NGÂM BĨU MÔI
Xưa nay một vật chừ cũng sai,
Thân sanh mang nghiệp chừ cũng phải.
Vì sao ngũ uẩn chừ lăng xăng
Bám chặt tứ đại chừ nương tựa.
Bỗng có cao thấp chừ ngắn dài
Tự chịu sanh già chừ bệnh chết.
Người có thạnh chừ thì có suy
Hoa có tươi chừ thì có héo.
Nước có hưng chừ thì có vong
Thời có thái chừ thì có bĩ.
Ngày có chiều chừ thì có mai
Năm có chung chừ thì có thủy.
Trở về ẩn đạo chừ núi rừng
Nguội lạnh lợi danh chừ triều thị.
Thiếu Thất chín năm chừ cùng ta đồng tâm
Hoàng Mai nửa đêm chừ với ta tri kỷ.
Tùy phần chừ Liên Xã chau mày
Rộng chí chừ Triệu Châu răng gõ.
Dù cho trước tiếng chừ gật đầu
Đâu được trong giày chừ động ngón.
Lò hồng không đúc chừ dùi trong đãy
Cọp mạnh đói chừ chẳng liếc mồi.
Minh châu há ngại chừ sóng gió
Sắc chánh sá gì chừ tía hồng.
Đến đây rồi chừ sự lý toàn bày
Cầm giữ, buông bỏ chừ đâu cần nghĩ ngợi.
Trâu đá giữa đêm vào biển đông
Càn ngã san-hô, trăng như nước.
Giảng:
Bĩu môi là trề môi tỏ thái độ không bằng lòng, Thượng Sĩ là người đã giác ngộ mà còn bĩu môi tỏ thái độ không bằng lòng việc gì? Chúng ta hãy đọc kỹ sẽ thấy cái bĩu môi của Ngài.
Xưa nay một vật chừ cũng sai,
Thân sanh mang nghiệp chừ cũng phải.
Là cái bĩu môi của Thượng Sĩ. Lục tổ Huệ Năng đâu không nói “bản lai vô nhất vật” là Bản thể chân thật có sẵn nơi mỗi người; vì không hình tướng, không sanh diệt, không bị vô thường chi phối nên nói không một vật. Nếu nói có một vật là không đúng. Khi ngài Hoài Nhượng tới Lục Tổ, Lục Tổ hỏi:
– Ở đâu đến?
Hoài Nhượng thưa:
– Ở Tung Sơn đến.
– Vật gì đến?
– Nói in tuồng một vật tức không trúng.
– Lại có thể tu chứng chăng?
– Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được.
Qua câu nói này Lục Tổ liền ấn chứng cho sau này làm Tổ. Khi ngài Hoài Nhượng đáp: “nói in tuồng một vật tức không trúng” là đã khế hợp với “bản lai vô nhất vật” mà Lục Tổ đã nói. Tuy ngài Hoài Nhượng trả lời khế hợp với chỗ thấy của Lục Tổ, nhưng Lục Tổ muốn trắc nghiệm xem Ngài đã thấu suốt chưa mới hỏi tiếp: “Lại có thể tu chứng chăng?” Ngài đáp: “Tu chứng tức chẳng không (chẳng không tức là có), nhiễm ô không thể được.” Vì Thể chân thật không tướng mạo làm sao nhiễm nhơ được, nên Thượng Sĩ nói “xưa nay một vật chừ cũng sai”. Nhưng, khi đã “thân sanh mang nghiệp chừ cũng phải”. Tại sao lạ vậy? Vì đã mang nghiệp sanh ra trên đời này rồi thì thấy thân mình là thật có, thấy muôn vật là thật có; cái gì có cũng phải hết. Thượng Sĩ nói khi tỉnh ngộ chỉ nói một vật cũng là sai, khi mê tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử, thì thôi vô số sự vật cái nào cũng phải. Đó là hai câu đầu nói về Thể chân thật xưa nay vốn không một vật của người đã giác ngộ. Người mê tạo nghiệp sanh thân thì thấy muôn ngàn sự vật đều có.
Vì sao ngũ uẩn chừ lăng xăng
Bám chặt tứ đại chừ nương tựa.
Tại sao chúng ta bị năm uẩn tụ họp làm rối loạn, rồi chúng ta nương bám vào Sắc uẩn là thân tứ đại này, cho đó là thân mình? Thượng Sĩ bĩu môi không bằng lòng là không bằng lòng chỗ này. Tại sao trước không có một vật mà bây giờ ngũ uẩn tập hợp, chúng ta nương bám sắc thân tứ đại cho là mình, có vô lý không?
