Trong một lần gặp ông Kris, tôi có hỏi Kris một cách khôi hài rằng, nếu quay vào bên trong thì con người sẽ khám phá được những gì? Liệu chúng ta có thể giải đáp câu hỏi con người từ đâu đến hay chết đi sẽ về đâu hay không? Liệu sau khi hướng vào bên trong, chúng ta có được tăng lương thêm không? Kinh doanh có được tốt hơn không? Có tìm ra được những giải pháp cho các vấn đề cuộc sống quá phức tạp, ngổn ngang hay không?
Ông Kris không để ý đến hàm ý trêu đùa của tôi, ông nhìn thẳng vào tôi, nghiêm nghị trả lời:
– Câu hỏi của ông là vấn đề rất nghiêm túc và thú vị, đồng thời cũng là câu hỏi của rất nhiều người. Con người luôn có tính tò mò, cái gì cũng muốn biết, muốn hiểu. Nhưng biết để làm gì? Cho dù tôi nói thế nào cũng không thể thỏa mãn được tất cả mọi người. Nếu tôi nói rằng con người xuất phát từ hành tinh nào đó đến đây thì các nhà khoa học sẽ đòi hỏi bằng chứng xác thực. Nếu tôi nói rằng con người từ vật chất cấp thấp tiến hóa thành sinh vật, rồi thành người thì các tôn giáo cũng không chấp nhận. Nếu tôi nói con người do một đấng nào đó sinh ra thì có người sẽ đặt câu hỏi vậy ai đã sinh ra đấng đó. Nếu tôi khẳng định có một thế giới của những vong linh sau khi con người chết, có cả cõi giới của ma quỷ đang tồn tại song hành cùng chúng ta mọi người sẽ bắt tôi chụp ảnh vong linh hay dẫn một con ma đến để các nhà báo chụp ảnh, phỏng vấn thì mới tin. Tóm lại, tất cả những câu trả lời đều không làm hài lòng mọi người. Muốn thấu hiểu chỉ có cách duy nhất là quay vào bên trong, tự khám phá, tự tìm kiếm câu trả lời thông qua việc tu tập, quán chiếu, để hiểu sự vận hành của tâm thức và thế giới, có điều, đó là câu trả lời mà chỉ có ai từng thực sự trải nghiệm mới hiểu, “như người uống nước tự biết nóng lạnh”, chứ chỉ nói suông không có ích gì. Hiện nay, phần lớn con người chỉ biết quay ra bên ngoài, đuổi theo những điều phù phiếm chứ không thấu hiểu các động lực bên trong đang chi phối đời sống của họ. Đa số mọi người chỉ chạy theo những ảo ảnh xa vời, càng ngày càng đi xa, càng lạc lõng, càng mất phương hướng, không quay về ngôi nhà nội tâm của mình được. Tất cả những gì hướng ra bên ngoài đều không mang lại kết quả lâu dài được – bởi vì hiểu biết thật sự phải đến từ bên trong. Khi thế giới bên ngoài biến động lớn đến mức không còn điểm tựa nào nữa thì chính là đến lúc chúng ta buộc phải quay vào bên trong.
Tôi chăm chú lắng nghe, cảm nhận những điều ông nói rất thú vị nhưng vẫn không giấu được vẻ hoài nghi. Bởi cho đến lúc đó, tôi vẫn còn là con người của tư duy khoa học, dẫu đã bắt đầu có những trực giác nhất định về thế giới tinh thần. Dường như đọc được những suy nghĩ của tôi, ông Kris chậm rãi nói tiếp:
– Những điều tôi nói trên đây là dựa vào những trải nghiệm và sự hiểu biết của tôi. Tất nhiên, trải nghiệm của tôi không thể là của ông, hiểu biết của tôi cũng chưa thể là của ông, nên sự hoài nghi xuất hiện trong ông là điều tất nhiên. Ông không cần phải tin những điều tôi nói mà nên tự trải nghiệm, tự suy ngẫm để tìm ra lời giải đáp của riêng mình. Vũ trụ không chỉ đơn giản chỉ là không gian rỗng với các hành tinh xoay chuyển mà còn có những luồng năng lượng biến chuyển liên tục theo những định luật phức tạp, tương quan vô cùng chặt chẽ với nhau. Hiện nay các nhà khoa học cho rằng mọi sự xảy ra trong vũ trụ chỉ là những hiện tượng vật lý và hóa học, như vậy là còn nhiều thiếu sót. Tương tự, con người không phải chỉ là cái thân xác vật chất mà bên trong còn có những nguồn năng lượng vô hình luôn biến chuyển, tác động tương hỗ qua lại liên tục giữa người này với người khác, dưới sự ảnh hưởng của các quy luật của vũ trụ, luật Nhân quả và Luân hồi.
Tôi lắng nghe chăm chú, đôi chút ngạc nhiên vì ông có thể biết được điều tôi đang nghĩ. Tôi suy ngẫm những điều vừa nghe, rồi hỏi:
– Vậy các sinh vật sống ở hành tinh khác thì thế nào? Liệu chúng có bị chi phối bởi những luật này không?
Ông Kris bật cười, trả lời:
– Vũ trụ rộng lớn bao la với hàng triệu hành tinh, đời sống tại những nơi đó ra sao thì tôi không thể biết được. Tuy nhiên, theo sự nghiên cứu của tôi thì tất cả mọi sự, mọi vật trong vũ trụ này đều chịu sự chi phối của luật Luân hồi và Nhân quả. Ngay trên trái đất này, ngoài thế giới của loài người và loài vật còn có cõi giới của các sinh vật khác mà hầu như mọi người còn chưa biết, việc gì phải đi tìm kiếm đâu xa?
Tôi hết sức ngạc nhiên, lập tức hỏi lại:
– Ông vừa nói còn có những cõi giới khác nữa sao?
Ông Kris gật đầu, xác nhận:
– Cõi giới (Realm) là những vùng cấu tạo bởi các nguyên tử có sự rung động đặc biệt tương thích với các sinh vật sống trong không gian đó. Tùy sự cấu tạo và rung động của nguyên tử mà hình hài, thể chất các sinh vật cũng biến đổi theo hoàn cảnh của cõi giới đó. Cõi giới hiện nay của chúng ta cấu tạo bởi các nguyên tử có sự rung động chậm và thô, nên thích hợp với cơ thể vật chất, là thế giới chúng ta nhìn thấy mỗi ngày đây. Các cõi khác thì nguyên tử rung động thanh và nhẹ nên giác quan vật chất của chúng ta không thể nhận biết, nghe hay nhìn thấy được. Những cõi này đều có những sinh vật sống tại đó, chỉ là chúng ta không thể nhìn thấy đó thôi, nhưng không nhìn thấy không có nghĩa là chúng không hiện hữu.
Tất cả những gì hướng ra bên ngoài đều không mang lại kết quả lâu dài được – bởi vì hiểu biết thật sự phải đến từ bên trong. Khi thế giới bên ngoài biến động lớn đến mức không còn điểm tựa nào nữa thì chính là đến lúc chúng ta buộc phải quay vào bên trong.
Tôi buột miệng hỏi:
– Phải chăng ông đang muốn nói về ma quỷ? Ông cho rằng ma quỷ là có thật hay sao?
Ông Kris nhìn thẳng vào mắt tôi, nói rất chậm:
– Không những ma quỷ là có thật mà còn có rất nhiều thực thể được phân cấp bậc sống ở các cõi giới khác nữa. Đối với đa số mọi người, ma quỷ là một khái niệm được cho là mơ hồ, có người tin và có nhiều người không tin. Nếu ông tin là có ma quỷ, thì ma quỷ sẽ hiện hữu, còn ông không tin là có ma quỷ thì ma quỷ cũng vẫn cứ hiện hữu. Nếu tôi nói với ông dưới lòng đất có dầu hỏa thì dù ông có tin hay không, mỏ dầu hỏa vẫn ở dưới đó. Người có kiến thức về địa chất sẽ khai thác mỏ lấy dầu, người thiếu kiến thức thì bỏ lỡ cơ hội. Trong phạm vi Thái Dương hệ của chúng ta hiện nay, có nhiều cõi giới khác nhau. Ma quỷ (Spirits) có cõi riêng. Thần linh (Deva) có cõi giới riêng. Thánh nhân (Sages) cũng có cõi giới riêng của họ. Ngoài ra còn có các loài sinh vật lạ lùng với cõi giới riêng của chúng nữa. Những cõi này bao trùm lên nhau, tùy theo sự rung động của nguyên tử khác nhau mà tạo ra các “chiều không gian” (Dimension) riêng biệt.
Thấy tôi chăm chú lắng nghe, ông giải thích tiếp:
– Hiện nay, hầu hết mọi người không tin có cõi giới nào khác ngoài cõi giới của loài người, vì giác quan của họ không nhận thức được các cõi kia. Nhưng không nhận thức được không có nghĩa là chúng không hiện hữu. Hiện nay trên không trung có vô số làn sóng điện của radio, tivi hay điện thoại mà ông đâu nhìn thấy, nghe thấy hay sờ thấy được, nhưng ông vẫn biết chúng hiện hữu vì có thể sử dụng điện thoại, tivi, radio, radar để bắt những làn sóng đó. Nhờ sóng truyền hình, ông có thể thấy được hình ảnh chương trình trên các kênh tivi. Cũng như thế, khi tu tập nội tâm, phát triển định lực, nhận thức trở nên tinh tế hơn, thì ông có thể bắt được các rung động từ các chiều không gian kia, rồi biết được sự sinh hoạt của các cõi khác.
Tôi đã bị thuyết phục phần nào trước sự phân tích chặt chẽ, nhưng vẫn im lặng, ông Kris nói tiếp:
– Đa số mọi người ngày nay có tính hồ nghi, chỉ thích nghe những gì muốn nghe, và bỏ qua những việc không thích, do đó rất khó có thể nói cho họ biết về những cõi giới kia. Dù có nói ra, họ cũng đòi phải có bằng chứng, phải chứng minh được thì mới chịu tin. Do đó, việc nói về các cõi giới khác không có ích gì trong lúc này.
Tôi suy nghĩ thêm, rồi hỏi:
– Vậy thì các cõi giới đó liên hệ và tác động tới cõi giới của chúng ta như thế nào? Trước giờ tôi chưa từng nhận biết được sự tồn tại của cõi giới nào khác cả.
