Nội dung:
Như vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở tại nước Ca Tỳ La Vệ rừng Ni Cư Đà, cùng với chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội. Tên các Ngài là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Gia Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, tất cả đều là đại A La Hán các lậu đã hết không còn phiền não, tâm tự tại, tâm thiện giải thoát, huệ thiện giải thoát, như đại long tượng, chỗ làm đã xong, đều bỏ gánh nặng đến được tự lợi hết các kiết sử ở trong chánh giáo tâm được thiện giải, nơi tất cả pháp tâm không chỗ ngại, đến nơi bờ kia, tự được giải thoát và giải thoát quyến thuộc, tự được điều phục và điều phục kiến thuộc, tự được tịch định và tịch định quyến thuộc, tự được độ thoát và độ thoát quyến thuộc, tự đến bờ kia và làm quyến thuộc đến bờ, tự đến lục địa và làm quyến thuộc đến lục địa, tự được an ổn và an ổn quyến thuộc, tự được tịch diệt và tịch diệt quyến thuộc, tự phá phiền não và phá phiền não cho quyến thuộc, tự được Sa Môn và Sa Môn quyến thuộc, tự được dứt ác và dứt ác quyến thuộc, tự được Bà La Môn và Bà La Môn quyến thuộc, tự trừ ác pháp và trừ ác pháp quyến thuộc, tự biết rõ các pháp và làm quyến thuộc biết rõ, tự mình đắc độ và hay đắc độ quyến thuộc, tự đủ các đức và làm quyến thuộc đủ các đức, tự không phiền não và làm không phiền não cho quyến thuộc, tự lìa năm chi và làm quyến thuộc lìa năm chi, tự được lìa chướng và làm quyến thuộc lìa chướng, tự được tịnh ý và làm quyến thuộc được tịnh ý, tự được lục thông và làm quyến thuộc đủ lục thông, tự lìa ghét yêu giải thoát và làm quyến thuộc lìa ghét yêu giải thoát, tự thủ hộ nhất tâm và làm quyến thuộc thủ hộ nhất tâm, tự niệm môn cụ túc và làm quyến thuộc niệm môn cụ túc, tự y tứ y và làm quyến thuộc y tứ y, tự rời lìa các kiến chấp và làm cho quyến thuộc lìa kiến chấp, tự bỏ các hi vọng và làm cho quyến thuộc bỏ hi vọng, tự được tận hành và làm cho quyến thuộc tận hành, tự được sự việc xong và làm cho quyến thuộc sự việc xong, tự tu và làm cho quyến thuộc tự tu, tự không trược niệm và làm cho quyến thuộc không trược niệm, tự đoạn dứt hữu giác và làm cho quyến thuộc đoạn hữu giác, tự nương thân hành và làm cho quyến thuộc nương thân hành, tự được thích bất động và làm cho quyến thuộc thích bất động, tự tâm thiện giải thoát và làm cho quyến thuộc tâm thiện giải thoát, tự huệ thiện giải thoát và làm cho quyến thuộc huệ thiện giải thoát, tự được hiền thánh và làm cho quyến thuộc được hiền thánh, các bực như vậy đượcc rời lìa nhánh lá trù bỏ da thứa, chỉ có tâm thiệt an trú mà an trụ.
Bấy giờ đức Thế Tôn vào lúc cuối đêm ngồi ngoài đất trống, chúng Tỳ Kheo vây quanh bốn mặt.
Đức Thế Tôn quan sát chúng Tỳ Kheo rồi bảo rằng : “Các ông dò tìm một người có thể đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương”.
Huệ Mạng A Nhã Kiều Trần Như đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay tác lễ rồi bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn!
Tôi đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương được chăng ?”.
Đức Phật nói : “Thôi, nầy Kiều Trần Như ! Nay ông đầy đủ đức của bực đại sư chẳng nên đến đó”.
Các Ngài Huệ Mạng Bà Sáp Mô, Gia Du Đà, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên đều lần lượt bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi có thể đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương”.
Đức Phật nói : “Thôi, các ông đều đầy đủ pháp tôn trọng của bực đại sư chẳng nên đến đó giáo hóa”.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên tự nghĩ nay đức Thế Tôn muốn ai đến giáo hóa Tịnh Phạn vương ? Nghĩ xong liền nhập như thiệt tam muội, dùng sức tam muội trang nghiêm tâm mình liền thấy được ý của Phật muốn Huệ Mạng Ca Lưu Đà Di đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương. Ví như trong cửa sổ lầu gác nhiều từng, ánh sáng mặt nhựt chiếu vào vách phía Tây, Đại Mục Kiền Liên thấy tâm của Phật chuyên ở Ca Lưu Đà Di muốn bảo đi giáo hóa phụ vương cũng như vậy.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên xuất định đến chỗ Tôn giả Ca Lưu Đà Di mà nói rằng : “Tâm niệm của Thế Tôn biết Ngài có thể giáo hóa Tịnh Phạn Vương, nay Ngài phát đại dũng mãnh mau đến giáo hóa”.
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : “Thứ dân còn khó giáo hóa huống là quốc vương. Tại sao ? Đại Vương dòng Sát Lợi Quán Đảnh có sức tự tại khó giáo hóa được. Ví như chứa họp củi khô hoặc hai năm ba năm đến ngàn năm, củi tích chứa lâu năm như vậy rất là khô ráo, bấy giờ có người phóng hỏa đốt thành ngọn lửa lớn. Thưa Ngài Đại Mục Kiền Liên ! Khối lửa ấy chừng có lớn chăng ?”.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : “Rất lớn”.
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : “Nếu lại có người đem vô lượng dầu tô tưới vào, khối lửa ấy có thêm thạnh chăng ?”.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : “Càng thạnh hơn gấp bội”.
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : “Có thể đến gần khối lửa ấy chăng?”.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : “Khó gần được”.
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : “Đại Vương dòng Sát Lợi Quán Đảnh ấy, khó có thể giáo hóa, khó đến gần cũng như vậy.
Thưa Ngài Đại Mục Kiền Liên ! Ví như ngà của voi cuồng có nên đụng chạm được chăng ?”.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : “Chẳng nên đụng chạm”.
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : “Đại Vương dòng Sát Lợi Quán Đảnh khó giáo hóa được cũng như vậy”.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : “Đức Thế Tôn tâm niệm biết Ngài có khả năng đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương vậy”.
Tôn giả Ca Lưu Đà Di nói : “Có thiệt đức Thế Tôn nghĩ rằng tôi có khả năng đến giáo hóa Tịnh Phạn Vương chăng ?”.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói : “Đức Thế Tôn thiệt nghĩ đến Ngài cho rằng Ngài có khả năng giáo hóa được Phụ Vương”.
Bấy giờ Ðức Thế Tôn bảo Ca Lưu Ðà Di rằng: “Ông nên vào thành giáo hóa Phụ Vương. Chỉ có Phật và ông là có thể giáo hóa được Tịnh Phạn Vương thôi.
Nầy Ca Lưu Đà Di ! Trong hàng Thanh Văn đệ tử Phật, ông là người có khả năng đệ nhứt về việc giáo hóa các ấp tụ lạc”.
Đức Thế Tôn liền nói kệ tụng bảo Ca Lưu Đà Di rằng :
“Lắng nghe Ưu Đà Di
Ông hay giáo hóa giỏi
Quyết khiến dòng Thích mừng
Đến hóa Tối Thắng Vương
Lúc vua được tỏ ngộ
Lợi ích hàng Trời Người
Quyết được đến bờ kia
Ông nên mau đến hóa
Tịnh Phạn Vương dòng Thích
Nay lòng hờn loạn trược
Niệm huệ chẳng hiện hành
Dường như té gộp cao
Luyến tiếc nơi ngôi cao
Tâm huệ mê mất hết
hư người buôn mất vốn
Vói nhớ sanh khổ nhiều
Như trời mất cung điện
Luyến nhớ ngũ dục lạc
Chưa biết Phật chánh pháp
Buồn rầu rất não loạn
Tự nghĩ mất thất bửu
Và bốn cấp nhơn gian
Nhớ đến ngôi Thánh Vương
Miệng thốt lời phi pháp
Có lúc vua buồn loạn
Chẳng biết mình và người
Như quỉ đoạt tinh hồn
Nắm giữ lấy thân người
Như tại núi Kê La
Tất cả không chỗ thấy
Não hận ấy che chướng
Nên thấy lại chẳng thấy
Cũng như ngủ mê chết
Tâm mình chẳng tự biết
Bị lo hờn mê chướng
Vua chẳng biết tự mừng
Như người vợ chết chồng
Buồn khóc sanh lo khổ
Nay vua si não loạn
Buồn thương sanh khổ lớn
Ông có phương tiện giỏi
Đến hóa Tịnh Phạn Vương
Xô ngã tràng tà mạn
Kiến lập đèn chánh pháp
Không còn ai hóa được
Tịnh Phạn Đại Vương ấy
Chỉ có Ưu Bà Di
Thuở trước từng đồng hành
Ưu Bà Di nên biết
Từng có đại Quốc Vương
Tên là Tăng Trưởng Thiệt
Danh tiếng chấn mười phương
Như pháp làm Quốc Vương
Tất cả đều quy hóa
Dùng chánh pháp trị dân
Vua lãnh tứ thiên hạ
Trong ấy đầy thành ấp
Vườn tược bông trái thơm
Nhiều những chúng hiền thánh
Không có người tạp ác
Rừng tốt rất trù mật
Đất sạch không gai góc
Rất nhiều thứ tịnh diệu
Ao hoa trang nghiêm đẹp
Nhơn dân rất đông giầu
Bỏ ác ăn ở lành
Đóng các cửa ác thú
Quyết lên thiên đạo tốt
Xưa vua ấy có con
Từng cúng dường nhiều Phật
Tu đủ các căn lành
Tròn đầy những công đức
Tên là Diệu Kiên Huệ
Được nhiều người hầu hạ
Thường thấy lỗi ngũ dục
Bỏ nhà ưa nhàn tĩnh
Phụ Vương bảo Vương Tử
Con nên thọ ngũ dục
Thể nữ tự vui chơi
Ở cung điện báu đẹp
Cha sắm sửa cho con
Đồ chơi không hề thiếu
Sao con chẳng thọ vui
Con nên nói ý con
Biết các loài lành tốt
Trong cung báu của con
Gái báu thường vây quanh
Cảnh tốt rất đáng vui
Chư tiên nhơn ở rừng
Còn bỏ trở về nhà
Thọ các vui nữ sắc
Huống con không thiếu thốn
Chúng thể nữ vây quanh
Vua quan đều tùy tùng
Cung điện như thiên cung
Nên thọ ngũ dục lạc
Cung nữ rất đẹp xinh
Chẳng khác gì thiên nữ
Múa ca đánh nhạc hay
Có thể tùy ý vui
Mắt như lá ưu ba
Môi đỏ như ngậm son
Mặt tròn mày rộng đen
Trán bằng cổ cao ngấn
Tay thẳng đầy tròn trịa
Đẹp như vòi tượng vương
Bàn tay màu hoa sen
Ngón tròn vót mềm đẹp
Lưỡi mỏng rộng đỏ hồng
Lời hay như cam lộ
Răng trắng trong kín đều
Chuỗi ngọc y phục báu
Rún sâu chẳng hiện bụng
Lưng như chày kim cương
Vế đùi mêm tròn thẳng
Không khác đùi lộc vương
Bước đi như nga vương
Thảy đều nhìn ngó con
Tuổi trai tráng đáng yêu
Có thể nối dòng dõi
Con và các người đẹp
Như hoa xuân nở tốt
Trai tráng tuổi chưa gìa
Phải mau thọ dục lạc
Kiên Huệ bạch Phụ Vương
Cha nói phi chánh lý
Nếu có lời đúng pháp
Truyền bảo chẳng dám trái
Nay cha nghe con nói
Lời lành và chơn thiệt
Nhẫn đến trong giấc mơ
Chẳng có ý tưởng dục
Nay lời nói của cha
Người trí chẳng bằng lòng
Kẻ ngu thích dục lạc
Người sáng thì thường nhàm
Sao có người mắt sáng
Khen người mù dẫn đường
Đâu có người giải thoát
Mà lại ưa ngục tù
Đâu có người an lạc
Lại khen tặng sự khổ
Ý con xem Phụ Vương
Như kẻ mù chìm tù
Như mộng thọ ngũ dục
Lại bị dục nhận chìm
Phụ Vương như đui mù
Mắt con sáng thấy rõ
Cha bị dục cuốn trôi
Nay con rất nhàm chán
Dục như chén thuốc độc
Cũng như đầu rắn độc
Như mũi dao gươm bén
Cũng như khối lửa lớn
Lúc vua quan khuyên bảo
Kiên Huệ đều chẳng nghe
Bỏ cha và quốc độ
Rời dục mà xuất gia
Như rắn lột da cũ
Cũng như bỏ mũi dãi
Rời xa những lỗi ác
Tuyệt hi vọng xuất gia
Lúc Kiên Huệ bỏ tục
Có một quan chức trẻ
Người ấy tên Nguyệt Thí
Bỏ nhà theo Kiên Huệ
Đồng tử xuất gia rồi
Và cùng quan trẻ kia
Thành tựu bốn phạm trụ
Đầy đủ ngũ thần thông
Thấy rõ lỗi ngũ dục
Siêu tuyệt nơi dục giới
Chuyển chánh diệu pháp luân
Sanh chẳng lên Phạm Thiên
Đồng tử xuất gia rồi
Phụ Vương lòng ghét giận
Nguyệt Thí đến chỗ vua
Giáo hóa cho vua mừng
Ưu Đà Di nên biết
Thuở xưa kia Kiên Huệ
Rời xa nơi ngũ dục
Nay chính là thân ta
Ưu Đà Di nên biết
Vua Tăng Thiệt xưa kia
Đâu phải ai xa lạ
Là Tịnh Phạn Vương vậy
Ưu Đà Di nên biết
Người theo ta xuất gia
Nguyệt Thí là thân ông
Đã từng hóa Tăng Thiệt
Thế nên Ưu Đà Di
Nay nên hóa Phụ Vương
Quyết có lợi ích lớn
Vì xưa đã giáo hóa”.
Tôn giả Ưu Đà Di nghe lời phán dạy của Phật liền nín lặng lãnh nhận.
Lúc đó Ưu Đà Di qua đêm đến sáng vào giờ khất thực đắp y mang bát đi vào thành Ca Tỳ La. Có hơn ngàn người dòng thích Ca tập họp tại vương môn đều có chỗ cần.
Vua Tịnh Phạn Vương nghe Phật Như Lai đến thành Ca Tỳ La tại rừng Ni Cư, Vương sanh lòng ghét hờn rằng : Đức con ấy xuất gia chối bỏ chủng tộc giàu sang ta. Nếu nó ở nhà sẽ nối ngôi Kim Luân cai trị tứ thiên hạ thống lãnh đúng pháp nhơn dân không nghịch mạng, đầy đủ bảy báu : luân bửu, tượng bửu, mã bửu, ma ni bửu, nữ bửu, chủ tạng thần bửu, đạo sư bửu, ngàn con trai dũng kiện, dung nhan xinh đẹp có khả năng dẹp cường địch bảo hộ tứ thiên hạ, chẳng dùng vũ khí ngự trị quốc độ, chỉ trị chánh đúng pháp tự nhiên thái bình. Ta được làm Luân Vương tự tại khoái lạc, họ phải tôn trọng cúng dường cho ta, vì đức con ấy xuất gia nên những sự đáng lẽ được ấy mà đều mất cả.
Tịnh Phạn Vương nghĩ như vậy rồi truyền cho dòng Thích : Tất cả mọi người chẳng được đến chỗ con ta ở kính tin nghe pháp, nếu có ai phạm sẽ chém đầu.
Bấy giờ có người dòng Thích tên Hỉ Diện chẳng ở trong chúng chẳng nghe lệnh Vương, thấy Tôn giả Ưu Đà Di liền đến cúi đầu thưa : “Tôn giả mới đến, được bình an chăng ? Đức Thế Tôn an vui ít bịnh ít não đi đứng nhanh nhẹ đi đường chẳng mệt ăn uống chẳng thiếu chăng ?”.
Tôn giả Ưu Đà Di báo Hỉ Diện rằng : “Đức Như Lai an lạc ít bịnh ít não đi đứng nhanh nhẹ đi đường chẳng mệt uống ăn chẳng thiếu”.
Có người dòng Thích tên Thiện Giác thấy Hỉ Diện cùng Tôn giả Ưu Đà Di tại chỗ vắng nói chuyện, cũng đến thưa rằng : “Đại Đức từ xa đến được an lành chăng ? Đức Thế Tôn đi đứng an lạc ít bịnh ít não đi đường chẳng mệt ăn uống chẳng thiếu chăng ?”.
Tôn giả Ưu Đà Di báo Thiện Giác rằng : “Đức Như Lai thánh ngự an lạc ít bịnh ít não đi đường chẳng mệt ăn uống chẳng thiếu”.
Lại có hai người dòng Thích tên Vô Ưu và Ly Ưu thấy Hỉ Diện và Thiện Giác cùng Ưu Đà Di ở chỗ vắng nói chuyện, hai người cũng đến chào đón hỏi thăm như trên rồi tiếp hỏi : “Bạch Đại Đức ! Đức Như Lai ở trên đường đi cớ sao không thiếu ?”.
Tôn giả Ưu Đà Di báo với Vô Ưu và Ly Ưu rằng : “Do Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích, Phạm Thiên Vương và chư Thiên thường đến cúng dường nên chẳng thiếu vậy”.
Các người dòng Thích ấy đồng thưa rằng : “Bạch Đại Đức Ưu Đà Di ! Chúng tôi đều muốn đến chỗ đức Phật Thế Tôn cúng dường nghe pháp mà sợ chẳng được. Vì Tịnh Phạn Vương có sắc lịnh nghiêm cấm tất cả người dòng Thích. Nếu ai vi phạm sẽ bị chém đầu”.
Tôn giả Ưu Đà Di nghe nói bèn nghĩ rằng đây là Phụ Vương rất oán hận, tôi phải dùng phương tiện để đến chỗ vương.
Tôn giả Ưu Đà Di liền nhập như thiệt tam muội, dùng sức tam muội trang nghiêm tâm mình, lại dùng thần lực bay cao bằng bảy cây đa la, ngồi kiết già trên hư không rồi bay đến chỗ Tịnh Phạn Vương. Nhà vua ngó thấy liền rời chỗ ngồi chắp tay cung kính hướng về Ưu Đà Di mà nói kệ rằng :
“Đại Sư ca sa từ đâu đến
Thành tựu oai nghi khó được thấy
Nếu có cần gì xin nói mau
Nay tôi thành tâm quyết phụng cấp”.
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp Vương rằng :
“Tôi là con của con Đại Vương
Đại Vương là Tổ phụ của tôi
Tôi vì Như Lai đi khất thực
Được đồ ăn sẽ về dâng Phật
Hôm nay Đại Vương được lợi lành
Con vua là đấng Tối Tôn Thượng
Oai đức quang minh chiếu mười phương
Như trăng rằm mặt nhựt giữa trưa
Như mặt nhựt không gian chẳng mây mù
Ánh sánh chói chang đều chiếu khắp
Đấng Tối Thắng con trai Đại Vương
Oai đức danh tiếng vang mười phương
Dường trăng đêm thu lúc mới mọc
Che lấp lửa đóm khắp soi sáng
Đấng Tối Thắng con trai Đại Vương
Hàng phục ngoại đạo riêng chói sáng
Như giữa trưa mặt nhựt chói chang
Tinh tú bị lấn nên chẳng hiện
Đấng Tối Thắng con trai Đại Vương
Hàng phục ngoại đạo tự mình sáng
Như giữa trưa mặt nhựt lấn trăng
Làm mặt nguyệt mất sáng chẳng hiện
Con trai Đại Vương phục ngoại đạo
Như mặt nhựt sáng làm trăng ẩn
Như cầm thú nghe sư tử rống
Thủy lục không hành tan về hang
Sợ chạy đào tẩu mê phương hướng
Vì tiếng sư tử khó chịu đựng
Đại Thánh Như Lai lúc gầm rống
Tà ngoại được nghe tiếng vô ngã
Dầu kẻ vô tri đến hữu đảnh
Nghe tiếng vô ngã thảy đều sợ
Trong Nhơn Thiên kẻ ngu si mù
Như Lai mắt sáng chỉ đường họ
Vì họ làm đèn trừ tối tăm
Phát khởi trí sáng tối vô thượng
Chánh tà bình đẳng chẳng bình đẳng
Dạy bảo thế gian đạo phi đạo
Vì người lạc đường chỉ đúng đường
Từ bùn dục nhiễm vớt ra khỏi
Như mây bao phủ ao khô cạn
Mưa tuôn đầy tràn ruộng ướt đều
Con trai Đại Vương đấng Tối Thắng
Gầy dựng mưa pháp nhuận Trời Người
Như nước thấm đất và núi sông
Cùng trăm giống cỏ rừng cây cối
Cỏ thuốc cây cành và dây leo
Hoa thơm đua nở khắp núi đẹp
Đấng đủ thập lực tứ vô úy
Đầy đủ mười tám pháp bất cộng
Trái Nhứt thiết trí hoa trang nghiêm
Con trai Đại Vương thân vi diệu
Như núi Tu Di ở giữa biển
Nghiêm tốt bất động trời thích ở
Con trai Đại Vương đấng Thiện Thệ
Trong biển Sa Môn tối đệ nhứt
Đao Lợi Thiên Chúa Xá Chỉ Phu
Trong chúng chư Thiên kỳ diệu nhứt
Con trai Đại Vương đấng Thế Tôn
Trong chúng Sa Môn kỳ diệu nhứt
Tuyên nói bí áo pháp thậm thâm
Dùng điện đại bi chiếu khắp chỗ
Như Lai Long Vương tuôn mưa pháp
Niệm xứ nước ao chảy chậm xuống
Oai đức trì giới như mặt nhựt
Dùng sức tam muội trừ mê tối
Sáng trí huệ dứt phiền não ái
Mặt nhựt Đại Thánh chiếu thế gian
Đầy đủ niệm xứ báu ma ni
Thuyền bè giới định qua bỉ ngạn
Giác chi gươm báu thiền tràn đầy
Lại cầu vô ưu vào biển Phật
Rễ giới thanh tịnh chắc khó động
Tam muội lá cây cành niệm xứ
Thất giác hoa không thân cây cứng
Vô ngã kiên cố thành cây Phật
Đi trong rừng giới người đại lực
Tam muội điều phục nương núi đức
Ba môn giải thoát làm cảnh giới
Phật thập trí lực là Vương Tử
Chánh kiến vô trước đấng Thế Tôn
Hàng phục cường địch đại Pháp Vương
Khủng bố tất cả các ngoại đạo
Con trai Đại Vương đấng vô úy
Tịnh giới đức tạng diệu trang nghiêm
Thiền định tịch diệt y phục báu
Thế Tôn đủ trí cảnh giải thoát
Bố thí tài vật như trưởng giả
Xa lìa các ác họp những lành
Gốc thiện huệ diệt các phiền não
Trí huệ thí phát cho Trời Người
Con trai Đại Vương đấng chói sáng
Mây giới trời huệ dùng làm chớp
Tám sợi tơ mưa hay nhuần thấm
Thế Tôn giúp ích mầm mạ tốt
Vương Tử dường như rồng lớn mưa”.
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :
“Thắng Sĩ đến đây an lạc chăng
Đến như uống ăn không thiếu thốn
Thân không mỏi mệt giường nệm chiếu
Như hoa bờ sông chẳng héo úa ?”.
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :
“Cảnh giới thiền định đủ thần lực
Thân tâm an lạc khắp đầy đủ
Thế Tôn tinh thần trụ tịch tĩnh
Dường như sen vàng chẳng khô khan”.
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :
“Xưa dùng cờ trống tự cảnh tỉnh
Âm nhạc tranh sắc cùng tiêu sáo
Kỹ nữ xinh đẹp để tự vui
Nay ở rừng vắng chẳng khổ ư ?”.
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :
“Thiền định tịch tĩnh làm cảnh giới
Khéo hay tu học tam muội vui
Đi đứng ngồi nằm tu pháp lành
Tâm thường mừng vui không khổ não”.
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :
“Giường báu vô giá thường nằm an
Lúc ngủ gái đẹp luôn hầu cạnh
Giáp vòng trần thiết nhiều đèn sáng
Vậy sao nằm tối chẳng buồn bực ?”.
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :
“Lúc ngủ Thế Tôn nằm giường thánh
Nệm êm là từ gối mềm bi
Phật an trụ hỉ tâm thường vui
Bỏ ba cõi khổ chẳng buồn bực”.
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :
“Hàng Thích chủng mạnh thường vây quanh
Học rộng thông thái dùng làm bạn
Lớn khôn trong cung điện nguy nga
Vậy sao ngày nay thích rừng vắng ?”.
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :
“Như pháp sanh con luôn kề cận
Đồng tu chỉ định ở tại bên
Lòng ưa rừng vắng tu thiền định
Đạo sư vô úy thích nuí rừng”.
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :
“Đồng tử ngày xưa lúc ở cung
Dùng ao tắm trời để tắm gội
Cũng dùng dầu thơm thoa thân mình
Nay ở trong rừng ai tắm cho ?”.
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :
“Nước ao các pháp bờ giới lành
Thế Tôn tự tắm và tắm người
Mình cùng các con nổi chẳng ướt
Tự độ đã xong độ quần sanh”.
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :
“Ngày xưa hương thơm thường ướp thân
Chỉ vàng châu ngọc để trang nghiêm
Thường mặc thiên tử báu
Nay ở trong rừng trang sức gì ?”.
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :
“Tràng hoa công đức hương ướp giới
Anh lạc thiền định y tàm quí
Trí huệ giải thoát tự trang nghiêm
Ánh sáng oai đức chiếu khắp rừng”.
Tịnh Phạn Vương nói kệ hỏi rằng :
“Xưa dùng dao gươm cung tên mâu
Dũng sĩ cầm mang luôn phòng vệ
Cũng dùng lọng báu thường chen trên
Nay ở rừng vắng ai hộ vệ ?”.
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :
“Từ bi nhẫn nhục tự phòng vệ
Đệ tử Thanh Văn quyến thuộc mạnh
Dùng công đức lành quyết không sợ
Thập lực hùng mãnh tứ vô úy”.
Tịnh Phạn Vương nói kệ khen rằng :
“Lành thay khéo nói đức con tôi
Lâu tu pháp lành chẳng thối chuyển
Ngài lấy bát xong mang bát về
Tôi cũng đi đến chỗ Thế Tôn”.
Tôn giả Ưu Đà Di lại thưa vua rằng : “Tâu Đại Vương ! Đức Bà Già Bà là Thầy đại chúng hay ngự phục chúng sanh, là đại tiên nhơn hay khéo an trụ, trong chúng Sa Môn là vua Sa Môn, ánh sánh chiếu khắp. Như trăng đêm rằm muôn sao vây quanh ánh trăng rất sáng chiếu khắp nơi, đức Thế Tôn cũng vậy, ở trong chúng Sa Môn ánh sáng chiếu khắp. Như trăng mùa thu ở trong hư không chẳng có mây che, đức Bà Già Bà cũng vậy, ở trong đại chúng ánh sáng chiếu khắp. Như Thiên Đế Thích là vua chư Thiên ở Thiện pháp đường, trong hàng chư Thiên ánh sáng rực rỡ, đức Bà Già Bà ở trong đại chúng ánh sáng rực rờ cũng như vậy. Như Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương ở trong chúng chư Thiên ánh sáng rực rỡ oai đức độc tôn, đấng Bà Già Bà ở trong đại chúng oai đức độc tôn cũng như vậy. Như Đại Phạm Thiên Vương chúa thế giới Ta Bà trăm ức chúng Phạm Thiên vây quanh ánh sáng rực rỡ oai đức độc tôn, đấng Bà Già Bà ở trong chúng Sa Môn oai đức hiển hích độc tôn cũng vậy”.
Nghe nói đạo đức của đấng Bà Già Bà xong, Tịnh Phạn Vương tự nghĩ rằng Sa Môn nầy là đệ tử Thanh văn còn có đại thần thông đại oai đức như vậy, huống là đức Như Lai. Vua lại nhớ lúc Thái Tử vừa sanh thì cả đại địa chấn động sáu cách mười tám tướng : động, biến động, đẳng biến động, dũng, biến dũng, đẳng biến dũng, khởi, biến khởi, đẳng biến khởi, chấn, biến chấn, đẳng biến chấn, hống, biến hống, đẳng biến hống, kích, biến kích, đẳng biến kích, phóng ánh sánh lớn, không ai đỡ dìu mà tự đi bảy bước, trên không có hai đường nước chảy xuống tắm gội thân thể, tự nhiên có thánh tọa bằng chơn kim, trong hư không hóa thành lọng trời, chư Thiên lễ bái, từ đó đến ngày chưa xuất gia chẳng bị ngũ dục mê hoặc, phàm có làm điều gì thì quyết định chẳng bỏ dở, nói gì thì làm được nấy, trong tất cả thời gian kiên cố đại lực, chẳng nói dối, chẳng trái tín hành, từng có lời rằng tôi thành Vô thượng Bồ đề tự độ mình rồi sẽ độ Phụ Vương.
Tịnh Phạn Vương nhớ Phật lúc còn là Thái Tử Bồ Tát đã có bốn thệ nguyện nên vua nói kệ rằng :
“Nếu có người sơ sanh
Trí sáng nói chẳng luống
Lời cùng việc chẳng khác
Người trí ai chẳng tin
Nếu người lúc sơ sanh
Đối cha nói thành Phật
Quyết làm bực Thế Tôn
Người trí ai chẳng tin
Nếu có người chẳng tiếc
Khối báu bằng núi Tuyết
Rời lìa những tham lẫn
Người trí ai chẳng tin
Nếu người trong giấc mộng
Chẳng nói lời hư vọng
Như lời mà tu hành
Người trí ai chẳng tin
Lời nói như gươm dao
Chẳng não cũng khiến giận
Người rời sự giận hờn
Người trí ai chẳng tin
Không có ai khi được
Tham sân cũng chẳng nhiễm
Vua đầy đủ trí huệ
Người trí ai chẳng tin
Tất cả ngù dục lạc
Và cùng những sang giàu
Đều không cột trói được
Người trí ai chẳng tin
Các thứ sự hi hữu
Và cùng những vật tốt
Không làm động lòng được
Người trí ai chẳng tin
Dùng những lời ngọt ngon
Thông minh lời khéo nói
Không làm mê hoặc được
Người trí ai chẳng tin
Dùng những lời thuận nghĩa
Những câu muốn quyết định
Cũng chẳng buộc ràng đưọc
Người trí ai chẳng tin
Quân lực bố trí mạnh
Cùng nhiều cách canh phòng
Vẫn vượt khỏi hoàng thành
Người trí ai chẳng tin
Rời bỏ ngũ dục lạc
Để cầu hạnh cam lộ
Hi vọng được Bồ đề
Người trí ai chẳng tin
Sáu năm tu khổ hạnh
Dũng mãnh không ai bằng
Cầu được thắng Bồ đề
Người trí ai chẳng tin
Sáu năm ăn thô ít
Cầu được thắng Bồ đề
Lợi an các thế gian
Người trí ai chẳng tin
Sáu năm bị ma nhiễu
Nối nhau tìm lỗi dở
Vẫn chẳng gặp được dịp
Người trí ai chẳng tin
Chẳng cầu vật người khác
Thường lợi ích thế gian
Người trí ai chẳng tin
Chẳng nghe pháp nơi người
Tự nhiên thành Bồ đề
Tịch định khó biết được
Người trí ai chẳng tin
Phạm Vương đến khuyến thỉnh
Cần cầu Phật Thế Tôn
Như thỉnh mà diễn thuyết
Người trí ai chẳng tin
Vì thương xót nhớ tôi
Nên đến vườn Ni Câu
Vì độ các Thích chủng
Người trí ai chẳng tin
Như Lai tự độ rồi
Độ tôi khỏi biển khổ
Ghi nhớ thệ nguyện xưa
Người trí ai chẳng tin
Nay là lúc được lợi
Biết Phật Nhứt thiết trí
Vì thương xót đến tôi
Người trí ai chẳng tin
Nay tôi sẽ đến đó
Thấy thân đấng Đạo Sư
Lúc nghĩ suy như vậy
Biết mình là Nhơn Vương”.
