của mình dễ bị vướng đầu này, kẹt đầu kia, không được trọn vẹn.
Trong bản Thanh qui tôi có đề ra, chư Tăng ở đây chỉ vì một việc duy nhất là tu sáng đạo. Có như vậy mới đền được ơn Phật Tổ, đền ơn Thầy và tất cả chúng sanh, đàn-na thí chủ. Còn nếu tu mà không sáng đạo thì mình chưa đủ tư cách để đền đáp tứ trọng ân. Như vậy, từ nay tất cả quí vị dù mới hay cũ đều chỉ một lòng nghĩ đến sự tu chớ đừng để cái gì ngăn trở nữa.
Trong bản Thanh qui tôi có dặn, dù có các chướng từ ngoại cảnh, hoặc từ nội tâm đưa đến, đều phải can đảm vượt qua hết để được yên ổn tu hành. Đó mới thật là chiến thắng. Nếu quí vị tu mà mỗi khi có chút bệnh liền thối chí, hoặc có gì khó khăn thấy nản lòng, như vậy là không thắng được mình. Tu là phải vượt qua tất cả trở ngại mới đạt đến chỗ cứu kính, giác ngộ, giải thoát.
Trong sử nói đức Phật đã tu nhiều đời, là vị Bồ-tát nhất sanh bổ xứ. Vậy mà trong đời tu cuối này Ngài cũng gặp bao đắng cay, khổ sở, cuối cùng mới đạt được đạo. Đâu phải đi tu là được đạo một cách dễ dàng. Chính những khó khăn, trở ngại là cơ hội tốt, duyên tốt để chúng ta vững mạnh, tu hành đạt đạo. Đừng nghĩ vì mình thiếu phước nên khi tu gặp trở ngại này, trở ngại nọ. Nghĩ như vậy là nhìn chỉ một chiều.
Thật ra người tu ai cũng gặp trở ngại, nhưng chính điều đó rèn luyện, thôi thúc mình vươn lên. Nhờ có trở ngại mình thêm sức mạnh, thêm ý chí để vượt qua. Khi vượt qua được rồi, mình lại vững mạnh hơn để tiến lên. Như vậy, không có nghĩa là vì khó khăn, trở ngại mà chúng ta lui sụt. Nắm được tinh thần đó thì sự tu của quí vị mới đạt được kết quả tốt.
Như vậy trên đường tu không có gì quí bằng sự nuôi dưỡng ý chí quyết liệt. Phải liều chết để đạt đạo, đó là điều thiết yếu duy nhất, còn tất cả trở ngại mình chỉ coi là trò chơi không đáng kể. Phải vượt qua tất cả mới tới chỗ đạt đạo. Nếu bị ngăn trở vì những khó khăn hoặc chướng ngại thì trên đường tu làm sao đạt được mục đích? Bởi vậy trong chúng mỗi người nên luôn luôn nhớ và cố gắng lập chí nguyện quên mình liều chết để tu hành. Đừng vì trở ngại của bệnh hoặc ngoại cảnh mà thối tâm, dù có tu mười đời, hai mươi đời cũng không bao giờ đạt được đạo. Đó là điều hết sức thiết yếu, hết sức quan trọng, mong tất cả đại chúng nhớ và thực hành.
Ngày 13-4 Đinh Sửu (19-5-1997)
Phần thỉnh nguyện tới đây đã xong, toàn chúng trong đây chỉ có những lỗi nhỏ không đáng kể, còn đa số do được sống trong hoàn cảnh thuận tiện nên giới luật tinh nghiêm và mọi hạnh kiểm đều tốt, đó là điều đáng mừng.
Sau đây tôi có ít lời nhắc nhở toàn chúng.
Đối với Phật pháp lâu nay tôi chủ trương rằng: Muốn cho Phật pháp được vững bền, được mở rộng thì trọng tâm là chư Tăng tu hành phải có đạo lực mạnh, có sự giác ngộ cụ thể. Nếu chúng ta tha thiết muốn mở rộng Phật pháp, muốn truyền bá cho mọi người đều hiểu, đều biết tu, nhưng bản thân mình chưa tu chưa được gì thì cái tâm tốt và rộng rãi đó cũng không đem lại kết quả gì, bởi vì việc làm đó chưa đúng nguyên tắc căn bản tự giác rồi mới giác tha.
Bởi vậy tôi nghĩ nếu chư Tăng tu hành không có kết quả tốt, dầu cho mình có hô hào, truyền bá, đem hết nhiệt tình nhiệt huyết ra hoằng hoá cũng chưa biết hoằng hoá cái gì. Đó là điều lâu nay tôi thường nói. Hơn nữa, nếu bản thân chưa tỉnh giác mà đi truyền bá làm sao giúp người giác được! Nếu mình truyền bá mà mọi người không giác, là vì hướng đi không đúng với tinh thần của Phật giáo, lỗi do mình. Bởi vì nói tới đạo Phật là nói tới giác ngộ, chúng ta phải làm sao bản thân mình có giác ngộ thì truyền bá Phật pháp mới đúng với tinh thần của đạo Phật, còn thiếu điều đó khó đạt được kết quả.
Nếu trên đường đạo chúng ta không thật sự giác ngộ mà muốn tổ chức cho hay, kêu gọi người cho đông, nhiều khi không còn thuần túy ở trong Phật pháp, lại có thể bị lệch qua đường này hoặc hướng khác. Bởi vậy, trọng tâm việc truyền bá Phật pháp là chúng ta phải tu hành cho được tỉnh giác. Nếu không được hoàn toàn giác, cũng phải có phần giác, nghĩa là mình có giác ngộ một phần hay từng phần rồi mới truyền bá được.
Tôi thường thí dụ: Nếu mình không có được ánh sáng như mặt trời, mặt trăng thì cũng có ánh sáng của ngọn đèn, hoặc không được như ngọn đèn cũng phải có ánh sáng nhỏ như con đom đóm chớ không lý do gì lại không sáng. Nếu mù tối như mọi người mà mình giảng nói, đem truyền bá ánh sáng cho người ta, đó là nói rỗng, không có sự thật. Vì vậy mình phải sáng, nếu không được toàn vẹn thì một phần nhỏ, nhưng cũng phải có sáng, sự truyền bá mới đạt kết quả.
Bản thân tôi hồi xưa cũng học kinh, học đạo, đi giảng dạy mọi người, nhưng tôi không bao giờ hài lòng chính vì chỗ đó. Tôi thấy mình nói chẳng qua là mượn lời người trước, của những bậc Thầy để nhắc người ta chớ bản thân mình không có gì hết. Vì vậy tôi phải có thời gian tu để thấy được cái gì ở ngay nơi mình, thấy rõ ràng tường tận có Tánh giác chắc chắn. Tuy không thể bì được các vị Bồ-tát hay các vị Tổ sư, ít ra cũng có một phần nhỏ nào trong sự giác ngộ thì mới tin Phật pháp và thấy cái hay của Phật pháp để truyền bá.
Vì vậy kể từ khi lập Thiền viện tôi dồn hết tâm lực nghĩ làm sao giúp chư Tăng, chư Ni tu có kết quả thật sự, nghĩa là được giác ngộ phần nào, chớ không thể tu chỉ là tu thôi không có gì hết. Do đó tôi cố gắng tạo điều kiện cho Tăng Ni tu. Ngày nay tuy chưa làm hết bổn phận nhưng tôi thấy trong số Tăng Ni tu có những chuyển biến tốt, tuy chưa được giác ngộ cứu kính nhưng cũng có giác từng phần. Do đó, tôi thấy việc mình làm không hoài công, đúng như sở nguyện, đó là điều tôi rất mừng.
Biết rằng trong năm mươi, bảy mươi người mà có đôi ba người sáng thì chưa thấm vào đâu. Nhưng có còn hơn không. Chúng ta đọc sử Phật giáo dài cả trăm năm mà chưa thấy vị Tăng, vị Ni nào tu hành được giác ngộ thì thật đáng buồn. Vì thế, ngày nay thời gian tu của Tăng Ni tuy chưa nhiều nhưng cũng có những biến chuyển tốt như vậy, đó là một khích lệ lớn cho tất cả. Vậy nên mong rằng tất cả chư Tăng ở đây đã có đủ duyên, được sự bảo bọc hoàn toàn và sự nhắc nhở luôn luôn thì phải ráng tận lực tận tâm tu hành cho có kết quả, mai kia ra làm Phật sự mới được dễ dàng.
Như quí vị thấy Thông Giác đối với đạo rất nhiệt tình, bỏ hết gia đình, bỏ hết danh vọng để vào đạo tu nhưng vì chưa được duyên tốt như quí vị nên càng tu càng thêm bận rộn, đâm ra hoảng sợ. Quí vị được yên ở đây là phước duyên lớn, nên ráng đem hết tâm lực của mình, ngày nào còn ở đây là ngày đó tận tâm tận lực tu hành. Chừng nào đủ duyên, có yêu cầu hay cơ hội thôi thúc phải làm Phật sự thì khi bước ra khỏi Thiền viện, mình làm được những việc lợi ích cho đạo, cho chúng sanh. Nếu lúc còn ở đây tu lơ là, đến chừng ra làm Phật sự mờ mờ mịt mịt, rất uổng công tu của mình. Đó là điều tôi nhắc nhở toàn chúng.
Không phải dễ tìm một khung cảnh yên tĩnh, tốt lành và đủ điều kiện như ở đây cho quí vị tu. Nay đã được điều kiện đó rồi lại không cố gắng tu, đó là lỗi lầm lớn. Vì vậy mà phải cố gắng, đừng chần chờ. Mong tất cả tiến tu cho có kết quả!
Ngày 13-5 Đinh Sửu (17-6-1997)
Hôm nay thỉnh nguyện toàn chúng đều tốt đẹp, không có lỗi lầm lớn, chỉ có chút ít lỗi nhỏ. Ở đây có hai vị tôi khuyên phải ráng.
Một là T.Đ nên nói chậm lại. Lúc này thấy có tiến bộ, nhưng nên nói chậm thêm chút nữa. Hai là B.Đ cũng phải nói chậm lại, vì khi nói chậm, lời nói rõ ràng người nghe dễ hiểu. Mặc dầu ngày nay mấy chú còn nhỏ, mai kia cũng thành người lớn, ra làm Phật sự, giảng đạo cho Phật tử nghe. Nếu nói năng lẹ làng quá, người ta nghe không kịp thì lời nói của mình cũng vô giá trị. Vậy nên phải tập nói chậm rãi ngay từ bây giờ, lần lần lâu ngày thành quen, nói năng từ tốn đàng hoàng. Còn như chú Đ.T có bệnh nói đớt chữ “t”, phải ráng sửa giọng cho đúng. Vì ông Pháp sư, ông Thiền sư đi giảng đạo cho người ta nghe mà nói đớt họ cười.
Tôi kể mấy chú nghe, vừa rồi đi với T.G qua Mỹ, ở nhà Phật tử. Mấy Phật tử này cũng vui tánh, họ thấy T.G nói hơi ngọng cứ theo giễu hoài. T.G buồn quá, ba ngày bỏ cơm luôn, vì ra ăn là bị chọc… Bởi vậy mấy chú ráng tập nói năng cho rành rẽ. Đối với người thế gian sao cũng được, còn chúng ta phải tiếp xúc giảng dạy đạo lý cho Phật tử nên lời nói phải chính xác.
Tuy rằng đây chỉ là những trục trặc nhỏ, nhưng Phật tử để ý và cười hoài, rồi mình cũng hổ thẹn, có thể đi đến mất tự tin. Nên tôi nhắc mấy chú, ai có gì dở ráng sửa. Đó không phải lỗi mà là cái tật từ nhỏ, bây giờ ráng sửa cũng sẽ được. Người ta sửa nhiều cái rất khó còn được, huống gì một hai chữ phát âm sai, nhớ ráng sửa cho tốt.
Kế đây tôi nói về một điểm mới. Đạo Phật có được ưu thế là rất chân thật. Cái chân thật đó nếu không khai thác được rất uổng. Nhưng muốn khai thác chỗ này, chúng ta phải ứng dụng tu cho có kết quả, khi nói người ta mới tin. Nhiều khi mình lý luận thao thao mà bên trong rỗng tuếch. Làm không được thì nói nhiều cũng không đi đến đâu.
Kết thúc lại, chỉ có tu được là đủ điều kiện làm Phật sự. Điều gì mình chưa biết, nói ra cũng sợ vì không thấy rành. Nếu biết rõ như một với một là hai, thì ai nói gì mình cũng không sợ. Muốn được vậy mấy chú phải ráng tu. Thấy được lẽ thật thì mọi việc đều tốt. Cho nên tôi không chủ trương tập cho mấy chú giảng. Chừng nào mấy chú thấy được lẽ thật là tôi đẩy ra làm việc.
Lục Tổ dạy, nói ít mà thật người ta nể, chớ nói quá nhiều, rốt cuộc là lời rỗng lại không tốt. Có nhiều người nói rất hay nhưng bên trong không có gì hết. Điều quan trọng là mình phải thân chứng. Nên tôi đi đây đi kia giảng dạy không hề sợ, vì chỉ nói những gì tôi thấy thật, không nói chuyện ở ngoài. Người ta hỏi quanh co gì, mình cứ đem chỗ thật của mình ra trả lời họ cũng cảm thông.
Bởi vậy lúc ra Bắc nói chuyện ở viện Hán Nôm, tôi có ví dụ về hòn ngọc. Tôi nói tôi không phải là học giả mà là hành giả, chỉ trao đổi những điều tôi đã kinh nghiệm được. Ví dụ như tổ tiên mình có một hòn ngọc quí, truyền dần tới con cháu. Đây là việc truyền riêng không ai biết. Nếu mình chưa nhận được hòn ngọc, chỉ nghe nói ông cha có ngọc, khi người ta hỏi tới mình không biết nên sanh nghi sợ. Còn bây giờ khi đã nắm được hòn ngọc trong tay, ai hỏi chứng cớ, mình có hòn ngọc đang nắm trong tay, biết rõ ràng thì đâu có gì phải sợ. Đây là hành giả, còn lý thuyết là học giả. Các học giả chuyên nghiên cứu rồi đúc kết lại, chớ thật ra chính họ chưa nắm được, làm sao có đủ lòng tin như mình. Nếu nắm được tất đủ lòng tin, ai nói ngược nói xuôi gì cũng mặc.
Thí dụ ông Suzuki nói ba mươi ba vị Tổ Ấn Độ, Trung Hoa do ngài Thần Hội bịa ra, tôi phản đối hẳn. Thần Hội bịa là chuyện vô lý. Không có người trước làm sao có người sau? Ai truyền cho tới Lục Tổ mà nói ngài Thần Hội bịa! Thêm một chi tiết nữa là trong cuốn Luận Đại Thừa Chỉ Quán của Trí Giả đại sư có viết rõ ràng hai mươi tám vị Tổ Ấn Độ. Ngài Trí Giả đại sư trước ngài Thần Hội gần hai trăm năm.
Vậy mà bây giờ nói Thần Hội bịa ra chuyện ba mươi ba vị Tổ, tôi không biết nghĩ sao! Đó là học giả. Cho nên cái nhìn của mình phải tường tận thì mới vững chắc.
Cũng như một số học giả Trung Hoa nói rằng: Sau này khi thiền truyền tới Lục Tổ thì biến ra gần với tánh cách Lão Tử, Trang Tử, nghĩa là hấp thụ ảnh hưởng của Lão Tử, Trang Tử mà thành thiền của Trung Hoa. Nghe vậy mình có dám cãi không? Vì trong Pháp Bảo Đàn, phẩm đầu nói về Bát-nhã, họ thấy cũng giông giống Lão Trang.
Chúng ta nên đặt câu hỏi lại: Lục Tổ dốt, làm sao bằng Trang Tử, Lão Tử? Nếu Ngài không ngộ được kinh Kim Cang thì lấy gì để giảng nói dạy người? Các học giả do nghiên cứu mới có thể chịu ảnh hưởng thuyết này thuyết nọ. Còn Lục Tổ không nghiên cứu, chỉ nghe kinh Phật mà ngộ, rồi được Tổ truyền tâm ấn, như vậy là gốc thiền Ấn Độ, làm sao nói Trung Hoa được?
Chúng ta thấy rõ ràng như vậy, không nghi. Những học giả theo lý thuyết, lượm lặt chắp nối nên nói như vậy. Chẳng qua là cái thấy của các bậc Thánh nhân có chỗ trùng hợp, chớ không phải người này chịu ảnh hưởng người kia. Chúng ta hiểu rồi mới nắm vững, dù ai nói gì cũng không nghi.
Ngày 13-6 Đinh Sửu (17-7-1997)
Hôm nay trong buổi thỉnh nguyện thấy ai cũng được tốt, được trong sạch, tôi rất mừng. Tu hành càng lâu càng thấm, nên những lỗi lầm nhỏ nhặt cũng dần dần hết, đó là bước tiến căn bản về đạo đức. Những phần khác khi nội tâm tỉnh giác sẽ từ từ tiến thêm. Tuy lỗi lớn không có nhưng trong chúng năm mươi, bảy mươi người, những lỗi nhỏ riêng tư chắc không tránh khỏi.
Đối với nội qui, quí vị thấy mình không phạm, nhưng những tâm niệm, những hành động sai sót nhỏ nhặt cũng phải ráng cẩn thận, dè dặt. Nhiều khi trên phương diện thực hiện Thanh qui mình rất tốt, nhưng về phần tâm niệm hoặc những việc làm nho nhỏ có khi lại sai sót. Vậy nên ráng dè dặt, không phải không phạm Thanh qui là hoàn toàn tốt, mà mỗi người phải ráng cẩn thận dè dặt trong từng tâm niệm, từng hành động đừng cho sai phạm.
Sau đây tôi giải thích một vài vấn đề.
Tất cả quí vị ở đây, nay mai người lớn sẽ đi làm Phật sự trước, có trách nhiệm với Phật tử và những người đi sau. Nên thỉnh thoảng có những vấn đề tôi thấy quan trọng người ta có thể sẽ hỏi, tôi nhắc cho trong chúng biết, để khi tiếp xúc với mọi người, có ai hỏi, mình nắm vững trả lời. Nhiều khi quí vị hiểu nhưng nói không đủ chứng cớ, người ta cũng dễ mất lòng tin.
Vừa rồi có mấy người khách ở thành phố lên nói chuyện, họ hỏi tôi:
– Thưa Thầy, làm sao giản trạch được thế nào là Đại thừa, thế nào là Tiểu thừa?
Câu này có rất nhiều người hỏi, chớ không phải một hai người. Vấn đề này nếu không nắm vững, quí vị sẽ trả lời lúng túng.
Các kinh Lăng Nghiêm, Viên Giác, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết-bàn… đều gọi là kinh Đại thừa, còn các kinh A-hàm và Nikàya là kinh Tiểu thừa. Ngày trước, những người tu theo hệ A-hàm, Nikàya gọi là tu theo Tiểu thừa; những người tu theo Bát-nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết-bàn… là tu theo Đại thừa. Đó là căn cứ theo kinh để thấy ý nghĩa tu.
Bây giờ muốn giản trạch cho có chứng cớ cụ thể, chúng ta phải đứng trên hai phương diện: một là về hình thức, hai là về đạo lý nội tâm.
Ngày nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam bao gồm cả hai hệ phái: Nam tông và Bắc tông hay Đại thừa và Tiểu thừa. Nếu trong Giáo hội, mỗi khi nhóm họp gọi người này là Tiểu thừa, người kia là Đại thừa thì dường như có sự phân biệt, dễ gây mặc cảm không tốt. Cho nên Giáo hội đề nghị thay hai từ này bằng Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển. Như vậy quí vị nhớ dùng ngôn ngữ cho đúng.
Tại sao dùng chữ Phật giáo Nguyên thủy? Chữ Nguyên thủy nghĩa là giống hay y như buổi đầu của Phật giáo Ấn Độ. Tại sao gọi là Phật giáo Phát triển? Phật giáo Phát triển có ý nghĩa là tùy theo hoàn cảnh, tùy theo đất nước nơi Phật giáo được truyền tới mà linh động ứng dụng, chớ không rập khuôn theo hình thức ban đầu của Phật giáo Ấn Độ. Đó là nói tổng quát.
Bây giờ phân tích về hình thức và nội tâm.
Về hình thức, Phật giáo Nguyên thủy căn cứ theo hình thức của đức Phật buổi đầu. Ngày xưa, khi Phật mới thành đạo, Ngài chưa có đồ đệ. Sau khi thuyết pháp cho năm anh em ông Kiều-trần-như ngộ rồi, các vị đó xuất gia tu, từ đó Phật có đồ đệ. Như vậy là độ Tăng trước, còn cư sĩ chưa có.
Lúc đó Phật chủ trương đi khất thực. Nhưng không có đệ tử cư sĩ thì đi khất thực làm sao? Ngài vào xóm làng, người ta cho gì nhận nấy, cho mặn thì ăn mặn, cho chay ăn chay, chớ không cố định, cũng không đòi hỏi, chỉ im lặng nhận về ăn để sống. Như vậy, buổi đầu Phật đi khất thực tùy duyên, ai cho gì nhận nấy, chúng ta đừng nghĩ Phật ăn chay. Ngày nay, Phật giáo Nguyên thủy vẫn giữ chủ trương khất thực và chủ trương cho gì nhận nấy. Nhưng người ta thường cho món mặn nên các ngài ăn mặn. Lý do rõ ràng như vậy.
Còn tại sao Phật giáo Phát triển lại ăn chay? Theo quan niệm Ấn Độ, người tu ôm bát đi khất thực là giải thoát, không còn bận bịu điều gì. Những người giải thoát là cao thượng đáng quí. Ngược lại, khi Phật giáo sang Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên, các vị vua chúa sùng mộ đạo Phật, nên có nhiều vị Sư đạo cao đức trọng được tôn phong Quốc sư. Vua quan thời đó quan niệm ai ôm bát đi xin là ăn mày, họ không thể chấp nhận một vị Quốc sư lại đi ăn mày thấp hèn như vậy. Nên vua quan cất chùa cho các ngài ở tu rồi cấp đất cho. Nếu các ngài không canh tác được thì nhờ bổn đạo, Phật tử làm, có lúa gạo ăn quanh năm.
Như vậy tùy theo hoàn cảnh, theo xứ sở, Phật giáo Phát triển chấp nhận điều đó, tự cung cấp lấy phần ăn của mình. Nhưng nếu tự lo thì ăn chay tốt hay ăn mặn tốt? Ăn mặn thời xưa đâu như bây giờ có đồ hộp sẵn, mà phải mua cá thịt về tự làm, phạm tội sát sanh. Cho nên ăn chay để tránh phạm giới sát sanh.
Sau này có một số Phật tử ở Campuchia về thưa với tôi rằng: Con thấy người tu có khi hình thức quá, ở chùa thì nói không sát sanh, nhưng khi đi chợ, mua cá còn tươi còn sống, trả giá xong nói: “Bà đập đầu giùm, tôi xách về.” Như vậy hình thức quá, thiếu thật thà! Cho nên ăn chay là tránh hoàn toàn tội sát sanh.
Do những sai khác này mà Phật giáo Nguyên thủy đi khất thực, ăn mặn, còn Phật giáo Phát triển ăn chay. Đó là ngày xưa, còn bây giờ lộn xộn lắm. Có nhiều nơi, nhất là ở Nhật, kiếm chùa ăn chay không ra. Người ta cũng có lý riêng, nói rằng: “Bây giờ mình mua đồ hộp ăn, cái gì cũng đã làm sẵn, đâu có phạm tội sát sanh. Cứ mua về ăn không sao!”
Bây giờ các nước theo Phật giáo Nguyên thủy cũng ít khi đi khất thực, mà phân công từng vùng từng xóm. Hôm nay vùng này cúng dường, tới giờ Phật tử chở thức ăn tới cúng, ngày mai vùng kia… Cũng là khất thực, nhưng Phật tử đem tới chỗ, chư Tăng khỏi đi.
Ở Tây phương, nếu khất thực e không có cơm ăn. Buổi sáng ai cũng đi làm, nhà đóng cửa kín, làm sao xin được thức ăn! Nên khất thực bây giờ rất khó, chỉ một số ít người làm thôi, hầu hết không thể thực hiện được. Thường Phật tử tổ chức nấu nướng rồi đem tới cúng, nhưng từ trước đến giờ cúng mặn quen rồi, nên họ nấu thức ăn mặn cúng.
