Thông tin sách

Chân Tâm Trực Thuyết

Chân Tâm Trực Thuyết

 Thể loại:

Luận và Ngữ lục

  Nguồn:

Thiền phái Trúc Lâm

 Tình trạng:

Hoàn thành 2 Chương
Đánh giá: 10 /10 từ 0 lượt

THIỀN SƯ PHỔ CHIẾU

Ngài Phổ Chiếu là bậc tôn túc của Phật giáo và cũng là thỉ tổ Thiền tông ở Triều Tiên vào Triều Lý. Phật giáo Triều Tiên khoảng trung diệp triều Lý có thể nói là thời đại hoàng kim. Hàng thượng lưu thì xu hướng Giáo Quán của ngài Đại Giác. Dân gian thì xu hướng theo pháp Định Tuệ gồm tu do sự dẫn dắt của Thiền sư Phổ Chiếu. Hai vị này được xem là hai đại lương đống của Phật giáo Cao Ly.

Hai quyển CHÂN TÂM TRỰC THUYẾT và TU TÂM QUYẾT này chẳng qua chỉ là hai tác phẩm nhỏ do ngài Phổ Chiếu trước tác. Tuy nhỏ nhưng rất có giá trị và được kết tập vào Đại Tạng Kinh.

Về Thiền tông Ngài chủ trương: Định tức Huệ, Huệ tức Định. Nhưng đặt biệt chú mục nơi Định Huệ gồm tu.

Ngài Phổ Chiếu huý là Trí Nột, họ Trinh, hiệu Mục Ngưu Tử. Quê Ngài ở Động Châu, Kinh Tây (ngày nay là quận Thụy Hưng, Hoàng Hải Đạo). Ngài sanh vào năm thứ 17 đời vua Nghị Tông Cao Ly. Thuở nhỏ, Ngài rất nhiều bệnh hoạn. Cha là ông Quang Ngộ thường đi chùa cầu cho Ngài hết bệnh. Tám tuổi Ngài được Thiền sư Huy thuộc Tào Khê tông thế độ. Tuy là Ngài được ở với thầy thường, nhưng chí khí Ngài cao xa vượt chúng. Hai mươi lăm tuổi Ngài được tuyển làm tăng. Rồi sau đó Ngài đi về phương Nam đến Xương Bình ở tại chùa Thanh Nguyên.

Một hôm, nơi phòng học Ngài đọc Lục Tổ Đàn Kinh ngộ được “thể dụng của Chân như tức là Định Huệ”. Do đó Ngài bỏ hết ý niệm danh lợi, ưa thích ở rừng núi u nhã.

Đời vua Minh Tông năm thứ mười lăm, Ngài đi xuống vùng núi Kha Sơn ngụ tại chùa Phổ Môn để nghiên cứu Đại Tạng. Năm thứ hai mươi bảy Ngài ẩn cư tại Vô Trụ Am, ở Trí Dị Sơn (nay là Khánh Thượng, Nam Đạo). Nơi đây cảnh trí u tịch thật là phải cảnh tu Thiền. Một hôm, Ngài đọc Hoa Nghiêm Luận của Lý Thông Huyền, Ngài biết yếu chỉ viên đốn của giáo lý Hoa Nghiêm cùng yếu chỉ Thiền tông quyết không trái nhau. Lại đọc Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự của ngài Khuê Phong, cùng ngữ lục của ngài Đại Huệ, Ngài bỗng nhiên khế hội, xác chứng rằng Định Huệ không thể thiên phê.

Niên hiệu Thần Tông năm thứ ba, Ngài dời về chùa Kiết Tường ở Tùng Quảng Sơn, tu Thiền đàm đạo mười một năm và chuyên an cư trong luật của Phật. Ngài thường khuyên người tụng kinh Kim Cang. Ngài còn giảng Lục Tổ Đàn Kinh, Đại Huệ Ngữ Lục để phát huy tông yếu. Sau đó Thiền học được hưng khởi, người tham học càng ngày càng đông. Ngài lấy Định Huệ gồm tu, tổng hợp Hoa Nghiêm, Thiên Thai và Thiền tông, nhưng trong ấy Ngài đặc biệt làm sáng tỏ Thiền tông.

Ngài còn xây dựng Bạch Vân tinh xá và Tích Thúy am ở núi Bảo Sơn, Khuê Phong lan nhã và Tổ Nguyệt am ở Thụy Thạch Sơn làm chỗ vãng lai tu Thiền. Nhà vua rất kính trọng đức hạnh của Ngài và đổi hiệu núi Ngài ở là Tào Khê Sơn Tu Thiền Xã. Lại còn tự đề bảng để ban cho. Ngài còn lập Định Huệ Xã và tuyển Định Huệ Kiết Xã Văn.

Vào tháng hai đời vua Hy Tông năm thứ sáu Ngài bỗng nói với xã chúng rằng: “Ta còn trụ thế chẳng bao lâu nữa, các người phải nỗ lực”. Ngày 20 tháng 3 hiện có chút bệnh, đến ngày 27, Ngài mặc y hậu vào pháp đường, chúc hương thăng tòa, vấn đáp xong, Ngài ngồi dang chân ra bỗng nhiên thị tịch.

Nhà vua nghe tin, ban thụy hiệu là Phật Nhật Phổ Chiếu Quốc Sư. Tháp hiệu là Cam Lộ. Ngài hưởng thọ 53 tuổi, tuổi đạo được 36 hạ. Trước tác của Ngài ngoài hai tác phẩm này còn “Khuyến Tu Định Huệ Kiết Xã Văn”, “Khán Thoại Quyết Nghi Luận”, “Viên Đốn Thành Phật Luận”. Ngoài ra còn “Chú Thích Đại Huệ Thiền sư Thơ”, “Phê Bình Khuê Phong Thiền Sư” v.v…


Bình luận