Tịnh Phạn Vương suy gẫm xong nói với Tôn giả Ưu Đà Di : “Thưa Đại Đức ! Ngài đến đây còn cần thứ gì ?”.
Tôn giả Ưu Đà Di nói kệ đáp rằng :
“Vốn vì lợi ích cho Đại Vương
Tôi dùng thần thông bay đến đây
Nếu nơi thập lực một niệm tin
Nam nữ đều được đến đường lành
Thập lực công đức vô biên tế
Thế Tôn vì Thích chủng mà đến
Sự đáng mừng vui nay mới tới
Nhơn chúa phải nên phát lòng tin
Đại Vương danh tiếng quyết thêm lớn
Đầy khắp cõi tam thiên Đại Thiên
Con vua đã là kho của vua
Đầy đủ thập lực tâm từ bi
Du hành mười phương tâm vô ngại
Như sen ở nước chẳng dính nước
Tự độ tứ lưu các cõi rồi
Cũng độ Trời người bốn sông dữ
An trí trên bờ đất vô úy
Đại Vương phải nên tin Đạo Sư
Nhổ khỏi tứ lưu ba tên độc
Cũng làm quần sanh thắng y sư
Trong chúng y sư tôn thượng nhứt
Đại Vương phải nên kính tin sâu
Cũng hay hàng phục các quân ma
Ma Vương quyến thuộc bè đảng ác
Chứng được tịch diệt đại Bồ đề
Đại Vương phải nên kính tin sâu
Nhơn Vương Thiên Vương đều khuyến thỉnh
Vì độ chúng sanh nói diệu pháp
Diễn bày vô thượng thuốc cam lộ
Là đấng Pháp Vương phải nên tin
Che lấp tất cả chúng ngoại đạo
Chuyển diệu pháp luân quá cân lường
Hóa độ vô lượng ức chúng sanh
Đại hùng Nhơn Vương phải nên tin
Vô minh phủ dầy trong hắc ám
Mắt mình trong sáng sáng mắt người
Thuyết pháp trừ được những mù lòa
Đại hùng Nhơn Vương phải nên tin
Lão bịnh tử khổ bức bách người
Nói pháp trừ được lão bịnh tử
Khiến chúng thế gian lên đường lành
Đại hùng Nhơn Vương phải nên tin
Ba lửa đốt cháy chúng thế gian
Như đất cháy hồng dùng nước tắt
Nói Bát chánh đạo Phật vì người
Đại hùng Nhơn Vương phải nên tin
Dứt hết ba uế trừ các ác
Hay rời thế gian ba cấu trược
Du hành mười phương rất kỳ diệu
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Như cha yêu con thương thế gian
Thập lực đại từ tâm nhuần khắp
Phát khởi đại bi độ chúng sanh
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Khó điều điều được đức Thế Tôn
Người đáng được độ nay đều độ
Hay dứt lửa phừng các phiền não
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Chúng sanh đọa trong biển ba cõi
Phật như thuyền tầu hay tế độ
Thập lực đại bi cứu thế gian
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Thân đoan chánh vô lượng công đức
Đại bi du hành hóa thế gian
Khiến tâm trược lâu được thanh tịnh
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Như nhọc ma ni lắng nước trong
Đi trong đời làm sạch chúng sanh
Trừ dứt bầy mê đua loạn trược
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Như châu ma ni tánh thanh tịnh
Hay khiến người trí lòng vui đẹp
Thế Tôn rời ác tâm sáng sạch
Khiến những người trí hâm mộ thích
Nơi đức Thế Tôn khởi tín tâm
Hay khiến Trời Người lìa gánh khổ
Bỏ báu sanh tử được tịnh diệt
Dũng mãnh Đại Vương phải nên tin
Trong khối công đức nói ít phần
Như giữa không gian một dấu chim
Bờ Phật công đức tôi chẳng biết
Đại Vương phải nên kính tin sâu”.
Tịnh Phạn Vương nghe Tôn giả Ưu Đà Di khéo nói công đức được tu lúc đức Phật còn làm Bồ Tát, vua liền tự nhớ bổn thệ của Như Lai : Tôi được độ rồi sẽ độ Phụ Vương. Vì nhớ như vậy nên vua rất kính tin và nói với Tôn giả Ưu Đà Di rằng : “Nầy Tỳ Kheo ! Nay Ngài chính là con của con trai tôi, Ngài nên ăn rồi mau về chỗ đức Phật đem cơm dưng lên, nay tôi cũng phải đến ra mắt đức Thế Tôn”.
Tôn giả Ưu Đà Di biết lòng vua đã kính tin, ăn cơm xong, Tôn giả bưng cơm canh về dưng lên đức Phật.
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ưu Đà Di giáo hóa Tịnh Phạn Vương được chánh tín. Hôm nay chư Thiên và người đời được lợi ích rất lớn”.
Đức Thế Tôn khen ngợi Tôn giả Ưu Đà Di rằng : “Lành thay ! Lành thay ! Nay ông được phước đức lớn, vì đã làm cho Tịnh Phạn Vương kính tin vậy”.
Đức Thế Tôn lại bảo chư Tỳ Kheo rằng : “Ưu Đà Di giáo hóa Tịnh Phạn vương được công đức, nếu là có sắc thì hằng sa thế giới mười phương chẳng dung thọ được, vì khối công đức ấy rộng lớn vô lượng vậy”.
Bấy giờ đức Thế Tôn ăn cơm rửa tay rửa bát xong, hiện thoại tướng. Tức thì Tỳ Sa Môn Thiên Vương cùng vô lượng na do tha trăm ngàn ức chúng Dạ Xoa vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ thiên cung, hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua hướng Bắc trên hư không. Chúng Dạ Xoa trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.
Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Càn Thát Bà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua hướng Đông trên hư không, chúng Càn Thát Bà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.
Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Cưu Bàn Trà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua phương Nam trên hư không, chúng Cưu Bàn Trà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và Tăng.
Tỳ Lâu Bát Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Long vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua phương Tây, trên hư không, chư Long trước sau vây quanh, chắp tay cung kính Phật và chúng Tỳ Kheo Tăng.
Thích Đề Hoàn Nhơn Thiên Đế cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh từ cung trời Đao Lợi hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như Lai và Tỳ Kheo Tăng.
Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, Quang Âm Thiên Vương, Biến Tịnh Thiên Vương, Quảng Quả Thiên Vương, Tịnh Cư Thiên Vương đều cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh, từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như Lai và Tỳ Kheo Tăng.
Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương cùng sáu mươi na do tha quyến thuộc vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, từ cung điện mình hiện ra trước Phật, đảnh lễ chưn Phật, hiện tướng cung kính đứng qua một phía.
Kim Sí Điểu Vương cùng tám vạn sáu ngàn chúng Ca Lâu La quyến thuộc vây quanh, từ cung điện mình hiện ra trước Phật đảnh lễ chưn Phật hiện tướng cung kính đứng qua một phía.
Lại có tám ức các nhà ngoại đạo từ bốn phương đến mà nói kệ rằng :
“Trong hư không thanh tịnh
Vầng trăng tròn đêm rằm
Vượt hơn các tinh tú
Ánh sáng riêng chói rỡ
Phật như trăng tròn sáng
Diệt tối trừ ba cấu
Hay siêu các ngoại đạo
Dường trăng giữa hư không
Mặt nhựt ngàn quang minh
Hay trừ các tối tăm
Vượt hơn ánh sáng trăng
Làm nở ao hoa sen
Phật quang hơn mặt nhựt
Chiếu khắp cõi Đại Thiên
Như Lai hay nở bày
Rừng hoa sen Thanh Văn
Thiên Chúa Kiều Thi Ca
Ngồin tại nhà Thiện Pháp
Vượt hơn chúng chư Thiên
Chày kim cương chói rực
Thập lực núi công đức
Pháp Vương Lưỡng Túc Tôn
Vượt hơn các ngoại đạo
Dường như Thiên Đế Thích
Tu Dạ Ma Thiên Vương
Được chư Thiên cúng dường
Ở trong hàng Thiên chúng
Chói sáng ngồi bửu tọa
Thập lực oai vô biên
Vượt hơn các ác đạo
Đức vô úy quang minh
Nói rõ Bát chánh đạo
Như Đâu Xuất Thiên Vương
Chúng chư Thiên vây quanh
Vượt hơn các Thiên chúng
Đức lành mà chói sáng
Điều Ngự Thầy Trời Người
Được Bát Bộ chúng dường
Vượt hơn các thế gian
Vô úy nói pháp rõ
Như Hóa Lạc Thiên Vương
Ở tại trong thiên cung
Vượt hơn chúng chư Thiên
Công đức riêng sáng rõ
Phật hơn các thế gian
Rời được khỏi ba cõi
Hay điều vua chưa điều
Đủ thập lực sáng chói
Như Tự Tại Thiên Vương
Ở tại trong thiên cung
Vượt hơn các Thiên chúng
Đức lành mà rạng rỡ
Phật quang minh như vậy
Đầy đủ thập lực hành
Vượt hơn chúng Trời Người
Do công đức lành trước
Như Đại Phạm Thiên Vương
Vượt hơn các Phạm chúng
Sáng rực lời ngọt hay
Hiển bày đường Bát chánh
Như Lai hơn Phạm Vương
Vua trong chúng Sa Môn
Quang minh soi ba cõi
Chuyển pháp luân tứ đế
Chúng tri kiến họp xong
Trời Rồng Người nghe pháp
Vua tối thắng Trời Người
Tuyên nói đường Bát chánh
Hư không đo lường được
Biển lấy bình đong hết
Núi Tu Di cân được
Phật đức khó biết được”.
Bấy giờ Tịnh Phạn Vương nói với hàng Thích chủng rằng : “Nầy các Ngài ! Như mặt nhựt sắp mọc trước tiên hiện tướng sáng đẹp, như lúc sao mai mọc thì biết mặt nhựt sè mọc chẳng lâu.
Cũng vậy, Ca Lưu Đà Di ở nơi đức Phật Như Lai Nhứt thiết chủng trí mà trước hiện tướng lành, Tỳ Kheo ấy nói công đức của Như Lai tức là tướng Nhứt thiết trí vậy. Các ông mau xếp đặt xe tốt, ta sẽ đến chỗ Phật ngự”.
Các Thích chủng tâu rằng : “Lành thay Đại vương ! Nay đã phải lúc, những thứ cần dùng nay đã lo xong”.
Vua lại truyền cho các quan từ thành Ca Tỳ La đến rừng Ni Câu Đà phải sửa sang đường xá, dùng cát mịn tốt trải đất, rải các thứ hoa treo những lục màu, trổi âm nhạc và các thứ ca vũ.
Vua ngồi xe tốt xuất thành Ca Tỳ La thẳng đến vườn Ni Câu Đà. Sau xe vua có tám vạn bạch tượng cùng những châu báu xen lẫn trang nghiêm. Trên mỗi thớt tượng đều trần thiết tòa thất bửu rất lạ hi hữu. Sau đoàn voi, có tám vạn ngựa quí, trên mỗi ngựa quí đều có tràng vàng, ngựa và tràng đều trang nghiêm với bảy báu xinh đẹp đệ nhứt.
Trong thành có vô lượng người nghiêm sức xe cộ : ngựa xanh xe xanh lọng xanh đao xanh y phục tất yên cương cả đều xanh cầm tràng xanh. Sau mỗi xe có trăm người y phục xanh đi theo.
Vàng đỏ và trắng ba đội người ngựa ba màu kia cũng như vậy.
Lại có hàng Thích chủng đều riêng nghiêm sức các thứ xe đẹp xanh vàng đỏ trắng : trang nghiêm nhiều màu, xe ngựa nhiều màu, nghiêm sức nhiều màu, mỗi xe ngựa đều có trăm người trang nghiêm nhiều màu.
Đức Thế Tôn xa trông Tịnh Phạn Vương đến liền bảo chư Tỳ Kheo rằng : “Các ông muốn thấy chúng trời Đao Lợi đi dạo chơi thì nên xem Thích chủng xuất thành Ca Tỳ La. Tại sao ? Vì Thích chủng du hành cùng chư Thiên không khác”.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Trong thành Ca Tỳ La Vệ kia
Tịnh Phạn Đại Vương và quyến thuộc
Tối Thắng Nhơn Vương hôm nay đến
Lắng nghe lắng nghe Phật sẽ nói
Tượng mã xe cộ hơn trăm ngàn
Nhiều thứ trang nghiêm rất đẹp lạ
Từ Ca Tỳ La mà dẫn ra
Nhơn Vương bửu tạng và các xe
Ngựa xanh xe xanh trang nghiêm xanh
Y ohục người theo đều màu xanh
Giày mang dao đeo thảy đều xanh
Roi xanh cương xanh lạc lưới xanh
Người áo xanh cầm phan lọng xanh
Người ngựa đều xanh rất đẹp lạ
Ngựa vàng xe vàng nghiêm sức vàng
Người theo y phục đều màu vàng
Giày mang dao đeo cũng đều vàng
Roi vàng cương vàng lạc lưới vàng
Người áo vàng cầm phan lọng vàng
Người ngựa đều vàng rất đẹp lạ
Ngựa đỏ xe đỏ nghiêm sức đỏ
Người theo y phục đều màu đỏ
Giày mang dao đeo cũng đều đỏ
Roi đỏ cương đỏ lạc lưới đỏ
Người áo đỏ cầm phan lọng đỏ
Người ngựa đều đỏ rất đẹp lạ
Ngựa trắng xe trắng trang nghiêm trắng
Người theo y phục đều màu trắng
Giày mang dao đeo cũng đều trắng
Roi trắng cương trắng lạc lưới trắng
Người áo trắng cầm phan lọng trắng
Người ngựa đều trắng rất đẹp lạ
Xe ngựa bốn màu trang nghiêm bốn
Người theo y phục đều bốn màu
Giày mang dao đeo cũng bốn màu
Roi cương lạc lưới bốn màu đủ
Người và phan lọng đều bốn màu
Người ngựa bốn màu rất đẹp lạ
Sau các xe kia trang nghiêm voi
Số voi ấy đủ tám mươi ngàn
Yên vàng nệm vàng trang nghiêm vàng
Lưng voi đều có điện bảy báu
Các thứ trang nghiêm ngựa rồng quí
Số ngựa cũng đủ tám mươi ngàn
Bảy báu trang nghiêm rất lạ đẹp
Người phục sức đẹp theo sau xe
Dùng những hoa đẹp rải đường ngự
Dùng năm thứ hương làm thơm đất
Treo những bình hương và lụa màu
Tráng sĩ diễn trò đoàn ca vũ
Nhiều thứ trang nghiêm khắp cả đường
Hòa tấu âm nhạc theo sau vua”.
Tịnh Phạn Vương và đoàn tùy tùng đến vườn Ni Câu Đà xuống xe đi bộ vào.
Đức Thế Tôn biết Phụ Vương từ lâu có lòng oán hận, vì độ Phụ Vương nên đức Phật bước lên hư không cao quá đầu người tự tại đi ra. Lúc đức Phật đi, bên hữu có Đại Phạm Thiên Vương, bên tả có Thiên Đế Thích, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương đều cầm các thứ lọng trời cúng dường Như Lai.
Bấy giờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương và Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương ở phía Đông Như Lai quỳ gối chắp tay hiện tướng cung kính.
Chúng chư Thiên các cõi trời Tứ Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa Lạc Thiên và Tha Hóa Tự Tại Thiên ở giữa hư không mưa hoa trời ưu bát la, mạn đà la và hương bột chiên đàn, tấu các âm nhạc và ca vũ, lại mưa nước thơm, từ trước tới nay chưa từng thấy sự cúng dường Như Lai như vậy.
Đức Như Lai lại hiện thần thông, do sức thần của Phật làm cho mọi người đều thấy rõ tướng dạng chư Thiên.
Tịnh Phạn Vương thấy chư Thiên Tử cúng dường Như Lai, vua sanh lòng hi hữu, lại thấy lâu đài thất bửu nghiêm sức đầy cả hư không, Vua nói rằng : “Đức Như Lai ngày xưa lúc còn là đồng tử chẳng sanh lòng cố luyến nơi ngôi Chuyển Luân Thánh Vương cai trị tứ thiên hạ. Nay đức Như Lai ở trong tam thiên Đại Thiên thế giới làm đại Pháp Vương có vô số Trời và Người thị vệ. Nay tôi tại đây làm người đứng quanh”.
Tịnh Phạn Vương trịch y vai hữu gối hữu chấm đất đầu mặt lễ chưn Phật chắp tay bạch Phật rằng : “Đức Thế Tôn lúc sơ sanh không người phò trì mà tự đi bảy bước nhìn ngó mười phương rồi mới nói lời này : Ta ở thế gian tối tôn tối thắng, sẽ được độ thoát bờ lão bịnh tử. Lúc đó tôi rập đầu lạy chưn Thế Tôn. Thời gian sau Thế Tôn đến thôn ruộng ngồi trong bóng mát dưới cây Diêm Phù, mặt trời dầu đã xế về Tây mà bóng cây vẫn ở nguyên chỗ, còn có chư Thiên đồng sáu cõi trời ở trước Thế Tôn chắp tay làm lễ, lúc đó tôi cúi đầu lễ chưn đức Thế Tôn. Hôm nay, lần thứ ba, tôi lại cũng đầu mặt lễ chưn đức Thế Tôn”.
Tịnh Phạn Vương nói kệ rằng :
“Lưỡng Túc Thế Tôn lúc sơ sanh
Không người phò trì đi bảy bước
Tự nói ta tối thắng trong đời
Lúc ấy tôi lạy bực trí sáng
Thế Tôn xuất thành đến thôn ruộng
Bóng cây Diêm Phù che chẳng rời
Lục thiên đồng tử dâng cúng dường
Lúc ấy tôi lạy đấng Ứng Cúng
Nay lần thứ ba tôi cúi lạy
Cung kính đấng thương xót thế gian
Đáng được Trời Người dâng cúng dường
Đời không ai hơn được đức Phật
Thế Tôn trước hiệu Tất Đạt Đa
Tên ấy cha mẹ lấy làm mừng
Mới biết Như Lai danh hiệu thiệt
Được nguyện đầy đủ được cam lộ”.
Bấy giờ chư Thiên cõi dục vì đức Như Lai mà trải tòa sư tử, dùng thiên y vi diệu lót trên tòa và trải khắp vườn Ni Câu Đà, lại dùng thiên y kiếp ba thọ che giăng trên không. Đức Thế Tôn từ hư không xuống ngồi trên tòa sư tử. Tịnh Phạn Vương và quyến thuộc đầu mặt lạy chưn Phật rồi lui ngồi một phía. Chư Thiên cõi dục, cõi sắc cũng đảnh lễ đức Phật rồi lui ngồi một phía trên hư không.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
“Tịnh Phạn Đại Vương và quyến thuộc
Đến chỗ Thế Tôn dâng cúng dường
Từ thành Ca Tỳ La Vệ ra
Đến vườn khả ái Ni Câu Đà
Phật cùng vô lượng chúng vây quanh
A Tu La Vương và Long Vương
Cưu Bàn Trà Vương Kim Sí Vương
Càn Thát Bà Vương và quyến thuộc
Dạ Xoa Đại Vương chúng quỉ thần
Khẩn Na La Vương và Thiên Tử
Tất cả đều sanh lòng mừng rỡ
Dục giới lục thiên đã như vậy
Sắc giới Phạm chúng Phụ Phạm Vương
Quang Âm Biến Tịnh và quyến thuộc
Nhẫn đến Quảng Quả Tịnh Cư Thiên
Sa Môn đại chúng Bà La Môn
Tăng Khư Vệ Thế Ni Kiền Tử
Cùng các ngoại đạo tất cả phái
Thuật sĩ tu hành các thứ lạ
Đại chúng bốn phương đều đến họp
Như Lai tự hiện đại thần thông
Khiến Tịnh Phạn Vương và Thích chủng
Đều được tín tâm lòng mừng rỡ
Như Lai khắp vì tất cả chúng
Dùng lời vi diệu câu nghĩa hay
Như Lai ý tại Tịnh Phạn Vương
Hiện hóa các thứ thần thông lực
Vua vốn chẳng cho Phật xuất gia
Tướng sư ngày trước đoán đồng tử
Tại gia tất làm Chuyển Luân Vương
Vô lượng Nhơn chúng đồng phục thị
Đầy đủ Thánh Vương bảy thứ báu
Cũng lại có đủ bốn thần thông
Như pháp trị chánh gìn quốc độ
Kim Luân gồm trị tứ thiên hạ
Bấy giờ Bồ Tát nói lời nầy
Ta xưa vô lượng do tha kiếp
Tất cả thời gian thường nói thiệt
Phụ Vương lắng nghe lời ta nói
Phụ Vương từ xưa đối với ta
Từ đầu thiệt không lòng tin kính
Muốn đem Luân Vương bảo ta làm
Đem tứ thiên hạ sánh luyến tiếc
Ví như thuở xưa có thần qui
Theo biển thủy triều lên lục địa
Hải thủy triều ấy rút về biển
Thần qui sa vào trong giếng sâu
Trong giếng ba ba hỏi hải qui
Người từ nơi nào nay đến đây
Hải qui trí rộng nói ba ba
Tôi theo thủy triều sa xuống giếng
Lúc thủy triều kia rút về biển
Tôi đi chậm chạp theo chẳng kịp
Vì vậy nay tôi mất thời tiết
Sa vào giếng nhỏ cùng anh ở
Ba ba lại hỏi hải qui rằng
Nước biển có nhiều hơn nước giếng
Há lại rộng lớn hơn đây chăng
Là lớn hay nhỏ xin nói lẹ
Hải qui trí rộng bảo ba ba
Anh ngu ở chỗ người đào bới
Tôi ở trong nước biển cả kia
Đã trải quá lâu nhiều năm tháng
Còn chẳng biết được trong lòng biển
Huống là thấu rõ bờ biển ấy
Ngày xưa Phụ Vương điều chẳng biết
Sức đại thần thông oai đức tôi
Muốn đem Luân Vương tứ thiên hạ
Hào quí trong đời quyến rũ ta
Nay ta hiện làm Pháp Luân Vương
Thống lãnh tam thiên Đại Thiên giới
Như pháp chánh trị lìa vũ khí
Được Bát Bộ chúng đồng cúng dường
Nay ta xưng tụng lời ngày xưa
Nên đến ứng hiện đại chúng nầy
Dùng sức thần thông tu tâm mình
Dùng niệm từ bi triệu tập chúng
Tất cả các cõi đều vân hội
Đồng muốn Phụ Vương được tịnh tín”.
Bấy giờ đức Thế Tôn hiện thoại tướng. Do thoại tướng ấy nên A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða nghĩ rằng : Nay tôi cúng dường Phật trước nhứt.
A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða cùng đồ chúng sáu mươi na do tha, quyến thuộc, phụ nữ cũng sáu mươi na do tha, đồng đem bửu châu vô giá và các vật quí trong biển dâng cúng đức Phật.
A Tu La Vương ấy hóa làm sáu mươi na do tha xe thất bửu. Các bửu xa ấy lại hóa làm sáu mươi na do tha ngựa điều thuận, trên ngựa lại hóa lưới linh thất bửu để trang sức, chưn ngựa đeo linh xuyến bằng chơn kim, bờm và đuôi ngựa đều bao kết bằng thất bửu, dây cương bằng chơn kim, trên xe báu đều trang nghiêm với thất bửu, càng lọng đều bằng thất bửu. Các lọng thất bửu ấy ở trên hư không bay theo xe, dây linh treo trong lọng cũng bằng thất bửu, có lưới thất bửu giăng trùm lên trên lọng. Gió nhẹ thổi động xe ngựa và lọng thất bửu ấy phát ra tiếng vang vi diệu như trăm thứ nhạc do nhạc công giỏi đồng hòa tấu khiến ngưòi nghe vui vẻ, đoạt thị thính người, đoạt tâm ý người.
Các xe ngựa thất bửu ấy ở trên không cách mặt đất sáu mươi do tuần, sau xe tấu âm nhạc, trên xe đều có A Tu La nữ trang sức rất đẹp. Các A Tu La nữ ấy, hoặc đứng vũ, hoặc ngồi vũ, hoặc xướng ca, hoặc thân động chuyển, hoặc rắc hương bột, hoặc rưới nước thơm, hoặc mưa các thứ hương mưa các thứ hoa mưa mạt vàng, hoặc rải hoa vàng hoa bạc hoa lưu ly hoa pha lê hoa xích chơn châu hoa mã não hoa xa cừ, hoặc cầm thất bửu rải, hoặc rải trang sức, tất cả đều để cúng dường đức Thế Tôn. Hoặc có A Tu La nữ rung động linh xuyến cho reo thành tiếng, hoặc đội vòng hoa thất bửu trang nghiêm với chơn kim, hoặc đội vòng hoa chơn kim trang nghiêm với thất bửu, hoặc cầm lưới chơn kim, hoặc cầm phan thất bửu, hoặc cầm lọng thất bửu, hoặc cầm tràng thất bửu, đều để cúng dường đức Thế Tôn.
Lại có các A Tu la nữ chắp tay nói kệ tán thán rằng :
Quy mạng Trượng Phu Ðiều Ngự Sư
Quy mạng đấng Trượng Phu Tối Thắng
Quy mạng Trượng Phu Lưỡng Túc Tôn
Quy mạng Trượng Phu không ai sánh
Quy mạng đấng soi sáng thế gian
Quy mạng biển trí lớn tối thượng
Quy mạng rừng đầy đủ công đức
Quy mạng núi tối thắng vi diệu
Quy mạng khối đầy đủ công đức
Quy mạng người dứt sạch phiền não
Quy mạng thầy tu các tịnh hạnh
Quy mạng tịnh hạnh không đoạn tuyệt
Quy mạng vô y không khiếp nhược
Quy mạng không lười không tán điệu
Quy mạng quyết định phát tinh tấn
Quy mạng đấng quyết định đầy đủ.
A Tu La Vương lại hóa làm sáu mươi na do tha màn trướng thất bửu vi diệu rất lạ nhiều màu trang nghiêm. Dưới mỗi màn trướng báu bay lững lờ ấy lại hóa sáu mươi na do tha đại địa thất bửu. Trên đại địa ấy đều hóa sáu mươi na do tha tường thành thất bửu. Trong mỗi tường thành hóa sáu mươi na do tha lâu đài cung điện thất bửu. Mỗi điện đường có sáu mươi na do tha cửa lớn cửa sổ thất bửu xen lẫn trang nghiêm. Trong mỗi điện đường có sáu mươi na do tha tòa sư tử thất bửu trải bửu y. Hai đầu sư tử tọa để gối đỏ, trước tọa có chiếc kỷ thất bửu trên để sáu ức bửu y của A Tu La Vương. Trên mỗi tòa sư tử đều có hai A Tu La nữ trang sức thất bửu đều cầm lá cây đa la thất bửu làm quạt hầu hai bên một hóa A Tu La tử ngồi trên ấy. Các điện đường ấy đều có sáu mươi na do tha tràng lọng thất bửu.
Các màn trướng và điện đường thất bửu ấy ở trên không bay nhiễu bên hữu đức Phật ba vòng, rải các thứ hương, mưa các thứ hoa cúng dường đức Phật.
Lúc ấy ngoài bốn cửa thành Ca Tỳ La đều rộng sáu mươi do tuần, do sức oai thần của A Tu La Vương phóng ánh sáng chiếu khắp sáu mươi do tuần, chiếu lên sáu vạn do tuần chu vi đầy khắp những đồ cúng dường. Các màn trướng lững lờ bay nhiễu quanh Phật rồi dừng lại.
Lúc ấy trong thành Ca Tỳ La chứa hoa trời mạn đà la cao bảy trượng, nước thiên hương thành bùn. Do thần lực của Phật làm cho hơi thơm ấy khắp tam thiên Ðại Thiên Ðại thừa nghe hơi thơm ấy, người mới phát Bồ đề tâm cũng còn được bất thối chuyển huống là người đã tu lâu.
A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða ngồi xe thất bửu nhiễu quanh Phật ba vòng dùng bột hương chiên đàn cõi trời rải lên trên đức Phật mà nói kệ rằng:
“Nay tôi quy y Bà Già Bà
Ðấng ban Trời Người đức vô úy
Quy y đấng tối thắng bất động
Hi vọng vô thượng đại Bồ đề
Nay tôi quy y Bà Già Bà
Lòng mừng chẳng đọa ba ác đạo
Thế nên nay tôi quy y Phật
Mong cầu vô thượng đại Bồ đề
Nay tôi quy y Bà Già Bà
Ðấng trừ sanh tử biển khổ lớn
Hay dứt đồng hoang lìa phiền não
Bực thầy hay dẫn đạo chúng sanh
Nay tôi quy y Bà Già Bà
Quy y Phật rồi chẳng cầu sanh
Biển rất khổ bị già chết bức
Thế Tôn là thầy của Trời Người”.
Nói kệ tán thán Phật rồi A Tu La Vương nhiễu Phật ba vòng.
Các ngựa báu anh lạc trang nghiêm, các xe báu, các A Tu La, các A Tu La nữ, các tràng phan lọng báu linh lưới thất bửu bị gió thổi động vang ra tiếng vi diệu vui lòng đẹp dạ như cả trăm thứ nhạc hòa tấu rất hay.
A Tu La Vương lại nhiễu Phật ba vòng, mưa hương bột chiên đàn cõi trời, hương bột ưu bát la, hương bột trầm thủy, hương bột đa ma la, các thứ hương bột a tu la từ trên không rơi xuống. Lại mưa các hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, ba lô sa ca, ma ha ba lô sa ca, ca ca la bà, ma ha ca sa la bà, ba tra lê, ma ha ba tra lê, chất đa la ba ra trê, ma ha chất đa la ba tra lê. Lại có các thứ hoa biến hóa, hoa vàng, hoa bạc, hoa lưu ly, hoa pha lê, hoa xích chơn châu, hoa xa cừ, hoa mã não từ trên không mưa xuống.
Lại mưa nước thơm cõi trời, nước thơm A Tu La. Do vì nước thơm ấy nên thành Ca Tỳ La trong ngoài sáu mươi do tuần đều thành bùn thơm, hơi thơm ấy khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới. Bồ Tát được nghe hơi thơm ấy được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
A Tu La Vương nhiễu Phật ba vòng, do thần lực đức Phật ở trong hư không trỗi âm nhạc trời và âm nhạc A Tu La. Các âm nhạc ấy do thần lực Phật nên vang khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới.
