Thông tin sách

Kinh Báo Ân Cha Mẹ

Kinh Báo Ân Cha Mẹ

 Thể loại:

Kinh

 Tình trạng:

Hoàn thành 0 Chương
Đánh giá: 10 /10 từ 0 lượt

Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại Tinh xá Kỳ Hoàn, thuộc nước Xá-vệ, cùng chư Đại Bồ-tát và chúng Đại Tỳ-kheo.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cùng đại chúng đi về phía nam Tinh xá, thấy một đống xương khô, Ngài liền cúi lạy.

Tôn giả A-nan thấy lạ, thưa hỏi : “Bạch Đức Thế Tôn! Ngài là Đạo Sư của chúng sanh, là Từ phụ của muôn loài, ai cũng tôn kính, tại sao lại lạy đống xương khô này một cách cung kính như vậy?”

Đức Thế Tôn dạy: “A-nan! Ông tuy là đệ tử thượng túc của Như Lai, nhưng hiểu biết còn nông cạn. Đống xương khô này hoặc là tổ tông kiếp trước, hoặc là cha mẹ nhiều đời của Như Lai, nên Như Lai chân thành kính lạy.

Ông hãy đem đống xương khô này chia làm hai phần: Nếu là nam thì xương trắng mà nặng, nếu là nữ thì xương đen lại nhẹ.”

Tôn giả A-nan thưa : “Bạch Đức Thế Tôn! Nam nữ khi còn sinh tiền nhờ hình dáng mà nhận biết, nay chết rồi chỉ một đống xương khô như nhau, làm sao phân biệt?”

Đức Thế Tôn dạy: “A-nan! Người nam khi sống tịnh tu phạm hạnh, đa văn, thiền quán, nên xương trắng và nặng. Người nữ sinh sản, huyết sữa hao tổn, mệt nhọc lao khổ, nên xương đen mà nhẹ.”

Tôn giả A-nan nghe Đức Thế Tôn dạy như vậy, đau lòng rơi lụy, thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Ân đức cha mẹ thế nào? Làm sao báo đáp?”

Đức Thế Tôn dạy: “A-nan! Hãy nghe cho kĩ, Như Lai sẽ vì ông nói.

A-nan! Mười tháng mang thai, mẹ rất khổ sở. Thai mang một tháng đầu như hạt sương trên cỏ, tụ tán mong manh. Tháng thứ hai như váng sữa. Tháng thứ ba như huyết đọng. Tháng thứ tư mới tụ hình. Tháng thứ năm mới có đầu, hai tay, hai chân. Tháng thứ sáu các giác quan mới tượng hình. Tháng thứ bảy mới có gân cốt lông da. Tháng thứ tám mới có lục phủ ngũ tạng. Tháng thứ chín mới thành thai nhi, hấp thụ nguyên khí của mẹ mà sống. Qua tháng thứ mười mới khởi sự chuyển sanh. Nếu hiếu thuận thì hài nhi xuôi tay mà ra, không thương tổn mẹ. Nếu ngỗ nghịch thì cào cấu đạp phá, làm mẹ đau đớn vạn trạng. Thế nên thân này sinh ra được thật là may mắn phước đức.

A-nan! Ân đức cha mẹ có mười điều:

“Một là mang thai và giữ gìn. Vì nghiệp lực nên chúng sanh vào thai mẹ. Mẹ mang thai lâu ngày khổ sở, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội đá, đi đứng ngại gió mưa, không thiết sửa soạn áo quần, chẳng màng trang điểm mày mặt.

Hai là sinh sản khổ sở. Đến tháng thứ mười, gần ngày sinh nở, đêm đêm như bệnh nặng, ngày ngày tợ hoàng hôn. Khiếp hãi lo nghĩ, lệ sầu tuôn rơi, chỉ sợ tử thần không dung tánh mạng.

Ba là sinh rồi quên lo. Trong khi sinh đẻ, gan ruột từ mẫu tuồng như xé rách, đau đớn mê man, máu huyết dầm dề. Nhưng nghe con an toàn thì vui mừng quên hết. Song vui đó lại buồn đó, lo nghĩ siết ruột gan.

Bốn là nuốt đắng nhổ ngọt. Tình thương cha mẹ thật sâu nặng, thương mến có bao giờ nhạt phai. Nhổ ngọt không tiếc nuối, nuốt đắng nào phiền hà. Thương mến càng sâu đậm, bi sầu càng tăng thêm. Miễn sao con no ấm, đói khát mẹ nào từ.

Năm là nhường khô nằm ướt. Mẹ nằm chỗ ướt lạnh, đặt con chỗ ấm khô. Đôi vú mộng căng cho con khỏi đói khát, hai tay che sương gió để con khỏi lạnh lẽo. Yêu thương quên ngủ nghỉ, sủng ái hết giá lạnh. Chỉ mong con yên ổn, mẹ hiền không cầu an.

