KỆ DÂNG HOA
Tâm địa mở ra hoa nở rộ,
Trời có mưa hoa vẫn kém thơm,
Cành cành đóa đóa dâng cúng Phật,
Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rơi.
KỆ DÂNG HƯƠNG
Trầm thủy rừng thiền hương sực nức
Chiên đàn vườn huệ đã vun trồng
Đao giới vót thành hình non thẳm
Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dâng
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ-tát Ma-ha-tát (3 lần)
THỈNH TAM BẢO CHỨNG MINH
Nam mô Mười phương Vô thượng Tam Bảo
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Nam mô chư Phật, chư Đại Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng ở khắp mười phương ba đời
Nam mô chư Phật, chư Đại Bồ-tát trên hội Vu Lan
Nam mô Tôn giả Đại Hiếu Mục-kiền-liên
Nam mô Tôn giả A-nan
Nam mô chư Thiên Long Bát bộ Hộ giáo Già lam Chư Tôn Bồ-tát
Xin thùy từ lân mẫn cảm ứng chứng minh cho đệ tử chúng con, chư Ni cùng Phật tử, và chư Thiên, Long, Quỷ, Thần, phi nhơn, tất cả chúng sanh có sắc không sắc, có hình không hình, có tưởng không tưởng, hiện vân tập tại đạo tràng.
Tháng này là tháng 7 Vu Lan báo hiếu. Chúng con quỳ trước Phật đài kính trì tụng Kinh Báo Ân Cha Mẹ.
Nguyện học theo gương hạnh đại hiếu của Tôn giả Mục-kiền-liên, nghĩ nhớ ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, và ân trạch của tổ tiên, chúng con đồng thành tâm quỳ trước Phật đài cầu nguyện cha mẹ nương nhờ hồng ân Tam Bảo, Từ lực Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, oai thần oai lực chư Phật, chư Đại Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng, chư Tôn Hộ pháp, và công đức hồi hướng của chúng con, mà kể từ đây nghiệp chướng từ vô thủy được tận trừ, phúc đức trí tuệ ngày càng tăng trưởng. Những vị không may đang còn đọa trong ác đạo, nguyện tức thời chuyển sanh cõi lành, hưởng phúc báo trời người thù thắng, được Tam Bảo gia hộ, theo chư Phật, chư Đại Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng, chư tôn Hộ pháp, như pháp tu hành, cho đến ngày viên mãn Phật quả. Những vị đang hưởng phúc nơi cõi trời người, nguyện phát khởi lòng kính tin Tam Bảo, gặp Thiện tri thức giáo hóa, phát tâm Bồ-đề kiên cố, đời đời kiếp kiếp tu hành cho đến ngày viên mãn Phật quả.
Ngưỡng nguyện Mười phương Vô thượng Tam Bảo, xin thùy từ lân mẫn cảm ứng chứng minh, gia hộ cho lòng thành của chúng con.
Ngưỡng nguyện Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, xin thùy từ lân mẫn cảm ứng chứng minh, gia hộ cho lòng thành của chúng con.
Ngưỡng nguyện chư Phật, chư Đại Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng ở khắp mười phương ba đời, xin thùy từ lân mẫn cảm ứng chứng minh, gia hộ cho lòng thành của chúng con.
Ngưỡng nguyện chư Phật, chư Đại Bồ-tát trên hội Vu Lan, xin thùy từ lân mẫn cảm ứng chứng minh, gia hộ cho lòng thành của chúng con.
Ngưỡng nguyện Tôn giả Mục-kiền-liên, xin thùy từ lân mẫn cảm ứng chứng minh, gia hộ cho lòng thành của chúng con.
Ngưỡng nguyện Tôn giả A-nan, xin thùy từ lân mẫn cảm ứng chứng minh, gia hộ cho lòng thành của chúng con.
Ngưỡng nguyện chư Thiên Long Bát Bộ Hộ Giáo Già Lam Chư Tôn Bồ-tát, xin thùy từ lân mẫn cảm ứng chứng minh, gia hộ cho lòng thành của chúng con.
TÁN PHẬT
Ðại từ, đại bi thương chúng sanh,
Ðại hỷ, đại xả cứu hàm thức.