Người tu Ðại thừa nghe tiếng âm nhạc ấy được bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Vô lượng trăm ngàn A Tu La nữ, hoặc ca, hoặc vũ, hoặc tấu nhạc, hoặc thân chuyển động.
Các A Tu La nữ lại rải các thứ hương bột, cõi trời và các thứ hoa trời, hoa biến hóa, hoa thất bửu để cúng dường đức Phật. Lại rải những y phục báu và những đồ trang sức thất bửu, các thứ hương bột, các thứ chơn châu để cúng dường Phật.
A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða cùng các quyến thuộc đồng thanh nói kệ rằng:
“Tâm tôi thường như vậy
Gặp gỡ Phật Thế Tôn
Vì qui y Như Lai
Vị lai thường cúng dường”.
A Tu La Vương Ba La Ðà bố thí cúng dường Phật cũng như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rồi nói kệ rằng:
“Tôi lạy đấng được thiệt thập lực
Cũng lạy đấng vô úy tự tại
Quyết định được những pháp bất cộng
Quy mạng Ðạo Sư các thế gian
Tôi lạy đấng dứt trừ kiết sử
Cũng lạy xuất ly đường sanh tử
Ðạo Sư dẫn dắt chúng sanh nghèo
Tôi lạy trí sâu chẳng nghĩ bàn
Cùng chúng hòa hiệp chẳng lay động
Ở trong các loài tâm giải thoát
Như hoa sen kia chẳng dính nước
Thế Tôn vốn tu các pháp không
Rời lìa lựa chọn được vô tướng
Nơi tất cả chỗ không nguyện cầu
Tôi lạy như không không chỗ nương”.
A Tu La Vương Thiện Tý trần thiết cúng dường quảng đại vô lượng như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rải những lúa vàng chơn kim và nói kệ tán thán:
“Ðấng Ðại Mâu Ni không ai sánh
Trên trời dưới trời cũng vô tỉ
Phật biết chúng sanh như dương diệm
Chẳng phải thiệt chỉ là ý tưởng
Nơi đây không người làm người thọ
Cũng không sĩ phu không vô ngã
Rời lìa tạo tác không thể tánh
Tuyên nói tất cả pháp tịch địch
Tin hiểu được nơi pháp Như Lai
Quán tất cả pháp đều bình đẳng
Người ấy sẽ được làm Phật tử
Thuận lời Phật dạy như cha mẹ
Nay tôi khen ngợi phước đã được
Tôi đem phước đức của tôi có
Hồi thí chúng sanh đều làm Phật”.
A Tu La Vương Bạt Trì Tỳ Lô Giá Na trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng dùng hoa chất da la ba tra lê rải cúng dường Phật rồi nói kệ tán thán rằng:
“Ðại Tiên Như Lai thân thần diệu
Vượt hơn tất cả các Trời Người
Ðã như Tu Di so hột cải
Lại giống biển lớn sánh dấu trâu
Nhan dung Như Lai rất đoan chánh
Nhiều tướng trang nghiêm tối đệ nhứt
Vượt hơn tất cả các màu sắc
Như mặt nhựt mọc lửa đóm lu
Thế Tôn khối vô lượng oai đức
Khiến các oai đức chẳng hiện được
Như mặt nhựt mọc sáng đóm mờ
Ðại Thánh Thế Tôn biển trí lớn
Vượt hơn trùm khắp cả ba cõi
Che các ngoại đạo khiến chẳng hiện
Như mặt trời sáng khuất ánh trăng”.
A Tu La Vương Diệm Bà Lợi trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng, dùng hoa ma ha ba tra lê rải cúng Phật rồi nói kệ tán thán rằng:
“Bực trí huệ thích xa ma tha
Trừ được ba độc tham sân si
Dẫn dắt chúng sanh xuất thế gian
Như mưa rào tắt lửa lắng bụi
Thế Tôn hừng hực mắt chánh pháp
Cũng như dầu tô tưới lửa hừng
Hay dứt phiền não lưới nghi hết
Cũng như lửa đốt đồng hoang lớn
Nhan dung đoan chánh rất vi diệu
Các tướng trang nghiêm tối đệ nhất
Vượt hơn tất cả các diệu sắc
Như mặt nhựt mọc sáng đóm mờ
Như Lai nắm cầm các thiện căn
Vô lượng ức vạn na do tha
Hay trừ phiền não và nghiệp ác
Như ăn cam lộ trừ thân độc
Thổi trừ tất cả tối vô minh
Như đêm đuốc sáng soi hắc ám
Như Lai thị hiện mắt chánh pháp
Dường như thợ ngọc rõ giá ngọc”.
A Tu La Vương Lạc Chiến trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rải những hoa báu nói kệ tán thán rằng:
“Ác tâm khó điều Phật điều được
Như dũng sĩ mạnh hàng giặc dữ
Khéo được nhu nhuyến tâm tự tại
Tôi lạy đấng vô úy tâm điều
Ủiều được các căn lìa oán thù
Rời úy vô úy được an ổn
Thế Tôn phiền não chẳng còn phát
Trừ dứt độc hại đều không thừa
Sức na la diên khéo tu từ
Ở trong yêu ghét lòng bình đẳng
Như Lai biết ý tưởng chúng sanh
Chẳng bị sáu đường nắm giữ được
Rời lìa tâm tưởng hết tham ái
Phóng sáng trí huệ phá tối tăm
Ở trong các pháp lòng chẳng chấp
Thế Tôn siêu quá không ai sánh”.
A Tu La Vương Thiện Nhựt trần thiết cúng dường như Tỳ Ma Chất Ða A Tu La Vương, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng dâng các bửu tạng lên Phật nói kệ tán thán rằng:
“Ðại Hùng biết từ lâu
Thiệt tướng của các pháp
Ðó là tên các pháp
Ðều riêng hòa hiệp giả
Thể của tất cả pháp
Các cách cầu chẳng được
Nói rằng là pháp nầy
Nói đều là giả danh
Lìa danh gọi thể tánh
Các tướng cũng như vậy
Không tướng cũng không danh
Ðã lìa ba thứ pháp
Nói rằng là giải thoát
Thiệt thì không chỉ được
Người nói nói cũng không
Người hiểu cũng là không
Biết các pháp như vậy
Ðấng Mâu Ni vô thượng
Chẳng chấp nơi các pháp
Tu hành danh xưng lớn”.
A Tu La Vương Phục Tam Giới trần thiết cúng dường như Tỳ Ma Chất Ða A Tu La Vương, ngồi xe thất bửu nhiễu quanh Phật ba vòng dâng chơn châu anh lạc lên Phật nói kệ tán thán rằng:
“Nay tôi khen Phật lìa oán địch
Dung nhan đoan chánh sức giới trí
Tất cả thế gian không như Phật
Dùng thân vô tỉ phục thù địch
Sắc lực quang minh chiếu ba cõi
Tu các nghiệp lành được tướng tốt
Tám mươi tùy hảo đều nghiêm tịnh
Sức trì tịnh giới không bị động
Người trí suy lường chẳng biết được
Vì Phật trì giới tâm thanh tịnh
Nên được thành đấng Phật Thế Tôn
Trí lực của Phật không còn sánh
Vì không bố úy hơn ba cõi
Như vua sư tử rống giữa rừng
Vượt hơn tất cả các ngoại đạo”.
A Tu La Vương Tỳ Lô Giá Na trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng tay cầm các báu rải trên Phật mà tán thán rằng:
“Ðại chúng đều họp chỗ Mâu Ni
Tịnh tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai
Tất cả hiện tiền thấy Thế Tôn
Ðây là tướng bất cộng của Phật
Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
Mọi loài tùy tâm đều được hiểu
Phật thuyết pháp đúng cơ chúng sanh
Ðây là tướng bất cộng của Phật
Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
Chúng sanh tùy loài đều được hiểu
Xứng ý mong muốn biết rõ nghĩa
Ðây là tướng bất cộng của Phật
Phật dùng một âm diễn thuyết pháp
Hoặc có tu tấn hoặc điều phục
Hoặc có chứng được quả vô học
Ðây là tướng bất cộng của Phật”.
A Tu La Vương Mục Chơn Lân Ðà trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng tay cầm xích chơn châu rải lên Phật nói kệ tán thán rằng:
“Tâm tịnh vui mừng kính tin Phật
Rời lìa ngạo mạn không tà kiến
Thuận Phật A Hàm chẳng phóng dật
Ðây là bực tu hành vô tỷ
Các pháp tự tánh bất khả khả đắc
Như mộng hành dục thảy đều hư
Chỉ theo ý tưởng chẳng thiệt có
Thế Tôn biết pháp cũng như vậy
Như mây mùa thu trăng trong nước
Mê hoặc chúng sanh ngu vô trí
Chẳng mê hoặc được người mắt sáng
Tinh tấn rất ưa Phật chánh pháp
Người diệu rất diệu chẳng sai lầm
Ở trong Phật pháp chẳng phóng dật
Phân biệt các pháp đều như mộng
Ðược thấy như thiệt diệu tam muội”.
Bấy giờ các A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða v.v… có sáu mươi na do tha A Tu La trần thiết cúng dường rồi, thảy đều chắp tay làm lễ đứng yên, mừng vui hớn hở tình ý tràn đầy vui mừng vừa lòng, tâm nguyện Bồ Ðề nối tiếp chẳng tuyệt.
Ðức Thế Tôn biết các A Tu La tín tâm cúng dường rồi, theo pháp chư Phật mà thị hiện tướng mỉm cười. Từ diện môn của Phật phóng ra vô lượng tia sáng màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng tía pha lê vàng bạc và màu lẫn lộn. Từ miệng phóng ra rồi, các tia sáng màu ấy nhiễu Phật ba vòng trở về nhập vào đảnh Phật.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay làm lễ rồi nói kệ hỏi Phật rằng:
“Hùng mãnh Mâu Ni hiện thoại tướng
Thương thế gian chẳng phải không nhơn
Thế Tôn tối thắng xin nói cho
Nhơn duyên gì Ðại Tiên hiện tướng
Thương xót chúng sanh hiện thoại ứng
Thấy các Tu la cúng dường lớn
Muốn thọ ký cho A Tu La
Khiến đại chúng tôi được vui vẻ
Nay có thắng tâm tin chẳng nghi
Trong chúng đây có người phát tâm
Thế Tôn biết tín căn họ rồi
Thiền Nhơn Ðạo Sư hiện tướng ấy
Ngày nay ai phát tâm thanh tịnh
Trong đại chúng ai sanh thắng tín
Thế Tôn biết tín căn họ rồi
Hiện thoại tướng mỉm cười tối diệu
Nay đại chúng đây muốn biết rõ
Ðều thấy Như Lai hiện mỉm cười
Hôm nay ai lại hàng ma oán
Phật hiện mỉm cười vì người ấy
Lành thay Ðại Tiên hàng ma oán
Mong dứt lòng nghi của đại chúng
Nguyện Phật nói mau chớ chần chờ
Cho đại chúng đây được biết rõ”.
Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng:
“Lành thay nghĩa hỏi của Tỳ Kheo
Phật hiện thoại tướng lợi thế gian
Phật nói quả báo không có thừa
Nay ông nhứt tâm khéo lắng nghe
Các A Tu La cúng dường Phật
Ðể cầu Vô thượng thắng Bồ Ðề
Tâm ý Tu La không chỗ nương
Như tay tại hư không chẳng chướng
Tu La cúng dường Thế Tôn rồi
Tâm ý chúng ấy đều thanh tịnh
Ðại trí đều bỏ đạo Tu La
Với Trời Người từ lâu đã thích
Chúng ấy ở đời vị lai sau
Gặp gỡ hằng sa đại Ðạo Sư
Ở kiếp Thiện Danh được thành Phật
Chư Phật ấy đồng hiệu Thiện Danh
Số đúng sáu mươi na do tha
Danh chấn mười phương soi thế gian
Diễn nói pháp vô y vô trước
Hay rộng độ thoát chúng Nhơn Thiên
Các Phật độ ấy rất nghiêm tịnh
Phật biết thế gian rời ngũ trược
Tịnh Phật quốc độ ba ngàn cõi
Số đúng sáu mươi na do tha
Nước kia chẳng có ba ác đạo
Do lòng mừng vui đất ruộng sạch
Phật kia hùng mãnh Vô thượng Ðại thừa
Chư Như Lai kia được thọ mạng
Ở đời sáu mươi do tha kiếp
Diễn nói pháp không nơi y chỉ
Mỗi mỗi Như Lai đều cũng vậy
Sau khi Như Lai kia diệt độ
Thế gian người trí đều cũng diệt
Ðủ số sáu mươi do tha kiếp
Chánh pháp Phật ấy còn tại thế
Chư Như Lai ấy đều riêng độ
Số chúng sanh đông như hằng sa
Chư Như Lai ấy số vô lượng
Cõi thọ chánh pháp trụ cũng vậy
Chư Như Lai kia hay thành thục
Sáu mươi do tha số chúng sanh
Ðều khiến an trụ trong Ðại thừa
Thảy đều nối tiếp giống Tam bảo
Hôm nay thọ ký cho Tu La
Ðấng Ðại Tiên độ đời tuyên nói
Trời Người nghe thọ ký nầy rồi
Thâm tâm hớn hở được tịnh tín”.
Bấy giờ Huệ Mạng Ma Ha Ca Diếp thấy các A Tu La Vương cúng , dường đức Phật rồi , sanh tâm hi hữu tự nghĩ rằng : Lúc đức Thế Tôn tu hạnh Bồ Tát tạo căn lành gì mà nay được quả báo ấy ? Ngài liền nhập như thiệt tam muội, do sức tam muội trang nghiêm nơi tâm nên nhớ biết thuở quá khứ vô số a tăng kỳ kiếp tất cả công đức mà Như Lai đã tu tập trong các loài ấy, trong các đời ấy tu tập thiện căn đều để làm đầy đủ vô thượng Bồ đề. Do các thiện căn ấy mà được bực bất thối chuyển, các thiện căn ấy đều nhớ biết.
Lúc Ngài Ma Ha Ca Diếp nhớ thiện căn lớn của đức Như Lai, Ngài nghĩ rằng như Phật đã tu tập căn lành rộng lớn, thiện căn mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai , ví như hằng sa thế giới quốc độ mười phương tất cả chúng sanh trong ấy đều được thân người, rồi trong hằng sa kiếp cúng dường chư Phật như A Tu La Vương. Mỗi mỗi chúng sanh trong hằng sa kiếp cúng dường Phật rồi chẳng báo đáp được thiện căn một lần phát tâm của đức Như Lai.Huệ Mạng Ma ha Ca Diếp từ tam muội dậy tán thán rằng :
“ Mỗi mỗi Như Lai đấng Mâu Ni
Phát tâm rộng lớn hướng Bồ đề
Sự cúng dường Phật các Tu La
Cũng chẳng bằng một phần Ca La
Thế Tôn Ứng Cúng Thầy Trời Người
Như khối chiên đàn bằng núi chúa
Chỗ cúng dường thù thắng Trời Người
Do nơi công đức đến bỉ ngạn
Ðấng Thầy Trời Người đáng thọ cúng
Hơn số hằng hà sa đã thọ
Ví như biển cả đầy nước trong
Nước thơm hòa hiệp mà cúng dường
Ðầy đủ công đức nên thọ cúng
Nhiều hơn cả số hằng hà sa
Chứa đầy khối hoa mà cúng dường
Dường như núi Chướng Ca Bà La
Tự nhiên Ðại Sĩ nên thọ cúng
Ngọn đèn sáng như núi Tu Di
Biển cả dùng làm bình đựng dầu
Ðem đèn cúng dường chư Thế Tôn
Ðấn oai thế nên thọ cúng dường
Nhiều hơn số hằng hà sa
Tạo lập tháp miếu mà cúng dường
Do nơi công đức đến bỉ ngạn
Nhơn Thiê Ðạo Sư nên thọ cúng
Ðem những lọng báo lớn đẹp lạ
Mỗi lọng che khắp cõi Ðại Thiên
Trải suốt số kiếp na do tha
Ðấng Thế Tôn thương xót thế gian
Công đức vô biên nên thọ cúng
Ðem những tràng báo để cúng dường
Ðầy khắp thế giới trong mười phương
Nơi số kiếp ức bất tư nghị
Ðem phan rộng lớn mà cúng dường
Ðầy hằng hà sa các thế giới
Trải qua vô lượng ức kiếp số
Cúng dường Như Lai Thiên Nhơn Sư
Phát khởi phân biệt làm thí dụ
Ðại chúng con của Ðại Luận Sư
Lắng nghe lắng nghe các Trời Người
Tôi cùng mọi người tại chúng nầy
Số đông như số hằng hà sa
Bao nhiêu đại chúng ở mười phương
Tất cả đều sẽ được làm Phật
Ðầy đủ thập lực đại Ðạo Sư
Số chư Phật ấy như hằng sa
Mỗi mỗi đều có hằng sa đầu
Nơi mỗi mỗi đầu như hằng sa
Ðều có đủ cả hằng sa miệng
Nơi mỗi mỗi vô lượng miệng ấy
Ðều có vô lượng vô số lưỡi
Dùng lưỡi ca ngợi nơi Như Lai
Chư Như Lai ấy nói chẳng hết
Công đức bờ kia chẳng đến được
Nhứt thiết chủng trí chẳng lường được
Do công đức đến bỉ ngạn vậy ”.
Ðức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo: “ Lành thay, lành thay ! Nầy chư Tỳ Kheo ! Chư Thanh Văn của ta lòng đoan trực có trí có pháp như Phạm Thiên mới được vào trong biển công đức của Phật. Tại sao ? Vì Như Lai đầy đủ vô lượng công đức, đầy đủ công đức chẳng nghĩ bàn. Khối công đức của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.
Nầy chư Tỳ Kheo ! Khối công đức của Như Lai nếu là hình sắc, thì công đức mỗi mỗi lần phát tâm ấy, hằng sa thế giới chẳng dung chứa được? Tại sao ?
Nầy chư Tỳ Kheo ! Công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai là chỗ phan duyên của Nhứt thiết trí, như hằng sa chư Phật, như hằng sa kiếp, chẳng thể suy lòng chẳng thể nói hết. Tại sao ? Vì lúc Như Lai tu hạnh Bồ Tát thuở xưa không một phát tâm nào là chẳng vì lợi ích tất cả chúng sanh, nhiếp thuộc chúng sanh không một phát tâm nào là chẳng vì tất cả chúng sanh, chúng sanh giới không biên tế, chúng sanh trong đó cũng không biên tế, công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai cũng không biên tế. Tại sao ? Như chúng sanh giới không biên tế, như chúng sanh giới chẳng lường được, khối công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai chẳng thể cùng tận, đều vì thương xót lợi ích an lạc tất cả chúng sanh mà phát tâm vậy. Giả sử tất cả chúng sanh đều cúng dường chẳng thể báo đáp được công đức một lần phát tâm của Như Lai. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy cúng dường Như Lai đều vì hi vọng quả báo thế gian tạp thực vậy.Bồ Tát phát tâm rời lìa nơi tâm tạp thực cầu báo thế gian mà vì lợi ích an lạc chúng sanh, muốn khiến chúng sanh trái sanh tử mà xu hướng Niết bàn.
Lúc Như Lai tu hạnh Bồ Tát thuở xưa vì lợi ích an lạc chúng sanh, rời lìa tạp thực chẳng cầu báo thế gian ”.
Ðức Phật bảo chư Tỳ Kheo ; “ Thuở quá khứ, vô lượng vô biên lưu chuyển sanh tử vô số bất khả tư nghì trong vô thỉ thế giới bất khả thuyết kiếp có Phật hiệu Nhơn Ðà Tràng Vương xuất thế đủ mười đức hiệu.
Nầy chư Tỳ Kheo ! Lúc đức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai thành Phật, hằng sa thế giới đồng một quốc độ trang nghiêm thanh tịnh không có các ác đạo và tám nạn, chúng sanh trong đó đều an trụ chánh định tụ. Hoàn toàn không có chúng sanh tà định, tăng thượng mạn. Tất cả đều không có thân nghiệp bất tịnh, khẩu nghiệp bất tịnh, ý nghiệp bất tịnh, cũng không có phiền não ác đạo, nghiệp ác đạo.
Tại sao ? Vì đức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai giáo hóa chúng sanh ấy cho họ phát tâm dứt tất cả ác, đem pháp lành dạy cho họ tu học.
Trong quốc độ của đức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai có năm thứ vui : một là được dục lạc, hai là được vui xuất gia, ba là được vui thiền định, bốn là được vui tam ma đề, năm là được vui Vô thượng Bồ đề.
Các chúng sanh ở quốc độ ấy dầu thọ lạc mà chẳng nhiễm trước , như ong mật chi” lấy mật hoa mà chẳng lấy sắc hoa, như chim bay đi trên không mà chẳng dừng dính hư không, chúng ấy cũng vậy dầu thọ lạc mà chẳng nhiễm lạc. Các chúng sanh ấy không có lo khổ chỉ có vui sướng, cũng không bất khổ bất lạc thọ vì không ngu si vậy, chỉ có sự vui thích vừa lòng. Tại sao ? Vì các chúng sanh vốn đã tu căn lành. Do vì đức Phật ấy lúc tu hạnh Bồ Tát hiện các tướng hảo khiến các chúng sanh ấy chẳng làm ác mà đặt để cho họ tu tập pháp lành, họ lần lượt rời lìa ác đạo ở chỗ lành vui, tất cả thứ nghiệp bất thiện họ đều không hẳn. Lúc họ tạo nghiệp lành được quả báo an vui mà họ chẳng tham luyến và không bao giờ sanh khổ thọ, vì chẳng tạo nghiệp ác nên chẳng thọ quả khổ vậy.Vì không ngu si nên cũng không bất khổ bất lạc thọ.
Trong quốc độ ấy tất cả thời gian thường không có gió dữ mưa bạo, cũng không có độc nhiệt, chúng sanh cõi ấy không có khổ vì thời tiết thay đổi.
Lúc đức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai tu hạnh Bồ Tát, tất cả thân nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả khẩu nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả ý nghiệp trí thượng thủ tri thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả chúng sanh trong quốc độ ấy theo Bồ Tát nghe pháp rồi tất cả ba nghiệp thân khẩu ý nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển hồi hướng. Do nơi nghiệp lành nên báo ngu si chẳng sanh. Do vì không ngu si nên chúng sanh ấy không có khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Các chúng sanh ấy lúc sanh quốc độ kia, đức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai giáo hóa rồi, họ kính trọng nơi pháp, nếu lúc du hành họ suy lường nơi pháp yêu thích nơi pháp nhiễm trước nơi pháp. Lúc du hành do họ yêu thích nhiễm trước nơi pháp không có khổ thọ, đi đứng ngồi nằm ngủ thức đều không có một chút khổ về oai nghi. Các chúng sanh trong quốc độ ấy không có ác để thuận theo.
Do vì không ác nên không có khổ sanh và không chấp nơi lành. Do cớ ấy nên các chúng sanh kia khéo thuận nơi không mà không có biến dịch khổ. Ở trong các pháp chẳng sanh tham trước nên chẳng có hoại khổ. Quốc độ ấy cũng không có hoán tắng hội khổ. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy ở trong tất cả chúng sanh được tâm an trụ bình đẳng hiện tiền nên không có oán tắng.
Cũng không có ái biệt ly khổ. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy không ái trước tất cả pháp. Khổ ái biệt ly do nơi ái mà sanh. Chúng sanh ấy không ái nhiễm nên không có ái biệt ly khổ. Cũng không có khổ khổ. Tại sao ? Vì đối với lạc thọ chẳng luyến trước vậy.Chỉ có hành khổ thôi, đó là vô thường khổ. Tại sao ? Ðức Phật ấy chỉ nói đệ nhứt nghĩa đế. Ðức Phật thọ hằng sa kiếp. Trong Phật độ ấy không có một chúng sanh nào tranh luận với Phật mà sanh trong cõi ấy. Tại sao ? Vì lúc làm Bồ Tát đã thành thục xong chúng sanh vậy”.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : “ Nầy chư Tỳ Kheo ! Ý các ông thế nào ? Có thể dùng hạ thiện căn, ít thiện căn những thiện căn
Chẳng tập giỏi, những thiện căn chẳng tương ưng, thiện căn chẳng phải đại tinh tấn, thiện căn chẳng phải thiện thú, chẳng phải thiện pháp, chẳng phải thiện hồi hướng mà có hể làm lợi ích các chúng sanh ấy hay ban vui trừ khổ ư ? Có thể nghiêm tịnh quốc độ quảng đại ấy ư ? Có thể thành thục nhiều chúng sanh như vậy ư ? ” .
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ” .
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng :” Ý các ông thế nào ? Có thể dùng tâm hạ liệt, tâm khiếp nhược, tâm tương ưng bất thiện, tâm chẳng phải tinh tấn, tâm chẳng phải khéo tập thiện căn, tâm chẳng phải thiện thú, tâm chẳng phải thiện pháp, tâm chẳng phải thiện hồi hướng mà làm lợi ích an lạc được các chúng sanh ấy, ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng snh như vậy chăng ? ”.
Chư Tỳ Kheo bach rằng : “ Chẳng thể được ”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng :” Ý các ông thế nào ? có thể dùng tin hạ liệt, tin ít, tin kém, tin khiếp nhược, tin tương ưng bất thiện, tin chẳng phải tinh tấn, tin chẳng phải khéo tập thiện căn, tin chẳng phải thiện thú, tin chẳng phải thiện pháp, tin chẳng phải thiện hồi hướng mà lợi được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đai như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng?”.
Chư Tỳ Kheo bạch Phật rằng :” Chẳng thể được ”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng giới hạ liệt, giới ít, giới kém, giới chẳng phải tinh tấn, giới chẳng phải khéo tập thiện căn, giới chẳng phải thiện thú, giới chẳng phải thiện pháp, giới chẳng phải thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ dược và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?” .
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng tinh tấn hạ liệt , tinh tấn ít, tinh tấn kém, tinh tấn khiếp nhược, tinh tấn chẳng tương ưng, tinh tấn chẳng phải tinh tấn, tinh tấn chẳng phải khéo tập thiện căn, tinh tấn chẳng phải thiện thú, thiện pháp, thiện hồi hướng mà lợi ích được
Các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể dược ”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng niệm hạ liệt, niệm ít, niệm kém , niệm khiếp nhược, niệm chẳng tương ưng thiện căn, niệm chẳng tinh tấn, niệm chẳng khéo tập thiện căn , niệm chẳng phải thiện thú, thiện phát thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ? ”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng định hạ liệt, định ít, định kém, định khiếp nhuợc, định chẳng tương ưng thiện căn, định chẳng tinh tấn, định chẳng khéo tập thiện căn, định chẳng thiện thú, thiện phát, thiện hồi hướng, mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ và nghiêm tịnh được quốc độ quảng đại ấy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ? ”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.
Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng huệ hạ liệt,huệ ít, huệ kém, huệ khiếp nhược, huệ chẳng tương ưng thiện căn, huệ chẳng tinh tấn, huệ chẳng khéo tập thiện căn, huệ chẳng thiện thú, thiện pháp, thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại ấy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?”.
Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ðúng như vậy. Nầy các Tỳ Kheo ! Thiệt chẳng phải dùng ít thiện căn , ít giới, ít tín, ít tinh tấn, ít niệm, ít định, ít huệ mà có thể lợi ít được các chúng sanh, và có thể ban vui cứu khổ, nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại, thành thục, được nhiều chúng sanh như vậy.
Nầy chư Tỳ kheo ! Ý các ông thế nào ? Các ông có biết đức Phật Nhơn Ðà Tràng Vương thuở quá khứ xa xưa ấy là ai chăng ? ”.
Ðức Phật hỏi rồi mà chư Tỳ Kheo đều nín lặng chẳng đáp.
Ðương lúc ấy, phương Ðông quá hằng sa thế giới tên Nguyệt Quang Trang Nghiêm, hiện tại có Phật hiệu Cao Oai Ðức Vương Như Lai. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở tại chúng hội ấy biết tâm niệm của Phật Thích ca Mâu Ni liền bạch đức Cao Oai Ðức Vương Như Lai rằng : “ Bạch đức Thế Tôn! Nay Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp tại thế giới Ta Bà. Tôi qua đó đảnh lễ cúng dường cung kính nghe pháp ”. Ðức Cao Oai Ðức Vương Như Lai nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng : “Ông đi tùy ý, nay đã phải lúc ”. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đầu diện lễ đức Cao Oai Ðức Vương Như Lai đi nhiễu Phật ba vòng rồi như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ cõi Nguyệt Quang Trang Nghiêm hiện ra trước đức Thích Ca mâu Ni Như Lai lạy chân Phật rồi ngồi một bên mà bạch rằng : “ Bạch Thế Tôn ! Ðức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai thuở xưa ấy tức là Thế Tôn vậy. Tại sao ? Do đức Thế Tôn đầy đủ bất tư nghì các thiện phương tiện có thể thành thục chúng sanh và nghiêm tịnh Phật độ luôn chẳng mỏi mệt cũng chẳng chán nhàm. Ðức Thế Tôn an trí chúng sanh nơi Bồ Tát thừa cũng chẳng mỏi nhàm. Nếu có người chơn thiệt ngữ nói lời chánh đáng rằng : Thù thắng trong thù thắng, vi diệu trong vi diệu, thượng thủ trong thượng thủ, tối thắng trong tối thắng, nói đức Phật là như vậy, thì nên biết rằng Thích Ca Mâu Ni chơn thiệt không khác ”.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói kệ rằng :
“ Hùng mãnh xảo phương tiện
Thương xót các thế gian
Hiện đại oai thần lực
Ðể thành thục chúng sanh
Ðã ở thuở quá khứ
Từng làm tám ức Phật
Như tự có thần lực
Vô tâm chứng chánh giác
Sáu mươi một Tam Thiên
Thanh tịnh quốc độ Phật
Trí cạn chẳng biết Phật
Mâu Ni xảo phương tiện
Chẳng bỏ sơ phát tâm
Các nơi chỗ kia hiện
Lại ở đời vị lai
Thị hiện vô lượng Phật ”.
Bấy giờ lại có tám ức sáu vạn Kim sí Ðiểu Vương thấy A Tu La cúng dường Phật và được thọ ký rồi, đối với Như Lai lòng tin vô lượng vui mừng hớn hở. Vì để cúng dường nên chư Kim Sí điểu Vương hóa hiện tám ức sáu ngàn vạn đền đài thuần nghiêm sức với thất bửu cõi trời rất lạ vi diệu. Mỗi mỗi đền đài có bảy lớp câu lan bằng tứ bửu la vàng bạc lưu ly và pha lê vi diệu đệ nhứt xen lẫn hiệp thành.
Vòng quanh bốn mặt đền đài ấy treo thòng những linh thất bửu là vàng bạc lưu ly pha lê xa cừ mã não và chơn châu, báu ấy tinh kỳ vi diệu đệ nhứt. Lại có màn lưới thất bửu, tràn thất bửu, phan thất bửu và tám ức sáu ngàn vạn trướng thất bửu.