Về y phục, chư Tăng Phật giáo Nguyên thủy ở Ấn Độ quấn y. Nhưng đâu phải chỉ người tu quấn y mà toàn dân Ấn Độ đều quấn y. Năm tôi qua Ấn Độ, thấy mấy cô mấy cậu đi cắt lúa ngoài ruộng quấn y sao phiền quá. Lúc đầu, y của người xuất gia tương tợ y của người dân, chỉ khác màu thôi. Sau này đức Phật dạy cắt y ra từng mảnh – như những miếng ruộng – rồi ráp lại cho khác hẳn y người thế tục, gọi là “phước điền y”. Ngày xưa ở Ấn Độ, chư Tăng bị ăn trộm y là vì y trong chùa lấy về quấn được.
Theo Nguyên thủy, ngày xưa Phật làm sao nay làm vậy. Còn bên Phát triển, khi Phật giáo sang Trung Hoa, chư Tăng không quấn y mà mặc gọn hơn, chỉ chế cái áo khác màu, còn hình thức cũng có điểm hơi giống với áo người dân. Như vậy ăn mặc không giống như Phật giáo ban đầu.
Đứng về mặt nội tâm hai bên khác nhau như thế nào? Nội tâm là nói về giáo lý. Nhiều khi chúng ta cắt nghĩa Tiểu thừa là cái xe nhỏ chở được ít người, Đại thừa là xe lớn, chở được nhiều người, giải thích như vậy không ổn. Có những vị sư Tiểu thừa độ đệ tử rất đông, có chùa Đại thừa chỉ hai ba người. Vậy xe nào lớn, xe nào nhỏ? Thành ra cắt nghĩa như thế không ổn.
Nguyên thủy hay Phát triển, Đại thừa hay Tiểu thừa là cốt ở giáo lý, ở nội tâm chớ không phải xe lớn, xe nhỏ. Đứng về giáo lý, Phật giáo Nguyên thủy lấy Nikàya hoặc A-hàm làm căn bản, đặt nặng vấn đề giải thoát sanh tử. Trong giáo lý A-hàm, Phật nói dù còn sanh tử một đời cũng là đau khổ, vì sanh là khổ. Muốn hết đau khổ phải giải thoát sanh tử.
Vậy muốn giải thoát sanh tử phải tu thế nào? Phật dạy muốn giải thoát sanh tử phải tiêu diệt hết nhân sanh tử: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… Để dẹp sạch các phiền não, kiết sử đó, một là phải nhờ giới luật làm căn bản, hai là quán niệm, quán tưởng, như tu Tứ niệm xứ, luôn luôn quán thân là vô thường, là khổ… để phá chấp ngã của thân. Ngay đời này dứt sạch phiền não, phá được chấp ngã, không còn nhân sanh tử gọi là Diệt đế, là Niết-bàn. Niết-bàn có nghĩa là không còn sanh trở lại nữa, là vô sanh.
Như vậy, giải thoát theo Nguyên thủy là nhập Niết-bàn. Niết-bàn bên đây chia làm hai là Hữu dư y và Vô dư y. Ngay nơi đời này sạch hết phiền não, tâm thanh tịnh, không còn bị khuấy động nữa, đó là Hữu dư y Niết-bàn. Lúc thân này hoại rồi, nhập Niết-bàn vĩnh viễn là Vô dư y Niết-bàn.
Khi dứt hết mầm sanh tử, được vô sanh rồi, tất cả những người có công lo lắng, giúp đỡ cho mình, mình chỉ độ trong đời này, đủ duyên thì độ không thì thôi, ngay đây giải quyết mọi thứ, sau khi bỏ thân vào Niết-bàn rồi không trở lại nữa. Như vậy, quan niệm của Nguyên thủy, còn gọi Tiểu thừa, là lấy quả A-la-hán, Vô sanh làm chung cuộc.
Trái lại, quan niệm của Đại thừa hay của Phật giáo Phát triển, về giáo lý thì lấy kinh Bát-nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Lăng Nghiêm, Lăng-già làm căn bản. Các kinh đó lấy hạnh Bồ-tát làm chỗ cứu kính, vì Bồ-tát viên mãn thì thành Phật. Hạnh Bồ-tát lấy giác ngộ làm gốc. Nên nói giác ngộ mà không nói giải thoát sanh tử. Do đó, người tu theo Phật giáo Đại thừa hay hệ thống Phát triển ít đặt vấn đề giải thoát sanh tử.
Quí vị nhớ cho thật kỹ: Một bên lấy động cơ là giới luật, giải thoát làm căn bản, một đời này giải quyết sạch mầm sanh tử rồi nhập Niết-bàn là xong việc. Còn một bên lấy giác ngộ làm căn bản. Bồ-tát là giác hữu tình, muốn thực hiện được tự giác, giác tha thì động cơ phải là giác ngộ và từ bi.
Còn theo Phật giáo Phát triển, thế nào là Niết-bàn? Bồ-tát hạnh gọi là Vô trụ xứ Niết-bàn, tức Niết-bàn không có chỗ nơi, ở đâu cũng Niết-bàn được. Tâm thanh tịnh thì ở thế gian cũng là Niết-bàn, không đợi nhập Niết-bàn vĩnh viễn. Kế đến là Tự tánh thanh tịnh Niết-bàn, tức Niết-bàn của Tự tánh. Nghĩa là khi ngộ được Tự tánh, đó là Niết-bàn. Như vậy, ở đây Niết-bàn là Vô trụ xứ, là Tự tánh.
Phật giáo Phát triển lấy giác ngộ làm trọng tâm. Muốn được giác ngộ thì phải cố gắng quán chiếu, thiền định. Giáo lý căn bản của Phật giáo Nguyên thủy là Tứ đế, còn giáo lý căn bản của Phật giáo Phát triển là Lục độ.
Quí vị thấy Lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, đều là động cơ của giác ngộ và từ bi. Bố thí tài, bố thí pháp là từ bi. Muốn thực hiện từ bi, trước phải giữ giới luật. Muốn từ bi được chu đáo phải nhẫn nhục. Nếu không nhẫn nhục thì không thể hiện từ bi được. Nhẫn nhục rồi phải tinh tấn, nỗ lực, cuối cùng mới thiền định, trí tuệ, là thành tựu giác ngộ.
Trí tuệ là căn bản để đi đến cứu kính. Cho nên nói tới Bồ-tát là nói tới giác. Tự giác, giác tha là hữu tình giác, giác hữu tình. Giác thì thấy tường tận được chân lý, được lẽ thật. Lúc ấy có còn thấy con người trong cuộc sống này là thật không? sanh tử là thật không?
Các ngài thấy sanh tử là tướng duyên hợp hư dối, tạm có tạm không, như huyễn như hóa. Đã như huyễn hoá thì sanh tử như không hoa, cần gì nhập Niết-bàn. Như vậy đối với các ngài, sanh tử không đáng sợ. Tại sao? Vì thấy rõ nó là huyễn hóa. Nên Bồ-tát cứ trở đi trở lại hoài. Các ngài lưu lại một chút trần sa hoặc, vì nếu dứt hết mầm sanh tử thì đâu có trở lại nữa. Cho nên khi các ngài giác ngộ rồi khởi niệm từ bi cứu độ chúng sanh, độ chừng nào được viên mãn, tự giác, giác tha tròn đủ, chừng đó mới thành Phật chớ không phải một đời là xong.
Vì vậy, ngài Từ Minh nói: “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ.” Coi sanh tử như trò chơi, không sợ sanh tử nên không cần thiết phải nhập Niết-bàn. Bên Đại thừa luôn luôn đặt nặng việc độ chúng sanh. Mình giác, chúng sanh còn mê nên phải liên tục tới lui để độ, không có quyền nhập Niết-bàn hưởng an tịnh một mình.
Khi chúng ta giác rồi, dầu trong cảnh hỗn độn trần tục, mình vẫn an ổn thanh tịnh. Cho nên mới dùng từ “hoà quang đồng trần”, đem ánh sáng hoà chung với bụi trần. Tuy đang ở trong sanh tử nhưng tâm thanh tịnh gọi là Vô trụ xứ Niết-bàn. Xuống địa ngục cũng Niết-bàn, lên cung trời cũng Niết-bàn, ở thế gian cũng Niết-bàn. Như vậy vẫn đi lại trong sanh tử mà thường ở Niết-bàn.
Tâm hồn vì muôn người giúp họ giác ngộ thoát khỏi sanh tử, có phải đại không? Còn nhập Niết-bàn gấp gấp vì sợ sanh tử, đau khổ, có phải là tiểu không?Đại, tiểu không phải là hiện đời mình độ được nhiều ít, mà đại, tiểu ở nơi tâm hồn khi đạt được đạo rồi có tiếp tục độ chúng sanh hay không? Vậy mới có lời nguyện của ngài Địa Tạng, chúng sanh chưa độ tận chưa chứng Bồ-đề. Tinh thần Đại thừa là ở chỗ đó.
Cho nên người tu theo Đại thừa Phát triển phải luôn can đảm, gan dạ, không nhu nhược hoặc muốn thảnh thơi. Lúc nào cũng sẵn sàng lao mình vào cảnh khổ để độ chúng sanh, không phải lo tu cho riêng mình dứt sạch khổ đau, giải thoát sanh tử.
Vậy, muốn dứt sanh tử để thảnh thơi, tâm niệm đó đại hay tiểu? Ngược lại, nghĩ chúng sanh còn mê thì mình còn tới đó độ, là đại hay tiểu? Đại thừa, Tiểu thừa là căn cứ trên tâm niệm như vậy, giáo lý như vậy, chớ không căn cứ trên việc làm hiện tại. Nói cho quí vị hiểu để nắm vững từ hình thức đến tâm niệm, giáo lý mỗi bên, cái gì làm chuẩn, làm chỗ cứu kính phải thấy cho tường tận.
Cho nên A-la-hán không thể thành Phật. Vì tới A-la-hán đã nhập Niết-bàn luôn rồi, đâu tu tiến lên để thành Phật. Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, nghĩa là tròn đầy giác ngộ cho mình và giác ngộ cho người. Nếu đời này tu được yên ổn rồi nhập Niết-bàn, không trở lại nữa thì làm sao giác hạnh viên mãn? A-la-hán và Bích-chi Phật khác đức Phật ở chỗ đó, giác ngộ một lần là xong.
Đức Phật từ Bồ-tát hạnh viên mãn mới thành Phật. Cho nên trong kinh Bổn Sanh, đức Phật kể bao nhiêu đời Ngài sanh chỗ này, chỗ nọ độ chúng sanh, sau mới viên mãn thành Phật. Tâm hồn như vậy, giáo lý như vậy gọi là tâm hồn Đại thừa, giáo lý Đại thừa. Biết đâu ngày xưa chúng ta cũng là con kiến, con sâu gì đó, Phật ăn cơm còn dư, mình bò lên ăn được chút chút, cho nên Phật nhập Niết-bàn mấy ngàn năm rồi, mình mới trở lên làm Tăng tu chút chút.
Như vậy duyên hoá độ của Phật rất rộng rãi, chớ không phải chỉ một đời là hết. Chúng ta phải hiểu rành rẽ giáo lý đạo Phật, phần nào ra phần ấy, biết Đại thừa là gì, Tiểu thừa là gì. Mình giải thích cho mọi người hiểu từ hình thức, kế đến tâm niệm, rồi giáo lý, có căn cứ rành rẽ thì người ta không nghi. Nếu mình trả lời loanh quanh, lúng túng người ta sanh nghi, lại còn xuyên tạc nữa.
Đó là những điều căn bản tôi thấy cần nhắc để trong chúng nắm cho thật vững, mai kia có ai hỏi mình trả lời rõ ràng, cặn kẽ. Truyền bá Phật pháp như vậy mới không bị sai lệch.
Ngày 13-7 Đinh Sửu (15-8-1997)
Hôm nay thỉnh nguyện ngày 13-7 âm lịch là buổi thỉnh nguyện thay cho Tự tứ. Mặc dù đến ngày rằm chúng ta cũng làm lễ Tự tứ, nhưng trong buổi đó chúng chỉ trình lên thưa thỉnh mà không được dạy bảo gì. Hôm nay có đủ thời giờ cho toàn chúng mỗi vị kiểm lại nội tâm mình, thấy được những lỗi lầm và thành tâm sám hối đúng với tinh thần Tự tứ của mùa an cư, tôi rất hoan hỉ.
Đây là lòng thành của chúng Tăng muốn làm sao tự bản thân mình sự tu hành ngày càng tiến, đức hạnh ngày càng lớn, nên mỗi người tự xét chỗ xấu của mình đều ra sám hối. Còn nếu chưa biết, chưa thấy, được huynh đệ chỉ cho để sửa, nhờ đó lỗi lầm giảm dần, trên đường tu nghiệp chướng tiêu mòn, sự tu hành tăng trưởng, không bị thối lùi. Đó là điều đáng mừng.
Giờ đây tôi có một điều không được vui, nhắc cho toàn chúng nhớ. Đối với tất cả chúng đang nương với tôi tu tại Thiền viện này, cũng như các Thiền viện khác, luôn luôn tôi nhắc quí vị rằng người tu phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều khó khăn từ ngoại cảnh đến nội tâm. Không ai tu mà mọi việc đều như ý. Không phải vào tu cái gì cũng tốt, cũng thuận, bao giờ cũng tiến. Sẽ có những trục trặc, trở ngại hoặc do ngoại cảnh tạo nên, hoặc từ bản thân, nội tâm mình, nghiệp chướng cũ sanh ra.
Vì vậy, trong khi tu phải chân thành, khi thấy có gì khác lạ phải trình cho tôi biết, để tôi phán đoán, quyết định, nhắc nhở nên làm thế nào cho trở thành hay, tốt, làm thế nào để tránh khỏi bệnh hoạn. Vì tôi là người chịu trách nhiệm trong chúng, nếu có sự khác lạ mà không nói tôi nghe, mai kia thành bệnh, người ta tưởng lầm rằng tôi dạy quí vị tu thành bệnh.
Rất tiếc thời gian qua, trong chúng có một hai người không chịu thật thà với tôi, có những điều lạ không chịu trình cho tôi biết, cho nên có thể trở thành bệnh. Đến lúc tôi hay được e việc đã rồi. Đó là điều tôi không được vui.
Bây giờ tôi nhắc lại cho toàn chúng biết rõ đường lối tu của mình để mọi người nhận thức đừng lầm lẫn. Nếu lầm lẫn rất dễ đi lạc đường tà.
Ngày xưa Tổ Đạo Tín sau khi được truyền y bát, Ngài đi truyền bá một thời gian. Hôm nọ Tổ nhìn lên núi Ngưu Đầu, thấy có khí tượng kỳ đặc, Ngài liền đi tới, để tìm những vị có thể gánh vác Phật sự lớn sau này. Tổ đến chùa U Thê, vào hỏi thăm trong chùa xem nơi đây có ai là đạo nhân tu hành không. Chúng Tăng nói rằng:
– Phàm là người xuất gia, ai chẳng phải đạo nhân?
Tổ hỏi:
– Cái gì là đạo nhân?
Tăng im lặng không đáp được. Có vị Tăng khác thưa:
– Cách đây chừng mười dặm bên kia núi, có một ông thầy tên Pháp Dung, lười biếng đến nỗi thấy người ta tới ổng chẳng đứng dậy chào, cũng không chấp tay. Ổng làm biếng quá, nên gọi là Lại Dung, nghĩa là ông thầy Dung làm biếng. Ngài qua đó coi có phải là đạo nhân không?
Tổ Đạo Tín liền trèo núi tìm đến.
Giờ nói về ngài Pháp Dung. Trước khi đi tu, Ngài học sách vở bên ngoài rất thông thạo. Khi đọc đến kinh Bát-nhã, Ngài thấy giáo lý của nhà Nho nông nổi, cạn cợt, so với Bát-nhã không thấm vào đâu, nên quyết tâm xuất gia. Ngài là người học rộng, lúc đi tu thì thiết tha quên thân tu hành, không còn nặng về hình thức sự tướng, hay danh tiếng nữa. Sau đó, Ngài lên núi Ngưu Đầu, tìm chỗ vắng cất một am tranh nhỏ ẩn tu. Ngài tu một thời gian sau, tới giờ ăn, chim tha trái cây tới cúng, khỉ đem mật đến dâng, quanh thất có mấy con cọp ở hầu. Như vậy, Ngài tu hành đến mức được chim chóc cúng dường, có cọp hầu hạ, quí vị nghĩ có ai dám bì?
Khi Tổ Đạo Tín đến, thấy Pháp Dung ngồi thiền trên tảng đá. Tổ hỏi:
– Ở đây làm gì?
Ngài đáp:
– Quán tâm.
– Quán là người nào? Tâm là vật gì?
Pháp Dung không đáp được, bèn đứng dậy làm lễ thưa:
– Đại đức ở đâu đến?
Tổ đáp:
– Bần tăng không có chỗ ở nhất định, hoặc Đông hoặc Tây.
– Ngài có biết Thiền sư Đạo Tín chăng?
– Vì sao hỏi ông ấy?
– Vì nghe danh đức đã lâu, khao khát muốn gặp.
– Đạo Tín là bần đạo đây.
– Vì sao Ngài đến đây?
– Vì tìm đến thăm hỏi. Ông có am thất gì để nghỉ ngơi không?
Pháp Dung dẫn về am của Ngài. Chung quanh am toàn loài cọp sói nằm đứng lăng xăng. Tổ giơ tay lên ra vẻ sợ, Pháp Dung nói:
– Ngài vẫn còn cái đó sao?
Tổ hỏi:
– Cái đó là cái gì?
Pháp Dung trả lời không được.
Lát sau Tổ Đạo Tín đến tấm đá Pháp Dung ngồi, vẽ một chữ Phật thật to. Pháp Dung nhìn thấy giật mình. Tổ bảo:
– Vẫn còn cái đó sao?
Pháp Dung không hiểu, bèn đảnh lễ cầu xin Tổ chỉ dạy. Tổ Đạo Tín mới giải thích cho Pháp Dung hiểu Thiền.
Sau khi nhận được đạo lý, ngài Pháp Dung vẫn tu như trước đều đặn. Nhưng từ đó mấy con chim không còn tha trái cây tới cúng nữa. Người đời thắc mắc không hiểu từ ngày gặp Tổ Đạo Tín, ngài Pháp Dung tu tiến hay lùi? Nếu tiến thì phải được chim chóc, cọp sói kính trọng nhiều hơn. Tại sao trước có chim cúng, cọp hầu, giờ tu nhiều sao chúng lại bỏ đi? Như vậy là thối hay tiến? Đó là nghi vấn của nhiều người, họ chưa thâm hiểu lý thiền nên nghi như vậy.
Đến chuyện thứ hai của ngài Đạo Ưng, đệ tử Tổ Động Sơn Lương Giới. Ngài Đạo Ưng tu ở cái thất riêng, nhưng tới giờ thọ trai lại ăn cơm với chúng. Sau luôn một tuần, Đạo Ưng không đến ăn cơm. Ngài Động Sơn cho người gọi đến hỏi:
– Mấy ngày nay sao không thấy ông đi ăn cơm?
Đạo Ưng đáp:
– Mỗi ngày có thiên thần cúng dường.
Quí vị thử nghĩ, tu mà chư Thiên đem cơm đến cúng dường còn gì hãnh diện bằng phải không? Thế nhưng ngài Động Sơn quở:
– Ta bảo ông là kẻ vẫn còn kiến giải. Vậy chiều nay lại đây.
Đến chiều ngài Đạo Ưng xuống, Tổ Động Sơn gọi:
– Ưng am chủ!
Đạo Ưng cất tiếng:
– Dạ!
– Không nghĩ thiện, không nghĩ ác là cái gì?
Đạo Ưng trở về am ngồi yên lặng lẽ. Thiên thần tìm mãi không thấy, trải qua ba ngày như thế mới thôi cúng dường.
Quí vị thấy ngài Pháp Dung được chim chóc cúng dường, ngài Đạo Ưng được chư Thiên cúng dường, vậy là tu hay. Sau chim chóc, chư Thiên không cúng dường nữa là tu dở phải không? Đó là điều chư Tăng ở đây phải nắm cho thật vững, nếu không dễ lầm lẫn. Vì sao Tổ Động Sơn nói “ông còn kiến giải”? Sở dĩ chư Thiên hay chim chóc cúng dường là do mình khởi quán tâm từ bủa khắp mọi người, khắp chúng sanh, nên chư Thiên và chim chóc cảm thông được. Nhưng còn khởi quán là còn kiến giải, chưa phải bặt dứt, chưa là chỗ cứu kính của người tu thiền.
Chúng ta bây giờ còn kiến giải mà chim chóc, chư Thiên không cúng là tại sao? Vì nơi mình là kiến giải sân hận, buồn phiền, không hay không tốt. Chẳng những chư Thiên, chim chóc không cúng mà có thể Ma vương cũng thấy. Vì vậy tất cả ráng tu, mọi kiến giải tội lỗi phải dứt sạch, rồi kiến giải chân chánh, tốt đẹp cũng phải lặng luôn. Cho nên ngay câu nói của Tổ Động Sơn: “không nghĩ thiện, không nghĩ ác là cái gì”, ngài Đạo Ưng lặng hết tâm thiện ác. Từ đó chư Thiên không còn cúng dường nữa.
Đó mới là chỗ chân thật của người tu thiền. Vì còn suy nghĩ, dù nghĩ thiện cũng là tướng sanh diệt. Đến chỗ vô sanh rồi không còn có niệm thiện, niệm ác, như vậy mới là cứu kính. Trong chúng có nhiều người không hiểu điều đó, thấy được một hai cái lạ, nghe được một hai điều mới, tưởng đâu mình là Thánh, đuổi theo rồi trở thành bệnh. Điều này hết sức nguy hiểm.
Tôi nhắc cho trong chúng biết rõ, từ đây về sau trong khi tu những gì thấy lạ, nghe lạ và chuyển biến lạ trong người phải trình cho tôi biết, để tôi chận ngay từ buổi đầu mới không nguy hiểm. Nếu để thành bệnh rồi, tôi có biết cũng bó tay, không làm sao sửa được.
Đó là điều tôi nói đáng buồn, đáng lo cho đường lối tu. Tôi không có lỗi hướng dẫn sai, chỉ vì những người tu ở đây không trình các chỗ tu sai lệch cho tôi biết, làm sao mà sửa, vì tôi chưa được Tha tâm thông. Nên tôi nhắc cho chúng là phải thật thà, tu thấy điều hay, điều dở đều trình cho tôi rõ. Tôi biết cái gì tốt, cái gì nguy hiểm, sẵn sàng tiếp quí vị để chỉ dạy cho đúng.
Tôi nói rõ cho toàn chúng hiểu được cái lợi và cái hại trên đường tu. Có những điều mình thấy như hay nhưng rốt cuộc lại dở, những cái mình tưởng dở trái lại là hay. Cũng như T.N thấy nội tâm mình có những chỗ dở, đem trình bày, đó thấy như dở mà lại là hay. Nó giúp mình tiêu diệt hết những chủng tử quá khứ để được thanh tịnh, chớ không phải là nhục, là xấu. Dở mà giấu giếm mới là xấu, vì sẽ không bao giờ hết dở được, tu không thể tiến.
Đó là lời nhắc nhở của tôi hôm nay. Mong rằng toàn chúng hiểu rõ để ứng dụng tu, có những trở ngại hay bước tiến nào phải trình cho tôi biết, đừng nên giấu giếm. Đây là điều hết sức quan trọng.
Ngày 13-8 Bính Tý (25-9-1996)
Mấy hôm Thầy đi Indonesia có đem theo cuốn kinh Pháp Cú. Qua bên đó có thời gian Thầy xem lại kỹ, thấy có một bài kinh Phật dạy: Người tụng kinh giỏi mà không khéo tu gọi là thầy tụng kinh chớ không phải thầy tu. Người thuyết pháp giỏi không khéo tu gọi là thầy thuyết pháp chớ không phải thầy tu.
Như vậy Phật xác nhận có thầy thuyết pháp, thầy tụng kinh và thầy tu. Thầy tụng kinh chuyên tụng kinh giỏi, thầy thuyết pháp là người giảng pháp hay, còn thầy tu thì sao? Lâu nay mình cứ ngỡ thầy tụng kinh giỏi là thầy tu, thầy thuyết pháp giỏi là thầy tu, nhưng Phật xác nhận đó là thầy tụng, thầy thuyết. Còn thầy tu là sao? Đó là điều Thầy muốn nói chuyện với tụi con ngày hôm nay.