Bỗng có cao thấp chừ ngắn dài
Tự chịu sanh già chừ bệnh chết.
Từ chỗ bám chặt vào Sắc thân tứ đại cho là mình, nên thấy mình cao người thấp, mình hay người dở, tạo bao thứ nghiệp, rồi chịu quả khổ sanh già bệnh chết. Khi đã mang thân sanh già bệnh chết, cứ chấp chặt vào thân, mất thân này chụp thân khác, tiếp nối kiếp kiếp đời đời không ngừng. Đây là hiện tượng mà Thượng Sĩ bĩu môi không bằng lòng. Đối với hiện tượng này chúng ta bĩu môi hay vui mừng hỉ hạ? Chúng ta sanh ra là tổ chức ăn mừng, Thượng Sĩ thì thấy vô lý, nên Ngài diễn tả cho chúng ta thấy cái vô nghĩa của cuộc đời.
Người có thạnh chừ thì có suy
Hoa có tươi chừ thì có héo.
Nước có hưng chừ thì có vong
Thời có thái chừ thì có bĩ.
Ngày có chiều chừ thì có mai
Năm có chung chừ thì có thủy.
Tất cả mọi sự vật cái nào cũng chịu luật vô thường chi phối. Con người sanh ra có trẻ thì có già, hoa có tươi thì có héo, nước có hưng thì có vong, thời có thái (hưng thạnh) thì có bĩ (xấu), ngày có chiều thì có mai, năm tháng có chung thì có thủy. Sự vật nào cũng ở trong vòng tương đối, ở dạng này rồi đổi qua dạng kia. Không có một vật cố định không đổi dời. Như vậy ở đời cái gì là vui? Nếu trẻ là vui thì già là buồn, nếu hoa nở là vui thì hoa tàn là buồn, nếu đất nước hưng thạnh là vui thì suy vong là buồn, nếu gặp thời cơ thuận tiện được lợi thì vui, thời cơ bất tiện bất lợi thì buồn… Tóm lại tất cả người, vật, thời tiết, năm tháng đều nằm trong pháp đối đãi, đã là pháp đối đãi thì có cái gì là thật, đã là không thật thì bám víu để làm gì?
Trở về ẩn đạo chừ núi rừng
Nguội lạnh lợi danh chừ triều thị.
Thôi không bám víu pháp đối đãi ở thế gian, tránh xa thành thị, vào núi rừng ở ẩn để tu hành, bỏ hết chuyện lợi danh chốn ồn náo, mà thiên hạ đang bon chen giành giựt.
Thiếu Thất chín năm chừ cùng ta đồng tâm
Hoàng Mai nửa đêm chừ với ta tri kỷ.
Tổ Bồ-đề-đạt-ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa, lúc chưa gặp cơ hội truyền bá thiền, Ngài lên ngọn Tung Sơn ngồi xây mặt vào vách chùa Thiếu Lâm để chờ thời, đủ duyên mới ra giáo hóa. Xưa, ở hội Huỳnh Mai, lúc nửa đêm Lục Tổ được Ngũ Tổ trao y bát xong là vào rừng núi, ở ẩn hơn mười năm. Thượng Sĩ tự thấy Tổ Bồ-đề-đạt-ma lúc ngồi xoay mặt vào vách, ở chùa Thiếu Lâm trên ngọn Tung Sơn là bạn đồng tâm với Ngài. Lục tổ Huệ Năng hơn mười năm ẩn náu trong rừng là bạn tri kỷ của Ngài.
Tùy phần chừ Liên Xã chau mày
Rộng chí chừ Triệu Châu răng gõ.
Liên Xã chau mày dẫn điển tích Đào Uyên Minh là một nhà văn thơ giỏi, được ngài Huệ Viễn ở Lô Sơn mời đến hội Bạch Liên Xã để chuyên niệm Phật. Tuy không xứng hợp, song Đào Uyên Minh nể tình ngài Huệ Viễn đến, đến với đôi mày nhíu lại, lòng không thích mà cũng phải chiều vậy. Câu chuyện Triệu Châu răng gõ, tôi tra nhiều tài liệu mà vẫn không tìm ra điển tích này, chỉ thấy trong Thiền sử, Hàn Văn Công hỏi Thiền sư Bảo Thông:
– Hòa thượng tuổi được bao nhiêu?
Sư cầm xâu chuỗi giở lên, bảo:
– Hội chăng?
– Chẳng hội.
– Ngày đêm trăm lẻ tám.
Văn Công không hiểu trở về.
