Phẩm thứ bảy nói về Cơ Duyên tức là cơ duyên của Tổ hóa độ.
Tổ từ được pháp ở Huỳnh Mai, về đến Thiều Châu, thôn Tào Hầu, mọi người đều không biết. Có một nho sĩ là Lưu Chí Lược kính trọng Ngài lắm. Chí Lược có người cô làm Ni tên là Vô Tận Tạng, thường tụng kinh Đại Niết-bàn, Tổ nghe qua liền biết được diệu nghĩa, mới vì cô Ni giải nói. Ni mới cầm quyển kinh hỏi chữ. Tổ bảo:
Chữ thì không biết, nghĩa tức mời hỏi.
Cô Ni nói:
Chữ còn không biết, sao có thể hiểu nghĩa?
Tổ bảo:
Diệu lý của chư Phật chẳng có quan hệ đến văn tự.
Cô Ni kinh lạ mới bảo khắp hàng kỳ đức (người lớn tuổi có đức) trong thôn rằng:
Đây là hàng tu sĩ có đạo, nên thỉnh cúng dường.
Khi ấy có cháu bốn đời của Ngụy Võ Hầu tên là Tào Thúc Lương và dân cư trong làng đua nhau đến chiêm lễ Tổ. Khi ấy chùa cổ Bảo Lâm, từ cuối đời Tùy bị binh lửa làm tàn phế, mới y nơi nền cũ dựng lại ngôi chùa, mời Tổ trụ trì ở đó, không bao lâu thành một ngôi chùa rất trang nghiêm. Tổ ở đó hơn chín tháng lại bị bọn ác đuổi theo, Tổ bèn trốn đến trước núi, bị họ phóng hỏa, đốt cỏ cây, Tổ ẩn thân vào trong kẹt đá được khỏi, trên đá ngày nay dấu Tổ ngồi kiết-già và vết nếp y của Tổ vẫn còn, nhân đó gọi là hòn đá tị nạn. Tổ nhớ Ngũ Tổ dạy đến Hoài và Hội dừng ẩn, Ngài mới ẩn ở hai ấp ấy.
Đó là giai đoạn Ngài còn đang lánh nạn, người ta theo đuổi kiếm để tiêu diệt Ngài, cũng là lúc Ngài nói kinh Đại Niết-bàn cho Ni cô Vô Tận Tạng nghe.
Đến giai đoạn Tổ vào ở chùa và công khai truyền bá.
Thiền sư Pháp Hải:
Tăng Pháp Hải, người quê ở Khúc Giang, Thiều Châu, ban đầu đến tham vấn Tổ, hỏi rằng:
Tức tâm tức Phật, cúi xin Ngài chỉ dạy.
Tổ bảo:
Niệm trước chẳng sanh tức tâm, niệm sau chẳng diệt tức Phật, thành tất cả tướng tức tâm, lìa tất cả tướng tức Phật, nếu tôi nói cho đủ, cùng kiếp cũng không hết.
Niệm trước đã chẳng sanh thì làm sao có niệm sau, mà nói niệm sau chẳng diệt. Đúng ra phải hiểu như thế này: Tâm trước không sanh, sau không diệt, tâm đó tức là Phật. Còn tâm niệm niệm sanh diệt, đó không phải là Phật. Tâm nghĩ lành, tâm nghĩ thiện, thì niệm thiện đó có phải là Phật chăng? Nên biết đến chỗ cứu kính niệm thiện còn phải bỏ, cho nên nói tâm mà trước sau không dấy niệm, tâm đó tức là Phật vậy. “Thành tất cả tướng tức là tâm, lìa tất cả tướng tức là Phật.” Chữ tâm trong câu này khác hơn chữ tâm trong câu trước. Tỉ dụ như tôi nói: đây là cái ly, đây là chai dầu, đây là đồng hồ v.v… như vậy thì thành tướng cái ly, thành tướng chai dầu, thành tướng đồng hồ: tức là tâm vậy. Khi nói cái ly người ta biết tướng cái ly, khi nói chai dầu người ta biết tướng chai dầu, khi nói đồng hồ người ta biết tướng đồng hồ; cái gì đặt tên ly, tên chai dầu, tên đồng hồ? Đó là tâm. Tâm này là tâm sanh diệt là tâm an danh cho tất cả tướng, nên nói “thành tất cả tướng tức là tâm”. “Lìa tất cả tướng tức là Phật.” Tâm mà không dính các tướng, tâm đó mới là Phật. Cho nên nói: Thành tất cả tướng là tâm, đó là tâm sanh diệt, còn lìa tất cả tướng thì tâm đó mới là Phật.
Hãy lắng nghe tôi nói kệ:
Tức tâm danh tuệ,
Tức Phật nãi định,
Định tuệ đẳng đẳng,
Ý trung thanh tịnh.
Ngộ thử pháp môn,
Do nhữ tập tánh,
Dụng bản vô sanh,
Song tu thị chánh.
Tức tâm là tuệ, tức là cái tâm không sanh không diệt mà liễu tri, tâm đó là tuệ. Tâm liễu tri đó không bị dấy động, không chạy theo cảnh, đó là định. Tâm hằng định hằng tuệ, tâm đó tức là Phật. Tâm hằng liễu tri mà không động, tâm đó là Phật: Tức tâm tức Phật là vậy. Hằng liễu tri mà không động gọi là định tuệ song tu. Nếu ngồi chú tâm vào một cảnh nào cho được định, rồi từ định phát sáng ra gọi là tuệ, đó là định tuệ khác biệt. Còn ở đây Lục Tổ dạy định và tuệ đồng thời không có hai, không có cách biệt.
Ngài Pháp Hải ngay lời đó liền đại ngộ, làm bài kệ tán thán:
Tức tâm nguyên thị Phật,
Bất ngộ nhi tự khuất,
Ngã tri định tuệ nhân,
Song tu ly chư vật.
Bài kệ này cho chúng ta thấy ngài Pháp Hải đã ngộ. Tức tâm nguyên là Phật, vì không ngộ nên tự thối khuất, tự lui, tự khinh mình, cho mình là dở nên nói: Thôi mình là chúng sanh, bao giờ thành Phật! Nhưng không ngờ chính tâm mình là Phật. Bây giờ con hiểu được cái nhân định tuệ rồi, định là tâm không động, tuệ là hằng liễu tri; con hiểu được điều này rồi, nên đồng tu định tuệ lìa các vật. Như vậy là Ngài đã ngộ, đã được vào nhà của Tổ rồi.
Thiền sư Pháp Đạt:
Tăng tên là Pháp Đạt, người ở Hồng Châu, xuất gia lúc bảy tuổi, thường tụng kinh Pháp Hoa, đến lễ Tổ mà đầu không sát đất. Tổ mới quở:
Lễ mà đầu không sát đất, chi bằng đừng lễ, trong tâm ông ắt có một vật, vậy ông chứa chất sự nghiệp gì?
Pháp Đạt thưa:
Tôi tụng kinh Pháp Hoa đã đến ba ngàn bộ.
Nếu chúng ta tụng kinh Pháp Hoa đến ba ngàn bộ chắc lạy đầu không sát đất! Tại sao lạy đầu không sát đất, vì là lễ gượng chớ không tin người mình lạy có phước hơn mình, cho nên lễ mà chưa thật kính.
Tổ bảo:
Nếu ông tụng đến muôn bộ, được ý kinh mà chẳng cho là hơn, ắt cùng với ta sánh vai, nay ông mang sự nghiệp này, trọn không biết lỗi, nghe ta nói kệ:
Lễ bản chiết mạn tràng,
Đầu hề bất chí địa,
Hữu ngã tội tức sanh,
Vong công phúc vô tỉ.
Lễ là cốt chặt cờ ngã mạn, tại sao đầu không sát đất? Có ngã thì tội liền sanh, quên công thì phước vô tỉ. Tổ dạy: Nếu ông tụng kinh đến muôn bộ, hiểu rõ ý kinh mà không thấy mình hơn thiên hạ, đó là bằng với ta. Nếu ông tụng kinh đến ba ngàn bộ mà thấy hơn người, là ông mang sự nghiệp lỗi lầm mà không biết. Như vậy chúng ta mới thấy người ngồi nhận cho người ta lễ là vì người học đạo, muốn cho họ tăng trưởng phước đức, dẹp trừ bản ngã, vì ngã là gốc của tội lỗi. Vì vậy trước người có đức hạnh hơn mình mà không kính không lễ, tỏ ra mình ngã mạn thì tội lỗi khi nào mới hết! Người ngồi nhận lễ là tạo cơ duyên cho người học đạo dẹp trừ bản ngã, chớ có sung sướng lợi ích chi đâu. Nhiều người không hiểu nói ngồi cho người ta lễ coi bộ hãnh diện, sự thật đó chỉ là vì người mà thôi. Lại nữa trong khi người ta lễ, nếu mình sanh tâm tự cao tự đại đó là tổn đức, là mình có tội rồi. Cho nên khi nhận lễ mình phải nhiếp tâm nhiếp niệm, chỉ vì lợi ích cho người học đạo mà thôi. Vì thế Tổ bảo: Lạy là cốt chặt cờ ngã mạn, nếu lạy mà đầu không sát đất tức là lạy mà còn thấy mình hơn, thì lạy làm chi!
Tổ dạy tiếp: “Có ngã thì tội liền sanh, quên công thì phước vô tỉ.” Người tu vừa có ngã là có tội, nếu quên công của mình thì phước không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng người tu hiện nay nếu được chút công liền khoe: Năm nay tôi ăn chay trong một tháng được mười ngày, hay là mỗi đêm tôi tụng được một phẩm Pháp Hoa, như vậy trong mấy năm nay tôi tụng tất cả là bao nhiêu quyển v.v… Như vậy có gọi là quên công chăng? Cho nên chúng ta tu mà vướng vào hình thức, càng vướng hình thức chừng nào thì ngã càng to chừng nấy; người tu nhiều, ngã lớn, là tại chỗ đó. Tu niệm Phật cũng vậy, tính chuỗi để hơn người. Mỗi ngày niệm được bao nhiêu chuỗi thì ghi vào sổ, đến cuối năm đem hoa sen đến để thầy phết đỏ, rồi so sánh với bạn bè xem ai được nhiều phết đỏ hơn v.v… Người tu mà nặng về hình thức cho mình tu cao hơn người, nên càng tu thì ngã càng to. Có ngã là si, bởi vì thân là tướng duyên hợp hư giả, các tâm niệm là bóng dáng của sáu trần hư giả, thân và tâm đều là hư giả, mà chúng ta tô điểm cho nó to lên, chẳng phải si là gì? Ví dụ như có một khúc gỗ mục, có người chạm giống hình người, lại phết sơn lên cho dễ coi, có người đi ngang thấy và khen: chà người này đẹp quá, rồi đem vòng vàng đến đeo vào để tô điểm cho người đẹp, đó là tỉnh hay mê? Khúc gỗ mục mà không biết, lại cho là người, đó là cái lầm thứ nhất. Lại tô điểm vòng vàng cho nó, đó là cái lầm thứ hai. Cũng như vậy, thân là tướng duyên hợp hư giả mà không biết, là lỗi thứ nhất. Còn chấp tu nhiều phước lớn hơn người, là lỗi thứ hai… Cho nên người tu phải hiểu thật rõ thì việc tu mới không vướng kẹt. Chúng ta tu cũng giống như ngài Pháp Đạt vậy, chỉ nhớ mình tụng được rất nhiều bộ kinh, nên đến với ai cũng ngưỡng đầu. Như ngài Pháp Đạt biết Tổ là lớn thì ráng lạy, chớ ngầm trong bụng không nhận Tổ hơn mình, cho nên bị Tổ quở.
Tổ lại hỏi: Ông tên gì?