Hôm qua có người khách quí đến thăm và hỏi Thầy:
– Chư Tăng chư Ni ở đây tu học mấy năm mới ra hoằng hóa?
Thầy trả lời:
– Ở đây không hạn định thời gian, nếu học ở trường thì năm ba năm gì đó mãn khóa hoặc hết cấp, còn tu không định năm. Tôi thấy người nào tôi đủ lòng tin về đạo đức, hiểu thấu giáo lý tu hành, tôi cho ra làm Phật sự chớ không tính năm.
Ông khách hỏi thêm:
– Làm sao biết người đó đủ đạo đức?
Thầy sực nhớ lại mấy câu trong kinh Pháp Cú. Nếu tụi con học hết trường Cơ bản hoặc tới Cao cấp, khi có ai hỏi tam độc là gì, tụi con sẽ kể: Tam độc là ba thứ tham sân si. Rồi kể luôn những tai hại xấu xa của nó. Kể rất rành, rất hay. Nhưng khi có ai chọc tức thì nổi sân đùng đùng lên. Như vậy tụi con thuộc về thầy gì? Thầy thuyết hay là thầy tu?
Vậy là mình chỉ nói chớ chưa làm được, mà chưa làm được thì chưa phải thầy tu. Trong tụi con thầy tu nhiều hay thầy thuyết nhiều? Ai hỏi tại sao đi trong luân hồi sanh tử, tụi con liền kể đủ sáu thứ căn bản phiền não: tham sân si… rành lắm, nhưng khi ai đụng tới, mấy thứ đó hiện hình nguyên vẹn. Chợt nhớ như vậy nên Thầy trả lời ông ấy:
– Muốn biết người đó đáng tin cậy hay chưa, hãy xem họ có ứng dụng được những gì đã học và hiểu không. Nếu ứng dụng được, đó là người đáng tin cậy.
Ông khách lại hỏi:
– Quí Thầy, quí Cô đâu có ra ngoài đụng chạm với ai, làm sao biết người đó có sức chịu đựng hay có thể chiến thắng được cảnh bên ngoài?
Thầy trả lời:
– Tuy ở đây ít tiếp xúc với bên ngoài, nhưng trong chúng năm mươi người là năm mươi ý, sống chung với nhau sớm muộn gì cũng có chỗ bất đồng. Khi có những đụng chạm bất đồng mà vẫn an nhẫn, hỉ xả được, đó là người đáng tin cậy. Nếu bất đồng liền sanh chống đối, cãi lẫy, giận hờn, người đó không đáng tin cậy, đâu cần phải ra ngoài mới đụng chạm.
Lâu lâu tụi con kiểm lại xem mình là thầy thuyết hay thầy tu. Chắc là thầy thuyết! Còn thầy tu thì cái gì biết xấu dở phải chừa. Khi bị chạm tự ái hay có ai làm mất uy tín của mình, bản ngã muốn trỗi dậy, tụi con phải biết để ngăn chặn lại cho bản ngã mòn bớt. Bằng không nói Phật pháp hay lắm, tới lúc gặp việc đâu đó vẫn y nguyên, như vậy không phải là thầy tu.
Không phải nói hay là tu tiến, vì ai siêng học hỏi, thuộc lòng thì nói giỏi. Còn tu tiến là khi gặp người có những ý kiến không giống mình, có hành động khinh miệt mình, tụi con vẫn thản nhiên tự tại không phiền não, không giận hờn. Đó mới thật là thầy tu. Thầy cốt rèn luyện tụi con thành thầy tu chớ không phải thầy tụng hay thầy thuyết. Như vậy tụi con kiểm lại coi trong huynh đệ có đứa nào đáng được Thầy tin cậy chưa? Khi nào tụi con thấy huynh đệ mình đáng cho Thầy tin cậy rồi thì Thầy mở cửa.
Ở đây tụi con có đụng chạm nhau cũng chỉ nhè nhẹ thôi. Khi ra khỏi đây có những đụng chạm tóe lửa chớ không phải thường. Cái nhẹ còn chưa thắng nổi, khi gặp trường hợp tóe lửa làm sao? Tại đây huynh đệ tụi con ở trong môi trường tốt, giữ lục hoà, sống bình đẳng, thương yêu, công bằng thì chuyện gì cũng dễ, còn khi ra khỏi đây rồi, những quyến rũ về bạn bè, tài sắc… mạnh hơn rất nhiều. Nếu ở đây chưa thắng được, ra ngoài làm sao thắng nổi?
Thật ra những duyên nghịch cũng rất có lợi. Nghịch là nghịch thế gian, nghĩa là làm thương tổn bản ngã mình, còn thuận thế gian là ngọt ngào dụ dỗ… Cả hai cái nếu không đủ đạo lực thì không thắng được, rốt cuộc ở Thiền viện năm, mười năm ra đầu hàng ngoại cảnh. Vậy có uổng công Thầy lo cho tụi con không? Có uổng của thí chủ ủng hộ tụi con không? Và có phản bội lại bản nguyện của tụi con không? Đó là ba câu hỏi tụi con cần xét lại.
Nếu không đủ đạo lực để đối kháng lại cảnh thuận và cảnh nghịch của thế gian, không giữ tròn được tâm trong sạch sáng suốt trên đường tu, đó là phản bội công ơn người dạy dỗ nhắc nhở mình, phản bội người giúp đỡ cơm áo và phản bội chính sở nguyện của mình khi phát tâm tu hành. Nếu tụi con không thắng được những va chạm nhỏ, dù ở đây mười năm hay cho đến khi Thầy tắt thở, Thầy cũng chưa dám tin tưởng.
Bây giờ trong thời gian tụi con sống chung với nhau, có những ý kiến bất đồng, có những hành động trái nhau hoặc những tâm niệm riêng rẽ mà tụi con dung hoà và an ổn được, không có gì bực bội buồn phiền thì trên đường tu sẽ vững vàng. Mọi lời Phật Tổ dạy tụi con thực hành thấu đáo, Thầy mới có thể tin tưởng. Mà Thầy tin tưởng được thì mai kia tụi con mới làm được chút ít Phật sự để đền ơn Phật Tổ, ơn quí Thầy, ơn đàn-na thí chủ, đúng như sở nguyện cao cả của mình. Nếu ngược lại là mất đi ý nghĩa cao siêu của một đời tu.
Hôm nay Thầy nhắc lại câu kinh Phật dạy và lời người ta hỏi Thầy để tụi con nhớ mình là thầy tu, chớ không phải thầy tụng hay thầy thuyết. Nhớ rồi phải tu cho đàng hoàng. Nếu thầy tu không ra thầy tu, thầy tụng không ra thầy tụng, thầy thuyết không ra thầy thuyết, đó là lỡ dở hết.
Nhận định của Thầy không phải chuyện tưởng tượng quá đáng mà là một lẽ thật. Như tụi con, đứa nào ở ngoài thế gian cũng có thể kiếm công ăn việc làm được, cũng thành người đàng hoàng trong gia đình không đến nỗi nào. Vậy mà tụi con bỏ hết cuộc đời thế gian vào tu trong đạo. Nếu vào đạo rồi cứ loay hoay với những chuyện không đáng làm, không đáng nhọc sức thì đời không ra đời, đạo không ra đạo, uổng phí đi một kiếp sống.
Thầy nghĩ đến tương lai của Tăng Ni, thấy cái quyết tâm mạnh như vậy phải được đáp ứng lại bằng một tương lai tốt đẹp, cao quí. Không thể nào quyết tâm bỏ tất cả đi tu để gặt hái một kết quả tầm thường, uổng một đời tu. Nếu được thầy lành và bạn tốt nhắc nhở thì đường tu của mình sẽ tiến, còn không có ai nhắc nhở, có khi trở lại tập theo những thói quen thế tục. Ban đầu đầy đủ quyết tâm mà rốt cuộc không như ý, đó là vì mới vào tu lại chạy theo những thói thường của thế gian. Nhưng đó không phải lỗi của họ mà do người lớn đi trước không khéo hướng dẫn, không khéo tạo điều kiện tốt cho họ tu, nên họ phải hi sinh một cách vô ích.
Do đó Thầy lúc nào cũng băn khoăn thắc mắc, làm sao tạo được điều kiện cho Tăng Ni tu hành đến nơi đến chốn. Dù đời này chưa thành Phật, thành Tổ thì tâm hồn và trí tuệ cũng vượt thoát khác người phàm phu, chớ không tầm thường. Như vậy mới xứng với công tu. Nếu tu mà kết quả mình với người thế tục không khác gì nhau, có chăng là khác cái đầu, chiếc áo, thì quá đỗi tầm thường.
Có những điều Thầy thấy không được tốt đẹp cao quí, cần phải tránh, nên Thầy tập cho tụi con sống đàng hoàng, đúng đạo lý. Không cần đông, chỉ năm mươi người, nếu biết làm theo lời Phật dạy thì đời sống tụi con ngày càng cao thượng. Mai kia các nơi nhìn thấy, họ từ từ bắt chước theo, đó là mình đem lại cho Tăng Ni một giá trị thật sự, xứng đáng là người tu hạnh giải thoát. Còn nếu không khéo, mình đua nhau làm việc kinh doanh, làm những chuyện không xứng đáng với ý nguyện tu hành.
Vì vậy tất cả tụi con phải cố gắng. Thứ nhất là sống đúng nề nếp ở đây Thầy đã tạo ra. Tụi con đừng bận tâm lo nghĩ một việc gì ở ngoài, chỉ đem hết tâm hồn tu hành an ổn, như vậy đời tu sẽ có tiến, có vượt lên. Đừng nên bận rộn những chuyện không đâu.
Thứ hai là sống đúng với nội qui Thiền viện. Việc này sẽ tạo cho tụi con hai điều thiết yếu:
Đầu tiên là tụi con sống hoà hợp với nhau, không thấy có người mình phải nặng lo, hoặc có người mình không ưa thích. Thấy tất cả huynh đệ cùng tu cùng tiến đều là người tốt, kính mến như nhau.
Kế là sống trong tình đoàn kết chị em. Mai kia tụi con ở đây hoặc ra khỏi Thiền viện, huynh đệ hợp tác với nhau làm Phật sự dễ dàng, không trở ngại vì những nhu cầu hoặc quyền lợi riêng tư. Như vậy là điều rất tốt để tương lai Phật pháp được sáng sủa, chớ không khéo tụi con dễ bị lôi cuốn trong nếp sống tầm thường, bất hoà với nhau vì những lợi lộc cỏn con.
Hơn nữa, nếu tụi con không thương ai nhiều, cũng không ghét ai nhiều thì sẽ được an ổn, không khó chịu bực dọc, đó là bước tiến mạnh trên đường tu, khiến cho tâm dễ dàng an định. Tâm an định trí tuệ mới sáng, đây là gốc của sự tu giúp tụi con mau tiến. Nếu tụi con lăng xăng, bận rộn, nay thương người này, mốt ghét người kia, cứ thương với ghét hoài làm sao tâm an? Tâm không an, ngồi thiền làm sao được định? Ngồi một lát nhớ huynh này xử sự với mình không tốt, hoặc nhớ huynh kia bạc bẽo, rồi ráng kềm chế đến nhức đầu nên kết quả sự tu không có.
Nếu lúc bình thường tụi con khéo gìn giữ lòng không bận rộn chuyện ghét thương thì tâm dễ an định. Mới nhìn qua thấy ở đây dường như khó khăn, khắt khe. Nhưng sự thật, chủ trương của Thầy là muốn sự tu hành của tụi con có kết quả nên Thầy mới ra điều kiện như vậy. Nếu muốn tụi con nhẹ nhàng thảnh thơi, vừa tu vừa chơi thì Thầy không cần phải khó khăn như thế.
Tụi con thấy khó khăn, nhưng một khi làm được rồi thì đó là một trợ duyên lớn để sự tu của mình dễ đạt kết quả.
Thầy mong tất cả tụi con thực hiện được lý tưởng cao siêu, công phu xứng đáng, đừng để làm người tu mà không có gì hay, uổng đi một đời, đáng tiếc! Đó là lời Thầy nhắc nhở, tất cả tụi con cố gắng.
Ngày 13-9 Bính Tý (24-10-1996)
Buổi thỉnh nguyện hôm nay chỉ một người có lỗi, còn toàn chúng đều thanh tịnh, đó là điều tốt.
Hôm nay Thầy nhắc tụi con hai từ ngữ rất quan trọng trong nhà thiền, giản trạch để tụi con biết rõ sự tu. Đây là những vấn đề then chốt mà Thầy e chúng chưa nắm vững. Tụi con hằng ngày thuộc câu: “phản quan tự kỷ” rồi, còn “hồi quang phản chiếu” có thuộc không? Đó là câu châm ngôn căn bản của người tu thiền.
Giả sử có ai hỏi tụi con hồi quang phản chiếu và phản quan tự kỷ khác nhau như thế nào? Tụi con giải thích ra sao?
Phản quan tự kỷ, chữ phản là ngược lại, quan là xem xét quán chiếu, tự kỷ là chính mình. Còn hồi quang phản chiếu, hồi là quay lại, quang là ánh sáng, phảnlà ngược trở lại, chiếu là soi sáng. Như vậy, hồi quang và phản quan khác nhau chỗ nào? Một bên là xoay ngược ánh sáng trở lại mình; một bên là soi xét, xem xét lại mình. Hai từ đó nếu không giản trạch rõ tụi con sẽ lúng túng. Giả sử có ai hỏi, hai thứ là một phải không? Nếu một tại sao nói hai câu? Như vậy mỗi câu có một ý nghĩa khác, thấy như na ná, nhưng mang tánh chất khác. Tụi con phải hiểu cho thật kỹ, thật rõ.
Hồi quang phản chiếu là xoay ánh sáng lại để chiếu rọi mình. Đó là ánh sáng gì mà mình soi? Bây giờ Thầy nhắc lại hình ảnh này tụi con sẽ nhớ. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đưa tay lên hỏi A-nan: “Thấy không?” A-nan thưa: “Dạ thấy.” Phật hạ tay xuống, hỏi: “Thấy không?” A-nan thưa: “dạ không”, liền bị Phật quở quên mình theo vật.
Phật quở là vì sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chúng ta luôn luôn phóng ra sáu trần bên ngoài, có nó tưởng như có mình. Thấy tay Phật đưa lên gọi là thấy, tay Phật không đưa lên gọi là không thấy. Nếu không thấy lúc đó mù rồi sao? Không mù tại sao nói không thấy? Bây giờ tụi con có bệnh đó không? Có cái gì đưa lên chỉ thì nói thấy, nếu không đưa lên, không chỉ nói là không thấy. Không thấy tức là mù, nhưng khi không có vật tụi con có mù không? Như vậy không mù mà nói không thấy, đó là chỗ lầm lẫn muôn đời của mình, chỉ nhớ cái bên ngoài mà không nhớ cái hay thấy của mình.
Chúng sanh luôn phóng sáu căn chạy theo sáu trần, sáu căn có mang tánh chất tri giác, cho nên gọi là quang tức ánh sáng. Chúng ta dồn hết tri giác để phân tích, để soi rọi ngoại cảnh mà không hề nhớ mình có ánh sáng đó. Bởi vậy thông suốt ngoại cảnh mà ngu muội đối với mình. Sự sống của mình ra sao không biết, còn chuyện này chuyện nọ của thiên hạ thì bén nhạy sáng suốt vô cùng. Chuyện năm trên năm dưới của ai đâu nhớ rõ, còn chuyện mình thì quên bẵng, không nhớ cái gì hay, điều gì dở để sửa đổi, chỉ thấy chuyện bên ngoài.
Đây là bệnh của nhân loại. Ai cũng đua nhau tìm kiếm, học đòi, phân biệt tất cả chuyện bên ngoài, giỏi chừng nào tốt chừng nấy. Ít ai quay lại tìm hiểu mình là cái gì, kể cả người tu chúng ta cũng thả trôi, chạy ra ngoài nhiều. Chúng sanh mê lầm đem tất cả ánh sáng mình có phóng ra ngoài, ánh sáng ở sáu căn dồn ra tìm hiểu tất cả ngoại cảnh mà không quay lại tìm biết chính mình. Khi có ngoại cảnh tưởng như mình biết, không có ngoại cảnh tưởng mình không biết, đâu ngờ cái không là ngoại cảnh chớ cái biết vẫn hằng hữu nơi mình.
Quên mình chạy theo vật, theo cảnh, đó là bệnh chúng sanh. Đức Phật muốn tất cả người tu biết mình trước, nhận ra cái gì là mình rồi hãy biết những thứ chung quanh. Không biết mình mà biết chung quanh là biết rỗng, không lợi ích gì. Biết bên ngoài là thứ sanh diệt, gốc sự tu là biết lại mình, mà muốn biết mình thay vì sáu căn phóng ra phải quay vào. Phóng ra là đuổi theo cảnh, quay vào là soi sáng lại mình. Cho nên nói hồi quang là xoay ánh sáng trở lại.
Hai chữ sau là phản chiếu tức chiếu ngược lại chính nơi mình. Đức Phật đưa tay lên hỏi, ngài A-nan thấy tay Phật đưa lên nói là thấy, khi Phật không đưa tay lên, bảo là không thấy. Đó là ngài A-nan mắc kẹt hình tướng bên ngoài, cho cái tay bên ngoài là cái thấy, mà quên tánh hay thấy của chính mình. Sự thật là có tay hay không có tay, chớ cái thấy lúc nào cũng sẵn. Khi có tay nói thấy, buông tay xuống nói không thấy, như vậy có cảnh biết có, không cảnh tưởng mình không. Quên hẳn chính mình và lệ thuộc dính mắc vào ngoại cảnh là hai căn bệnh rất sâu kín, trầm trọng của chúng sanh.
Trong nhà thiền chú trọng hai cơ quan tối quan yếu là mắt và tai, cho nên Phật dùng thuật đánh chuông và đưa tay. Đánh chuông để chỉ Tánh nghe, đưa tay chỉ Tánh thấy. Như vậy khi con người chạy theo âm thanh, sắc tướng là quên. Bây giờ hồi quang phản chiếu là không kẹt ở âm thanh, sắc tướng, trái lại biết rõ mình đang nghe, đang thấy. Sự vật có động tĩnh, sanh diệt nhưng cái thấy nghe của mình hằng hữu.
Ngày xưa, các Thiền sư dùng đủ thủ thuật, đưa phất tử hoặc đưa ngón tay… để nhắc cho hành giả ngay nơi hình ảnh đó mà biết được mình. Cho nên Phật đưa cành hoa lên, ngài Ca-diếp mỉm cười. Đó là thông cảm được cái gì Phật muốn chỉ. Thấy cành hoa không lệ thuộc cành hoa, mà biết được mình có cái hay thấy.
Chúng ta tu là nhìn cảnh mà chẳng quên mình hay nhân nơi cảnh mà biết mình, trong nhà thiền gọi là “kiến sắc minh tâm”, nghĩa là thấy hình sắc bên ngoài mà sáng tâm mình. Tâm mình ở đâu? Ở trong tim phải không? Chúng ta nghe nói tâm ở trong này lăng xăng, lộn xộn, tưởng đó là tâm. Không ngờ chính cái hay thấy hay biết mới là tâm của mình. Tâm đó không hề lăng xăng, lộn xộn. Bởi vậy, thấy được cành hoa tức là kiến sắc, rồi nhận nơi mình có cái hay thấy, hay biết hằng hữu không vắng thiếu lúc nào, đó gọi là minh tâm.
Biết được tâm, rõ được tâm là nhớ mình không theo vật. Còn nếu chỉ biết cành hoa ở ngoài, có thì nói thấy, không có nói không thấy, đó là quên mình theo vật. Quên mình theo vật là mê, còn nhớ mình không theo vật là giác, không có gì xa lạ. Chúng ta biết nhớ lại như vậy là hồi quang, còn quên mình chạy theo sắc, thanh làphóng quang.
Vậy là dễ hay khó? Tụi con có hồi quang không? Hay là phóng quang? Giả sử ai ngồi bên cạnh mình nói chuyện, họ nói gì thì nói, chúng ta cứ nhớ mình đang nghe chớ không nhớ chuyện của họ. Nhớ mình đang nghe, như vậy là hồi hay phóng? Giả sử ai hỏi: “hồi nãy người đó nói cái gì”, mình trả lời: “không biết”. Vì hồi nãy mình chỉ nghe chớ không chú ý nhớ từng lời từng câu của họ. Bởi vậy trong nhà thiền nói nghe mà như điếc.
Lại giả sử ở trước mình có người ăn mặc sang trọng hay rách rưới đi qua chúng ta đều thấy.
Thấy tất cả nhưng chỉ nhớ mình đang thấy, không nhớ cái sang trọng hay rách rưới. Người qua rồi thôi, vật qua rồi mất, chúng ta chỉ nhớ mình đang thấy. Đó là hồi quang, tức là nhớ lại mình mà không mắc kẹt nơi vật, nên nói thấy mà như mù. Tại sao nói thấy như mù? Nghĩa là ai đi qua trước mắt mình thấy, nhưng qua rồi thôi, không lưu tâm, không chú ý, chỉ nhớ mình đang thấy. Cho nên nếu ai hỏi: “hồi nãy đi qua mấy người, ai đẹp ai xấu”, trả lời: “tôi đâu có nhớ”. Vì có thấy mà không để ý phân biệt đẹp xấu, nên nói thấy mà như mù.
Tụi con nhớ cho thật kỹ, thấy như mù, nghe như điếc, đừng hiểu như mù là không thấy gì hết, như điếc là không nghe được. Không phải vậy! Thấy nghe rõ ràng nhưng không dính mắc. Cho nên các vị Thiền sư không cần ngồi thiền nhiều. Họ thấy cũng như mù, nghe cũng như điếc, tất cả đều không dính mắc nên các ngài không bận bịu về việc kềm chế hay ngồi thiền. Các ngài sống rất tự tại, thoải mái, dù ngồi giữa chợ cũng như ngồi thiền. Còn tụi con ngồi thiền mà ai nói gì cũng lắng nghe, thấy cái bóng gì liền nhìn kỹ rồi phân tích, đó có phải thiền chưa?
Như vậy tụi con thấy tu hết sức gần, không nặng nề chút nào. Chớ nghe nói hồi quang rồi dòm vào ngực mình hoài, xoay nhìn từng nhịp đập của tim, từng mạch máu nhảy, lâu ngày tức ngực, đau tim, đó là sai lầm. Hồi quang có nghĩa là đối với sáu trần, nó qua mình biết, nhớ có cái hay biết sáu trần. Luôn luôn nhớ cái hay biết sáu trần, đó là hồi, còn chỉ theo sáu trần mà không nhớ có cái biết sáu trần, đó là phóng. Như vậy hồi với phóng xa hay gần? Nó rất gần nhưng khéo thì biết, không khéo quên ngay. Cả ngày tụi con tu hồi nhiều hay phóng nhiều? Gần như phóng hoài, chẳng có hồi, phải không?
Vậy nên khi tu tụi con phải hiểu cho thật rõ. Nhiều khi không giản trạch, tụi con không hiểu, dùng từ ngữ làu làu mà không biết ứng dụng để tu. Như vậy chúng ta có thể ngồi chơi ngoài băng đá, ngắm trời ngó thông… nhưng chỉ nhớ mình đang ngó thông, còn thông ra sao mặc nó. Cũng như khi ai nói mình nghe hết, nhưng chỉ nhớ mình đang nghe, không chạy theo tiếng theo lời. Như vậy tụi con tu rất hay, là đang hồi quang phản chiếu. Còn nếu chạy theo tiếng, theo hình ảnh bên ngoài, như có người khách đi qua liền khen là ăn mặc sang trọng, nhớ kỹ từng chi tiết, đó là đang phóng. Nghe đằng kia ai nói rù rì nho nhỏ, bèn ráng nghe, nhớ từng câu khen ai chê ai, đó là đang phóng.
Tụi con phải tập nghe tất cả nhưng không chú ý đến lời tiếng, chỉ nhớ mình đang nghe; thấy tất cả mà không lưu tâm tới cảnh, chỉ nhớ mình đang thấy. Như vậy là không quên mình, không mất mình. Ngược lại, chạy theo âm thanh, sắc tướng bên ngoài, là quên mình theo vật, như lời Phật quở trong kinh Lăng Nghiêm.