Tướng đẹp sáng ngời dùng trang nghiêm,
Chúng con chí tâm thành đảnh lễ.
LỄ TAM BẢO
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chư Phật ba đời, tột hư không, khắp pháp giới.
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả chánh pháp ba đời, tột hư không, khắp pháp giới.
Chí tâm đảnh lễ: Tất cả Tăng, bậc Hiền thánh ba đời, tột hư không, khắp pháp giới.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Bụt Cổ Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Xá-lợi Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Chư Phật, chư Đại Bồ-tát trên hội Vu Lan (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tôn giả Đại Hiếu Mục-kiền-liên (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tôn giả A-nan (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Xá-lợi Tôn giả Sivali (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô chư Thiên Long Bát bộ Hộ giáo Già Lam chư Tôn Bồ-tát (3 lễ)
VĂN PHÁT NGUYỆN
Lạy đấng Tam giới Tôn,
Quy mạng mười phương Phật
Con nay phát nguyện rộng
Thọ trì kinh Vu Lan
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có kẻ thấy nghe
Đều phát lòng Bồ-đề
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực Lạc.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni (3 lần)
TÁN PHÁP
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp.
Nay con nghe thấy vâng gìn giữ,
Nguyện hiểu nghĩa chơn Đức Thế Tôn.
Quy kính Phật Bồ-tát trên hội Vu Lan (3 lần)
KINH BÁO ÂN CHA MẸ
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại Tinh xá Kỳ Hoàn, thuộc nước Xá-vệ, cùng chư Đại Bồ-tát và chúng Đại Tỳ-kheo.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cùng đại chúng đi về phía nam Tinh xá, thấy một đống xương khô, Ngài liền cúi lạy.
Tôn giả A-nan thấy lạ, thưa hỏi : “Bạch Đức Thế Tôn! Ngài là Đạo Sư của chúng sanh, là Từ phụ của muôn loài, ai cũng tôn kính, tại sao lại lạy đống xương khô này một cách cung kính như vậy?”
Đức Thế Tôn dạy: “A-nan! Ông tuy là đệ tử thượng túc của Như Lai, nhưng hiểu biết còn nông cạn. Đống xương khô này hoặc là tổ tông kiếp trước, hoặc là cha mẹ nhiều đời của Như Lai, nên Như Lai chân thành kính lạy.
Ông hãy đem đống xương khô này chia làm hai phần: Nếu là nam thì xương trắng mà nặng, nếu là nữ thì xương đen lại nhẹ.”
Tôn giả A-nan thưa : “Bạch Đức Thế Tôn! Nam nữ khi còn sinh tiền nhờ hình dáng mà nhận biết, nay chết rồi chỉ một đống xương khô như nhau, làm sao phân biệt?”
Đức Thế Tôn dạy: “A-nan! Người nam khi sống tịnh tu phạm hạnh, đa văn, thiền quán, nên xương trắng và nặng. Người nữ sinh sản, huyết sữa hao tổn, mệt nhọc lao khổ, nên xương đen mà nhẹ.”
Tôn giả A-nan nghe Đức Thế Tôn dạy như vậy, đau lòng rơi lụy, thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Ân đức cha mẹ thế nào? Làm sao báo đáp?”
Đức Thế Tôn dạy: “A-nan! Hãy nghe cho kĩ, Như Lai sẽ vì ông nói.
A-nan! Mười tháng mang thai, mẹ rất khổ sở. Thai mang một tháng đầu như hạt sương trên cỏ, tụ tán mong manh. Tháng thứ hai như váng sữa. Tháng thứ ba như huyết đọng. Tháng thứ tư mới tụ hình. Tháng thứ năm mới có đầu, hai tay, hai chân. Tháng thứ sáu các giác quan mới tượng hình. Tháng thứ bảy mới có gân cốt lông da. Tháng thứ tám mới có lục phủ ngũ tạng. Tháng thứ chín mới thành thai nhi, hấp thụ nguyên khí của mẹ mà sống. Qua tháng thứ mười mới khởi sự chuyển sanh. Nếu hiếu thuận thì hài nhi xuôi tay mà ra, không thương tổn mẹ. Nếu ngỗ nghịch thì cào cấu đạp phá, làm mẹ đau đớn vạn trạng. Thế nên thân này sinh ra được thật là may mắn phước đức.