Pháp Đạt thưa: Tên Pháp Đạt.
Tổ bảo:
Ông tên Pháp Đạt mà đâu từng đạt pháp.
Lại nói bài kệ:
Nhữ kim danh Pháp Đạt,
Cần tụng vị hưu yết,
Không tụng đãn tuần thanh,
Minh tâm hiệu Bồ-tát.
Nhữ kim hữu duyên cố,
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đãn tín Phật vô ngôn,
Liên hoa tùng khẩu phát.
Phật là chỗ vô ngôn, tin được như vậy thì hoa sen từ miệng phát. Tâm mà trước không sanh, sau không diệt, tâm đó có nói gì đâu, vừa có lời nói là duyên theo tâm sanh diệt rồi. Cho nên không dấy niệm thì không có ngôn từ, có dấy niệm thì thành tiếng nói thì thầm bên trong, hoặc phát ra thành ngôn từ nơi miệng. Vì vậy tất cả ngôn thuyết là do dấy niệm mà ra, nên Tổ nói: Nếu tin Phật vô ngôn thì hoa sen từ miệng phát. Chúng ta hiện nay lấy việc tụng bằng ngôn ngữ cho là đạo, như vậy tụng kinh chỉ theo tiếng suông thôi, thì bao giờ thấy được tâm thật của mình!
Ngài Pháp Đạt nghe kệ hối hận, tạ lỗi thưa:
Từ nay về sau con sẽ khiêm cung đối với tất cả. Đệ tử tụng kinh Pháp Hoa mà chưa hiểu được nghĩa kinh, tâm thường có nghi, Hòa thượng là bậc trí tuệ rộng lớn, cúi mong lược nói nghĩa lý trong kinh.
Tổ bảo:
Pháp Đạt, pháp tức rất thâm đạt mà tâm ông chẳng đạt, kinh vốn là không nghi mà tâm ông khởi nghi. Ông tụng kinh này, lấy cái gì làm tông?
Pháp Đạt thưa:
Học nhân căn tánh ám độn, từ trước đến nay chỉ y văn mà tụng niệm, đâu có biết tông thú.
Tổ bảo:
Tôi không biết chữ, ông thử lấy kinh tụng một biến, tôi sẽ vì ông giải nói.
Pháp Đạt liền to tiếng tụng kinh, đến phẩm Thí Dụ, Tổ bảo:
Dừng!
Thôi nghe bao nhiêu đó đủ rồi! Tổ nghe đến phẩm Thí Dụ là được ba phẩm: phẩm Tự, phẩm Phương Tiện và phẩm Thí Dụ.
Kinh này nguyên lai lấy nhân duyên ra đời làm tông, dù nói nhiều thứ thí dụ cũng không vượt qua chỗ này. Sao là nhân duyên? Kinh nói chư Phật Thế Tôn chỉ có một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời, một đại sự đó là Tri kiến Phật. Người đời do mê bên ngoài nên chấp tướng, mê bên trong nên chấp không.
Vì mê bên ngoài cho sự vật là thật, sự vật do duyên hợp không thật mà thấy là thật nên chấp tướng này đẹp, tướng kia xấu, tướng này lớn, tướng kia nhỏ; mê bên trong nên chấp không, vì không hiểu được tâm tánh của mình cho rằng tâm tánh không có, nghĩa là không có cái Tâm chân thật.
Nếu hay nơi tướng mà lìa tướng, nơi không mà lìa không thì trong ngoài chẳng mê, nếu ngộ được pháp này, một niệm tâm khai, ấy là khai Tri kiến Phật.
Phật là gì?
Phật tức là giác, phân làm bốn môn:
– Khai giác tri kiến (hay khai Phật tri kiến) tức là khai cái tri kiến giác của mình.
– Thị giác tri kiến tức là chỉ cái giác tri kiến.
– Ngộ giác tri kiến.
– Nhập giác tri kiến.
Nếu nghe khai thị liền hay ngộ nhập tức là giác tri kiến, chân tánh xưa nay mà được xuất hiện. Ông dè dặt chớ hiểu lầm ý kinh, nghe trong kinh nói khai thị ngộ nhập rồi tự cho là Tri kiến của Phật, chúng ta thì vô phần. Nếu khởi cái hiểu này tức là chê bai kinh, hủy báng Phật vậy. Phật kia đã là Phật rồi, đã đầy đủ tri kiến, cần gì phải khai nữa. Nay ông phải tin Phật tri kiến đó chỉ là Tự tâm của ông, lại không có Phật nào khác.
Khai thị là Phật khai thị tức là mở chỉ cái giác tri kiến, ngộ nhập là chúng ta ngộ nhập cái giác tri kiến. Bản tánh của mình sẵn có từ xưa đến nay, cái Chân tánh đó liền được xuất hiện. Ông dè dặt chớ hiểu lầm ý kinh, nghe trong kinh nói “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến” rồi nói khai tri kiến của Phật, thị tri kiến của Phật, ngộ tri kiến của Phật, nhập tri kiến của Phật, còn chúng ta thì vô phần, không biết gì hết. Nếu ông hiểu như vậy là chê bai kinh, hủy báng Phật, vì Phật kia đã là Phật rồi, tức là đầy đủ tri kiến cần gì phải khai nữa. Nay ông phải tin Phật tri kiến đó chỉ là Tự tâm của ông lại không có Phật nào khác. Vì chúng ta không nhận ra cái Tri kiến Phật sẵn có nơi mình, cho nên Phật mới khai thị cho chúng ta ngộ và nhập cái Tri kiến Phật của chúng ta; còn Phật đã đầy đủ tri kiến rồi, cần gì phải khai thị nữa. Cho nên chúng ta phải hiểu cho rõ là khai thị ngộ nhập Tri kiến Phật của chính mình vậy.
Vì tất cả chúng sanh tự che phủ cái quang minh, tham ái trần cảnh, ngoài thì duyên (với ngoại cảnh), trong tâm thì lăng xăng, cam chịu lôi cuốn, liền nhọc đức Thế Tôn kia từ trong tam-muội mà dậy, dùng bao nhiêu phương tiện nói đến đắng miệng, khuyên bảo khiến các ông buông dứt chớ hướng ra ngoài tìm cầu thì cùng Phật không hai, nên nói khai Phật tri kiến.
Vì chúng ta bên ngoài thì duyên theo cảnh, trong tâm thì rối loạn lăng xăng, nên ánh sáng quang minh của chính mình bị che khuất. Vì vậy Phật dùng các phương tiện nói đến đắng miệng khô môi, khuyên dứt chúng ta không chạy ra ngoài tìm cầu, như vậy mới cùng Phật không hai, đó là khai Phật tri kiến.
Tôi cũng khuyên tất cả người nên thường khai Tri kiến Phật ở trong tâm của mình. Người đời do tâm tà, ngu mê tạo tội, miệng thì lành tâm thì ác, tham sân tật đố, siểm nịnh, ngã mạn, xâm phạm người hại vật, tự khai tri kiến chúng sanh. Nếu hay chánh tâm, thường sanh trí tuệ, quán chiếu tâm mình, dừng ác làm lành, ấy là tự khai Tri kiến Phật.
Như vậy khai tri kiến chúng sanh là miệng lành mà tâm dữ, rồi tham lam, tật đố, siểm nịnh, ngã mạn, hại người hại vật v.v… Còn khai Tri kiến Phật là dứt ác làm lành, biết chánh tâm, thường hành trí tuệ, quán chiếu Tự tâm mình.
Ông phải mỗi niệm khai Tri kiến Phật, chớ khai tri kiến chúng sanh, khai Tri kiến Phật tức là xuất thế, khai tri kiến chúng sanh, tức là thế gian. Nếu ông chỉ nhọc nhằn chấp việc tụng niệm làm công khóa thì nào khác con trâu ly mến cái đuôi của nó!
Tổ bảo: Nếu ông chỉ chấp tụng kinh nhiều làm công khóa thì khác nào con trâu ly thích cái đuôi của nó. Trong sử nói: Có con trâu tên ly ngưu có cái đuôi thật dài và đẹp. Con trâu thường hay dùng cái đuôi để đuổi ruồi và muỗi, riêng con trâu ly cuốn cái đuôi nó lên mình, không dám dùng đuôi để đuổi ruồi muỗi vì sợ quất đuôi lên mình rụng lông làm mất vẻ đẹp của cái đuôi đi, vì vậy cái đuôi của nó trở thành vô dụng. Chúng ta tu cũng vậy, nếu chấp tụng kinh là công khóa cho rằng tụng tức là tu, mà không tìm hiểu ý nghĩa của kinh để ứng dụng tu hành, cũng giống con trâu ly kia vì yêu đuôi nên quấn nó trên mình, không biết dùng đuôi vào việc hữu ích.
Pháp Đạt thưa:
Nếu vậy thì chỉ được hiểu nghĩa, chẳng cần phải tụng kinh chăng?
Tổ bảo:
Kinh có lỗi gì? Đâu có chướng ngại ông tụng, chỉ vì mê ngộ là tại người, tổn giảm hay lợi ích là do mình, miệng tụng tâm hành tức là chuyển được kinh, còn miệng tụng mà tâm không hành tức là bị kinh chuyển.
Chúng ta hiện nay là chuyển được kinh, hay là bị kinh chuyển? Nếu chúng ta tụng kinh câu nào hiểu nghĩa câu nấy để ứng dụng tu hành, nhận được ý kinh để dùng trong các hành động và tâm niệm của mình, đó là chuyển được kinh. Còn nếu tụng kinh mà mê kinh, tụng bộ này qua bộ khác đến bỏ ăn bỏ ngủ, nghĩ rằng tụng thật nhiều là có phước, đó là bị kinh chuyển. Đa số người thời nay bị kinh chuyển mà không chuyển được kinh, cũng giống như con trâu ly yêu thích cái đuôi của nó, rồi cái đuôi trở thành vô dụng vậy.
Hãy nghe ta nói kệ đây:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển,
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa,
Tụng kinh cửu bất minh,
Dữ nghĩa tác thù gia.
Vô niệm niệm tức chánh,
Hữu niệm niệm thành tà,
Hữu vô câu bất kế,
Trường ngự bạch ngưu xa.
Tâm mê bị Pháp Hoa chuyển, tâm ngộ chuyển được Pháp Hoa. Tụng kinh lâu mà không hiểu rõ nghĩa, cùng với nghĩa trở thành thù, vì kinh nói một đàng, chúng ta làm một ngả. Phật nói kinh Pháp Hoa để phá tan si mê ngã chấp, và dứt hết những tham sân si. Nhưng hiện giờ kinh Pháp Hoa lại dễ làm cho người ta sanh lòng tham, lúc nào hết tiền đem kinh ra tụng, tụng cho có phước có tiền nhiều, như vậy chẳng lẽ kinh Pháp Hoa làm tăng trưởng lòng tham chúng ta sao? Chẳng phải cùng với nghĩa trở thành thù là gì? Thành ra kinh dạy một đàng chúng ta làm một ngả, chẳng phải là thù sao? Thật ra vì không hiểu được nghĩa nên cùng với kinh trở thành thù.
“Không niệm, niệm là chánh, có niệm, niệm là tà.” Nghĩa là mỗi niệm dấy lên chúng ta duyên theo niệm là tà, niệm dấy lên buông được nó là chánh, thành ra vô niệm đó là chánh, có niệm tức là tà, đến cứu kính cả hai có và không đều chẳng chấp, mới hằng ngồi trên xe bạch ngưu. Xe bạch ngưu là gì? Khi buông cả niệm lành niệm dữ mà hằng tri hằng giác, đó tức là Viên mãn Báo thân Phật. Có niệm và không niệm đều buông hết chẳng chấp, mới hằng ngồi xe bạch ngưu.