Chúng ta tu là phải xoay lại chính mình. Chính mình không phải ở trong tim, gan, mật, mà là cái đang nói, đang nghe, đang xúc chạm, thấy, biết đây. Như vậy hằng ngày đi, đứng, nằm, ngồi, lúc nào cũng biết hồi quang là tụi con tu miên mật. Nếu không được như vậy là tu lôi thôi.
Người xưa sợ chúng ta tu lôi thôi, nên làm bất cứ hành động nào cũng bắt đọc bài kệ, câu chú để cho mình nhớ, không chạy theo cảnh chớ không có gì lạ. Còn bây giờ tụi con hồi quang như vậy khỏi chú hay kệ gì nữa. Người xưa dạy đọc kệ, niệm chú vì cái đó dễ nhớ, đọc lẩm nhẩm để không chạy theo bên ngoài. Còn bây giờ tụi con biết hồi quang phản chiếu thì lúc nào cũng tỉnh, lúc nào cũng biết mình đúng như thật, nên không phải nhờ đến chú và kệ.
Còn nương chú, kệ là biết mà chưa biết, chỉ là không chạy ra ngoài thôi, nhớ kệ, nhớ chú mà chưa biết mình. Ở đây tụi con không chạy theo cảnh tức là đang sống với chính mình. Tụi con thích sống với mình hay thích sống với cảnh? Nếu theo cảnh thì mất mình. Tu mà không biết mình chỉ biết ngoại cảnh! Cảnh sanh diệt, đổi thay tìm biết nó để làm gì? Chính mình là gốc, là nguồn cội mà không biết là sơ sót rất lớn.
Bởi vậy nên Phật Tổ nhắc hồi quang phản chiếu. Hồi quang là xoay ánh sáng trở lại mình. Nói xoay thật ra không có gì xoay, chỉ là nhớ mình, không chạy theo cảnh. Không phóng tức là hồi. Phản chiếu là rọi sáng lại mình, không cho phóng chạy theo vật bên ngoài, đó là tu. Tụi con tu đúng như vậy là tu thiền. Vậy nên ngài Pháp Loa dạy trong Thanh qui: “ra vào không giao thiệp gọi là ngăn dừng”, nghĩa là đối với trần không chạy theo, như vậy là giữ giới thanh tịnh, là tu chân chánh.
Sự tu hết sức tế nhị chớ không phải chỉ hình thức bên ngoài. Người xưa sợ người mới xuất gia phóng tâm quá nên mượn chú, mượn kệ đọc cho bớt phóng tâm. Còn chúng ta tu thiền, chư Tổ dạy phải quay lại, hằng nhớ hằng biết thì cảnh bên ngoài dù đổi thay, sanh diệt mình cũng không mất, không bị ảnh hưởng. Không mất mình nên khi nhắm mắt chúng ta tự có lối đi riêng, thân này bại hoại nhưng cái đó không bại hoại. Đó là yếu chỉ Thiền tông. Như vậy, hồi quang phản chiếu nói lên tinh thần tu thiền, là cốt tủy, tâm yếu của người tu thiền chớ không phải thường.
Bây giờ đến câu phản quan tự kỷ. Chữ quang phản chiếu và chữ quan phản quan tự kỷ là hai chữ khác nhau. Quan là xem xét, ngắm nhìn; còn quang là soi sáng, là ánh sáng của mình. Như vậy, hồi quang là soi ánh sáng trở lại. Còn phản quan là xem xét trở lại, hai cái khác nhau.
Nguyên câu nói của ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.” Đó là yếu chỉ Thiền tông. Thầy cho rằng câu này có tánh cách quảng bác hơn câu trên, bao gồm tất cả các phương pháp và pháp môn tu. Còn hồi quang phản chiếu có tánh cách chuyên môn về Thiền tông.
Thí dụ tụi con đếm hơi thở hoặc theo hơi thở, đó không phải hồi quang mà là phản quan tự kỷ. Khi chúng ta xem xét hơi thở của mình và sự sanh diệt của từng hơi thở, thấy rõ tinh tường những biến chuyển của nội tâm hay của bản thân, đây là phản quan tự kỷ. Lối tu này tổng quát, bao trùm hết cả giáo lý nhà Phật.
Thầy nói đại khái cho tụi con biết. Thí dụ Phật dạy tu thiền quán Tứ niệm xứ, là pháp căn bản mà các kinh A-hàm thường nhắc, thường dạy rất rõ. Một là quán thân bất tịnh, nghĩa là xem xét, phân tích tường tận từng bộ phận, thấy rõ thân này nhớp nhúa, hôi hám. Hai là quán thọ thị khổ, tức là đối với tất cả các cảm giác do tiếp xúc với sáu trần ở ngoài, chúng ta biết rõ ràng nó vô thường, không thật, là gốc của đau khổ. Ba là quán tâm vô thường, là thấy rõ những tâm niệm của mình luôn luôn sanh diệt không dừng. Bốn là quán pháp vô ngã, tức quán tất cả các pháp, từ tâm pháp nơi mình cho tới ngoại cảnh đều là tướng duyên hợp không có chủ. Hằng quán như vậy.
Trong kinh A-hàm, đức Phật dạy: Người nào cột tâm ở Tứ niệm xứ bảy ngày không dời đổi sẽ chứng quả A-na-hàm, chẳng những bảy ngày mà ba ngày cũng chứng quả, rồi chẳng những ba ngày mà một ngày cột tâm ở Tứ niệm xứ không dời đổi cũng chứng quả A-na-hàm. Quán đó tức là phản chiếu, xem xét soi sáng lại mình, cho nên pháp tu của các kinh A-hàm trong Phật giáo Nguyên thủy chính là phản quan tự kỷ.
Ngũ đình tâm quán cũng là soi xét lại mình, quán Phật, quán từ bi, quán bất tịnh, quán sổ tức, quán nhân duyên… Quán như vậy để trụ tâm, cũng là để soi sáng lại mình.
Đó là nói về hệ thống A-hàm, còn hệ thống Bát-nhã, mỗi đêm chúng ta đều tụng “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Đây cũng là soi sáng lại chính mình để biết rõ năm uẩn không thật, không có thực thể rồi qua tất cả khổ nạn.
Kế đến Thiền tông, như Thầy thường dạy và hướng dẫn tụi con nhìn lại từng niệm khởi, đừng chạy theo nó, gọi là biết vọng không theo, cũng là phản quan.Câu chuyện Tổ Huệ Khả tìm tâm không được chính là phản quan. Tâm ở đâu? Quay lại liền biết đường vào.
Như vậy, các pháp tu từ A-hàm, sang Bát-nhã cho đến Thiền tông đều là phản quan. Các hệ thống tu đều lấy việc xem xét, quán chiếu lại mình làm trọng tâm, không để tâm buông lung chạy theo cảnh, không cho vướng mắc, dính kẹt bên ngoài.
Thầy thường dạy mấy người mới tu đếm hơi thở hoặc theo hơi thở, đó là phản quan, vì nếu hướng ra ngoài thì quên. Tu mà không biết phản quan tự kỷ thì người tu càng ngày càng mất mình, bị ngoại cảnh lôi kéo. Cho nên tụi con ngày nào, giờ nào cũng phải thường thấy, thường biết rõ từng tâm niệm, chạy theo cảnh, hay không theo đều phải biết, đó là phản quan. Còn hồi quang là nhớ tánh hằng hữu của mình, không cần thấy chi tiết, chỉ cần nhớ rõ.
Hai câu nói nghe qua thấy như tương tự nhưng sự thật khác nhau. Phản quan tự kỷ dễ tu hơn. Còn hồi quang phản chiếu hơi khó, thuần thục lắm mới làm được, nó có tánh cách kỳ đặc, thiết yếu cho người tu Thiền tông. Lối tu này dành cho hàng thượng căn như Lục tổ Huệ Năng hay Tổ Lâm Tế… Các Ngài đã kiến tánh rồi nên đi đứng nằm ngồi không rời Tự tánh, vì vậy các Ngài không cần phương tiện. Có khi Lục Tổ thấy chúng ngồi thiền, Ngài tới kéo lỗ tai thổi “phù”. Ngài Lâm Tế cũng không thích ngồi thiền.
Vậy các Ngài tu cái gì? Đó là đang hồi quang phản chiếu. Nơi sáu căn các Ngài sáng rỡ mà không phóng chạy ra ngoài, cho nên Tổ Lâm Tế nói: Các ngươi tìm cái gì? Người đang nghe pháp đây là ai? Ngài chỉ cho chúng ta biết nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của mình hiện có cái chân thật. Sống được với cái đó tức là đang thiền. Như thế, ai đến trình độ này ngồi giữa chợ cũng thiền. Nội tâm đã trong sạch, yên lặng hết nên dùng lối hồi quang phản chiếu, đi đứng nằm ngồi biết mọi cảnh bên ngoài mà không dính một điều gì, thấy như mù, nghe như điếc, tự tại vô ngại.
Còn nếu bị dính, bị lôi ra ngoài như cá mắc lưới đang vùng vẫy, càng vùng vẫy càng mắc thêm nữa thì xin phản quan tự kỷ giùm, thấy từng niệm nên không chạy ra ngoài, như vậy dễ hơn. Người xưa sống với hồi quang ngồi thiền là dư, còn tụi con phóng quang quá, nên bắt ngồi thiền để quán chiếu lại mình, thấy rõ từng phần, bớt đuổi theo bên ngoài, bớt chấp trước. Nếu cứ để tự do, bắt chước những vị quen tu hồi quang phản chiếu, tụi con sẽ phóng mãi đến mất luôn cả mình! Hiểu rồi mới thấy tại sao chư Tổ có vị tán thán ngồi thiền, có vị không thích ngồi thiền.
Như vậy khi tu thiết yếu là phải xoay lại mình. Chính ngài Điều Ngự Giác Hoàng cũng ứng dụng phản quan tự kỷ qua câu nói của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ở đây chúng ta dùng phản quan nhiều hơn. Chỉ người nào triệt ngộ rồi, nghĩa là đi đứng nằm ngồi không quên mình mới dùng hồi quang được, còn nếu quên mình thì khoan dùng.
Tụi con phải biết tường tận để trong sự tu thấy ai ứng dụng được lối nào mình biết họ tu tới đâu. Không nên cho rằng mình ngồi thiền giỏi, thấy ai không ngồi thiền liền chê bai e có khi bị lầm. Nếu người ta sống được hồi quang phản chiếu thì đâu cần ngồi, ở giữa chợ cũng là thiền. Còn mình chưa được vậy mà lạm dụng hành động đó sẽ dễ bị trầm luân đau khổ.
Cho nên hiểu tường tận thì trên đường tu có hướng đi cụ thể, dù nghe ai nói hoặc chỉ trích gì chúng ta cũng không sợ sệt. Nếu không hiểu, khi mình đang ngồi thiền lại nghe nói Lục Tổ thấy người ngồi thiền xách lỗ tai thổi, sẽ hoang mang.
Như vậy ngồi thiền đúng hay như Lục Tổ là đúng? Nếu được như Lục Tổ thì làm như Ngài được, vì khi nghe giảng kinh Kim Cang Ngài liền triệt ngộ, thấy cái chân thật hiện tiền hoài không mất, như vậy ngồi thiền cũng là dư. Còn mình nghe hoài không ngộ, nên phải ngồi lại cho lóng lặng, lắng sâu, đến phút giây nào đó thức tỉnh, giác ngộ, hoặc phải nhờ đọc kinh, nghe giảng từ từ rồi sẽ thấy.
Hôm nay Thầy giản trạch rõ, để tụi con biết căn nguyên và ý nghĩa thiết yếu của hai câu nói này. Chỉ hai câu đó thôi mà là nền tảng của tất cả người theo đạo Phật. Tụi con nắm vững để trên đường tu không lầm lẫn.
Ngày 28-11 Bính Tý (7-1-1997)
Hôm nay thỉnh nguyện Thầy có ít lời nhắc nhở, giúp tụi con tránh khỏi những lỗi lầm trên đường tu.
Người tu phải dẹp bỏ tình riêng để lo cho đạo nghĩa chung, không nên vì tình cảm riêng, thương nhớ riêng mà quên cái chung. Khi tụi con bước vào đạo, thân thiết nhất là tình gia đình, cha mẹ anh em tụi con còn gạt qua một bên, tìm tới đạo siêu thoát để tự độ và độ cho người. Vậy là tụi con đã dẹp bỏ cái riêng là tình cha mẹ anh em để đạt đến cái chung là tình nhân loại.
Tụi con nghĩ mình mê lầm, chúng sanh mê lầm, nên ráng tu để được giác ngộ và độ tất cả chúng sanh, trong ấy có cả cha mẹ thân nhân của mình. Tâm đó bao la gồm hết tất cả, không sót một ai. Người tu từ tâm niệm rộng rãi thênh thang đó mới thực hiện đúng ý nghĩa một con người vì đạo, vì độ tất cả chúng sanh. Nếu tu rồi vẫn nặng tình riêng cha mẹ, anh em, bạn bè thì cái chung không thể làm được.
Không có tâm rộng rãi bao dung lo cho tất cả chúng sanh thì không bao giờ tụi con tu đạt được kết quả tốt, vì đó là tâm ích kỷ nhỏ nhen. Tâm nhỏ nhen làm sao làm được việc lớn, làm sao thấy được đạo lớn. Nên chúng ta phải bỏ cái nhỏ để được cái lớn. Đức Phật từ bỏ cha mẹ, vợ con, thân thuộc và bỏ cả đất nước để lo cho hết thảy chúng sanh. Từ tâm rộng rãi đó Ngài mới đạt đạo, mới đi giáo hoá chúng sanh được.
Ngày nay nhìn lại chúng ta thấy Ngài là người Ấn Độ, mình là người Việt Nam nhưng vẫn cung kính lễ bái Ngài. Không riêng nước Việt Nam mà cả nhân loại đều quí kính Ngài. Như vậy có tâm thênh thang rộng lớn mới có thể chứng được đạo lớn và mới làm lợi ích cho tất cả chúng sanh nhiều đời nhiều kiếp. Ôm tâm ích kỷ, nhỏ mọn sẽ không bao giờ đạt được đạo lớn. Không đạt đạo lớn thì không làm lợi ích cho tất cả chúng sanh được.
Tụi con nghiệm kỹ, nhìn từng trường hợp nhỏ sẽ thấy người nào đi tu mà còn tâm ích kỷ hẹp hòi khó đạt được đạo. Ai đi tu nghĩ tới mọi người, vì ngộ đạo để chỉ dạy cho chúng sanh cùng được giác ngộ, người đó có thể làm được việc lớn. Tâm niệm rộng rãi đó, chúng ta phải học, phải noi theo, còn những cái ích kỷ nhỏ mọn mình nên dẹp bỏ. Như vậy tụi con mới đạt được sở nguyện trên đường tu hành.
Tụi con thấy không có một ông Tổ, hay một vị đạo đức cao nào lại có cái nhìn theo tâm niệm riêng tư. Các ngài lúc nào cũng nhìn theo việc lớn. Nếu người có tâm niệm riêng tư thì không làm được việc gì lớn. Hiểu như vậy, trên đường tu tụi con phải xả bỏ ích kỷ cá nhân, ích kỷ thân tộc, ích kỷ của người cùng quê hương xứ sở, chỉ mong làm sao cho tất cả mọi người đều được an vui, đều được hiểu đạo. Đó là cái chung, mình ráng lo, ráng làm.
Có tâm niệm rộng rãi thì đời tu tụi con sẽ cao thượng hơn nhiều. Nếu ôm ấp những ích kỷ riêng tư, gia đình, huynh đệ thì không bao giờ đạt được chí nguyện cao cả của người xuất gia. Nhớ và hiểu như vậy, đường tu tụi con sẽ có kết quả tốt, bằng không kết quả sự tu cũng nhỏ bé theo tâm niệm hẹp hòi của tụi con.
Đó là điều Thầy cần nhắc nhở, tất cả tụi con hiểu và nhớ để ứng dụng trong cuộc sống này.
Ngày 27-12 Bính Tý (4-2-1997)
Trong Thiền viện chúng ta trên dưới năm mươi người, so với các nơi cũng không phải là số nhỏ nên việc điều hành chúng tất nhiên không dễ dàng. Vì thế Thầy giao cho tất cả tụi con một trách nhiệm nặng nề.
Tất cả chúng hiện nay từ các nơi qui về, sự huân tập có nhiều sai biệt. Tụi con đến đây để cùng nhau tu hành, nhất là sống theo nề nếp lục hoà do Thầy vạch ra, đương nhiên trong chúng sẽ có những điểm không đồng với nhau. Không đồng tất có phiền hà, chỗ này vui chỗ kia buồn, người này hờn người kia trách, không thể nào tránh khỏi. Nhưng tất cả tụi con, từ ban Lãnh chúng đến toàn chúng phải thấy trách nhiệm của mình là làm sao giúp cho huynh đệ yên ổn tu hành, đạt được kết quả.
Bao nhiêu năm rồi tụi con tu kết quả không được là bao, giờ đây đến Thiền viện Trúc Lâm này muốn thực hành cho có kết quả. Như vậy trong lúc quyết tâm tu tụi con phải làm sao cho mọi người trên dưới đều an ổn để cùng tu với nhau, đó là lợi ích lớn. Lợi ích này không riêng cho một người nào mà chung cho toàn chúng. Muốn vậy tụi con phải chung lo góp sức, kẻ việc này, người việc nọ. Ai lãnh trách nhiệm gì ráng làm cho chu đáo. Đó là điều rất thiết yếu.
Tụi con nên nhớ hai điều:
Điều thứ nhất là thông cảm nhau. Vì tất cả tụi con tuy cùng chung lý tưởng, sở nguyện, nhưng ý tứ riêng tư, tâm hành sai biệt. Những sai biệt đó, nếu tụi con không cảm thông được, sẽ khó dung hoà chung hợp với nhau. Sống chung trong Thiền viện như thế này, mỗi người phải tự xét lại, mình có những điều dở, huynh đệ cũng có điều dở, người này có điểm hay, người khác cũng có điểm hay, nên tụi con thấy cái gì đúng thì học tập, cái gì sai khuyên nhắc nhau, khuyên rồi bỏ qua không để lòng.
Tâm niệm chúng ta rất dễ dính mắc, hễ buồn giận thì dính mắc lâu, làm cho mình nghĩ không tốt về người này người nọ. Tụi con tập, thấy ai sai nhắc rồi bỏ qua, không hờn không trách, nhất là đừng nhắc tới nhắc lui gây phiền hà cho mình và cho người chung quanh. Người được nhắc cũng nên ý thức rằng mình chưa là Thánh, nên khi có lỗi được người lớn hoặc người nhỏ thấy nhắc, mình phải ráng sửa, không nên buồn giận.
Khi tụi con khởi niệm buồn phiền là tự mình làm chướng ngại đường tu, cũng làm chướng ngại cho huynh đệ. Vì khi buồn nhau thì gặp mặt không vui, cử chỉ không đẹp, sanh ra phiền não lủng củng với nhau. Vì vậy Thầy nhắc tụi con, sống phải biết bao dung, cảm thông nhau. Đừng bao giờ nghĩ mình đúng, người ta sai; đừng cho rằng cái đúng của mình là tuyệt đối, cái sai của người cũng tuyệt đối. Được như vậy sống chung với nhau mới lâu bền, sự tu không bị trở ngại.
Thứ hai là tha thứ cho nhau. Tụi con thấy không ai tránh khỏi lỗi lầm, từ người nhỏ đến người lớn. Thỉnh thoảng mình cũng có sơ sót hoặc vô tình hay cố ý. Nên khi có sơ sót tụi con nhắc nhở cho nhau, nhắc rồi bỏ qua, đó là cảm thông, là tha thứ. Đừng gút mắc hay chất chứa trong lòng. Được vậy dù người lãnh đạo ở vai trò chịu trách nhiệm với chúng cũng không phiền hà, sự tu hành không trở ngại.
Chúng cũng thế, khi được nhắc, mình phải vui vẻ làm trách nhiệm của mình. Lúc người lớn có sai sót mình bỏ qua, vì không ai là Thánh, chỉ là người phàm đang tu với nhau. Người có trách nhiệm gọi là người lớn, không có trách nhiệm gọi là người nhỏ. Tất cả đều đang tu chớ chưa ai xong việc.
Tóm lại, hai điều Thầy dạy tụi con là phải sống làm sao trên dưới đều cảm thông nhau. Người lớn la rầy người nhỏ thì người nhỏ cảm thông đó là vì trách nhiệm mà rầy chớ không thù ghét gì, nên không buồn phiền, trách cứ. Cũng vậy, người lớn có bổn phận nhắc nhở người nhỏ, thấy điều gì sai quấy thì rầy, biết rằng người đó vì chưa hiểu hoặc chưa thấu đáo được vấn đề nên có những sai sót, rầy rồi bỏ qua, thông cảm, tha thứ nhau.
Được như vậy, tụi con sống trong Thiền viện ngày càng tốt đẹp, sự tu hành càng tiến, chẳng những lợi cho tụi con mà còn cho huynh đệ, đồng thời cũng lợi ích cho tất cả Phật tử đang hướng về mình. Khi Phật tử đến các Thiền viện thấy không khí vui tươi chan hoà, trên dưới yêu thương, giúp đỡ nhau tiến tu, người ta sẽ phát tâm, đó là cơ duyên tốt. Tuy tụi con chưa đi hoá đạo mà đã cảm hoá được người rồi, lại còn giữ tròn trách nhiệm là một thành viên mẫu mực. Đó là tụi con đóng góp cho đạo, làm nền tảng cho Phật pháp được lâu dài.
Thật tình Thầy rất lo không biết ngày mai Phật pháp ra sao? Người tu của mình quá hời hợt, bê tha, nên Phật tử buồn trách, than thở. Ở đây Thầy cố gắng tạo điều kiện thuận lợi để tụi con tu, ráng giữ nề nếp, tập có đức hạnh. Ngày sau tụi con làm chỗ trông cậy, tin tưởng của Phật tử, là mục tiêu cho Phật tử hướng đến để họ không chán nản, đó là mình duy trì được Phật pháp.
Vậy nên Thầy mong tất cả tụi con từ trên xuống dưới đều đầy đủ tâm từ bi, hỉ xả. Sống trong đạo, tụi con luôn luôn đem lại niềm hoà kính, tin vui cho nhau, cùng nhau sách tiến tu hành, đạt được kết quả như nguyện. Đó là chỗ mong mỏi của Thầy.
Ngày 28-1 Đinh Sửu (6-3-1997)
Đây là buổi thỉnh nguyện đầu năm, những người có lỗi tự xét thấy thành tâm sám hối, đó là điều tốt. Tất cả lỗi lầm mình ráng sám hối cho tiêu trừ thì trên đường tu không bị chướng ngại. Đó là bước đi lên của người quyết chí tu hành. Tụi con đừng nghĩ mình có lỗi là xấu. Có lỗi mà giấu giếm mới xấu, còn có lỗi biết nhìn nhận và khi được chỉ lỗi không buồn, không trách, biết sửa đổi là càng hay càng tiến. Đó là nhắc tụi con phần thỉnh nguyện.
Bây giờ Thầy nhắc chung việc tu hành. Năm này là năm Đinh Sửu mà Thầy lại nói chuyện con rắn. Thầy thường nhắc Phật tử ráng tu để đuổi mấy con rắn ra. Bữa nay Thầy nhắc cho tụi con luôn.
Trong kinh Di Giáo, Phật dạy các ông Tỳ-kheo: Trong thất các ông có rắn độc, nếu không đuổi ra, các ông có ngủ yên được không? Nếu muốn ngủ yên phải đuổi rắn ra. Rắn độc đó là tam độc tham, sân, si. Rắn sân Thầy đặt là rắn hổ lửa, rắn tham là hổ mây, còn si là rắn hổ đất. Rắn hổ đất ở trong hang, rắn hổ mây ở trên cây, còn rắn hổ lửa rất hung dữ.
Nếu ba con rắn độc đó đang bò loanh quanh trong thất, tụi con có yên tâm nằm ngủ hoặc nằm chơi không? Chắc chắn không bao giờ yên, cứ hồi hộp, lo sợ nhìn chừng nó hoài. Hiện tại nơi nội tâm tụi con có ba con rắn đó hay đã đuổi ra hết rồi? Con nào mạnh nhất? Kiểm tra lại con nào cũng có mặt cả! Ngày nào giờ nào còn ba con rắn độc ẩn náu trong nhà mình là còn bất an. Tụi con muốn an ổn, cầu Phật gia hộ và chư Tăng chư Ni giúp cho mình được an, mà ba con rắn chưa đuổi ra thì có thể an không? Không bao giờ an được!