Ông Kris nhìn tôi, vẻ thú vị với câu hỏi, rồi điềm tĩnh giải thích:
– Cõi giới loài người bị giới hạn bởi các yếu tố vật chất, còn cõi giới của các thực thể khác như ma quỷ, thiên thần, hay thánh nhân thì rộng lớn hơn, bao trùm lên cõi giới loài người. Ngoài ra còn có những cõi giới khác lớn hơn nữa, bao trùm lên các hành tinh, Thái Dương hệ, các thiên hà, vượt ngoài sự hiểu biết của tôi. Như ông đã biết, sự rung động chậm và thô sinh ra các yếu tố vật chất, với sự rung động thanh, nhẹ thì vật chất chuyển thành năng lượng. Tại các cõi giới có nguyên tử rung động thanh, nhẹ thì không có yếu tố vật chất, tất cả chỉ là năng lượng hay tư tưởng thôi, vì là cõi tư tưởng nên các thực thể thuộc những cõi này có thể biết được tư tưởng của con người, còn con người thuộc cõi vật chất không thể biết được các cõi giới khác và các tư tưởng thuộc cõi giới đó.
Tôi giật mình, lập tức hỏi lại:
– Ông nói rằng ma quỷ, thần thánh có thể hiểu được chúng ta đang nghĩ gì hay sao?
Ông Kris bật cười:
– Dĩ nhiên là có thể. Không những ma quỷ, mà các thực thể thuộc các cõi khác cũng có thể biết được tư tưởng, suy nghĩ, ý định, hành động của con người một cách dễ dàng. Để tôi lấy ví dụ cho ông dễ hiểu. Chúng ta lớn hơn côn trùng nên có tầm nhìn rộng lớn hơn chúng. Nếu quan sát con kiến tìm mồi dưới đất và ta thấy cách đó không xa có một hạt gạo, mà nếu con kiến tiếp tục đi nó sẽ gặp hạt gạo đó. Vì con kiến không thể nhìn xa, nên khi chưa đến chỗ đó, nó không biết gì về hạt gạo kia. Còn chúng ta, vì có tầm nhìn bao quát hơn, chúng ta có thể thấy trước được việc này và biết con kiến sẽ tìm được hạt gạo. Tương tự như vậy, cõi giới cao hơn có tầm nhìn lớn hơn nên thực thể ở cõi đó có thể nhận biết hay nhìn thấy trước một số sự kiện chưa xảy ra ở thế giới này.
Ông Kris dừng lại để cho tôi suy ngẫm về những điều vừa nói, rồi tiếp tục:
– Một số người, qua công phu tu luyện, hay có một khả năng đặc biệt nào đó, được mở rộng nhãn quan, có thể tiên đoán được một số sự việc xảy ra cả vài thập kỷ thậm chí cả thế kỷ sau đó. Họ thường được gọi là những nhà tiên tri. Tuy nhiên, cũng cần phải nói thêm là những tiên đoán này không phải lúc nào cũng chính xác. Bởi vì tương lai không bao giờ cố định mà luôn thay đổi tùy theo biến chuyển tâm thức của nhân loại.
Tôi hỏi thêm:
– Vậy những lời tiên tri có thể ứng nghiệm hay không ứng nghiệm như thế nào?
Ông Kris từ tốn trả lời:
– Không ai có thể bảo đảm mọi việc sẽ xảy ra tuyệt đối chính xác theo một kịch bản nào đó được. Những nhà tiên tri chân chính không bao giờ nói thẳng mà thường chỉ sử dụng ẩn dụ, hoặc những câu thơ bóng bẩy, lời nói hàm ý để cảnh báo nhân loại. Họ biết mọi sự xảy ra trên đời đều do nhân quả thu xếp, nhưng còn tùy năng lực chiêu cảm của nhân loại mà thời gian có thể thay đổi, có khi đến sớm, có khi đến muộn, cả mức độ xảy ra cũng không cố định, có khi nặng, có khi nhẹ. Bất cứ ai một khi đã gây nhân ắt sẽ có quả nhưng khi nào nhân trổ quả thì còn tùy vào lực chiêu cảm, hành vi tiếp theo và công đức của mỗi người. Chính vì vậy, số mệnh con người không bao giờ cố định mà luôn luôn thay đổi tùy theo tâm thức và sự thức tỉnh của người đó. Người xem tử vi dựa trên ngày tháng, sự vận hành của các vì tinh tú, chỉ có thể nói một cách tổng quát, đại cương thôi, vì mọi sự vẫn còn có thể thay đổi.
Số mệnh được định sẵn khi con người sinh ra chỉ là cái khung sườn (Framework), còn các chi tiết bên trong có thể thay đổi tùy lực chiêu cảm của tâm thức con người. Khi con người có thêm hiểu biết, có nhận thức mới và quyết tâm thay đổi từ tâm thức, thay đổi suy nghĩ, lời nói và hành động, thì khi đó con người mới có thể cải biến được số mệnh.
Tôi chăm chú lắng nghe, vỡ ra nhiều điều. Im lặng một lúc, tôi hỏi thêm:
– Thế sự thay đổi từ bên trong đó diễn ra như thế nào?
Ông Kris giải thích nhẹ nhàng:
– Kinh sách Ấn Độ có câu chuyện như sau: “Một ông vua khi lên ngôi thấy cung điện của mình cũ kỹ, nhỏ bé, xấu xí, ông đã chi rất nhiều tiền của, tuyển các nghệ nhân nổi tiếng trong vương quốc đến để xây mới lại cung điện của mình huy hoàng, tráng lệ hơn, mặc dù năm ấy nạn đói hoành hành khắp nơi, người dân không có đủ lương thực để ăn. Ngày nào nhà vua cũng đốc thúc các thợ thuyền dồn sức làm việc ngày đêm, làm sao cho cung điện phải thật sang trọng nguy nga. Ông muốn có một chiếc ngai bằng vàng ròng, bồn tắm bằng ngọc, phòng ốc được trang hoàng cầu kỳ bằng đá quý với các chi tiết chạm trổ hết sức kỳ công. Ít lâu sau, nhà vua mắc một căn bệnh nan y. Các y sĩ giỏi trong vương quốc dù đã cố gắng hết sức cũng đều phải bó tay, không thể cứu chữa. Các nhà chiêm tinh nổi tiếng trong nước được triệu tới để đoán vận mệnh cho nhà vua. Các nhà chiêm tinh sau khi xem xét kỹ đều nói rằng nhà vua cùng lắm chỉ sống được một tháng nữa, vì số mạng của nhà vua đến đó đã là số tận. Nhà vua trong tuyệt vọng vẫn suy tính: Nếu chết, ta làm sao để có thể mang của cải, cung vàng điện ngọc theo được đây? Cuối buổi, khi mọi người ra về hết, một vị chiêm tinh già rất có uy tín nán lại, tiến đến nói nhỏ một câu gì đó chỉ đủ cho nhà vua nghe. Nhà vua bỗng biến sắc, lặng người suy nghĩ. Nửa đêm hôm đó, cả triều đình bất ngờ khi nhà vua đột nhiên ra lệnh hủy bỏ ngay lập tức việc xây cất cung điện, mang tất cả của cải, vàng bạc bố thí cho dân nghèo trong cả vương quốc. Nhà vua đã chấp nhận số phận của mình.
Nhưng thật kỳ lạ, sau khi từ bỏ việc xây cất cung điện và tiến hành phát chẩn cứu đói, sức khỏe nhà vua mau chóng hồi phục trước sự kinh ngạc của tất cả triều thần. Nhà vua cho gọi vị quan chiêm tinh đó đến để hỏi chuyện. Vị chiêm tinh già nhìn nhà vua một lúc rồi chậm rãi giải thích: “Theo lá số chiêm tinh, mệnh của nhà vua thật ra đã hết, nhưng hành động bố thí lớn lao vừa rồi đã chiêu cảm được những điều tốt lành, may mắn và chuyển hóa được nghiệp báo nên nhà vua sẽ không phải chết nữa”.
Bất cứ ai một khi đã gây nhân ắt sẽ có quả nhưng khi nào nhân trổ quả thì còn tùy vào lực chiêu cảm, hành vi tiếp theo và công đức của mỗi người, chính vì vậy, số mệnh con người không bao giờ cố định mà luôn luôn thay đổi tùy theo tâm thức và sự thức tỉnh của người đó. Khi con người có thêm hiểu biết, có nhận thức mới và quyết tâm thay đổi từ tâm thức, thay đổi suy nghĩ, lời nói và hành động, thì khi đó con người mới có thể cải biến được số mệnh.
Trong khi tôi còn đang bàng hoàng về câu chuyện thì ông Kris chậm rãi khẳng định:
– Đó chính là nguyên lý “Hoán cải số mệnh – Đức năng thắng số” mà ông đã từng nghe. Thật ra, gần như ai cũng biết đến nguyên lý này nhưng ít người thực hiện được, vì tâm họ còn nhiều tham sân si, ích kỷ, thường chỉ biết nghĩ cho riêng mình mà không nghĩ đến thiên hạ, chúng sinh. Nhất là những người có nhiều của cải, quyền lực thường có tư tưởng bám chấp rất lớn, dù họ biết chết đi không mang theo được gì cả. Ở phạm vi lớn hơn, các quốc gia chịu ảnh hưởng lớn từ sự chuyển đổi tâm thức, hướng thiện từ những người giữ vị trí cao nhất, rồi đến sự thức tỉnh của đa phần những người dân sống trong quốc gia đó. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng bố thí, làm việc thiện không thể là hành vi có mục đích riêng, nhằm cứu vãn một tai họa nào đó cho bản thân. Đó phải là sự giác ngộ, thức tỉnh trong tâm để chuyển hóa thành hành vi thiện nguyện, là việc thiện chỉ vì lòng thiện chứ không thể vì bất kỳ động cơ nào khác. Từ đó, mới chiêu cảm được những điều tốt lành và số mệnh mới có thể chuyển biến, ông cần nhớ rằng làm việc thiện phải từ tâm, không cần hồi báo. Chúng ta làm điều tốt vì đó là điều đúng đắn nên làm chứ không phải vì mong muốn nhận lại được điều tốt cho bản thân.