Pháp Đạt nghe kệ rồi bất giác rơi lệ dầm dề, ngay lời nói liền đại ngộ và thưa với Tổ:
Pháp Đạt từ xưa đến nay thật chưa từng chuyển Pháp Hoa mà bị Pháp Hoa chuyển.
Ngài Pháp Đạt bấy giờ mới thú tội từ trước đến nay tụng ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa mà chưa từng chuyển Pháp Hoa, lại rõ ràng là bị Pháp Hoa chuyển, Ngài thấy rõ cái lầm mê của mình.
Lại thưa:
Kinh nói các vị Đại Thanh văn cho đến Bồ-tát đều đem hết khả năng suy nghĩ cùng chung nghĩ lường cũng không thể nào đo được trí của Phật, ngày nay khiến kẻ phàm phu chỉ ngộ được Tự tâm liền gọi là Tri kiến Phật, tự chẳng phải là hàng thượng căn nên chưa khỏi nghi báng.
Ngài Pháp Đạt thưa con thấy rõ trong kinh nói, đem tất cả trí của Thanh văn như ngài Xá-lợi-phất và tất cả trí Bồ-tát chung họp lại để suy nghĩ đo lường trí tuệ của Phật cũng không bao giờ đo được. Hiện nay con là phàm phu, nếu nói con khai Tri kiến Phật, con liền được Tri kiến Phật, như vậy con hơn những vị Thanh văn Bồ-tát hay sao?
Lại kinh nói ba xe: xe dê, xe nai, xe trâu cùng với xe trâu trắng khác nhau như thế nào? Cúi xin Hòa thượng rủ lòng từ khai thị cho.
Tổ bảo:
Ý kinh rõ ràng, ông tự mê trái. Các hạng người Tam thừa không thể đo lường được Trí tuệ Phật, đó là lỗi tại chỗ đo lường. Dù ông đem tất cả sự suy nghĩ mà suy xét lại càng thêm xa vời.
Chúng ta học kinh bị lầm nhiều chỗ, trong kinh nói dù cho trăm ngàn muôn ức người cùng dồn tất cả trí tuệ như Xá-lợi-phất để so lường trí Phật cũng không tới được, và dồn tất cả trí tuệ Bồ-tát so lường trí Phật cũng không tới được! Chúng ta cứ nghĩ trí Phật là cao tột, trí của Bồ-tát Thanh văn không thể tới được, chớ không ngờ lỗi tại chỗ so lường. Dù trí của tất cả Bồ-tát Thanh văn hay trí của Phật đi nữa mà so lường cũng đều không đúng với Tri kiến Phật, muốn đúng với Tri kiến Phật tất phải dừng những suy nghĩ so lường đó. Vì vậy Tổ bảo phải buông cả hai niệm thiện và ác mới ngồi trên xe bạch ngưu, tức là phải lặng tất cả niệm mới thấy Tri kiến Phật, càng suy lường thì cách Phật càng xa.
Phật vốn vì phàm phu mà nói, chẳng phải vì Phật mà nói, lý này nếu chẳng tin chắc thì sẽ như những vị Thanh-văn trong hội Pháp Hoa thối tịch vậy. Đâu chẳng biết đã ngồi trên xe bạch ngưu lại tìm ba xe ngoài cửa; huống là kinh văn rõ ràng nhằm ông mà nói, chỉ một Phật thừa, không có thừa nào khác; hoặc là hai, hoặc là ba cho đến vô số phương tiện, bao nhiêu nhân duyên thí dụ, ngôn từ nói về pháp ấy đều vì một Phật thừa. Ông sao chẳng tỉnh, ba xe là giả, là việc thuở xưa, một xe là thật, là việc hiện nay, chỉ dạy ông dẹp giả trở về thật, sau khi trở về thật, thật cũng không tên. Nên biết có những của báu trọn thuộc về ông, do ông thọ dụng, lại không khởi tưởng của cha, cũng không khởi tưởng của con, cũng không khởi tưởng dùng, ấy gọi là trì kinh Pháp Hoa, từ kiếp này đến kiếp khác, tay không rời quyển kinh, từ sáng đến tối không lúc nào chẳng tụng kinh.
Tổ bảo: Ông hỏi tôi ba xe khác nhau chỗ nào để làm chi. Chủ yếu Phật nói trong kinh Pháp Hoa là một Phật thừa, là một xe bạch ngưu thôi, còn nói ba xe là quyền, là phương tiện. Ba xe là chuyện cũ thời xưa tạm lập, còn Nhất thừa là chuyện hiện giờ, trong kinh Pháp Hoa Phật muốn chỉ dạy. Ông nên bỏ cái giả, trở về cái thật, cái thật cũng nguyên không có tên, chỉ nên biết lúc đó tất cả của báu từ ông nhận dùng, đừng khởi tưởng của cha của con, cũng không khởi tưởng dùng nữa. Bởi vì tưởng của cha là có nhân, tưởng của con là có ngã; còn có ngã có nhân, rồi còn có dùng nữa tức là còn cái thứ ba, như vậy là chưa hợp với kinh Pháp Hoa, bỏ được ba tưởng đó mới đúng với kinh Pháp Hoa. Được như vậy mới gọi ông là người trì kinh Pháp Hoa.
Pháp Đạt nhờ chỉ dạy, vui mừng nhảy nhót liền nói kệ khen rằng:
Kinh tụng tam thiên bộ,
Tào Khê nhất cú vong,
Vị minh xuất thế chỉ,
Ninh yết lụy sanh cuồng.
Dương lộc ngưu quyền thiết,
Sơ trung hậu thiện dương,
Thùy tri hỏa trạch nội,
Nguyên thị pháp trung vương.
Kinh tụng đến ba ngàn bộ, đến Tào Khê một câu liền quên hết, không còn chấp một bộ nào. Nếu chưa hiểu được ý chỉ xuất thế, thì đâu có hết được cái điên cuồng nhiều đời. Xe dê, xe nai, xe trâu là quyền lập; trước, giữa, sau là khéo nêu bày. Ai biết ngay ở trong nhà lửa nguyên là vị vua pháp. Ngay trong nhà lửa tức là ngay trong thân tứ đại, ngũ uẩn đã có ông vua pháp ngồi sẵn trong đó mà không ai biết. Chúng ta cứ tưởng khai thị Tri kiến Phật là Phật ở ngoài, không ngờ ngay trong nhà lửa tức là ngay trong thân vô thường này có ông vua chánh pháp tức là ông Phật ngồi ở trong sẵn sàng, không phải tìm kiếm nơi đâu xa.
Tổ bảo:
Từ nay về sau ông mới đáng gọi là Tăng tụng kinh.
Pháp Đạt từ đây lãnh hội huyền chỉ, cũng không ngừng tụng kinh.
Thiền sư Trí Thông:
Tăng Trí Thông, người quê ở An Phong thuộc Thọ Châu, ban đầu xem kinh Lăng-già đến hơn một ngàn lần nhưng không hiểu được Tam thân Tứ trí, đến lễ Tổ cầu giải nghĩa này. Tổ bảo:
Ba thân là Thanh tịnh Pháp thân, đó là tánh của ông, Viên mãn Báo thân là trí của ông, Thiên bá ức Hóa thân là hạnh của ông vậy.
Tổ dạy: Thanh tịnh Pháp thân tức là Tự tánh thanh tịnh của mình, Viên mãn Báo thân tức là trí tuệ bất sanh bất diệt của mình, Thiên bá ức Hóa thân tức là những hạnh lành của mình.
Nếu lìa Bản tánh riêng nói ba thân tức gọi có thân mà không trí, nếu ngộ được ba thân không có Tự tánh tức là rõ bốn trí Bồ-đề. Hãy lắng nghe tôi nói kệ:
Tự tánh cụ tam thân,
Phát minh thành tứ trí,
Bất ly kiến văn duyên,
Siêu nhiên đăng Phật địa.
Ngô kim vị nhữ thuyết,
Đế tín vĩnh vô mê,
Mạc học trì cầu giả,
Chung nhật thuyết Bồ-đề.
Tự tánh đầy đủ ba thân, phát minh ra thành tứ trí. Chẳng lìa duyên thấy nghe hiện tại này, siêu nhiên bước lên quả vị Phật. Nay tôi vì ông mà nói, tin chắc chắn hằng không mê lầm, chớ học người tìm cầu bên ngoài, trọn ngày nói Bồ-đề mà chẳng hiểu Bồ-đề là gì, trọn ngày nói ba thân tứ trí mà không biết ba thân tứ trí là gì. Đến đây Tổ chỉ thẳng ba thân tứ trí có đủ nơi mình, nghĩa là ngộ được ba thân liền phát minh thành tứ trí (vì ba thân là gốc của tứ trí), mà ba thân tứ trí không rời cái thấy cái nghe hiện hữu nơi mình, nếu nhận được như vậy là mình bước lên Phật địa.
Ngài Trí Thông lại thưa:
Về nghĩa Tứ trí có thể nghe được chăng?
Tổ bảo:
Đã hiểu ba thân liền rõ Tứ trí, sao lại hỏi ư? Nếu lìa ba thân riêng nói Tứ trí, đây gọi là có trí mà không thân, tức đây có trí lại thành vô trí.
Ngài nói kệ:
Đại viên cảnh trí tánh thanh tịnh,
Bình đẳng tánh trí tâm vô bệnh,
Diệu quan sát trí kiến phi công,
Thành sở tác trí đồng viên cảnh.
Ngũ bát lục thất quả nhân chuyển,
Đãn dụng danh ngôn vô Thật tánh,
Nhược ư chuyển xứ bất lưu tình,
Phồn hưng, vĩnh xử na-già định.
Tổ bảo: Đại viên cảnh trí tức là Tánh thanh tịnh của mình, Bình đẳng tánh trí là tâm không bệnh tức là tâm không duyên theo bên này bên kia, Diệu quan sát trí là làm tất cả mà không chấp ngã, không chấp công, cũng không chấp những việc mình làm nhiều hay ít, Thành sở tác trí là đồng với Đại viên cảnh trí. Năm thức trước với thức thứ tám, thức thứ sáu với thức thứ bảy là trên quả và nhân chuyển, chỉ dụng danh ngôn mà không có Thật tánh. Nếu ngay chỗ chuyển mà không dấy niệm, không có lưu tình, thì ngay nơi chỗ phồn hưng (là ồn náo) mà chúng ta vẫn ở trong đại định Na-già.
(Như trên nói chuyển thức thành trí, trong kinh nói: Chuyển năm thức trước làm Thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu làm Diệu quan sát trí, chuyển thức thứ bảy làm Bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám làm Đại viên cảnh trí. Tuy thức thứ sáu, thức thứ bảy là ở trong nhân chuyển, còn năm thức trước và thức thứ tám là trên quả chuyển, chỉ chuyển tên mà không chuyển thể.)
Vì sao nói thức thứ sáu và thức thứ bảy là chuyển trong nhân, còn năm thức trước và thức thứ tám là chuyển trên quả? Bởi vì khi chúng ta tu là tu thức thứ sáu và thức thứ bảy, tức là chuyển trong nhân. Tỉ dụ khi mắt chúng ta thấy sắc, ý liền chạy theo sắc mà phân biệt, cho nên có niệm yêu ghét. Muốn chuyển ý thức phải làm sao? Tức phải xoay nó trở về, không để nó duyên theo trần cảnh, gọi là phản quan hay là soi trở lại, đó là chuyển thức thứ sáu. Còn thức thứ bảy cũng vậy, thức này hằng chấp ngã, muốn chuyển nó tức phải phá ngã chấp. Khi chuyển thức thứ sáu và thức thứ bảy rồi, thì năm thức trước (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thức) và thức thứ tám cũng theo đó mà chuyển, đó gọi là chuyển trên quả, tức là tất cả chủng tử trong thức thứ tám lần lần tiêu sạch và thức này chuyển thành Đại viên cảnh trí. Như vậy chủ yếu của sự tu hành là tu ngay nơi thức thứ sáu và thức thứ bảy gọi là chuyển nhân, còn năm thức trước và thức thứ tám không tu mà được chuyển gọi là chuyển quả.