A-nan! Ân đức cha mẹ có mười điều:
“Một là mang thai và giữ gìn. Vì nghiệp lực nên chúng sanh vào thai mẹ. Mẹ mang thai lâu ngày khổ sở, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội đá, đi đứng ngại gió mưa, không thiết sửa soạn áo quần, chẳng màng trang điểm mày mặt.
Hai là sinh sản khổ sở. Đến tháng thứ mười, gần ngày sinh nở, đêm đêm như bệnh nặng, ngày ngày tợ hoàng hôn. Khiếp hãi lo nghĩ, lệ sầu tuôn rơi, chỉ sợ tử thần không dung tánh mạng.
Ba là sinh rồi quên lo. Trong khi sinh đẻ, gan ruột từ mẫu tuồng như xé rách, đau đớn mê man, máu huyết dầm dề. Nhưng nghe con an toàn thì vui mừng quên hết. Song vui đó lại buồn đó, lo nghĩ siết ruột gan.
Bốn là nuốt đắng nhổ ngọt. Tình thương cha mẹ thật sâu nặng, thương mến có bao giờ nhạt phai. Nhổ ngọt không tiếc nuối, nuốt đắng nào phiền hà. Thương mến càng sâu đậm, bi sầu càng tăng thêm. Miễn sao con no ấm, đói khát mẹ nào từ.
Năm là nhường khô nằm ướt. Mẹ nằm chỗ ướt lạnh, đặt con chỗ ấm khô. Đôi vú mộng căng cho con khỏi đói khát, hai tay che sương gió để con khỏi lạnh lẽo. Yêu thương quên ngủ nghỉ, sủng ái hết giá lạnh. Chỉ mong con yên ổn, mẹ hiền không cầu an.
Sáu là bú mớm nuôi nấng. Mẹ hiền ơn hơn đất, cha nghiêm đức quá trời. Che chở ơn cao dày, cha mẹ nào tính toán. Không hiềm không mắt mũi, không ghét què chân tay. Con sinh ra từ bụng mẹ, còn đổi dạ thương ai.
Bảy là tắm rửa săn sóc. Không nghĩ thân phận mình, chỉ lo con bệnh tật, hết lòng tắm rửa, săn sóc. Áo quần lo cho con, rách rưới mẹ cam chịu. Thân con ấm áp là lòng mẹ ấm áp.
Tám là xa cách thương nhớ. Chết từ biệt vô cùng khó nhẫn; sống biệt ly lại càng nhớ thương. Con đi đường xa cách, lòng mẹ bóng theo hình. Ngày đêm không thư dạ, sớm tối nào tạm quên. Khóc như vượn nhớ con, thương nhớ nát can trường.
Chín là vì con làm ác. Lao khổ đủ muôn bề, bữa ăn rất khó kiếm. Vì muốn con no ấm, việc ác mẹ nào từ. Nuôi khôn lớn, lo gầy dựng. Lo cơm áo, sợ cơ hàn. Kho nấu bao sinh vật, cũng vì ngon miệng con.
Mười là thương mến trọn đời. Ân đức cha mẹ cao sâu hơn trời đất. Hi sinh tất cả, vẫn thấy chưa vừa lòng. Mẹ già trăm tuổi còn thương con tám mươi. Tình thương chỉ ngừng lại ở hơi thở cuối cùng.”
Đức Thế Tôn lại dạy: “A-nan! Như Lai xét thấy chúng sanh tuy làm thân người, tâm trí vẫn còn tối tăm. Không biết ân đức cha mẹ cao dày. Không biết kính trọng, vong ân bội nghĩa. Không lòng mến thương, bất hiếu bất mục. Từ mẫu mang thai mười tháng, đứng ngồi không yên, như gánh gánh nặng, ăn uống không thông như bệnh lâu ngày. Khi đủ ngày tháng, sắp sửa sinh con, chịu đủ khổ sở, khiếp sợ tử thần, tánh mạng mong manh. Như vật bị hại, huyết chảy tràn đất. Mẹ khổ đến thế mới sinh ra ta. Sinh rồi nuốt đắng nhổ ngọt, bồng ẵm nuôi nấng, không kể mệt nhọc, chịu nắng chịu mưa, không từ cay đắng. Chỗ khô con nằm, chỗ ướt mẹ lăn. Suốt trong ba năm, nhờ huyết sữa mẹ mới thành đứa bé. Đến khi khôn lớn, lo việc giáo dục, lo việc hôn nhân, kinh doanh sản nghiệp, tận tụy lao lực. Khổ nhọc suốt đời, không kể công khó. Con cái tật bệnh, cha mẹ bệnh theo, bệnh con nếu hết, cha mẹ mới lành.