Tôi gật đầu và nói:
– Tôi hiểu rồi. Việc “cải mệnh” hóa ra có vẻ đơn giản nhưng lại không hề đơn giản. Không phải cứ mặc sức làm điều độc ác, hại người lợi mình, rồi sau đó vì sợ sự trừng phạt của nhân quả nên vội vàng bỏ tiền bỏ của ra làm những việc công đức nặng tính hình thức là có thể xóa đi nghiệp ác hay báo ứng được. Nếu không thực sự xuất phát từ suy nghĩ, hành động thiện tâm thì không một ai trên đời có thể thay đổi được nghiệp quả.
Ông Kris mỉm cười nhìn tôi với vẻ thú vị:
– Vị vua trong câu chuyện trên có thể cải số vì đó là sự thức tỉnh từ việc lắng nghe lời khuyên của vị chiêm tinh già, nhưng đó cũng là sự giác ngộ thật sự. Từ sự giác ngộ đó, ông phát tâm từ bi bố thí cho dân, việc trước giờ ông chưa bao giờ làm, và ông cũng không mong cầu gì nên đã tạo công đức lớn. Những việc làm thiện có tính toán thiệt hơn vẫn gieo được nhân tốt nhưng phần công đức tích được bị trừ đi, còn lại rất ít.
Ông vua trong câu chuyện trên là một vị vua hiếm hoi có thể thức tỉnh rằng cung vàng điện ngọc và quyền lực của kiếp người chỉ là hư vô, chết rồi sẽ không mang theo được. Nhưng có mấy vị vua nghĩ được như thế, đa số họ còn ra lệnh đòi mang theo vàng bạc, châu báu, binh tướng, cung nữ chôn theo mình. Nhìn vào lịch sử cổ đại, ông có thể thấy rằng từ rất sớm, các vị vua, đặc biệt là ở Ai Cập, Trung Hoa, đã bắt đầu xây lăng mộ xa hoa, thậm chí bắt người hầu, cung nữ và những đội quân chôn theo để vẫn có thể hưởng thụ quyền lực sau khi chết. Chưa kể hàng trăm, hàng ngàn người phu xây lăng mộ vua chúa đều bị chôn sống theo mộ để giữ bí mật vị trí lăng mộ. Tất cả đều là nghiệp dữ. Con cháu của những vị vua đó đương nhiên sẽ bị quả báo, gặp họa sát thân, triều đại cũng sớm bị tiêu vong. Những hoàng đế Trung Hoa thường mời những pháp sư, nhà phong thủy giỏi nhất tính toán vị trí long huyệt để xây lăng mộ cho mình, nhằm toan tính cho triều đại và con cháu của mình sẽ cai trị mãi mãi. Nhưng cuối cùng, có triều đại nào là vĩnh viễn đâu? Vị vua tốt biết lo cho dân cho nước sẽ tạo nền tảng tốt cho triều đại và quốc gia thêm vững bền. Không có long huyệt phong thủy nào có thể cứu vãn được sự tàn ác và thất đức. Tần Thủy Hoàng quyền uy một cõi, nhất thống thiên hạ, từng lập nên một triều đại vẻ vang nhưng đồng thời gây ra rất nhiều tội ác, làm bao người chết oan ức, muôn dân lầm than, ông ta muốn bất tử để có thể làm hoàng đế vĩnh viễn nên tin dùng những đạo sĩ để truy tìm thuốc tiên, rồi xây lăng mộ vĩ đại cho bản thân để mong tiếp tục làm hoàng đế sau khi chết. Ông hãy nhìn các báo cáo về việc khai quật lăng mộ Tần Thủy Hoàng, nhìn những đội quân đất nung hàng chục ngàn người cùng một phần lăng mộ đã được khai quật này là có thể thấy tham vọng điên cuồng của ông ta. Sử ký Tư Mã Thiên đã ghi chép lại Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh cho hơn 700.000 người ngày đêm xây lăng mộ cho mình nằm sâu dưới một ngọn đồi, bao quanh bởi hào sâu được đổ đầy hàng trăm tấn thủy ngân cực độc, chưa kể các cạm bẫy chết người cùng vô số lời nguyền, bùa chú trấn yểm nhằm ngăn chặn kẻ khác đột nhập lăng mộ để chiếm đoạt vàng bạc châu báu.
Tôi mỉm cười nói:
– Đúng là không có giới hạn nào cho lòng tham của con người một khi họ đã trầm mê trong quyền lực. Vậy ngôi mộ này có thực sự huyền bí như người ta đã đồn đại?
Ông Kris mỉm cười rồi nói tiếp:
– Trước cửa mộ Tần Thủy Hoàng có đặt một tấm bia đá, ghi khắc rất rõ tất cả những gì có trong mộ và ngay cả bản đồ kiến trúc ra sao (mộ chính, các dòng sông thủy ngân, các tinh tú vũ trụ trên vách cùng bốn đoàn quân đất nung canh mộ với đầy đủ binh mã, chiến xa…). Tuy nhiên, có một chi tiết là dòng chữ cuối trên tấm bia đá ghi rõ đây là long mạch Trung Hoa, nếu mở mộ này thì Trung Hoa sẽ tan rã trở lại, chia năm xẻ bảy như thời chiến quốc, rơi vào cảnh phân tranh hỗn loạn. Lời nguyền đe dọa này khiến Hán Cao Tổ sau này dù muốn đập phá mộ để trả thù thì cuối cùng cũng phải hạ lệnh cho quân sĩ đổ đất đá lấp kín lăng mộ và bồi đắp cao như một ngọn núi để đời sau không ai biết nơi này là mộ Tần Thủy Hoàng nữa. Ông ta còn để lại di chúc cho con cháu đời sau xây mồ mả xung quanh khu vực long mạch này để giữ cho đất nước được thống nhất, thịnh trị. Hiện nay, quanh mộ Tần Thủy Hoàng còn vài chục ngôi mộ lớn nhỏ của các vị vua nhà Hán. Nhiều triều đại sau đó như Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… không một hoàng đế nào dám đụng đến vùng lăng mộ đó vì sợ chạm vào long mạch. Những bí mật và vị trí ngôi mộ Tần Thủy Hoàng bị chôn vùi qua bao đời. Mãi đến sau này vài thập kỷ gần đây, một số nông dân khi đào tình cờ phát hiện ra một cửa vào ngôi mộ, chính quyền Trung Quốc lập tức tập trung cho khai quật di chỉ khảo cổ này ngay, nhưng khi khai quật sâu vào trong và nhìn thấy tấm bia đó, họ đã không tiếp tục đào mở cửa mộ. Tuy có bốn đội quân đất nung, nhưng chính quyền chỉ cho đào đội quân phía Nam để người dân tham quan. Ba đội quân kia, dù đã biết vị trí, nhưng họ không cho phép khai quật nữa. Phần mộ chính quanh núi đều có quân đội canh gác nghiêm ngặt ngày đêm.
Đến tận ngày hôm nay, người ta vẫn chỉ công bố là không đủ công cụ khoa học để mở cửa chính của lăng mộ Tần Thủy Hoàng vì sợ hủy hoại di vật lịch sử. Nhưng ở một đất nước tin phong thủy như Trung Quốc, truyền thuyết về lăng mộ Tần Thủy Hoàng lại càng được người dân đồn đại theo màu sắc huyền bí. Nhiều chuyên gia hiểu về phong thủy địa mạch cũng cho rằng nếu chạm vào huyệt mộ Tần Thủy Hoàng thì sẽ tổn hại đến long mạch quốc gia, khiến đại lục tan rã. Lời nguyền từ vị bạo chúa để lại cho hậu thế có nhiều cách hiểu nhưng chắc chắn ông ta mong muốn duy trì triều đại nhà Tần đến thiên thu vạn đại. Nhưng, nghiệp dữ đã gây ra thì phải trả, không có một thế lực nào của loài người đủ vĩ đại để kháng cự lại luật Nhân quả.
Tôi hỏi:
– Vậy, chính sự tàn ác của triều đại Tần Thủy Hoàng là nguyên nhân khiến triều đại này vắn số?
– Đúng vậy. Mặc dù Tần Thủy Hoàng muốn sống đời đời để cai trị đất nước của mình nhưng ông ta chỉ làm hoàng đế được mười hai năm rồi lâm bệnh chết vào năm bốn mươi chín tuổi. Dù lăng mộ Tần Thủy Hoàng đã được tính toán đặt ở long huyệt với những sắp xếp phong thủy cao thâm, nhưng sau khi ông ta chết, triều đại vĩ đại của ông ta chỉ kéo dài thêm vỏn vẹn được có bốn mươi sáu ngày nữa. Các con ông ta người thì tự sát, người thì sau khi đăng cơ đã lập tức ra lệnh giết sạch những người con còn lại của Tần Thủy Hoàng và rồi cuối cùng cũng tuyệt mệnh cùng triều đại nhà Tần. Tần Thủy Hoàng khi tại thế rất muốn chống lại thiên mệnh nhưng không cách nào thắng được nghiệp báo từ những việc tàn ác mà ông ta đã làm.
Tôi thắc mắc:
– Vậy tại sao có những nghiệp quả đến nhanh và có những nghiệp quả đến chậm?