Trí Thông liền đốn ngộ được tánh trí nên trình kệ rằng:
Tam thân nguyên ngã thể,
Tứ trí Bản tâm minh,
Thân trí dung vô ngại,
Ứng vật nhiệm tùy hình.
Khởi tu giai vọng động,
Thủ trụ phỉ chân tinh,
Diệu chỉ nhân Sư hiểu,
Chung vong nhiễm ô danh.
Khi ngộ rồi thấy ba thân nguyên là thể của ta, tứ trí vốn là tâm sáng của ta, thân và trí dung nhau không có ngại. Nếu nhận được ba thân tứ trí rồi thì ứng vật tùy hình tha hồ không vướng mắc. Khởi niệm tu hành đều là vọng động, còn giữ trụ tức là kềm đè nó xuống là không hợp với chân tinh. Nhân thầy mà hiểu rõ được diệu chỉ, tên nhiễm ô cũng trọn quên. Qua bài kệ này chúng ta thấy ngài Trí Thông đã ngộ đạo.
Thiền sư Trí Thường:
Tăng tên Trí Thường, người ở Quí Khê, Tín Châu, thuở nhỏ xuất gia, chí cầu thấy tánh, một hôm đến tham lễ, Tổ hỏi:
Ông từ đâu đến, muốn cầu việc gì?
Sư thưa:
Học nhân gần đây đến núi Bạch Phong ở Hồng Châu lễ Hòa thượng Đại Thông nhờ chỉ nghĩa kiến tánh thành Phật, nhưng chưa giải quyết được hồ nghi, từ xa đến đây lễ Hòa thượng, mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy.
Tổ bảo:
Kia có ngôn cú gì ông thử nhắc lại xem.
Trí Thường thưa:
Trí Thường đến nơi kia, trải qua ba tháng, chưa được chỉ dạy, vì lòng tha thiết vì pháp nên một hôm riêng vào trượng thất thưa hỏi:
Thế nào là Bản tâm, Bản tánh của con?
Ngài Đại Thông nói rằng:
Ông thấy hư không chăng?
Trí Thường đáp: Thấy!
Hòa thượng Đại Thông hỏi:
Ông thấy hư không có tướng mạo chăng?
Trí Thường đáp: Hư không vô hình mà có tướng mạo gì?
Ngài Đại Thông bảo:
Bản tánh của ông ví như hư không, trọn không một vật có thể thấy, ấy gọi là chánh kiến, không một vật có thể biết ấy gọi là chân tri, không có xanh, vàng, dài, ngắn, chỉ thấy bản nguyên thanh tịnh, giác thể tròn sáng tức gọi là thấy tánh thành Phật, cũng gọi là Như Lai tri kiến.
Học nhân tuy nghe lời này vẫn chưa giải quyết xong (điều nghi), cúi xin Hòa thượng chỉ dạy.
Tổ bảo:
Lời thầy kia nói vẫn còn kiến tri nên khiến ông chưa rõ, nay tôi chỉ ông một bài kệ:
Chẳng thấy một pháp còn thấy không,
Giống như mây nổi che mặt nhật,
Chẳng biết một pháp giữ biết không,
Lại như hư không sanh điện chớp.
Tri kiến này bỗng nhiên dấy lên,
Lầm nhận đâu từng hiểu phương tiện,
Ông phải một niệm tự biết lỗi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
Trí Thường nghe bài kệ rồi tâm ý hoát nhiên, bèn nói kệ rằng:
Vô cớ khởi tri kiến,
Chấp tướng cầu Bồ-đề,
Tình còn một niệm ngộ,
Đâu vượt mê ngàn xưa,
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu luống đổi dời,
Chẳng vào thất Tổ sư,
Mờ mịt chạy hai đầu.
Chúng tôi giải thích lại đoạn văn trên cho quí vị nhận rõ: Ngài Trí Thường đến hỏi đạo với Lục Tổ. Tổ hỏi: Ông từng hỏi đạo nơi nào rồi? Ngài Trí Thường thưa: Đã từng tới Hòa thượng Đại Thông ở núi Bạch Phong Hồng Châu, hỏi về nghĩa thấy tánh thành Phật. Tổ hỏi: Hòa thượng dạy ông như thế nào? Ngài Trí Thường thưa: Một hôm vì lòng thiết tha cầu đạo cho nên Trí Thường vào trong thất hỏi Hòa thượng: Thế nào là Bản tâm Bản tánh của con? Hòa thượng Đại Thông mới hỏi: Ông thấy hư không chăng? Đây là dùng hình thức cụ thể để hỏi. Ngài Trí Thường đáp: Dạ thấy. Hỏi: Hư không có tướng mạo gì? Đáp: Hư không không có tướng mạo. Hòa thượng liền nói: “Bản tánh của ông cũng không tướng mạo như là hư không vậy, thấy được như vậy gọi là chánh kiến, biết được như vậy gọi là chân tri. Bản tánh nguyên nó là thanh tịnh, không dài, không ngắn, không xanh, không vàng v.v… đó là cái thể giác ngộ viên minh của ông, đó gọi là Phật, là Tri kiến Như Lai”. Tuy nói rõ như vậy mà ngài Trí Thường cũng không ngộ, như vậy là Hòa thượng Đại Thông có chỉ hay là không chỉ? Chúng ta thấy rõ là Hòa thượng đã chỉ một cách thật thà đầy đủ hết lòng hết dạ rồi. Ngài nói: Thể tánh đó không tướng mạo giống như hư không, Thể tánh đó thanh tịnh, không dài, không ngắn, không xanh, không vàng v.v… thấy như vậy, biết như vậy là chánh kiến, là chân tri. Hòa thượng Đại Thông tuy chỉ hết tình rồi, nhưng còn cái lỗi là lập chánh kiến và chân tri, thành ra bỏ danh từ này lập danh từ khác chớ không buông sạch được, do đó mà ngài Trí Thường vẫn hồ nghi chưa nhận được Bản tánh. Tổ liền nói bài kệ:
Bất kiến nhất pháp tồn vô kiến,
Đại tợ phù vân già nhật diện,
Bất tri nhất pháp thủ không tri,
Hoàn như thái hư sanh thiểm điện.
Thử chi tri kiến miết nhiên hưng,
Thác nhận hà tằng giải phương tiện,
Nhữ đương nhất niệm tự tri phi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
Chẳng thấy một pháp mà còn cái thấy không, tức là cái không tướng mạo, nếu còn thấy cái không tướng mạo là chánh kiến đó là bệnh rồi, giống như có một đám mây nổi che khuất mặt trời. Vừa dấy niệm cho là chánh kiến hay cho cái không tướng mạo là đúng, chẳng khác nào mặt trời đang sáng tỏ bị một đám mây che phủ vậy, đó là cái lỗi thứ nhất. Kế đến lỗi thứ hai là: chẳng biết một pháp mà giữ cái biết không, như trong hư không có làn điện chớp. Nếu trong hư không trống rỗng bỗng dưng có làn điện chớp thì hư không đã mất tánh cách hư không rồi. Ở đây cũng vậy trong chỗ chân thật không danh tự, không tên họ mà lập là chánh kiến là chân tri thì rơi vào ngôn ngữ rồi. Cho nên ngài Đại Thông tuy thật lòng chỉ dạy, nhưng vô tình Ngài bị kẹt trong ngôn ngữ và danh tự nên cái chân thật bị che lấp đi. Cái tri kiến chấp là chánh kiến là chân tri bỗng dưng dấy lên, đó là lầm nhận, đâu từng hiểu biết được phương tiện. Ông nên một niệm biết được lỗi ấy, tự nhiên cái linh quang của ông thường hiển hiện. Lỗi ấy là lỗi lập chánh kiến và chân tri, nếu buông được cái kiến tri này thì cái sáng suốt linh diệu của ông hiển bày. Nghe đến đây ngài Trí Thường hoát nhiên đại ngộ, và làm kệ trình Tổ:
Vô đoan khởi tri kiến,
Trước tướng cầu Bồ-đề,
Tình tồn nhất niệm ngộ,
Ninh việt tích thời mê.
Tự tánh giác nguyên thể,
Tùy chiếu uổng thiên lưu,
Bất nhập Tổ sư thất,
Mang nhiên thú lưỡng đầu.
Không có lý do mà khởi thấy biết, đó là chấp tướng mà cầu giác ngộ. Nếu trong tâm còn một niệm nghĩ rằng phải ngộ, phải thành Thánh v.v… thì đâu có vượt khỏi cái mê của thuở xưa. Tự tánh là nguồn giác của chính mình, tùy chiếu liền bị đổi dời tức là cái thể đó là tánh hằng tri hằng giác, nhưng vừa dấy niệm để chiếu soi hay phân biệt liền bị đổi dời mất đi. Nếu không vào được thất của Tổ sư, thì mờ mịt chạy theo hai đầu hay là hai bên, tức là bên này là thật bên kia là giả, đây là chân kia là vọng, đây là chánh kia là tà v.v…
Ngài Trí Thường tuy thấy được như vậy, nhưng vẫn còn một vài điểm nghi nhỏ nên hỏi thêm.
Trí Thường một hôm hỏi Tổ:
Phật nói pháp ba thừa, lại nói Tối thượng thừa, đệ tử chưa hiểu, cúi mong Ngài vì chỉ dạy.
Tổ bảo:
Ông xem nơi Bản tâm mình, chớ có chấp Pháp tướng bên ngoài. Pháp không có bốn thừa, tâm người tự có những sai biệt. Thấy nghe tụng đọc là Tiểu thừa, ngộ pháp hiểu nghĩa là Trung thừa, y pháp tu hành là Đại thừa, muôn pháp trọn thông, muôn pháp đầy đủ, tất cả không nhiễm, lìa các Pháp tướng, một cũng không được, gọi là Tối thượng thừa.
Tổ giải nghĩa Tứ thừa: Người học đạo mà còn kẹt ở cái thấy nghe đọc tụng, đó là Tiểu thừa; người học đạo mà ngộ pháp hiểu nghĩa, gọi là Trung thừa; người học đạo y theo pháp tu hành gọi là Đại thừa; người học đạo thông suốt được tất cả pháp mà không nhiễm tất cả pháp, lìa tất cả pháp tướng, rời tất cả pháp chấp, gọi là Tối thượng thừa.
Thừa là nghĩa hành, không phải ở miệng tranh, ông phải tự tu chớ có hỏi tôi, trong tất cả thời, Tự tánh tự như.
Thừa là nghĩa thực hành, vì vậy chữ thừa có nghĩa là di chuyển từ nơi này đến nơi kia. Nói Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa chẳng qua là chỉ sự di chuyển. Chữ thừa có chỗ đọc là thặng, thặng là cỗ xe. Ví dụ chúng ta hiện giờ đang ở Vũng Tàu muốn về thành phố Hồ Chí Minh, thì phải ra bến xe, lên xe đi thành phố Hồ Chí Minh, thì xe đó đưa mình tới thành phố Hồ Chí Minh; muốn về Bà Rịa thì lên xe đi Bà Rịa, nó đưa mình tới Bà Rịa v.v… Chúng ta muốn đến nơi nào thì phải lựa xe mà đi. Trên đường tu cũng vậy, nếu chúng ta thích hợp pháp môn nào thì chọn pháp môn đó, pháp môn ấy sẽ đưa mình tới đích mong muốn, cho nên nói thừa là chở chuyên, là đi, hay là hành. Phần nhiều chúng ta có cái lỗi hay xưng tôi là Đại thừa, rồi chê người kia là Tiểu thừa, đó là sai lầm, bởi vì Tổ dạy chữ thừa này là chỉ sự tu hành của mình, chớ không phải sự tranh hơn tranh thua. Nói mình là Đại thừa để chê người ta là Tiểu thừa, đó là tranh hơn tranh thua, nên chưa phải là Đại thừa. Còn tranh hơn tranh thua tức là còn tâm bỉ thử, chưa xứng đáng là đạo, huống nữa là Đại thừa.
