Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc tại nước Xá Vệ cùng các đại chúng: năm trăm Thanh Văn , mười ngàn Bồ Tát cung khính vây quanh. .
Bấy giờ trong thành Xá Vệ có một Bồ Tát tên Thiện Thuận, đã ở nơi vô lượng Phật quá khứ trồng các thiện căn kính thờ cúng dường được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, an trụ đại từ lòng chẳng giận hờn, an trụ đại bi rộng cứu không mỏi, an trụ đại hỉ lành an pháp giới, an trụ đại xả khổ vui bình đẳng, tiết lượng ăn đúng giờ, ít muốn đủ, thường được chúng sanh ưa thấy, luôn ngũ giới và bát giới trai ở trong thành ấy thương xót gióa hóa sau đó lại khuyến hóa mọi người hành bố thí trì giới nhẫn nhục tinh tiến thiền định trí huệ từ bi hì xả phạm hạnh thanh tịnh.
Bấy giờ Thiện Thuận Bồ Tát vì khiến chúng sanh thấy Phật nghe pháp nên cùng đại chúng sau trước dây quanh sắp đi đến chỗ đức Phật.
Thiên Ðế Thích dùng thiên nhãn thấy Thiện Thuận Bồ Tát thường tinh tiến hành đầu đà đủ tịnh giới tế độ vững chắc, Thiên Ðế nghĩ rằng nay Bồ Tát Thiện Thuận ấy ở nơi phạm hạnh chẳng hề biếng trễ, phải chăng là vì cầu ngôi Ðế Thích hay muốn làm vua và hưởng dục lạc? Nghĩ như vậy rồi Thiên Ðế hóa làm bốn người trai tráng đến trước Thiện Thuận Bồ Tát nói lời xấu ác mắng nhiếc lại dùng dao gậy chém đập và ngói đá ném chọi Bồ Tát. Thiện Thuận Bồ Tát an trụ sức từ nhẫn đều chịu đựng những sự gia hại ấy không hề giận hờn. Thiên Ðế lại hóa làm bốn người trai tráng khác đến bão Bồ Tát *Ôi thưa Ngài Thiện Thuận! Bọn người ác kia đánh mắng Ngài thậm tệ nếu Ngài bão chúng tôi báo thù cho Ngài thì chúng tôi sẽ vì ngài mà giết chết bọn ác ấy *Thiện Thuận Bồ Tát liền nói với bốn trai tráng ấy rằng: *Nầy các thiện nam tử! Các anh chớ nói như vậy, nếu giết hại thì thành ác nghiệp. Dầu cho có người đến chém nát thân thể tôi như lá táo tôi trọn chẳng sanh lòng giận thù giết hại. Tại sao?Vì kẻ giết hại bị đọa địa ngục ngạ quỉ súc sanh cho đến dầu được thân người họ cũng chẳng yêu thương cha mẹ đẻ của họ, thường được mọi người ghét bỏ. Nầy thiện nam tử! tất cả pháp phàm có hai loại thiện và bất thiện. Do pháp bất thiện mà thọ ác đạo. Nếu y theo pháp thiện thì được pháp lợi *.
Muốn tuyên lại nghiã ấy Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ rằng:
Thiện ác như gieo trồng
Ðều theo nghiệp mà sanh
Nào có hột giống đắng
Mà có trái chín ngọt
Hiện thấy pháp như vậy
Người trí phải suy xét
Khổ báo đền ác nghiệp
Làm lành thường an vui *
Bị từ chối bọn người nầy liền bỏ đi.