Ông Kris trả lời:
– Số mệnh con người, cũng như tất cả mọi sự xảy ra đều do những nhân đã gây ra từ trước. Bệnh tật cũng thế, phần lớn những bệnh hiểm nghèo cũng đều do những nhân và nghiệp đã tạo ra khi xưa. Sinh mệnh dài hay ngắn đều được sắp đặt bởi luật Nhân quả, nhưng tùy năng lực chiêu cảm của mỗi người mà việc trả quả sẽ xảy ra lúc này hay lúc khác, lúc nhanh, lúc chậm. Do đó, nếu hiểu biết, người ta có thể thay đổi được số mệnh, cũng như tránh được tật bệnh, bởi vì mệnh số thật ra không cố định. Vận mệnh, tốt hay xấu, may hay rủi, đều không cố định, sinh tử cũng không cố định, ông cũng biết, ngay trong tâm của chúng ta có đủ các loại hạt giống, hay còn gọi là chủng tử, tốt cũng như xấu, đã tích tụ từ muôn ngàn kiếp trước. Tại sao có người luôn gặp chuyện chẳng lành? Vì lúc nào họ cũng tính toán, cũng mang suy nghĩ ghen tức, xấu xa, nên chiêu cảm các hạt giống xấu ẩn trong tâm họ được kích hoạt. Nếu con người biết ngăn chặn những ý nghĩ xấu, chỉ suy nghĩ đến điều tốt, làm việc thiện, thì sẽ chiêu cảm những hạt giống lành sẵn có trong tâm nảy sinh, ngăn chặn ảnh hưởng của các hạt giống xấu, không cho chúng khởi phát lên. Từ đó mới chuyển đổi được số mệnh, càng nhiều hạt giống thiện được sinh sôi thì càng ít hạt giống xấu nảy mầm. Càng làm nhiều việc thiện thì sẽ chuyển đổi được càng nhiều nghiệp quả xấu thành tốt. Cũng giống như người trồng rau, nếu biết bón phân, chăm sóc cẩn thận thì rau sẽ mọc lên tươi tốt, nếu không làm gì thì cỏ dại sẽ mọc lấn át rau trái. Hiện nay, không mấy ai để ý đến việc này. Khi sung sướng, giàu sang, người ta có thể không biết suy nghĩ sâu xa mà cho rằng mình tài giỏi nên có quyền được hưởng những tiện nghi đó. Thật ra, những điều họ có được ngày nay đều do những nhân lành đã gieo từ trước mà hiện nay trổ quả, gọi là phước báu. Có người hưởng phước lớn, có người hưởng phước nhỏ, tùy theo nhân đã tạo. Tuy nhiên phước cũng giống như tiền bỏ vào ngân hàng, nếu cứ tiêu ra mà không bỏ thêm vào thì trước sau cũng hết. Mấy ai đã biết hỏi khi một người hết phước đức thì chuyện gì xảy ra với mình?
Ông Kris dừng lại một lúc cho tôi suy nghĩ rồi nói tiếp:
– Con người ngày nay đa số đều có tính tham lam, ích kỷ không biết đến làm việc thiện, bố thí hay nhân quả của làm việc thiện, bố thí là gì. Họ chỉ biết chiếm đoạt, tích trữ của cải cho thật nhiều, nghĩ rằng mình có thể hưởng thụ mãi mãi. Họ không biết rằng ngay lúc sung sướng đã có bất hạnh rình rập. Nhiều người không bao giờ cho ai một thứ gì mà chỉ biết lấy đi của người khác, lấy được càng nhiều càng tốt, bất kể hậu quả và không bao giờ biết đủ. Những người ấy không những đã tự mình gieo nhân xấu mà còn khuyến khích người khác làm như mình, khiến cho vô số người cũng bị sa vào con đường lầm lạc. Họ không biết gì về nhân quả hay sự quân bình của luật tự nhiên. Khi lấy ra mà không bù lại chính là làm mất quân bình, do đó tự nhiên phải tạo ra động lực khác để lập lại sự quân bình vốn có. Nếu để ý, ông sẽ thấy phần lớn những người tham lam, ích kỷ, làm mọi thứ chỉ để tích trữ của cải cho nhiều, nếu không gặp các tai nạn bất thường thì cũng mắc các chứng nan y. Đó là họ đang phải trả lại những gì đã lấy qua hình thức chi phí chữa bệnh hoặc đau đớn và lo âu. Những người sử dụng địa vị, quyền thế, chiếm đoạt tài sản người khác thường gặp việc không may, thậm chí tán gia bại sản và tù tội. Không những thế, động lực tự nhiên thường rút bớt sự sống của những người này. Khi chết họ bị nghiệp lực dẫn dắt vào cõi giới ngạ quỷ, chịu đói khát, khổ sở để học bài học về cái giá phải trả của sự độc ác, tham lam.
Tôi hỏi thêm:
– Thế giới ngạ quỷ sinh hoạt như thế nào?
Ông Kris giải thích:
– Cũng như loài người, ma quỷ có loài tốt, loài xấu. Có loài giúp người, có loài hại người, có loài có quyền năng, có loài vô tri, u mê, không biết gì hết. Loài người có các chủng người khác nhau, cư ngụ tại địa phương khác nhau thì ma quỷ cũng có chủng loại khác nhau, sống ở những nơi khác nhau. Ma quỷ cũng sinh sản, tăng trưởng, rồi chết đi như chúng ta vậy. Thời gian và kiếp sống của ma quỷ không giống nhau, có loài sống rất lâu, có loài có kiếp sống còn ngắn hơn chúng ta nữa. Tùy theo nghiệp lực, có khi ma quỷ cũng chuyển kiếp thành người, thành súc vật hay các sinh vật khác.
Nếu con người biết ngăn chặn những ý nghĩ xấu, chỉ suy nghĩ đến điều tốt, làm việc thiện, thì sẽ chiêu cảm những hạt giống lành sẵn có trong tâm nảy sinh, ngăn chặn ảnh hưởng của các hạt giống xấu, không cho chúng khởi phát lên. Từ đó mới chuyển đổi được số mệnh. Càng nhiều hạt giống thiện được sinh sôi thì càng ít hạt giống xấu nảy mầm. Càng làm nhiều việc thiện thì sẽ chuyển đổi được càng nhiều nghiệp quả xấu thành tốt.
Tôi ngạc nhiên:
– Ông nói thêm về việc ma quỷ chuyển kiếp thành người được không? Vì sao từ ma quỷ lại lên làm người?
Ông Kris mỉm cười, chậm rãi nói:
– Trong vòng luân hồi, mọi sinh vật đều chuyển kiếp qua những cõi giới khác nhau, tùy theo sự thu xếp của nhân quả. Con người khi chết có thể chuyển kiếp thành ma, âm linh. Tương tự như thế, ma quỷ khi chết cũng có thể chuyển kiếp thành người. Nếu để ý, ông sẽ thấy hiện nay trên thế giới có những nơi mà đa số dân chúng có lòng oán thù, sân hận rất cao nên chiêu cảm các loài ma quỷ hung ác chuyển kiếp đến đó làm người. Chúng khuyến khích mọi người thù hận, chém giết lẫn nhau, gây ra chiến tranh. Điều này dễ hiểu vì những loài ma quái hung dữ đều thích tìm đến những nơi chốn thích hợp với tâm địa tàn ác của chúng để hoạt động. Có bao giờ ông tự hỏi tại sao có những quốc gia lúc nào cũng lâm cảnh chiến tranh, giết chóc không ngừng? Tại sao mọi giải pháp hòa bình đều vô hiệu? Phải chăng vì lòng thù hằn và tâm sân hận nơi đó quá cao, không thể dập tắt? Nếu nhìn bằng cặp mắt tinh thần, ông sẽ thấy chính sự thù hận, tham lam, giận dữ đã kêu gọi những loài ma quái hung dữ tìm đến. Ngoài ra, những người tâm địa xấu xa, tàn ác khi chết thường trở thành ma quỷ đi khắp nơi gieo rắc điều ác. Ngay cả những người bình thường lúc gần chết, thần thức u mê không sáng suốt cũng bị những loài ma dữ đến dụ dỗ, dẫn dắt họ vào cõi giới tăm tối của ma quỷ. Chúng thường biến ra hình dáng người thân như cha mẹ, anh em, bạn bè đến đón, khiến người kia bị lừa gạt theo chúng. Hầu hết những kẻ ích kỷ, tham lam, cướp của, giết người, cưỡng đoạt tài sản người khác đều bị thu hút vào cõi giới ma quỷ, như nam châm hút sắt, khó thoát ra được. Đó là vì tư tưởng, hành động của họ thích hợp với cõi giới đó.“Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” chính là như vậy.
Tôi hỏi tiếp:
– Tại sao ma quỷ phải dẫn dụ, lôi kéo con người như thế?
Ông Kris bật cười:
– Ma quỷ cũng thích kéo bè kết đảng, nên càng đông người theo thì chúng càng có nhiều thuộc hạ. Tại sao con người bị dẫn dụ theo chúng? Nhiều người không có tính tự chủ mà thường bị hoàn cảnh xung quanh lôi cuốn. Nếu có bạn xấu rủ họ đi vào con đường rượu chè, cờ bạc, sa đọa thì nghe thuyết phục mãi họ cũng xiêu lòng nên mắc vào các thói xấu đó. Dù không thích uống rượu hay sử dụng ma túy nhưng hàng ngày giao du với người thích nhậu nhẹt, hút xách thì theo thời gian cũng bị tiêm nhiễm lúc nào không hay. Đó là hậu quả của việc kết giao với bạn xấu. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng sự lười nhác, dễ dãi, buông thả là những điều dễ chọn lựa hơn là chăm chỉ, kỷ luật, thiền định, làm phúc… Thế nên, nhiều người tu tập nhiều năm nhưng chỉ vài phút buông thả thân tâm là toàn bộ công quả tu hành sẽ tan theo bọt nước. Chính sự ham muốn hưởng lạc, lòng tham, sân si với danh lợi, dục vọng là ma lực chiêu cảm ma quỷ đến thao túng. Đó gọi là tâm ma và ai trong chúng ta cũng có tâm ma. Cũng như thế, do những đam mê, ham muốn của con người nên khi họ qua đời, thần thức u mê không tự chủ lại gặp ma quỷ đến rủ rê thì các tính tham lam vốn có nổi lên, cộng thêm lòng tò mò hiếu kỳ, nghe lời hứa hẹn hão huyền, muốn có được những điều mê cuồng, hào nhoáng, nên họ dễ bị đưa đến cõi giới tăm tối mà đáng lẽ ra họ không phải đến.
Tôi hỏi tiếp:
– Nếu bị đưa vào cõi giới đó, họ sẽ ra sao?