Như vậy việc tu của chúng ta là phải thấy tai hoạ đang chờ chực, đó là ba con rắn độc đang rình mình. Nếu muốn tu tiến, muốn được thảnh thơi, phải đuổi ba con rắn độc đó ra. Khi nào đuổi ra hết rồi mới thật an vui, nếu còn một con cũng chưa yên. Vậy tụi con kiểm lại cho chín chắn coi, có đứa nào đuổi ba con rắn ra hết không? Chưa có ai cả! Đứa nào cũng còn nuôi! Như vậy tụi con khó được bình an, phải không? Thí như chị em đang nói chuyện vui, có người nào xen vào một câu trái ý thì sao? Có nổi giận nói bậy rồi mai mốt đi sám hối không?
Ba con rắn luôn chực sẵn nên muốn tu cho an ổn phải đuổi rắn ra khỏi nhà. Với các Phật tử, Thầy khuyên họ năm nay đuổi con rắn hổ lửa ra trước, còn hai con rắn kia để dành năm tới đuổi nữa. Thầy hỏi Phật tử có dám hứa với Thầy không? Đa số đều hứa. Còn tụi con dám hứa không? Trong năm này chỉ đuổi một con thôi.
Người ta hỏi Thầy làm sao đuổi nó ra? Họ đồng ý đuổi, nhưng muốn biết làm thế nào để đuổi. Đối với Phật tử, Thầy dạy đơn giản hơn tụi con. Bây giờ Thầy dạy tụi con đuổi bằng cách khi nghe người ta khen, không có sự thật thì không nên mừng, người ta chê không đúng sự thật cũng không nên buồn.
Thầy thường kể cho tụi con nghe chuyện ông Tỳ-kheo bị người ta nói xấu đòi đi tự tử. Thọ thần bảo:
– Nếu ông chưa chứng quả A-la-hán mà người ta nói ông chứng quả A-la-hán, ông có mừng không?
– Không mừng.
Thọ thần hỏi tiếp:
– Người ta nói ông tạo tội đoạ địa ngục nhưng ông không hề tạo tội đoạ vậy ông có buồn không?
– Không buồn.
– Thế thì tại sao người ta nói xấu ông, ông lại đi tự tử?
Tất cả chúng ta có cái bệnh không biết suy xét. Ai nói gì không đúng sự thật liền nổi tức lên. Khi mình cự với họ là xấu hay tốt? Chúng ta không làm xấu, nếu người ta nói mình làm xấu chỉ cười thôi. Mình không phạm tội, người ta nói phạm tội cũng cười thôi, xem như đó là lời nói chơi, không thành vấn đề chớ có gì đâu.
Nếu mình không xấu, nghe người ta nói xấu liền nổi tức lên, đó là mình xấu thật. Như vậy là không khôn chút nào. Tất cả những lời người ta khen hoặc chê mình, nếu đúng thì mình sửa và mang ơn họ, không đúng chỉ cười thôi, không nên buồn giận. Như vậy con rắn sân hổ lửa sẽ không tác quái. Đó là cách trị rắn hổ lửa, không cần ráng nhịn hoặc uống nước cho nguội, chỉ dùng trí xét kỹ, không để cơn sân lôi cuốn.
Bây giờ Thầy nói theo thứ tự: Con rắn hổ lửa từ rắn hổ mây xúi. Rắn hổ mây từ rắn hổ đất xúi. Con hổ đất chui dưới đất ở trong hang không dễ thấy. Rắn hổ đất là si, nó ẩn náu mình không thấy, nhưng từ si mới có tham và sân. Nếu đuổi được rắn hổ đất đi thì hai con rắn kia theo đó mà đi hết.
Muốn nó đi phải làm sao? Trong nhà tối muốn sáng chỉ cần thắp cây đèn lên là bóng tối không còn. Nếu tụi con cầm gậy cầm cây đánh đuổi bóng tối, bóng tối có đi không? Chỉ có cách thắp đèn lên liền tan bóng tối. Cũng vậy, chỉ có trí tuệ mới phá được si mê. Nhưng trí tuệ ở đâu? Mỗi ngày tụi con đều tụng “chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”, nghĩa là tất cả cái si đều từ bản ngã mà ra. Bản ngã không thật lại chấp là thật, đó là si. Do si mới có tham. Từ tham có sân.
“Chiếu kiến ngũ uẩn giai không” nghĩa là soi thấy thân năm uẩn không có thật thể, không cố định. Không thật thể là đứng về lý nhân duyên: thân năm uẩn là tướng duyên hợp, do từng phần ráp lại nên không có tướng thật. Không cố định là nói theo lý vô thường: thân này luôn luôn biến chuyển. Như vậy, thân này vừa là duyên hợp hư dối, vừa là vô thường biến chuyển, chỉ là một dòng sanh diệt không thật, không bền, không cố định. Nếu chúng ta chấp nó là thật, bền, cố định, đó là si mê.
Khi chúng ta chấp thật, thấy món ăn ngon muốn ăn là tham ăn, thấy hình tướng đẹp ưa thích là tham sắc. Tất cả cái tham đều qui tụ về mình, vì nghĩ mình quí nên muốn được cái này, cái kia cho mình. Nếu thấy mình không thật, không quí, mọi ưa muốn theo đó hết, hết tức không tham, không sân. Như vậy không chấp ngã thì tham sân theo đó hết, đó là lẽ thật. Cho nên trong kinh nói “độ nhất thiết khổ ách” nghĩa là thấy năm uẩn không thật thì qua hết khổ nạn.
Tụi con tu mấy năm rồi? Mười, hai mươi năm mà thấy thân này thật hay không thật? Ngày nào cũng tụng kinh ra rả nhưng vẫn thấy thật. Còn thấy thật thì tham, sân không bao giờ hết được. Nếu thấy rõ thân năm uẩn không thật, thấy rõ như ban ngày tụi con tu dễ như trở bàn tay. Bởi vậy Phật dạy lý vô ngã, học Phật trước phải thấu suốt lý vô ngã. Thấy ngã không thật thì mọi thứ được giải quyết một cách dễ dàng. Còn thấy ngã thật tất cả đều là khó khăn. Lý này hết sức sâu xa, cao siêu. Tụi con thâm nhập được lý này sẽ tự tại, thảnh thơi.
Tụi con nhớ cửa thiền là cửa không, tức cửa trí tuệ Bát-nhã, là thấy thân không thật, là vô ngã. Đó là cửa đi tới giải thoát sanh tử. Nếu chưa thấy được như vậy là chưa vào cửa giải thoát sanh tử. Vấn đề rất rõ ràng. Bởi vậy tụi con học đạo, hiểu đạo là điều tốt, nhưng rồi phải hành đạo, quán chiếu tường tận thân này là hư dối, không thật.
Ngày xưa Phật dạy các Tỳ-kheo, khi rảnh phải ngồi dưới cội cây hoặc chỗ vắng để quán chiếu lại mình, thấy cho tường tận thân mình, đó là đi trên đường giải thoát. Nếu không quán chiếu, không thấy rõ thân mình đúng như thật thì trên đường giải thoát chưa tiến. Dù ở chùa mười năm, hai mươi năm cũng không tiến được. Đó là lẽ thật. Tăng Ni khi đi tu ai cũng mong cầu giải thoát nhưng sau lại tạo tội gây nghiệp, đó là vì không thấy được thân này là vô ngã, nên vẫn tiếp tục con đường thế gian phàm tục.
Vậy tụi con nhớ thấy cho tường tận thân tâm mình. Những giờ phút toạ thiền, thấy ý niệm lăng xăng, không thật; còn khi ra ngoài thấy rõ thân người duyên hợp như thế nào. Được vậy tu sẽ có kết quả chắc chắn, không nghi ngờ. Ngược lại, tu rất lâu tiến. Đây là lời nhắc nhở của Thầy, mong tất cả cố gắng.
Ngày 28-2 Đinh Sửu (5-4-1997)
Trong buổi thỉnh nguyện, những người có lỗi tự ra sám hối, đó là điều tốt. Hôm nay Thầy nhắc tụi con hai điểm.
Thứ nhất, ở đây Thầy chủ trương chúng ta tu phải có đủ hai mặt: giải và hạnh. Giải là do học kinh và đọc sách mà hiểu được lý đạo. Hạnh là sự thực hành, làm thế nào để giữ tròn tư cách một người tu. Dầu cho tụi con hiểu đạo sâu rộng tới đâu mà hạnh không hợp với người tu thì lời nói cũng theo đó mất giá trị. Nếu tụi con hành đúng, dù nói dở người ta cũng tha thứ được, vì đối với người tu, Phật tử nhìn về mặt đức hạnh nhiều hơn.
Tuy nhiên, Thầy nói như vậy không phải bảo tụi con dốt nát không biết gì. Chúng ta học hiểu rồi ứng dụng tu. Từ chỗ hiểu, tụi con ứng dụng tu thành công và có kết quả, như vậy hạnh giải được đầy đủ. Nếu chỉ hiểu mà không ứng dụng tu, đó là hiểu suông, hiểu rỗng, không có lợi ích gì cho đời tu của mình.
Sự hiểu của tụi con là ngọn đuốc soi sáng con đường đang đi. Nếu có ngọn đuốc sáng mà mình không đi thì ngọn đuốc đó trở thành vô nghĩa. Hoặc có đuốc sáng mà chân mình què cũng không lợi gì. Cho nên cả hai phải tương ứng nhau. Giải là ngọn đuốc sáng. Hạnh là hai chân vững mạnh đi từ con đường tối tăm ra chỗ sáng suốt. Trong đời tu tụi con không nên xem thường sự học hiểu, cũng không nên xem thường sự thực hành tu tập. Hai việc phải đi đôi.
Ở đây Thiền viện đặt nặng tu nhiều hơn. Những gì mình hiểu phải cố gắng ứng dụng cho được. Điều gì có trong Thanh qui hoặc những lời Phật Tổ dạy, mình thấy hay phải thực hành cho được. Như vậy đời tu của tụi con sẽ có kết quả tốt.
Tụi con nên nhớ việc tu của mình không phải tầm thường. Người xuất gia vượt qua hết tâm tình phàm tục, làm việc siêu xuất thế gian nên gọi là phi thường. Muốn làm con người phi thường không phải dễ. Phải sáng suốt, nhận định cho chín chắn, phải bền chí và có tâm lâu dài.
Vậy trước tiên, người tu thiền phải có nhận định sáng suốt. Những gì Phật Tổ dạy, quí Thầy nhắc tụi con phải thấy cho tường tận để ứng dụng tu thì mới có kết quả tốt. Nhiều khi Phật Tổ dạy, quí Thầy nhắc một đàng, tụi con làm một ngả, dù tu lâu bao nhiêu năm cũng không có kết quả. Bởi vậy khi tụi con nghe những lời nhắc nhở của quí Thầy, phải nhận định cho kỹ càng, chín chắn để ứng dụng tu. Làm sao đời tu của mình không bị các chướng che lấp, tất cả những gì dở, làm ngăn trở sự tu đều phải tan biến trước trí tuệ sáng suốt. Đó là một bước quan trọng trên đường tu của tụi con. Như trong Bát chánh đạo của giáo lý Nguyên thủy, chánh kiến và chánh tư duy đứng đầu. Ban đầu phải có trí nhận định cho thấu suốt, đúng đắn, bằng không tụi con tu sẽ chậm tiến, lệch lạc, không có kết quả. Đây là điều rất thiết yếu.
Ngày xưa khi Thầy tự tu, bản thân Thầy có những kinh nghiệm riêng, thấy có kết quả đúng như mình mong muốn. Sau đó, Thầy dạy lại cho một số người tu cũng được tiến, tuy nhiên vẫn có người còn rất chậm. Gần đây thấy trong hoàn cảnh tốt, tụi con cũng như bên quí Thầy tu hành có tiến, Thầy rất mừng. Rõ ràng là khi hoàn cảnh thuận lợi tụi con tu tiến, nhất định không nghi ngờ. Tuy nhiên, những ai nhận định còn mờ mịt hoặc nhận định chưa rõ ràng thì trên đường tu chậm tiến hơn.
Bởi vậy Thầy nhắc lần nữa, tụi con phải học kinh, đọc sử, nghe Thầy giảng, nhớ cho thật kỹ những điểm then chốt trong sự tu hành để ứng dụng tu cho đúng. Ứng dụng đúng tụi con tu sẽ tiến, đó là điều lâu nay tụi con không ngờ.
Thứ hai, tụi con phải có lập trường kiên cố. Dù trên đường tu bị trở ngại vì thân bệnh, hoặc do tâm xao lãng, hoặc bị duyên trần làm cho yếu đuối, tụi con vẫn phải cứng cỏi vững vàng, đừng để nó chi phối. Thân tụi con có bệnh nhưng tinh thần mạnh mẽ vẫn lướt qua được, còn thân đau mà tinh thần yếu sẽ càng đau thêm. Phải cương quyết, liều chết trên đường tu hành, miễn là chúng ta được sống trong đạo, đang tinh tấn tu, dù ngày mai có ngã ra chết mình cũng vui, đó là cái chết tốt để mình vươn lên, không lui sụt.
Nếu tụi con vì một hai lẽ bệnh duyên hoặc ngoại cảnh mà thối tâm và sự tu hành bị chướng ngại, đó là thiệt thòi lớn của tụi con. Việc làm của mình là phi thường thì phải có ý chí mãnh liệt cương quyết, không thể nào yếu đuối, nhút nhát mà thành công được. Tụi con phải liều chết liều sống, được vậy sự tu sẽ có kết quả không nghi ngờ.
Thứ ba, dù có ý chí mãnh liệt đến ngất trời, nhưng nếu ý chí đó giống như lửa rơm thì chỉ cháy phừng phừng rồi tắt, chớ không lâu dài. Bây giờ người ta hay dùng từ đột xuất, nghĩa là những công tác qua một đợt rồi thôi, không kéo dài. Cái gì đề ra mà không bền bỉ theo dõi thì khó thành công. Ở đây tụi con cần có ý chí cứng cỏi vững mạnh và một tinh thần bền bỉ, dù cho gặp cảnh gì đi nữa cũng phải nguyện tu chừng nào sáng đạo mới thôi, chớ không tu lừng chừng lấy có.
Chúng ta đi tu là hi sinh cuộc đời, hi sinh tất cả người thân của mình để làm việc lớn. Nếu làm nửa chừng bỏ cuộc thì uổng đi một đời và cô phụ lòng tốt của cha mẹ, thân nhân, của đàn-na thí chủ. Vậy tụi con phải lập chí bền vững, lâu dài, dù cho hoàn cảnh nào cũng không chán, không sợ, không lùi bước. Đó là ý chí mạnh và tâm bền vững.
Trong luật Phật dạy không nên “nhất bộc thập hàn”, là một ngày nắng mười ngày lạnh, tu như vậy không bao giờ có kết quả. Ở đây Thầy tạo duyên cho tụi con tu, ngày nào cũng như ngày nấy công phu đều đặn, không vì những duyên bên ngoài làm dở dang, không bị khách khứa gây trở ngại, cũng không bị hoàn cảnh thiếu thốn khiến lo âu. Chỉ cần có một lập trường thật bền thật vững là tụi con tu có kết quả.
Thầy đã lo mọi chuyện chung quanh để không có gì làm phiền hà tụi con, nếu sự tu của tụi con được tiến đều đều, dù chậm hoặc vừa phải, cũng sẽ có ngày thành công. Còn tu khi nhanh khi ngừng thì cái tiến đó không bền, không bảo đảm. Như vậy nếu hoàn cảnh tốt mà tụi con không có lập trường, không có ý chí rồi cũng sẽ dở dang.
Cho nên tất cả phải có lập trường thật vững, ý chí thật bền, ngày nay không được thì ngày mai, ngày mai không được qua ngày mốt, năm nay không được sang năm tới, cứ như vậy tiến hoài. Nhất là mình có sự giản trạch đúng đắn, được sự nhắc nhở hằng tháng, hằng ngày của quí Thầy, cái gì sai liền sửa, như vậy trên đường tu tụi con sẽ có kết quả tốt không nghi ngờ.
Tụi con tu có kết quả, mai kia mới làm lợi ích cho nhiều người được. Nếu tu không tốt, không kết quả gì, sau này có chùa, có bổn đạo, dạy đệ tử cũng không đi đến đâu. Tu không giác ngộ tức vẫn còn mê, mê thì dạy ai, hướng dẫn ai? Có dẫn dạy cũng chỉ là mê thôi. Ngày nay có những người tu không đúng chánh pháp, bịa ra những chuyện huyền bí, cúng kính lôi thôi, chỉ vì lợi dưỡng bày biện đủ thứ. Bởi vậy, tụi con tu phải ráng nắm vững chánh pháp, thấy rõ được đường đi của mình, đồng thời phải có những bước tiến dài xa, khi nhìn lại thấy không uổng một đời tu hành. Mai kia tụi con có làm Phật sự, hướng dẫn cho người mới đúng chánh pháp.
Tóm lại Thầy mong tất cả tụi con vào đây, đầu tiên phải có trí tuệ giản trạch cho đúng cho tinh tế, để sự thực hành không bị sai lạc. Thứ hai là lập trường phải thật vững, dù khó khăn nhọc nhằn, tụi con cũng không hề lay chuyển. Thứ ba là phải có ý chí bền bỉ lâu dài, đừng để nay tiến mai lùi, khi vui khi buồn, như vậy không đến nơi đến chốn được.
Mong tụi con cố gắng!
Ngày 28-4 Đinh Sửu (3-6-1997)
Thỉnh nguyện kỳ này tốt, ít có lỗi lầm. Nếu mỗi ngày toàn chúng đều cố gắng tinh tấn tu, thương yêu, hoà hợp nhau, không có gì xảy ra, đó là tụi con tu hành tinh tấn, gây uy tín cho Thiền viện.
Bây giờ Thầy nói vài vấn đề cho tụi con nghe. Câu chuyện nóng bỏng nhất là cách đây một tuần, Thầy đang ở trên thất, nghe điện thoại của một Phật tử thành phố, con ông Thái Nguyện – trưởng đoàn Thái Tuệ – báo tin:
– Thưa Hoà thượng, ba con ngồi thiền đến hôm nay là ba ngày ba đêm rồi không xả, không biết có nguy hiểm không, xin Sư ông dạy cho con.
Thầy bảo:
– Con ra chỗ ba con ngồi thiền, nhìn coi mặt hồng hào hay tái mét, nếu mặt hồng thì không có gì.
Nó ra ngoài nhìn rồi trả lời:
– Mặt ba con hồng lắm, ngồi thẳng bon như vách núi vậy.
Thầy nói:
– Nếu tới ngày thứ bảy ba con chưa xả, con gọi điện thoại ra Thường Chiếu, thưa thầy Trụ trì vô đem theo cái linh, đi vòng vòng rung cái linh, ba con sẽ dậy chớ không có gì, đừng sợ.
Thầy nói như vậy nhưng nó vẫn sợ, kêu ông anh làm kỹ sư ở riêng về hỏi:
– Bây giờ ba ngồi hoài không cục cựa nhúc nhích, làm sao?
Anh nó thấy cũng sợ, nghe Thầy nói muốn cho ba dậy thì lấy linh lắc, nó bèn lấy chuông đánh, ba nó xả ra.
Hôm Chủ nhật, ông Thái Nguyện ra lễ Thầy. Ông vui mừng lắm, thưa:
– Bây giờ có tu hành con mới đủ lòng tin, con mới thấy sự tu có những điều kỳ đặc. Hồi nào đến giờ con không dám tưởng.
Ông kể từ khi bắt đầu ngồi đến lúc xả là sáu mươi tám tiếng đồng hồ. Người cư sĩ quyết tâm còn tu được như vậy, đó là điều đáng mừng. Trên đường tu, dưới sự hướng dẫn của Thầy, Tăng Ni và Phật tử đều có tiến bộ đáng khích lệ. Đó là báo cho tụi con tin vui nhỏ.
Tụi con thấy cư sĩ mà tu như vậy, còn mấy người xuất gia mình lết bết quá, ngồi hai tiếng mà rên, tụi con thấy có xấu hổ không? Bởi vậy tụi con phải nỗ lực, dù cho đau nhức gì cũng ráng!
Ngày 28-5 Đinh Sửu (2-7-1997)
Hôm nay thỉnh nguyện Thầy nhắc một chút về lý vô thường. Kỳ này Thầy đi về Thường Chiếu gặp ba đám ma. Một là đám Hoà thượng Thiện Hào tám sáu, tám bảy tuổi gì đó. Hai là đám bà Sáu mẹ Thiện Trung tám mốt tuổi. Ba là về đây gặp đám ma của Trí Hạnh sáu mươi hai tuổi. Không mấy ngày chứng kiến ba đám tang.
Thông thường, người ta già rồi bệnh chết hoặc có người trẻ bệnh chết, nhưng ai cũng nghĩ cái chết là của người khác chớ không dính gì tới mình. Thật ra, cái chết của người là một cảnh tỉnh lớn cho mình. Đức Phật khi ra bốn cửa thành, Ngài thấy người già, biết rằng mình cũng sẽ già; thấy người bệnh, biết mình cũng sẽ bệnh; thấy người chết, biết mình cũng sẽ chết. Việc đó không riêng ai hết mà liên hệ mật thiết với mình, nên khi đức Phật thấy cảnh sanh già bệnh chết, Ngài thức tỉnh liền, đi tu và tu đến nơi đến chốn.
Ngày nay tụi con ít hôm nghe người này người nọ chết, hoặc là thân nhân hoặc là người ngoài. Mỗi khi thấy người già bệnh chết là một lần cảnh tỉnh cho mình. Đừng bao giờ nghĩ rằng mình không liên quan, vì chết là cái chung chớ không dành riêng ai. Nên Thầy khuyên tụi con, mình đã ý thức sớm cảnh khổ của cuộc đời là già, bệnh, chết, ái biệt ly, cầu bất đắc, oán tắng hội, ngũ ấm xí thạnh thì phải làm sao để tránh chớ không thể tiếp tục mãi, vì đó là cái khổ triền miên từ kiếp này sang kiếp khác, gọi là trầm luân muôn kiếp.
Đức Phật nói cái khổ lớn nhất là si mê không biết lối đi. Bởi vì mình chết rồi sanh trở lại, chịu bao nhiêu nỗi khổ rồi chết, rồi lại sanh, cứ như thế liên tục. Mang thân này muốn cho đừng đắm nhiễm thì tụi con phải nghĩ nó là thân tạm bợ, vô thường, hư dối. Nhớ đúng như vậy là tỉnh giác, nếu lầm tưởng thân thường còn là si mê.
Tất cả các thứ tham lam, lo tính những chuyện lâu dài muôn đời tụi con bỏ đi, chỉ cố gắng tu để đạt được đạo, để giải thoát sanh tử, đó là tối thượng. Chúng ta tu, nếu cứ nghĩ mình sống dai hoặc còn mãi là lầm lẫn. Từ chỗ lầm lẫn đó, khi bất chợt ngã đùng ra chết, tiếc thân này quá liền kiếm thân khác. Đời sau cũng tưởng mình sống dai rồi ngã ra chết, lại tiếc nuối kiếm thân khác. Cứ như vậy lẩn quẩn trong vòng luân hồi.
Bây giờ cần biết thân này là vay mượn, tạm dùng. Thầy thường dụ như ở ngoài biển cả chìm thuyền, vớt được gốc cây mục, biết là gốc cây mục tạm mượn để bơi vào bờ, đó là người khôn. Còn được gốc cây mục rồi cứ ôm hoài mà không cố bơi vào bờ là người ngu.
Thân này tạm bợ, đủ thứ vi trùng hoành hành quậy phá trong đó. Mình không làm chủ được, thân bị quậy phá tan nát rồi ngã ra chết. Bởi vậy, không có gì thật mà lầm tưởng là lâu dài chắc thật. Từ chỗ lầm đó sanh ra tất cả các bệnh tham, sân. Nếu chúng ta thấy rõ thân là tạm bợ không thật, thì lòng tham giảm, lòng sân giảm, đó là trí tuệ, là căn bản sự tu.
Như Trí Hạnh, kỳ giảng trước có mặt, nhưng trong buổi giảng ngày mai còn không? Đó là sự đánh thức cho tất cả tụi con, tụi con phải nhớ.