Bấy giời Thiên Ðế lại hóa ra khối châu báu vàng bạc rồi sai các trai tráng đến nói với Bồ Tát ấy rằng Ngài có thề phương tiện lấy của báo ấy tùy ý tiêu dùng. Thiện Thuận Bồ Tát bảo rằng: Các anh nhớ nói như vậy. Tại sao? Vì nghiệp trộm cắp hay khiến chúng sanh nghèo cùng hạ tiện không chỗ nương tựa. Dầu tôi có nghèo đến không đủ sống cũng trọn chẳng trộm cắp. Kẻ phàm phu ngu mê tham cầu trộm cắp. Nào có người trí lại làm nghiệp ác ấy *
Bồ Tát nói kệ rằng:
*Chứa của đến ngàn ức
Lòng tham lam chẳng xà
Người trí nói người ấy
Thường nghèo khổ ở đời
Người dầu không một vật
Mà lòng luôn xả ly
Người trí nói kẻ ấy
Ở đời rất giàu sang
Người trí lìa các ác
Tất cả đều đoan nghiêm
Người ngu do tạo nghiệp
Toàn thân đều thô xấu
Người trí khuyên làm lành
Người ngu luôn làm ác
Thà bị người trí mắng
Chẳng cần người ngu khen *.
Nghe Bồ Tát nói như vậy các người ấy liền bỏ đi.
Thiên Ðế lại tự thân đến chỗ Bồ Tát tay cầm trăm ngàn lượng vàng bão rằng: Vừa rồi ở trước vua Ba Tư Nặc trong thành xá vệ tôi cùng người tranh luận cần có một người làm chứng, nếu Ngài có thể làm chứng nhơn cho tôi thì tôi xin tặng cả số vàng nầy *.
Thiện Thuận Bố Tát nói với Thiên Ðế: Ngày nên biết rằng phàm vọng ngữ là nghiêp bất thiện, đã tự dối mình còn dối cả Thiên Long Bát Bộ. Vọng ngữ còn có thể làm gốc cho tất cả điều ác cảm lấy ác báo: Hư tịnh giới, hoại sắc thân, hơi miệng hôi thúi, lời nói ra bị nguèời coi rẻ *.
Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ rằng:
*Người phạm vọng ngữ
Hơi miệng thường hôi
Vào ác đạo khổ
Không ai cứu được
Phàm ngừời vọng ngữ
Tự dối lấy mình
Cũng phỉnh Thiên Long
Bát Bộ Quỉ Thần
Nên biết vọng ngữ
Làm gốc nhữ ác
Phá giới thanh tịnh
Chết đọa tam đồ
Dầu ông cho tôi
Vàng đầy diêm phù
Tôi trọn chẳng thể
Làm người vọng ngữ *.
Nghe những lời trên Thiên Ðế bỏ đi rồi lại sai Xá Chi phu nhơn Nhựt Quang Phu nhơn và Ngũ Kế các phu nhơn lại đến chỗ Thiện Thuận Bồ Tát thử phá tịnh giới của Bồ Tát ấy. Chư phu nhơn cùng năm trăm thanh nữ ướp hương đeo hoa đêm khuya ấy đến trước Bồ Tát nói rằng: *Chúng nữ nhơn tôi thanh niên sắc đẹp tình nguyện hầu dưới gối cùng ông hoan lạc. Thiện Thuận Bồ Tát dùng mắt vô nhiễm quan sát chúng nữ nhơn mà bão họ rằng: Những kẽ cuồng loạn những kẻ tà dâm ở địa ngục xúc sanh ngạ quỉ say đắm hôi dơ mủ máu bất tịnh các la sát hung ác là thân hữu của các người chớ chẳng phải quyến thuộc của chư Thiên thanh tịnh.
Thiện thuận Bồ Tát nói kệ rằng:
*Người ngu hôn mê nhớ bất tịnh
Nhiễm trước thân mũ máu hôi dơ
Dục lạc mau hết đều vô thường
Ðọa mãi địa ngục súc ngã quỉ
Dầu có biến hóa như các người
Thân hình xinh đẹp đầy thế gian
Ta trọn không sanh một niệm nhiễm
Thường tưởng như mộng như oán thù *.