Ông Kris:
– Những người bị dẫn dụ sẽ phải sống tại cõi giới ma quỷ rất lâu. Họ vô cùng khổ sở, vì ở đó phần lớn là những kẻ hung ác, dã man, đối xử với nhau vô cùng tàn bạo. Cõi giới ma quỷ cũng có cảnh ma lớn hiếp đáp ma nhỏ, quỷ cũ bắt nạt quỷ mới, bắt họ phải phục dịch và làm việc theo sự sai khiến của chúng. Trong cõi giới của loài người thì con người còn biết phân biệt tốt xấu, đúng sai và có thể lựa chọn làm việc tốt hay xấu, nhưng ở cõi giới ma quỷ, phần lớn toàn là những chuyện xấu xa, độc ác vì ma quỷ có đầu óc u mê, điên cuồng, sân hận, không còn phân biệt phải trái nữa. Cõi giới ma quỷ ghê rợn, khủng khiếp không thể nói cho hết được. Một khi đã vào cõi này thì rất khó thoát ra vì đầu óc đã điên đảo, u mê theo, không còn khả năng tự chủ, không còn biết đúng sai, nên đành cam chịu làm thủ hạ cho các loài ma quỷ, đi gieo rắc các điều xấu xa. So với loài người thì ma quỷ đông hơn rất nhiều và càng ngày con số này càng gia tăng. Do đó, làm người đã khó, một khi sa đọa cõi u tối thì để trở lại làm người càng khó hơn, phải trải qua quá trình tu tập rất dài. Làm ma quỷ thì dễ hơn, vì ma quỷ không phân biệt tốt xấu, chúng chỉ làm mọi thứ chúng muốn làm. Tuy nhiên, dù là ma hay quỷ thì khi tạo nghiệp cũng sẽ phải trả nghiệp, khi đã gieo nhân thì phải gặt quả, từ luật Nhân quả áp dụng cho mọi sinh vật, dù vô hình hay hữu hình.
Tôi thắc mắc:
– Ông có nhắc đến việc ma quỷ cũng có lúc chết đi phải không? Ông có thể giải thích rõ hơn không?
Ông Kris gật đầu:
– Đúng thế, khi kiếp ma quỷ chấm dứt, tùy nhân quả thu xếp mà một số ma quỷ sẽ chuyển kiếp xuống cõi giới ghê rợn hơn như địa ngục, hay trở lại cõi trần này dưới xác thân loài vật hung dữ để tiếp tục giết chóc, cắn xé và gây đau đớn cho loài vật khác. Một số cũng chuyển kiếp thành người nhưng thường sinh vào hạng người ngu si, bần cùng, hạ tiện, phải làm tôi tớ cho kẻ khác, bị đánh đập, hành hạ. Một số trở thành nạn nhân bị hãm hại, bị giết để họ trải nghiệm sự đau đớn, khổ sở mà khi xưa họ đã gây ra cho người khác. Nhưng vì những người này vẫn mang trong tâm thức những hạt giống của kiếp ma quỷ, nên lại không ngừng gây điều ác, tạo thêm nghiệp ác. Hận thù tiếp tục chồng chất trong vòng sân hận, luẩn quẩn cũng là nguyên nhân sâu xa khiến nhiều nơi trên thế giới hiện nay cứ gặp chiến tranh liên tiếp, không bao giờ yên.
Tôi hỏi:
– Nói vậy là có một nơi như địa ngục thật sao?
Ông Kris xác nhận:
– Theo sự hiểu biết của tôi thì địa ngục là cõi giới có thật. Đó là một cõi đặc biệt với những rung động của nguyên tử cực kỳ phức tạp. Dù phát triển định lực đến mức nào cũng không thể đến đó được. Tôi chỉ biết là tùy vào nghiệp lực dẫn dắt mà một số sinh vật phải sống tại đó thôi.
Tôi thắc mắc:
– Nếu thế khi chết con người đi đâu?
Ông Kris thong thả trả lời:
– Khi chết con người bước vào cõi âm, hay gọi là Trung giới. Đây là nơi sau khi từ trần, các vong linh tạm trú trước khi chuyển kiếp. Trung giới không phải là cõi của ma quỷ. Ma quỷ có cõi riêng. Vong linh sẽ ở cõi Trung giới trước khi chuyển qua nơi khác như vào cõi ma quỷ, trở lại làm người hay chuyển kiếp thành súc vật, tùy vào nghiệp lực. Cũng có khi vong linh chuyển qua cõi của các sinh vật khác nữa hay vào cõi của các bậc thánh nhân. Thời gian ở cõi âm không nhất định, có khi vong linh ở đây một thời gian ngắn rồi chuyển kiếp, nhưng cũng có khi vong linh ở đây rất lâu, cả trăm năm, không chừng còn hơn nữa. Những vong linh có lòng quyến luyến vật chất thường lang thang, vật vờ ở cõi này, không thể siêu thoát. Vong linh tồn tại trong trạng thái u mê vì sự tham lam, quyến luyến hay hận thù quá nặng, không ý thức được mình đã chết, hoặc cứ bám víu lấy những tài sản vật chất như nhà cửa, đồ đạc… Ông có thể thấy hiện tượng này ở những căn nhà bị ám hay những món đồ trang sức mang lại điều bất thường cho người đeo vì những từ lực của người chủ cũ. Ngoài ra, những người tự tìm lấy cái chết, chết bất đắc kỳ tử khi số mạng chưa hết, thường ở đây một thời gian khá lâu.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao lại thế?
Ông Kris giải thích:
– Số mệnh con người được định sẵn bởi luật Luân hồi nhưng khi thọ mệnh chưa hết mà người đó tự tìm lấy cái chết, hoặc chết bất đắc kỳ tử vì tai nạn, hay là nạn nhân của sự giết chóc, thì họ ở trong tình trạng đặc biệt, không thể siêu thoát được, vì thân xác họ tuy đã mất nhưng sinh lực vẫn còn nên họ chưa thể chuyển kiếp. Do đó, họ “mắc kẹt” giữa hai cõi. Những vong linh chết oan, bị giết hay chết vì tai nạn thường đau khổ, đôi khi oán hận, tìm cách trả thù. Điều này có thể giải thích cho hiện tượng những quãng đường từng xảy ra tai nạn chết người thường có nhiều tai nạn xảy ra sau đó nữa. Những ngôi nhà xảy ra án mạng, có người bị giết thường có sự không may xảy ra. Linh hồn những người tự sát cũng thường đọa lạc trong đau đớn. Nếu đến gần nghĩa địa, chiến trường, nơi có nhiều người chết, chúng ta đều có cảm giác rùng mình sợ hãi, đó là vì âm khí của những vong linh chưa siêu thoát vẫn còn lảng vảng quanh đó.
Từ trước đến nay, hầu hết các tôn giáo đều đề cập đến vong linh, linh hồn và cả ma quỷ nhưng không mấy người tin mà chỉ xem đó là một kiểu hù dọa hay niềm tin mù quáng. Bất kỳ việc gì khoa học cũng đòi phải có bằng chứng thì mới công nhận, trong khi giác quan chúng ta rất giới hạn, không thể nhận thức được mọi sự. So sánh giác quan của loài người và loài chó, ta sẽ thấy loài chó tuy không thể nhìn xa như người nhưng có thể nhìn được nhiều thứ mà người không thấy. Loài chó nghe được nhiều âm thanh mà chúng ta không thể nghe, ngửi được nhiều thứ mà chúng ta khó lòng nhận biết. Dĩ nhiên giác quan loài chó khác loài người nên chúng có nhận thức khác chúng ta. Do đó, không nên kết luận một thứ gì đó không tồn tại chỉ vì giác quan chúng ta không nhận thức được.
Ông Kris dừng lại một lúc cho tôi suy nghĩ rồi nói tiếp:
– Nhiều người lầm tưởng Trung giới là địa ngục và cho rằng đó là nơi tối tăm, ghê rợn. Thật ra đó là hai cõi hoàn toàn khác nhau. Cõi Trung giới sáng sủa nên được gọi là “Cõi sáng” (Astral Plane), là nơi có rất nhiều màu sắc biến ảo lạ lùng, kể cả những màu mà chúng ta không nhìn thấy như tử ngoại (Ultraviolet) hay hồng ngoại (Infra-red). Sự sinh hoạt tại đây rất linh động vì các nguyên tử rung động không những thanh nhẹ, mà còn xoay chuyển rất nhanh, do đó các hình hài, sắc tướng biến đổi dễ dàng. Vì cấu tạo bởi nguyên tử thanh nhẹ nên các thực thể di chuyển như lướt đi, xuyên qua mọi vật, chứ không có sự đụng chạm. Điều đặc biệt của cõi giới này là quan niệm về thời gian và không gian hoàn toàn khác cõi trần nên khó có thể ước định thời gian vong linh tạm trú nơi đây.
Ông Kris trầm ngâm một lúc rồi nói thêm:
– Những điều tôi nói đây chỉ là sự hiểu biết của tôi qua công phu tu tập trong nhiều kiếp sống. Tôi biết nói ra lúc này có thể ông không tin. Tuy nhiên, ông và tôi đã là bạn, tu tập với nhau trong nhiều kiếp, tôi chỉ nhắc lại điều ông đã biết thôi. Vũ trụ có nhiều năng lượng uyên nguyên, năng lượng này thấm nhuần vào mọi vật và tạo ra sự sống. Một số năng lượng bị ô nhiễm bởi những tư tưởng xấu xa hay dục vọng nên biến thành một loại ma lực mà người ta có thể sử dụng nếu biết cách. Ma quái thường sử dụng những ma lực này vào việc riêng của chúng. Một số phù thủy cũng biết cách sử dụng ma lực làm bùa chú, thư phù.
Ông Kris dừng lại, chăm chú nhìn tôi, rồi nói tiếp:
– Khi xưa người xứ Og của Atlantis đã sử dụng nghi thức cúng tế bằng huyết nhục cho các loài ma quái, nhờ chúng rút đi sinh lực con người, khiến họ mất khả năng suy nghĩ, trở nên khờ khạo, thụ động, dễ sai bảo. Khi Atlantis chìm xuống biển, dân xứ này trôi dạt nhiều nơi, bắt đầu tạo dựng các nền văn minh khác nhau trên thế giới, xứ Og nằm gần châu Mỹ nên người xứ này đã đến Nam Mỹ, xây dựng văn minh Inca, Maya và Aztec. Đó là những nền văn minh huy hoàng, tiến bộ không thua gì Ai Cập, với nhiều đền đài, kim tự tháp vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Vì ảnh hưởng tính hung ác của văn hóa xứ Og, nên lịch sử của những nền văn minh này ghi nhận nhiều cuộc chiến tàn bạo giữa các bộ lạc và kẻ thắng trận sẽ luôn thẳng tay tàn sát kẻ thua trận. Các tù binh chiến tranh đều bị móc ruột, moi tim trong những nghi thức tế thần bằng huyết thịt.