Không phải chuyện chết chóc là chuyện người ta, không dính dáng đến mình. Đừng bao giờ nghĩ như vậy. Một người chết là một đòn đau cho mình thức tỉnh. Thấy người chết biết mình cũng sẽ chết. Như vậy tụi con bớt tham lam, bớt nóng giận, bớt si mê.
Hôm nay Thầy nhắc cho tất cả tụi con nhớ để nỗ lực tinh tấn tu hành.
Ngày 28-7 Đinh Sửu (30-8-1997)
Qua thỉnh nguyện thấy trong chúng có những lỗi nhỏ đều ra sám hối, đó là điều rất tốt. Sau đây là lời Thầy nhắc nhở tất cả tụi con.
Ở đây, Thầy chịu trách nhiệm hướng dẫn, theo dõi sự tu của tụi con. Trách nhiệm của người hướng dẫn là gìn giữ bảo vệ cho tụi con tu được tròn cả hai mặt:
– Mặt thứ nhất là đối với cuộc sống hằng ngày, mọi hành động, mọi tư tưởng không lệch lạc, không sai lầm trong lúc sống với chúng. Đó là về tư cách, đức hạnh, phải nhắc nhở dạy bảo.
– Mặt thứ hai quan trọng hơn là khi tụi con tu có những hiện tượng gì lạ xảy đến, nội tâm tụi con hoặc mừng vui hoặc buồn sợ, hoặc có những điều lạ lùng, tụi con đem trình với Thầy. Thầy biết ngay từ buổi đầu sẽ dạy cho rõ đúng hay sai để tụi con biết mà sửa. Đừng sợ trình rồi Thầy nói chúng nghe xấu hổ. Nghĩ như vậy sau này thành bệnh.
Tụi con phải cẩn mật, trong lúc tu thường có hai trường hợp:
Người nào quyết chí, tu một cách thành khẩn, miên mật thì sẽ có kết quả. Đó là những hiện tượng khác lúc bình thường, mà hồi xưa tụi con chưa từng biết, bây giờ mới biết. Đây là Trí vô sư. Hiện tượng khác lạ này là điều tốt.
Lại có những trường hợp xấu người tu phải trải qua, như Ngũ ấm ma, gồm năm mươi thứ, mỗi ấm có mười loại ma. Những thứ ma đó người tu ít ai không bị lầm vì nó đổi thay thiên hình vạn trạng tùy theo sở thích từng người. Nhưng trong kinh Lăng Nghiêm có một câu đủ làm tiêu chuẩn để mình tu không sợ. Khi mỗi thứ ma hiện ra hình tướng gì đến với mình, Phật đều dạy rằng: “Nếu biết cái đó do tâm dằn ép của mình mà hiện ra thì là thiện. Nếu tự cho là mình chứng Thánh liền lạc đường tà.”
Như vậy tất cả những gì tụi con thấy trong lúc tu thiền, hoặc là hình ảnh Phật, Bồ-tát, hoặc là quái vật…, tụi con phải nhớ đó là do trong lúc tu, tâm mình bị dằn ép nên biến hiện ra chớ không phải từ ngoài đến. Nếu biết như vậy, tụi con không bao giờ lạc. Còn khi thấy những tướng lạ đó sanh vui mừng, hỏi ra huynh đệ không ai thấy hết rồi tưởng mình đã đắc đạo, tưởng mình chứng Thánh, đó là bệnh khó trị.
Bởi vậy người tu không hiểu rõ chỗ này, tu thiền rồi điên là tại như vậy, cứ mơ ước có thần thánh hoặc Phật, Bồ-tát đến, tưởng chừng như ở ngoài đến làm gì cho mình. Những người đó đều lạc vào đường tà. Chúng ta tu, tất cả những hiện tượng lạ đến, mình đều biết là do sức dằn ép từ nội tâm, là bóng nội tâm hiện ra chớ không phải ở ngoài, nhớ như vậy không bao giờ lạc. Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai, tụi con khi tu nhớ rõ mình toạ thiền để đạt được định. Định là sao? Là tâm lặng. Chúng ta ngồi thiền để tâm yên lặng thanh tịnh, đó là mục tiêu mình nhắm, còn những tướng lạ bên ngoài không phải là mục tiêu của mình, không phải chuyện của mình. Chúng ta ngồi thiền một giờ, hai giờ tâm yên tĩnh lặng lẽ là đúng, đừng cần thấy cái gì hết. Từ tâm thanh tịnh lặng lẽ đó, trí tuệ sáng ra. Thiền định như vậy là đúng. Nếu tụi con ngồi thiền nhớ chuyện năm trên năm dưới, rồi những hình ảnh ấy hiện ra, đó là sai. Cho nên, thật tình biết rồi không bao giờ bị lạc.
Thầy nhắc tụi con một lần nữa, mình ngồi thiền trọng tâm là được định. Định là không còn nghĩ, tâm không còn dấy khởi, vì nghĩ là động, động tức ngược với định. Không nghĩ không dấy khởi là tâm thanh tịnh. Tâm định thì tự nó sáng. Thí dụ: Tụi con đọc kinh sách có chỗ không hiểu, một hôm nào đó tâm được an định và chợt thấu suốt hết những chỗ trước kia không hiểu. Đó là do tâm định, Trí vô sư sáng tỏ.
Từ định sanh tuệ, điều đó Thầy kinh nghiệm rất rõ ràng, không nghi ngờ gì hết. Tụi con tu, muốn được trí tuệ không cần kiếm ở đâu, chỉ tâm an định thì trí tuệ sáng. Như đức Phật Thích-ca khi ngồi thiền dưới cội bồ-đề, tâm Ngài hoàn toàn an định thanh tịnh, vừa khởi nhớ lại quá khứ Ngài liền thấy vô số kiếp trước đã từng làm gì, ở đâu, đó là chứng được Túc mạng thông. Cái đó từ trong tâm mình chớ đâu phải ai tới ban phép cho để được thấy.
Bởi vậy, tu thiền, tụi con ráng cẩn thận dè dặt, đừng bao giờ mong những chuyện viển vông. Tụi con nhớ trách nhiệm của Thầy rất nặng, vì đường lối tu thiền hiện tại chỉ có Thầy là người đứng ra lãnh chúng và dạy chúng đông. Nếu trong chúng có người nào phát cuồng phát điên lên thì sao? Người ta sẽ tố Thầy dạy tu thiền điên. Đây là điều rất nguy hiểm, nên Thầy nhắc tụi con cẩn thận, trong khi tu phải nắm vững mục tiêu và nguyên tắc tu cho đúng.
Kinh Lăng Nghiêm có dạy rõ về Ngũ ấm ma. Thí dụ, nếu ngồi thiền thấy có ma nhăn răng hiện ở trước mặt, tụi con phải biết đó là do tâm dằn ép rồi hiện ra tướng lạ. Tướng lạ là từ tâm hiện chớ không phải từ ngoài đến. Nhớ như vậy thì không sợ, cứ ngồi yên giữ chánh niệm nó sẽ mất. Còn nói đây là ma nhát mình, hoảng quá bỏ chạy là điên.
Tụi con thấy điều quan trọng đó, nắm cho vững thì khi tu không xảy ra những chuyện tà vạy. Sở dĩ người ta nói tu thiền điên là do không nắm vững nguyên tắc đó, nên khi tu thấy cái gì theo cái đó. Thí dụ nghe trong hư không có tiếng nói, thọ ký cho con giác ngộ, mai mốt con sẽ thành Phật, làm giáo chủ gì đó, nghe thích quá tưởng tượng mình sẽ như vậy, rồi tin đó là thầy tới điểm đạo cho mình, sau nói bậy bạ lung tung. Hoặc nghe có Phật hay Bồ-tát đến thuyết kinh, rồi vừa đi vừa nói lảm nhảm với người đang thuyết pháp, lâu dần thành điên.
Như vậy, dù cho có Phật hiện, cũng biết là do nội tâm mình đè nén nên thấy vậy. Biết rõ do tự tâm hiện thì không mừng không sợ, nên không điên. Tụi con nắm vững nguyên tắc đó chưa? Phải thật vững mới được, đó là cái đáng ngại.
Tu cốt tâm an định chớ không cầu cái gì lạ. Có người ngồi thiền, thấy trước mắt mình phát sáng ra và có hào quang, đôi khi thấy được người và vật ở bên kia vách nữa, rồi tưởng mình được Thiên nhãn thông, tưởng như vậy là bệnh. Tất cả cái thấy đó không có gì quan trọng. Quan trọng là tu sao cho tâm mình an định, còn tất cả những hiện tượng xảy ra đều là việc bên ngoài. Khi tâm định mình sẽ sáng ra được những điều trước kia chưa hiểu. Tu như vậy sẽ không sai.
Hôm nay Thầy nhắc tụi con nhớ hai đặc điểm trong nhà thiền dạy: Một là theo kinh Lăng Nghiêm thì tất cả tướng hiện ra trong lúc ngồi thiền, nhất là những lúc mình nhắm mắt, là do nội tâm phát ra chớ không phải ở bên ngoài đến, thảy đều không thật. Nếu thật thì bao nhiêu người ngồi đều phải thấy, chớ đâu có riêng mình, phải không? Hiểu rõ nên không mừng không sợ, nếu có khởi mừng sợ là sai.
Thứ hai, có người ngồi thiền buông hết tâm lăng xăng, tới chừng không nghĩ gì hết, phát hoảng lên, cho là đã mất mình. Tụi con nên hiểu, khi vọng niệm lặng xuống, thấy, nghe, biết rõ ràng, đó là đúng, là định. Vậy mà sanh hoảng tức thành loạn. Những sai lầm đó vì không biết rõ nên tu lẽ ra chỗ tốt lại thành xấu.
Đây là những điều tụi con phải cẩn thận. Trong những năm tháng mình nhập thất, có các hiện tượng lạ đến cần phải cẩn thận, phải biết rõ để không bị lầm lạc. Đó là lời Thầy nhắc, tụi con ráng ghi nhớ.
Ngày 28-8 Đinh Sửu (29-9-1997)
Hôm nay thỉnh nguyện, toàn chúng ai có lỗi đều biết thành tâm sám hối. Vậy là tụi con có tinh thần gắng tu, cố dẹp trừ các nghiệp chướng để tiến nhanh trên bước đường tu.
Sau đây Thầy có ít lời nhắc nhở tụi con về thái độ dứt khoát theo tinh thần Trúc Lâm Đại Đầu-đà. Tụi con phải hiểu, nhất là phái nữ, nếu mình không đi tu thì thôi, một khi đã cạo tóc xuất gia, không bao giờ để tóc trở lại với thế gian. Nếu hoàn tục rồi, muốn tu lại cũng không được nữa. Vậy nên tụi con phát nguyện tu phải dõng mãnh đi mãi cho tới ngày thành công.
Tu rất là khó, bởi vì ai cũng có sẵn tập nghiệp quá khứ sâu dày, khi khởi sự tu hành, những nghiệp chướng đó hay lôi dẫn mình làm việc trái với đạo lý. Do đó tụi con phải có ý chí mãnh liệt và phát nguyện mạnh mẽ thì việc tu mới đến nơi được. Nếu yếu đuối hoặc lơ là thì đường tu của mình dễ bị trở ngại.
Một người tu khi rời bỏ gia đình rồi thì không còn giúp gì được cho cha mẹ, cho những người quen thân, chỉ có một việc là tu. Nếu tu thành công mới làm lợi ích cho cha mẹ và người xung quanh được. Ngược lại tu lơ mơ, rốt cuộc không có lợi cho đời, cũng chẳng ích gì cho đạo, sống một cách lừng chừng không tới đâu hết, thật là uổng một đời, còn mang tội lớn với cha mẹ. Cha mẹ nào muốn rời con, chỉ vì mình ham tu quá nên cha mẹ buộc lòng cho xuất gia. Vậy phải nhớ làm sao cho cha mẹ hài lòng, phải tu hành chín chắn đàng hoàng để cha mẹ yên lòng rằng nhờ con mà nghiệp chướng của mình được giảm bớt.
Do đó, tụi con phải cố gắng tối đa trên đường tu. Phút giây nào hơi thối tâm lùi bước là tự cảnh tỉnh liền. Đâu phải tụi con bỏ cha mẹ để đến chùa chơi? Nhớ vậy để tụi con tự rầy, tự quở, thúc đẩy mình tiến lên. Tất cả tụi con, đứa nào cũng có khả năng tu được, nếu biết răn nhắc mình thì tụi con sẽ tu đến nơi đến chốn, còn lơ là, đó là cớ thối tâm. Một khi duyên tốt mất rồi, đời không ra đời, đạo không ra đạo, thật uổng phí một cơ duyên quí báu, còn làm trò cười cho thiên hạ chớ có ích gì!
Trên đường tu, tụi con phải luôn luôn tỉnh sáng, thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình. Nếu hôm nay nỗ lực cố gắng, ngày mai lơ là hoặc vui chơi… là tự tụi con làm mất thời gian quí báu trong lúc mọi người đang trông đợi. Khi tụi con đến đây, cha mẹ, anh em trong gia đình đều trông tụi con tu có những bước tiến để về nhắc nhở, khuyên dạy họ tu theo. Nếu ở đây ba năm, bảy năm mà tu không ra gì, thật là uổng công tụi con xuất gia, uổng công Thầy Tổ dạy dỗ, phụ lòng cha mẹ anh em trông chờ!
Thầy mong mỗi đứa tụi con đều ý thức trách nhiệm của mình, làm sao cho được thành công toại nguyện, để những người trông đợi mình đều hoan hỉ. Đó là xứng đáng, là tốt đẹp.
Thầy kể một câu chuyện tinh tấn cho tụi con nghe.
Có một Tôn giả tên là Tissa, nhà giàu, chỉ có hai anh em ruột. Cha mẹ mất, ông đem hết của cải cho người em rồi theo Phật tu, thường vào rừng toạ thiền. Một hôm, người em dâu chợt nảy ra ý nghĩ: “Biết đâu anh mình sau này chán tu, đổi ý trở về đòi của cải lại thì sao. Chi bằng bây giờ tìm cách thủ tiêu cho khỏi trở về.” Nghĩ vậy, cô mướn bọn cướp đi tìm Tissa để thủ tiêu. Bọn cướp thấy Ngài đang ngồi thiền trong rừng, đến muốn giết. Tissa nói:
– Khoan! Cho tôi hoãn lại ít hôm. Tôi không sợ chết, không chạy trốn đâu. Hoãn ít hôm cho tôi tu đạt được kết quả, lúc ấy các anh giết tôi cũng chẳng muộn.
Tướng cướp nói:
– Ta không tin lời ông đâu. Ông nói ở đây, nhưng bọn ta đi rồi, ông đi mất làm sao?
Tissa bèn lấy cục đá to dằn lên đầu gối gẫy một bên chân, rồi lấy một cục nữa dằn gẫy luôn đầu gối bên kia. Ngài nói:
– Đó, hai chân tôi gẫy hết rồi, không thể đi đâu được. Nên tha cho tôi ít hôm!
Bọn cướp thấy Ngài gan dạ quá, lại gẫy cả hai chân không thể trốn thoát được nên thuận lời bỏ đi. Còn một mình Tissa, hai chân gẫy nát, đau đớn vậy mà Ngài vẫn thản nhiên tinh tấn, nghĩ rằng sẽ chết trong một hai ngày nữa, nên cố gắng tu sao cho đạt được quả vị A-la-hán. Ngài nỗ lực tu suốt ngày đêm. Đến ngày thứ ba thì chứng quả A-la-hán.
Tụi con thử tưởng tượng chân mình dập như vậy ngồi tu nổi không?
– Dạ, không.
Bởi vậy nên không chứng quả. Người xưa dám liều chết nên tu có kết quả, còn mình nhiều khi nặng về thân quá, hơi khó chịu một chút là rên rỉ đủ thứ, than thở xin nghỉ ngồi thiền… thì đời nào giác ngộ. Người ta đau như vậy mà can đảm chịu, chiến thắng, dẹp sạch phiền não, sạch rồi mới xong. Người xưa gan dạ, chết cũng ngồi tại chỗ chết nên mới đạt được đạo.
Tụi con ở đây có bận tâm gì không? Không có gì bận tâm cả. Buổi sáng Tri sự cắt công tác làm hai ba tiếng đồng hồ, chỉ làm những việc vừa sức. Vậy mà lâu lâu cũng ngán, mệt tu không nổi, đau tu không nổi. Hoàn cảnh thế này mà tu không nổi thì chừng nào tụi con đạt được kết quả? Hiểu vậy rồi, lúc nào cũng phải dũng mãnh. Có ai không chết đâu, chỉ sớm hay muộn thôi. Nếu mình gan dạ có chết sớm mà đạt đạo cũng còn hơn. Bây giờ tụi con chọn cái nào? Chết sớm mà đạt đạo, hay là sống lê thê rên rỉ hoài suốt đời?
– Dạ, thà chết sớm mà đạt đạo quả, còn hơn tu đến già chẳng ra gì. Nhưng tu hành giác ngộ thật khó!
Đâu có khó! Đừng nên nghi ngờ. Tại tụi con chưa tự tin. Tu là dám chết dám sống. Còn tụi con sợ bệnh, sợ chết thì đến bao giờ mới thành công? Mấy đứa thấy Thầy dường như là mạnh lắm, trong khi bác sĩ chê Thầy đủ thứ bệnh, vậy mà có sao đâu, do tinh thần mạnh thì mọi bệnh đều vượt qua.
Hai yếu tố tụi con phải có là:
Thứ nhất: Tinh thần phải cứng cỏi, dũng mãnh.
Thứ hai: Phải lạc quan, lúc nào cũng thấy trong lòng vui vẻ, được một ngày tu là hạnh phúc một ngày. Đừng nên bi quan, ngồi buồn nhớ người này ăn hiếp mình, người kia nói xấu mình. Buồn bã hoài thì tu chỉ đi xuống chớ không đi lên nổi. Phải vui vẻ thấy rằng được sống như vầy là ít có. Thật ra thời mạt pháp mà tạo được duyên tu hành như đây rất ít có, ai đã từng ở các nơi thì biết. Tụi con sống ở đây không lo đủ thiếu, không lo cất chứa gì hết. Mọi chuyện đều đã có người lo, chỉ có làm lụng chút ít rồi tu. Chính trong khi làm cũng tu, chẳng có ai quấy rầy. Vậy mà tu không được Thầy cũng đầu hàng, không còn cách nào nữa!
Có nhiều người tha thiết xin vào đây lắm, nhưng Thầy không cho vì không còn chỗ. Tụi con vào được rồi mà không cố gắng tu rất uổng, thật đáng tiếc! Cho nên phải quyết tâm tu, đời người có mấy chục năm thôi, không dài. Tụi con ít ra gần phân nửa đời người rồi. Phân nửa là tính theo nguyên tắc căn bản sống tới già rồi chết, chớ cái bất thường chưa nói đến. Vậy mà không cố gắng đem hết tâm lực tu rất uổng.
Tụi con ráng ngày nào cũng tinh tấn, ngày nào cũng vui vẻ mới tốt. Ai buồn bã, bực bội than thở sẽ xuống tinh thần, tu không tiến, trong lòng phiền não, ngoài thân thể đau ốm, cuối cùng thối Bồ-đề tâm. Cho nên tụi con phải can đảm và cương quyết. Được thân này đã khó mà đầy đủ sáu căn khỏe mạnh cũng là ít có, lại được gặp duyên có thầy lành, bạn tốt để sách tấn tu hành, thật là hi hữu.
Ở các nơi người tu phải đi đám, mai đám này mốt đám kia, đi hoài không còn thời giờ tu. Nơi đây tụi con được ở một chỗ yên tu mà không thành công Thầy cũng bó tay đầu hàng. Phật tử các nơi đang hướng về Trúc Lâm hết lòng ủng hộ, trông chờ kết quả. Tụi con thử tính xem từ hồi vào Viện tới bây giờ, có bao nhiêu cái áo lạnh?
– Dạ, nhiều lắm!
Phật tử thương tụi con, nghĩ Tăng Ni ở đây quyết tâm tu hành, mọi người dồn hết sức để lo, nhất là mấy Phật tử ở xa gởi áo lạnh về, nói nghe xót ruột: “Mỗi ngày sau khi đi làm về, con dành tất cả thời giờ đan áo lạnh gởi cúng dường Tăng Ni, chỉ mong quí Thầy Cô tu hành giác ngộ độ chúng con.” Tấm lòng của Phật tử, tụi con nghĩ sao? Nếu không tu, thật là đáng trách! Bởi vậy phải gắng tu, lúc bệnh tu theo bệnh, mạnh tu theo mạnh, đừng bao giờ nản chí, đừng bao giờ để phiền não làm chướng ngại sự tu hành.
Được như vậy thì sống trên đời này không hổ thẹn, nếu lơ mơ uổng đi một đời, không xứng đáng nhận của cúng dường. Người ta không đòi cái gì chỉ lo cho mình tu, vậy mà không chịu tu là mang nợ. Bây giờ nợ Thầy lãnh nhưng tụi con phải chia, chẳng lẽ Thầy lãnh nợ nuôi tụi con, rồi bắt Thầy trả hoài, còn tụi con trốn nợ sao? Thầy lãnh thì Thầy chịu năm mươi phần trăm, còn tụi con năm mươi phần trăm.
Nên tụi con phải ráng cố gắng tinh tấn tu hành, đừng bao giờ bỏ phí thời giờ, đừng để bị mấy chú phiền não quay. Phải dẹp hết, không có gì quan trọng. Giả sử người ta kêu tên mình chửi cũng chẳng đáng để lòng. Ở đây thật ra chưa ai dám chửi tụi con, có gì quan trọng mà phải buồn lo.
Đời tu rất quí, nên Thầy gắng thực hiện hai điều: một là tạo duyên tốt để tụi con tu, hai là nhắc nhở tụi con tu. Từ tháng này năm nọ, Thầy không ngừng nhắc nhở khuyến khích tụi con. Đó là làm hết bổn phận của Thầy, còn lôi thôi là tại tụi con, không phải lỗi Thầy, sau chớ đổ thừa ở Trúc Lâm Thầy tạo duyên tu không được. Bây giờ ráng tu, giờ nào cũng là giờ quí báu, đừng để trôi suông vô ích, sau tìm lại không được.
***
Tất cả Ni chúng ở đây và Phật tử tập tu thử nghiệm coi mình tu có lợi gì cho hiện tại và vị lai không?
Quí vị có thấy mỗi một ngày mình nhớ tu thì ngày đó sẽ ít phiền não không? Còn ngày nào nhớ nhà, nhớ anh em bà con thân thuộc nhiều, nhớ mà không gặp thì phiền não, quên tu. Bởi vậy hồi trước ở Thường Chiếu, chư Tăng chư Ni còn lao động nhiều, Thầy có nói: “Phải coi lao động như ăn cơm, học kinh như uống nước, tu như hơi thở.” Thiếu cơm sáu bảy ngày mới chết, thiếu nước có thể đôi ba ngày, còn thiếu thở thì chết liền. Bởi vậy người tu lúc nào thiếu tu là đã mất tánh chất của người tu rồi. Cho nên trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn nhớ mình đang tu, đừng bao giờ quên.
Nhiều khi chúng ta cứ nhớ hồi cư sĩ mình thế nào, làm ăn buôn bán ra sao… Đó là nhớ tu hay nhớ phàm tục? Người xả tục xuất gia không nên nhớ những việc thế gian. Giả sử vừa sực nhớ lại, bỏ liền không cho tái xuất hiện, phải nhớ mình đang tu. Đang tu là có ai làm gì trái ý, bực bội cũng bỏ qua không giận. Nếu không giận, không buồn phiền, gương mặt tự nhiên tươi tắn dễ thương. Người tu hay giận hay quạu, thấy mặt người ta ghét thì không giáo hoá được ai.
Ở trong gia đình, người Phật tử biết tu thì gia đình đó vui, người này làm người kia vui lây, còn không biết tu thì làm khổ lây. Ai nói trái tai liền nổi giận, nói qua nói lại một hồi mình phiền người khác cũng phiền, rồi một chùm phiền não, khổ lây cả nhà. Bây giờ chúng ta biết tu rồi, có điều gì không vừa ý, bỏ qua tươi vui như thường. Ai sống đời đây mà tranh hơn tranh thua.
Nếu có người muốn gì đều được như ý, người đó cũng không khỏi chết. Cái chết luôn chực sẵn từ cuối đường, chúng ta cứ đi tới từng bước hoài thế nào cũng đến cuối đường. Như vậy qua một ngày là gần cái chết một chút. Vậy mà không lo chết, lại lo chuyện hơn thua là khôn hay dại?