Các phu nhơn Xá chi v. v…dầu dùng hết cách quyến rũ mà Bồ Tát ấy không hề tham nhiễm nên cùng trở về thiên cung thưa với Thiên Ðế rằng: Chúng tôi thấy THiện thuận chí nguyện vững chắc sẽ thành Chánh giác không nghi. Tại sao? Vì Bồ Tát ấy đối với chúng tôi không có chút niệm tham ái chỉ có tâm yểm ly. Dầu nghe nói như vậy nhưng Thiên Ðế vẫn lo buồn như trúng tên độc sợ người ấy sẽ đoạt ngôi vị của mình, ta nên đến thử lại coi, ông thấy thiệt nguyện cầu sự gì? Nghĩ xong Thiên Ðế đến trước Bồ Tát ấy bỏ kiêu mạn đảnh lễ nơi chưn rồi nói kệ hỏi rằng:
Nay Ngài siêng tu hạnh thanh tịnh
Trong các ước nguyện cầu những gì
Là cầu Thích Phạm các Thiên Vương
Hay cầu các ngôi vua ba cõi *
Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ đáp Thiên Ðế:
*Tôi xem Thích Phạm các Thiên Vương
Ngôi vua loài người báo ba cõi
Tất cả vô thường không vững chắc
Thiên đế lại hỏi *Như lời Ngài nói thì Ngài cầu sự gì? ».
Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ đáp Thiên Ðế:
« Tôi vốn chẳng tham vui thế gian
Chỉ cầu được thân bất sanh diệt
Siêng tu phương tiện cứu quấn sanh
Nguyện cầu lên kia đường Bồ Ðề ».
Nghe kệ xong lòng Thiên Ðế an vui biết chắc Bồ Tát chẳng cầu ngôi Thiên Ðế, vui mừng hớn hở nói kệ rằng:
«Ngài nói tế độ các chúng sanh
Tâm ấy rộng lớn không vì bằng
Nguyện phá ma quân chứng cam lộ
Do đó hằng chuyễn diệu pháp luân »
Nói kệ tán thán xong, Thiên Ðế cung kính đi nhiễu vòng quanh lạy chưng Bồ Tát rồi bỗng ẩn mất.
Sáng sớm Thiện Thuận Bồ Tát vào Thành Xá Vệ du hóa qua lại được cái linh bằng vàng Diêm phù thưở kiếp sơ. Cái linh vàng ấy giá trị hơn cõi Diêm Phù. Bồ Tát cầm linh vàng ất đứng lại ngã tư đường to tiếng xướng rằng: « Ai là người nghèo cùng nhất nơi thành Xá Vệ tôi sẽ thí cho cái linh vàng nầy ».
Bấy giờ có vị tối thắng lão cựu trưởng giả vội chạy đến nói trong thành nầy tôi là kẻ nghèo cùng nhứt xin thí cho tôi cái linh ấy. Bồ Tát nói ông chẳng phải người nghèo cùng, vì trong thành nầy còn có một thiện nam nghèo nhứt trong các người nghèo sẽ được thí cho cái linh nầy. Trưởng giả hỏi người đó là ai vậy. Bồ Tát đáp chính là vua Ba Tư Nặc. Trưởng giả nói « Vua Ba Tư Nặc giàu sang nhứt kho tàng đầy dẫy dùng không cùng tận sao ông lại bão là nghèo nhứt trong các kẻ nghèo ».
Ở giữa đại chúng Thiện Thuận Bồ Tát nói kệ đáp rằng:
« Dầu có phục tàng ngoài ngàn ức
Do lòng tham ái không chán đủ
Dường như biển cả nuốt trăm sông
Người ngu như vậy nghèo cùng nhứt
Do đó lại khiến thêm lòng tham
Xoay vần lan tràn nối nhau sanh
Trong đời hiện tại và vị lai
Người vô trí ấy thường nghèo thiếu ».