Thế mà trưởng thành lại bất hiếu. Hỗn hào với cha mẹ, phùng má trợn mắt. Khinh khi chú bác, đánh đập anh em. Phỉ nhục bà con, không trọng lễ nghĩa. Thầy dạy không nghe, cha mẹ răn bảo không thèm vâng lời. Gây gỗ với anh em trong nhà, đi về không trình cha mẹ. Lời nói, hành động thô bạo, làm việc tự chuyên, manh động. Cha mẹ quở trách, chú bác răn đe thì sinh sân hận, chống trả phản nghịch, bất kể công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.
Bỏ bạn tốt, theo kẻ xấu, huân tập tánh ác, trở nên cuồng bạo. Bỏ gia đình, rời cha mẹ, lang bạt giang hồ. Hoặc theo người chinh chiến xâm lược, hoặc phạm tội bị biếm truất tù đày, hoặc bị khốn khổ đói khát, hoặc gặp tai nạn hiểm nguy. Bỏ mạng nơi xứ người, thây phơi ngoài sương gió, xương trắng bộc lộ ngoài trời. Để cho cha mẹ nhớ thương sầu khổ, khóc đến lòa mắt, bi ai thành bệnh. Có khi buồn khổ đến nỗi tử vong.
Hoặc mê tín dị đoan, không lo học tập, xao lãng nghề nghiệp, mặc cho cha mẹ u buồn. Hoặc cờ bạc, hoang đãng, phóng túng, tội lây đến cha mẹ, họa đến bà con.
Cha mẹ đau bệnh không hay, đói lạnh không biết. Xem cha như nợ, xem mẹ như khách, không hỏi han, chẳng đoái hoài. Cha mẹ buồn tủi, cô đơn, lạnh lẽo, phải ngủ nhờ, ăn xin, ngày đêm than thở, bi thảm muôn vàn, con cái không thèm hay biết. Dù hay biết lại cho là xấu hổ.
Đáng trách hơn nữa là khi thấy cha mẹ, vì tuổi cao lại buồn khổ nhiều, nên thân hình gầy gò xấu xí, thì sinh tâm bực tức, mắng nhiếc liên tục. Cha mẹ công ơn to lớn, đáng dâng cả xương thịt phụng dưỡng, nhưng trái lại cho một bữa cơm còn không muốn, sợ người chê cười. Còn với vợ con, phục dịch hết mình, đổ mồ hôi, sôi nước mắt, cho hết gia sản vẫn cam tâm.
Thê thiếp sai bảo, nhất nhất thi hành, cha mẹ khuyên răn, không thèm đếm xỉa. Con gái khi chưa chồng còn hiếu thuận, lấy chồng rồi trở nên bất hiếu. Cha mẹ hơi rày đã sanh oán giận, chồng đánh mắng lại một bề cam chịu. Khác họ khác dòng mà tình nặng nghĩa sâu, người sinh mình dưỡng mình lại xem như nước lã. Mê theo chồng con quên cả ngày tháng, còn cha mẹ không một lời hỏi thăm.
Ân đức cha mẹ vô lượng vô biên, tội bất hiếu cũng vô cùng vô tận, nói không hết, tả không cùng.”
Đại chúng nghe Đức Thế Tôn nói về ân đức vô lượng của cha mẹ như vậy thì toàn thân rúng động, hơi thở như ngừng lại, mồ hôi toát ra, lặng đi một lát, mới cao tiếng than: “Chúng ta là những kẻ khốn nạn, đáng trách. Từ trước đến giờ mù mờ như kẻ đi đêm, ngày nay mới biết việc mình làm là sai lầm, tội lỗi.” Lòng đau thương, tâm thống khổ, cùng thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Ân đức cha mẹ cao sâu như vậy, đệ tử chúng con làm sao báo đáp?”
Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng tiếng Phạm âm như tiếng hải triều, nói với đại chúng: “Giả như có người vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, cắt da đến xương, nghiền xương thấu tủy, máu đổ thịt rơi, vẫn không thể báo đáp ân sâu cha mẹ. Giả như có ai, gặp lúc đói khát, đem thân thể cung phụng cha mẹ, cũng không báo được ân đức cha mẹ. Trăm kiếp ngàn đời móc tròng mắt, cắt tim gan, dao bén đăm khắp thân, cũng không trả nổi ân đức cha mẹ. Cho đến vì cha mẹ, lấy thân làm đèn hiến cúng Như Lai, cũng không báo được hồng ân cha mẹ.”
Đại chúng nghe nói lòng càng đau đớn, đồng thanh thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Vậy làm sao mới báo được ân đức cha mẹ?”
Đức Thế Tôn dạy : “Chư Phật tử ! Các ngươi muốn báo ân cha nghĩa mẹ phải thân hành sao chép, trì tụng, thực hành Kinh này. Phải biết sám hối tội lỗi thay cho cha mẹ, khuyến khích cha mẹ thực hành chánh pháp tối thượng. Phải vì cha mẹ mà giữ tịnh giới, làm bố thí, hành hạnh lợi tha. Được như vậy mới là hiếu tử. Còn kẻ bất hiếu cha mẹ sẽ rơi vào địa ngục.
Ân đức cha mẹ cao cả bao nhiêu thì tội báo bất hiếu cũng nặng bấy nhiêu. Những kẻ bất hiếu, quên ân cha mẹ, tương lai phải thọ tội khổ vô cùng, không chi sánh bằng, không thể nói hết.
Những ai truyền bá, thực hành Kinh này là chân chính báo đáp thâm ân cha mẹ. Vì muốn báo đáp thâm ân cha mẹ mà ấn hành Kinh này, cứ mỗi cuốn như gặp được một Đức Như Lai. Do uy lực của chư Như Lai, hợp với phước đức của người trì tụng, thực hành Kinh này, cha mẹ người ấy sẽ được phước lạc vô biên, cho đến dần dần được giải thoát.”
Bấy giờ đại chúng nghe Đức Thế Tôn dạy bảo như vậy, đều phát thệ nguyện: “Từ nay cho đến tận cùng vị lai, dù sắt nóng thiêu đốt đầu mặt, chúng con cũng nguyện không trái lời dạy của Đức Thế Tôn.”
Tôn giả A-nan thưa: “Bạch Đức Thế Tôn! Kinh này gọi là gì? Chúng con làm sao phụng trì?”
Đức Thế Tôn dạy: “A-nan! Kinh này tên là Kinh Báo Ân Cha Mẹ. Các ngươi cứ theo như tên Kinh mà phụng trì.”
Khi Đức Thế Tôn dạy xong, tất cả đại chúng đều vui vẻ, tin nhận, vâng làm.
Nam mô Kinh Báo Ân Cha Mẹ (3 lần)
SÁM VU LAN
Hôm nay chúng Tăng Tự tứ,
Ngày hội Vu Lan.
Toàn thể chúng con:
Tăng, Ni, Phật tử,
Hồi tâm tưởng nhớ,
Tôn giả Mục Liên.
Tu hành đã chứng,
Lục thông La-hán,
Vẫn còn thương mẹ,
Chẳng biết nơi nao?
Sáu đạo luân hồi,
Quyết tâm tìm kiếm,
Thiên nhãn soi cùng,
Đến nơi ngạ quỷ,
Mẹ ta đây rồi !
Lang thang đói khổ,
Ruột đau như cắt,
Không thể ngồi yên.
Liền đi khất thực,
Được bát cơm đầy,
Dùng thần túc thông,
Đem cơm dâng mẹ,
Nhìn thấy bát cơm,
Mẹ mừng khôn xiết,
Tay vừa bốc ăn,
Cơm liền hóa lửa!