Chư Kim Sí Ðiểu Vương cầm tám ức sáu ngàn vạn đền đài thất bửu ấy, lọng phan tràng trướng thất bửu ấy dưng lên đức Phật Như Lai . Ðã cúng dường xong, chư Kim Sí Ðiểu Vương và những vật cúng dường bay trên hư không nhiễu quanh đức Phật ba vòng như tượng vương Yên La Bà Na ở cõi trời Ðao Lợi đầu đội chư Thiên bay trên không đến cây ba lợi chất đa la. Chư Ðiểu Vương ấy mang đền đài lọng tràng phan trướng thất bửu bay trên không nhiễu quanh Phật ba vòng cũng như vậy.
Chư Ðiểu Vương bay nhiễu Phật rồi dừng ở một phía cung kính đồng thanh nói kệ tán thán rằng:
“ Quy mạng đấng xuất ly sanh tử
Quy mạng đấng cứu độ sanh tử
Quy mạng đấng kiên cố vô thương
Quy mạng đấng vô thượng vô đẳng
Nghuyện tôi sẽ được thân kiên cố
Ba mươi hai tướng tự nghiêm sức
Lại có tám mươi tùy hình hảo
Nguyện cầu chúng tôi như Ðạo Sư
Nguyện tôi viên quang đủ oai đức
Hình nhan công đức đều thành tựu
Nguyện được Phật oai nghi đệ nhứt
Khiến tâm người tịnh chứng tịch diệt
Nguyện đủ giới đức tam ma đề
Cũng được Phật trí huệ vô thượng
Nguyện đều làm Phật độ chúng sanh
Như nay Phật làm thế Ðạo Sư
Bạch Phật tôi nguyện đủ thập lực
Cũng được mười tám pháp bất cộng
Thành Phật trí huệ hơn thế gian
Như nay là Phật thượng trong thượng
Cũng biết chúng sanh không thể tánh
Như ảo như mộng không sở y
Tuyên nói như hướng như hư không
Như Phật hôm nay vì chúng nói ”.
Ðức Phật biết chư Ðiểu Vương kính tin rồi, liền hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng:
Ðấng vô thượng thắng đại Ðạo Sư
Chẳng vô sự mà hiện tướng cười
Ðấng thương thế gian xin nói cho
Hiện tướng mỉm cười do cớ gì
Chư Ðiểu Vương kia đã cúng Phật
Ðiện lọng tràng phan hiện hư không
Khiến Trời Người thấy sanh ngưỡng mộ
Nguyện Lưỡng Túc Tôn nói nghĩa ấy
Tất cả đại chúng chấp tay đứng
Thân tâm thanh tịnh đều mừng rỡ
Nguyện nghe Ðiểu Vương quả vị lai
Xin Lưỡng Túc Tôn tuyên nghĩa ấy
Néu đức Thế Tôn tuyên nói rồi
Tất cả đại chúng đều không nghi
Ðại chúng rời nghi được vô úy
Trí Như Lai hay làm mừng rỡ
Ðại chúng vui mừng được vô úy
Rời những lỗi ác tâm thanh tịnh
Chúng ấy thích nghe Như Lai nói
Dường như đệ tử nhận lời thầy
Nguyện dứt lòng nghi của đại chúng
Nguyện Phật nhiếp thọ cho mừng rỡ
Ðại chúng mừng vui đều đến họp
Nguyện nói Ðiểu Vương quả đương lai ”.
Ðức Phật nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng:
Thập lực chơn thiệt siêu tất cả
Viên âm phạm thanh đều đầy đủ
Hàng phục các căn vì Mã Thắng
Nói quả vị lai của Kim Sí
Lành thay Mã Thắng hỏi nghĩa ấy
Phật hiện mỉm cười thương thế gian
Lắng nghe báo ấy để vui dạ
Lòng sẽ mừng rỡ trừ nghi hoặc
Ðiểu Vương cúng dường lớn nơi Phật
Ðể cầu quả Bồ đề Vô thượng
Bốn vô sở úy mười trí lực
Vì được pháp ấy thành Ðạo Sư
Lại cầu mười tám pháp bất cộng
Kim Sí Vương ấy cúng dường Phật
Cũng cầu thân kiên cố chẳng hoại
Ba mươi hai tướng tám mươi tốt
Cầu Phật tịnh giới tam ma đề
Cảnh giới đại trí huệ của Phật
Thành tựu tịnh độ độ thế gian
Vì cầu đây Ðiểu Vương cúng Phật
Ðiểu Vương lòng tin cúng Phật rồi
Kẻ trí hay rời súc sanh đạo
Quyết sẽ được sanh tại cõi trời
Thân chim nầy là thân tối hậu
Hằng sa kiếp sau chúng họ sẽ
Thường sanh nhơn gian và thiên thượng
Cúng dường vô lượng chư Phật rồi
Sẽ được làm Phật phục các căn
Quốc độ Phật ấy không ác thú
Ðầy đủ thân tướng lìa tám nạn
Phật ấy đồng hiệu Phổ Ðoan Chánh
Kiếp ấy tên là Tu Di Tràng
Trong tám ức bốn ngàn vạn năm
Vì thương thế gian Phật trụ thế
Thuở ấy tất cả chư Như Lai
Tuổi thọ Phật sự thảy đều đồng
Phật ấy lìa nhiệt dứt phiền não
Mỗi mỗi đức Phật tám mươi hội
Trong mỗi mỗi hội tám ức người
Rời lìa kiêu mạn được tự tại
Vì họ sẵn có thân kim sắc
Sức mạnh nên lòng thường kiêu mạn
Sau nầy thành Phật thương chúng sanh
Dứt trừ kiêu mạn chuyển pháp luân
Quá khứ chúng họ đã từng làm
Chúng tiên nhơn tu hành khổ hạnh
Số đủ tám ức sáu ngàn vạn
Phàm chỗ tu hành vì thần thông
Lúc chúng tiên nhơn được thần thông
Khen mình khổ hạnh là hi hữu
Chẳng phạm cấm giới đủ công đức
Ở trong rừng núi sanh kiêu mạn
Do kiêu mạn nên sanh Kim Sí
Do tâm thông nên có thần lực
Do giới thanh tịnh nên thấy Phật
Do mạn nên quên tâm Bồ đề
Nay Phật thọ ký Bồ đề rồi
Và nói gốc sanh ra Kim Sí
Ðại chúng nghe rồi đều vui mừng
Mừng rồi đều thành Bồ đề khí ”.
Bấy giờ chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ thấy chư A Tu La và chư Ca Lâu La cúng dường Thế Tôn và được thọ ký rồi sanh lòng mừng vui hớn hở vừa ý phát khởi tâm cúng dường Thế Tôn. Họ liền hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn lọng thất bửu, thân lọng bằng tỳ lưu ly, cán lọng bằng chơn kim, lưới tỳ lưu ly trùm trên lọng, viền bằng lưới xích chơn châu, trăm ngàn lọng con bằng tỳ lưu ly và lưu tô bảy báu thòng rủ bốn phía. Chư Long Nữ lại hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn ngựa quí, ngựa xanh màu xanh thân xanh ánh sáng xanh, tất cả đồ trang sức đều xanh, báu tỳ lưu ly làm cương khớp,lại hóa hiện trên không xe báu ma ni đại oai đức trên xe ấy có điện báu ngang rộng đều sáu mươi do tuần, điện báu ấy che trùm khắp cả chúng tại đại hội, bốn mặt điện có chín ức sáu ngàn vạn lưu tô bằng những châu báu thòng xuống các nơi vi diệu rất lạ, màu sáng chóa mắt. Có lưới báu trùm trên điện báu ấy. Lại có linh báu treo bốn mái điện hóa làm các thứ chim thất bửu thứ tự bay liệng, nhiều vòng bốn mặt điện báu ấy. Lại hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn thứ âm nhạc rồng. Chư Long Nữ ấy ngồi trên ngựa xanh ném lọng báu lên hư không tự nhiên bay đi . Chư Long Nữ đều cầm nhạc khí hòa tấu nhiễu quanh Phật ba vòng, dùng bột thơm chiên đàn và trầm thủy cõi trời và bột la đa ma la, bột vàng chơn kim cõi trời cùng các thứ hoa rải lên trên đức Phật, lại đem các thứ vòng hoa, các thứ y phục quý lạ, các thứ hương, các thứ anh lạc rải lên trên đức Phật để cúng dường.
Lúc chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ tấu nhạc, do thần lực của Phật, âm thanh ấy vang khắp tam thiên Ðại thiên thế giới. Chúng sanh được nghe âm thanh ấy thì được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Trong điện báu đại oai đức và trong khoảng kê của lưu tô thất bửu, các chim thất bửu, những linh báu do gió nhẹ thổi đọ-ng phát ra âm thanh vi diệu hòa nhã rất đáng ưa thích như trăm thứ nhạc do các nhạc công giỏi cùng hòa tấu. Âm thanh ấy do thần lực của Phật, cũng vang khắp Ðại Thiên thế giới, chúng sanh được nghe đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Chư Long Nữ lại mua các thứ hoa trời, các thứ hương trời cùng nước thơm. Hơi thơm ấy bất luận gió nghịch gió thuận đèu bay đi vô ngại. Do nước thơm mưa xuống ấy mà cả thành Ca Tỳ La ngang rộng sáu mươi do tuần đều thành bùn thơm. Hơi thơm ấy xông khắp Ðại Thiên thế giới. Chúng sanh được ngửi hơi thơm ấy đều được bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề.
Chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ ấy cúng dường đức Phật rồi và cùng chín ức sáu ngàn vạn lọng báu, ngựa báu, âm nhạc báu, tất cả các báu trang nghiêm ở trên hư không đảnh lễ Phật nhiễu quanh Phật ba vòng rồi dừng ở một phía cung kính nói kệ tán thán rằng :
“ Hàng Long Nữ có trí huệ tốt
Tâm ý hớn hở sanh mừng vui
Cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật
Nguyện cầu an đại Bồ đề
Hóa làm chín ức sáu ngàn vạn
Lọng báu và các trang nghiêm đẹp
Cúng dường đức Phật khéo điều tâm
Xuất ly tất cả các chướng ngại
Lại hóa chín ức sáu ngàn vạn
Ngựa quí và đồ trang nghiêm báu
Ngựa và trang nghiêm đều màu xanh
Cũng lại hóa hiện tràng màu xanh
Ngựa ấy đều đi trên hư không
Ðến chỗ Phật ngự dâng lễ cúng
Long Nữ đều có lòng kính tin
Ðầu mặt đảnh lễ chư Như Lai
Những hóa nhạc khí ở Long cung
Vì cúng dường Phật mà đem đến
Ðến rồi dâng lên Thích Ca Phật
Ðáng thọ cúng dường đại Ðạo Sư
Thế Tôn khiến tiếng âm nhạc ấy
Vang khắp cõi tam thiên Ðại Thiên
Vô lượng chúng sanh được nghe rồi
Ðều được tâm Bồ đề bất thối
Chúng Long Nữ ấy ở không trung
Hóa làm một đại chúng bửu điện
Rộng rãi có sáu mươi do tuần
Trùm khắp toàn hội các đại chúng
Báu ấy tên ma ni oai đức
Chiều khắp mười phương cõi Ðại Thiên
Hàng Long Nữ ấy đều tiến lên
Tâm tịnh mừng vui cúng dường Phật
Phát sanh lòng hớn hở vô lượng
Vì cầu quả Bồ đề an ổn
Nguyện cho chúng tôi sẽ làm Phật
Vì lợi ích tất cả chúng sanh
Chúng tôi nguyện vì vô lượng chúng
Thuyết pháp cứu khỏi vòng phiền não
Cũng như thập lực đại Ðạo Sư
Hiện nay cứu khổ chúng sanh vậy
Tất cả các pháp như ảo mộng
Cũng như bọt nước chẳng chắc bền
Lại như mưa xối nổi bóng nước
Nên biết các pháp không có chủ
Chúng sanh như ảnh cũng như tượng
Quan sát thế gian như vậy rồi
Mong nguyện chúng tôi vì chúng nói
Pháp tánh chơn như và thiệt tế
Như Phật trí sáng khéo thấy pháp
Vọng tưởng hư ngụy dối thế gian
Như ảo trang nghiêm không có thiệt
Chỉ hay noặc loạn các phàm phu
Với pháp chúng sanh mê vô trí
Chẳng biết các pháp chơn thiệt tánh
Ðạo Sư đã thấy pháp bỉ ngạn
Lại hay khiến các chúng khác hiểu
Hư không nổi mây che khắp đất
Thấy mây hư không kia như ảnh
Nó không thể thiệt không sở y
Cũng lại như ảnh không có thiệt
Chúng sanh như vậy không thể tánh
Chỉ hay dối lầm các căn môn
Phật trí thấy các loài như vậy
Chỉ hay dối lầm kẻ vô tri
Thế gian tôn trọng lấy nghiệp ấy
Nơi người trí huệ làm lợi ích
Như Lai thị hiện không thể tánh
Vì chúng sanh thấy chơn thiệt vậy
Chỉ dùng thiệt pháp vui lòng chúng
Trong bùn sanh tử làm cầu đò
Thiệt pháp chẳng phải cảnh người ngu
Vì họ chấp danh chẳng cầu nghĩa
Vì Phật trí sáng tôi quy y
Ðấng đầy đủ thị hiện chơn thiệt
Hay làm thân cứu cho kẻ ngu
Làm thiện tri thức làm nhà về
Như vậy vì cầu đại Bồ đề
Chúng tôi cúng dường đại Ðạo Sư
Nguyện được làm Phật giác ngộ người
Lợi ích thế gian như Phật vậy ”.
Ðức Thế Tôn biết các Long Nữ đã thâm tín nên hiện tướng mỉm cười; huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi rằng :
Ðấng thắng trí ở trong thế trí
Ðạo Sư tối thắng hiện mỉm cười
Ðức trọng kiên cố dường như núi
Phật hiện mỉm cười chẳng không nhơn
Ðấng chứa tối thượng hơn trong người
Mong nói nhơn duyên tướng mỉm cười
Trời Người Rồng Quỉ nếu được nghe
Nơi Phật đều sanh lòng mừng rỡ
Thế gian Ðạo Sư với thế gian
Thương biết tất cả pháp nhơn duyên
Không có một pháp Phật chẳng hiểu
Nhơn duyên chủng loại Phật đều biết
Ngưỡng mong đức Phật thương nói cho
Duyên cớ do đó Phật mỉm cười
Tất cả đại chúng nếu được nghe
Sanh lòng mừng rỡ hết nghi hoặc
Như Lai diệu pháp có lợi lớn
Những đại chúng đây quyết sẽ được
Ðại chúng nếu được tâm tịch định
Do ưa diệu pháp được lợi ích
Phật lực khiến dứt phân biệt rồi
Chỉ thích Bồ đề nghe Phật nói
Nếu được nghe nhơn duyên mỉm cười
Quyết sẽ thành tựu nơi Phật đạo
Nếu người nơi pháp lòng có nghi
Tâm họ xao động sanh khổ não
Hiện nay đại chúng trong hội này
Chẳng biết duyên do Phật mỉm cười
Ðại chúng có thể dứt lòng nghi
Ngưỡng mong Ðạo Sư trừ dứt cho
Mau thương tuyên nói độ chúng tôi
Do nhơn duyên gì Phật mỉm cười
Ngày nay ai tâm được thanh tịnh
Ngày nay ai trừ được ma oán
Ngày nay ai kính tin nơi Phật
Ngày nay ai được cúng duờngPhật
Ngưỡng mong Ðại Sư ở trước chúng
Tuyên nói ai có công đức ấy
Chúng tôi nghe nói sanh lòng mừng
Lòngmừng vui rồi được an ổn
Các đại chúng đây đều kính lễ
Tất cả đều có lòng muốn biết
Nguyện nghe cớ cười dể được mừng
Ngưỡng mong Thế Tôn tuyên nói rõ
Các Trời Người nầy được nghe rồi
Tất cả đại chúng không còn nghi
Nếu được nghe lời Như Lai nói
Tất cả sẽ được lòng mừng rỡ ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng :
“ Lành thay Huệ Mã Thắng Tỳ Kheo
Hỏi nơi Như Lai nhơn duyên cười
Thấy các Long Nữ cúng dường rồi
Phật thương thế gian nên mỉm cười
Nay Phật vì ông nói quả ấy
Rời lìa tội lỗi chí tâm nghe
Duyên cớ nay Phật hiện mỉm cười
Mã Thắng các người nghe Phật nói
Các Long Nữ nầy tâm không chấp
Cầu đại Bồ đề tu tinh tấn
Dùng trí huệ tu thế gian không
Quyết định an trú đạo Bồ đề
Nơi đây không tác không người thọ
Cũng không kẻ sanh kẻ dưỡng dục
Chỉ có các pháp không việc khác
Pháp ấy cũng vọng như ảo mộng
Do vì biết ơn cúng dường Phật
Hay dùng trí huệ biết chơn thiệt
Lành thay Phật hiểu các thế gian
Nghĩa là thấy được không vô ngã
Họ thích không ấy khéo tu tập
Dầu bày cúng dường xem như ảo
Nơi thắng Bồ đề đã phát nguyện
Quán Bồ đề ấy cũng chẳng chấp
Họ đem tối thắng ấy cúng dường Phật
Cũng quán chúng sanh không tịch rồi
Lìa hẳn loài rồng thân ác thú
Cùng trời Ðế Thích kia đồng ở
Tại trời Ðao Lợi thọ vui lớn
Hưởng hết thọ mạng Ðao Lợi rồi
Không ai chê được tiếng tâm họ
Lại được sanh lên trời Dạ Ma
Lúc họ ở cung trời Dạ Ma
Hưởng đủ vui sướng cung trời ấy
Các Phật tử ở trời Dạ Ma
Cho đến mãn hết thọ lượng ấy
Các Phật tử nầy hưởng đủ vui
Hết thọ mạng nơi Dạ Ma rồi
Lại được sanh lên trời Ðâu Suất
Cùng trời cõi ấy đồng một loại
Ðược các Thiên nữ thường vây quanh
Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
Lòng không luyến trước gìn đạo lành
Như hoa sen kia nước chẳng ngấm
Trời ấy dùng được trí huệ lớn
Quan sát tất cả thế gian không
Dường như khác đá chớ chẳng mất
Ðạo niệm chẳng mất cũng như vậy
Các Thiên Tử ấy ở Ðâu Suất
Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
Ở nơi Ðâu Suất mãn thọ rồi
Lại được sanh lên trời Hóa Lạc
Họ được danh tốt không hư hoại
Ðược các Thiên Nữ thường cúng dường
Dầu ở cung trời tâm không trước
Cho đến hết hạn thọ lượng ấy
Ở trong cung trời Hóa Lạc kia
Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
Chủng trí huệ ấy mãn thọ rồi
Nơi tất cả pháp được cứu cánh
Sanh lên Tha Hóa Tự tại Thiên
Làm thương chủ lớn tín thanh tịnh
Ở trời Tha Hóa lòng không nhiễm
Lúc ở trời ấy ưa chánh pháp
Phật tử ở cung trời Tha Hóa
Hưởng ngũ dục lạc rất vi diệu
Không có ngu si gìn đạo lành
Cho đến hết hạn thọ mạng ấy
Dầu hưởng lạc dục mà thấy lỗi
Ưa cầu chánh định và Niết bàn
Tu tập chứng được thiền định rồi
Mạng chung liền sanh trời Phạm Thiên
Ở cung Phạm Thiên giỏi biết thiền
Hưởng vui tịch diệt quả thiền ấy
Trí huệ rất lớn trụ một kiếp
Nguyện cầu Vô thượng đại Bồ đề
Lúc ở Phạm cung trong một kiếp
Khéo dùng oai nghi cầu trí huệ
Phương tiện để lợi ích thế gian
Rộng làm vô biên và vô lượng
Trí ở Phạm cung vui tại thiền
Chẳng trước nơi thiền mà tịch diệt
Biết trước thiền lạc cũng là lỗi
Các căn tịch định cầu Bồ đề
Nơi tất cả pháp lòng tin hiểu
Ðều được an trụ Bồ Tát hạnh
Biết các thiền định tướng hư dối
Chỉ cầu tịch diệt đại Niết bàn
Các Phật tử ấy ở trong đó
Cầu được Bồ đề quả an ổn
Ở tại Phạm cung tâm thanh tịnh
Nghĩ lại chúng sanh khéo điều tâm
Giáo pháp tự nhiên của Phạm Thiên
Thuyết giáo Phạm Thiên chẳng xuất thế
Chỉ có Bồ đề đạo chư Phật
Cứu cánh hay được xuất thế gian
Ðương thời Phạm Thiên sanh tin rồi
Phát tâm an trụ nơi Phật đạo
Biết giáo tự nhiên của Phạm Thiên
Chẳng phải cứu cánh đạo xuất thế
Nơi pháp Như Lai họ tương ưng
Vì các thế gian nói pháp ấy
Như pháp nhãn họ nói quả ấy
Khiến người nghe kia mau được biết
Phật tự ở tại Phạm cung kia
Làm những lợi ích thế gian rồi
Hay khiến vô lượng na do tha
Ức chúng an trụ đạo Bồ đề
Họ ở vô lượng na do tha
Sẽ được cúng dường tất cả Phật
Vị lai kiếp tinh tú sau đây
Các căn tịch tịnh sẽ làm Phật
Các Trời Người Rồng A Tu La
Kim Sí Dạ Xoa Càn Thát Bà
Cưu Bàn Trà Quí Khẩn Na La
Tất cả đại chúng đều mừng rỡ
Chúng ấy được chư Phật giáo hóa
Ở trong Phật pháp đắc lực rồi
Thảy đều mừng vui chấp tay kính
Cúi đầu đảnh lễ nơi chưn Phật » .
Bấy giờ Long Vương Nan Ðà và Bạt Nan Ðà v.v…chín ức chư Long thấy các Long Nữ cúng dưòng Phật và được thọ ký rồi, họ sanh tâm hi hữu, tâm chưa từng có mà nghĩ rằng : Ðức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri thiệt là hi hữu chưa từng có, đức Như Lai biết các chúng sanh căn cơ thâm tín, đức Như Lai không có chút phần nào là chẳng thấy chẳng nghe chẳng chứng. Chánh pháp của Như lai do Phật khéo tuyên nói hay khiến đại chúng nghe rồi hiện biết, không có thời tiết, tùy cơ trao pháp quyết định làm cho đắc quả, khiến các người trí hiện được chứng biết. Cho đến hàng nữ nhơn động chuyển khinh tháo trí huệ cạn kém mà còn hiểu được thâm pháp của Phật nói, huống là những người trí khéo an trụ trong pháp Phật làm chúng đệ tử. Hàng nữ nhơn ấy dục tâm tăng thượng , sân tâm tăng thượng, si tâm tăng thượng còn có thể biết được chỗ tuyên nói của Như Lai. Vì suy nghĩ như vạ-y nên đối với đức Phật, chư Long Vương Nan Ðà, Bạt Nan Ðà v.v…sanh tâm hi hữu chưa từng có. Vì cúng dường Phật nên chư Long nổi mây trùm khắp tất cả thế gian mưa nước thơm làm thành bùn thơm, hơi thơm ấy đầy khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới. Chúng sanh nghe hơi thơm ấy đều đuợc chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề. Nơi thành Ca Tỳ La ngang rộng sáu mươi do tuần mưa xích chơn châu khắp mọi nơi , lại có các thứ báu vô giá trùm khắp giáp vòng vườn Ni Câu Ðà. Lại lấy long hoa hóa thành nhà đẹp rộng sáu mươi do tuần, toàn nhà đều bằng thất bửu. Lại có vô lượng nhạc khí đồng tấu cúng dường. Nhà thất bửu long hoa ấy hóa làm chín ức hoa tràng nhiều màu treo khắp nhà, lưới tỳ lưu ly trùm trên cột báu, bửu châu vô giá trải đầy mặt tiền, bửu châu ấy rất nhu nhuyến như bà lá thạch ở trời Ðao Lợi, đá ấy màu như tỳ lưu ly, chạm đến mềm nhuyển như thiên y vi diệu khả ái. Trong các thứ ma ni bửu ấy, hoặc có thứ phát xuất tia sáng mát lạnh, hoặc phát xuất nước xanh, nước vàng, nước đỏ; nước trắng, hoặc phát xuất nước nhiều màu, hoặc phát xuất gió mát mẻ, hoặc có bửu châu tùy ý chúng sanh mà phát xuất những đồ cần dùng, hoặc có bửu châu phát xuất dầu trơn, hoặc có bửu châu có thể làm gương sáng hiện bóng tất cả đại chúng. Tất cả nhân dân từ thành Ca Tỳ La ra đều hiện rõ bóng trong ấy. Tất cả đại chúng đều thấy Phật và Thanh Văn hiện các thứ thần thông biến hóa. Do thần lực của báu ma ni ấy, trong thềm nhà phát xuất những lọng báu nhiều màu, những tràng báu nhiều màu, những phan báu nhiều màu, những vòng hoa nhiều màu, những vòng hương, những vòng báu, những vòng chơn châu, những lưới linh báu, lại phát xuất những ngựa quý nhiều màu. Long Vương Nan Ðà và chín ức chư Long xua các ngựa quí đi bộ theo nhiễu quanh bên hữuPhật ba vòng rồi dùng báu nhu nhuyến rải nơi Thế Tôn. Các thứ báu từ dưới nền nhà đẹp ấy phát xuất đều bay lên hư không che đức Phật và chúng Thanh Văn. Các nhạc khí tại hư không tự nhiên phát xuất âm thanh vi diệu cúng dường đức Phật.
Chín ức chư Long nhiễu Phật xong, Ở trước Phật chấp tay yên lặng niệm Phật công đức chiêm ngưỡng Như Lai mắt chẳng tạm rời, thích Phật công đức thêm tâm an trụ Vô thượng Bồ đề. Chư Long yên lặng niệm Phật công đức giây lát rồi cùng đảnh lễ chưn Phật đồng thanh nói kệ tán thán rằng :
“Lâu tu oai nghi tướng trăm phước
Bi tâm ly cấu hạnh đầy đủ
Dứt bỏ vô tận đất báu quý
Thế Tôn rời khỏi thành Ca Tỳ
Trong sáu năm dài tu khổ hạnh
Như Lai chẳng được đạo cam lộ
Ý Thế Tôn còn chẳng chán buồn
Bởi Ngài đã lâu tu trí huệ
Như Lai thiệt là thầy Trời Người
Vì thế gian mà tu khổ hạnh
Thế gian nghe rồi còn chẳng kham
Huống là có thể lấy mắt ngó
Thế Tôn quá khứ bỏ đầu mắt
Như thánh chứa hộp tâm Bồ đề
Nghe tin ấy chúng tôi chẳng vui
Vì nghĩ đến Phật quá khổ hạnh
Như Phật xưa làm tiên nhẫn nhục
Bị vua Ca Lợi chặt tay chân
Thẻo tai lắc mũi chẳng oán giận
Chúng tôi nghe tin chẳng nhẫn được
Như Phật đem thân lên bàn cân
Vì chim nương cứu chẳng nở bỏ
Chúng tôi nghe tin cũng chẳng vui
Như Lai quá khứ quá cần khổ
Tại sao lòng chúng tôi chẳng vui
Vì Thế Tôn chịu quá khổ sở
Kẻ ác hại đến đức Như Lai
Họ đọa ác đạo Phật lại thương
Ðầy đủ thánh huệ đại Ðạo Sư
Sao hành được tâm bất hại ấy
Tu tập đạo hạnh không sai sót
Ngưỡng mong Phật nói hạnh an lạc
Nay chư Long nầy đã phát tâm
Cầu nơi Như Lai Bồ đề hạnh
Như Phật tuyên dạy đều làm được
Ngưỡng mong Phật nói đạo Bồ đề
Chúng chư Long nầy rất khác ngưỡng
Chỉ cầu chỗ bất tử bất sanh
Nguyện nói Như Lai hạnh an ổn
Khiến các chúng sanh dễ giáo hóa” .
Ðức Phật thấy các Long chúng cúng dường và phát nguyện. Biết họ đã thâm tín rồi, Phật liền hiện mỉm cười. Chư Phật pháp nhỉ nếu hiện tướng mỉm cười thì từ diện môn phóng vô lượng tia sáng màu chiếu đến Phạm Thiên rồi trở về nhập vào đảnh Phật.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng :
“ Lành thay Sa Môn Ðại Mâu Ni
Chẳng phải không cớ hiện mỉm cười
Thế Tôn từ bi xin nói rõ
Vô thượng Chánh Giác cớ sao cười
Ðại chúng chiêm ngưỡng cầu được nghe
Thế Tôn vô lượng công đức hạnh
Thấy cười sanh nghi lòng chẳng vui
Ngưỡng mong Pháp Vương dứt nghi cho
Ai nay ở trong pháp Thích Ca
Sanh lòng kính tin và mừng rỡ
Ai khiến ngày nay ma Ba Tuần
Tâm ý mê loạn và lo rầu
Ai ngày hôm nay hay cung phụng
Cha lành công đức đại Ðạo Sư
Ai dâng cúng dường thắng đệ nhứt
Mong đức Như Lai Vô thượng nói
Toàn đại chúng đây đồng chấp tay
Thảy đều đối Phật chiêm ngưỡng đứng
Ngưỡng mong Ðạo Sư trừ lưới nghi
Vì chúng mà nói duyên cớ cười
Ðại chúng nghe rồi lòng mừng rỡ
Biết được chánh pháp Thế Tôn dạy
Ðại trí Thế Tôn khiến chúng mừng
Tùy thuận chánh giáo khéo an trụ ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng :
“Trí huệ rộng sâu đại Ðạo Sư
Lúc nói phạm âm đủ tám đức
Tâm Phật thanh tịnh rời uế trược
Lắng nghe Phật nói nhơn duyên cười
Các Long Vương nầy lòng kính tin
Cúng dường nơi Phật hơn tất cả
Chúng ấy vì cầu Phật Bồ đề
Ðể lợi ích tất cả thế gian
Lòng bi tăng thượng quán thế gian
Không có Ðạo Sư vui sao được
Tôi làm sao được đại Bồ đề
Thành thục chúng sanh chẳng mỏi nhọc
Rất ưa tịch tịnh đủ trí huệ
Tu thừa an lạc tâm thanh tịnh
Nơi không vô tướng và vô nguyện
Từ vô lượng kiếp đã tu lâu
Tâm Phật bình đẳng quán thế gian
Như Phật đã được tướng trí huệ
Tâm từ bi hỉ đều bình đẳng
Vì khiến thế gian an ổn vậy
Tâm bi đệ nhứt lòng thương xót
Sẽ được làm Phật vừa ý mình
Chúng ấy quán sát chúng sanh rồi
Sẽ thành Ðạo Sư hiệu Vô Oán
Lúc các chúng ấy được cam lộ
Không có ma oán cũng không dư
Hằng thường diễn nói pháp vô ngã
Một bề không có thế tục thuyết
Chư Như Lai ấy đủ đại bi
Khiến các chúng sanh nhập trí Phật
Lúc Chư Như Lai ấy thuyết pháp
Tất cả chúng sanh đều tín hiểu
Lúc chúng ấy đời đời tu hành
Thành thục chúng sanh chẳng khó lắm
Chúng sanh thành thục nghe pháp rồi
Sẽ được giải thoát chứng cam lộ
Những người nghe pháp đều giải thoát
Các chúng sanh ấy đều đoan nghiêm
Tất cả chúng sanh đều biết hiểu
Chánh pháp của chư Phật ấy nói
Tất cả quỉ thần và súc sanh
Không ai chẳng hiểu lời Phật ấy
Tất cả đều được niệm pháp rồi
Hiểu được Như Lai pháp cam lộ
Không có chúng sanh nghe Phật dạy
Mà họ chẳng sanh lòng yêu thích
Yêu thích chánh pháp Phật nói rồi
Tất cả thảy đều được cam lộ
Thuở ấy những người được giáo hóa
Sẽ được giải thoát bịnh sanh tử
Và giải thoát khổ chết buồn lo
Nghe Phật nói rồi lòng không nhơ
Như vậy Thích Ca Mâu Ni Phật
Nói ý chư Long đáp Phật tử
Như tâm kiên quyết của chư Long
Vì được Bồ đề Vô thượng vậy
Như Lai thọ ký cho chư Long
Ðại chúng nghe rồi đều vui mừng
Ðại chúng mừng rồi quy y Phật
Tất cả thảy đều tâm tịch tĩnh ”
Bấy giờ lại có một ức tám ngàn vạn Cưu Bàn Trà thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ và Long Vương cúng dường Phật được thọ ký họ rất vừa lòng hớn hở vui mừng sanh lòng hi hữu chưa từng có, nghĩ rằng đức Như Lai Thế Tôn công đức trí tuệ vi diệu thù thắng được sự cúng dường hi hữu như vậy mà chẳng mừng chẳng kỳ lạ, vì trí tuệ của Phật là tối tôn thắng trong các trí huệ vậy. Ví như đại hải chẳng tăng chẳng giảm. Tại sao ? Vì sâu rộng vậy. Ðức Thế Tôn được cúng dường thù thắng mà tâm Phật chẳng tăng giảm. Tại sao ? Vì đối với tất cả pháp không chỗ nghi vậy.