Nói kệ xong Thiện Thuận Bồ Tát cùng đại chúng đi Ðến chỗ vua Ba Tư Nặc. Nhằm lúc nhà vua ấy với năm trăm trưởng giả đại thần tính lường các kho tàng của báu. Bồ Tát liền đến trước nhà vua tâu rằng: « Vừa rồi tôi qua lại du hóa trong thành nầy được cái linh vàng Diêm Phù từ kiếp sơ giá trị hơn cả châu Diêm Phù. Tôi muốn đem linh nầy thí cho ngừời nghèo nhứt trong thành đây. Tôi lại nghĩ rằng người nghèo cùng không ai hơn nhà vua, nên tôi đem cái linh vàng nầy đến dâng. Nhà vua đã là người nghèo cùng nhứt xin nhận lấy cái linh vàng nầy ».
Tâu xong Thiện Thuận Bồ Tát lại nói kệ rằng:
« Nếu người nhiều tham cầu
chứa của không chán đủ
Người cuồn loạn như vậy
Gọi là nghèo cùng nhất
Vua luôn thâu thuế nhiều
Phạt ngang kẻ vô tội
Tham mến nơi quốc thành
Chẳng thấy nghiệp đời sau
Ở đời được tự tại
Chẳng giúp đỡ chúng sanh
Thấy các người nghèo khổ
Không hề biết thương xót
Say mê các nữ nhơn
Chẳng sợ đọa ác đạo
Tà loạn chưa từng tỉnh
Há chẳng phải nghèo cùng
Nếu ngừời biết tịnh tín
Quy y Phật Pháp Tăng
Nơi thân mạng của cải
Thường nghĩ là chẳng bền
Biết là chẳng bền rồi
Chẳng mê hoặc thân của
Nên được thân mạng tài
Vĩnh viễn thường vững chắc
Nếu siêng tu niệm xứ
Ưa thích bất phóng dật
Người nầy gọi là giàu
Của nhiều thường an vui
Như lúc lửa cháy hừng
Chẳng chê nhàm rừng cây
Nay vua cũng như vậy
Tham ái không chán đủ
Nước chẳng chán mây mù
Biển chẳng chán nhiều nước
Nhà vua cũng như vậy
Có lúc nào chán đủ
Nhựt nguyệt thường luân chuyển
Chẳng chán đi bốn phương
Nhà vua cũng như vậy
Ðến chết không thôi dứt
Như lúc lửa cháy lên
Chẳng chán bỏ cỏ cây
Người trí cũng như vậy
Luôn luôn làm điều lành
Như nuớc chẳng chán mây
Như biển chẳng chán nước
Người trí cũng như vậy
Chẳng chán tăng trưởng lành
Ngôi vua dù tự tại
Rốt ráo về vô thường
Tất cả đều bất tịnh
Người trí nên xả ly».
Nghe xong nhà vua hổ thẹn bảo Bồ Tát rằng: «Lành thay, thưa Ngài, dầu Ngài khuyên điều lành mà tôi còn chưa tin. Theo những điều Ngài vừa nói đó là Ngài tự nói hay có người chứng minh ».
Thiện Thuận Bồ Tát nói: «Nhà vua chẳng nghe ư? Ðức Như Lai Ứng Ðẳng Chánh Giác Nhứt thiết trí nay hiện ở ngoài thành Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc cùng vô lượng Thiện Nhơn Bát Bộ sẽ chứng minh Ðại Vương là người nghèo cùng ».
Vua Ba Tư Nặc nói: «Tôi xin cùng Ngài đến chỗ đức Phật để được nghe lời răn dạy và quy y cúng dường ».
Thiện Thuận Bồ Tát nói với vua rằng: « Ðại Vương nên biết cảnh giới Phật chẳng phải hàng phàm ngu lường biết được. Ðức Phật đã phá phiền não mạn thương xót chúng sanh thành tựu thánh trí hay biết rõ đời nay và đời sau. Nếu người có ý nguyện thiện căn thù thắng thì dù ở rất xa đức Phật cũng thường gia họ. Nếu đức PHật biết lòng tôi muốn được Ðại Vương tin nơi lời tôi, đức Phậtr sẽ đến đây tác chứng cho tôi. ».
Bồ Tát liền trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính nói kệ thỉnh Phật:
Như Lai chơn thiệt trí
Thương yêu các quần sanh
Nguyện biết thâm tâm tôi
Ðoái thương đến tác chúng ».