Đớn đau khó tả,
Rơi lệ dầm dề,
Vội lui trở về,
Cầu Thế Tôn cứu.
Thế Tôn chỉ dạy,
Lập hội Vu Lan,
Thỉnh mười phương Tăng,
Đồng tâm cầu nguyện.
Lễ hội vừa xong,
Cõi trời mẹ đến.
Mục Liên hớn hở,
Vui vẻ khôn cùng.
Lại hỏi Phật thêm,
Con hiếu sau này,
Mẹ cha quá cố,
Lập hội được chăng ?
Phật liền dạy rằng,
Thiết lễ Vu Lan,
Cứu độ lục thân,
Bảy đời cha mẹ.
Nhớ gương Mục Liên,
Người con hiếu thảo,
Tu chứng giải thoát,
Vẫn quý mẹ cha.
Huống nữa chúng con,
Còn là phàm tục,
Công ơn cha mẹ,
Trời bể khôn bì.
Bổn phận làm con,
Làm sao quên được,
Dâng hiến trọn đời,
Chưa tròn chữ hiếu.
Thân con có ra,
Từ nơi cha mẹ,
Dù nát thân này,
Chẳng đủ đền ân,
Con nào dám nghĩ,
Bỏ mẹ quên cha,
Có ai ruột rà,
Bằng cha với mẹ.
Sanh thành khổ nhọc,
Nuôi dưỡng tâng tiu,
Miễn con khỏe vui,
Là cha mẹ thích,
Con vừa chớm bệnh,
Cha mẹ buồn rầu,
Chạy ngược chạy xuôi,
Rước thầy tìm thuốc.
Chỉ nghĩ đến con,
Mà quên khổ nhọc.
Con là hòn ngọc,
Của quý mẹ cha,
Vắng mặt con thơ,
Mẹ cha sầu thảm,
Dù con khôn lớn,
Cha mẹ nào quên,
Thương mãi thương hoài,
Đến ngày nhắm mắt.
Hy sinh cả đời,
Cũng vì con trẻ,
Muốn được con vui,
Quên mình tạo tội,
Đời này đã khổ,
Kiếp khác nào an,
Càng nghĩ đến Người,
Lòng con se thắt !
Nguyện tu tinh tấn,
Làm những điều lành,
Dâng công đức này,
Đền ân cha mẹ,
Xin trên Tam Bảo,
Chứng giám lòng con,
Bao nhiêu phước lành,
Nguyện xin hồi hướng,
Cho đấng hai thân,
Còn sống an khang,
Phát tâm Bồ-đề,
Tu hành chánh giác.
Nếu đã quá cố,
Siêu thoát trầm luân,
Sanh trong đường lành,
Tu theo chánh pháp,
Hạnh duyên đầy đủ,
Phật đạo chóng thành.
Nam-mô Tôn Giả Đại Hiếu Mục Kiền Liên (3 lần)
CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG
Công đức Khóa Lễ Vu Lan khôn tính kể
Thắng phước vô biên đồng hướng về,
Nguyện khắp pháp giới các chúng sanh,
Thảy đều thể nhập vô sanh nhẫn.
Nguyện tiêu ba chướng, sạch phiền não,
Nguyện được trí huệ thật sáng ngời,
Nguyện cả tội chướng thảy tiêu trừ,
Đời đời thường hành Bồ-tát đạo.
Nguyện đem công đức tu hành này,
Chan rải mười phương khắp tất cả,
Hết thảy chúng con cùng các loài,
Đồng được lên ngôi Vô thượng giác.
PHỤC NGUYỆN
Cửa thiền thường nghiêm tịnh,
Toàn chúng mãi thuận hòa.
Phật huệ chiếu sáng ngời,
Mưa pháp hằng nhuần gội.
Phật tử lòng tin sâu,
Ruộng phước càng tăng trưởng.
Chúng sanh sống an lạc,
Vui hưởng cảnh thái bình.
Nơi nơi dứt đao binh,
Mỗi mỗi đều thành Phật.