Sáu là bú mớm nuôi nấng. Mẹ hiền ơn hơn đất, cha nghiêm đức quá trời. Che chở ơn cao dày, cha mẹ nào tính toán. Không hiềm không mắt mũi, không ghét què chân tay. Con sinh ra từ bụng mẹ, còn đổi dạ thương ai.

Bảy là tắm rửa săn sóc. Không nghĩ thân phận mình, chỉ lo con bệnh tật, hết lòng tắm rửa, săn sóc. Áo quần lo cho con, rách rưới mẹ cam chịu. Thân con ấm áp là lòng mẹ ấm áp.

Tám là xa cách thương nhớ. Chết từ biệt vô cùng khó nhẫn; sống biệt ly lại càng nhớ thương. Con đi đường xa cách, lòng mẹ bóng theo hình. Ngày đêm không thư dạ, sớm tối nào tạm quên. Khóc như vượn nhớ con, thương nhớ nát can trường.

Chín là vì con làm ác. Lao khổ đủ muôn bề, bữa ăn rất khó kiếm. Vì muốn con no ấm, việc ác mẹ nào từ. Nuôi khôn lớn, lo gầy dựng. Lo cơm áo, sợ cơ hàn. Kho nấu bao sinh vật, cũng vì ngon miệng con.

Mười là thương mến trọn đời. Ân đức cha mẹ cao sâu hơn trời đất. Hi sinh tất cả, vẫn thấy chưa vừa lòng. Mẹ già trăm tuổi còn thương con tám mươi. Tình thương chỉ ngừng lại ở hơi thở cuối cùng.”

Đức Thế Tôn lại dạy: “A-nan! Như Lai xét thấy chúng sanh tuy làm thân người, tâm trí vẫn còn tối tăm. Không biết ân đức cha mẹ cao dày. Không biết kính trọng, vong ân bội nghĩa. Không lòng mến thương, bất hiếu bất mục. Từ mẫu mang thai mười tháng, đứng ngồi không yên, như gánh gánh nặng, ăn uống không thông như bệnh lâu ngày. Khi đủ ngày tháng, sắp sửa sinh con, chịu đủ khổ sở, khiếp sợ tử thần, tánh mạng mong manh. Như vật bị hại, huyết chảy tràn đất. Mẹ khổ đến thế mới sinh ra ta. Sinh rồi nuốt đắng nhổ ngọt, bồng ẵm nuôi nấng, không kể mệt nhọc, chịu nắng chịu mưa, không từ cay đắng. Chỗ khô con nằm, chỗ ướt mẹ lăn. Suốt trong ba năm, nhờ huyết sữa mẹ mới thành đứa bé. Đến khi khôn lớn, lo việc giáo dục, lo việc hôn nhân, kinh doanh sản nghiệp, tận tụy lao lực. Khổ nhọc suốt đời, không kể công khó. Con cái tật bệnh, cha mẹ bệnh theo, bệnh con nếu hết, cha mẹ mới lành.

Thế mà trưởng thành lại bất hiếu. Hỗn hào với cha mẹ, phùng má trợn mắt. Khinh khi chú bác, đánh đập anh em. Phỉ nhục bà con, không trọng lễ nghĩa. Thầy dạy không nghe, cha mẹ răn bảo không thèm vâng lời. Gây gỗ với anh em trong nhà, đi về không trình cha mẹ. Lời nói, hành động thô bạo, làm việc tự chuyên, manh động. Cha mẹ quở trách, chú bác răn đe thì sinh sân hận, chống trả phản nghịch, bất kể công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.

Bỏ bạn tốt, theo kẻ xấu, huân tập tánh ác, trở nên cuồng bạo. Bỏ gia đình, rời cha mẹ, lang bạt giang hồ. Hoặc theo người chinh chiến xâm lược, hoặc phạm tội bị biếm truất tù đày, hoặc bị khốn khổ đói khát, hoặc gặp tai nạn hiểm nguy. Bỏ mạng nơi xứ người, thây phơi ngoài sương gió, xương trắng bộc lộ ngoài trời. Để cho cha mẹ nhớ thương sầu khổ, khóc đến lòa mắt, bi ai thành bệnh. Có khi buồn khổ đến nỗi tử vong.

Hoặc mê tín dị đoan, không lo học tập, xao lãng nghề nghiệp, mặc cho cha mẹ u buồn. Hoặc cờ bạc, hoang đãng, phóng túng, tội lây đến cha mẹ, họa đến bà con.

Cha mẹ đau bệnh không hay, đói lạnh không biết. Xem cha như nợ, xem mẹ như khách, không hỏi han, chẳng đoái hoài. Cha mẹ buồn tủi, cô đơn, lạnh lẽo, phải ngủ nhờ, ăn xin, ngày đêm than thở, bi thảm muôn vàn, con cái không thèm hay biết. Dù hay biết lại cho là xấu hổ.

