Mỗi khi Đức Phật Thích Ca đi tới nơi nào thuyết pháp, thì có rất nhiều các vị đệ tử hay đi theo vây quanh Ngài.
Có một hôm, Đức Phật ở núi Linh Thứu, và những tín đồ của Ngài cũng đến tụ tập tại nơi ấy. Trong số đó có các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni xuất gia, có các vị ưu bà tắc, ưu bà di tại gia và còn có các vị quốc vương, đại thần v.v… cũng đến xung quanh Đức Phật, cung kính cúng dường, nghe Ngài thuyết Pháp giảng Kinh.
Trong pháp hội thù thắng ấy có rất nhiều vị đệ tử trong lòng có điểm thắc mắc, họ muốn biết nhân duyên nào đã thúc đẩy Đức Phật xuất gia học đạo lúc ban đầu. Tuy họ muốn thỉnh xin Đức Phật nói cho họ biết, nhưng không ai dám mở miệng ra hỏi.
Lúc ấy, tôn giả A Nan biết tâm niệm của mọi người nên từ tòa ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, hỏi thăm Đức Phật xong rồi mới thay mặt mọi người mà thưa rằng:
– Thế Tôn, bậc cứu chủ của chúng con! Nay chúng con có một điểm thắc mắc, đó là lúc Thế Tôn chưa xuất gia, hãy còn là một vị thái tử cao quý, sao lại xả bỏ vương vị, xả bỏ những thứ hoa lệ phú quý của hoàng cung, mà đột nhiên vào núi tu hành rồi sau sáu năm khổ hạnh ngồi dưới cây Bồ Đề thành Đẳng Chính Giác, hiển hiện ứng hóa thân độ hóa chúng sinh, làm thầy của Trời Người. Chúng con không biết lúc ban đầu do những nhân duyên gì mà Thế Tôn đã phát đại Bồ Đề tâm như thế, đi thẳng đến địa vị Phật? Chúng con đây đều là đệ tử của Phật, đều phải phát tâm rộng lớn như Phật đã phát, phải hướng theo con đường của Phật đã đi qua mà cất bước tiến lên hầu thừa kế Như Lai. Xin nguyện Thế Tôn từ bi tuyên thuyết để khuyến khích tất cả chúng sinh.
Đức Phật khen ngợi A Nan rằng:
– Hay thay! Hay thay! Điều mà ông hỏi hôm nay cũng là điều mà ta muốn nói đến. Các ông hãy yên tĩnh ngồi nghe.
Khi Đức Phật nói như thế, tất cả Bồ Tát và thánh chúng đều yên tịnh không một tiếng động, chú ý lắng nghe pháp âm của Phật.
Từ miệng Đức Phật phóng ra một đạo hào quang ngũ sắc, ánh sáng chiếu rọi đại thiên thế giới, vỗ về thân tâm của mọi loài chúng sinh, khiến cho họ có cảm giác mát mẻ, giải thoát.
Đức Phật ngồi ngay ngắn trên tòa báu và nói:
– Tại vô lượng kiếp trong quá khứ về trước, trong ta bà thế giới này có một vị Chuyển Luân Thánh Vương, cũng là một vị vua tên gọi là Đại Quang Minh. Vua là người rất phúc đức và trí huệ, nhân từ và rộng rãi đối với người khác, thích cứu giúp kẻ bần cùng, danh tiếng lẫy lừng truyền rộng khắp nơi. Vua của nước láng giềng xưa nay vẫn giữ tình giao hảo với vua Đại Quang Minh, hai người đối xử với nhau không khác gì hai anh em ruột thịt. Khi nước này gặp lúc thiếu hụt lương thực hay vật dụng, vua Đại Quang Minh thường cứu giúp cho họ bớt khổ trong những năm đói kém.