Trí Thường liền lễ tạ và hầu Tổ đến trọn đời.
Trong đoạn ngài Trí Thường hỏi đạo với Lục Tổ, chúng ta thấy có hai phần. Phần trước là sau khi hỏi đạo với Hòa thượng Đại Thông, Ngài còn nghi ngờ, nên xin Lục Tổ giải nghi cho. Nhờ Tổ chỉ dạy thấu đáo nên Ngài ngộ. Phần sau là Ngài hỏi thêm về nghĩa Tứ thừa để hiểu cho rành rẽ, khỏi bị lầm lẫn.
Thiền sư Chí Đạo:
Tăng Chí Đạo, người quê ở Nam Hải, Quảng Châu đến thưa hỏi, thưa rằng:
Học nhân từ xuất gia, xem kinh Niết-bàn hơn mười năm chưa rõ được đại ý, cúi mong Hòa thượng thương xót chỉ dạy.
Tổ bảo: Chỗ nào ông chưa rõ?
Thưa rằng:
Chư hạnh vô thường, là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui, nơi đây con nghi ngờ.
Tổ hỏi: Ông nghi như thế nào?
Thưa rằng:
Tất cả chúng sanh đều có hai thân gọi là Sắc thân và Pháp thân. Sắc thân vô thường có sanh có diệt, Pháp thân có thường không tri không giác. Kinh nói: “sanh diệt diệt rồi tịch diệt là vui”, chẳng biết thân nào tịch diệt, thân nào thọ vui?
Đây là ngài Chí Đạo hỏi Tổ ý nghĩa bài kệ trong kinh Niết-bàn:
Chư hạnh vô thường,
Thị sanh diệt pháp,
Sanh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc.
Tịch diệt là vắng lặng, là mất hết. Ngài Chí Đạo hỏi: Nếu Sắc thân chết rồi thì làm sao vui? Còn nếu Pháp thân tịch diệt thì Pháp thân là vô tri, lấy cái gì mà vui? Vì sao nói: tịch diệt là vui?
Nếu là Sắc thân, khi Sắc thân tịch diệt, bốn đại phân tán, toàn là khổ, khổ không thể nói vui; nếu Pháp thân tịch diệt tức đồng cỏ cây gạch đá, ai sẽ thọ vui? Lại Pháp tánh là thể của sanh diệt, năm uẩn là dụng của sanh diệt, một thể năm dụng, sanh diệt là thường, sanh thì từ thể khởi dụng, diệt thì từ dụng nhiếp về thể, nếu cho lại sanh tức là loài hữu tình không đoạn không diệt.
Nếu từ thể khởi dụng, từ dụng trở về thể, như vậy mãi thì sanh lại sanh tức là gặp cái lỗi vô cùng.
Nếu chẳng cho lại sanh tức là hằng trở về tịch diệt thì đồng với vật vô tình, như thế ắt tất cả pháp bị sự ngăn cấm của Niết-bàn, còn chẳng được sanh, có gì là vui?
Khi dấy lên là sanh, khi lặng xuống là diệt; khi lặng xuống không sanh trở lại nữa tức là Niết-bàn, đó là bị cấm chỉ không cho sanh, còn gì mà vui, sao kinh lại nói tịch diệt là vui?
Tổ quở:
Ông là Thích tử sao lại tập theo ngoại đạo về đoạn kiến và thường kiến mà luận nghị về pháp Tối thượng thừa. Cứ theo lời ông nói, tức là ngoài Sắc thân riêng có Pháp thân, lìa sanh diệt để cầu tịch diệt, lại suy luận Niết-bàn thường lạc nói có thân thọ dụng, đây là chấp lẫn về sanh tử, đắm mê cái vui thế gian; nay ông nên biết, Phật vì tất cả người mê nhận thân năm uẩn hòa hợp làm thể tướng của mình, phân biệt tất cả pháp cho là tướng ngoại trần, ưa sanh, ghét chết, niệm niệm đổi dời, không biết là mộng huyễn hư giả, luống chịu luân hồi, lấy thường lạc Niết-bàn đổi thành tướng khổ, trọn ngày tìm cầu. Phật vì thương những người này, mới chỉ dạy Niết-bàn chân lạc, trong sát-na không có tướng sanh, trong sát-na không có tướng diệt, lại không có sanh diệt có thể diệt, ấy là tịch diệt hiện tiền. Chính ngay khi hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền, mới gọi là thường lạc. Vui này không có người thọ, cũng không có người chẳng thọ, há có tên một thể năm dụng, huống là lại nói Niết-bàn ngăn cấm các pháp khiến hằng chẳng sanh. Đây là ông chê Phật hủy pháp.
Chúng tôi giải thích phần trên để quí vị hiểu rõ. Ngài Chí Đạo có chỗ nghi: Theo như Ngài hiểu thì con người chúng ta có hai thân, Sắc thân và Pháp thân. Sắc thân là tướng sanh diệt, còn Pháp thân là không sanh diệt, cho nên Sắc thân là vô thường mà Pháp thân là thường, Sắc thân có tri giác mà Pháp thân là vô tri giác. Vì ngài Chí Đạo hiểu như vậy nên khi nghe nói “tịch diệt là vui”, Ngài liền nghi: Nếu nói “tịch diệt là vui” là Sắc thân này đến khi lặng mất là vui, lặng mất tức là hoại rồi, làm sao gọi là vui được! Còn nếu tịch diệt là vui là nói về Pháp thân, thì Pháp thân là vô tri thì làm sao biết vui? Như vậy trong kinh nói “tịch diệt” là “vui” là cái nào vui? Đó là cái nghi thứ nhất.
Đến cái nghi thứ hai: Ngài Chí Đạo nghĩ thân của mình đây là thân năm uẩn, nó là cái dụng, Pháp tánh là thể. Từ Pháp tánh khởi ra ngũ uẩn, tức là từ thể dấy dụng, rồi ngũ uẩn diệt trở về Pháp tánh. Trở về Pháp tánh là chỗ lặng yên, nếu cho sanh nữa tức nhiên diệt rồi sanh, sanh rồi diệt không cùng. Nếu đến chỗ lặng yên đó ngăn không cho sanh nữa gọi là Niết-bàn, tức là từ chỗ diệt rồi yên lặng, bị cấm chỉ không cho sanh nữa, làm sao vui được? Cho nên ngài Chí Đạo nói diệt rồi sanh mới vui, nếu diệt rồi diệt luôn, kềm giữ cái diệt đó mãi thì khổ, đâu có gì là vui, vì sao trong kinh lại nói “tịch diệt là vui”, nghĩa đó không thể được.
Tổ quở ngài Chí Đạo, nếu hiểu như vậy là chấp có hai mặt rõ ràng, một là Sắc thân là vô thường, hai là Pháp thân là thường, tức là chấp hai bên, chấp cái thường ngoài cái vô thường nên nói cái tịch diệt ngoài cái sanh diệt, như vậy là chấp lầm lẫn. Phật thấy tất cả chúng sanh, ngay nơi thân sanh diệt có cái vô sanh, nhưng chúng ta không nhận được điều đó nên mãi chịu luân hồi. Phật bảo thân năm uẩn là hư giả để chúng ta nhận ra cái chân thật ngay trong năm uẩn, chớ không phải rời năm uẩn mà riêng có Pháp thân. Ngay trong năm uẩn này nhận ra được Pháp thân bất sanh bất diệt, mà Pháp thân là cái lặng lẽ thường vui, chớ không phải diệt hết Sắc thân này rồi mới gọi là vui. Ngay nơi Sắc thân này mà nhận được cái tịch diệt lặng lẽ thường hằng của mình, đó gọi là “tịch diệt là vui” tức là vui ngay khi nhận được cái tịch diệt, chớ không phải đợi hoại thân này rồi mới riêng có cái vui Niết-bàn. Nếu chúng ta cứ mải chạy theo sanh tử rồi chấp sanh tử là thật, đó là chúng ta quên đi cái chân thật của mình, vì vậy Phật mới bảo thân sanh tử này là tướng năm uẩn hư giả, đừng lầm nó, phải bỏ cái giả để hướng về cái thật. Nhưng thật ra cái giả với cái thật không phải là hai, nó không rời nhau, không chạy theo cái giả thì cái thật hiện tiền; cho nên nói rằng sanh diệt khi diệt rồi tức là tâm niệm sanh diệt của mình được lặng rồi, thì tịch diệt hiện tiền. Chính ngay khi nó hiện tiền cũng không khởi niệm tịch diệt hiện tiền, tức là không có cái lượng tịch diệt hiện tiền thì ngay đó tịch diệt là vui. Nói một cách khác là sống với cái hiện lượng nghĩa là sống ngay trong hiện tại mà không có niệm nghĩ đến hiện tại, hay nói theo ngài Vĩnh Gia ngay nơi chỗ đó (đương xứ) mà không có niệm ngay đó, đó mới gọi là chân thật. Sống được như vậy mới gọi là thường lạc. Nếu còn một niệm chen vào đều không phải là thường lạc.
Tổ lại bảo rằng nếu chấp riêng có cái sanh ở ngoài cái vô sanh, hay có cái sanh diệt ở ngoài cái tịch diệt, là chấp hai bên, gọi là chấp thường chấp đoạn, đó là ngoại đạo chớ không phải Phật pháp. Chúng ta ngày nay học đạo vẫn còn lầm lẫn, cứ nghĩ ngoài Sắc thân này còn có thân Phật, cho nên khi ngồi tu mà mong thấy thân Phật mình phóng quang v.v… đó là quan niệm sai lầm.
Hãy nghe ta nói kệ:
Vô thượng Đại Niết-bàn,
Viên minh thường tịch chiếu,
Phàm ngu vị chi tử,
Ngoại đạo chấp vi đoạn.
Đại Niết-bàn vô thượng tròn sáng, thường lặng lẽ mà chiếu soi, phàm ngu gọi đó là chết, còn ngoại đạo chấp là đoạn, tức ngang đó là hết, chớ không ngờ chính ngay nơi mình có Đại Niết-bàn tròn sáng và thường chiếu soi, ai ai cũng đều sẵn có không riêng người nào.
Chư cầu Nhị thừa nhân,
Mục dĩ vi vô tác,
Tận thuộc tình sở kế,
Lục thập nhị kiến bản.
Những người cầu Nhị thừa cho đó là vô tác, vô tác là chỗ không có tạo tác, trọn thuộc về chỗ tình chấp, đó là cái gốc của sáu mươi hai kiến chấp ngoại đạo.
Vọng lập hư giả danh,
Hà vi chân thật nghĩa,
Duy hữu quá lượng nhân,
Thông đạt vô thủ xả.
Dối lập ra tên hư giả, hư giả làm sao đạt được nghĩa chân thật. Chỉ có người quá lượng tức là người vượt qua những cái tầm thường, mới thông suốt được mà không có thủ và xả.
Dĩ tri ngũ uẩn pháp,
Cập dĩ uẩn trung ngã,
Ngoại hiện chúng sắc tượng,
Nhất nhất âm thanh tướng.
Do biết pháp năm uẩn, và cái ngã ở trong uẩn, ngoài hiện các sắc tượng, mỗi mỗi tướng âm thanh.