Lúc Bồ Tát tuyên kệ thỉnh xong đại địa bỗng rung động nứt ra, năm trăm Thanh Văn mười ngàn Bồ Tát Thiên Long Bát Bộ đoanh vây đức Như Lai từ đất vọt lên. Thiện Thuận Bồ Tát đến trước đứ Phật chấp tai cung kính bạch rằng: «Bạch đức Thế Tôn! Vừa rồi tôi đi vu hóa trong thành Xá Vệ nầy được cái linh vàng Diêm Phù từ kiếp sơ giá trị hơn cả châu Diêm Phù. Tôi muốn đem linh nầy thí cho người nghèo cùng nhứt trong thành Xá Vệ. Tôi lại nghĩ rằng vua Ba Tư Nặc là người nghèo cùng nhứt trong thành nầy. Tại sao? Vì cậy ngôi vua nên đối với các chúng sanh chưa từng thương xót, tàn hại bóc lột cướp đoạt xâm tổn ngang của người, bị tham ái che lấp chẳng biết chán đủ. Tôi cho nhà vua là người nghèo cùng nhứt nên đem linh vàng dâng lên vua. Nhà vua ấy hỏi tôi ông bảo tôi nghèo có ai chứng minh chăng? Tôi đáp rằng đức Như Lai Ðại Sư Ứng Cúng Ðẳng Chánh Giác dứt bỏ phiền não không còn sót thừa bình đẳng thương yêu chúng sanh sẽ chứng minh lời của tôi. Ngưỡng mong đức Thế Tôn dạy bảo cho được lợi ích vui mừng ».
Vì muốn điều phục nên đức Phật nói với vua Ba Tư Nặc rằng: «Hoạc có ở nơi pháp Thiện Thuận nghèo cùng còn vua thì giàu sang, hoặc có ở nơi pháp vua nghèo cùng mà Thiện Thuận thì giàu sang. Như thân lên ngôi vua tự tại vàng bạc châu báu kho tàng đầy dẫy, bây giời vua giàu sang mà Thiện Thuận thì nghèo cùng. Như siêng tu phạm hạnh thích tịnh giới xuất gia đa văn lìa phóng dật đem ngũ giới bát trai cứu tế không mỏi thì vua thiệt nghèo cùng mà Thiện Thuận thì giàu sang.
Ðại Vương nên biết rằng tất cả tài vật của tất cả chúng sanh trong nước Kiều Tát La đem so với ngũ giới bát trai của Thiện Thuận thọ trì kiên cố thanh tịnh không bằng một phần trăm ngàn.
Vua Ba Tư Nặc nghe lời dạy chơn thiệt của Dức Như Lai liền bỏ kiêu mạng chắp tay ân cần chiêm ngưỡng Thiện Thuận mà kệ rằng:
Lành thay xô dẹp ngã mạn tôi
Sẽ được thân Phập rất tối thắng
Tôi đem ngôi vua xả cho ngài
Nguyện hằng làm chúng Bồ Ðề ngài
Thiệt tôi nghèo cùng Ngài thì giàu
Nay biết lời nầy chẳng phải dối
Ngôi vua luống làm nhơn gây khổ
Trái với pháp lành sanh ác đạo ».
Nói kệ xong vua Ba Tư Nặc bạch Phật rằng: «Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Vô thượng đại Bồ đề nguyện cho chúng sanh an lạc giải thoát sanh tử trói buộc. Nay tôi nguyện đem kho tàng vàng bạc tài vật chia làm ba phần: Một phần cúng dướng đức Như Lai và chúng Tỳ Kheo, một phần thí cho người nghèo cùng khổ não không nơi nương tựa trong thành Xá Vệ, một phần tài vật lưu dụng việc nước. Tất cả vườn ao hoa qủa của tôi đều nguyện dâng lên Ðức Như Lai và chùng Tỳ Kheo. Mong đức NHư Lai đoái thương nạm thọ ».
