Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa

24. Tổ Sư Tử (Cuối thế kỷ thứ IX sau Phật Niết-bàn)



Ngài dòng Bà-la-môn, người Trung Ấn. Thuở nhỏ, Ngài rất thông minh, tài hùng biện xuất chúng. Ngài có người em tên Long Tử cũng thông minh như thế. Trước, Ngài thọ giáo với thầy Bà-la-môn, em Ngài lại xuất gia tu theo Phật giáo. Khi Long Tử tịch, Ngài có cơ hội gặp Tổ Hạc-lặc-na và hồi đầu thọ giáo với Tổ. Khi Tổ sắp tịch, truyền tâm pháp lại cho Ngài.

Ngài sang nước Kế Tân hoằng hóa. Trong nước này, trước có vị Sa-môn tên Bà-lợi-ca, chuyên tập thiền quán Tiểu thừa. Môn đồ của Bà-lợi-ca, sau lại chia làm năm phái: 1. Thiền định, 2. Tri kiến, 3. Chấp tướng, 4. Xả tướng, 5. Tịnh khẩu. Họ tranh nhau giành phần hơn. Ngài đến các phái ấy, dùng biện tài vô ngại chiết phục được bốn phái. Duy phái Thiền định, người cầm đầu là Đạt-ma-đạt, hay tin này, tức giận tìm đến cật nạn Ngài. Vừa gặp Ngài, Đạt-ma-đạt nói:

– Muốn gặp nhau vấn nạn mới đến đây.

Ngài hỏi:

– Nhân giả tập định sao lại đến đây? Nếu có đến đây thì đâu phải thường tập định?

Đạt-ma-đạt nói:

– Tôi đến chỗ này mà tâm cũng không loạn, định tùy người tập, đâu phải tại chỗ nơi.

Ngài hỏi:

– Nhân giả lại đây thì cái tập kia cũng đến. Đã không phải chỗ nơi thì đâu tại người tập?

Đạt-ma-đạt nói:

– Vì định tập người, chẳng phải người tập định. Tuy tôi có đi lại mà cái định ấy vẫn thường tập.

Ngài hỏi:

– Người chẳng tập định, vì định tập người. Vậy chính khi người đi lại, thì cái định ấy tập ai?

Đạt-ma-đạt nói:

– Như hạt minh châu sạch, trong ngoài không bị che, nếu định được thông đạt cũng lại như thế.

Ngài bảo:

– Nếu định thông đạt giống như hạt minh châu. Nay thấy nhân giả không thể sánh được với hạt minh châu.

Đạt-ma-đạt nói:

– Hạt châu kia sáng suốt, trong ngoài đều định. Tâm tôi không loạn ví như hạt châu ấy.

Ngài bảo:

– Châu kia không có trong ngoài, nhân giả làm sao hay định? Vật nhơ chẳng dao động, định này chẳng phải sạch.

Đạt-ma-đạt biết nghĩa mình bị bẻ gãy, càng kính phục, đảnh lễ bạch Ngài:

– Con học đạo còn sơ thiển, nếu không được lời chỉ dạy của Tôn giả, làm sao biết được chỗ tột. Cúi xin Tôn giả thương xót nhận con làm học trò.

Ngài dạy thêm:

– Thiền định của chư Phật không có sở đắc. Giác đạo của chư Phật không có sở chứng. Không đắc không chứng là chân giải thoát. Đền nhân trả quả là nghiệp báo của thế gian, ở trong pháp này (chân giải thoát) ắt chẳng như thế. Ngươi nếu tập định nên tập như vậy.

Đạt-ma-đạt vui vẻ vâng lời dạy.

Một hôm, có ông trưởng giả dẫn đứa con đến yết kiến Ngài. Trưởng giả thưa:

– Thằng con tôi đây tên là Tư-đa, từ khi sanh ra cho đến giờ (20 tuổi) mà bàn tay trái vẫn nắm chặt lại, chưa từng mở ra. Xin Tôn giả từ bi nói rõ nhân đời trước của nó cho tôi hiểu.