Hôm sau Văn Công lại đến, vừa tới cửa gặp Thủ tọa, Văn Công thuật câu nói hôm qua của Sư, hỏi ý kiến thế nào, Thủ tọa vỗ răng ba cái. Văn Công vào trong gặp Sư, hỏi lại ý kiến hôm qua, Sư cũng vỗ răng ba cái.
Chuyện Triệu Châu gõ răng, tôi đọc hết Ngữ lục và Quảng lục của Ngài, chỉ thấy có hai trường hợp nói đến răng. Trường hợp thứ nhất: Có một vị Đại vương ở Trấn Châu hỏi Ngài:
– Hòa thượng năm nay lớn tuổi, còn được mấy cái răng?
Triệu Châu đáp:
– Chỉ có một cái răng.
– Làm sao nhai được thức ăn?
– Tuy một cái mà từ từ nhai được.
Trường hợp thứ hai: Có một vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu:
– Hoa Phật chưa nở làm sao biện được chân thật?
Ngài đáp:
– Đã nở.
Vị Tăng đem việc này thuật lại cho ngài Lạc Phổ nghe. Nghe xong Lạc Phổ gõ vào răng một cái.
Nếu gõ vào răng thì ngài Lạc Phổ gõ chớ không phải Triệu Châu gõ. “Triệu Châu răng gõ” e dùng lộn một tên chăng?
Dù cho trước tiếng chừ gật đầu
Đâu được trong giày chừ động ngón.
Đoạn đầu Thượng Sĩ trình bày cho chúng ta thấy cái Thể chân thật của mình xưa nay không một vật, do mê tạo nghiệp nên có thân năm ấm, chấp thân năm ấm là mình thì thấy có cao thấp, tốt xấu… mới có sanh già bệnh chết khổ đau. Xét kỹ cuộc đời từ con người cho tới muôn vật, cái nào cũng có lúc thạnh lúc suy, có hưng có vong… Không có cái nào trước sau như nhất ở một thể cố định. Thấy rõ như vậy nên không đuổi theo không nắm bắt, mà lui vào núi rừng vắng vẻ để tu, trút hết mọi lợi danh ở chốn thị thành. Việc làm này giống như Tổ Bồ-đề-đạt-ma, khi chưa gặp người truyền đạo, ngồi xoay mặt vào vách ở chùa Thiếu Lâm núi Tung Sơn, giống như Lục Tổ ẩn trong rừng hơn mười năm khi chưa đủ duyên giáo hóa, giống như Đào Uyên Minh bị mời vào hội Bạch Liên Xã, giống như Triệu Châu người chí rộng… Các Thiền sư đã giác ngộ nhận ra Thể chân thật, mà chưa đủ duyên để giáo hóa nên phải ẩn nhẫn chờ đợi cơ duyên, không khác đoạn:
Dù cho trước tiếng chừ gật đầu
Đâu được trong giày chừ động ngón.
Đối diện với người, người chưa nói mà đã biết trước họ muốn nói cái gì rồi nên gật đầu. Thông minh thấu suốt như vậy mà “đâu được trong giày chừ động ngón”. Chân mang giày không thể khoe chân đẹp, chân xấu, vì giày phủ kín che khuất, dù trong giày ngón chân có ngo ngoe cục cựa cũng không ai thấy. Như vậy, khi bị che khuất dù có muốn ngoi đầu lên cũng không ai thấy được, thôi thì cứ yên phận ở trong đó.
Lò hồng không đúc chừ dùi trong đãy
Cọp mạnh đói chừ chẳng liếc mồi.
Cây dùi trong đãy lò lửa to không đúc. Ý này dẫn từ điển tích: Bình Nguyên Quân sang nước Sở, Mao Toại xin đi theo. Bình Nguyên Quân bảo:
– Người hiền sĩ trong đời giống như chiếc dùi trong đãy, mũi nó tất ló ra ngoài. Cái đãy bằng vải tuy kín, nhưng đựng cây dùi mũi nhọn cây dùi xuyên qua lớp vải ló đầu ra, không giấu kín được mũi dùi. Cũng vậy, ở đời người tài ba là người có khả năng thoát khỏi sanh tử, dù có giấu, giấu cũng không được. Thế nên chư Tổ hay nói dùi ở trong đãy.
Cọp mạnh đói chừ chẳng liếc mồi.
Con cọp mạnh đang đói thấy mồi không thèm ngó. Ý câu này muốn nói, tuy các Thiền sư ẩn dật không làm gì để hiển lộ tài năng và sức mạnh cho mọi người thấy, nhưng ở nơi các ngài đã có sẵn sức sống mãnh liệt và tinh thần lợi tha không giới hạn, cũng giống như con cọp đói tuy thấy mồi mà không thèm nhìn, nhưng bản chất con cọp đó là cọp mạnh.