Bình đẳng như mộng huyễn,
Bất khởi phàm Thánh kiến,
Bất tác Niết-bàn giải,
Nhị biên tam tế đoạn.
Khi biết rõ rồi thì bình đẳng, thấy những cái đó đều như mộng như huyễn, không khởi chấp là phàm là Thánh, cũng không khởi hiểu là Niết-bàn. Như vậy hai bên và ba mé đều dứt.
Thường ứng chư căn dụng,
Nhi bất khởi dụng tưởng,
Phân biệt nhất thiết pháp,
Bất khởi phân biệt tưởng.
Đến đây Tổ chỉ thẳng Đại Niết-bàn thường ứng hiện ra dụng nơi các căn mà chẳng khởi tưởng dụng. Tỉ dụ trong khi ứng dụng, cảnh đến thì mắt tự thấy chớ không có tưởng là mình phải thấy; tiếng đến thì tai tự nghe chớ không có tưởng là mình phải nghe. Không dấy niệm không khởi tưởng mà hằng thấy hằng nghe, đó mới là chân thật; dấy niệm khởi tưởng mới biết, đó không phải là chân thật. Phân biệt tất cả pháp mà không khởi tưởng phân biệt. Tỉ dụ tôi nhìn tất cả quí vị, tôi biết mặt mày hình sắc của tất cả mà tôi không dấy niệm, đó gọi là phân biệt tất cả quí vị mà không khởi niệm phân biệt người hay người dở, người tốt người xấu v.v… Phân biệt tất cả pháp mà không khởi tưởng phân biệt, ngay đó là Niết-bàn hiện hữu. Vừa khởi niệm tìm Niết-bàn là mất Niết-bàn. Hiện nay chúng ta đang sống trong Niết-bàn mà không biết, nên phải chịu trầm luân sanh tử, cho nên Phật thường nói là đáng thương xót. Nếu chúng ta sống được với cái lượng thật, đó là Niết-bàn, nếu sống với thân ngũ uẩn, đó là sanh tử. Nhưng không phải bỏ thân ngũ uẩn riêng kiếm Niết-bàn, mà ngay nơi thân ngũ uẩn đã có sẵn Niết-bàn.
Kiếp hỏa thiêu hải để,
Phong cổ sơn tương kích,
Chân thường tịch diệt lạc,
Niết-bàn tướng như thị.
Dầu cho kiếp hỏa đốt cháy tất cả biển lớn đều khô cạn, gió thổi các núi chạm nhau tan vỡ cả thế giới, nhưng chân thường tịch diệt vui là tướng Niết-bàn vẫn như thế, không đổi thay. Đây là dẫn trong kinh nói rằng thế giới chúng ta thường trải qua những giai đoạn từ không kiếp tức là lúc chưa có, đến thành kiếp khi được dựng lập, đến trụ kiếp thời gian an trụ, rồi đến hoại kiếp cuối cùng bị tan hoại. Trong hoại kiếp có chia ra thời thủy tai (hồng thủy) nước tràn lan cùng khắp, đến thời hỏa tai trái đất bị cháy, nước bể đều khô cạn, đến phong tai gió thổi, đất rung, các núi va chạm nhau vỡ tan cả thế giới. Trải qua những kiếp ấy, quả đất phải tan hoại mà cái chân thường chân lạc này chưa bao giờ bị đổi thay, huống nữa là bị hoại.
Ngô kim cưỡng ngôn thuyết,
Linh nhữ xả tà kiến,
Nhữ vật tùy ngôn giải,
Hứa nhữ tri thiểu phần.
Nay tôi gắng gượng nói với ông khiến ông bỏ tà kiến. Ông chớ theo lời tôi nói mà hiểu, thì tôi nhận ông biết được một ít phần. Nếu ông chấp theo lời tôi nói, thì ông bị kẹt trong lời nói của tôi mà không biết gì hết.
Chí Đạo nghe kệ đại ngộ, vui mừng nhảy nhót, làm lễ rồi lui.
Thiền sư Hành Tư:
Dòng thiền được truyền bá đến ngày nay chưa dứt là do ngài Hành Tư và ngài Hoài Nhượng. Phái thiền của ngài Hành Tư được truyền đến nay là tông Tào Động, của ngài Hoài Nhượng là tông Lâm Tế. Hai vị là đệ tử cự phách của Lục Tổ, và hai dòng thiền này được truyền dài lâu nhất, còn mãi cho đến ngày nay.
Thiền sư Hành Tư sanh tại An Thành, Kiết Châu, họ Lưu, nghe pháp tịch Tào Khê giáo hóa thạnh hành, Ngài thẳng đến tham lễ, bèn hỏi:
Phải làm việc gì mà không rơi vào giai cấp?
Tổ hỏi: Ông từng làm việc gì đến?
Ngài thưa: Thánh đế cũng không làm.
Tổ bảo: Rơi vào giai cấp nào?
Ngài thưa:
Thánh đế còn chẳng làm thì có giai cấp nào?
Tổ thầm nhận đó, khiến Ngài Hành Tư thủ chúng.
Qua sự đối đáp trên, chúng ta thấy câu hỏi đầu tiên của ngài Hành Tư là “phải làm việc gì mà không rơi vào giai cấp”. Phần nhiều chúng ta tu thường nói là tu theo Đại thừa hay Tiểu thừa, nếu còn thấy có đại có tiểu là còn có giai cấp. Khi hỏi: làm sao khỏi rơi vào giai cấp, thì Tổ không trả lời, Tổ hỏi lại: Ông đang làm việc gì? Ngài thưa Thánh đế con còn không làm, huống làm việc gì! Trong kinh nói Thánh đế đệ nhất nghĩa là nghĩa tột cùng, nghĩa tột cùng đó Ngài còn không làm nữa, huống là giai cấp nào? Cho nên Tổ nói: Nếu Thánh đế còn không làm, thì ông rơi vào giai cấp nào? Ngài mới thưa: Còn có giai cấp nào mà rơi nữa? Ngay nơi đó Tổ liền nhận. Như vậy chỗ cứu kính là không còn danh ngôn, dầu cho tên gọi là Thánh đế đệ nhất nghĩa hay là tên Tối thượng thừa đi nữa, nếu còn mang một danh hiệu thì chưa phải là cứu kính. Thánh đế cũng không làm, thì đâu còn kẹt trong giai cấp, nên Tổ thầm nhận.
Một hôm Tổ bảo ngài Hành Tư:
Ông nên phân hóa một nơi, không khiến cho đoạn dứt.
Sau cùng Tổ dạy Ngài nên đến phân hóa một phương, không khiến đoạn tuyệt, tức là Ngài đã ngộ rồi nên đến nơi khác truyền bá, chớ để cho Phật pháp đoạn tuyệt.
Ngài Hành Tư đã được pháp bèn trở về Kiết Châu, trên núi Thanh Nguyên hoằng pháp, nối tiếp giáo hóa. Sau Ngài tịch, thụy là Hoằng Tế thiền sư.
Ngài Hành Tư vâng lời trở về quê ở trên núi Thanh Nguyên, người ta thường gọi Ngài là Thanh Nguyên Hành Tư.
Thiền sư Hoài Nhượng:
Thiền sư Hoài Nhượng quê ở Kim Châu, con nhà họ Đỗ, ban đầu đến yết kiến Quốc sư An ở Tung Sơn. Quốc sư An mới khuyến khích Sư đến Tào Khê tham vấn. Khi Ngài đến lễ bái Tổ, Tổ hỏi:
Ở đâu lại?
Ngài thưa: Ở Tung Sơn.
Tổ bảo: Đem được vật gì lại?
Ngài thưa: Nói giống một vật tức chẳng trúng.
Có chỗ khác nói rằng khi Tổ hỏi “đem được vật gì lại”, Ngài không đáp được. Tổ bảo vào trong chúng ở, mãi đến tám năm sau, một hôm Ngài phát minh được, mới thưa với Tổ con trả lời được rồi. Ngài thưa: “Nói giống một vật tức chẳng trúng.”
Tổ bảo: Lại có tu chứng chăng?
Ngài thưa:
Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được.
Tổ bảo:
Chỉ cái chẳng nhiễm ô này là chỗ chư Phật hộ niệm; ông đã như thế, ta cũng như thế. Tây thiên tổ Bát-nhã Đa-la sấm rằng: “dưới chân ông có một con ngựa tơ đạp chết người trong thiên hạ”, ứng ở nơi tâm ông, không cần phải nói ra.
Tổ nhận cho là đúng và nói ông như vậy ta cũng như vậy, tức là ông cũng bằng ta rồi. Câu “nói một vật tức chẳng trúng” phù hợp với câu “bản lai vô nhất vật” (xưa nay không một vật) của Lục Tổ. Nếu Lục Tổ hỏi chúng ta: “ngươi có mang được vật gì đến”, chắc chúng ta sẽ thưa: dạ con đến có mang cái bị, dao cạo v.v… nhưng ngài Hoài Nhượng không đáp được, Ngài biết Ngài đến, còn vật gì đến nữa làm sao biết được! Ngài phải ở chúng tám năm trời mới thưa: con đáp được, “nói một vật tức không trúng”. Tại sao? Vì Tổ thấy “bản lai vô nhất vật”. Nếu nói một vật tức là có tướng mạo, mà có tướng mạo là sanh diệt, cho nên nói một vật là trật. Chúng ta hiện giờ thường lầm lẫn, nếu có người hỏi: “ông có Chân tâm không”, thì đáp: “có”, hỏi: “Chân tâm ông ở đâu”, thì chúng ta sẽ lúng túng không biết làm sao trả lời! Nếu nói có, thì phải biết ở đâu, nếu không biết ở đâu tại sao dám nói có? Câu hỏi của Tổ: ông có mang được vật gì đến hay không, vật gì là để thầm chỉ Chân tâm hay Phật tánh, ngài Hoài Nhượng không biết làm sao trả lời, khi ngộ rồi Ngài mới thấy rõ: nếu nói một vật là không trúng. Nếu có người hỏi: “Chân tâm ở đâu” là hỏi sai rồi, vì Chân tâm không phải là vật, làm sao nói chỗ nơi. Tỉ dụ tôi hỏi: “bao kiếng để ở đâu”, đáp: “ở trên bàn”. Vì bao kiếng là vật nên có chỗ nơi, còn Chân tâm hay Phật tánh không phải là vật, làm sao nói chỗ nơi, cho nên Ngài đáp: “nói một vật tức không trúng” là đã có thầm ý nó không có chỗ nơi. Cái thấy của Ngài rất phù hợp với cái thấy “xưa nay không một vật” của Lục Tổ khi xưa.