Nam mô Mười phương Vô Thượng Tam Bảo
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Nam mô chư Phật, chư Đại Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng ở khắp mười phương ba đời
Nam mô chư Phật, chư Đại Bồ-tát trên hội Vu Lan
Nam mô Tôn giả Đại Hiếu Mục-kiền-liên
Nam mô Tôn giả A-nan
Nam mô chư Thiên Long Bát Bộ Hộ Giáo Già Lam Chư Tôn Bồ-tát
Xin thùy từ lân mẫn cảm ứng chứng minh cho đệ tử chúng con, chư Ni cùng Phật tử, và chư Thiên, Long, Quỷ, Thần, phi nhơn, tất cả chúng sanh có sắc không sắc, có hình không hình, có tưởng không tưởng, hiện vân tập tại đạo tràng.
Giờ này Nghi khóa vì cha mẹ và tổ tiên ông bà kính trì tụng Kinh Báo Ân Cha Mẹ đã hoàn mãn.
Chúng con thành tâm cầu nguyện hồng ân Tam Bảo, Từ lực Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, oai thần oai lực chư Phật, chư Đại Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng, chư Tôn Hộ pháp, xin thùy từ lân mẫn gia hộ cho tổ tiên ông bà cha mẹ hiện đời và bảy đời trước của chúng con, được nương nhờ công đức này mà kể từ đây nghiệp chướng từ vô thủy được tận trừ, phúc đức trí tuệ ngày càng tăng trưởng. Những vị không may đang còn đọa trong ác đạo, nguyện tức thời chuyển sanh cõi lành, hưởng phúc báo trời người thù thắng, được Tam Bảo gia hộ, theo chư Phật, chư Đại Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng, chư tôn Hộ pháp, như pháp tu hành, cho đến ngày viên mãn Phật quả. Những vị đang hưởng phúc nơi cõi trời người, nguyện phát khởi lòng kính tin Tam Bảo, gặp Thiện tri thức giáo hóa, phát tâm Bồ-đề kiên cố, đời đời kiếp kiếp tu hành cho đến ngày viên mãn Phật quả.
Chúng con nguyện đem công đức này hồi hướng cầu nguyện cho chư vị hương linh Phật tử……., và những hương linh vong linh hữu tình, chiến sĩ trận vong, oan hồn uổng tử, thập loại cô hồn, đồng bào tử nạn, thai nhi sản nạn, oan gia trái chủ, và những chúng sanh hiện đang đọa lạc nơi ba đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Cầu nguyện chư vị nương nhờ công đức hồi hướng này mà nghiệp chướng từ vô thủy được tận trừ, từ nay phước đức trí huệ ngày càng tăng trưởng, biết quy hướng Tam Bảo, hướng thiện tu hành, đời đời kiếp kiếp đầy đủ trí huệ sáng suốt, tin sâu nhân quả, biết làm lành lánh dữ, vĩnh viễn chẳng rơi ác đạo, thường sanh vào cõi lành, hưởng phước báo trời người thù thắng, gặp Phật pháp, được Tam Bảo gia hộ, theo chư Phật, chư Đại Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng, chư Tôn Hộ Pháp, như pháp tu hành cho đến ngày viên mãn Phật quả.
Chúng con cũng nguyện đem công đức này hồi hướng cầu nguyện cho chư vị Phật tử…….
Cầu nguyện chư vị nương nhờ công đức hồi hướng này mà nghiệp chướng từ vô thủy được tận trừ, từ nay phước đức trí huệ ngày càng tăng trưởng, tai ách tiêu trừ, oan khiên dứt sạch, bệnh căn thuyên giảm, gia quyến an khang, lòng tin Tam Bảo ngày càng sâu, tình thường đối với chúng sanh ngày càng rộng lớn, đời đời kiếp kiếp đầy đủ trí huệ sáng suốt, tin sâu nhân quả, biết làm lành lánh dữ, vĩnh viễn chẳng rơi ác đạo, thường sanh vào cõi lành, hưởng phước báo trời người thù thắng, gặp Phật pháp, được Tam Bảo gia hộ, theo chư Phật, chư Đại Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng, chư Tôn Hộ Pháp, như pháp tu hành cho đến ngày viên mãn Phật quả.
Khắp nguyện phước ban tất cả, đức độ quần sanh, kẻ mất siêu thăng, người còn phúc lạc, chúng sanh được thấm nhuần mưa pháp, mọi người đều chứng ngộ Phật thừa.