Cũng có lúc vua láng giềng đem sản phẩm của nước mình đến hiến tặng vua Đại Quang Minh để báo đáp ơn cứu giúp. Có một hôm, một số người vào núi săn được một con voi trắng, một con voi rất đẹp đẽ đoan chính, thân nó đẹp không khác gì bạch ngọc, trên thế gian thật là hiếm có. Vị vua nhỏ nọ muốn đem voi trắng cống hiến vua Đại Quang Minh, nên thu thập một ít châu báu trang sức cho voi rồi sai người đem voi qua nước láng giềng. Vua Quang Minh được voi trắng rất hoan hỉ, bèn mời một người dạy voi rất giỏi tên là Tôn Nhược về cung, giao voi trắng cho vị này nuôi nấng và dạy dỗ.
Voi trắng thông minh, đoán biết ý muốn của thầy, thầy chỉ bảo gì cũng đều làm theo được, chẳng bao lâu sau nó đã hoàn toàn thuần thục. Tôn Nhược bèn trang sức cho nó bằng rất nhiều ngọc quý, và dẫn nó đến trước mặt vua Quang Minh thưa rằng:
– Đại vương! Voi đã thuần thục, xin vua hãy thử voi.
Vua nghe thế rất vui lòng, ra lệnh cho thị giả đánh trống vàng, triệu tập các vị đại thần cũng những người có danh tiếng trong thành đến xem voi biểu diễn. Ít lâu sau mọi người đều tụ tập ở ngoài thành, vua Quang Minh cưỡi lưng voi trắng bước từng bước chậm chạp, trông chẳng khác nào mặt trời vừa mới mọc, ánh sáng chói lọi, ai thấy cũng phải vui mừng tán thán.
Đến một bãi săn, vua muốn bắt voi biểu diễn. Nhưng con voi trắng ôn hòa kia lúc ấy bỗng trở nên hung bạo trăm phần như đang bước vào chiến trường, điên cuồng vừa chạy vừa nhảy loạn xạ. Vua ngồi trên lưng voi không có cách nào chế ngự nó được.
Nguyên do chỉ vì con voi trắng mà vua đang cưỡi là một con voi đực, nó nghe tiếng kêu của một con voi cái ở núi bên cạnh nên dục niệm nổi lên, khiến nó điên cuồng muốn chạy theo voi cái.
Tôn Nhược ở phía sau thấy thế kêu to lên:
– Đại Vương! Ngài hãy bám vào một nhánh cây để rời khỏi thân voi rồi nhảy xuống đất, có thế mới an toàn được!
Lúc ấy voi đã chạy về phía rừng sâu, nhà vua bèn cấp tốc bám vào một nhánh cây mà rời khỏi lưng voi. Vua thoát thân rồi, voi trắng chạy như bay không quay đầu trở lại.
Vua Quang Minh từ thân cây trèo xuống ngồi bệt dưới đất, lúng ta lúng túng không biết làm sao, áo mũ rơi rớt rách nát, toàn thân thương tích máu chảy dầm dề, tức giận run cả người.
Không lâu sau Tôn Nhược chạy tới, thấy vua bèn khấu đầu trấn an rằng:
– Xin đại vương đừng phiền não, voi điên ngu si, có lẽ chỉ vì niệm dâm dục phát lên mà nên cơ sự, không có cách nào chế ngự nó được. Chẳng bao lâu niệm dâm của nó lắng xuống, nó sẽ chán cỏ dại nước dơ của núi rừng mà trở về vương cung.
Nhà vua tức giận trả lời:
– Ta không muốn con voi đó nữa, suýt nữa nó đã làm cho ta mất mạng! Nhà ngươi cũng hãy cút đi, từ nay về sau ta không còn muốn thấy ngươi dạy voi nữa!