Lúc ấy một ức tám ngàn vạn Cưu Bàn Trà vì cúng dường nên hóa hiện một ức tám ngàn vạn lọng thất bửu treo những vòng thất bửu
Lại hóa một ức tám ngàn vạn xe thất bửu, trên xe lại hóa một ức tám ngàn vạn lọng báu, những xe ấy liền nhau, lọng báu đều treo những tụi báu, có màn lưới xích chơn châu trùm lên trên. Lại hóa những âm nhạc Cưu Bàn Trà hòa tấu cúng dường Phật. Lại hóa một ức tám ngàn vạn ngựa nhiều màu báu rất điều phục để kéo xe ấy. Chư Cưu Bàn Trà đều ngồi xe thất bửu nhiễu bên hữu Phật ba vòng, dùng hoa thất bửu rải trên Phật rồi xuống xe đến lê’ chưn Phật nhiễu Phật ba vòng chấp tay đứng một phía nói kệ tán thán rằng :
“ Chẳng tăng chẳng giảm Ðại Mâu Ni
Dường như Tu Di các núi chúa
Thọ sự cúng dường vô thượng nầy
Vì Như Lai được vô úy vậy
Quan sát chúng sanh chỉ có danh
Và chỉ có dụng chẳng nắm lấy
Ðạo Sư do tu hạnh tịch diệt
Do đó người trí không cống cao
Thế Tôn biềt đời dường ảo mộng
Trong ảo trong mộng thọ dục lạc
Lại giống thủy nguyệt và dương diệm
Quán sát như vậy không còn thừa
Ví như càn thành không có thiệt
Khắp mười phương cầu chẳng thể được
Thành ấy không thiệt chỉ có danh
Phật thấy thế pháp đều như vậy
Tất cả Trời Người cúng dường Phật
Xe báu lọng báu và âm nhạc
Tràng hoa tua tụi cùng chấp tay
Thế Tôn xem biết như ảnh hưởng
Chúng tôi trần thiết như cúng dường rồi
Nguyện tôi đương lai sẽ làm Phật
Cũng nguyện tôi biết đời như mộng
Biết rồi thuyết pháp như Thế Tôn
Chúng tôi thấy những người khổ não
Bị sanh già ịnh chết bứt ngăt
Nguyện biết Phật Bồ đề Vô thượng
Nói cho kẻ nghe được giải thoát
Ở chỗ các chúng sanh vô trí
Nguyện được Bồ đề để thuyết pháp
Diễn thuyết không có pháp cấu trược
Trong chúng không đạo làm Ðạo Sư ”.
Ðức Thế Tôn biết chư Cưu Bàn Trà sanh lòng tín sâu nên hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng :
“ Phật chẳng không cớ hiện mỉm cười
Chẳng cho tất cả là hi hữu
Phật chẳng hi hữu mà mỉm cười
Nay tôi nguyện nghe nhơn duyên ấy
Tất cả Trời Người đều có nghi
Thấy nơi miệng Phật hiện mỉm cười
Ngưỡng mong dứt trừ các lưới nghi
Diễn nói sự mỉm cười của Phật
Ai nói chánh pháp được tín sâu
Ai hay như pháp thấy từ phụ
Ai được Phật khen dâng cúng dường
Tôi nguyện được nghe Thế Tôn nói
Ngày nay đối với hành hữu vi
Ai thấy lỗi nó mà vứt bỏ
Ngày nay ai an trụ thiệt tế
Tâm họ thanh tịnh tôi nguyện nghe
Ai hàng phục ma và quyến thuộc
Ai khiến được Phật tâm vui vẻ
Ai hay được đáy hữu vi sâu
Tôi muốn được nghe để dứt nghi
Tất cả đại chúng đứng chắp tay
Cầu nghe nhơn duyên Phật mỉm cười
Nguyện dứt tất cả chúng sanh nghi
Ðấng thế Tôn tuyên thọ ký họ ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng :
“ Lành thay Mã Thắng hỏi nghĩa ấy
Ðem lợi ích lớn cho thế gian
Vì ông hỏi nhơn duyên mỉm cười
Mã Thắng lắng nghe nay Phật nói
Chúng Cưu Bàn Trà cúng dường Phật
Nơi pháp tịch diệt tâm an trụ
Chúng ấy thấy Phật chẳng kinh quái
Sanh lòng hi hữu mà nguyện cầu
Chúng ấy hôm nay cúng dường Phật
Tâm họ chọn lấy pháp tịch diệt
Do lòng tin sâu khởi đại bi
Nơi người lạc đường làm Ðạo Sư
Vì thương chúng sanh nên cúng Phật
Vì kẻ lạc đường khởi lòng
Chúng hiền trí ấy làm vậy rồi
Ðược bỏ thân quỉ sanh Ðao Lợi
Thiên Vương thường dùng lòng từ bi
Tại trời luôn luôn dạy dỗ họ
Họ có các pháp được không nghi
Ðược làm thân quyến Thiên Ðế Thích
Họ có vô lượng hằng sa kiếp
Mỗi mỗi quốc độ làm Phật hạnh
Mặc giáp hằng thệ rất kiên cố
Cúng dường đấng Pháp Vương tự tại
Họ có vô lượng các quốc độ
Lòng không mỏi nhọc được thanh tịnh
Lợi ích đại chúng làm Ðạo Sư
Sẽ được làm Phật hiệu Bất Quái
Lúc họ ở các nước tu hành
Người nước ấy tất biết thành Phật
Do phương tiện nầy đời vị lai
Dầu độ chúng sanh không tâm quái
Vì cầu đạo vô thượng an ổn
Tịnh các quốc độ đều chẳng quái
Nơi việc được làm tâm không trước
Nơi đại Bồ đề cũng như vậy
Hỏi duyên cớ cười Phật đã đáp
Chúng sanh đều được dứt lòng nghi
Ðại chúng hết nghi đều mừng rỡ
Quyết định biết rõ họ cúng dường”.
Bấy giờ lại có ba ức sáu ngàn vạn chúng Càn Thát Bà thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương và Cưu Bàn Trà cúng dường Phật được thọ ký, họ vừa lòng xứng ý hớn hở vui mừng sanh tâm hi hữu chưa từng có mà nghĩ rằng : Ðức Như Lai thiệt là hi hữu chưa từng có tuyên nói pháp giới không có biến đổi mà thị hiện có làm tăng trưởng căn lành. Dầu không tác giả mà thị hiện tác nghiệp. Chư Càn Thát Bà ở trong pháp ấy rõ biết như vậy rồi, đối với Như Lai sanh lòng tôn trọng phát tâm Vô thượng Bồ đề. Họ mừng vui vì muốn cúng dường Phật, nên hóa hiện ba ức sáu ngàn vạn đầu đại tượng vương đều có sáu ngà. Trên mỗi ngà có bảy ao nước. Trong mỗi ao có bảy hoa sen. Mỗi hoa sen có ngàn cánh, Trên mỗi cánh có bảy ngọc nữ. Khoảng cách của một cánh sen có bảy thị nữ, trang sức với như’ng đồ trang nghiêm bằng thiên bửu , tay cầm thiên hương để cúng dường. Nơi mỗi đầu đại tượng vương lại hóa làm ba ức sáu ngàn vạn lọng thất bửu, ba ức sáu ngàn vạn trướng bằng thiên lương.
Chư Càn Thát Bà đều ngồi trên tượng vương tấu thiên âm nhạc, ở trên hư không đi nhiễu Phật ba mươi sáu vòng, đem hương trời hoa trời và hoa thất bửu rải cúng dường Phật, mùi hương hoa ấy lan khắp mười phương. Lại mưa nước thơm cõi trời sáu mươi do tuần thành Ca Tỳ La làm cho toàn thành ướt thành bùn thơm, hơi bùn thơm khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới, chúng sanh nghe hơi ấy đều chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề . Lúc họ tấu âm nhạc , tiếng nhạc ấy vang khắp tam thiên Ðại thiên thế giới, chúng sanh nghe tiếng nhạc ấy đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề. Chư Càn Thát Bà ở trên tượng vương trần thiết cúng dường Phật, khiến các ngọc nữ tấu nhạc ca vũ. Lại có ngọc nữ động thân tay rải rác thứ bột hương để cúng dường Phật.
Chư Càn Thát Bà ở trên không ngồi tượng vương nhiễu Phật đã ba mươi sáu vòng rồi, họ xuống tượng nhiễu Phật ba vòng đảnh lể Chưn Phật chắp tay đứng một phía nói kệ tán thán rằng :
“ Thế Tôn trí tuệ ngoài ba cõi
Tự mình ra rồi lại độ người
Tất cả thế gian không bằng Phật
Tướng hảo thân sáng rất đoan chánh
Trời Người tối diệu vô biên xưng
Thị hiện thế gian chẳng nghĩ bàn
Chẳng thấy một pháp tướng khác
Mà dạy chúng sanh tu thiện nghiệp
Pháp chơn như không biến đổi khác
Chỉ có ngôn thuyết không có nghĩa
Không có dụng sự và người dùng
Dầu vậy Phật độ các quần sanh
Chẳng đến chẳng đi cũng chẳng sanh
Phật hay diễn thuyết pháp như vậy
Dầu nói các pháp thể tánh kgông
Thế Tôn lại bảo siêng hành đạo
Không có một pháp hay tự tác
Người sáng thế gian nói có tác
Các pháp đều chẳng tự hay biết
Thế Tôn thị hiện làm tất cả
Như xe họp nhiều những chi phần
Chi phần chẳng biết tự hay làm
Công dụng xe ấy hiện thấy được
Phật nói các pháp cũng như vậy
Các pháp mỗi mỗi chẳng dạy nhau
Cũng chẳng thay đổi dạy bảo nhau
Tất cả các pháp chẳng nương nhau
Pháp bổn bất sanh cũng bất diệt
Phật vì thế để nói như vậy
Thế đế các pháp chẳng toàn không
Như pháp thế đế thể tánh trụ
Biết như vậy rồi vì chúng nói
Thế Tôn nói các pháp như vậy
Ðại bi chỗ làm rất kỳ đặc
Các pháp thể tánh chẳng thể thấy
Như Lai phương tiện nói pháp trụ
Chúng tôi nguyện làm vô biên xưng
Ðại Ðại Sư đủ tướng trăm phước
Ðại hỉ lợi ích các thế gian
Nguyện làm Thế Tôn như Phật vậy
Chúng tôi nguyện nơi kẻ ám chướng
Những người tùy thuận dòng tham dục
Người khát ái buộc ràng trăm khổ
Cúng tế độ họ như Thế Tôn
Chúng tôi nguyện nơi người nhiều khổ
Người chẳng thấy bờ kia mà trói
Người chạy như vượn khỉ nhảy nhót
Cứu tế độ họ như Thế Tôn
Chúng tôi nguyện như người mù lòa
Người sáu loài nhọc nhằn qua lại
Người nơi mình tự hoại nghiệp quả
Cứu tế độ họ như Thế Tôn ” .
Ðức Phật biế chư Càn Thát Bà sanh lòng tin sâu nên hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng :
“ Vô biên oai đức hiện mỉm cười
Ðạo Sư mỉm cười chẳng không nhơn
Nguyện Phật mau nói nhơn duyên ấy
Dứt trừ chúng sanh các mối nghi
Nay thấy Thế Tôn mỉm cười rối
Ðại chúng thảy đều sanh nghi hoặc
Tất cả nguyện nghe nghĩa mỉm cười
Ngưỡng mong đại bi dứt mối nghi
Ai nơi Phật pháp sanh kính tin
Ai rời được nơi các lưới nghi
Phật biết chúng sanh tin sâu rối
Trời Người bực thánh nên hiện cười
Ai có trí tuệ hay tùy thuận
Phát chơn như được Như Lai nói
Biết nhiệm huệ giải hạnh họ rồi
Ở trong đại chúng hiện mỉm cười
Tất cả đại chúng không dị tâm
Chỉ muốn thích nghe Thế Tôn nói
Chắp mười ngón tay để trên đầu
Nhứt tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai
Lìa các uế trược không lo rầu
Mắt đời hiện còn nên mừng rỡ
Vì trừ tất cả lòng nghi hoặc
Nguyện đại bi nói nhơn duyên cười ».
Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng :
« Phật hiện mỉm cười vì đời vậy
Lành thay Mã Thắng hỏi đúng giờ
Ðại chúng thiện căn sẽ tăng trưởng
Vì Phật mỉm cười sự thọ ký
Mã Thắng lắng nghe lời Phật nói
Ðạo Sư nay hiện cớ mỉm cười
Phật sẽ nói rõ nghĩa mỉm cười
Ông phải vui mừng nghe Phật nói
Càn Thát Bà Vương kính tin Phật
Tâm họ thanh tịnh sanh mừng rỡ
Y nơi thiệt pháp nhập pháp rồi
Nơi Phật chánh pháp sanh hỉ kỳ
Các pháp tịch diệt an bất động
Hàng đại chúng nầy xu thiệt tế
Như thành Càn Thát nhập như vậy
Cúng dường nơi Phật không ai bằng
Các pháp như vậy không có sanh
Tất cả cũng lại chẳng tận diệt
Ðại chúng tư duy pháp như huyễn
Chưa hiểu rõ được sanh nghi hoặc
Pháp chẳng nói được phương tiện nói
Phật vì chơn thiệt nên như vậy
Chúng ấy vào chánh pháp Phật rồi
Ngồi tượng Ðại Long cúng dường Phật
Quan sát Bồ đề không sanh diệt
Càn Thát Bà Vương cúng dường Phật
Thương xót chúng sanh hạng ngu mê
Vì thế mà cầu Nhứt thiết trí
Chúng ấy phát nguyện sẽ thành Phật
Khiến người ngu mê mất trí huệ
Nhập pháp chơn thiệt an trụ rồi
Khiến được cầu bất tử tịch diệt
Chúng ấy cúng dường như vậy rồi
Bỏ rời thân quỉ lòng mừng rrỡ
Quyết được vãng sanh trên cung trời
Hằng cùng đế thích gần gũi nhau
Ðược gặp nhiều ức na do tha
Cúng dường Như Lai Vô Thương Giác
Từ một Phật độ đến Phật độ
Nơi chỗ chư Phật được nghe pháp
Chúng ấy tu tịnh Phật hạnh rồi
Chỗ được Phật độ cũng thanh tịnh
Hóa vô lượng chúng phát đạo tâm
Khiến họ tăng trưởng Phật chủng tử
Biết các thế gian tánh không rời
Cũng đem pháp ấy dạy bảo người
Khiến chúng an trụ Nhứt thiết trí
Trụ thế vô lượng na do tha
Phật ấy đồng hiệu vô biên huệ
Mỗi mỗi chư Phật trụ ở đời
Thảy đều vô lượng do tha kiếp
Diễn nói Phật đạo cho người nghe
Như vậy Thích Ca Mâu Ni Phật
Nói báo Càn Thát Bà cúng dường
Cùng họ thọ ký khiến được nghe
Nhơn duyên cười mà Mã Thắng hỏi
Ðại chúng nghe rồi đều vui mừng
Biết Phật thọ ký rất đáng thích
Nghe Phật thọ ký vô thượng rồi
Thảy đều vui y Thích Ca Phật”.
Bấy giờ lại có tám ức Dạ Xoa thấy A Tu La , Ca LâuLa, Long Nữ, Long Vương, Cưu bàn Trà, Càn Thát Bà cúng dường Phật được thọ ký , họ vui mừng hớn hở đều sanh lòng hi hữu, chưa từng có biết Phật Thế Tôn trí huệ vô tận tối tôn tối thắng trí huệ vô ngại bất khả tư nghì. Họ còn lại được nghe pháp môn thứ đệ. Ðối với Phật, họ tưởng là Ðạo Sư, là vô tận huệ. Ðối với chánh pháp của Phật sanh lòng yêu thích. Vì cúng dường nên phát khởi tinh tấn nói kệ tán thán rằng :
« Chúng tôi tán thán đấng cứu thế
Vì Phật đầy đủ trí lực vậy
Vô tận vô lượng như biển cả
Thế Tôn thân tốt không ai bằng
Tu Di còn biết được khinh trọng
Hư không còn biết được rộng hẹp
Sức trí huệ của đức Như Lai
Tất cả chẳng ai đo lường được
Biết các chúng sanh lòng kính tin
Những người đáng độ đều độ xong
Nơi người được độ biết xu hướng
Nên Phật là không ai sánh bằng
Tùy chúng tu tạo nghiệp thiện ác
Tất cả chỗ sanh thọ thân hình
Biết rõ căn tính đáng thọ pháp
Nên Phật là không ai sánh bằng
Tham dục ác hành sân khuể hành
Si hành phiền não Phật đều biết
Kiêu mạn tật đố cũng biết rõ
Nên Phật là không ai sánh bằng
Chúng sanh nơi đây nhiều lầm lỗi
Như Lai biết rõ nghiệp đạo họ
Thế Tôn biết họ rất lanh lẹ
Nên Phật là không ai sánh bằng
Thiện Thệ thấy rõ các htế gian
Tùy phương diện họ có lỗi lầm
Và cùng ngữ ngôn họ sai lỗi
Thế Tôn thấy rõ hết tất cả
Tại trong lục đạo ở bao lâu
Tùy họ thọ khổ nhiều hay ít
Và họ thọ lấy các thứ thân
Tất cả Thế Tôn đều thấy biết
Tùy sức phiền não họ phát khởi
Phương tiện tạo tác và gây nghiệp
Theo nghiệp thọ lấy các thứ khổ
Tất cả Ðạo Sư đều biết rõ
Tùy họ chỗ cầu đạo giải thoát
Ở trong Phật pháp đã xuất gia
Tinh tấn tu học thánh đạo rồi
Dứt hết phiền não Phật đều biết
Ở trong Phật pháp có phàm phu
Dầu được xuất gia chẳng biết nghĩa
Chê bai pháp diệu của người trí
Thế Tôn cũng lại biết rõ họ
Những kẻ chê bai chánh pháp ấy
Nghiệp hành ấy mắc những khổ não
Tùy tại địa ngục ở lâu mau
Như Lai cũng đều biết rõ cả
Nơi Phật đã được kính tin sâu
Xuất gia thọ trì tạng chánh pháp
Quán sát các pháp thảy đều không
Dứt trừ tất cả đường sanh tử
Chẳng muốn tất cả thân sanh tử
Quan sát thân nầy dường như ảo
Biết các âm thanh đều như hưởng
Ở vững nơi đạo Phật cũng biết
Tán thán Ðạo Sư không sánh bằng
Nay tôi chỗ được khối phước đức
Dùng phước đức này nguyện thành Phật
Cũng nguyện chúng sanh thành Chánh giác ” .
Ðức Thế Tôn biết chúng Dạ Xoa thâm tâm kinh tín nên hiện tượng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng :
“Ðức Thế Tôn hiên tướng mỉm cười
Ngưỡng mong cho biết bhơn duyên cười
Tất cả chư Phật chẳng vô cớ
Mà hiện ra tưởng mỉm cười ấy
Nay đại chúng nầy đều hoài nghi
Vì thấy Ðạo Sư mỉm cười vậy
Ngưỡng mong Thế Tôn trừ nghi cho
Khiến tất cả chúng được mừng rỡ
Nay người được kính tin nơi Phật
Và người biết chánh pháp vi diệu
người tâm kiên cố bất động ấy
Nguyện Phật tuyên nói cho họ nghe
Ðại chúng tại đây đều hoài nghi
Tất cả chiêm ngưỡng mặt Như Lai
Hôm nay sẽ có những sự gì
Duy nguyện Thế Tôn dứt nghi cho
Hôm nay ai hiện đại thần lực
Hôm nay ai phát đại tinh tấn
Hôm nay Phật cùng ai thân hữu
Nơi đại chúng nầy xin hiển hiện
Lành thay Mâu Ni thương thế gian
Ngưỡng mong dứt trừ các nghi hoặc
Trời Người đại chúng đều được nghe
Hôm nay tất cả rất mừng vui ”.
Ðức Thế Tôn nói đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng :
“ Lành thay lời hỏi của Mã Thắng
Nay sẽ lợi ích lớn thế gian
Do ông hỏi được nhơn duyên cười
Nên khen ông khéo hiểu ý Phật
Nay Phật sẽ đáp hết nghĩa ấy
Ông nên nhứt tâm chuyên lắng nghe
Biết tâm ý các Dạ Xoa rồi
Phật vì thế gian hiện mỉm cười
Các chúng Dạ Xoa lòng kính tin
Vì họ biết Bồ đề tịch diệt
Khen Phật công đức chơn thiệt rồi
Phát tâm xu hướng đại Bồ đề
Vì họ biết các pháp không tịch
Trừ khiến tất cả tướng hư vọng
Nguyện bỏ tất cả loài sanh tử
Phát tâm xu hướng đại Bồ đề
Do sức thiền định biết các ấm
Chỉ là thế đế chẳng chấp trước
Chẳng trước sanh tử như hoa sen
Phát tâm sanh tử đại Bồ đề
Những sự chướng ngại trong sanh tử
Họ thấy là không chẳng bị buộc
Biết Phật Bồ đề vô thượng rồi
Họ có thể tu Bồ đề hạnh
Những sanh lão tử thảy đều không
Ðây là đâo Bồ đề vô thượng
Biết pháp tự tánh không tịch rồi
Nay được đại Bồ đề an ổn
Biết ấm tự tánh không tịch rồi
Bồ đề tịch tĩnh tánh cũng lìa
Hạnh Bồ đề được tu cũng không
Trí biết như vậy phàm chẳng rõ
Hay quán trí huệ tánh tự không
Cảnh giới được quán đều tịch diệt
Người biết pháp biết thảy đều không
Người nầy hay tu Bồ đề đạo
Phải biết không cũng tánh tự không
Tướng và nguyện cũng không thể tánh
Nếu người có thể biết như vậy
Người nầy hay tu hạnh chơn thiệt
Trời Người đại chúng nghe đây rồi
Sanh lòng mừng rỡ được lợi ích
Nơi Phật tất cả kính tin rồi
Tâm trụ câu Bồ đề tịch tĩnh
Nay cúng dường thù thắng nầy rồi
Tâm chúng Dạ Xoa đều thanh tịnh
Những bực trí nầy bỏ quỉ đạo
Hưởng thọ vui trong thiện đạo
Nơi nhiều ức Phật thuở vị lai
Họ dùng thần thông trong một niệm
Nơi nhiều Phật độ sắm cúng dường
Ở chỗ chư Phật được pháp nhẫn
Nơi các thế giới chẳng khởi tướng
Người trí hay dùng thần lực đến
Quán thế gian nầy như ảo hóa
Người trí du hành không thủ trước
Dạ Xoa dũng mãnh cúng dường Phật
Sẽ được vô thượng đại Bồ đề
Cũng được vô thượng tịnh Phật độ
Trong ấy sẽ độ vô lượng chúng
Chúng ấy sẽ thành Thế Gian Giải
Tất cả đồng hiệu Vô Biên Trí
Danh nghe mười phương thọ ngàn kiếp
Trí huệ thọ mạng tịch diệt đồng
Chư Phật ấy có chúng Thanh Văn
Dường như tinh tú giữa đêm vắng
Chúng ấy dễ được đại Bồ đề
Tất cả không có sự nặn khổ
Trời Người đại chúng nghe đây rồi
Vì đạo Bồ đề lòng mừng rỡ
Tâm họ kiên cố phát tinh cần
Dùng sức tinh tấn gìn công hạnh ”.
Bấy giờ có tám ức Khẩn Na La chúng, Ðại Thọ Khẩn Na La vương làm thượng thủ , thấy chư A La Hán, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa cúng dường Phật được thọ ký, họ sanh lòng hi hữu chưa từng có, do vì chúng sanh bất khả đắc vậy, vì không mạng giả, không sanh giả, không có nhơn, không trượng phu, không dưỡng dục, không thọ giả, không có ngã, không ngã sở vậy. Do các ấm mà gọi là chúng sanh. Tất cả các ấm cũng bất khả đắc. Do các giới chủng gọi là chúng sanh. Tất cả giới chủng cũng bất khả đắc. Do các nhập mà gọi là chúng sanh. Tất cả các nhập cũng bất khả đắc. Do có nghiệp nên có quả báo, mà hành nghiệp ấy cũng bất khả đắc, Vô thượng Bồ đề cũng ất khả đắc, tất cả Bồ Tát cũng bất khả đắc, tất cả chư Phật cũng bất khả đắc. Dầu vậy mà đức Thế Tôn thọ ký cho chư Bồ Tát . Do nghĩa gì mà Như Lai thọ ký cho chư Bồ Tát, nêu bày danh hiệu của họ, hiển hiện nghiệp báo, nói đương lai Bồ Tát đại chúng, cũng hiển bày chư Phật thần thông lực, cũng nói chánh pháp lực, cũng hiển hiện trang nghiêm Phật độ, tuyên nói chúng sanh có nghiệp có báo, cũng nói Phật độ thanh tịnh, cũng hiển bày Bồ Tát du hành các phật quốc từ một Phật độ, cũng nói Bồ Tát đến đó cúng dường, cũng nói thần biến cúng dường thù thắng, lại liệt bày đồ cúng vi diệu hi hữu, lại nói qua bao nhiêu kiếp sẽ được làm Phật, đức Phật ấy trụ thế bao lâu, Phật ấy sẽ có bao nhiêu Thanh Văn, sau khi diệt độ chánh pháp của Phật ấy trụ thế bao lâu, tại sao Như Lai bỏ chúng sanh mà nhập đại Niết bàn ?