Bấy giờ năm trăm trưởng giả nước Kiều Tát La thấy sự việc như vậy đều phát tâm Vô thượng Bồ Ðề.
Thiện Thuận Bồ Tát bạch Phật: «Ngửa mông đức Thế Tôn vì hàng đại chúng nói pháp yếu, khiến các chúng sanh những người được gặp Phật không luống uổng ».
Ðức Phật phán dạy: «Các thiện nam tử! Có ba tư lương vô lượng công đức dầu chư Như Lai có tuyên nói cũng chẳng hết được, huống là hàng Thanh Văn Duyên Giác. Những gì là ba tư lương? Một là hộ trì chánh pháp, hai là phát tâm Bồ Ðề, ba là khuyên các chúng sanh khởi nguyện vô thượng.
Lại có ba mươi hai pháp, nếu các thiện nam tử thiện nữ nhơn có thể siêng tu tập thì ta chẳng luống uổng thấy đức Như Lai. Những gì là ba mươi hai pháp? Một là ở nơi chư Phật sanh lòng tin bất hoại, hai là hộ trì chánh pháp cho còn lâu, ba là đối Tăng tôn trọng thì chẳng khing mạn, bốn là đối với người ứng cúng thì cung khính thân cận, năm là nơi thương nơi ghét tâm thường bình đẳng, sáu là hằng đối với chánh pháp thích nghe cung kính, bảy là an trụ vắng vẻ rời lìa ồn ào, tám là nơi Phật thừa diễn nói không mỏi, chín là lúc thuyết pháp chẳng vì danh lợi, mười là chí cầu chơn thiệt đúng lý siêng tu, mười một là xả thí, mười hai là trì giới, mười ba là nhẫn nhục, mười bốn là tinh tiến, mười lăm là chánh định, mười sáu là chánh huệ, mười bảy là đối với chúng sanh tùy hỉ hộ niệm, mười tám là thành thục chúng sanh chẳng quên mất chánh pháp, mười chín là ở nơi tự thân khéo tự điều phục, hai mươi là dùng pháp yếu lành điều phục mọi người hai mươi mốt là chẳng nhiễm phiền não, hai mươi hai là thường thích xuất gia, hai mươi ba là ở a lan nhã, hai mươi bốn là biết đủ đối với bốn thánh chủng, hai mươi lăm là siêng tu đầu đà, hai mươi sáu là bỏ pháp bất thiện, hai mươi bảy là hoằng thệ vững chắc, hai mươi tám là vắng vẻ không giải đãi, hai mươi chín là trồng các gốc lành, ba mươi là thường chẳng phóng dật, ba mươi mốt là xa rời kiến chấp Nhị thừa, ba mươi hai là tán thán đại thừa ».
Nghe pháp nầy năm trăm Tỳ Kheo xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh và một vạn hai ngàn chúng sanh đồng phát tâm vô thượng Bồ Ðề.
Ðem pháp giáo hóa khiến các chúng sanh được thiện lợi xong, đức Thế Tôn cùng chư Tỳ Kheo và chúng Bồ Tát bỗng ẩn mất. Vua Ba Tư Nặc thấy sự ấy và vui mừng hớn hở liền đem hai cái y giá trị trăm ngàn lượng vàng thí cho Thiện Thuận Bồ Tát mà thưa rằng: «Lành thay thưa Ngài xin thương tôi mà nạp thọ ». Thiện Thuận Bồ Tát nói với vua rằng: «Tâu Ðại Vương! Tôi chẳng nên nhận hai cái y nầy. Tại sao? Vì tôi đã có y bá nạp hằng máng trên nhánh cây như là đựng trong rương tủ, tất cả mọi người không có ý tưởng trộm lấy. Tôi đã tự không lòng tham lẫn cũng làm cho người chẳng sanh lòng ái trước, có ai bố thí thì gọi là thanh tịnh bố thí ».