Minh châu há ngại chừ sóng gió
Sắc chánh sá gì chừ tía hồng.
Hạt minh châu để dưới đáy hồ, dầu có gió làm nước dậy sóng chao động trên mặt hồ, hạt minh châu ở đáy hồ vẫn nằm yên, không động lay, nó vẫn tỏa ánh sáng hoặc trắng hoặc vàng… không ngại màu pha trộn như màu tía màu hồng… vì nó là sắc chánh. Ý hai câu này nói người thật có tài đức thật giác ngộ dù trú ẩn ở đâu, dù ở hoàn cảnh nào, những chướng duyên không thể chi phối làm lay chuyển được. Khả năng trí tuệ và đức hạnh của họ, lúc nào cũng nguyên vẹn không bị phai mờ hay hao mất.
Đến đây rồi chừ sự lý toàn bày
Cầm giữ buông bỏ chừ đâu cần nghĩ ngợi.
Trâu đá giữa đêm vào biển đông
Càn ngã san-hô trăng như nước.
Người tu mà nhận ra Thể chân thật nơi mình rồi, tuy chưa ra làm việc lợi ích cho đời, nhưng không còn mắc kẹt, không bị lu mờ. Vì đến đây sự lý hiện bày rõ ràng không còn mờ mịt che giấu, ngang đó thì cầm giữ hay buông bỏ không cần nghĩ ngợi. Giống như trâu đá vào biển đông. Ngày xưa nói sắt biết nói, trâu đá chạy là nói chuyện không đâu, nhưng ngày nay người bằng sắt bằng gỗ, lắp máy vào cũng nói cũng hát được, trâu bằng gỗ bằng đá lắp máy vào cũng chạy được. Ở đây Thượng Sĩ đề cập đến trâu đá là để nói, người tu khi tới chỗ không còn thấy hai bên đối đãi là không còn niệm phân biệt, song vẫn hằng giác hằng tri, có diệu dụng không thể lường được. Giống như trâu đá tuy không tri giác, nhưng ban đêm nó nhào xuống biển đông, làm ngã hết những cây san-hô ở dưới biển. Thấy trăng cũng như nước. Nước là cái mờ che đậy, trăng thì sáng soi. Khi lý sự toàn bày rồi thì cái mờ cái sáng đều như nhau.
Tóm lại, Thượng Sĩ bĩu môi tỏ thái độ không bằng lòng bởi những lý do: Một là Thể chân thật từ xưa không có một vật, thế mà giờ đây ngũ uẩn tụ hợp, bám chặt ngũ uẩn cho là mình, nên mới có ta người, cao thấp, dài ngắn… rồi tự chịu sanh già bệnh chết từ đời này tới đời kia. Hai là cuộc đời từ con người cho đến muôn vật, thời tiết tháng ngày đều ở trong vòng đối đãi sanh diệt vô thường giả dối, thế mà người đời cứ mải đắm đuối kiếm tìm đuổi bắt. Đối với những sự việc này Thượng Sĩ bĩu môi tỏ thái độ không bằng lòng. Vậy Ngài có lỗi chê khen không? Và, chúng ta có thấy để bĩu môi như Ngài, hay bằng lòng chấp nhận để chịu chung số phận, cho sanh diệt vô thường chi phối hết kiếp này tới kiếp khác? Đối với sự việc này Thượng Sĩ bĩu môi không bằng lòng, dứt khoát sống đời ẩn dật, trước hết là làm lạnh tâm danh lợi, sau làm người đồng tâm với Tổ Bồ-đề-đạt-ma, làm tri kỷ với Lục tổ Huệ Năng, chơi với nhà thơ Đào Uyên Minh, chơi với những vị thanh thản như Triệu Châu. Tuy sống ẩn dật, chớ đạo đức giác ngộ không thể che giấu được, giống như ngón chân không cử động được ở trong giày, nhưng không phải không có ngón chân, hay như lò không đúc được dùi trong đãy, cọp mạnh đói mà không thèm ăn mồi, minh châu không sợ sóng gió. Thượng Sĩ thấy rõ kiếp người tạm bợ, cuộc đời giả dối không thật, nên bĩu môi cười không chấp nhận. Ngài sống đời ẩn dật nuôi dưỡng đạo tâm, khi sự lý hiện bày rõ ràng thì không còn cầm giữ hay buông bỏ, không còn niệm hai bên đối đãi thì sẽ được cái diệu dụng không thể nghĩ bàn.