Bởi vậy, người tu tại gia lúc nào cũng nhớ mình là Phật tử, ráng lo tu, dẹp bỏ phiền não, đừng chứa chất, nghĩa là có thì bỏ liền, không dung dưỡng. Đó là người khéo tu. Ở trong chùa cũng vậy, quí cô lúc nào cũng phải tu, đừng nghe nói trái ý nổi sân lên, hết nhớ tu. Người tu lúc nào cũng từ bi hỉ xả, sân si không phải là người tu.
Như vậy, tu là hơi thở, nghĩa là quên một phút giây là thấy chết, mất tư cách người tu. Người tại gia cũng như xuất gia đều phải luôn nhớ tu, không quên, giống như hơi thở nếu ngưng là chết, còn nhớ thở là sống. Được vậy sẽ mau đạt đạo. Có hôm nào tụi con quên thở không? Không ai dám quên thở mà tu thì quên. Đó là chỗ sơ sót, là điều đáng tiếc.
Giả sử chúng ta đang ngồi trong nhà, chợt có ai kêu tên mình nghe hơi nặng nề, lúc đó nhớ mình đang tu hay là ra ăn thua? Nếu ra ăn thua là quên mình đang tu. Người tu nghe ai nói nặng cũng bỏ qua, không có gì quan trọng. Mình đang lo giải quyết vấn đề sanh tử, không rảnh để lo chuyện hơn thua. Hơn thua rồi tới đâu? Nếu người ta nói, mình bực tức, rồi tìm cách làm sao trả lại cho người ta bực tức bằng mình hoặc hơn nữa, như vậy được cái gì? Chỉ tăng thêm oán hờn!
Vì vậy tu là bỏ qua, không có gì quan trọng. Điều quan trọng là làm sao ngày nào cũng dọn dẹp phiền não nơi mình cho sạch. Nếu nuôi dưỡng phiền não thì chưa phải người tu, dù là tại gia hay xuất gia.
Nhiều khi Phật tử tại gia nghĩ mình ăn chay là tu rồi, nhưng hễ ai động tới thì tranh hơn tranh thua đủ thứ, vậy đâu phải là thật tu. Tu là phải sửa cho hết những cái xấu dở của mình. Sửa được rồi, hiện tại mình vui, đi đâu cũng vui, không làm ai phiền giận thì có gì để buồn. Giả sử có ai giận phiền là do mình có cử chỉ hay lời nói gì đó khiến họ không vừa lòng, chớ không thể bỗng dưng lại phiền, mình nên tới xin lỗi: “Tôi có lỡ làm hoặc nói cái gì khiến huynh phiền, cho tôi xin lỗi, tha thứ cho điều tôi sơ sót.”
Có ai dám xin lỗi như vậy không? Hay là chỉ lên sám hối với Phật mà không dám trực tiếp xin lỗi người buồn mình. Như thế là yếu đuối, nhát nhúa, dám làm không dám chịu, giận thì nói nặng người ta, khi người ta phiền không can đảm tới xin lỗi.
Nếu lỡ làm điều gì khiến người ta buồn phiền, mình phải tới xin lỗi, thực tế như vậy mới tiêu tội. Còn tới sám hối với Phật cho hết tội, e là không hết. Phật làm sao tha được cái giận của người ta. Vậy mà ai cũng chịu sám hối với Phật chớ không can đảm đi xin lỗi người mình đã làm phiền. Như vậy tụi con khéo tu hay là vụng tu?
Nếu người nào không giận, không buồn ai thì tâm hồn sẽ thanh thản nhẹ nhàng. Tu như vậy có lợi vô cùng, bản thân mình lúc nào cũng an lành vui vẻ, không có gì buồn phiền. Nếu hiện tại chúng ta an lành vui vẻ thì khi nhắm mắt cũng được tốt đẹp. Người biết tu thì ngay trong đời này đã tốt đã vui. Vui cho bản thân mình và vui lây đến người xung quanh.
Ở đây người nào cũng như vậy thì không có ai mặt mày bí xị. Sở dĩ bí xị là vì có ai đó làm mình không vui, mà không vui tức là thiếu tu. Vậy khi thấy có ai mặt quạu đeo chúng ta đánh giá người đó sao? Là quên tu! Quên tu thì bị gõ đầu chớ đừng nói phải quấy gì cả. Nhiều khi có người nói vô: “Người đó làm vậy chị giận phải quá mà, thật đáng giận!” Đó là cách nói không đúng.
Không có gì đáng giận, phải giận, nếu mình biết tu. Chỉ khi mình không biết tu hay quên tu mới giận như vậy. Khi giận là đã quên tu rồi. Dù cho mình đúng một trăm phần trăm mà nổi giận tức quên tu thì cũng là quấy. Nhớ như vậy tu hành sẽ tốt hơn. Đừng nghĩ mình tu để Phật ban phước cho hết phiền não. Chờ Phật ban cho hết phiền não chuyện không thể có, phải tự mình dẹp sạch mới được.
Ai cũng biết ngày mai mình sẽ già sẽ chết mà hôm nay không chịu tu, vậy là khôn ngoan tới cỡ nào? Một ngày qua là mất một khoảng thời giờ quí báu của mình. Hiểu như vậy rồi, ngày nay mình có già yếu cũng phải nhớ tu, đừng nhớ thân quyến bà con. Đừng thèm nhớ vì họ không cứu được mình, con cháu cứu không được quí bà, chỉ có chính mình cứu được mình.
Bởi vậy tu một ngày là quí một ngày, thời gian còn ngắn lắm nên dồn hết sức để tu. Dầu cho tiền bạc, nhà cửa bao nhiêu tới chừng nhắm mắt đều để lại hết, không đem theo được gì. Chỉ sự tu là quan trọng, biết tu mới cứu được mình.
Biết tu còn giúp được cha mẹ anh em, bà con thân thuộc, vì mình tu được, ai tới thăm cũng vui, thấy mình từ hồi tu tới giờ lúc nào cũng tươi nên người ta phát tâm theo. Ngược lại, nếu cha mẹ bà con vô chùa thăm, thấy tụi con khóc lên khóc xuống làm sao phát tâm nổi. Đi tu mà buồn thảm như vậy còn ai dám tu. Họ về còn thắc mắc: “Đi tu gì khổ quá, rủ nó về cho rồi!” Đó là không tự cứu được mình còn làm hoạ lây tới những người chung quanh. Nếu khéo tu, chính mình đã được an ổn tự tại, còn tạo sự an ổn cho người chung quanh. Như vậy, khéo tu là đem lại lợi ích lớn cho bản thân và mọi người, không khéo tu thì đem hoạ đến cho thiên hạ.
Cho nên tu phải vui vẻ tươi tắn, lúc nào cũng thấy mình đã đạt được sở nguyện. Sở nguyện của chúng ta là tu để cứu mình, cứu người, bây giờ đã được tu, tuy việc làm chưa tới cứu kính nhưng đạt sở nguyện là vui rồi. Nghĩ vậy nên luôn luôn vui vẻ tươi cười. Thấy người nào vẻ mặt sầu não ưu tư biết là quên tu, nhớ thân thuộc rồi muốn trở về. Đó là một lý do thối Bồ-đề tâm.
Vậy nên tụi con phải sáng suốt, không một phút giây nào bỏ qua, lúc nào cũng là lúc tu. Giả sử người nào đó nghe mình nói điều gì trái ý, trong một phút giây họ trả lại một câu nói nặng, lúc đó nếu không biết tu đâu có tỉnh giác kịp. Nên lúc nào cũng sẵn sàng tu, chờ tới giờ ngồi thiền, sám hối mới tu thì muộn lắm rồi. Ngay lúc có sự việc xảy đến là lúc mình phải tu. Khéo tu trong mọi lúc là người biết tu, còn đợi tới thời khoá thì không hay. Đó là lẽ thật.
Khi ngồi thiền, nét mặt tụi con tươi vui biểu lộ tâm hồn thơ thới nhẹ nhàng, không được chăm bẳm quá hay mặt hầm xuống như đang giận ai. Nhờ tụi con tu gương mặt bình thản tươi vui, chúng sanh thấy phát tâm hoan hỉ cũng bớt khổ, đừng để người ta thấy mặt sợ không dám ngó, lại càng khổ thêm. Hiểu vậy tụi con ráng nhớ trách nhiệm mình, không quên tu một phút giây nào. Tu như hơi thở, vừa quên tu liền là xác chết.
***
Mây không phải là bầu trời, mây chỉ là hiện tượng tạm bợ. Biết như vậy là chánh xác, còn tưởng mây là bầu trời tức mê. Bây giờ biết rõ mây không phải là bầu trời, chỉ là hiện tượng tạm bợ, tụ rồi tan, tuy mây vẫn còn nhưng mình không lầm.
Thầy giảng rõ vì sợ tụi con ngồi thiền cứ thấy vọng tưởng bỏ hoài cũng chưa hết, lâu ngày sanh nghi: “Sao không thấy cái thật, cứ thấy cái giả hoài, làm uổng công quá vậy, coi như cả ngày làm việc không công!” Hễ biết nó là giả tự nhiên không lầm. Không lầm thì cái giả hết, cái thật tự hiện bày, khỏi tìm kiếm ở đâu. Nên nói “thú hướng chân như tổng thị tà”. Vừa muốn tìm cái thật là đã rơi vào tà rồi. Cái thật đâu ngoài cái giả, chỉ cần cái giả tan hết là hiện đầy đủ tất cả. Như vậy dễ hay khó? Có người nào thiếu không? Có cụm mây nào ngoài bầu trời đâu!
Thử đem so sánh một lượn sóng với biển cả, lượn sóng có thấm vào đâu so với biển. Cũng như cụm mây có thấm vào đâu so với bầu hư không. Nên chúng ta bỏ cái tạm bợ nhỏ hẹp để được cái thênh thang, đó là chuyện phi thường chớ không nhỏ. Người đời cứ tìm cầu những thứ tầm thường, thí dụ như có tiền cất nhà lầu sắm xe hơi. Đâu biết nhà lầu rồi sẽ hoại, xe hơi đi lâu cũng hư. Chỉ có cái sẵn có của mình là chân thật mà lại bỏ quên chạy theo cái giả từ đời này đến đời kia, thật uổng!
Vậy nên trong kinh Phật nói chỉ có si mê không biết lối đi mới thật khổ. Bởi vì mờ mịt không biết lối đi, mấy chục năm chết đây rồi sanh trở lại, rồi mấy chục năm nữa chết đi… Nên Phật nói: “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn biển cả.” Cái khổ lớn nhất là khổ trầm luân.
Bây giờ, quí Phật tử biết rõ vọng tưởng là nhân tạo nghiệp, không theo nó tức bớt khổ. Khi nào nó lặng xuống thì sáng ra, liền hết mê lầm, tức giác ngộ giải thoát. Được như vậy muôn đời khỏi bị đau khổ.
Nếu người có lòng đại từ đại bi, giải thoát rồi nhưng vì thương chúng sanh mà dạo chơi trong sanh tử để hoá độ người, gọi là “du hí tam-muội”, nghĩa là đùa chơi trong cõi đời mà vẫn ở trong chánh định. Đó là hạnh Bồ-tát, không nỡ bỏ chúng sanh mê nên trở lại lăn lộn giữa cõi đời để độ họ. Sống giữa cõi đời này người ta khổ nhưng mình vẫn tự tại.
***
Tụi con nghe nói chúng sanh mê, đức Phật giác, phải không? Nay Thầy hỏi: “Chúng sanh mê là mê cái gì? Phật giác là giác cái gì?” Đây là gốc của sự tu hành. Ở Thiền viện tu giác ngộ mà người ta hỏi câu này không trả lời được là thiếu căn bản.
Bây giờ Thầy giải thích cho tụi con hiểu. Cái mê thứ nhất của chúng sanh là thân năm uẩn hư dối lại tưởng là thật. Bởi tưởng thật nên chấp nó là ngã, rồi giành giật, hơn thua phải quấy, có khi sát phạt nhau không gớm tay. Mê là si, từ si sanh tham, giành giật ngũ dục. Nếu có ai chống lại liền sát phạt, đó là từ tham sanh sân. Như vậy, cái mê gốc của con người là mê lầm chấp thân.
Thân này do duyên hợp tạm có, biến đổi không dừng. Từ lúc lọt lòng mẹ, mỗi ngày mỗi chuyển biến cho đến già rồi chết, trong một dòng sanh diệt liên tục. Cái gì thật thì không chuyển biến thay đổi, thay đổi tức không thật.
Đời sống chúng ta giống như dòng nước chảy liên miên không dừng, thế nhưng chúng ta không biết tưởng thân là thật, là mình, sanh ra chấp ngã, tự hào, cái gì cũng ta. Nói đẹp thì ta đẹp hơn, nói tốt thì ta tốt hơn, nói phải ta phải hơn… Bởi vậy ai xúc phạm liền nổi sân. Như tưởng mình đẹp ai nói xấu là xúc phạm, tự thấy mình hơn lại nói mình thua là xúc phạm, nghĩ mình phải mà nói quấy là xúc phạm. Cứ vậy cả ngày tranh hơn thua, phải quấy, rốt cuộc rồi cũng chết. Thật là mê muội đáng thương! Đó là mê về thân.
Cái mê thứ hai là không biết trong thân tạm bợ hư dối lại có cái chân thật. Cái mê này thế gian không biết, chỉ người tu mới biết. Người tu hiểu rằng thân là tạm bợ hư dối, trong cái hư dối có cái thật. Hiểu như vậy mà chưa thấy thật rõ ràng, nên chúng ta tu là để nhận được cái thật đó.
Như vậy tụi con thấy, chúng sanh không biết có cái chân thật, thấy giả cho là thật, cứ như vậy mà khổ rồi tạo khổ cho kẻ khác. Cả cuộc đời, kết thúc được cái gì? Chỉ là một lớp giả dối không thật. Người tu nghe lời Phật dạy, biết nơi thân giả có cái thật nên nỗ lực tu, mượn thân giả này làm phương tiện để tìm ra cái chân thật. Đó là chỗ thức tỉnh thiết thực nhất. Biết chỗ mê của chúng sanh rồi thì cái giác hiện tiền.
Đức Phật giác ngộ khi Ngài thấy người ta già bệnh chết, biết mình cũng già bệnh chết, không nghi ngờ. Rõ như vậy thì cuộc đời chỉ là trò chơi tạm bợ, không có giá trị. Ngài thức tỉnh ra đi tìm đạo. Mà tìm đạo là tìm cái gì? Thật ra, Ngài thấy có những vấn đề phải tìm:
Thứ nhất là vấn đề sanh, con người từ đâu sanh ra?
Thứ hai là chết rồi còn hay hết, nếu còn thì làm gì, đi đâu?
Thứ ba là nếu chúng ta không muốn tiếp tục đi trong vòng sanh tử đó phải làm sao?
Đó là ba câu hỏi then chốt của con người mà thế gian này ít ai nghĩ tới. Cứ sanh ra rồi tới chết là hết. Còn đức Phật thắc mắc, ta có mặt ở đây đâu phải ngẫu nhiên mà có, vậy trước mình là cái gì giờ mới tới đây? Đó là lý do Ngài tìm lại đầu mối của sanh tử. Người thế gian chỉ biết mình đang ở đây, không biết từ đâu tới rồi chết ra sao? Họ cứ hưởng thụ cho thoả mãn rồi chết ra sao thì ra, đi đâu cũng được.
Chỗ Phật tỉnh giác là Ngài biết thân này tạm bợ giả dối nên thức tỉnh đi tu. Đến các vị tiên dạy tu thiền để học, nhưng họ cũng chưa giải quyết được những vấn đề Ngài thắc mắc. Ngài tới vị này học một thời gian rồi từ giã đến vị khác, rồi lại từ giã đến chỗ khác nữa. Cuối cùng Ngài thấy vấn đề đó chỉ có tự mình giải quyết. Đến khi Ngài giác ngộ thành Phật, là giác ngộ cái gì? Trong kinh kể nhiều lắm, Thầy chỉ nói cái căn bản là Tam minh.
Trước hết Ngài giác ngộ Túc mạng minh, tức là biết được vô số đời trước đã từng ở đâu, cha mẹ tên gì…, biết suốt hết các đời qua đã từng làm gì, bây giờ mới tới đây. Vậy là Ngài rõ được nghi vấn “sanh từ đâu đến”, biết được đây không phải là lần đầu mà đã vô số lần sanh tử rồi, bây giờ chỉ là tiếp tục sanh. Thấu suốt như vậy là đã giải quyết được vấn đề thứ nhất.
Kế đến Ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy rõ con người chết không phải hết, mà do nghiệp thiện hoặc ác dẫn đi luân hồi trong lục đạo: người, trời, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Như vậy, chết không phải là hết mà còn tiếp tục sanh ở trong sáu đường luân hồi. Thế là Ngài giải quyết được câu hỏi thứ hai.
Tới canh năm Ngài chứng được Lậu tận minh, là thấy tột nguồn gốc con người do cái gì mà phải tiếp tục sanh, và bây giờ muốn dứt phải làm sao để dứt. Đó là Tứ thánh đế. Muốn được Niết-bàn phải diệt Tập đế. Tập đế là nhân của quả khổ, tức Khổ đế. Diệt hết Tập nhân này thì được Niết-bàn. Muốn diệt phải có phương pháp, phải tu theo ba mươi bảy phẩm trợ đạo là Đạo đế. Như vậy, Ngài giải quyết được cái nghi thứ ba.
Đức Phật chứng quả Đại giác: Giác ngộ được kiếp người từ đâu tới, chết rồi sẽ về đâu và muốn ra khỏi sanh tử phải làm sao? Đó là mục tiêu của đức Phật. Nay chúng ta bắt chước đi theo tất nhiên cũng phải biết cho rõ. Chẳng lẽ nói tôi tu để giác ngộ mà giác ngộ cái gì mình không biết! Đức Phật giác ngộ trọn vẹn ba điều trên, không còn bị lôi dẫn trong sanh tử nữa, còn chúng ta bây giờ không biết mình từ đâu lại đây, cũng không biết mai kia chết rồi ra sao, chưa giải thích được.
Tụi con phải hiểu gốc mê của mình thì mới giác được, còn nếu không hiểu, nói tu không biết tu cái gì, riết rồi cũng như người thế tục, không biết mình là gì?
Thật ra, con người không có gì ngoài ba vấn đề: Từ đâu tới? Chết rồi sẽ ra sao? Và nếu muốn không tiếp tục sanh tử nữa phải thế nào? Việc chánh của đời tu là giải quyết những vấn đề này.
Hỏi: Trước đây khi có vấn đề khó xử, con thường bỏ đó đi ngủ, khi thức dậy tự nhiên có giải đáp. Từ khi con biết ngồi thiền, thấy cũng có vài kết quả tương tợ. Tại sao vậy?
Đáp: Khi có một vấn đề thắc mắc, mình bỏ qua, đi ngồi thiền. Lúc ngồi thiền tâm lặng, trí sáng nên giải quyết vấn đề một cách dễ dàng.
Hỏi: Giải pháp đến sau khi ngồi thiền hay trong khi ngồi thiền?
Đáp: Trong lúc ngồi thiền tâm yên thì thấy được giải pháp.
Người tu thiền như một khạp nước đục, để yên thì lóng trong, khi đục nó tối, khi trong nó sáng. Ngồi thiền lắng tâm mình cũng giống như lắng các cặn bã trong nước. Khi cặn bã lặng rồi tự nhiên nước trong. Nước trong thì những gì bên trên ảnh hiện đầy đủ.
Hỏi: Khi người thân gặp vấn đề khó khăn, chúng ta có thể dùng sức thiền định giúp đỡ họ không?
Đáp: Thật ra, giúp người khác qua thiền định là khi nào sự thiền định của mình có đủ sức mạnh mới có thể được, nếu chưa đủ sức mạnh muốn giúp cũng không được.
Trong nhà Phật có Từ bi quán. Khi mình thương người đó khổ, ngồi thiền rải tâm từ bi cho họ được bình an. Điều này có, nhưng có trong sự quán tưởng của mình chớ không phải là cái thật.
Hỏi: Vậy có giúp được người kia khỏi cảnh khó khăn không?
Đáp: Thực tế ít khi được như ý. Bởi vì trong thực tế, khả năng và sức mạnh thiền định của mình chưa đủ để chuyển được hoàn cảnh của người khác. Do đó, có thể giúp được trong chỗ nhẹ nhàng của nội tâm, chớ không thể chuyển đổi hoàn cảnh.
***
Đi dự Đại hội kỳ này Thầy làm được hai việc. Thật ra, dự Đại hội là phần phụ, còn phần chánh là lên Yên Tử.
Trước khi lên Yên Tử, Thầy đi chùa Lân, còn gọi là chùa Long Động. Ngày xưa, Điều Ngự Giác Hoàng truyền giới Tỳ-kheo và Bồ-tát cho ngài Pháp Loa tại chùa này. Hồi trước đường lên Yên tử khó đi hơn bây giờ. Ban đầu Thầy còn đi thong thả, dần dần leo hết nổi, đến mấy dốc cao đứng quá, có người đứng trên đưa tay xuống kéo, hai người ở dưới đẩy lên, vậy mới leo được. Thầy như thế, Nhật Quang cũng không kém gì. Lên tới am Vân Tiêu Thầy dừng lại nghỉ. Cứ đi mười lăm phút phải nghỉ, từ Hoa Yên lên Vân Tiêu chừng nửa cây số, đi từ sáu giờ đến chín giờ mới tới. Lần trước, Thầy chỉ mới tới Hoa Yên, vì hồi đó xe đỗ rất xa, lội bộ lên tới chùa Hoa Yên trời đã xế chiều, phải trở ra xe liền vì không có chỗ ở lại, nên không kịp lên chùa Đồng.
Kỳ này Thầy quyết định lên tới nơi. Tại sao vậy? Ngày trước khi học sử đức Phật, Thầy chỉ biết đại khái qua kinh sách, về sau Thầy muốn biết những chỗ sanh hoạt của đức Phật, Ngài thành đạo ở đâu, truyền bá vùng nào, có thật hay không? Thầy phải đi tới tận nơi thấy tận chỗ. Thầy đi Ấn Độ đến Bồ-đề Đạo Tràng, tới mấy chỗ quan trọng đức Phật giáo hoá. Biết đức Phật là một con người có thật, biết nơi chốn Ngài sanh hoạt Thầy mới yên lòng. Bây giờ chúng ta khôi phục lại Thiền tông đời Trần, vua Trần Nhân Tông, về lịch sử Thầy biết đại khái, còn chỗ Ngài sanh hoạt Thầy chưa nắm vững, nên phải lên tận chỗ các Ngài sanh hoạt.
Cả đoàn đi khoảng vài trăm người, tối ngủ lại. Quí Thầy tổ chức tụng sám hối sáu căn. Trước khi sám hối Thầy phải giảng một chút, rồi nhờ Nhật Quang nói thế. Nghỉ ngơi đến sáng, đoàn tiếp tục leo núi. Các dốc đứng vừa cao vừa trơn trợt, một mình làm sao leo nổi, Thầy nhờ có trợ lực mới lên tới chùa Đồng. Tới nơi ngồi nói chuyện một chút rồi trở xuống. Khi lên thì rất nặng nề, khi về Thầy bước xuống thật nhanh, đến một lúc hai chân hết làm chủ được, nên phải có hai người kè. Vậy mà cũng vấp một hai lần. Tới Hoa Yên nghỉ một chút rồi xuống luôn. Thầy giở chân không muốn lên, cựa quậy không được, cả người rã rời.
Kỳ này, chùa Thông Giác có trở ngại nên Thầy không lại đó. Phật tử mời Thầy ở khách sạn. Thầy trò ở lại hai ngày hai đêm, đến ngày về họ không tính tiền. Bà Giám đốc và bà Phó giám đốc còn theo Thầy ra Yên Tử. Hôm Thầy giảng ở trường Khoa Học Kỹ Thuật, bữa đầu khoảng bảy trăm người đến nghe, bữa kế tám trăm người, bữa sau một ngàn người. Còn qui y hơn bốn trăm người, giảng tất cả bốn buổi, đó là công tác của Thầy.