Vua Ba Tư Nặc lại nói nếu Ngài chẳng nhận thì xin vì tôi mà đạp lên hai y nầy, khiến tôi mãi mãi an lạc lợi ích.
Bồ Tát liền vì vua nên hai chưng đạp lên hai cái y ấy.
Vua Ba Tư Nặc lại bão Bồ Tát rằng:«Nay hai cái y ấy đã được chính thân Ngài vì tôi mà nhận rồi, tôi nên dùng nó làm việc gì?».
Thiện Thuận Bồ Tát nói với vua rằng: « Ðại Vương đem hai cái y nầy thí cho kẻ nghèo cùng không chỗ nương tựa trong thành ».
Vua Ba Tư Nặc y lời Bồ Tát hội hộp chúng người nghèo lại rồi đem hai cái y ấy thí cho họ. Các người nghèo chạm đến hai cái y ấy, người cuồng được tỉnh, người điếc được nghe, người mù được thấy, người thiếu căn được đủ căn, đó lá do sức oai thần của Bồ Tát vậy. Mọi người đồng lên tiến rằng: «Chúng tôi lấy gì báo ơn Bồ Tát! ». Trên hư không có tiếng bỏa rằng: Chúng nhơn nên biết đối với Thiện Thuận Bồ Tát chẳng thể dùng hoa hương ăn uống báo ơn được, chỉ phải mau phát tâm Bồ đề thôi.
Năm trăm người nghèo nghe tiếng nói trên không, họ liền nói kệ rằng:
Nay đây chúng tôi
Phát tâm Bồ Ðề
Sẽ thành chánh giác
Tuyên thuyết thắng pháp
Ở nơi chúng sanh
Ban cho an lạc
Tôi thích Bồ Ðề
Vì được Phật Pháp ».
Vua Ba Tư Nặc nói với Bồ Tát rằng: «Lành thay thưa Ngài, nếu laúc nào Ngài muốn đến gặp đức
Phật xin báo cho tôi biết tôi sẽ xin tùy tùng ».
Thiện Thuận Bồ Tát nói: « Ðại Vương nên biết chư Phật khó gặp chánh pháp khó nghe, há có riêng mình nhà vua đi đến chỗ đức Phật! Ðại Vương nên cùng chúng sanh làm thiện hữu. Ðại Vương nên truyền lịnh cho tất cả người thành Xá Vệ đếu tùy tùng, người nào trái lệnh thì dùng pháp luật trị phạt. Tại sao? Vì chư Bồ Tát còn có quyến thuộc đoanh vây huống là đại vương».
Vua Ba Tư Nặc hỏi: «Ai là quyến thuộc của Bồ Tát? ».
Thiện Thuận Bồ Tát đáp: «khuyên phát tâm Bồ Ðề là quyến thuộc của Bồ Tát vì là cho giác ngộ vậy khyên thấy đức Như Lai là quyến thuộc của Bồ Tát vì chẳng hư vọng vậy. Khuyên nghe chánh pháp là quyến thuộc cuả Bồ Tát vì được đa văn vậy. Khuyên thấy Thánh chúng là quyến thuộc của Bồ Tát vì được thiện hữu vậy. Tứ nhiếp là quyến thuộc cuả Bồ Tát vì nhiếp chúng sanh vậy. Sáu Ba La mật là quyến thuộc của Bồ Tát vì tăng trưởng Bồ đề vậy. Ba mươi phẩm trợ đạo là quyến thuộc của Bồ Tát vì hướng đạo tràng vậy. Bồ Tát có ngần ấy quyến thuộc trang nghiêm thị vệ hay dẹp quân ma đến sư tử hống lên tọa tối thắng vậy ».
Vua Ba Tư Nặc cùng đại chúng vui mừng hớn hở, chín ngàn chúng sanh lìa cấu phiền não được thanh tịnh nhãn.
Ðức Phật nói kinh nầy rồi, Thiện Thuận Bồ Tát, vua Ba Tư Nặc cùng hàng trời Người Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật nói hoan hỉ phụng hành.
Trang trước | Mục lục | Trang sau |