Cũng ngay tại lúc đó, các vị đại thần và dân chúng cũng vừa đến tới, họ tưởng rằng vua đã bị voi giết chết rồi vì trên đường đi có người thì nhặt được mũ vua, có người thì nhặt được vương bào nên ai cũng kinh hãi khủng khiếp. Tìm mãi mới thấy được vua, người thì mau mau đem y áo tới cho vua mặc, người thì dắt một thớt voi khác thuần thục hơn cho vua ngồi lên an toàn rồi trở về hoàng cung. Người trong thành thấy vị vua hiền đức của họ đã bị voi trắng hãm hại nên họ căm tức Tôn Nhược vô cùng.
Chẳng bao lâu, đúng như Tôn Nhược đã nói, voi trắng không quen sống nơi núi rừng hoang dã, niệm dâm cũng đã lắng xuống, nó bèn trở về hoàng cung. Tôn Nhược thấy voi về bèn báo cho vua biết nhưng vua từ chối không tiếp, cho người ra trả lời rằng:
– Vua không cần voi trắng và cũng không cần đến người dạy voi nữa.
Tôn Nhược ba lần xin gặp, muốn tự mình cưỡi voi trắng và chứng tỏ cho vua thấy voi đã thuần thục đến đâu, cuối cùng vua đành phải chấp thuận. Thế là họ trải chỗ ngồi tại một khoảng đất bằng phẳng, vua và tất cả dân chúng đều đến xem.
Tôn Nhược đem voi trắng tới chỗ biểu diễn, đồng thời kêu thợ làm cho mình bẩy hòn sắt, nếu voi nuốt hết mấy hòn sắt ấy thì chắc chắn chỉ có chết mà thôi.
Sợ vua ân hận về sau, Tôn Nhược thưa trước với vua rằng:
– Đại Vương, chỉ có bậc Chuyển Luân Thánh vương mới có được một thớt voi trắng như thế, hôm nay nó phạm chút lỗi lầm, nhưng không nên vì thế mà lấy mạng sống của nó.
– Con voi trắng này chẳng hề được điều phục, đáng lẽ ông cũng không nên để cho ta cưỡi nó. Nếu thật sự nó đã thuần thục thì tại sao lại ngoan cố như thế được? Do đó, cho dầu cả ông cả nó có bị giết đi nữa ta cũng chẳng ân hận!
– Thưa Đại vương, thần chết cũng chẳng hề gì, nhưng voi trắng này mà chết thì thật là đáng tiếc!
– Thôi đừng có nhiều lời nữa!
Vua nổi giận hét lên.
Tôn Nhược quỳ xuống đất, rơi nước mắt mà nói:
– Vua không có huệ nhãn nên không biết chân tài. Tôi điều phục được thân voi nhưng không điều phục được tâm của nó. Nếu lửa dục vọng cháy lên phừng phực trong tâm voi thì đương nhiên tôi không có cách nào chế ngự được. Bây giờ xin đại vương hãy chứng kiến việc tôi điều phục voi.
Nói xong, ông đến trước chân voi, lấy dáng điệu nghiêm khắc khiến voi không thể không vâng lời, đem những hòn sắt bỏ vào lửa cháy đỏ rồi nói:
– Mi hãy nuốt hết những hòn sắt này, nếu không ta sẽ lấy móc sắt móc não mi ra!
Voi trắng hiểu thầy mình muốn đưa mình vào chỗ chết, nghĩ rằng:
– Chẳng thà ta nuốt những hòn sắt này mà chết chứ không để bị móc não.
Voi nghĩ xong bèn quỳ xuống nhìn về hướng nhà vua chảy nước mắt mà cầu cứu, nhưng lửa giận của vua còn đang hừng hực nên ông quay đầu đi chỗ khác không thèm nhìn lại. Voi trắng nhìn những người bốn phía xung quanh không có ai có thể cứu mình được, bèn lấy những hòn sắt được nung đỏ ấy bỏ vào miệng nuốt xuống ruột, thông qua hậu môn và chết ngay tại chỗ. Thật là không khác gì cảnh chày kim cương đập nát núi pha lê, những hòn sắt rơi xuống đất rồi mà hãy còn cháy đỏ, khiến những người ngồi nhìn, không ai là không thương xót đến rơi nước mắt.