Trong buổi giảng, có một người nêu câu hỏi về việc sắp ra đời của Phật Di-lặc. Thầy trả lời:
– Sau khi đức Phật Thích-ca nhập Niết-bàn, thế gian trải qua ba thời: chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp. Qua hết thời mạt pháp người ta không còn tin Tam Bảo nữa, không còn biết Phật là gì, chừng đó đức Phật Di-lặc mới ra đời. Không thể có hai đức Phật đồng thời giáo hoá, vì giáo lý của đức Phật kia và đức Phật này không hai không khác, nếu dạy y cái cũ là trùng lặp, còn nói khác tức là tà. Nên hai đức Phật không thể ra đời cùng lúc. Người ta cứ nói Phật Di-lặc sắp ra đời mà không hiểu giáo lý đức Phật Thích-ca hiện tại vẫn đang còn phổ biến.
***
Bây giờ Thầy kể cho tụi con nghe về những cái ngu của Thầy thuở xưa. Hồi xưa Thầy còn làm Quản viện ở Phật học viện Huệ Nghiêm, Thầy có mấy cái ngu, sau lên núi rồi mới biết.
Cái ngu thứ nhất là trong chúng có những người mắc kẹt một vài tật, thí dụ như tham ăn…, rầy một, hai, ba lần không bỏ, Thầy hơi bực. Mỗi người mỗi tật rầy không được, nhiều khi giận và phiền não họ, đó là cái ngu thứ nhất.
Cái ngu thứ hai là Thầy lo cho mấy chú đi học Bồ-đề có xe cộ đưa đến trường đàng hoàng, vậy mà có nhiều chú không đi học, lại bỏ đi chơi. Thầy biết chuyện giận thôi là giận, càng giận thấy càng ngu.
Cái ngu thứ ba là mình hết lòng hướng dẫn cho họ tu, nhưng vẫn có người rũ áo ra đời, Thầy tức giận.
Và cái ngu thứ tư là khi thấy những điều hay tốt, Thầy khuyên học chúng làm mà họ không chịu làm, Thầy cũng giận.
Khi lên ở Pháp Lạc thất nhập thất tu, Thầy nhớ lại mấy chuyện đó mới thấy mình ngu.
Thứ nhất là người có tật xấu, mình rầy hoài họ không bỏ vì đó là thói quen, tập khí của họ. Họ nghe rầy, biết xấu nhưng không sửa được, thương không hết giận làm gì! Tụi con nhớ mình giận là ngu. Những tật xấu trong chúng chẳng qua là do tập khí. Khi người ta có lỗi, bị rầy cũng biết xấu, vậy mà bỏ không được là vì tập khí sâu dày. Biết vậy nên thương chớ không giận. Bây giờ mới biết mình giận là ngu.
Thứ hai là cho đi học trường Bồ-đề đàng hoàng, có xe đưa đón mà không vô trường học lại bỏ đi chơi. Thầy biết được, nhiều khi giận muốn run, sau này Thầy biết đó là cái ngu của mình. Mình cứ làm tròn bổn phận của người lớn lo cho người sau, nếu họ không biết lo thì mình nhắc, nhắc họ không nghe là chuyện của họ. Nếu chịu học thì họ giỏi, mai kia có lợi, còn nếu không chịu học sau sẽ bị thiệt thòi. Đó là chuyện của họ, bổn phận mình làm tròn rồi thôi, có gì đâu mà giận, giận là ngu.
Thứ ba là đối với những người tu mình lo lắng, muốn cho họ mai sau làm rường cột Phật pháp, vậy mà tu nửa chừng họ cởi áo ra đời, Thầy giận. Sau này Thầy mới thấy đó là ngu. Tu được hay không là chuyện của họ, mình đâu có bắt họ tu cho mình, họ cũng đâu có cam kết với mình là sẽ tu suốt đời. Khi họ muốn tu thì mình ráng lo, bây giờ không muốn tu nữa là quyền của họ, tại sao mình giận? Mình giận là ngu.
Thứ tư là Thầy khuyên học chúng ráng tập theo những điều hay tốt mà họ không chịu làm, Thầy giận. Nếu họ không làm những điều tốt đó thì họ thiệt, mình đâu có thiệt thòi gì, giận chi cho khổ. Như vậy là đeo mang việc của người, tức là ngu, phải không?
Thế gian có những cái tức cười, nhiệt tình chừng nào sân nhiều chừng ấy. Bây giờ Thầy cũng lo cho chúng, thương nên rầy la nhắc nhở nhưng Thầy không giận nữa. Hồi xưa lo mà giận là ngu, bây giờ Thầy biết rồi, cũng lo mà không giận. Như vậy tụi con nhớ, khi nào thương và giúp đỡ người, nếu người đó không làm được những điều tốt đẹp, đúng như ý mình muốn thì thôi, đó là chuyện của họ. Nếu mình giận là ngu. Chúng ta ráng làm tròn bổn phận của mình, còn trên đời này có nhiều người phức tạp lắm, chính Thầy nhiều khi cũng rất ngại tập khí con người.
Khi học pháp, ai cũng biết điều hay điều dở, tới chừng gặp việc tập khí vẫn y nguyên không bớt. Như tất cả tụi con đều biết nổi giận la lối là xấu, vậy mà gặp điều trái ý cũng nổi giận đùng đùng. Đó là tập khí nhiều đời. Cho nên tụi con biết tu, có tiến bộ, thấy được đạo, nhưng còn tập khí nhiều đời phải chuyên cần cố gắng bỏ. Không nên theo thói quen của mình, cần phải miên mật tu thời gian dài mới thắng được nó.
Thật ra, tụi con thấy có nhiều Giảng sư nói thao thao bất tuyệt, đến khi gặp duyên vẫn bị rớt như thường. Nói thì đơn giản, tới lúc hành mới khó. Bởi vậy, nhiều khi tụi con có những tập khí nặng, Thầy buộc lòng phải xử phạt. Xử phạt đó là cạo gọt tập khí của tụi con, chớ không phải để làm khổ, làm phiền não chướng ngại sự tu hành. Tập khí tụi con tự bỏ không được, buộc lòng Thầy phải kềm chế, tìm cách gọt giũa cho mau sạch. Cho nên người tu phải ở trong chúng, được thầy lành bạn tốt chỉ dạy, đó là có phước số một. Còn ra cất thất ở riêng, không có ai khuyên nhắc để sửa chữa, tập khí rốt cuộc vẫn còn y nguyên.
Ở đây, tụi con gắng học theo những lời Phật Tổ dạy, thấy được chỗ dở của mình để sửa, nghe lời chỉ bảo nhắc nhở của người lớn và huynh đệ sống chung. Có người lớn tuổi, học được chút ít mà không chịu giũa mài, sau ra làm thầy thiên hạ tập khí còn y nguyên, rồi cũng tham, sân… như người thế gian. Bởi vậy, tất cả phải ráng tu tiến, khắc phục bản thân mình, sau ra làm Phật sự không bị chê cười. Tụi con ở đây coi như bị giam lỏng, tu chừng nào thấy khả dĩ được thì Thầy cho ra làm Phật sự.
***
Hồi sáng có ông nhà nước tới thăm. Theo ông, học chỉ là mở mang kiến thức, nếu người tu chỉ có học thì không phải là người tu. Như vậy, bên cạnh sự học cần có tu. Học rồi phải tu cho có hiệu quả, ra làm Phật sự mới không bị trở ngại. Đừng nghĩ phải đi học cho có bằng cấp này bằng cấp nọ rồi không chịu điều phục mình, tập khí vẫn còn nguyên, có ích gì cho đời tu?
Những lời Phật dạy, chúng ta hiểu, ứng dụng tu rồi mới thấy vô cùng thâm sâu. Vậy nên tụi con phải ráng, đừng để giống như đài phát thanh hay cuộn băng nhựa, thâu bao nhiêu phát ra bấy nhiêu, không có hồn gì cả. Khi tu thấy như nhọc nhằn, tập khí lâu đời phải cạo gọt cho sạch, trâu đen thành trâu trắng, nói được những lời từ Vô sư trí, lúc ấy đem ra sử dụng mới tốt.
– Thưa Thầy, kinh Bát-nhã nói: “vô trí diệc vô đắc”, trí đó là Bát-nhã ba-la-mật, sao lại nói là không trí không đắc?
Tinh thần Bát-nhã là phủ nhận tất cả, không có Tứ đế, không có Thập nhị nhân duyên, rồi cuối cùng không chứng cũng không đắc. Tứ đế là Thanh văn, Thập nhị nhân duyên là Duyên giác, trí đắc là Bồ-tát. Địa vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều còn trong đối đãi nên phủ nhận hết để đưa tới cứu kính Niết-bàn. Sau đó dùng trí lực độ chúng sanh. Đây là trí căn bản, sẵn có nơi mình, chớ không phải trí thức học ở ngoài. Căn bản trí còn gọi là Vô sư trí.
***
Có một cô Mỹ hỏi Thầy mười câu hỏi, nay Thầy nhớ câu nào kể lại câu đó cho tụi con nghe.
Hỏi: Sự liên quan giữa con người với vũ trụ như thế nào?
Thầy trả lời: Rất là mật thiết!
Hỏi: Đạo Phật chủ trương từ bi. Nay mình ngồi trong nhà còn thiên hạ đau khổ ở ngoài, sao gọi từ bi được?
Thầy đáp: Tất cả đều là duyên nghiệp. Chính mỗi người tự chọn lấy nghiệp riêng của mình. Dù thương cũng khó cứu được, chỉ cố gắng tu, đem đạo lý dạy họ chuyển nghiệp.
Hỏi: Người thân của mình làm những điều xấu ác, mình có nên giận hay không?
Đáp: Không nên giận. Tại sao vậy? Ví dụ có người thân của mình đang đứng bên vực thẳm, sắp rớt xuống vực, lúc đó mình nên giận hay nên thương?
– Dạ, thương.
– Phải, vì nếu họ làm lành sẽ được đi chỗ tốt, nay họ làm điều xấu ác, sắp rớt xuống vực thẳm thì rất đáng thương, đâu nên giận. Trong cuộc sống, nếu có ai lầm lỗi, chúng ta nên thương xót hơn là phiền trách họ. Vì ngu mê không biết đúng sai, nên mới gây tạo nghiệp xấu dở như vậy.
Hỏi: Đạo Phật dạy từ bi và cũng dạy phản quan tự kỷ. Phản quan tự kỷ là xoay lại mình, không lo cho người ở ngoài, mà không lo cho người thì không có từ bi. Như vậy có mâu thuẫn không?
Đáp: Điều này không mâu thuẫn. Vì sao? Bằng chứng như Tăng Ni ở đây tu, trước phải phản quan soi sáng lại mình, biết cái gì xấu dở để chừa bỏ. Khi dẹp bỏ hết cái xấu dở rồi, Bản tâm trong sáng, lúc ấy mới ra làm Phật sự giúp người. Nếu không dẹp hết những cái xấu dở đó, khi ra làm sẽ bị mắc kẹt ở danh lợi. Vì vậy, trước phải phản quan tự kỷ rồi sau mới từ bi, có hệ thống chớ không phải mâu thuẫn.
Hỏi: Trên thế giới này có nên đi tu hết không?
Đáp: Trên thế giới chỉ có một ít đi tu thôi. Tại sao vậy? Vì đi tu là việc làm rất khó, đòi hỏi quyết tâm nhiều, hi sinh lớn.
Ở đây tụi con có quyết tâm, có hi sinh không? Lâu lâu có cãi nhau không? Khi nào người ta làm việc nhẹ, mình làm việc nặng, bực bội không? Nếu bực bội thì đâu có hi sinh. Còn tới giờ toạ thiền có rề rà chầm chậm không? Nếu có là không quyết tâm.
Hỏi: Trên đường tu của quí Thầy Cô có điều gì khó nhất?
Đáp: Thông thường, người ta nói bỏ nóng giận là khó, trừ tham lam là khó. Còn Thầy nói trên đường tu, điều khó nhất là Phật dạy lẽ chân thật, biết rõ mà sống không được. Thí dụ Phật dạy thân này là vô thường, bất tịnh; biết rõ vô thường bất tịnh mà ai chê xấu thì buồn, nghe nói chết liền sợ. Lẽ ra biết nó bất tịnh thì cứ mặc người chê, có gì quan trọng. Tại sao người ta chê chịu không nổi? Vì biết rõ mà không sống được. Phật lại dạy tâm vọng tưởng là hư dối, bỏ cái hư dối đó được Tâm chân thật, vậy mà khó ai bỏ được. Phật dạy thì tin nhưng làm không nổi, đó là cái khó.
Hỏi: Đạo Phật dạy đừng dính mắc, vậy dính mắc là trúng hay sai?
Đáp: Câu hỏi này còn tùy trường hợp. Nếu nói thuần trong đạo, đối với người tu thì không dính mắc là đúng, còn đối với người thế gian vẫn cho dính mắc miễn là hợp lý. Thí như người làm ruộng thì cho họ được tham là cầu mong trúng mùa. Cầu trúng mùa là tham, là dính mắc, nhưng hợp lý vì họ còn phải nuôi sống gia đình, đóng góp cho xã hội. Các ngành khác cũng vậy. Tham hợp lý thì được, nhưng đừng quá tham rồi lo gom góp, vơ vét của người là không được.
Tụi con thấy, chúng ta phải khéo dạy sao cho người ta hành được, không nên khẳng định không cho dính mắc, như vậy sẽ gây trở ngại cho sanh hoạt thế gian.
Hỏi: Bạch Thầy, con tập toạ thiền là có điên rồ không?
Đáp: Con ở ngoài thế gian mà đến xin toạ thiền là sáng suốt chớ không điên rồ. Tại sao Thầy nói là sáng suốt? Bởi vì ở thế gian bao nhiêu điều phiền hà lôi kéo, tâm con rối loạn, giờ vào đây toạ thiền để tâm lóng lặng, tâm lặng thì trí sáng. Đó là sáng suốt chớ không phải điên rồ, con đừng sợ.
Hỏi: Bạch Thầy, đôi khi ngồi thiền con có cảm giác như bay bổng, đến khi nói chuyện với người thì cảm giác đó không còn nữa, vậy là sao?
Đáp: Trong nhà Phật dạy mình khi toạ thiền thấy như bay bổng là ảo giác không thật. Nên nếu có thấy rồi một lúc cũng hết.
***
Năm rồi Thầy dạy tụi con giữ lục hoà, năm nay Thầy giao tụi con phải mở sáng con mắt trí tuệ. Lục hoà là phương pháp để sống cho an ổn. Nhờ an ổn, trí tuệ mình sáng lên, rồi mới thực hiện lòng từ bi.
Ai cũng nghĩ từ bi là cho cơm cho áo, sự thật từ bi không phải mục đích đó. Từ bi là làm sao tự mình biết có cái thật, rồi chỉ cho người cùng biết, cứu người ta thoát khổ muôn đời. Nếu chúng ta cho người cơm áo, họ bớt khổ trong đời này nhưng vẫn cứ mê muội, tiếp tục tạo nghiệp, khi hết thân này tới thân khác họ cũng khổ nữa. Còn nếu mình chỉ cho họ biết người nào cũng có Tánh giác, tánh Phật sẵn, nếu khéo tu sẽ trở về Bản tánh sẵn có thì thoát được khổ luân hồi.
Trong kinh Phật dạy: Cái khổ bị thiêu đốt ở địa ngục chưa phải là khổ, cái khổ làm ngạ quỉ đói khát cũng chưa phải là khổ, cái khổ làm lạc đà hay trâu ngựa kéo xe, bị đánh đập chưa phải là khổ, chỉ có chúng sanh mê muội không biết đường đi mới khổ, vì đó là khổ muôn đời. Khổ trong địa ngục rồi cũng có ngày ra, làm thân trâu ngựa còn có kỳ chấm dứt, chỉ có cái mê muội không biết bao giờ mới hết.
Đức Phật mong cho chúng sanh hết mê muội nên chỉ cho biết lẽ thật. Thấy được lẽ thật là giác, giác tức sáng suốt hết mê muội, đó là gốc của sự tu. Bởi vậy trọng tâm của đạo Phật là giác ngộ, tự giác cho mình rồi giác tha, đó là từ bi. Không phải làm từ thiện lo cơm lo áo mới là từ bi. Đó là phụ, bố thí tài không quí bằng bố thí pháp. Bố thí tài chỉ giúp người đỡ khổ một lúc, còn thí pháp giúp người vĩnh viễn thoát khổ tử sanh.
Ý nghĩa tu hành là như vậy đó, nên năm nay tụi con phải mở sáng con mắt trí tuệ nghen! Đứa nào mở mắt được lại trình cho Thầy mừng.
***
Chúng sanh chấp mình là thật, thân thật và tâm thật. Chấp thân này là thật, nên khi những nhu cầu vật chất mình có quyền hưởng mà ai đoạt mất thì tức tối nổi sân. Lúc nổi sân có ngầm si và tham trong đó. Do si nên ngỡ thân này thật, từ si sanh ra tham.
Kế đó là si mê về tâm. Khi tụi con nghĩ, liền cho là tôi nghĩ, tôi tính, nhưng cái nghĩ đó có phải thật tôi không? Nếu thật tôi thì lúc nào cũng phải hiện tiền, phải có mặt. Thế nhưng cái nghĩ khi thế này, lúc thế nọ, có ai bảo đảm cái nghĩ của mình luôn đúng một trăm phần trăm không? Không đúng một trăm phần trăm mà người khác cãi là chúng ta giận. Đó mới là cái vô lý!
Có khi mình nghĩ, ba hoặc năm năm nữa mình sẽ làm cái này cái nọ, ai dè tới lúc đó chết mất. Đừng nói chi xa, thí dụ quí Phật tử ở thành phố, nghĩ mình lên Trúc Lâm sẽ gặp người này hoặc làm việc kia. Đến lúc lên đây hoàn cảnh thay đổi, mọi việc không còn như mình nghĩ, vậy mà ai cãi lại là mình giận. Như vậy chấp vào cái gì mà giận? – Vì cho cái nghĩ là thật tâm mình. Điều không thật lại cho là thật, đó là si mê. Từ si mê nên bảo thủ, ai nghĩ khác mình nổi sân lên rồi tranh đấu.
Như vậy, nếu không chấp thân này là thật và không chấp cái suy nghĩ là thật thì còn gì để hơn thua hay giành giật, phiền não với nhau? Người muốn giải thoát phải nhận chân lẽ thật là thân này tạm bợ, vọng tưởng hư dối để đi sâu vào cái chân thật. Si mê là chấp hai cái giả đó cho là mình. Tụi con ở đây tu khá rồi mà còn chấp hai cái tạm bợ đó không? Tu khó giải thoát là ở chỗ đó. Tụi con thấy thân này hết sức mong manh, đang khỏe mạnh bất thần đứt mạch máu ngã ra chết. Đức Phật dạy thân là duyên hợp, lâu ngày cũng sẽ tan hoại, không có gì bền vững. Một cái không bảo đảm, không thật vậy mà cứ chấp chặt một trăm phần trăm, hễ thứ gì thuộc về mình thì cố giữ gìn, ai động tới là nổi sân.
Cái suy nghĩ cũng vậy, tốt xấu, đúng sai đủ thứ, thế nhưng vẫn chấp cái nghĩ của mình là đúng, ai nghĩ khác nổi giận. Nếu hai cái đó tụi con không chấp thì đâu còn phiền não. Tu dễ ợt chớ đâu có khó! Chỉ vì mình cố chấp nên mới khổ. Lẽ thật là như vậy. Tụi con không cần nói lý gì cao xa, chỉ nhớ thân này không thật, suy nghĩ này không thật. Nhớ luôn luôn như vậy, tụi con dụng công ít mà kết quả nhiều, còn nếu cứ chấp thân tâm thật, dù cố gắng ngồi thiền đêm này qua đêm kia cũng không đi tới đâu, xả thiền ra vẫn sân si như thường.
Vậy nên phải biết nắm vững trọng tâm sự tu ở chỗ nào. Chúng ta ngồi thiền để thấy thân và tâm không thật, phá tan cái chấp lầm muôn thuở. Chấp thân nhẹ hơn chấp tâm. Vì thấy thân vô thường dễ thức tỉnh, còn tâm nhỏ nhiệm khó nhận nên khó phá.
Sống trong huynh đệ, khi qua lại với nhau, có điều gì dù hợp lý hay không hợp lý cũng luôn luôn nhớ thân này giả tạm không thật thì không còn hơn thua. Biết suy nghĩ không thật thì đâu cần cãi cho ra lẽ. Lẽ phải cũng không thật, càng cãi càng thấy ngu si. Vậy đó mà khi ai nói trái ý cứ ngồi giãi bày, muốn cho mình đúng hơn người ta. Tụi con phải nhớ vọng tưởng không có gì đúng cả, chỉ do chấp mà sanh chuyện.
***
Có nhiều Phật tử tại gia cứ nghĩ mình tu ở nhà khó tiến, phải xuất gia tu mới tiến. Nay quí Thầy nói cho Phật tử hiểu rõ. Phàm cái gì quá thừa thì thành dở. Nếu xuất gia lúc còn khỏe, còn trẻ, đủ sức học hành, toạ thiền tụng kinh… theo kịp mọi thời khoá, mọi công tác, sau nhiều năm dài đầu tư, đủ sức để đi truyền bá. Được như vậy, người tu là một của báu, nên gọi là “Tăng bảo”. Còn già rồi đi tu, vô chùa không có con cháu, không ai làm Thị giả, đến lúc bệnh ai lo? Nuôi một người già có nhiều vấn đề. Người già đau hoài, cần có thuốc men, đi không vững phải có người đỡ đần, ăn chung với chúng không nổi phải ăn riêng… Như thế người già vô chùa tu vô tình là một gánh nặng trong đạo, không khéo dễ bị tổn phước.
Vì vậy đối với quí Phật tử lớn tuổi, khuyên rằng nên ở nhà tu, tạo điều kiện tốt, đơn giản, việc ăn ở gọn lại, đừng phiền hà ai, rảnh bao nhiêu tu bấy nhiêu, có dư dả thì cúng dường thêm. Như vậy là có phước nhiều rồi. Còn mình muốn vô chùa tu cho tiến, vô tình lại là gánh nặng của chùa mà không có lợi gì, quí Phật tử phải hiểu điều đó.
Còn một vấn đề nữa, lâu nay quí Phật tử thường nghĩ người tu phải làm lợi ích chúng sanh, mà sao quí Thầy Cô ở đây tu cứ im lặng trong Thiền viện năm bảy năm, không làm gì cho ai cả, vậy có ích kỷ không? Thầy sẽ giải thích cho quí Phật tử hiểu.
Ở ngoài đời, một đứa học trò nếu muốn ngày mai làm lợi ích cho xã hội, có khả năng dựng xây đất nước thì phải dồn sức học ít ra cũng hơn mười năm. Học rồi ra trường mới làm được việc này việc nọ. Trong thời gian này nó chăm chỉ học, không làm gì cho ai cả. Đó có phải tiêu cực không? Đâu có tiêu cực, nó chăm chỉ học cho giỏi, sau ra giúp xã hội, đất nước hữu hiệu hơn.
Ở đây cũng vậy, chư Tăng chư Ni còn trẻ, có học, ham tu, quí Thầy cho vào đây chuyên tu năm mười năm. Trong thời gian chuyên tu phải dồn hết tâm lực cố gắng tu cho tiến bộ đáng kể, tới chừng Thầy theo Phật mới có thể mở mang nơi này nơi kia. Còn mấy người mới tu hai ba năm đẩy ra làm việc, rốt cuộc vì cái dở của họ chưa bỏ được mà đã lo giáo hoá người, lâu ngày cũng thành một nhóm anh em dở với nhau.
Ở đây Thầy chủ trương phải tu cho chín chắn, đáng tin cậy, sau ra làm Phật sự mới đem lại lợi ích cho đạo, cho Phật tử nhiều hơn. Tu như vậy không phải là tiêu cực. Nói thế cho quí vị hiểu tại sao ở đây Thầy khó khăn, không cho quí Thầy Cô ra khỏi nội viện. Ở trong này tu trong mọi công việc, giả sử đang nấu bếp cũng tu, cuốc đất cũng tu, không được nói chuyện ồn ào. Không phải tới giờ ngồi thiền lặng lẽ mới tu. Mỗi khi phóng ý chạy theo ngoại cảnh đều phải buông xả, đó là tu. Dù làm việc gì trong phạm vi này đều là tu hết. Như vậy cả ngày tu chớ không phải hai ba buổi ngồi thiền mới tu. Đó là chủ trương tu hành của Thầy ở Thiền viện này.
Trang trước | Mục lục |