Ðại Thọ Khần Na La Vương sanh niệm nghi ấy liền cùng tám ức chúng Khẩn Na La lễ Phật chấp tay nói kệ bạch hỏi rằng :
« Chúng tôi nghe Phật thọ ký rồi
Lòng sanh nghi hoặc sao Ðại Trí
Ðã nói thọ ký lại nói không
Nơi hai thuyết ấy tôi chẳng hiểu
Ðã nói không tịch lìa tự tánh
Pháp giới bình đẳng không biến động
Mà sao Như Lai thọ cúng dường
Việc ấy thế nào bạch Thế Tôn
Ðức Phật đã nói pháp vô sanh
Mà lại nói phát tâm Bồ đề
Ðức vô lượng trí nói hai thuyết
Thuyết ấy bí mật tôi chẳng hiểu
Thế Tôn nói pháp không có diệt
Màsao lại nói là có tử
Ngưỡng mong như thiệt nói rõ cho
Dứt hết lòng nghi tôi được mừng
Sao đức Thế Tôn nói như ảo
Mà lại nói rằng sanh cõi trời
Ðức Lưỡng Túc Tôn nói như vậy
Giáo pháp bí mật tôi chẳng hiểu
Phật nói các pháp không sở y
Mà lại nói y thiện tri thức
Ðây là mật ngữ của Thế Tôn
Tôi thiệt chẳng hiểu bạch Như Lai
Tại sao Phật nói không sở tác
Lại dạy chúng sanh tu hạnh nghiệp
Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhơn Sư
Lời nói bí mật tôi chẳng hiểu
Tại sao Phật nói tánh tự không
Lại nói quán không được giải thoát
Ở nơi nghĩa nầy tôi chẳng hiểu
Ngưỡng mong Như Lai dứt nghi cho
Tại sao Phật nói sự tận diệt
Lại nói các pháp tánh tịch diệt
Chúng tôi ngưỡng mong đấng vô thượng
Giải rõ những thuyết bí mật ấy
Tại sao Thế Tôn cần kệ tụng
Hiển thị các pháp như hư không
Mà người ngu si hủy báng pháp
Chết rồi chắc đọa đại địa ngục
Ðại Hùng luôn nói các thiện đạo
Mà lại còn nói các đạo khác
Ðã nói các loài do tạo nghiệp
Lại nói không có ai tạo nghiệp
Ðấng Vô Thượng Tôn thường tuyên nói
Các thuyết sai biệt chẳng biết được
Chúng tôi nơi ấy sanh nghi hoặc
Ngưỡng mong Thế Tôn dứt trừ cho
Ðã nói nghiệp lành không họp được
Lại nói tu hành được Bồ đề
Sa Môn Pháp Vương nói như vậy
Chúng tôi nơi ấy chẳng hiểu được
Tại sao nói pháp bất khả tận
Mà nói kẻ chê tội được hết
Ðấng vô lượng trí xin khai thị
Chúng tôi nơi ấy rất nghi ngờ
Như Lai đã nói pháp chơn tế
Lại nói điên đảo và thí giới
Ðấng mắt sáng không lòa diệt tội
Ngưỡng mong vì tôi nói nghĩa ấy
Ngoài Phật không ai gì chúng tôi
Giải thích được những điều nghi ấy
Chỉ có Như Lai dứt trừ được
Vì thế tôi kính đấng Ðại Giác’’.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Ðại Thọ Khẩn Na La Vương rằng :
« Ông hỏi nói không lại thọ ký
Nơi hai sự ấy chẳng hiểu được
Các pháp nếu là chẳng phải không
Thì Phật chẳng vì họ thọ ký
Do nhơn duyên gì nói như vậy
Các pháp nếu có thể tánh riêng
Thì nó còn mãi chẳng chuyển được
Nó phải chẳng giảm cũng chẳng tăng
Các pháp thể tánh vốn tự không
Dường như mặt gương bằng sạch sáng
Hay hiện tất cả các sắc tượng
Phải biết tất cả pháp như vậy
Pháp giới không có tướng biến dị
Ông nơi tất cả vật cúng dường
Mỗi mỗi các phần nên quan sát
Trong những phần nào mà có tướng
Pháp giới thường trụ không biến khác
Người trí phải nên quán như vậy
Các người phàm phu đều mê hoặc
Vì không trí huệ nên không hiểu
Ông hỏi Phật nói là vô sanh
Lại nói phát tâm nên khó hiểu
Các ông nay phải nhứt tâm nghe
Ðấng thập lực nói nghĩa bí mật
Phàm phu chìm ngập sông sanh tử
Cũng còn buộc ràng nắm chỗ ấy
Tâm thường ôm lấy tưởng điên đảo
Nên thọ sanh tử các khổ não
Từ trước đến nay chưa nghe pháp
Phật nếu vì họ quyết định nói
Phàm phu ngu mê nơi pháp ấy
Càng thêm tăng trưởng các nghi hoặc
Họ nghe Bồ đề lợi ích lớn
Lòng họ chuyên chú nơi quả ấy
Tâm họ lại còn sanh ham luyến
Tự nhiên thắng trí không thông được
Ông hỏi không diệt lại có chết
Hai điều nầy ông chẳng biết được
Nơi đây ông phải nhứt tâm nghe
Phật sẽ vì ông nói chơn thiệt
Vì các chúng sanh chấp thường kia
Do đó Như Lai nói nghĩa diệt
Hằng thấy những có đều suy hoại
Không có một pháp nào là thường
Ông hỏi các pháp như mộng ảo
Lại nói sanh thiên nên nghi ngờ
Hữu học phàm phu thiện ác đạo
Pháp ấy bất định nên hư ảo
Ông hỏi Phật nói không sở y
Lại nói y chỉ thiện tri thức
Vì người cầu rời bỏ y chỉ
Nên thiện hữu nói không sở y
Ông hỏi rốt ráo không tác năng
Lại nói có tác nên chẳng hiểu
Phải xem xe kia nhiều thành phần
Cũng quán xe có những tác dụng
Nếu lại có người chấp nơi ngã
Cũng lại lấy những sự ngã làm
Phật vì bọn họ nói không tác
Dầu như vậy chẳng phải không dụng
Ông hỏi tất cả tánh tự không
Lại nghi quán không được giải thoát
Người vô trí ngu si điên đảo
Chẳng có biết được thể tánh không
Từ nơi vọng tưởng phân biệt sanh
Hư vọng phan duyên nên bị buộc
Vì độ những chúng sanh như vậy
Thế Tôn nói tánh chẳng phải có
Như ông hỏi rằng sự tận diệt
Tất cả các pháp tánh cũng diệt
Các chúng sanh mê hoặc vô trí
Vì vọng phân biệt nên khát ái
Như kẻ khát nước thấy dương diệm
Vì nhớ tưởng nên càng thêm khát
Người ngu nên bị hư vọng hại
Nơi vô sở hữu khởi phân biệt
Người khát vọng sanh thấy tướng nước
Nơi chỗ dương diệm nước vốn không
Vọng tưởng làm hại các chúng sanh
Nơi các bất tịnh tưởng là tịnh
Phàm phu ngu si bị ái trói
Trong nhơ xấu ấy tánh chẳng sạch
Như dương diệm kia giống tướng nước
Trong thể tánh nắng thiệt không nước
Như vậy trong thân không sắc sạch
Thân sắc cũng lại tánh chẳng sạch
Phàm phu ngu si điên đảo thấy
Vọng tưởng là sạch nên bị trói
Dầu nói các pháp như hư không
Cũng nói hủy báng đọa địa ngục
Người ngu nghe nói sanh sợ sệt
Người trí dầu nghe tâm an ổn
Thế gian thể tánh tự không tịch
Ngu si vô trí tưởng có ngã
Bọn họ nếu nghe tánh không giáo
Sợ sệt chẳng được còn thọ sanh
Bọn họ hủy báng pháp tánh không
Ðều do vì họ chấp ngã kiến
Như người trói buộc nơi hư không
Người vô trí ấy đọa địa ngục
Phật vốn đã nói các thiện đạo
Và vì thế gian nói các đạo
Nói có tạo nghiệp mà chẳng mất
Cũng trừ chấp là có tác giả
Tất cả các đạo dường cảnh mộng
Phật vì ông nói biết như vậy
Trong mộng không có tướng khứ hai
Người thấy điên đảo chấp khứ lai
Phật đã diễn nói xó tác nghiệp
Suy tìm mười phương không tác giả
Vì như gió lớn thổi cây khô
Cây ấy chạm nhau phát sanh lửa
Gió ấy cùng cây chẳng nghĩ tưởng
Chúng ta hay phát xuát lửa ấy
Dầu là như vậy mà lửa sanh
Phải biết có nghiệp không tác giả
Ông hỏi phước đức không tích tụ
Sao họp Thiện được quả Bồ đề
Nay Phật chơn thiệt vì ông nói
Ông phải chăm chỉ chí tâm nghe
Ví như người đời được trường thọ
Mạng họ đến được hơn trăm tuổi
Nơi số tuổi ấy không tụ tích
Tất cả duyên họp cũng như vậy
Ông hỏi các pháp không có tận
Sao Phật lại nói nghiệp được hết
Người quán không pháp không có cùng
Tùy thế pháp nên nghiệp có hết
Phật dầu nói có thiệt tế pháp
Ðiên đảo cũng chẳng ngoài thiệt tế
Hàng chúng sanh ngu si điên đảo
Chẳng biết rõ được chơn thiệt tế
Khẩn Na La Vương phải lắng nghe
Vì người tinh tấn đủ tinh tấn
Tất cả các tướng là nhất tướng
Ðó là vô tướng phải nên biết
Nếu hay hiểu được nơi chữ nhứt
Phật vì người trí nói Bồ đề
Tất cả các tướng là nhất tướng
Ðó là vô tướng phải nên biết
Nếu hay hiểu được nơi chữ nhứt
Phật vì người tri nói Bồ đề
Tất cả các pháp đều vô tác
Ðây nói chữ A môn tổng trì
Tất cả Bồ Tát chỗ tu hành
Vô biên hành tướng Phật đã nói
Ðây cũng vào được tất cả pháp
Ðó là chữ A môn tổng trì
Tất cả các pháp đều tịch diệt
Dạy môn chữ A khiến chứng nhập
Khẩn Na La Vương phải nên biết
Ðây cũng chữ A môn tổng trì
Tất cả các pháp vô phân biệt
Vào pháp môn nầy Phật đã nói
Khẩn Na La Vương phải nên biết
Ðây cũng chữ A môn tổng trì
Tất cả các pháp không tự tánh
Dạy môn chữ A khiến chương nhập
Khẩn Na La Vương phai nên biết
Ðây cũng chữ A môn tổng trì
Tất cả các pháp không vô biên
Dùng môn chữ A nói các pháp
Khẩn NaLa Vương phải nên biết
Ðây cũng chữ A môn tổng trì
Pháp tận vô tận Phật đã nói
Phải nói tất cả pháp vô tận
Tất cả Như Lai đủ thập lực
Ðã nói môn tổng trì vô tận
Tất cả các pháp không có môn
Ðã nói môn tổng trì vô tận
Tất cả các pháp không có môn
Vì vậy không nên hiện chẳng có
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Do đây vào được môn chữ A
Nơi các pháp bất khả tư nghì
Chư Phật biết thiệt hay hiển thị
Thọ khẩn Na La Vương nên biết
Ðây cũng chữ A đà la ni
Tất cả các pháp không sở thu
Phật vì người trí nói Bồ đề
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là môn chữ A phải nên nhập
Tất cả các pháp không có lai
Nếu người chẳng tu thì chẳng được
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là môn chữ A phải nên nhập
Các pháp giả danh đều sẽ có
Suy tự tánh nó chẳng thể được
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là môn chữ A phải nên nhập
Tất cả các pháp không tự tánh
Suy tự tánh nó chẳng thể được
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là đà la ni của Phật nói
Tất cả các pháp bất khả đắc
Vì pháp tự tánh không nên vậy
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là đà la ni Thiện Thệ nói
Khẩn Na La Vương nên lắng nghe
Tất cả các pháp lìa nghĩ nhớ
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là môn chữ A phải nên nhập
Chư Phật Thế Tôn đã hiển thị
Vì pháp không thiệt không chướng ngại
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Nên nhập đà la ni chữ A
Tất cả các pháp không chướng ngại
Không có gì hay chướng các pháp
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Nhập mô chữ A Phật đã nói
Tất cả các pháp không có sanh
Người trí phải biết chỉ nhứt tướng
Tất cả pháp kia là vô sanh
Hãy biết pháp ấy không có danh
Tất cả các pháp không có sanh
Sanh ấy bổn lai bất khả đắc
Ðây cũng tức là môn tổng trì
Là môn chữ A phải nên nhập
Nếu pháp là không thiệt không sanh
Chẳng nhìn thấy được chẳng chỉ được
Các pháp tự tánh bất khả đắc
Vì thế không có ai hay thấy
Tất cả các pháp không có sanh
Nên là nhứt tướng không có tướng
Ví như hư không không có bằng
Tất cả các pháp cũng như vậy
Tất cả các pháp không tăng giảm
Chẳng một chẳng hai chẳng nhiệt não
Cũng chẳng phải lạnh chẳng phải nóng
Vì chẳng phải có chẳng thấy được
Không có tướng cong không tướng ngay
Cũng không có tướng sáng tướng tối
Cũng không những tướng thấy nghe thảy
Là đà la ni vô sở hữu
Chẳng phải siểm khúc chẳng chánh trực
Không có các tướng co duỗi thảy
Cũng không giận hờn không vui vẻ
Lại không khởi tác không tịch diệt
Không có tướng nhập và tướng xuất
Không tiến không thối không lai vãng
Cũng lại không ngủ và không thức
Lìa tướng giác tri cần phải biết
Chẳng phải mắt thấy cũng chẳng mù
Không có năng kiến và ám chướng
Cũng không tướng mở và tướng nhắm
Chẳng có điểu phục chẳng điều phục
Chẳng phải điệu động chẳng chỉ tức
Chẳng phải thế gian chẳng Niết bàn
Chẳng phải chơn thiệt chẳng hư vọng
Phải biết Phật cảnh là như vậy
Vì muốn điều phục các thế gian
Dứt trừ lòng nghi cho các ông
Trong đệ nhứt nghĩa ngoài Phật ra
Tất cả không ai trừ nghi được ”.
Ðại Thọ Khẩn Na La Vương nghe đức Phật nói môn tổng trì lòng rất vui mừng phát tâm tinh tấn dũng mãnh, tức thì hóa làm tám ức lầu gác. Các lầu gác ấy hoặc ở trên cây, trên hoa sen hoặc ở trên núi, đều trang nghiêm bằng thất bửu, có lọng thất bửu, tràng thất bửu, tua tụi bữu hoa, tua tụi lụa nhiễu nhiều màu để trang sức.
Ðại Thọ Khẩn Na La Vương cùng tám ức Khẩn Na La cầm các thứ hoa trên đất, dưới nước tại Hương Sơn đề rải trên Phật rồi đều Lên lầu gác thất bửu bay nhiễu đức Phật ba vòng, lại rải hoa lên đức Phật rồi lại nhiễu đức Phật ba vòng nữa.
Ðại Thọ Khẩn Na La Vương và chúng Khẩn Na La xuống lầu gác đi nhiễu đức Phật ba vòng, đảnh lễ chân Phật, nhứt tâm chắp tau chiêm ngưỡng Thế Tôn mắt chẳng tạm rời đứng qua một phía suy nhớ đức Như Lai vô lượng công đức thuở quá khứ và hiện tại.
Biết tâm nguyện của Ðại Thọ Khẩn Na La Vương và tám ức chúng Khẩn Na La, đức Thế Tôn hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng :
“ Phật chẳng phải không duyên mà cười
Ðấng Thiên Nhơn Sư nói như thiệt
Chúng thấy Phật cười đều hoài nghi
Nay thấy Tối Thắng như trăng non
Bạch đức Thế Tôn hôm nay ai
Nơi pháp vô nhị sanh thắng huệ
Ngày nay tôi ôm lòng nghi hoặc
Ngưỡng mong Thế Tôn trừ nghi cho
Ai ở Phật pháp được tịnh tâm
Do đó Như Lai hiện tướng cười
Ngưỡng mong Như Lai nói rõ cho
Chúng tôi hết nghi lòng vui mừng
Bấy giờ tất cả hàng đại chúng
Nếu nghe Phật nói đều mừng rỡ
Nguyện trừ nghi hoặc cho đại chúng
Như lời Phật dạy đều làm được
Vì thế nên đấng Lưỡng Túc Tôn
Dứt trừ nghi hoặc nói rõ cớ
Nguyện vì Khẩn Na La Vương thảy
Và vì tất cả các chúng sanh ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng :
“ Lành thay Mã Thắng hỏi phải lúc
Nay Phật vì ông phân biệt nói
Do vì ông hỏi Phật hiển bày
Ðại chúng sẽ được Phật công đức
Ông nên thanh tịnh tâm chuyên nhứt
Nghe sự hi hữu chớ loạn ý
Ðức Thiện Thệ có trí tối thắng
Tri kkiến rộng lớn không chướng ngại
Ðặt nghi vấn nơi Khẩn Na La
Làm lợi tất cả các chúng sanh
Nay Phật nói quả đương lai họ
Lắng nghe Phật sẽ dứt nghi cho
Thọ Khẩn Na La tám ức chúng
Vương và quan dân các quyến thuộc
Chúng ấy cúng dường nơi Phật rồi
Từ đây mạng chung sanh cõi trời
Từ đó về sau chín ức kiếp
Lưu chuyển ở trong cõi Nhân Thiên
Tu tập đầy đủ năm thần thông
Ðược trí tự tại tâm tự tai
Họ nơi na do tha Phật độ
Là do chư Phật sai qua đó
Thân ở cung trời luôn bất động
Hằng thọ thiền duyệt vui an ổn
Họ ở chín mươi ngàn muôn kiếp
Tại trong Trời Người lưu chuyển rồi
Mỗi mỗi ở trong Phật độ mình
Ðều được thành bực vô thượng đạo
Kiếp ấy hiệu là Thường Chiếu Diệu
Ở trong kiếp ấy thành Phật đạo
Ðây đều hạng nhứt sanh bổ xứ
Chúng trí huệ ấy sẽ thành Phật
Phật độ ấy không một người nào
Chẳng phải người tu hành thành thục
Ðều là bực nhứt sanh bổ xứ
Không người cầu Thanh Văn Duyên Giác
Tất cả đều là đại Bồ Tát
Người soi sáng đời đều sanh đó
Ðều là người nhứt sanh bổ xứ
Họ đều sẽ được thành Phật đạo
Cõi ấy các chúng đại Bồ Tát
An trụ trong hoằng thệ đại nguyện
Ở trong vô lượng chư Phật độ
Ta đều sửa trị khiến thanh tịnh
Bồ Tát ấy nguyện rất rộng lớn
Ở trong đêm dài khéo suy lường
Vì họ có tính nguyện thanh tịnh
Ðều riêng sửa trị Phật độ mình
Các Phật độ ấy trang nghiêm đẹp
Xa rời tất cả các phiền não
Ðất ấy khắp nơi có cung điện
Giải thoát tất cả các ác đạo
Bao nhiêu tội ác và tám nạn
Các Phật độ ấy thảy đều không
Ðã tu thanh tịnh Phật độ rồi
Chúng sanh liền được dễ điều phục
Như vậy Thế Tôn Thiên Trung Thiên
Nói thọ ký cho Khẩn Na La
Tất cả chư đại chúng hiện tại
Nghe rồi thảy đều rất vui mừng ” .
Bấy giờ lại có tám vạn Hư Không Hành Thiên thấy A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương;, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa và Khẩn Na La cúng dường đức Phật được thọ ký, họ đều rất vui mừng hớn hở vô lượng ở trong Phật pháp thân tâm yêu thích. Vì cúng dường Phật họ phát khởi tâm dũng mãnh. Vòng khắp ngoài thành Ca Tỳ La tám vạn sáu ngàn do tuần, chư Hư Không Hành Thiên ấy mưa lớn mạn đà la khắp mặt đất dày đến gối người. Họ cúng dường Phật nhiễu Phật ba vòng, nói kệ tán thán đức Phật rằng:”
“Các căn tịch tĩnh mặt mỉm cười
Cứu hộ tất cả các chúng sanh
Thiện Thệ đầy đủ đại từ bi
Nên làm Thế Tôn Thiên Nhơn Sư
Như Lai đại chúng đều an trụ
Ở trong Phật pháp và Niết bàn
Ðạo Sư hạnh trí Lưỡng Túc Tôn
Chúng tôi đầu mặt nay đảnh lễ
Như đêm rằm vầng trăng tròn sáng
Người đời đều lạy trăng giữa sao
Như vậy tất cả các thiên chúng
Thấy Phật mặt cười đều đảnh lễ
Chứa nhóm khối lớn vô lượng phước
Cũng lãi thành tựu thân trí huệ
Ðầy đủ vô lượng oai đức lớn*
Nên tôi đảnh lễ đấng cứu đời
Núi công đức đầy đủ thập lực
Tam đế vô úy lìa tam cấu
Thành tựu mười tám phAp bất cộng
Thấy rõ không nghi đấng Ðạo Sư
Ðầy đủ ba mươi hai tướng tốt
Tám mươi tùy hảo sự trang nghiêm
Tâm Phật thắng thượng như đế Tràng
Nên tôi đảnh lễ đấng vô thượng
Ðã hay cứu cánh sức trì giới
Thiên lực quyết định chẳng khuynh động
Nắm cầm gươm trí huệ tối thượng
Tối thắng dũng kiện hàng thiên ma
Nơi sức trí huệ đến bờ kia
Ðiều ngự Thanh Văn lòng không tiếc
Tâm Phật tịch tĩnh khắp mười phương
Ðộ thoát tất cả chúng Nhơn Thiên
Thế Tôn lAé đấng Thiên Nhơn Sư
Ðược pháp tịch diệt tối vô thượng
Thưa vâng bạch Thế Tôn tôi nghuyện
Cũng sẽ được pháp thắng diệu ấy
Nguyện tôi cũng sẽ trong Nhơn Thiên
Ðược các thế gian tìm mến thích
Như đức Thế Tôn bằng không khác
Biết rõ tâm thích muốn chúng sanh
Nguyện tôi làm lợi cho thế gian
Dùng tâm xót thương tâm đại bi
Nguyện tôi đều độ thoát được những
Chúng sanh đọa biển khổ sanh tử
Nguyện tôi ở trong hang Thiên Nhơn
Ðược làm Ðại Ðạo Sư vô thượng
Tôi sẽ giải thoát cõi sanh tử
Những chúng sanh bị trăm thứ khổ ”.
Ðức Thế Tôn biết chúng Hư Không Hành Thiên có tâm tín nguyện sâu rộng nên liền mỉm cười.
Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng:
“ Phật Mâu Ni chẳng phải không duyên
Chiếu sáng ba cõi hiện mỉm cười
Ngưỡng mong Thập Lực nói rõ cho
Vì chúng sanh nào mà mỉm cười
Thấy mặt tối Thắng của Như Lai
Hiện tướng mỉm cười làm chúng mừng
Tất cả đại chúng đều hoài nghi
Xin Phật nói rõ nhơn duyên cười
Xin Ðại Ðạo Sư mau nói rõ
Nhơn duyên mỉm cười sự lợi ích
Xin dứt trừ lưới nghi cho chúng
Xin vua trong Sa Môn tuyên nói
Ai làm cho Phật hiện mỉm cười
Ai ở nơi Phật bày cúng dường
Khiến ai đạt được đáy sanh tử
Mong đức Thế Tôn trừ nghi cho
Ai ở ngày nay động cung ma
Khiến ma cuồng loạn lòng chẳng an
Ai ở ngày khiến Thiên chúng
Thảy đều vui mừng rất hớn hở
Ngưỡng mong vì tôi mà tuyên nói
Dứt trừ tất cả nghi cho đời
Ðại chúng nếu được nghe Phật nói
Tất cả sẽ đều rất vui mừng ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:
“Hôm nay Mã Thắng bạch hỏi Phật
Việc thọ ký Hư Không Hành Thiên
Ông hỏi nơi Phật lợi ích lớn
Cho vô lượng Trời Người thế gian
Nếu không hỏi nơi đức Thập Lực
Chẳng được nghe nói lời thọ ký
Nay ông bạch hỏi nơi Như Lai
Làm lợi ích lớn cho thế gian
Không Hành Thiên đây nơi đức Phật
Dùng tâm mừng rỡ mà cúng dường
Qua khỏi số kiếp a tăng kỳ
Dứt ttrừ phiền não được làm Phật
Từ nơi thân nầy mạng chung rồi
Liền được sanh trời chỗ thù thắng
Chỗ vô lượng ức chư Như Lai
Ðều dung hương hoa để cúng dường
Ở chỗ chư Phật phát đạo tâm
Cũng lại tăng tiến tâm Bồ đề
Bởi nói vô lương nhơn thắng diệu
Khen ngợi trí tự nhiên của Phật
Chúng ấy sẽ ở đời vị lai
Chỗ vô lượng vô biên chư Phật
Dùng hương hoa tốt để cúng dường
Cũng nói kệ hay để khen ngợi
Chư Bồ Tát thân na la diên
Cúng dường tán thán chư Phật rồi
Ở đời Như Lai kiếp Hân Hỷ
Ðược thành trí tối thắng vô thượng
Phật ấy hiệu là Hoa Tràng Tôn
Tiếng danh nghe khắp đều kính trọng
Tám vạn chúng thiên thần Không Hành
Ðều đồng một kiếp được thành Phật
Trong cõi Phật ấy không địa ngục
Cũng không ngạ quỉ và súc sanh
Cõi ấy cũng không loài Tu La
Không có tất cả tám điều nạn
Lúc tám vạn Hành Thiên thành Phật
Cõi ấy tất cả nhơn dân
Tất cả chúng sanh thọ vô lượng
Quả báo như quả trời Ðao Lợi
Nước ấy chẳng nghe tên ác đạo
Huống là có người tạo nghiệp ác
Thuở ấy chúng sanh đều như pháp
Tất cả đều là chúng điều phục
Phật ấy độ người vô lượng ức
Số ấy đông hơn cát sông Hằng
Tuyên nói pháp vô y vô trước
Thập Lực độ thoát các chúng sanh
Phật ấy nhập đại Niết bàn rồi
Xá lợi lưu bố xây bửu tháp
Mỗi Mỗi Xá lợi của Phật ấy
Trong ấy đều hiện thân tướng Phật
Danh tiếng không hư các thân phần
Vì chúng sanh ấy hiện thân biến
Vô lượng ức số các chúng sanh
Ðều phát tâm vô thượng Bồ đề
Ðạo Sư trí phương tiện như vậy
Thọ ký cho chúng Không Hành Thiên
Tất cả đại chúng nghe thọ ký
Thảy đều vui mừng rất hớn hở ’’
Bấy giờ có chin vạn Tứ Thiên VươngThiên thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa, Khẩn Na La và Hư Không Hành Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đề rất vui mừng hớn hở vô lượng, ở trong Phật pháp thâm tâm tin ưa. Ví như có người ngồi ghe bằng sành vào trong song tự nghĩ rằng: Ghe sành nầy chẳng bao lâu sẽ nứt bể, lúc đó chưa chìm phải mau vào bờ để khỏi bị thủy nạn. Chín vạn Tứ Thiên Vương Thiên nầy cũng như vậy, họ thầy oai thần của Phật nên khởi lòng tin ưa, vì muốn được Phật pháp nên họ phát tâm dũng mãnh cúng dường Như Lai.
Tứ Thiên Vương và chin vạn trời Tứ Thiên Vương hóa ra chín vạn tướng thất bửu rộng lớn trang nghiêm nhiều màu sắc đẹp lạ. Trong số ấy có nhiều trướng xích chơn châu, trướng hỏa châu, trướng lưu ly, trướng thiên chơn kim, trướng kim cương châu. Chín vạn trướng thất bửu ấy ở hư không bay nhiễu Phậtba vòng. Lại hóa chín vạn thiên nhạc ở hư không nhiễu Phật ba vòng. Lại hóa những hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, ca ca la bà, ma ha ca ca la bà, họ đem hoa trời ấy rải lên đức Phật, lại nhiễu Phật ba vòng, dừng ở một bên chắp tay cung kính nói kệ tán tán Phật :
« Chư Thiên chín vạn ở chỗ Phật
Nhứt tâm thích muốn Phật công đức
Không diệu không trầm không tham hối
Không cao không hạ lạy Thế Tôn
Dứt giống sanh tử trụ vô minh
Nhổ gai phiền não xô núi mạn
Giỏi nhổ tên độc chữa ghẻ nhọt
Tinh tấn chẳng lười thân viên mãn
Diệt trừ phiền não giải triền phược
Dứt hết kiết sử rời ôn náo
Không và tướng là Phật hạnh
Tâm không nguyện cầu tất cả cõi
Trừ gốc khát ái bỏ vô minh
Những bốn điên đảo đều xa lìa
Phật biết thiệt tế đời không biết
Phàm phu nghe sợ như săn bẩy
Chúng sanh chấp thân chẳng biết không
Bị tối vô minh ham thế gian
Thấy chơn như xem đời trống rỗng
Hiển chơn trí nên được tịnh nhãn
Bày ngũ ấm không danh sắc không
Giới chẳng phải có xứ cũng vậy
Pháp nầy pháp khác chỉ danh tự
Pháp danh tự Phật dạy là không
Như ảo sư hóa làm hình tượng
Không ngã không nhơn chúng sanh mạng
Các ấm giới và mười hai xứ
Ðều là ảo hóa lời Phật dạy
Như thợ khéo vẽ hình bạch tượng
Cao thấp màu vóc đều giống hệt
Chỉ gạt mắt ngu thiệt không voi
Pháp giới bình đẳng ngu tự mê
Phật dạy rõ như trái trong tay
Người trí chẳng mê khéo học Phật
Phật đại trí huệ soi sáng đời
Chuyển diệu pháp luân độ chúng sanh
Tôi nguyện giác ngộ đại Bồ đề
Chuyển diệu pháp luân như Phật chuyển
Nơi người thế gian mê mất đường
Tôi sẽ độ họ như Phật độ ”.
Ðứ Thế Tôn biết thâm tâm tin ưa của chin vạn trời Tứ Thiên Vương và Tứ Thiên Vương nên hiện tướng mỉm cười, từ miệng Phật phóng ra nhiều tia sáng năm màu.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật :
“ Phật cười chẳng phải không nhơn duyên
Xin Phật nói rõ cớ mỉm cười
Thấy Phật cười đại chúng đều nghi
Ngưỡng mong Thế Tôn giải thích rõ
Ai phá ma quân ai hết nghi
Ai quyết định pháp xin Phật nói
Ai phụng Phật ai cúng Phật
Ðại chúng đều nghi xin Phật nói
Phật nói thọ ký chúng nghe rồi
Sẽ hết nghi ngờ xin Phật nói
Khiến các chúng sanh nương Phật trí
Mau được Bồ đề nên thọ ký ».
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng :
« Lành thay Mã Thắng hay hỏi Phật
Duyên cớ mỉm cười ông lắng nghe
vì thương thế gian phải nghe kỹ
Chín vạn chư Thiên ở trước Phật
Lòng tin thanh tịnh đã cúng dường
Nói kệ khen Phật biết pháp không
Quyết định nơi pháp trụ Phật đạo
Họ đã từng cúng tám ức Phật
Vị lai nơi vô lượng ức Phật
Cúng dường cầu được vô thượng đạo
Nơi vô lượng Phật nếu chẳng cúng
Bồ đề thọ kia chẳng ngồi chứng
Ðời vị lai họ đều thành Phật
Ðồng hiệu Ðại Trì Phật Thế Tôn
Chư Phật ấy có chúng Thanh Văn
Tám mươi hộ trì kiến vô ngại
Tất cả chúng sanh Phật độ ấy
Thọ mạng đều tám ức tuổi
Vô số ức Tỳ Kheo đệ tử
Lìa trần cấu trụ tối hậu thân
Phật ấy diệt độ do công đức
Tạo vô lượng tháp trang nghiêm đẹp
Vô lượng ngàn trăm na do tha chúng
Cúng dường chùa tháp lợi người đời
Hoặc phát đại tâm hoặc chứng diệt
Chánh pháp trụ thế thời gian lâu
Ðến tám ức năm do vô lượng
Do tha Bồ Tát trì chánh pháp
Chúng Tứ Thiên Vương được thọ ký
Vì lợi đời thành thục chúng sanh
Ðại chúng nghe rồi rất vui mừng
Hớn hở vô lượng thuận lời Phật ”.
Bấy giờ có tám ức chư Thiên Ðao Lợi , Thiên Ðế Thích là tối thượng thủ thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương, Cưu Bàn Trà , Càn Thát Bà, Dạ Xoa, khẩn Na La, Hư Không Hành Thiên và Tứ Thiên Vương Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều rất vui mừng hớn hở vô lượng, ở trong Phật pháp thâm tâm tin ưa phát tâm dũng mãnh cúng dưỡng Như Lai , liền hóa làm tám ức lầu gác thất bửu nhiều màu trang nghiêm đẹp lạ, nơi nơi giăng rũ những anh lạc xích châu, lưu ly, hỏa châu, tạp châu. Mỗi lầu gác đều có trăm cấp tràng môn trang nghiêm. Trong mỗi cấp đều có bốn lầu gác nhỏ trang sức cửa nẻo và tòa sư tử, tràng phan lo(ng trướng lọng màn đều bằng thất bửu. Có thiên đồng nữ xinh đẹp đệ nhứt hầu nơi lầu gác và tòa sư tử, đánh những nhạc trời. Họ lại hóa làm tám ức xe ngựa thất bửu trang hoàng với những tràng phan lọng báu cõi trời và những âm nhạc trời. Khắp thành Ca Tỳ La ngang rộng sáu mươi do tuần, họ rải những hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, ca ca la bà, ma ha ca ca la bà, ba lô sử ca, ma ha ba lô sử ca. Hoa được rải dày đến gối. Thiên Ðế Thích lại hóa làm tám ức y la long tượng, mỗi tượng có tám ức đàu, mỗi đầu tượng đều có sáu ngà, trên mỗi ngà có bảy ao bông, trong mỗi ao có bảy bông sen đều có ngàn cánh, trong mỗi cánh sen có bảy thiên nữ, mỗi thiên nữ có bảy thị nữ nhiều thứ trang nghiêm. Nơi khoảng cách lầu gác an trí long tượng, xe báu theo sau, cúng dường Như Lai những lầu gác ấy. Họ lại mua các thứ hương trời hoa trời hoa thất bửu để cúng dường Phật. Các tiên nữ ấy hoặc tấu âm nhạc, hoặc ca hoặc vũ, hoặc động chuyển thân tay rải hoa hương cúng dường. Họ lại hóa làm tám ức mã vương trang nghiêm nhiều thứ rồi ngồi lên và đem những vật báu cõi trời rải lên Phật. Lại có tám ức âm nhạc trời ở hư khong tự nhiên hòa tấu. Trên tám ức xe thất bửu, mỗi xe đều có một Hóa thiên nữ. Tám ức thiên nữ ấy hoặc ca, hoặc vũ, hoặc tấu nhạc, hoặc động chuyển thân tay rải hoa hương lên Phật cúng dường.