Ông Kris giải thích thêm:
– Năng lượng của vũ trụ tạo ra sự sống thì vô hình, thường biểu hiện dưới dạng nguyên tử, khi bị ô nhiễm bởi dục vọng thì chuyển thành ma lực. Nói rõ hơn, ma lực là những hạt nguyên tử bị bọc lại trong những bọt khí của dục vọng nên trở thành ô nhiễm. Trong vũ trụ, những tư tưởng có tính chất tham lam, ích kỷ, dâm dục, hung bạo, thường tạo ra bọt khí dục vọng, quay cuồng trong không gian một lúc rồi tan ra. Một số bọt khí bám được vào những hạt nguyên tử để duy trì sự sống, trở thành ma lực có thể kéo dài sự sống. Kẻ hung ác, lúc nào cũng nghĩ đến việc ích kỷ, hại nhân thường tạo quanh mình một thứ ma lực cá nhân. Nhiều kẻ hung ác sẽ tạo ra ma lực có ảnh hưởng lớn hơn. Một số ma quỷ có thể chuyển kiếp thành những tư tưởng gia, chính trị gia chuyên đề xướng các lý thuyết phi nhân, xúi giục con người hận thù, gieo rắc các điều ác. Một số thành các bạo chúa, hay nhà độc tài có quyền lực rất lớn, gây chiến tranh khắp nơi. Đôi khi chúng chuyển kiếp thành giáo chủ những tà giáo, kêu gọi sự trợ giúp của các loại ma quỷ thiên về dục vọng, tạo ảnh hưởng lên xã hội. Càng nhiều người có tư tưởng thiên về dục vọng sẽ càng kêu gọi được các động lực ma quái đến, tăng sức mạnh cho chúng, ảnh hưởng đến mọi người vào lúc họ thiếu tự chủ. Những ma lực này thường tác động vào đầu óc những người trẻ, chưa biết kiểm soát tư tưởng hay những người chịu ảnh hưởng các chất tác động thần kinh như rượu hay ma túy, dẫn họ vào những con đường tội lỗi như cướp của, giết người hay những phong trào cổ xúy bạo lực, sự tà ác, tư tưởng thanh tẩy thế giới, làm đảo lộn trật tự xã hội.
Ông Kris dừng lại một chút, rồi cất lời với vẻ ưu tư:
– Chắc ông cũng thấy, thời gian gần đây có rất nhiều tà phái nổi lên, với những người lãnh đạo có ma lực hết sức ghê gớm. Họ tự xưng là đấng này đấng nọ, dạy dỗ những điều người ta thích nghe hoặc những điều kích thích trí tò mò. Họ có lối thuyết giảng hấp dẫn nhưng thật ra chỉ là hình thức thôi miên tâm trí. Một số người còn sử dụng bùa chú kêu gọi những động lực ma quái đến trợ giúp. Họ biết rõ thị hiếu tham lam của quần chúng và cổ xúy những phương pháp hưởng thụ khoái lạc, thỏa mãn dục tính, dẫn dắt những người theo họ vào con đường lầm lạc. Khi sinh lực suy kiệt, đầu óc mê muội, không còn khả năng suy nghĩ thì người ta rất dễ bị sai khiến. Khi những tà phái này ngày một đông, ảnh hưởng của ma lực ngày một mạnh, thì sẽ tạo ra được thành kiến có thể ảnh hưởng tới cộng đồng, xã hội. Dần dần người ta dễ dàng chấp nhận các hành vi ích kỷ, tham lam, dâm ô, vô cảm, luyến ái bệnh hoạn như lẽ bình thường. Khi giá trị đạo đức suy đồi, ảnh hưởng của ma lực không thể khống chế, thì loài người có thể đi đến chỗ diệt vong. Hiện nay rất nhiều người đã bị những ma lực này ảnh hưởng khiến họ điên đảo, quay cuồng, không còn khả năng phân biệt phải trái, đúng sai nữa. Tại một số nơi, không ai còn tin tưởng vào những giá trị luân lý, đạo đức mà chỉ biết chạy theo tiếng gọi của tiền bạc, danh vọng, địa vị hay quyền lực. Ông có thể thấy, tại những nơi đó, con người sống trong sự tham lam, giận dữ, hung bạo, hận thù, tất cả chỉ chờ dịp bùng nổ. Từ sáng đến tối, họ chỉ tìm cách cướp đoạt, chiếm hữu mọi thứ cho kỳ được, bất chấp hậu quả của luân lý, đạo đức hay pháp luật. Các tư tưởng xấu này hiện diện khắp nơi, khiến người hiền lành cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Hiện nay, ông đang sống tại nơi tương đối thanh bình nhưng nhìn ra thế giới, vẫn còn những cảnh chém giết, chiếm đoạt, quốc gia này xâm chiếm quốc gia khác, dân tộc này chém giết dân tộc kia, giành nhau từng mảnh đất, từng mối lợi. Xã hội đầy những chuyện cướp bóc, gia đình cũng đầy những chuyện lừa lọc, tranh đoạt tài sản, nếu không sớm thay đổi thì khó có thể tránh khỏi những tai họa ghê gớm sắp xảy ra.
Ánh mắt ông Kris toát lên vẻ nghiêm nghị khi ông nói tiếp những lời này:
– Những điều này đã xảy ra nhiều lần trong quá khứ. Khi con người mất nhân tính, hành động theo thú tính, tạo ra hỗn loạn, thì tự nhiên phải tạo ra biến động để lập lại trật tự. Do đó mà có nạn động đất, núi lửa, lụt lội, hạn hán. Lúc đầu nhẹ để cảnh cáo, sau nặng dần và đến chỗ hủy diệt tất cả. Ông đã trải qua biến động này trong kiếp sống tại Atlantis và cũng đã thấy rõ ảnh hưởng của những ma lực này ghê gớm như thế nào qua những trận chiến khốc liệt, khi con người điên cuồng, hung bạo, không còn nhân tính. Ông cũng đã chứng kiến một xã hội vô cảm, người thuộc giai cấp cao thẳng tay đàn áp, bóc lột không thương tiếc những người thuộc giai cấp thấp, sự chiếm đoạt thân xác người khác để thỏa mãn dục tính là việc xảy ra bình thường trong xã hội đó. Chuyện gì xảy ra sau đó thì ông cũng đã biết.
Tôi lên tiếng, đầy suy tư:
– Ông có nghĩ những việc này sẽ xảy ra nữa không?
Ông Kris trầm giọng:
– Hiện nay, ông đã thấy có đủ hiện tượng kỳ lạ xuất hiện khắp nơi như thiên tai, lụt lội, hạn hán, động đất, cháy rừng, núi lửa phun trào, bệnh dịch toàn cầu, nạn đói, châu chấu phá mùa màng… Tất cả như một lời cảnh cáo đối với nhân loại, vấn đề là, nếu tai họa xảy ra ở “nơi nào đó” xa xôi thì người ta chẳng quan tâm. Con người chỉ biết sợ khi những tai họa này xảy đến cho chính họ. Tuy nhiên, đến lúc tai họa gõ cửa tận nhà thì họ cũng hoảng loạn, bó tay, không biết làm gì. Ít ai hiểu rằng nguyên nhân sâu xa của tai họa là do những tư tưởng mang tính dục vọng của con người. Khi con người mất đi bản chất người, mất hết lương tri, chỉ biết tham lam, ích kỷ thì sẽ chiêu cảm những ma lực ghê gớm đến, nên những hiện tượng bất thường mới xảy ra.
Ông Kris dừng lại như chờ xem phản ứng của tôi. Thấy tôi im lặng, ông giải thích thêm:
– Điều tôi sắp nói đây chắc chắn nhiều người sẽ không tin. Các thiên tai xảy ra đều do nhân quả. Nếu nhìn bằng con mắt khoa học thì những thiên tai đều có nguyên nhân vật chất, ví dụ, sự chuyển động của các mảng kiến tạo (Tectonic Plates) tạo ra động đất. Áp lực dưới lòng đất khiến núi lửa phun trào hay xảy ra sóng thần; và vi trùng, vi-rút thì gây ra dịch bệnh. Tuy nhiên, nếu nhìn bằng con mắt tinh thần thì những hiện tượng này đều có nguyên nhân xuất phát từ các tư tưởng điên đảo, tham lam, sân hận và cả những hành vi phá hoại tự nhiên của con người, tất cả cộng lại tạo thành ma lực có thể dời núi, lấp biển. Nguyên nhân khởi đầu của những hiện tượng này xuất phát từ cõi vô hình rồi sau mới chuyển qua cõi vật chất. Một số nhà tiên tri nhờ công năng đặc biệt thấy trước được việc này từ cõi vô hình và đưa ra lời cảnh cáo, nhưng có mấy ai tin.
Ông Kris dừng lại một chút rồi từ tốn nói tiếp:
– Tư tưởng vốn dĩ chỉ là một hình thức của năng lượng. Những năng lượng này khi tích tụ đến một cường độ mạnh mẽ nào đó, có thể chuyển từ cõi tinh thần qua cõi vật chất. Các tư tưởng tham lam, sân hận, bạo lực, giết chóc có thể chuyển qua cõi vật chất tạo ra các hiện tượng như bão tố, thiên tai, dịch bệnh… Khi quán chiếu nội tâm, ông có thể thấy rõ nguyên nhân và diễn tiến của quá trình này. Thật ra, ông từng làm việc này trước đây rồi nhưng nay ông đã quên. Con người không cần phải đi tìm hiểu vũ trụ xa xôi bên ngoài mà chỉ cần quay vào bên trong cũng có thể biết được nhiều điều.