Cái thấy “nói một vật tức không trúng” chỉ mới vào cửa thiền thôi, chưa đạt đến cứu kính, cho nên Tổ mới hỏi thêm: “Lại có thể tu chứng hay không?” Không có một vật, ngang đó là đủ rồi, không còn tu chứng nữa phải không? Ngài liền đáp: “Tu chứng tức chẳng không, mà nhiễm ô tức không thể được.” Đây là một câu hay đáo để, đa số người học tu chúng ta không đến được chỗ này thường bị mắc kẹt chỗ “rỗng không”. Tỉ dụ như chúng ta đang ngồi thiền, tâm khởi vọng, mà tâm vọng là tướng sanh diệt, là gốc của luân hồi, chúng ta thường nghe dạy như vậy. Cho nên muốn hết luân hồi, tâm vọng phải lặng xuống, khi lặng xuống thì thấy rỗng không. Cái thể rỗng không đó có phải là chỗ chân thật hay chưa? Nếu thấy cái rỗng không cho là cứu kính là đã kẹt ở cái không rồi! Cho nên: “nói một vật tức không trúng”, đó là vào cửa thôi chớ chưa đạt cứu kính, nếu ngưng ngang đó là mắc kẹt. Khi xưa lúc Lục Tổ trình kệ “bản lai vô nhất vật” thì được vào cửa, nhưng phải nghe kinh Kim Cang rồi mới nói: “đâu ngờ tánh mình xưa nay vốn thanh tịnh, đâu ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ v.v…” Đến lúc đó mới gọi là xong việc. Nếu thấy chỗ lặng lẽ rỗng không cho là cứu kính là lầm, là còn mắc kẹt, vì vậy có câu “vô tâm du cách nhất trùng quan” tức là vô tâm còn cách một lớp rào. Thấy không có tâm dấy động tưởng là đủ, đó là lầm, cần phải đi đến giác ngộ viên mãn. Vì vậy Tổ mới hỏi thêm: “lại có tu chứng hay không”, Ngài thưa: “tu chứng tức chẳng phải không”, nghĩa là trên phương diện tu chứng không phải là không, nhưng mà nhiễm ô không thể được. Bởi nó không có tướng mạo, làm sao bị nhiễm ô? Nhưng cái không nhiễm ô đó chưa phải là cứu kính mà còn phải giác ngộ viên mãn mới được. Tỉ dụ tâm mình như cái gương, bị bụi phủ mờ trăm ngàn vết, chúng ta phải lau chùi sạch hết những vết bụi, rồi mới gọi là gương trong, nhưng chưa đủ, mặt gương còn phải phản chiếu ánh sáng nữa mới được viên mãn. Chúng ta tu cũng như vậy, khi những vọng tưởng lặng hết rồi, tâm lặng lẽ gọi là tịch diệt, hay là “không một vật”. Đến khi đó chúng ta phải nhận được Tánh giác hằng hữu của mình, đó gọi là tu chứng hay là giác ngộ thành Phật. Cho nên nói “tu chứng chẳng phải không, mà nhiễm ô không thể được”. Tổ mới bảo: “Cái không nhiễm ô này là chỗ chư Phật hộ niệm”, tức là chỗ chư Phật hằng nhớ, hằng giữ. “Ông như vậy ta cũng như vậy”, tức là giống nhau, đó là câu Tổ đã ấn chứng cho Ngài làm Tổ sau này. Ấn chứng không phải là làm lễ gì, mà chính câu “ông như vậy, ta cũng như vậy”, gọi là ấn chứng, tức là cái thấy biết của ông ngang bằng cái thấy biết của ta, cũng như ngang bằng cái thấy biết của chư Phật.
Ngài Hoài Nhượng hoát nhiên khế hội, liền hầu hạ Tổ mười lăm năm, mỗi ngày càng thâm được sự huyền áo. Sau Ngài đến núi Nam Nhạc, xiển dương Thiền tông, khi tịch Ngài được sắc ban hiệu Đại Tuệ thiền sư.
Ngài ở lại hầu hạ Tổ mười lăm năm, và sau về núi Nam Nhạc xiển dương Thiền tông.
Người học đạo chúng ta ngày nay ở gần thầy năm, ba năm rồi ngán, muốn ra lãnh đạo một phương để trụ trì giáo hóa thiên hạ, tưởng như ở lâu gần thầy không có lợi, nhưng không ngờ chính càng lâu càng thêm thâm thúy, càng tăng thêm chỗ huyền áo.
Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác:
Thiền sư Huyền Giác ở Vĩnh Gia, họ Đới, quê ở Ôn Châu, thuở nhỏ tập kinh luận, chuyên về pháp môn chỉ quán của tông Thiên Thai, nhân xem kinh Duy-ma-cật phát minh được tâm địa; chợt gặp đệ tử của Tổ là Huyền Sách thăm hỏi, cùng bàn chuyện sôi nổi, mà mỗi lời nói ra đều thầm hợp với chư Tổ. Huyền Sách hỏi:
Nhân giả được pháp nơi Thầy nào?
Huyền Giác đáp:
Tôi nghe kinh luận Phương đẳng mỗi vị đều có Thầy truyền thừa, sau nơi kinh Duy-ma-cật ngộ được Phật tâm tông mà chưa có người chứng minh.
Huyền Sách bảo:
Từ đức Phật Oai Âm Vương về trước tức được, từ Phật Oai Âm Vương về sau, không Thầy mà tự ngộ trọn là thiên nhiên ngoại đạo.
Huyền Giác nói:
Xin nhân giả vì tôi chứng minh.
Huyền Sách bảo:
Lời tôi nhẹ, ở Tào Khê có Lục Tổ đại sư bốn phương nhóm họp về đều là những người thọ pháp. Nếu ông chịu đi thì cùng tôi đồng đi.
Huyền Giác bèn đồng với Huyền Sách đến tham vấn.
Đoạn trên đây là câu chuyện đối đáp giữa ngài Huyền Giác và ngài Huyền Sách. Ngài Huyền Giác trình bày chỗ sở ngộ của mình, do đọc kinh Duy-ma-cật mà ngộ. Ngài Huyền Sách nói trước đức Phật Oai Âm Vương thì được, còn sau đức Phật Oai Âm Vương thì không được, không thầy mà tự ngộ là thiên nhiên ngoại đạo. Bởi vì theo kinh nói ở thế gian chúng ta, tức là thế giới Ta-bà này, đức Phật đầu tiên là Phật Oai Âm Vương, trước Ngài thì chưa có đức Phật nào hết. Nếu chưa có Phật, không thầy mà tự ngộ thì được, nếu có Phật rồi mà ngộ thì phải có thầy.
Đến đây chúng tôi muốn nói rộng hơn một chút. Hiện giờ tôi đang dạy thiền, có người công kích hỏi thầy tôi là ai? Theo lời ngài Huyền Sách, trước Phật Oai Âm Vương không thầy tự ngộ là được, còn sau Phật Oai Âm Vương không thầy tự ngộ, đó là thiên nhiên ngoại đạo. Như hiện giờ tôi đang truyền thiền mà không có thầy có phải là thiên nhiên ngoại đạo hay không? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời. Nếu căn cứ theo sự truyền thừa từ thầy đến trò thì đây là một khuyết điểm, còn nếu căn cứ trên những kinh luận hay ngữ lục v.v… thì lại khác. Đương thời ngài Huyền Giác có Lục Tổ, nếu ngộ rồi mà không đến với Tổ để ấn chứng đó là ngã mạn, vì bất cần hệ thống Phật pháp. Thời Lục Tổ hoặc về sau có những vị được kế thừa, ngộ đạo hẳn hoi, nếu biết mà không đến trình là phạm lỗi. Còn trường hợp chúng tôi hiện giờ, nếu muốn trình là phải trình cho ai? Không có ai để trình thì phải làm sao? Chùa nào cũng bảo niệm Phật hay trì chú, vì vậy chúng tôi không trình được với ai. Tất nhiên chúng tôi phải căn cứ vào kinh luận và ngữ lục của chư Tổ để làm chứng cứ. Chúng tôi hiện giờ hiểu mà không có thầy truyền riêng nên bị nghi ngờ, vì vậy khi nói Thiền chúng tôi phải lấy kinh, luận, sử của chư Phật chư Tổ làm chứng. Còn các vị trước đắc truyền có thầy, đâu cần giảng kinh, các đệ tử muốn hỏi gì cứ hỏi, các ngài dùng diệu thuật nhà thiền hoặc đánh, hoặc hét để chỉ dạy. Thành thử hoàn cảnh mỗi thời mỗi khác, nếu bắt phải có thầy ấn chứng là một đòi hỏi quá đáng, không thể thực hiện được. Hiểu như vậy rồi, mới thông cảm với chúng tôi.
Chúng tôi nương kinh luận mà ngộ, tất nhiên phải đem kinh luận làm bằng chứng để chỉ dạy cho người khỏi lầm lạc. Nếu không được truyền thừa, mà còn bỏ kinh bỏ luận để dạy Thiền tức thành ma thuyết, vì nói theo ý riêng của mình nên dễ lạc đường, đó là tai họa. Vì chúng tôi không được truyền cho nên đem kinh, luận, sử để giảng dạy, vì kinh luận sử là cái gương để soi đúng và sai, lấy kinh luận sử làm căn bản để giải các mối nghi ngờ.
Đến giai đoạn hai là ngài Huyền Giác tham vấn Lục Tổ.
Khi đến, Huyền Giác nhiễu Tổ ba vòng, chống tích trượng mà đứng. Tổ bảo:
Phàm là Sa-môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Đại đức từ phương nào đến, sanh đại ngã mạn?
Huyền Giác thưa:
Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng.
Tổ bảo:
Sao chẳng thể nhận cái vô sanh, liễu không mau ư?
Huyền Giác thưa:
Thể tức là vô sanh, liễu vốn không có mau.
Tổ bảo: Như thế, như thế!
Huyền Giác mới đầy đủ oai nghi lễ bái, trong chốc lát liền cáo từ. Tổ bảo:
Trở về chóng vậy?
Huyền Giác thưa:
Vốn tự không động, há có mau ư?
Tổ bảo: Ai biết chẳng động?
Huyền Giác thưa: Nhân giả tự sanh phân biệt.
Tổ bảo: Ông rất được cái ý vô sanh.
Huyền Giác thưa: Vô sanh há có ý sao?
Tổ bảo: Nếu không ý thì ai biết phân biệt?
Huyền Giác thưa: Phân biệt cũng không phải ý.
Tổ bảo: Lành thay! Hãy dừng lại một đêm.
Thời nhân gọi là Nhất túc giác. Sau Ngài có trước tác bộ Chứng Đạo Ca, thạnh hành ở đời. Thụy là Vô Tướng đại sư, người đương thời xưng là Chân Giác.
Đến giai đoạn này chúng ta sẽ lấy làm lạ, vì sao người đến hỏi đạo với Tổ, biết Tổ được truyền y bát mọi người đều quí kính, lại không chịu nghiêm chỉnh lễ bái? Ngài đi vòng giường thiền của Tổ rồi chống gậy đứng nghiễm nhiên có vẻ ngạo mạn. Tổ liền quở: “Phàm Sa-môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Đại đức từ phương nào đến mà sanh đại ngã mạn như vậy?” Ngài bèn thưa: “sanh tử là việc lớn, vô thường mau gấp”, như vậy có rảnh đâu mà phải đầy đủ lễ nghi. Vì phải giải quyết sanh tử, vô thường gấp lắm rồi, không còn thì giờ đâu mà hình thức lễ nghi nữa. Ngay lời nói đó Tổ liền bảo: “Tại sao không ngay đó mà thể nhận cái vô sanh đi, liễu chẳng mau chăng?” Ngài liền đáp: “Thể tức vô sanh, liễu không có mau.” Cái thể là vô sanh, còn liễu ngộ không có mau chậm, đó là Ngài bẻ lại ý của Tổ. Tổ liền khen: “Như thế, như thế!” Ngài Huyền Giác mới đầy đủ oai nghi lễ bái Tổ.
Người xưa đi hỏi đạo có những cái đặc biệt, vì gấp giải quyết sanh tử, nên không theo nghi thức. Đến khi giải quyết xong, mới đầy đủ oai nghi, lễ bái rồi cáo từ ra về. Tổ bảo: “như thế, như thế” là đã ấn chứng rồi, ngài Huyền Giác xin ra về. Tổ thấy Ngài ra về mau quá sợ không thấu đáo, nên bảo: “Sao trở về mau vậy?” Ngài liền bẻ: “Thể vốn tự không động, há có mau chậm.” Tổ liền gạn lại: “Ai biết chẳng động?” Ngài thưa: “Ngài tự sanh phân biệt.” Tổ nói: “Ông rất là được ý vô sanh.” Ngài bẻ lại Tổ: “Vô sanh có ý sao?” Tổ liền nói: “Không ý thì cái gì phân biệt?” Ngài liền trả lời: “Phân biệt cũng chẳng phải ý.” Câu này hay đáo để! Như trước đã nói, chúng tôi thấy tất cả quí vị mà không dụng ý gì hết, thấy nam biết nam, thấy nữ biết nữ, thấy cái nào rõ cái nấy mà không dụng ý, đó gọi là “phân biệt mà không phải ý”. Như vậy hằng ngày cái đó lồ lộ ở mắt tai đâu có giấu giếm. Tổ mới khen: “Lành thay, lành thay, hãy ở lại một đêm.” Thời nhân gọi là Nhất túc giác; nhất túc là một đêm, giác là giác ngộ, tức là ở lại một đêm mà được giác ngộ.