Nam mô Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni (chúng đồng niệm)
Vãng sanh quyết định chơn ngôn
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tì, a di rị đa tất đam bà tì. A di rị đa tì ca lan đế. A di rị đa tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (7 lần)
Nam mô Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni (chúng đồng niệm)
LỄ TAM BẢO
Chí tâm quy mạng lễ mười phương Vô thượng Tam Bảo (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Bụt Cổ Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Xá Lợi Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô chư Phật, chư Đại Bồ-tát trên hội Vu Lan (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tôn giả Đại Hiếu Mục-kiền-liên (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tôn giả A-nan (3 lễ)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Xá Lợi Tôn giả Sivali (3 lễ)
THỈNH BỔN SƯ GIA HỘ
Nam mô Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni
Ngưỡng kính bạch Đức Thế Tôn!
Chúng con thành tâm đảnh lễ Ngài.
Ngưỡng kính bạch Ngài!
Tất cả những tội lỗi mà chúng con đã lỡ gây tạo từ thân, miệng, ý, chúng con vô cùng hổ thẹn, thành tâm sám hối. Ngưỡng nguyện Đức Thế Tôn thùy từ lân mẫn tha thứ cho chúng con.
Ngưỡng kính bạch Ngài!
Tất cả những việc phước đức và công đức mà chúng con đã làm, ngưỡng nguyện Ngài chứng minh, gia hộ. Tất cả những việc phước đức và công đức mà Ngài đã làm, xin ban cho chúng con. Lành thay, lành thay! Chúng con vô cùng hoan hỷ thọ lãnh ân đức ấy.
Ngưỡng kính bạch Đức Thế Tôn!
Tất cả những việc phước đức và công đức mà chúng con đã làm hôm nay, chúng con xin thành tâm cúng dường lên Ba mươi ba vị Trời Đế Thích, bốn vị Hộ thế Thiên Vương, chư vị Long Vương, chư vị Diêm Vương, chư vị Thiên thần trong đạo tràng này, chư vị Thiên thần trong cõi đời này.
Ngưỡng nguyện quý Ngài phước lực ngày càng tăng trưởng, tín lực ngày càng kiên cố, thần lực ngày càng dõng mãnh. Quý Ngài mãi mãi hộ trì Tam Bảo, hộ trì chánh pháp, hộ trì chúng con, hộ trì tất cả chúng sanh trong cõi đời này đều được an vui, hạnh phúc.
Ngưỡng nguyện quý Ngài từ bi lân mẫn tiếp thọ cho chúng con được ân triêm công đức.
Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
TÁN HỘ PHÁP
Trời, A-tu-la, Dạ-xoa thảy
Đến nghe pháp đó nên chí tâm
Ủng hộ Phật pháp mãi thường còn
Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy.
Bao nhiêu người nghe đến chốn này,
Hoặc trên đất liền, hoặc hư không,
Thường đối người đời sanh từ tâm,
Ngày đêm tự mình nương pháp ở.
Nguyện các thế giới thường an ổn,
Phước trí vô biên lợi quần sanh.
Bao nhiêu tội nghiệp thảy đều trừ,
Xa lìa các khổ về viên tịch.
Hằng dùng giới hương thoa vóc sáng,
Thường gìn định phục để giúp thân,
Hoa mầu Bồ-đề khắp trang nghiêm,
Tùy theo chỗ ở thường an lạc.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Chư Thiên Long Bát bộ Hộ giáo Già lam Chư Tôn Bồ-tát (3 lễ)
NGUYỆN KIẾT TƯỜNG
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời đều an lành,
Tất cả thời gian an lành cả,
Nguyện chư Thượng Sư thường nhiếp thọ.
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời đều an lành,
Tất cả thời gian an lành cả,
Nguyện trên Tam Bảo thường nhiếp thọ.
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời đều an lành,
Tất cả thời gian an lành cả,
Nguyện chư Hộ pháp thường ủng hộ.
Nam mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ-tát Ma-ha-tát (3 lần)
HỒI HƯỚNG CHUNG
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
———–(Hoàn Mãn)———-