Một lần nữa, ông Kris lại nói về một kiếp sống xa xưa nào đó mà tôi đã từng phát triển khả năng này. Tôi suy nghĩ về điều đó nhưng thấy không phải là lúc thích hợp để hỏi thêm nên cũng chỉ im lặng. Thấy vậy, ông Kris nói tiếp:
– Hiện nay, ít ai hiểu rõ về sức mạnh của tư tưởng. Nếu quay vào bên trong, ông sẽ thấy tư tưởng con người xoay chuyển rất nhanh, tư tưởng này vừa nảy sinh lại có tư tưởng khác ra đời, liên tục như sóng thủy triều, cũng vì thế nên ít ai có thể kiểm soát được tư tưởng. Trong thế giới quay cuồng hiện nay, con người ngày càng mất tự chủ và để những lực ảnh hưởng bên ngoài chi phối. Bên cạnh những mặt tích cực thì những phát minh công nghệ như internet và các sản phẩm kèm theo, chẳng hạn trò chơi điện tử hay mạng xã hội, cũng đã phát tán những thông tin sai lệch, những hình ảnh dâm dục, kích động bạo lực, ganh ghét, hận thù đi khắp nơi. Tất cả những điều độc hại đó tác động vào tâm trí con người, khiến họ dần trở nên mê muội và rồi thụ động để cho chúng xâm nhập, thẩm thấu vào bản thân từ ngày này qua ngày khác. Dần dần, họ trở nên vô cảm và vô trách nhiệm, không biết phân biệt đúng sai, bởi đầu óc của họ đã điên đảo lúc nào không hay.
Ông Kris trầm ngâm rồi nói thêm:
– Hiện nay, ông đã thấy xã hội nảy sinh ra một thế hệ “nghiện công nghệ” như một bệnh khó chữa, suốt ngày chỉ lướt mạng xã hội, sống trong thế giới ảo của game online. Họ kết bạn khắp nơi qua các trò chơi, rồi lệ thuộc, sống hẳn trong thế giới ảo đó, hoàn toàn vô cảm với mọi thứ xảy ra xung quanh. Dần dần họ trở nên lãnh đạm, không tha thiết hay quan tâm tới cuộc sống đang diễn ra, không thể nói chuyện với người thân trong gia đình, không còn khả năng giao tiếp với xã hội. Từ sáng đến tối, họ ở trong trạng thái ngây ngất như kẻ nghiện thuốc phiện. Họ sống thẫn thờ, mơ màng, không cảm xúc, vô trách nhiệm vì đã mất hết sinh lực, mất hết tinh thần, nhân tính, ý chí.
Tôi có chút nghi ngờ hỏi lại:
– Có phải ông hơi nói quá không vậy? Đến mức như vậy sao?
Kris nhìn tôi rồi trả lời từ tốn:
– Điều này hiện đã xảy ra ở hầu hết các quốc gia, dần dần đe dọa những nền tảng tinh thần và đạo đức của toàn thể nhân loại. Không quốc gia nào có thể tránh được thảm họa của thứ ma lực này. Để tôi giải thích một cách khoa học thì có lẽ dễ hiểu hơn. Căn nguyên là từ những sóng điện phát sinh từ tư tưởng con người.
Tư tưởng con người là luồng sóng điện phát ra với một tần số nào đó. Nếu đầu óc của hai người nào đó có rung động tương tự, có thể đáp ứng tần số của nhau, thì họ sẽ hiểu hay dễ cảm thông cho nhau hơn. Nếu rung động không đồng nhịp thì không thể hiểu nhau được. Những người đang yêu nhau, tư tưởng của họ rung động đồng nhịp, nên họ thông cảm và hiểu nhau một cách dễ dàng. Một người mẹ, khi đứa con gặp chuyện khó khăn, dù ở xa đến đâu cũng cảm thấy nóng ruột, biết ngay là có chuyện, cũng nhờ tần số rung động đồng nhịp này. Những người có tâm trí bình thản có khả năng bắt được những làn sóng rung động tinh tế, nên dễ cảm thông với người khác hơn những người có tâm trí náo động. Cũng như thế, khi có định lực sâu xa, ông có thể đọc được tư tưởng người khác vì đầu óc của ông có thể bắt được tần số sóng của tư tưởng phát ra từ người kia. Có bao giờ ông tự hỏi tại sao khi đến gần người hung dữ, độc ác, ông liền cảm thấy khó chịu không? Vì tư tưởng người đó có rung động không thích hợp với ông. Cũng như thế, phải chăng ông có cảm giác bình yên khi đến gần các tu sĩ thánh thiện vì tư tưởng của họ phản ánh sự bình an, thanh khiết?
Ông Kris dừng lại như để cho tôi suy nghĩ, rồi tiếp tục:
– Vấn đề hiện nay là thế giới chịu ảnh hưởng của công nghệ quá nhiều. Các sản phẩm công nghệ hoạt động liên tục ngày đêm, hai mươi bốn giờ mỗi ngày, bảy ngày mỗi tuần, nên những luồng sóng tư tưởng của dục vọng, tham lam, ích kỷ lan tràn khắp nơi trên các phương tiện đại chúng, gây ảnh hưởng, xáo trộn đầu óc con người mà không mấy ai để ý. Những ai không làm chủ được tư tưởng, để đầu óc tiếp xúc với luồng sóng kia, dù lúc đầu không đồng nhịp thì theo thời gian cũng sẽ bị cộng hưởng, rồi rung động theo nó và chịu sự chi phối của nó. Khi số người chịu những ảnh hưởng này tăng lên thì sức mạnh của ma lực này cũng gia tăng theo. Người bình thường xem hình ảnh bạo lực, khiêu dâm có thể thấy khó chịu lúc đầu nhưng nếu cứ tiếp tục xem mãi thì hình ảnh này sẽ tạo ra các rung động lên đầu óc của họ, dần dần họ bị tác động và xem đó là chuyện bình thường. Người chơi các trò video game cũng thế, lúc đầu chỉ là trò giải trí lôi cuốn dường như vô hại, nhưng một khi tiếp tục chơi thì phải sống hẳn trong cái thế giới ảo đó để trở thành tay chơi chuyên nghiệp. Theo thời gian, đầu óc của họ chỉ còn lưu tâm những sự kiện của thế giới ảo, quên đi thực tại, giảm mất khả năng giao tiếp hay nhận thức về thực tại. Họ chỉ có thể nói chuyện với những người cùng chơi video game trong thế giới ảo giống như họ, trong khi khó có thể tiếp xúc một cách tỉnh táo với con người ngoài xã hội, và họ cũng không có nhu cầu giao tiếp. Họ trở thành dạng người không còn cảm xúc, không biết yêu thương, không thể tự lập hay đóng góp gì cho xã hội nữa. Đó là thảm cảnh của mặt trái công nghệ mà ban đầu ít ai nhận ra.
Tôi gật đầu tán thành với những phân tích mang tính khoa học này, rồi chia sẻ thêm:
– Tôi có biết về hiện tượng trẻ em nghiện internet hay video game, tôi cũng cho rằng đó là vấn đề thật sự đáng báo động. Nhưng ông có nghĩ rằng khi lớn lên chúng sẽ đổi khác được không?
Ông Kris lắc đầu:
– Không đâu, một khi đã bị thứ ma lực này lôi cuốn thì khó có thể dứt ra được, vì đầu óc đã mất khả năng suy nghĩ độc lập rồi. Khi còn nhỏ đã quen sống trong thế giới ảo thì lúc lớn khó mà từ bỏ được. Khi đầu óc đã vô cảm, không còn ý thức, trở thành người vô trách nhiệm thì làm sao có thể trưởng thành được. Dù có chuyện gì xảy ra họ cũng không quan tâm. Thiên tai, tai nạn, dịch bệnh, người chết hàng loạt diễn ra thì sao? Họ cũng không để ý đến. Vì đó đâu phải là thế giới của họ nữa. Thể xác họ vẫn ở đó nhưng đầu óc của họ lại ở một thế giới khác. Tuy nhiên, nếu internet bị cắt, máy tính bị hỏng hay điện thoại bị mất thì họ sẽ cảm thấy rất khó chịu và phản ứng thái quá ngay, có nhiều người trở nên giận dữ, mất đi lý trí vì sự xáo trộn trong thế giới ảo của họ. Những người này có thể nhịn ăn, nhịn mặc, không cần người thân, không cần lập gia đình nhưng không thể sống mà thiếu video game hay internet được. Ma lực này vô cùng ghê gớm, có thể làm suy kiệt cả một thế hệ, phá hoại nền tảng gia đình, đảo lộn trật tự xã hội. Đây là thảm họa đang đe dọa nhân loại nhưng vẫn chưa được lưu tâm đúng mức.
Ông Kris dừng lại để cho tôi suy nghĩ, rồi nói tiếp:
– Ngày nay, quảng cáo thương mại xuất hiện nhan nhản khắp nơi, tạo ra đủ loại nhu cầu và khiến cho người ta trở nên tham lam hơn trước, ví dụ ông không thích món ăn nào đó, nhưng hàng ngày cứ thấy quảng cáo về món ăn đó với những hình ảnh cám dỗ, thì ít lâu sau, tự nhiên ông lại cảm thấy muốn ăn thử. Quảng cáo là nghệ thuật lặp đi lặp lại, tạo ra ham muốn, nhắc nhở người ta phải sở hữu, phải mua sắm, phải tiêu thụ. Người có nhiều tiền thì không nói làm gì, nhưng người không có nhiều tiền cũng dốc hết hầu bao mua cho bằng được, vì quảng cáo cũng tạo ra tâm lý ganh đua: Anh có thứ đó thì tôi cũng phải có thứ đó. Tóm lại, chỉ người sản xuất là được hưởng lợi. Hiện nay, đa số nhân loại không còn sống thoải mái, hồn nhiên như xưa mà vì chịu ảnh hưởng của những ma lực này nên ngày càng trở nên ích kỷ, tham lam, và đôi khi tàn nhẫn với người khác. Các nền tảng của đạo đức truyền thống đã mất đi, không mấy ai còn sáng suốt để nhận định nữa mà cứ để hoàn cảnh xung quanh lôi cuốn. Ngày nay, một số sản phẩm công nghệ còn xúi giục con người bằng các phim ảnh dâm ô, đồi trụy, bạo lực khiến cho những người còn bận tâm về đạo đức, sự thanh cao cũng ngày một ít đi. Các trò video game dẫn dắt con người, khiến họ u mê trong thế giới ảo, làm cho tâm trí họ trở nên điên đảo. Các quảng cáo dẫn dụ con người mua sắm, tiêu thụ, có thứ này lại phải mua thêm thứ khác, không bao giờ biết đủ. Các phim ảnh trụy lạc, dâm ô khuyến khích con người hành động theo dục tính, phá hoại truyền thống gia đình, nam nữ tự do luyến ái, bất chấp hậu quả. Trong tương lai, có nguy cơ xã hội sẽ mất đi truyền thống hôn nhân hay nền tảng gia đình, chỉ còn là những sự trao đổi xác thân, tình yêu bị thay thế bởi tình dục. Không có nền tảng gia đình, không có tình nghĩa vợ chồng, con người sẽ bơ vơ, lạc lõng, không nơi nương tựa, như cái cây bị mất gốc, và rồi dễ bị dẫn dắt vào một thế giới điên đảo, quay cuồng không lối thoát. Thế mà đa số vẫn cho lối sống đó là văn minh tiến bộ. Khi con người sống tham lam, ích kỷ, vô cảm hay sân hận thì sẽ gây ra tình trạng chiếm đoạt, cướp bóc, thậm chí có thể đi đến sự giết chóc để thỏa mãn lòng tham, gây xáo trộn xã hội và tự nhiên. Thế giới có chiến tranh là vì đâu? Phải chăng vì sự tham lam, sân hận, oán thù giữa người với người, giữa quốc gia này với quốc gia khác?