Đáng trách hơn nữa là khi thấy cha mẹ, vì tuổi cao lại buồn khổ nhiều, nên thân hình gầy gò xấu xí, thì sinh tâm bực tức, mắng nhiếc liên tục. Cha mẹ công ơn to lớn, đáng dâng cả xương thịt phụng dưỡng, nhưng trái lại cho một bữa cơm còn không muốn, sợ người chê cười. Còn với vợ con, phục dịch hết mình, đổ mồ hôi, sôi nước mắt, cho hết gia sản vẫn cam tâm.

Thê thiếp sai bảo, nhất nhất thi hành, cha mẹ khuyên răn, không thèm đếm xỉa. Con gái khi chưa chồng còn hiếu thuận, lấy chồng rồi trở nên bất hiếu. Cha mẹ hơi rày đã sanh oán giận, chồng đánh mắng lại một bề cam chịu. Khác họ khác dòng mà tình nặng nghĩa sâu, người sinh mình dưỡng mình lại xem như nước lã. Mê theo chồng con quên cả ngày tháng, còn cha mẹ không một lời hỏi thăm.

Ân đức cha mẹ vô lượng vô biên, tội bất hiếu cũng vô cùng vô tận, nói không hết, tả không cùng.”

Đại chúng nghe Đức Thế Tôn nói về ân đức vô lượng của cha mẹ như vậy thì toàn thân rúng động, hơi thở như ngừng lại, mồ hôi toát ra, lặng đi một lát, mới cao tiếng than: “Chúng ta là những kẻ khốn nạn, đáng trách. Từ trước đến giờ mù mờ như kẻ đi đêm, ngày nay mới biết việc mình làm là sai lầm, tội lỗi.” Lòng đau thương, tâm thống khổ, cùng thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Ân đức cha mẹ cao sâu như vậy, đệ tử chúng con làm sao báo đáp?”

Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng tiếng Phạm âm như tiếng hải triều, nói với đại chúng: “Giả như có người vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, cắt da đến xương, nghiền xương thấu tủy, máu đổ thịt rơi, vẫn không thể báo đáp ân sâu cha mẹ. Giả như có ai, gặp lúc đói khát, đem thân thể cung phụng cha mẹ, cũng không báo được ân đức cha mẹ. Trăm kiếp ngàn đời móc tròng mắt, cắt tim gan, dao bén đăm khắp thân, cũng không trả nổi ân đức cha mẹ. Cho đến vì cha mẹ, lấy thân làm đèn hiến cúng Như Lai, cũng không báo được hồng ân cha mẹ.”

Đại chúng nghe nói lòng càng đau đớn, đồng thanh thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Vậy làm sao mới báo được ân đức cha mẹ?”

Đức Thế Tôn dạy : “Chư Phật tử ! Các ngươi muốn báo ân cha nghĩa mẹ phải thân hành sao chép, trì tụng, thực hành Kinh này. Phải biết sám hối tội lỗi thay cho cha mẹ, khuyến khích cha mẹ thực hành chánh pháp tối thượng. Phải vì cha mẹ mà giữ tịnh giới, làm bố thí, hành hạnh lợi tha. Được như vậy mới là hiếu tử. Còn kẻ bất hiếu cha mẹ sẽ rơi vào địa ngục.

Ân đức cha mẹ cao cả bao nhiêu thì tội báo bất hiếu cũng nặng bấy nhiêu. Những kẻ bất hiếu, quên ân cha mẹ, tương lai phải thọ tội khổ vô cùng, không chi sánh bằng, không thể nói hết.

Những ai truyền bá, thực hành Kinh này là chân chính báo đáp thâm ân cha mẹ. Vì muốn báo đáp thâm ân cha mẹ mà ấn hành Kinh này, cứ mỗi cuốn như gặp được một Đức Như Lai. Do uy lực của chư Như Lai, hợp với phước đức của người trì tụng, thực hành Kinh này, cha mẹ người ấy sẽ được phước lạc vô biên, cho đến dần dần được giải thoát.”

Bấy giờ đại chúng nghe Đức Thế Tôn dạy bảo như vậy, đều phát thệ nguyện: “Từ nay cho đến tận cùng vị lai, dù sắt nóng thiêu đốt đầu mặt, chúng con cũng nguyện không trái lời dạy của Đức Thế Tôn.”

Tôn giả A-nan thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Kinh này gọi là gì? Chúng con làm sao phụng trì?”

Đức Thế Tôn dạy: “A-nan! Kinh này tên là Kinh Báo Ân Cha Mẹ. Các ngươi cứ theo như tên Kinh mà phụng trì.”

Khi Đức Thế Tôn dạy xong, tất cả đại chúng đều vui vẻ, tin nhận, vâng làm.

 

 


Sách mới nhất

Mục lục

Bình luận