Vua Quang Minh thấy thế, trong tâm chợt nẩy lên một chút ân hận, cho gọi Tôn Nhược đến hỏi:
– Ông đã điều phục được voi thuần thục đến mức này rồi, vậy sao trong rừng không chế ngự được nó?
Tôn Nhược quỳ xuống đáp rằng:
– Đại vương, lúc nãy thần đã nói, thần chỉ điều phục được thân voi chứ không điều phục được tâm voi.
– Trên thế gian này có ai điều phục được cả thân lẫn tâm chăng?
– Có Như Lai Thế Tôn, đã vừa điều được thân lại vừa điều được tâm, nên trong mười thánh hiệu của chư Phật Như Lai có câu “Điều Ngự Trượng Phu”.
Vua Đại Quang Minh nghe được danh hiệu Phật, biết rằng chỉ có Phật Như Lai mới có đầy đủ lực oai thần đó thì hoảng hồn tóc tai dựng đứng, hỏi thêm rằng:
– Vị mà ông gọi là Như Lai đó, có đặc tính gì?
– Phàm là Như Lai Thế Tôn, có hai loại đặc tính: một là trí huệ, hai là đại bi. Đức Phật chăm thực hành lục độ, có nghĩa là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ, còn gọi là lục ba la mật, vì cả phúc đức lẫn trí huệ đều đầy đủ nên được tôn xưng là Phật. Ngài vừa có thể điều phục được chính mình mà còn điều phục được chúng sinh.
Vua Đại Quang Minh nghe thế, vui mừng lập tức nhanh nhẩu trở về cung, dùng nước thơm tắm gội, mặc y phục mới, lên lầu cao hướng về bốn phương lễ bái, khởi đại bi tâm đối với tất cả chúng sinh, nhiễu hương mà thề nguyện rằng:
– Nguyện tôi có bất cứ công đức nào trong quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng đều hồi hướng Phật đạo, thành tựu Phật đạo để điều phục tâm mình và cũng để điều phục tất cả chúng sinh.
Nếu có một chúng sinh nào tạo tội trọng mà phải trải qua một kiếp trong A Tỳ địa ngục, tôi sẽ vào ngay trong địa ngục để làm lợi ích cho chúng sinh ấy, và không hề xả bỏ tâm Bồ Đề.
Lúc ông phát thề nguyện lớn như vậy, quả đất rúng động sáu cách, trong không trung hoa trời rơi xuống dầy đặc như mưa, vô lượng người trời tấu nhạc trên không, âm thanh vi diệu ấy chính là để tán thán công đức của vị Bồ Tát mới phát đại tâm.
Đức Phật nói xong về nhân duyên như trên rồi, lại nói tiếp:
– Con voi trắng đã bị lửa dục đốt cháy thân, nuốt bảy hòn sắt, đã thọ nghiệp báo một cách thê thảm trong hiện kiếp của mình khiến cho mọi người kinh hãi và lấy đó răn mình, nên đoạn trừ được ác duyên và mở rộng con đường giác ngộ, phúc đức đạt được cũng không thể nghĩ bàn. Con voi trắng thời ấy chính là A La Hán Nan Đà. Vị thầy dạy voi nay là Đại Trí Xá Lợi Phất, và vua Đại Quang Minh chính là ta vậy. Lúc ấy ta thấy việc điều phục thân voi nên muốn tìm cách điều phục tâm, do đó mới phát đại tâm bồ đề lúc ban sơ, tìm cầu Phật đạo.
Những người trong đại hội nghe Phật thuyết ai cũng đại ngộ, người thì đắc được bốn thánh vị, người thì phát tâm đạo rộng lớn, người thì xuất gia, không ai là không hoan hỉ phụng hành.