Ông Kris suy nghĩ một lúc, rồi tiếp tục, giọng trầm xuống:
– Hiện nay các loại dịch bệnh ghê gớm đang xuất hiện ngày một nhiều hơn, để lại hậu quả ngày một khủng khiếp hơn. Nếu nhìn lại lịch sử, ông sẽ thấy có những sự trùng hợp xảy ra. Hầu hết dịch bệnh đều xuất hiện sau những trận chiến tranh, trong triều đại vua chúa tàn ác hay trong một xã hội mà con người sống điên đảo, bất phân thị phi. Trong suốt lịch sử nhân loại, đã biết bao lần con người trên trái đất này phải đối phó với các loại dịch bệnh hoành hành, gây muôn cảnh tang thương, nhưng một khi qua khỏi, họ lại tiếp tục những thói quen từ trước mà không chịu tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thảm cảnh vừa qua. Trong thời buổi khoa học thì người ta chỉ quy lỗi cho vi trùng, vi-rút, không mấy ai biết tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa, gốc rễ khác.
Tôi thật sự quan tâm đến vấn đề này, nên tiếp tục hỏi tới:
– Vậy ông nghĩ rằng nguyên nhân của dịch bệnh đều do chiến tranh, sự tàn ác, vô cảm và thói giết chóc của con người gây ra sao?
Ông Kris lắc đầu:
– Không hẳn thế, có những dịch bệnh bắt nguồn từ sự giết chóc như bệnh dịch hạch, bệnh đậu mùa… Nhưng cũng có dịch bệnh phát xuất từ sự luyến ái bừa bãi như bệnh giang mai, hoa liễu hay từ sự trụy lạc vô độ như bệnh AIDS. Tương tự như thế, dịch bệnh Ebola hay SARS gần đây, đều là sự cảnh cáo về thói tham lam quá độ của con người, chiếm đoạt thiên nhiên, phá rừng, xẻ núi, bắt giết thú hoang phục vụ cho thú ẩm thực. Thiên nhiên đã phản ứng lại bằng các loài vi khuẩn, vi-rút sống trên thân thể sinh vật, rồi truyền nhiễm vào con người, tạo ra các dịch bệnh kỳ lạ. Có lẽ thời tiền sử cũng có dịch bệnh từ trâu bò, gà vịt lây qua người, nhưng theo thời gian, con người tạo được hệ thống miễn dịch nên ngày nay chúng ta ăn thịt các sinh vật này mà không bị ảnh hưởng, trong điều kiện chúng được chăn nuôi hợp vệ sinh. Tuy nhiên các động vật hoang dã thì khác, chúng có thể mang những loại vi-rút, vi trùng mà chúng ta chưa có sức đề kháng. Theo tôi biết, nguyên nhân sâu xa của bệnh dịch Ebola bắt nguồn từ sự giết chóc trong các cuộc chiến giữa các nhóm phiến quân châu Phi, đó là nghiệp giết chóc (Killing Karma).
Nguyên nhân sâu xa của dịch bệnh SARS là sự tham lam vô độ của con người, hay là nghiệp tham lam (Creed Karma). Nếu chúng ta không biết rút kinh nghiệm từ những thảm họa này, tương lai sẽ có những bệnh dịch ghê gớm hơn nữa. Khi dịch bệnh phát tán, trở thành đại dịch của nhân loại, lan ra không khí, truyền khắp thế giới, giết hại phần lớn nhân loại, thì không ai còn có thể ngăn chặn được nữa.
Ông Kris kết luận:
– Dĩ nhiên là các nhà khoa học sẽ tìm cách chữa trị nhưng làm sao có thể chữa đến tuyệt căn? Hết dịch bệnh này sẽ có dịch bệnh khác, vì nguyên nhân thật sự gây ra bệnh vẫn còn đó – con người vẫn gây ác, vẫn tạo nghiệp. Để chữa tận gốc, chúng ta cần phải đi sâu vào các nguyên nhân và thay đổi chúng từ gốc rễ. Như tôi đã trình bày, những tư tưởng tham lam, ích kỷ, tàn bạo, vô cảm tạo ra bọt khí ô nhiễm của dục vọng rồi chuyển biến thành các ma lực ghê gớm. Trải qua năm tháng, ma lực này lan tỏa, ảnh hưởng khắp nơi, tạo thành những thành kiến, những thói quen không dễ gì thay đổi. Rễ của nó đã bám chặt trong tư tưởng con người dưới dạng những tà thuyết mà mọi người tin tưởng, không dễ gì nhổ bỏ được. Mọi hành động hay ý nghĩ của con người đều gây ra nhân, và đã có nhân thì phải có quả. Khi con người làm những việc trái với luân thường đạo lý, trái luật thiên nhiên, làm mất cân bằng vũ trụ thì các tai ương hay tật bệnh chắc chắn sẽ xảy ra.
Tôi lo lắng:
– Nói như thế thì không có cách gì ngăn ngừa, chữa trị được những dịch bệnh này rồi.
Ông Kris mỉm cười, đáp lại:
– Có chứ, tất cả ma lực đều có nguyên nhân phát xuất từ tư tưởng của con người. Nếu chúng ta có thể cùng nhau chuyển hóa những tư tưởng thù hận, tham lam, ích kỷ bằng những tư tưởng cao thượng, tốt lành, chuyển hóa các hành động độc ác, giết chóc bằng tình thương yêu rộng lớn thì tất cả mọi việc đều có thể thay đổi. Một khi mỗi cá nhân có thể sửa đổi nghiệp quả của mình bằng cách làm việc thiện lành thì một tổ chức hay một quốc gia cũng có thể làm như vậy để chuyển nghiệp và có sự thay đổi tốt đẹp hơn. Thay đổi cộng nghiệp nhân loại là việc nói thì dễ nhưng làm rất khó, không một cá nhân, đoàn thể hay quốc gia nào có thể riêng lẻ mà thực hiện được. Mọi người phải làm việc cùng nhau, vì đây là tương lai chung của nhân loại chứ không phải riêng quốc gia nào. Câu hỏi đặt ra là hiện nay mọi người có thể làm việc cùng nhau không? Các quốc gia có thể hợp tác với nhau không?
Nếu chúng ta có thể cùng nhau chuyển hóa những tư tưởng thù hận, tham lam, ích kỷ bằng những tư tưởng cao thượng, tốt lành, chuyển hóa các hành động độc ác, giết chóc bằng tình thương yêu rộng lớn thì tất cả mọi việc đều có thể thay đổi. Một khi mỗi cá nhân có thể sửa đổi nghiệp quả của mình bằng cách làm việc thiện lành thì một tổ chức hay một quốc gia cũng có thể làm như vậy để chuyển nghiệp và có sự thay đổi tốt đẹp hơn.
Buổi nói chuyện này của Thomas và ông Kris diễn ra vào giữa năm 2017. Thomas lưu ý tôi rằng đây là vấn đề chỉ nên được viết ngắn gọn, không nên đi vào quá chi tiết, nên tránh nói nhiều về những điều chưa xảy đến, nhưng một sự cảnh báo để nhiều người thức tỉnh để thay đổi cũng là điều cần thiết.
Mọi việc xảy ra đều theo quy luật Nhân quả. Dĩ nhiên đã có nhân thì sẽ đến lúc nhận quả, nhưng thời gian có thể không cố định do sự thay đổi tư duy và hành động của con người. Nếu mọi người sống hòa thuận với thiên nhiên, không còn giết chóc, bỏ thói tham lam, tiêu trừ sự ích kỷ, kiêu căng thì có thể tạo ra các năng lượng chuyển hóa lan tỏa mạnh mẽ. Thomas cũng nói thêm rằng các dịch bệnh hiện nay chính là những dấu hiệu cảnh cáo nhân loại rằng đã đến lúc phải thay đổi. Nếu để ý, chúng ta có thể thấy các loại bệnh tật ngày càng dữ dội và càng lây lan nhanh hơn. Những tai ương này sẽ để lại hậu quả, tạo ra nhiều thay đổi mà không ai lường trước được. Điều quan trọng nhất là mọi người cần nhận thức được đây là cộng nghiệp chung của nhân loại, tất cả chúng ta đều là nguyên nhân gây ra tình trạng này và mỗi cá nhân vẫn có thể thay đổi số mệnh bằng cách thay đổi chính mình.
Cả ông Kris và Thomas đều cho rằng vai trò của những người hiểu biết về việc này rất quan trọng, vì họ có thể truyền cảm hứng và tạo ra những tư tưởng đạo đức chân chính, đẩy lùi được những ma lực kia. Tư tưởng của thế giới là tổng hòa tư tưởng của các quốc gia và tư tưởng của một quốc gia là sự tổng hòa tư tưởng của những con người sống trong đó. Nếu mọi người biết thay đổi các tư tưởng hận thù, oán ghét, ích kỷ, tham lam, sợ hãi, nghi ngờ của mình, thì mọi sự có thể đổi khác. Nếu một cá nhân có thể thay đổi số mệnh, tác động được đến nhiều người xung quanh thì một xã hội hay một quốc gia cũng có thể làm được như thế. Chỉ cần những người sống trong xã hội, quốc gia đó ý thức rõ về hậu quả khôn lường của những tư tưởng xấu, những hành động tàn ác, biết hồi tâm hướng thiện, thì sẽ có thể thay đổi được nghiệp lực chung của một dân tộc.
Trang trước | Mục lục | Trang sau |