Ngài nhìn thẳng vào mặt Tư-đa, rồi đưa tay bảo:

– Trả hạt châu lại cho ta!

Tư-đa liền xòe tay dâng hạt châu cho Ngài. Ông trưởng giả và đồ chúng thấy thế đều ngạc nhiên. Ngài giải thích:

– Thuở quá khứ, ta làm vị Tỳ-kheo, thường được Long Vương thỉnh xuống Long cung tụng kinh. Khi ấy, Tư-đa này cũng theo ta xuất gia, tên Bà-xá. Một hôm, Long Vương thỉnh ta đi tụng kinh, Bà-xá theo làm thị giả. Tụng kinh xong, Long Vương cúng hạt châu đáp lễ. Ta nhận, trao cho thị giả giữ trong tay. Ta tịch, sanh nơi đây, vì nhân duyên thầy trò chưa hết, nên lại gặp nhau tại hội này.

Ông trưởng giả nghe được tiền duyên của con mình, hoan hỷ cho Tư-đa theo Ngài xuất gia.

Ngài xét duyên xưa và nay nên hợp hai tên lại đặt là Bà-xá-tư-đa. Nhận Bà-xá-tư-đa rồi, Ngài triệu tập Thánh chúng làm lễ truyền giới.

Sau đó, Ngài gọi Bà-xá-tư-đa lại bảo:

– Nơi nước này sắp có tai nạn đến cho ta, nhưng tuổi ta đã già yếu, đâu mong lánh thoát làm gì. Ta đã được truyền đại pháp nhãn tạng của Như Lai, nay trao lại cho ngươi, ngươi nên phụng trì và mau đi khỏi nước này, lấy sự giáo hóa làm nhiệm vụ. Nếu có người nghi ngờ nên trình y Tăng-già-lê của ta đây làm tin. Nghe ta nói kệ:

Chánh thuyết tri kiến thời,

Tri kiến câu thị tâm.

Đương tâm tức tri kiến,

Tri kiến tức vu kim.

Dịch:

Chính khi nói tri kiến,

Tri kiến đều là tâm.

Chính tâm tức tri kiến,

Tri kiến tức hiện nay.

Bà-xá-tư-đa nhận lãnh tuân hành, ngay hôm ấy đi nơi khác.

Lúc ấy, trong nước Kế Tân có hai người ngoại đạo giỏi pháp huyễn thuật, mưu đồ ám sát nhà vua, nhưng còn ngại bại lộ cơ mưu, nên chúng đổi hình Tỳ-kheo đi làm việc gian ác ấy. Quả nhiên bị quân quan bắt được. Vua Di-la-quật hay việc này nổi cơn phẫn nộ, ra lệnh triệt hạ chùa chiền, bắt nhốt Tăng chúng.

Vua trách:

– Lâu nay ta sùng kính Phật giáo, quý trọng Tỳ-kheo, mà nay họ lại manh tâm sát hại ta, vậy còn đạo đức chỗ nào?

Bởi sự tức giận ấy, nhà vua đích thân cầm gươm báu đến chỗ Ngài Sư Tử hỏi:

– Thầy được không tướng chưa?

Ngài đáp: – Đã được.

– Đã được, thì còn sợ sống chết chăng?

– Đã lìa sống chết thì đâu có sợ.

– Chẳng sợ có thể cho ta cái đầu chăng?

– Thân chẳng phải cái của ta, huống nữa là đầu.

Vua liền chặt đầu Ngài rơi xuống đất. Nơi cổ phun lên dòng sữa trắng cao chừng một trượng. Cánh tay mặt của vua Di-la-quật cũng đứt lìa. Bảy ngày sau vua băng. (Duyên nghiệp đời trước của Ngài và nhà vua có ghi rõ trong Thành Trụ Tập và Bửu Lâm Truyện).

Thái tử Quang Thủ lên ngôi, lo mai táng phụ hoàng và thỉnh chúng Tăng cúng dường sám hối. Tăng chúng lo xây tháp thờ Ngài.

Trang trước Mục lục Trang sau


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.