Lúc ấy tám ức chư Thiên Ðao Lợi nghĩ rằng các Hóa thiên nữ cúng dường Như Lai, tất cả các pháp cũng đều như hóa mà đức Như Lai đã từng giảng dạy. Họ biếyt các pháp như ảo hóa rồi, đối với tất cả pháp chă”ng còn hoài nghi. Họ nhiễu Phật ba vòng, đảnh lễ chưn Phật rồi đứng qua mọ-t phía. Họ biết các pháp như ảo rồi, cũng biết thân mình đồng là ảo hóa, biết những sự cúng dường Như Lai cũng là ảo hóa, pháp của Phật dạy cu’ng như vậy. Ở nơi ảo pháp được không nghi ngờ rồi họ nói kệ tán than đức Phật rằng :
“ Những hóa nhơn nầy dâng cúng dường
Tất cả mọi người cũng như vậy
Ðế Thích chư Thiên và các pháp
Tất cả thảy đều như ảo hóa
Như Lai Ðạo Sư cũng như ảo
Chúng Thanh Văn từ pháp hóa sanh
Nơi lời Phật dạy đều không nghi
Hiểu được thọ ký của Phật nói
Pháp của Như Lai Thế Tôn nói
Phàm phu ngu si chẳng hiểu được
Pháp của Như Lai đã truyền dạy
Tất cả thảy đều như ảo hóa
Nếu hang học nhơn và vô học
Chúng điều phục đệ tử của Phật
Những người ấy cũng như ảo hóa
Ở nơi pháp ấy tôi không nghi
Nếu người ưa thích vắng yên lặng
Riêng mình không não như kỳ lân
Chúng ấy tất cả đều như ảo
Ở nơi pháp ấy tôi không nghi
Người hành Phật hạnh Bồ Tát hạnh
Lợi ích chúng sanh chẳng phóng dật
Họ là Bồ Tát con Như Lai
Tất cả thảy đều như ảo hóa
Thiện Thệ Ðạo Sư tự nhiên trí
Thập lực đại bi trí vô lượng
Trí huệ tự tại Thế Gian Tôn
Phật ấy như vậy cũng như ảo
Như pháp Thế Tôn đã từng dạy
Thanh lương tịch tĩnh vô sở y
Pháp được Niết bàn và Niết bàn
Tất cả thứ ấy cũng như ảo
Thiện Thệ như pháp vô sở hữu
Tất cả dường như tánh ảo hóa
Nơi Phật pháp ấy và trí huệ
Trong ấy chúng tôi đều không nghi
Chúng tôi thường nguyện được như Phật
Thấy tất cả pháp dường như ảo
Chúng tôi đi trong cảnh giới Phật
Nguyện được thành Phật khôngcó nghi ».
Ðức Thế Tôn biết tám ức tròi Ðao Lợi thâm tâm tin ưa nên hiện mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật rằng:
« Danh xưng vô tỉ đủ công đức
Như Lai mỉm cười chẳng vô cớ
Ngày nay Như Lai tại sao cười
Ngưõng mong nói rõ trừ nghi cho
Chúng thấy Như lai hiện mỉm cười
Thấy rồi chúng đều có lòng nghi
Ngưỡng mong trừ nghi cho chúng ấy
Khiến chúng chớ ôm lấy lưới nghi
Chúng chư Thiên kia đều mừng rỡ
Tán than Như Lai và cúng dường
Nay Vì ai mà Phật mỉm cười
Xin Phật nói rõ cho chúng mừng
Công đức thanh tịnh như trăng tròn
Ðấng đáng cúng dường xin nói rõ
Lời Phật phán ra nếu họ nghe
Chúng ấy mừng rỡ được thành Phật
Chư Thiên đại chúng dự hội nầy
Biét tất cả pháp dường như ảo
Chư Thiên tu học không chướng ngại
Ngưỡng mong Thập Lực nói sự ấy
Tất cả đại chúng nếu trừ nghi
Dùng lòng mừng vui tu thập đạo
Khởi nguyện tăng thượng chẳng hạ liệt
Chúng nghe liền phát tâm dũng mãnh ’’.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng :
“ Mã Thắng nay ông hỏi Như Lai
Khéo hạp thời cơ lợi ích lớn
Phật biết chư Thiên mừng vui rồi
Duyên cớ mỉm cười Phật sẽ nói
Ông vì chư Thiên hỏi cớ cười
Dùng tâm thanh tịnh khéo lắng nghe
Chư Thiên đại chúng dự hội nầy
Biết tất cả pháp dường như ảo
Vô lượng vô ngại tri kiến tri kiến huệ
Ðời sau lìa tối được làm Phật
Quá khứ lưu chuyển trong sanh tử
Ðã cúng dường Phật như hằng sa
Ở chỗ chư Phật luôn tu tập
Tất cả các pháp dường như ảo
Nay ở chỗ ta cũng dâng cúng
Cũng như các pháp đồng ảo hóa
Họ sâu tin ưa nơi Phật pháp
Ðời đương lai họ sẽ thành Phật
Nơi Phật pháp này họ tu tập
Không có hư mất không chướng ngại
Chư Thiên cúng dường nơi ta rồi
Lại biết các pháp dường như ảo
Trong kiếp Lực Cân ở đòi sau
Ðược thành tối thắng Vô Thượng Giác
Chư Như Lai ấy đều đồng hiệu
Là Nhơn Ðà La Tràng Vương Phật
Phật ấy tuyên dạy pháp như ảo
Ðộ thoát vô lượng ức chúng sanh
Vì thế các ông bỏ phóng dật
Tu tất cả pháp dường như ảo
Người chẳng phóng được ta độ
Cho đủ Bồ đề phần pháp vậy
Tinh tấn dường như cứu đầu cháy
Mau cầu tịch diệt đại Bồ đề’’.
Bấy giờ lại có bốn ức chư Thiên Dạ Ma thấy A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa, Khẩn Na La, Hư Không Hành Thiên, Tứ Thiên Vương Thiên và Ðao Lợi Thiên cúng dường Phật đươc thọ ký, họ rất vui mừng hớn hơ » vô lượng, ở nơi Phật pháp họ phát khởi lòng tin ưa mà nghĩ rằng : Phật pháp như vậy rất lạ rất diệu. Ai chứng được Phật pháp ấy thì không gì chẳng biết, không gì chẳng thấy, không gì chẳng giản trạch, không gì chẳng chứng nhập. Nơi đã sanh chưa sanh hiện sanh, hoặc đã diệt sẽ diệt hiện diệt, hoặc nghiệp hoặc báo đều biết như thiệt. Rất lạ đức Như Lai có thể biết thế đế và đệ nhứt nghĩa, khéo biết hai đế ấy không còn gì khác. Ðức Phật Thế Tôn ở nơi pháp không,
Khéo hay biết hay thấy, khéo biết giản trạch, khéo chứng tương ưng nên gọi là nhứt thiết trí. Gì gọi là thế đế ? Tất cả thế tục sanh tử hiện hành, ở nơi các pháp ấy đều biết rõ được cả. Ðệ nhứt nghĩa đế không có ngôn thuyết, không có người biết, chẳng phải sở hành của tâm, vì là vô tri nên không người hay nói không ai hiển thị, không ai nói dạy, không có ai nghe, vì là không nói nên cũng không người biết, không sanh không hiển bày, không người thấy, không người sắp đặt, không có nắm lấy, không có giác tri, không có năng đáo cũng không sở đáo, không thể gần kề, không thể đo lường, không có kiến lập, không có vứt bỏ, không sở tác không năng tác, không khen không chê, không lợi không suy, không ngợi không bay, không khổ không vui, chẳng phải sắc chẳng phải chẳng sắc, chẳng phải số chẳng phải chẳng số, chẳng phải sáng chẳng phải chẳng sáng, chẳng phải phiền não, chẳng rời phiền não, chẳng phải thế gian, chẳng phải Niết bàn, chẳng phải giác, chẳng phải quán, chẳng phải tiến chẳng phải thối, không động không tác, không có hí luận, vượt khỏi hí luận, tướng sắc được nói bất khả đắc, thọ tưởng hành thức cũng bất khả đắc, tướng nhãn bất khả đắc nhĩ tỉ thiệt thân và ý các tướng ấy cũng bất khả đắc, tướng sắc bất khả đắc, các tướng thanh hương vị xúc và pháp đều bất khả đắc, tướng nhãn thức bất khả đắc, các tướng nhĩ thức tỉ thức thiệt thức thân thức và ý thức đều bất khả đắc, tướng nhãn xúc bất khả đắc, các tướng nhĩ xúc tỉ xúc thiệt xúc thân xúc và ý xúc đều bất khả đắc, nhãn xúc sanh thọ bất khả đắc, nhĩ tỉ thiệt thân và ý xúc sanh thọ đều bất khả đắc, tướng sắc tư giác bất khả đắc, các tướng thanh hương vị xúc và pháp tư giác đều bất khả đắc, tướng không bất khả đắc, các giới địa thủy hỏa phong và thức đều bất khả đắc, tướng dục giới bất khả đắc, tướng sắc giới bất khả đắc, tướng vô sắc giới bất khả đắc, tướng hữu vi bất khả đắc, tướng vô vi bất khả đắc. Các tướng như vậy, nếu các pháp ấy được tuyên nói thì không người hay nói, các pháp như vậy như vậy gọi là những pháp bất khả thuyết. Phật pháp tối thắng, chúng sanh phám phu ngu si không học chẳng biết được nên họ nghe đến sanh kinh sợ. Ở nơi Phật pháp vì họ kinh sợ nên bèn thối thất nơi Nhứt thiết chủng trí. Chư Thiên và người đời nên phải xót thương các chúng sanh ấy, họ thường ở sanh tử bị nhiều khổ não.
Chư Thiên Dạ Ma quan sát các thế gian chúng sanh khổ não rồi, vì được Phật pháp và vié cúng dươéng Như Lai nên phát khởi tâm tinh tấn dũng mãnh, trần thiết đồ cúng dườnghơn trời Ðao Lợi để dâng cúng Phật, cúng dường xong đảnh lễ chưn Phật nhiễu Phật ba vòng rồi đứng qua một phía nói kệ tán thán đức Phật :
« Phật thấy các ấm đều không tịch
Ở nơi giới nhập cũng như vậy
Các căn tích tụ đều ly tướng
Như Lai như thiệt biết rõ cả
Bực trí thế gian nơi thiệt pháp
Chẳng theo người nghe tự nhiên hiểu
Ðó là thế đế và chon đế
Ngoài đây không còn pháp thứ ba
Như Lai thương xót tất cả loài
Vì lợi thế gian nói tục đế
Như Lai tuyên nói nơi thế gian
Vì các chúng sanh hiển lục đạo
Ðịa ngục súc sanh và ngạ quỉ
Nhơn Thiên Tu La đủ sáu đạo
Nhà hạ liệt và nhà thù thắng
Bao nhiêu nhà nghèo và nhà giàu
Các hàng nô bộc và tì sứ
Các giống nam nữ và hai căn
Bao nhiêu sáu đạo ở thế gian
Ðức Phật Thế Tôn đều đã nói
Quan sát các pháp thế tục rồi
Vì lợi ích lời Phật tuyên nói
Chúng sanh ưa thích nơi sanh tử
Chẳng thể rơéi được tám sự đời
Ðó là lợi suy và hủy dự
Các thứ xưng cơ và khổ lạc
Ðược lợi lòng họ liền vui mừng
Thất lợi họ liền sanh sân não
Sáu sự đời kia cũng như vậy
Thế gian đều theo tám sự ấy
Ở trong tục đế mà nói chơn
Kiến thức điên đảo cần phải rõ
Trong chẳng sạch vui nói sạch vui
Trong không có ngã nói có ngã
Trong pháp vô thường nói là thường
Ở trong tướng ấy luôn nắm lấy
Nghe giáo pháp của đức Phật dạy
Họ bèn sợ chê chẳng tin nhận
Chê bai thiệt giáo của Như Lai
Sẽ đọa địa ngục rất khốn khổ
Phàm ngu tham cầu nơi thế lạc
Càng thọ vô biên trăm thứ khổ
Nếu ai được ở trong Phật pháp
Quan sát như vậy chẳng điên đảo
Bỏ rời sanh tử vào Niết bàn
Như rắn kia lột bỏ da cũ
Tất cả các pháp thể tánh không
Không chẳng có tướng đệ nhứt nghĩa
Nếu nghe pháp không mà ưa thích
Chắc được vô thượng đại Bồ đề
Như Lai như thiệt nói pháp ấy
Dứt trừ nghi ngờ cho chư Thiên
Ðều phát tâm Vô thượng Bồ đề
Vì độ tất cả chúng sanh vậy
Chư Thiên như vậy phát tâm rồi
Thảy đều mừng vui tâm thanh tịnh
Ðược nghe Phật pháp tối thắng rồi
Chúng chư Thiên đây đều thành Phật ».
Ðức Thế Tôn biết thâm tâm tin ưa của bốn ức Dạ Ma Thiên nên hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ kheo nói kệ hỏi Phật:
« Phật vì thế gian mà mỉm cười
Tất cả chúng đây đều sanh nghi
Ngưỡng mong Thế Tôn nói rõ cho
Khiến tất cả chúng đều mừng rỡ
Ðược nghe thọ ký chư Thiên rồi
Tất cả đại chúng đều hớn hở
Người có trí huệ phát dũng mãnh
Ở trong Phật pháp làm như lời
Hàng chúng thù thắng của Như Lai
Có đủ pháp khí công đức Phật
Lành thay tuyên nói lời đẹp hay
Ðể nhiếp tất cả đại chúng vậy
Nghe Phật công đức long vui mừng
Các đại chúng đây quyết sẽ được
Nghe đức Như Lai thọ ký rồi
Ðúng pháp sẽ siêng tu tinh tấn
Lành thay Thế Tôn Thầy Trời Người
Vì trừ nghi hoặc cho đại chúng
Ngưỡng mong Thế Tôn mau nói rõ
Ðại chúng nhứt tâm ưa thích nghe
Trời Dạ Ma kia được thọ ký
Xin đức Thế Tôn mau nói rõ
Các đại chúng đây đều vui mừng
Tất cả đều phát tâm Bồ đề ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:
“Vì lợi thế gian hiện tướng cười
Mã Thắng đúng giờ khéo hỏi Phật
Lợi ích vô lượng các đại chúng
Vì nghe công đức của Như Lai
Các chúng sanh ưa thích tham sân
Không biết ưa nơi công đức Phật
Tâm họ ngu si bị mê loạn
Sẽ chìm mãi trong biển sanh tử
Với Phật chánh pháp nếu tin ưa
Ðã từng thỉnh hỏi nơi Phật trước
Người tương ưng với tâm đại bi
Người nầy sẽ được Phật công đức
Nếu thấy chúng sanh bị si não
Người trí với họ sanh lòng thương
Các chúng sanh ấy nghe Phật đức
Ðội lãnh Phật giáo như vòng hoa
Chúng hội của Phật rất thanh tịnh
Nơi chỗ Phật trước đã tu phước
Họ đối với công đức Như Lai
Ðội lãnh như vòng hoa bà sư
Chỗ Phật trước chúng trời Dạ Ma
Ðã tu trì giới trừ tham trước
Nhàm lìa phiền não lòng thanh tịnh
Với chúng sanh khổ sanh lòng thương
Ðã từng gần gũi vô lượng Phật
Số ấy nhiều như cát song Hằng
Họ đã tu tập vô lượng lành
Ðể cầu Vô thượng Bồ đề vậy
Biết chúng sanh chìm trong phiền não
Với chúng sanh khổ sanh lòng thương
Nơi đấng cứu thế đại Ðạo Sư
Bạch hỏi vô lượng pháp môn diệu
Nay Phật Ðạo Sư vì họ nói
Người nghe đều được thành Phật đạo
Biết chúng sanh bị phiền não móc
Vì họ nói pháp thiện thắng diệu
Ðiều Ngự Trượng Phu đại Ðạo Sư
Vì các chúng sanh nói pháp không
Họ nghe pháp của Phật dạy rồi
Các pháp không ấy đều biết rõ
Ðó là không các pháp tướng không
Nói không tự tánh pháp không tướng
Biết rõ các Phật pháp như vậy
Thảy đều an trụ Phật công đức
Chúng ấy cúng dường nơi Như Lai
Như pháp đều tự thọ ký biệt
Ở kiếp tinh tú đời vị lai
Thảy đều được thành vô thượng đạo
Chư Phật như vậy không tăng giảm
Số ấy đầy đủ bốn ức chẵn
Thảy đều đồng hiệu Tịnh Trí Phật
Khai ngộ vô lượng các chúng sanh
Ðại Thiên hằng phục các ma oán
Ðáp lời Mã Thắng đã bạch hỏi
Chúng trời Dạ Ma đã mãn nguyện
Ðại chúng Trời Người đều mừng rỡ ”.
Bấy giờ có tám ức Ðâu Suất Ðà Thiên thấy A Tu La, Ca Lâu La nhẫn đến Dạ Ma Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở và nghĩ rằng : Nơi những pháp nào mà đức Thế Tôn thọ ký cho Vô thượng Bồ đề ? Là sắc thọ ký, thọ tưởng hành thức được thọ ký Vô thượng Bồ đề ? Chư Thiên ấy lại nghĩ rằng : Chẳng phải thọ ký cho sắc, cũng phải thọ ký Vô thượng Bồ đề cho thọ tưởng hành thức. Tại sao ? Vì sắc đã chẳng sanh, Bồ đề cũng chẳng sanh, Thế nào sắc vô sanh mà ngộ được Bồ đề vô sanh, như vậy thọ tưởng hành và thức vô hành làm sao ngộ được Bồ đề vô sanh .Sắc đã chẳng diệt Bồ đề cũng chẳng diệt, thế nào sắc bất diệt lại ngộ được.
Bồ đề bất diệt, như vậy thọ tưởng hành và thức bất diệt làm sao ngộ được Bồ đề bất diệt.
Sắc vô phân biệt, Bồ đề cũng vô phân biệt, thế nào sắc vô phân biệt lại ngộ được Bồ đề vô phân biệt, như vậy thọ tưởng hành và thức vô phân biệt làm sao ngộ được Bồ đề vô phân biệt.
Sắc đã vô nhị, Bồ đề cũng vô nhị, thế nào sắc vô nhị lại ngộ được bồ đề vô nhị, như vậy thọ tưởng hành và thức vô nhị làm sao ngộ được Bồ đề vô nhị.
Sắc đã vô tác, Bồ đề cũng vô tác, thế nào sắc vô tác lại ngộ được Bồ đề vô tác, như vậy thọ tưởng hành và thức vô tác làm sao ngộ được Bồ đề vô tác.
Sắc đã bất khả đắc, Bồ đề cũng bất khả đắc, thế nào sắc bất khả đắc lại ngộ được Bồ đề bất khả đắc, như vậy thọ tưởng hành và thức bất khả đắc làm sao ngộ được Bồ đề bất khả đắc.
Ở trong các pháp bất khả đắc ấy, gì là Phật, gì là Bồ đề, gì là Bồ Tát, gì là thọ ký. Sắc ấm không, thọ tưởng hành thức cũng đều không. Tại sao ? Vì tự tánh không vậy. Thế thì Phật không, Bồ đề không, Bồ Tát không, thọ ký không. Tại sao ? Vì tự thể không vậy. Trong tất cả pháp tánh không như vậy, nói rằng Phật ấy là danh là dụng là thế đế, chỉ là ngôn thuyết, chỉ là thi thuyết. Nói rằng sắc thọ tưởng hành thức cũng chỉ là danh là dụng là thế đế là ngôn thuyết là thi thiết. Người trí ở nơi đây chẳng nên tham trước.
Ví như có người chiêm bao hưởng thọ ngũ dục lạc, lúc thức chẳng thấy sự vui ấy, vì nhớ lại chẳng được vui ngũ dục nên sanh khổ não.
Người an trụ nơi Bồ Tát thừa mà thủ trước, vì chẳng ngộ Bồ đề chẳng chứng Bồ đề nên chẳng được pháp vị ấy. Vì chẳng được pháp vị nên lòng sanh khổ não. Tại sao ? Vì các pháp như vậy đều như cảnh mộng chẳng thiệt có. Pháp ấy nghĩa sai biệt , hang phàm phu hiểu biết đều sai khác. Tất cả các pháp phải biết như vầy : Pháp nào là Phật, pháp nào là Bồ Tát, pháp nào là Bồ đề ? Các Phật pháp ấy đều bất khả đắc. Phàm phu bất khả đắc, pháp phàm phu cũng bất khả đắc. Thanh Văn bất khả đắc, pháp Thanh Văn cũng bất khả đắc. Bích Chi Phật bất khả đắc, pháp Bích Chi Phật cũng bất khả đắc. Bồ Tát bất khả đắc, pháp Bồ Tát cũng bất khả đắc. Chư Phật bất khả đắc, pháp chư Phật cũng bất khả đắc, Bồ đề bất khả đắc, Niết bàn cũng bất khả đắc. Trong các pháp như vậy, chúng tôi hiểu rõ không hoài nghi.
Ðâu Suất Ðà Thiên ở trong pháp ấy không nghi ngờ rồi đối với Phật càng kính tin, thích dâng cúng dường. Họ cúng dường hơn trời Dạ Ma, đảnh lễ chưn Phật, nhiễu Phật ba vòng rồi đứng qua một phía nói kệ tán than đức Phật :
“ Nhừng người an trụ Phật công đức
Như Lai vì họ dạy pháp hành
Họ được ba thứ giải thoát môn
Tu hành trong cảnh giới vô đẳng
Không sắc không thọ tưởng hành thức
Không người hay thọ cũng không tâm
Ðây là cảnh giới trí vô ngại
Thiên Nhơn Sư thích lìa dục ấm
Bực trí huệ đại trượng phu ấy
Chẳng lấy tưởng phát tâm Bồ đề
Lìa Ấm rồi được thắng thiện căn
Nơi Phật công đức không nghi lự
Chí nguyện Vô thượng đại Bồ đề
Nhưng với Bồ đề lìa thủ trước
Vì vậy nội tâm không lo mừng
Gọi là Phật tử tu thánh đạo
Ðồng Phật thấy pháp đều bình đẳng
Thế nên vô pháp vô sở úy
Người trí ở chỗ thế gian nầy
Cầu Phật công đức khởi tu hành
Giản trạch sắc tướng vô sở trước
Vứt bỏ tấ cả tâm có tướng
Nơi ba cõi kia chăảng mong muốn
Quan sát các cõi thảy đều không
Biết được ngũ ấm đều chẳng sanh
Như Lai thọ ký đến Bồ đề
Bồ đề tâm ấy cũng vô sanh
Người nói lời nầy không ngu hoặc
Như Lai công đức và sanh tử
Các Phật pháp ấy đều vô sanh
Người biết như vậy là trí huệ
Ðây là chơn thiệt con Như Lai
Nếu biết được các ấm bất diệt
Giới nhập và cùng pháp Như Lai
Phật cùng Bồ đề và thọ ký
Các pháp như vạ-y đều bất diệt
Nếu vì Bồ đề mà tu hành
Phải biết người ấy cũng bất diệt
Vì biết thế gian là bất diệt
Nên cầu Bồ đề chẳng là khó
Năm ấm giới nhập và Bồ đề
Bồ Tát cùng Phật đều vô tác
Biết rõ như vậy là Phật tử
Hay trì chánh pháp của Như Lai
Ấm giới các nhập đều vô giác
Bồ đề cùng Phật và Bồ Tát
Và cùng thọ ký đều vô giác
Người biết như vậy là Phật tử
Ngũ ấm giới nhập tánh không tịch
Phật cùng Bồ đề và thọ ký
Thiệt con của Phật người tu hành
Tất cả cũng đều tự tánh không
Ấm giới các nhập đều hư vọng
Lưỡng Túc Thế Tôn và Bồ đề
Bồ Tát thọ ký cũng hư vọng
Biết rõ như vậy là Phật tử
Chẳng phải y chỉ chẳng y chỉ
Cũng phải pháp có pháp không
Chẳng phải hữu vi và vô vi
Biết rõ như vậy là Phật tử
Thế Tôn thấy thế gian như vậy
Chúng tôi biết tâm Phật như vậy
Nên liền cúng dường lên Như Lai
Cũng cúng tất cả chúng hiền thánh
Chúng tôi khen Phật mà được phước
Chỉ Phật Thế Tôn biết rõ được
Ðem công phước đức nầy thí quần sanh
Nguyện đều thành Phật đủ tướng tốt ».
Ðức Thế Tôn biết trời Ðâu Suất Ðà tán thán và thâm tâm tin ưa rồi liền hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật:
« Vô Thượng Sĩ được đại thế lực
Do đại bi tâm hiện mỉm cười
Nguyện Phật nói rõ duyên cớ cười
Cho chúng được nghe đều mừng rỡ
Vì thấy Như Lai hiện tướng cười
Nên đại chúng nầy đều hoài nghi
Chúng tôi ân cần khắp chiêm ngưỡng
Thảy đều nhứt tâm muốn được nghe
Dường như thế gian có người bịnh
Chỉ tưởng y sư và lương dược
Ðại chúng như vậy đối với Phật
Mong muốn được nghe Phật thọ ký
Chúng ấy đều có trí huệ sâu
Chí cầu Bồ đề vô sở trước
Tất cả cung kính đồng chime ngưỡng
Chỉ mong Như Lai nói ký biệt
Thế Tôn nơi đây khởi đại bi
Dùng Phật trí lực dứt lưới nghi
Thế nên đại chúng đều mừng rỡ
Thảy đều nguyện cầu Phật công đức
Nay đúng là lúc Phật thọ ký
Ngưỡng mong dứt trừ các nghi hoặc
Phật đã từ lâu lìa oán dịch
Nguyện dứt ngoại đạo các tà luận ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã thắng:
“ Nay ông thỉnh hỏi nơi Như Lai
Nhơn duyên mỉm cười thật đúng lúc
Vì lợi thế gian nên thưa hỏi
Lòng vì lợi ích các chúng sanh
Biết các chúng trời lòng ưa thích
Nên Phật hiện tướng sáng mỉm cười
Chúng trời biết Phật pháp thắng diệu
Nên họ dâng cúng lên Như Lai
Họ đều như thiệt thấy thế gian
Tùy thuận thánh giáo được chứng pháp
Ðã đến ba thứ giải thoát môn
Chẳng phải thế gian mà biết được
Quá khứ đã cúng vô lượng Phật
Cũng đã hỏi Phật nghĩa sâu ấy
Nơi Phật quá khứ đã tu không
Nên ngày hôm nay hiển không nghĩa
Do thiện căn ấy nay tại đây
Họ được gặp gỡ Thích Ca Tôn
Dùng lý không khen đấng Vô Thượng
Làm lợi tất cả các thế gian
Thế gian như đây đều vô sanh
Chư Phật Bồ đề và thọ ký
Bao nhiêu người tu hành Bồ đề
Chúng ấy tất cả đều vô sanh
Chúng sanh đều đồng có pháp nầy
Biết như vậy rồi được Bồ đề
Quá khứ đã được tâm Bồ đề
Họ ở nghĩa nầy được biết rõ
Thế gian như vậy cũng chẳng diệt
Chúng trời Ðâu Suất khéo thông đạt
Trí sáng chiếu rõ đều không nghi
Nên chúng trời ấy đều làm Phật
Quyết định chắc được chỗ vô y
Nơi pháp chẳng lấy lìa phân biệt
Tất cả thế gian đều vô tác
Nghĩa nầy chúng trời hay biết rõ
Tất cả pháp thể lìa tự tánh
Chúng trời lòng sạch không nghi hoặc
Bồ đề và cùng tâm Bồ đề
Tất cả đều không tự tánh không
Chư Thiên Ðâu Suất huệ kiên cố
Thảy đều an trụ vô sở y
Nên được Bồ đề chẳng là khó
Chắc sẽ mau thành trí Vô Thượng
Ở kiếp tinh tú đời vị lai
Sẽ độ thoát được vô biên chúng
Tất cả trời ấy đều thành Phật
Ðồng cùng danh hiệu Trạch Pháp Vương
như Lai đối với chúng trời nầy
Biết họ thích ưa nên thọ ký
Tất cả đại chúng nghe Phật nói
Thảy đều hớn hở vừa lòng dạ ”.
Bấy giờ có Hóa Lạc Thiên Vương làm đầu cùng quyến thuộc bảy ức chúng trời Hóa Lạc thấy A Tu La nhẫn đến trời Ðâu Suất Ðà cúng dường Phật được thọ ký, họ đều mừng vui hớn hở, họ đều vừa lòng được an trụ thiệt tế, ở trong chơn như không có nghi hoặc. Họ đồng đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất, đầu mặt lạy chưn Phật, chắp tay cung kính khác miệng đồng lời mà bạch Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Như chúng tôi hiểu nghĩa của Phật nói thì tất cả các pháp là chơn thiệt tế, là vô biên tế, là vô ngại tế, là vô trụ tế, là vô tận tế, là bất nhị tế, là phi tế.
Bạch đức Thế Tôn ! Nói rằng thiệt tế là vì chẳng điên đảo vậy, vô biên tế là vì không hạn lượng vậy, vô ngại tế là vì lìa đối trị vậy, vô trụ tế là vì không tự tánh vậy, vô tận tế là vì vô sanh vậy, bất nhị tế là vì một vị vậy, phi tế là vì chẳng phải có vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Thiệt tế ấy khắp tất cả chổ, không có một pháp nào mà chẳng phải là thiệt tế.
Bạch đức Thế Tôn ! Nói là Bồ đề cũng là thiệt tế. Những gì là Bồ đề ? Tất cả pháp là Bồ đề vì lìa tự tánh vậy. Nhẫn đến năm nghiệp vô gián cũng là Bồ đề. Tại sao ? Vì Bồ đề không tự tánh, năm nghiệp vô gián cũng không tự tánh, nên nghiệp vô gián cũng là Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn ! Nói Bồ đề ấy như tánh vô dư Niết bàn, cũng như tánh nghiệp vô gián. Tại sao ? Tất cả pháp tức là tánh vô dư Niết bàn , cũng là tánh nghiệp vô gián, thế nên vô dư Niết bàn giới tức là Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh an trụ sanh tử có thể cầu Niết bàn ở trong thiệt tế, không có người an trụ sanh tử cầu Niết bàn. Tại sao ? Vì thiệt tế không hai vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi ở nơi đây hiểu rõ không hoài nghi. Nếu ai ở nơi pháp nầy không hoài nghi, phải biết người ấy đã ở nơi Phật quá khứ được thọ ký Vô thượng Bồ đề ».