Thiền sư Trí Hoàng:
Thiền giả Trí Hoàng, ban đầu tham học nơi Ngũ Tổ, tự cho đã được chánh thọ (tức là chánh định), mới cất am ngồi thiền mãi, trải qua hai mươi năm. Đệ tử của Tổ là Huyền Sách du phương đến Hà Sóc nghe danh ngài Trí Hoàng, liền đến am hỏi:
Ông ở đây làm gì?
Trí Hoàng nói: Nhập định.
Huyền Sách hỏi:
Ông nói nhập định là có tâm nhập hay không tâm nhập? Nếu không tâm nhập thì tất cả vô tình cỏ cây ngói đá nên được định; nếu có tâm nhập thì tất cả loài hữu tình hàm thức cũng nên được định.
Ngài Huyền Sách đưa ra hai câu hỏi rồi tự Ngài khóa cửa luôn, như vậy biết làm sao trả lời! Có tâm nhập cũng không được, không tâm nhập cũng không được.
Trí Hoàng bảo:
Tôi chính khi nhập định chẳng thấy có cái có tâm và không tâm.
Huyền Sách nói:
Chẳng thấy có tâm và không tâm tức là thường định, sao lại (nói) có xuất nhập, nếu có xuất nhập tức là không phải Đại định.
Hoàng không trả lời được. Giây lâu mới hỏi:
Thầy kế thừa ai?
Huyền Sách nói: Thầy tôi là Lục Tổ ở Tào Khê.
Trí Hoàng hỏi: Lục Tổ lấy gì làm Thiền định?
Huyền Sách đáp:
Thầy tôi nói: Diệu trạm viên tịch, thể dụng như như, năm ấm vốn không, sáu trần chẳng phải có, chẳng ra chẳng vào, chẳng định chẳng loạn, tánh thiền không trụ, lìa trụ thiền tịch, tánh thiền không sanh, lìa sanh thiền tưởng, tâm như hư không cũng không có cái lượng của hư không.
Trí Hoàng nghe lời nói ấy bèn đi thẳng đến yết kiến Lục Tổ.
Ngài Trí Hoàng, sau khi ngài Huyền Sách chinh phục được rồi, đến tham vấn Lục Tổ.
Lục Tổ hỏi: Nhân giả từ đâu đến?
Trí Hoàng liền thuật lại đầy đủ duyên trước.
Lục Tổ bảo:
Thật như lời đã nói. Ông chỉ tâm như hư không mà chẳng có kiến chấp không, ứng dụng không ngăn ngại, động và tịnh đều không tâm, tình phàm Thánh đều quên, năng sở đều dứt, tánh tướng như như, không có lúc nào mà chẳng định.
Trí Hoàng ngay nơi đây liền đại ngộ, hai mươi năm đã được tâm, trọn không ảnh hưởng. Đêm ấy ở Hà Bắc, dân chúng nghe trong hư không có tiếng nói: “Thiền sư Hoàng ngày nay được đạo.” Trí Hoàng sau đó lễ từ trở về Hà Bắc, khai hóa bốn chúng.
Trong đoạn trên, ngài Trí Hoàng đến tham vấn Lục Tổ. Tổ không gạn hỏi nhiều, chỉ thẳng cho Ngài thấy cái chân thật. Tổ bảo: “ông chỉ tâm như hư không”, đó là giai đoạn đầu, tâm như hư không tức là bản lai vô nhất vật, mà chẳng chấp cái thấy không. Tuy tâm như hư không mà đừng bám vào cái không đó thì ứng dụng liền không ngăn trệ, động tịnh đều là vô tâm. Trong khi động tịnh đều như như, tình chấp phàm Thánh đều quên, năng sở đều bặt, khi đó tánh tướng như như, không có lúc nào chẳng phải định. Đây là Lục Tổ muốn chỉ thẳng chỗ chân thật là tâm, không dấy động, rỗng rang không còn mắc kẹt ở hai bên, tức là lúc nào cũng định. Vừa có niệm kẹt bên này bên kia là động, là mất định rồi. Ngài Trí Hoàng đã tu lâu năm, nên khi được Tổ chỉ thẳng liền đại ngộ.
Có vị Tăng hỏi Tổ:
Ý chỉ Huỳnh Mai người nào được?
Tổ đáp: Người hiểu Phật pháp được!
Tăng thưa: Hòa thượng lại được chăng?
Tổ bảo: Ta chẳng hiểu Phật pháp.
Vì sao Tổ lại phủ nhận như vậy? Ý chỉ Huỳnh Mai tức là ý chỉ Ngũ Tổ, người nào được? Lục Tổ là người được truyền y mà Ngài không nói vậy, chỉ trả lời: Người nào hiểu Phật pháp thì được. Tăng lại hỏi: Hòa thượng hiểu hay không? Được hay không? Tổ đáp: Ta chẳng hiểu Phật pháp. Tại sao Tổ lại đáp như vậy, có phải là Ngài chối bỏ chỗ truyền y của Ngũ Tổ hay không? Chúng ta nên nhớ trong kinh Kim Cang đức Phật nói: “Nếu ta thấy có pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì Phật Nhiên Đăng không thọ ký cho ta thành Phật.” Vừa thấy có pháp để được, đó là không được. Còn ở đây vừa khởi hiểu thì không phải là người được truyền y, vừa dấy niệm hiểu là đã sai rồi, bởi vì chỗ đó cho mình nhận mà không cho mình hiểu. Cho nên Tổ nói Ta không hiểu Phật pháp.
Một hôm Tổ muốn giặt lá y đã được truyền trao nhưng không có suối tốt để giặt, nhân Ngài đến sau chùa khoảng năm dặm, thấy trên núi cây cối um tùm, khí tốt xoay quanh, Ngài liền cắm cây tích trượng sâu xuống đất, nước liền phún lên theo tay Ngài, chứa lại thành cái ao, Ngài liền quì gối giặt y trên đá. Chợt có một vị Tăng đến lễ bái thưa rằng:
Phương Biện là người Tây Thục, vừa rồi ở nước Nam Thiên Trúc, thấy ngài Đạt-ma đại sư dạy Phương Biện phải chóng đến nước Đường là nơi tôi truyền Chánh pháp nhãn tạng và y tăng-già-lê của Tổ Ca-diếp, thấy truyền đến đời thứ sáu nơi Thiều Châu ở Tào Khê, ông nên đến đó chiêm lễ. Phương Biện từ xa đến, cúi mong được thấy y bát đã được truyền.
Tổ bèn đưa ra cho ông xem, liền hỏi:
Thượng nhân làm nghề gì?
Phương Biện đáp: Chuyên nghề đắp tượng.
Tổ nghiêm sắc mặt lại bảo: Ông thử đắp xem.
Phương Biện mờ mịt không biết. Qua mấy ngày, ông đắp được tượng của Tổ, cao bảy tấc, rất đẹp đẽ.
Tổ cười, bảo:
Ông chỉ giỏi tánh đắp mà chẳng giỏi tánh Phật.
Tổ đưa tay xoa đầu Phương Biện nói:
Ông hằng vì người, trời làm phước điền.
Như vậy khi Tổ nghiêm sắc mặt bảo: “ông thử đắp xem”, lý đáng Phương Biện phải thấy được cái gì Tổ muốn chỉ, đó là đúng ông nhận được Phật tánh; nhưng ông không biết, về nhà chỉ nhớ hình Tổ, ông đắp thành tượng, cho nên Tổ bảo: “ông chỉ giỏi tánh đắp, mà chẳng giỏi tánh Phật”.
Tổ liền lấy y đền công, Phương Biện lấy y chia làm ba phần: một phần đắp vào tượng, một phần thì ông lưu lại, còn một phần thì gói chôn xuống đất, thề rằng: “Sau này, người nào đào được y này là tôi tái sanh để trụ trì nơi đây dựng lập lại chùa chiền.”
(Đến đời Tống, niên hiệu Gia Hựu năm thứ tám, có vị Tăng tên là Duy Tiên, khi sửa chùa, đào đất được y như mới, còn tượng của Phương Biện đắp thì để ở chùa Cao Tuyền, cúng kính cầu nguyện đều được như ý.)
Có vị Tăng đọc bài kệ của Thiền sư Ngọa Luân rằng:
Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng,
Năng đoạn bách tư tưởng.
Đối cảnh tâm bất khởi,
Bồ-đề nhật nhật trưởng.
Tổ nghe qua liền nói:
Bài kệ này chưa rõ được tâm địa, nếu y đây mà tu, ấy là thêm trói buộc.
Nhân đó Tổ nói một bài kệ:
Huệ Năng một kỹ lưỡng,
Bất đoạn bách tư tưởng,
Đối cảnh tâm sổ khởi,
Bồ-đề tác ma trưởng.
Đối chiếu hai bài kệ trên, chúng ta thấy chỗ thâm sâu khác nhau, nếu không khéo thì không làm sao thấy được. Bài kệ trước của ngài Ngọa Luân thật ra không phải dở, đối với chúng ta Ngài rất giỏi, Ngài có khả năng dẹp hết tư tưởng. Nhưng “hay đoạn trăm tư tưởng”, đó là bệnh, tại sao? Vì còn thấy tư tưởng là thật để đoạn; như vậy năng sở rõ ràng; tư tưởng là cái bị đoạn, Ngài là hay đoạn, có năng có sở là có hai rồi, đó là cái bệnh thứ nhất. Đến cái bệnh thứ hai là “Bồ-đề càng ngày càng lớn”. Nói lớn nhỏ là còn hình tướng, đó là bệnh rồi, vì còn kẹt trên hình thức. Cho nên Tổ nói nếu tu mà kẹt trên hình thức là bị trói buộc. Đây thật là tế nhị, mới nghe qua bài kệ thấy dường như thật hay, nhưng xét kỹ một chút thì thấy bệnh, cho nên khi đọc bài kệ bài thơ, mình biết trình độ người làm thơ đang đến đâu.
Đến bài kệ của Tổ: Huệ Năng không có tài nghệ gì hết, cũng chẳng đoạn trăm tư tưởng, vì tư tưởng có thật đâu mà đoạn! Tư tưởng là hư giả như khói như mây, biết nó hư giả là nó hết, có gì mà đoạn. Đó là không còn năng sở, tức đâu còn hai thứ đối đãi. “Đối cảnh tâm thường khởi”, tại sao? Nếu thấy cảnh thật thì tâm mới thật, nếu biết cảnh giả tâm giả, cả hai đều giả dối thì không thành vấn đề, cho nên không thành bệnh. “Bồ-đề làm gì lớn”: Bồ-đề là thể không sanh không diệt, không tướng mạo, nói gì có lớn nhỏ! Khi thấy đến tột cùng thì chỗ nói mới tột cùng. Khi chưa thấy tột cùng, thì bài kệ của ngài Ngọa Luân dường như hay mà sự thật Ngài đang chết chìm trong chỗ đè cho nó lặng, chớ chưa thấy được Thật thể. Nếu nói “Bồ-đề càng ngày càng lớn” là còn hình tướng, tức chưa phải thật sự đạt đạo vậy.