Ðức Thế Tôn nghe Hóa Lạc Thiên Vương và bảy ức chúng trời Hóa Lạc nói thọ ký, vì muốn đại chúng vui mừng nên hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Phật :
« Ðấng thương thế gian hiện mỉm cười
Mà chẳng nói nhơn duyên cười ấy
Thiên Nhơn Ðạo Sư chẳng không nhơn
Hiện tướng mỉm cười phóng tia sáng
Ðã thấy tướng cười của Thế Tôn
Khiến các đại chúng đều hoài nghi
Ngưỡng mong nói duyên cớ mỉm cười
Dứt trừ tất cả những lưới nghi
Chúng ấy nếu được Như Lai nói
Nghe rồi đều sanh lòng hi hữu
Làm sạch chơn lộ cho chúng hội
Làm nhơn duyên xu hướng Bồ đề
Nếu có chúng sanh còn hoài nghi
Vì nghi nên khó được Bồ đề
Ngưỡng mong đại trí dứt nghi hoặc
Tinh cần mau chứng đạo vô thượng
Bạch đức Thế Tôn đại chúng nầy
Chí cầu Bồ đề lìa những ác
Ðược nghe chư Thiên thọ ký rồi
Quyết định sẽ thành đại Pháp Vương
Nguyện đức Thế Tôn vì xót thương
Dứt trừ tất cả lòng nghi hoặc
Thọ ký Bồ đề cho chư Thiên
Khiến chư đại chúng đều mừng rỡ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:
“Vì thương thế gian nên hiện cười
Mã Thắng nay ông hỏi nơi Phật
Phật đều thọ ký chư Thiên ấy
Các ông đều phải lắng lòng nghe
Bảy ức chúng trời Hóa Lạc nầy
Hay tự thọ ký được thành Phật
Trong chúng đã làm sư tử rống
Hay phá ngoại đạo các tà kiến
Thí như hư không mưa đá khối
Chắc nát mặt đất không còn nghi
Phật tử như vậy lìa nghi hoặc
Tự biết chắc sẽ thành Phật đạo
Dường như trời lặng đến đêm tối
Phải biết trăng mọc chắc chẳng lâu
Phật tử như vậy đủ công hạnh
Biết chắc sẽ đủ mười trí lực
Lại như mặt nhựt lúc đứng bóng
Nhìn các sắc tượng đều sáng tỏ
Phật tử như vậy đủ công hạnh
Tự biết chắc được Nhứt thiết trí
Dụ như mặt nhựt đến lúc lặn
Mọi người đều biết mặt nhựt ẩn
Phật tử như vậy đều tự biết
Quyết định sẽ được trí tối thắng
Ví như các dòng đều chảy xuông
Người trí biết sẽ về biển cả
Phật tử như vậy đủ huệ sáng
Biết chắc sẽ được thượng Bồ đề
Như người ném đá lên hư không
Quyết chắc rớt xuống không nghi lự
Phật tử như vậy đều tự biết
Chẳng lâu sẽ được Thế Gian Giải
Người trí pháp nhĩ có thấy biết
Vì hiểu rõ pháp chẳng nghi ngờ
Biết mình có phần Phật công đức
Quyết định gần nơi trí tự nhiên
Giả sử na do tha ma chúng
Hiện Phật bảo ngươi chẳng thành Phật
Chẳng ngăn trở được tâm ý họ
Vì đã tự hiểu pháp chơn như
Quyết định ở nơi Phật công đức
Ðều tự nói mình được thọ ký
Nơi sự thọ ký nầy của họ
Như Lai đều tùy hỉ tất cả
Chúng trời ấy tu hạnh Bồ Tát
Tự mình biết rõ chẳng do người
Chúng ấy tự nói thành Thiện Thệ
Như Lai ở đây đều tùy hỉ
Thế nên Mã Thắng nếu có người
Muốn được Bồ đề Vô thượng ấy
Ở nơi pháp nầy phải siêng cầu
Quyết được tối thắng chỗ an ổn
Tự thành chánh giác ngộ lý sâu
Tùy nghĩa như thiệt đều biết rõ
Thân cận cúng dường thiện trí thức
Họ chứng Bồ đề chẳng là khó
Nếu ai ngàn kiếp tu khổ hạnh
Da thịt gân xương không luyến tiếc
Nếu người hiểu rõ nghĩa lý nầy
Phước đây lớn rộng hơn phước trên
Quá khứ bao nhiêu các đức Phật
Vị lai tất cả đấng thương đời
Và cùng hiện tại các Thế Tôn
Ðều y pháp nầy thành Phật đạo
Hóa Lạc chư Thiên cúng Phật rồi
Thảy đều tự biết đệ nhứt nghĩa
Ðã cùng quá khứ chư Như Lai
Ngộ nghĩa lý nầy sẽ thành Phật
Chư Phật chỗ có thắng tam muội
Và cùng hiện tại định đang trụ
Trời ấy được vào cảnh giới Phật
Vì họ đời trược lâu tu tập
Bảy ức Hóa Lạc chúng trời ấy
Ở nơi tam muội không còn nghi
Phật pháp thanh tịnh đã khéo học
Nay nơi Phật đạo hiện tu hành
Vì thế nơi lý sanh tin hiểu
Nên chánh cần cầu rời mé khổ
Phải thường thân cận bực đa văn
Quyết được Vô thượng đại Bồ đề
Nghe Phật tuyên nói diệu pháp rồi
Chư Thiên Hóa Lạc và chúng hội
Thảy đều vui mừng trừ lưới nghi
Chảy rót thẳng đến đại Niết bàn”.
Bấy giờ có Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương làm đầu cùng quyến thuộc tám mươi na do tha chúng trời Tha Hóa Tự Tại thấy A Tu La nhẫn đến chúng trời Hóa Lạc cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở được vừa lòng khác miệng đồng lời bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng trời Hóa Lạc nói thiệt tế, chúng tôi còn chẳng thấy thiệt huống là thấy tế. Tại sao?
Bạch đức Thế Tôn! Nếu thấy thiệt mới được nói là thấy tế. Tại sao? Người ấy hành nơi hai chỗ. Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn, người ở nơi thừa như vậy, phải vì họ nói hai thứ pháp ấy. Hai pháp ấy chẳng phải chơn cảnh giới.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn ở nơi pháp bất nhị mà chẳng tin chẳng nhập, dầu người nầy có phát tâm trông được Bồ đề, phải biết người nầy đi sai đường. Tại sao? Vì nơi Bồ đề chẳng phải đường đi vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh cầu Bồ đề, người ấy chẳng thấy có một pháp được giác ngộ. Tại sao? Vì không có chút pháp gì có thể được giác ngộ Vô thượng Bồ đề vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Pháp ấy chẳng phải quá khứ , chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải hữu vi, chảng phải vô vi, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải được hay, chẳng phải được biết, chẳng phải được xả, chẳng phải được tu, chẳng phải được chứng. Nói là Bồ đề ấy, pháp đó chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Pháp khác cũng chẳng cùng pháp đó làm đối trị. Tại sao?
Pháp đó chẳng tạp phiền não chẳng rời phiền não, pháp thể bất khả đắc, vì tánh tự ly vậy.
Pháp nầy chẳng cùng pháp đó làm đối trị, pháp đó cũng chẳng cùng pháp nầy làm đối trị. Tại sao? Vì tất cả các pháp đều lìa tướng vậy. Vì thế nên pháp đó chẳng phải được biết, được hay, được xả, được tu, được chứng.
Bạch đức Thế Tôn! Sắc sanh ấy lìa tướng sanh, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Sắc diệt ấy lìa tướng diệt, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Quá khứ ấy lìa tướng quá khứ, nó cũng chẵng phải biết được hay được xả được tu được chứng. Vị lai và hiện tại cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Hữu vi ấy lìa tướng hữu vi, nó cũng chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng. Vô vi ấy củng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Nhu vậy, nhẩn đến được nhiếp nơi ấm, được nhiếp nơi quá khứ vị lai hiện tại, được nhiếp nơi hữu vi vô vi, tất cả các pháp ấy đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên tất cả pháp ấy chẳng phải được biết được hay được xả được tu được chứng.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn như vậy vì cầu Bồ đề phát tâm tu hành, họ đều gọi là người an trụ Bồ Tátt thừa”.
Tám mươi na do tha chúng trời Tha Hóa Tự Tại đều nói pháp của mình đã biết rồi, đồng nói kệ tán thán đức Phật:
“Thế Tôn khéo nói tận hữu biên
Vĩnh viễn chẳng thọ thân sáu đạo
Người đời vô trí sợ sanh tử
Phát tâm muốn qua bờ sanh tử
Thể các ấm ấy bất khả đắc
Bởi tánh tướng ấm vốn tự không
Tất cả pháp không đều vô tướng
Vì thế các pháp lìa đối trị
Tự thể tức không chẳng có vật
Không có được biết và xả tu
Cũng là chẳng phải pháp được chứng
Như Lai nói hữu tức phi hữu
Tướng cầu Bồ đề bất khả đắc
Các pháp trợ đạo cũng bất đắc
Lấy tâm cầu Phật bất khả đắc
Tướng Bồ Tát tìm cũng chẳng được
Nắm chặc các tướng hạng ngu si
Bọn họ trông được ngộ Bồ đề
Cảnh giới điên đảo chấp lấy tướng
Chẳng phải đi đúng Bồ đề đạo
Nhập Phật cảnh giới lìa các tướng
Gọi là người trí hành đúng pháp
Lìa xa các tướng và vô tướng
Cũng lìa nơi không và bất không
Người nầy ngộ được đạo vô thượng
Chẳng phải cảnh giới của ngoại đạo
Chẳng phải Thanh Văn mà biết được
Chẳng phải Duyên Giác có thể đến
Tâm được giải thoát tịnh vô cấu
Pháp ấy La Hán được tương ưng
Và cùng tất cả Bích Chi Phật
Chẳng phải cảnh của trí huệ họ
Câu ấy tâm có tướng chẳng biết
Người tu thiên không cũng chẳng hiểu
Nếu có ai hiểu không nói không
Cũng nói các pháp không tự tánh
Họ thọ Phật giáo không chê bai
Ðây gọi là khéo tu không tịch
Ngộ được đạo Bồ đề khó ngộ
Nơi đó Phật là chơn Ðạo sư
Khen Phật Lưỡng Túc Thế Tôn rồi
Liền được vô lượng các công đức
Hồi hướng cho tất cả quần sanh
Thành Phật giác ngộ người chưa ngộ”.
Ðức Phật biết Thiên Vương và tám muơi na do tha trời Tha Hóa Tự Tại sanh lòng sâu tin ưa rồi, vì muốn đại chúng thêm lớn thiện căn nên hiện mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật:
“Lưỡng Túc Thế Tôn hiện mỉm cười
Vì biết Tha Hóa tin sâu vậy
Phật chưa tuyên nói nhơn duyên cười
Ngưỡng mong Như Lai giải thích cho
Ðại Thánh hôm nay chẳng không nhơn
Mà hiện tướng mỉm cười hi hữu
Mong Phật nói rõ duyên cớ ấy
Dứt trừ nghi hoặc cho đại chúng
Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười
Nên nay chúng hội đều hoài nghi
Ðấng thương mến tất cả thế gian
Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ
Chúng hội thảy đều trái sanh tử
Hiệp chưởng cung kính cầu Niết bàn
Với cớ Phật cười đều hoài nghi
Ðấng Vô Ngại Thuyết xin trừ dứt
Ðại chúng đều tin pháp của Phật
Tâm được hiểu ro’ lìa thủ trước
Ðều có tâm tin sâu tôn trọng
Lành thay Mâu Ni xin nói rõ
Dũng mãnh tinh tấn nơi Phật pháp
Lìa xa lưới nghi lên đường thánh
Tất cả chư Phật đi đường nầy
Vì thế xin trừ nghi cho chúng”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo:
“Ông vì lợi ích cho đại chúng
Nói kệ hỏi Phật thiệt phải thời
Ðầy đủ biện tài có xảo tiện
Mới hay hỏi được nghĩa mỉm cười
Do hỏi Như Lai tướng mỉm cười
Chắc sẽ lợi ích vô lượng chúng
Do tất cả các chúng hội
Ðều được an trụ thắng Bồ đề
Biết chúng Tha Hóa tin sâu rồi
Nên Phật mới hiện tướng cười sáng
Tất cả tùy thuận Như Lai giáo
Vì cầu Bồ đề tu diệu hạnh
Quan sát thế pháp lìa các tướng
Như thấy dương diệm chẳng chơn thiệt
Người ngu thấy diệm cho là nưuớc
Muốn cầu Bồ đề chớ đồng họ
Phàm phu thủ tướng tham cảnh vui
Vô trí thường sợ nơi vô tướng
Người ngu chấp tướng bỏ chánh lộ
Lìa tướng thì được diệu Bồ đề
Vọng tưởng tư lương pháp hư ngụy
Theo pháp phân biệt liền bị trói
Người trí thấy tướng thảy đều không
Ðược đà la ni thượng tịch diệt
Phàm phu chấp tướng trụ ác tâm
Họ đều vô trí đọa lục đạo
Luân hồi sanh tử bị nhiều khổ
Vì họ ngu si chấp tướng vậy
Chúng sanh trước tướng thấy các ấm
Phật và Bồ đề cùng Bồ Tát
Người trí lìa tướng thấy không rồi
Hay được Bồ đề đại Vô thượng
Những kẽ chấp tướng tăng phiền não
Hay quán vô tướng trừ kiết sử
Nói là kiết sử tức là tướng
Quán kiết vô tướng liền dứt trừ
Nếu người cầu đạo mà phân biệt
Phân biệt nơi đạo là chướng ngại
Người trí dầu là hành nơi dục
Dục ấy tức là vô tướng hành
Các pháp không thể bất khả đắc
Phân biệt các pháp nói là không
Nếu lìa phân biệt được vô tướng
Ðó là Bồ đề không còn khác
Nghe nơi Thiện Thệ nói lời ấy
Ðại chúng trừ nghi được vô úy
Ðảnh thọ lấy pháp Mâu Ni nói
Như người đầu đội hoa chiêm bặc
Chúng trời Tha Hóa được vô úy
Cúng dường nơi Phật rất hơn hết
Họ biết các pháp cảnh giới Phật
Sẽ làm thế gian đại Ðại Sư ».
Bấy giờ có chín ngàn vạn trời Phạm Chúng thấy A Tu La nhẫn đến trời Tha Hóa Tự Tại cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở vừa lòng. Họ ở nơi thiền thế đế lấy hỉ duyệt làm sự ăn ở trong Phật pháp cũng được trí huệ sáng, vì họ đã trồng thiện căn gần gũi cúng dường chư Phật tin sâu thanh tịnh. Ở nơi pháp thậm thâm họ được pháp nhẫn. Chư Phạm Chúng Thiên ấy biết các pháp vô tác phi vô tác, phi sanh phi bất sanh, phi hữu phi bất hữu, phi khởi phi bất khởi, phi diệt phi bất diệt, phi y phi bất y, phi thanh phi trược, phi tắng phi ái, phi hiền phi ngu, phi tri phi bất tri, phi kiến phi bất kiến, phi thọ phi bất thọ, phi trắc ẩn phi bất trắc ẩn, phi vô phi phi vô, phi vật phi phi vật, phi khả đắc phi bất khả đắc, phi khứ phi lai, phi thú phi bất thú, phi không phi bất không, phi tướng phi bất tướng, phi nguyện phi bất nguyện.
Chư Phạm Thiên ấy đối với tất cả pháp lòng không chấp trước, cũng không chỗ trụ. Ở trong phi dụng họ chẳng ý tưởng phi dụng, ở trong phi bất dụng cũng chẳng ý tưởng phi bất dụng. Ở trong ngôn ngữ họ chẳng ý tưởng ngôn ngữ, ở trong phi ngôn ngữ cũng chẳng ý tưởng phi ngôn ngữ. Ở trong hữu tác họ không ý tưởng hữu tác, ở trong vô tác cũng không ý tưởng vô tác. Ở nơi phàm phu họ không ý tưởng phàm phu, ở trong phi phàm phu cũng không ý tưởng phi phàm phu. Ở nơi pháp phàm phu họ không ý tưỏng pháp phàm phu, ở nơi pháp phi phàm phu cũng không ý tưởng pháp phi phàm phu. Ở nơi Thanh Văn họ không ý tưởng Thanh Văn, ở nơi phi Thanh Văn cũng không ý tưởng phi Thanh Văn. Ở nơi pháp Thanh Văn họ không ý tưởng pháp Thanh Văn, ở nơi pháp phi Thanh Văn cũng không ý tưởng pháp phi Thanh Văn. Ở nơi Duyên Giác họ không ý tưởng Duyên Giác, ở nơi phi Duyên Giác cũng không ý tưởng phi Duyên Giác. Ở nơi pháp Duyên Giác họ không ý tưởng pháp Duyên Giác, ở nơi pháp phi Duyên Giác cũng không ý tưởng pháp phi Duyên Giác. Ở nơi Bồ Tát họ không ý tưởng Bồ Tát. Ở nơi phi Bồ Tát cũng không ý tưởng phi Bồ Tát. Ở nơi pháp Bồ Tát họ không ý tưởng pháp Bồ Tát, ở nơi pháp phi Bồ Tát họ không ý tưởng pháp phi Bồ Tát. Ở nơi Phật họ không ý tưởng Phật, ở nơi phi Phật cũng không ý tưởng phi Phật. Ở nơi pháp Phật họ không ý tưởng pháp Phật, ở nơi phi pháp Phật cũng không ý tưởng phi pháp Phật. Ở nơi Niết bàn, họ chẳng ý tưởng Niết bàn, ở nơi phi Niết bàn cũng không ý tưởng phi Niết bàn. Ở nơi pháp Niết bàn họ không ý tưởng pháp Niết bàn, ở nơi pháp phi Niết bàn cũng không ý tưởng pháp phi Niết bàn. Ở nơi sanh tử họ không ý tưởng sanh tử, ở nơi phi sanh tử cũng không ý tưởng phi sanh tử. Chư Phạm Chúng Thiên ấy đối với tất cả thảy đều lìa phân biệt, tâm định thanh tịnh . Họ đã được tâm thanh tịnh nên dùng pháp tịch diệt nói kệ tán thán đức Phật :
« Ðại Thánh trí tịch tĩnh rất sâu
Tu hành tịch diệt đến bỉ ngạn
Diễn nói tịch diệt độ chúng sanh
Cũng tự thường hành pháp tịch diệt
Bồ dề tịch diệt khéo thanh tịnh
Pháp nầy là cảnh giới Như Lai
Mau được tịch diệt thắng cam lộ
Do đó nay được hết sanh tử
Hằng nói đạo tịch diệt vi diệu
Là chổ sở hành của người trí
Ðường bát chánh diệt phiền não trược
Cứu vớt tất cả các quần sanh
Khéo tu tịch diệt chúng Bồ đề
Là chổ sở hành của Phật trước
Pháp ấy hay đến thành an ổn
Chỗ chứng biết của Phật quá khứ
Là pháp tu học của Như Lai
Phật giáo hóa thế gian như vậy
Nếu người hay hành pháp hữu học
Chứng được vô học thắng Bồ đề
Nhứt tâm xu hướng đạo tịch diệt
Các căn tịch tĩnh lâu tu tập
Sẽ được làm Phật Thế Gian Giải
Sức na la diên độ quần sanh
Nếu biết pháp tịch diệt cam lộ
Hay hết tất cả tướng sanh tử
Ðây là chơn thiệt con Như Lai
Tịch diệt hay trừ khổ thế gian
Chúng ấy chưng bày cúng dường Phật
Thắng thượng hi hữu rất khác lạ
Nói pháp tịch hết phiền não
Nơi những vô tướng tối đệ nhứt
Thế gian tịch diệt lìa các tướng
Nghĩa là tịch diệt tức Niết bàn
Chúng sanh luân chuyễn thọ những khổ
Vì lìa tịch diệt thủ tướng vậy
Các pháp của Phật bất tư nghị
Tức là Bồ đề nhứt thiết trí
Qua khỏi sình lầy đến bờ kia
Nên Phật trọn hẳn không nghi lự
Nếu người lìa ấm được giải thoát
Nơi Phật đại thừa chẳng nguyện ưa
Muốn cầu Bồ đề nghĩ diệt độ
Nơi năm ấm ấy sanh bố úy
Tâm tịnh ly dục cầu Niết bàn
Chúng ấy chúng giản trạch như vậy
Nơi pháp thủ tướng cảnh phàm phu
Ðó là lời dạy của Như Lai
Nếu thủ tịch diệt tức bị trói
Do đó chẳng được Nhứt thiết trí
Nếu người ở nơi tướng năm ấm
Chẳng sanh lòng giữ cầm thủ trước
Họ hay lợi ích pháp Thích Ca
Ðây gọi hạnh hỉ lạc vô tướng
Hay được chổ vô danh an ổn
Ðến được Bồ đề cảnh giới Phật
Hàng ma tranh luận diệt phiền nảo
Mau được thành tựu Nhứt thiết trí
Chúng tôi tán thán Vô Thượng Sĩ
Chỗ chứng tịch diệt các công đức
Chỉ Phật đại trí hay biết rõ
Hồi thí chúng sanh nguyện thành Phật”.
Lúc ấy chủ thế giới Ta Bà Ðại Phạm thiên Vương biết chư Phạm Thiên tán thán Phật rồi, đối trước Phật đứng thẳng dùng chơn thiệt công đức nói kệ khen ngợi đức Phật:
“Pháp Vương đã biết tất cả pháp
Chẳng thiệt hư dối như không quyền
Cũng như thu vân và chớp nháng
Thế nên Ðại Thánh lìa thủ tâm
Cũng như trong mộng người quá đói
Ăn món cam lộ trăm vị ngon
Người mộng đói ăn đều chẳng thiệt
Như Lai thấy pháp cũng như vậy
Lại như trong mộng người quá khát
Ðược uống nước mát lạnh trong sạch
Mộng khát uốn nước đều hư vọng
Phật thấy các pháp cũng như vậy
Không tác không thọ không chúng sanh
Không có tác nghiệp và được báo
Cũng không được người thọ quả báo
Thế Tôn nơi đây không nghi lự
Ví như lời hay được người mến
Nhưng ngôn ngữ ấy vô khả thủ
Cũng không người nói và người nghe
Ðại Thánh biết rõ đều chẳng thiệt
Như nghe tiếng hay đờn không hầu
Tiếng ấy cũng không tánh chơn thiệt
Thế Tôn thấy các ấm như vậy
Biết ấm không tánh bất khả đắc
Dường ngọc ma ni chất tự sạch
Cột nó trên áo theo màu đổi
Các pháp tự thể vốn thanh tịnh
Hư vọng phân biệt thêm điên đảo
Ví như áo trắng sạch không dơ
Tùy thọ màu nhuộm nhiều biến đổi
Các pháp cũng đều tánh tự sạch
Tùy chỗ phân biệt mà ô nhiễm
Dường như có người nghe tiếng ốc
Tìm tiếng ốc ấy từ đâu đến
Tiếng ấy chẳng tự chẳng phải tha
Ðại Tiên thấy pháp cũng như vậy
Như người nghĩ tưởng món ăn ngon
Món ấy các duyên hiệp lại thành
Món ăn thảy đều không tự tánh
Như Lai thấy pháp đều như vậy
Vì như đất đá xây làm thành
Suy thể của thành không tự tánh
Các duyên như vậy thảy đều không
Pháp Vương thấy pháp cũng như vậy
Ví như có người đánh trống lớn
Dầu khiến người nghe lòng mừng rỡ
Tiếng trống các duyên thảy đều không
Ðại Thánh thấy các pháp cũng như vậy
Ví như có người lúc đánh trống
Tiếng trống chẳng từ mười phương đến
Tiếng dứt cũng chẳng đến mười phương
Thế Tôn thấy pháp đều như vậy
Người ấy như vậy đánh trống rồi
Trống ấy chẳng sanh lòng yêu ghét
Cũng chẳng phân biệt tánh các duyên
Phật thấy các pháp đều như vậy
Lại như người ấy đánh trống hay
Tiếng chẳng có ý khiến người mừng
Và các duyên kia cũng đều vậỳ
Ðạo Sư thấy pháp đều như vậy
Như lúc người đánh trống hay kia
Trống ấy chẳng sanh tưởng khổ vui
Cũng chẳng quan sát tánh các duyên
Như Lai thấy pháp đều như vậy
Dường như có người đánh trống hay
Tiếng chẳng tức duyên chẳng ly duyên
Và duyên nhạc kia cũng nhu vậy
Mâu Ni thấy pháp đều như vậy”.
Ðức Thế Tôn biết chư Phạm Thiên và Phạm Vương thâm tâm kính tín và dùng pháp tịch diệt tán thán đức Phật, lại muốn cho đại chúng sanh thiện căn nên liền hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi Phật:
“Ðã thấy Như Lai miệng phóng ra
Ánh sáng mỉm cười rất thanh tịnh
Thế gian Trời Người các đại chúng
Tất cả đều sanh lòng hi hữu
Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười
Pháp hội đại chúng đều hoài nghi
Tất cả chiêm ngưỡng mặt Như Lai
Ân cần mong muốn được lắng nghe
Mong Phật khai thị có mỉm cười
Dứt trừ lòng nghi của đại chúng
Tối Thắng Mâu Ni chẳng không nhơn
Mà hiện tướng cười rất hi hữu
Chư Phật lúc hiện ánh sáng cười
Quyết để lợi ích các thế gian
Nay vì ai Phật hiện tướng cười
Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ
Ðại chúng được nghe chắc vui mừng
Vì đã được biết duyên cớ vậy
Nay đại chúng nầy đều chắp tay
Nhứt tâm chiêm ngưỡng ưa thích nghe
Thế nên xin Phật giải thích cho
Chắc sẽ trừ dứt những nghi hoặc
Ðạo Sư vì các chúng hội nầy
Xin thương tuyên nói cớ mỉm cười
Chúng hội được nghe chắc mừng rỡ
Vì đã rửa sạch lưới nghi ngờ
Lòng chúng chắc bền đều thanh tịnh
Chuyên niệm quí trọng đức Như Lai
Ðại chúng chiêm ngưỡng dung nhan Phật
Dường như nhìn thấy trăng mới mọc
Ðủ tám tiếng hay như Phạm Thiên
Nhứt tâm khát ngưỡng mong sớm nghe
Trời Người đại chúng nghe Phật nói
Chắc trừ được nghi trụ chánh pháp
Phạm âm diễn nói tương ưng nghĩa
Ðược nghe xuất thế pháp rất sâu
Phật trí thiện xảo hay vui đẹp
Nên khiến đại chúng thêm hớn hở
Chúng nầy lòng sạch lìa nghi ngờ
Ưa thích Như Lai Nhứt thiết trí
Người tinh tấn dũng mãnh hữu lực
Mới có chí cầu vô thượng đạo
Thế nên Ðạo Sư thương thế gian
Ngưỡng mong giải thích cho chúng mừng
Lành thay Thế Tôn lòng bình đẳng
Thương xót tất cả các chúng sanh
Khiến các đại chúng thêm thiện căn
An tâm bất động cầu Phật trí”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:
“Thương xót tất cả các thế gian
Nên Phật thị hiện tướng cười sáng
Ông phải lắng nghe nhơn duyên ấy
Nghĩa đó rất sâu câu vi diệu
Các chúng hội đây nếu được nghe
Phát cần tinh tấn tu pháp lành
Sẽ làm lợi ích các chúng sanh
Nơi pháp của Phật khởi thắng hạnh
Các Phạm Thiên đây đều mừng rỡ
Ở trong pháp Phật đều không nghi
Na do tha kiếp lâu tu hành
Dường như số kiếp cát sông Hằng
Nơi các cảnh giới đều chẳng trước
Lòng như không gian không chướng ngại
Dầu thích thường tu Bồ Tát hạnh
Mà chẳng mau thủ chứng Bồ đề
Chúng ấy lại ở đời vị lai
Vô lượng ức kiếp số hằng sa
Chúng trời thanh tịnh không nhơ uế
Ðược thế lực lớn trụ thế gian
Sau đó sẽ thành Nhứt thiết trí
Làm đại Pháp Vương có oai lực
Ðầy đủ công đức hết sanh tử
Xem các thế gian đều không tịch
Phật ấy như trước lâu tu hành
Thọ mạng hạn lượng lâu cũng vậy
Lúc chư Phật ấy trụ thế gian
Hay cứu độ các chúng sanh khổ
Quốc độ Phật ấy không đâu bằng
Thế giới nghiêm tịnh rất thạnh vượng
Trong vô lượng na do tha kiếp
Như Lai diễn nói cũng chẳng hết
Cõi nước Phật ấy sự nghiêm tịnh
Vô lượng Phật nói cũng chẳng hết
Phật ấy đồng hiệu Ðại Trí Lực
Quốc độ thảy đồng tên Tối Thắng
Vì chúng diễn nói pháp bất động
Bất khả tư nghị vô sở y
Quốc độ Phật ấy các chúng sanh
Thảy đều tu hành các thiện căn
Không một chúng sanh còn đời sau
Trong vòng sanh tử lại sanh nữa
Ðương thời chúng ấy có một khổ
Nơi thế gian ấy bèn hiển hiện
Chỉ sợ các hành đều vô thường
Khiến các chúng sanh khởi nhàm lìa
Thuở đó chúng sanh trong cõi ấy
Lìa các tướng khổ già bịnh chết
Tất cả đều nương một giáo pháp
Ðồng chán vô thường tu thắng hạnh
Chúng sanh cõi đó đương lúc ấy
Tai chẳng còn nghe âm thanh khác
Chỉ nghe bất tịnh vô thường khổ
Vô ngã tịch diệt không vô tướng
Cam lộ Niết bàn và Bồ đề
An ổn thanh lương vô thượng lạc
Những tiếng thắng diệu như vậy thảy
Hằng thường luôn luôn mà được nghe
Lúc đó không còn âm vang khác
Hoặc cây hoặc vách hoặc đất trống
Hoặc là trên không và chùa miếu
Chỉ nghe những câu vi diệu ấy
Nghe rồi tất cả đều đắc đạo
Bèn ở nơi sanh tử được giải thoát
Ðều do thần lực của Như Lai
Ðủ tám công đức âm thanh diệu
Lúc đó không có tâm tạp độc
Những là tham dục và sân khuể
Cũng không ngu si phát tiếng ác
Lời thô bức não đến bên tai
Tất cả nhàm trái nơi sanh tử
Xu hướng Niết bàn đường thẳng lớn
Cõi ấy tất cả đều đúng không
Phật và chúng sanh đều diệt độ
Ðây là thần lực của Phật ấy
Phát chí nguyện rộng chẳng nghĩ bàn
Ðã ở quá khứ do tha kiếp
Vì cầu Bồ đề tu đạo hạnh
Bao nhiêu chúng sanh tại nước ấy
Tất cả sẽ đều được làm Phật
Chư Phạm Thiên nầy phát nguyện rộng
Ðều do quan sát câu tịch diệt
Ðều được chứng biết nghĩa thậm thâm
Hiễu rõ đường cát tường của Phật
Chỗ họ tu học đều thông đạt
Làm Ðạo Sư tại các thế gian
Họ quan sát được chúng sanh không
Chẳng sanh lòng giải đãi nhàm mỏi
Do đó nhập được các pháp tánh
Tu tập Bồ Tát thắng diệu hạnh”.
Bấy giờ có năm mươi tám ngàn vạn trời Quang Âm thấy A Tu La nhẫn đến chư Phạm Thiên cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở vừa lòng. Họ trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay lễ Phật cung kính bạch đức Phật rằng: “ Bạch Ðức Thế Tôn! Có tam muội tên chiếu diệu tất cả pháp. Nếu đại Bồ Tát học tam muội nầy thì được quang minh trong tất cả pháp được chứng nhập pháp môn Bồ Tát tạng. Ðại Bồ Tát hiểu biết rõ rồi thì được vô biên biện tài, vô ngại biện tài, tương tục biện tài, nhiều thứ biện tài, mỹ diệu biện tài, chơn thiện biện tài, tương ưng biện tài, giải thoát biện tài, vi tế biện tài, bất cộng biện tài, thậm thâm biện tài, nhẫn đến được biện tài của Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn! Những gì là chiếu diệu nhứt thiết pháp tam muội? Bồ Tát nhập pháp môn nầy niệm các giác quán biết tất cả pháp không giác lìa giác, pháp không giác ấy khắp tất cả chỗ, không một pháp nào là hay giác sát. Tại sao? Vì tánh tự lìa vậy. Nếu pháp không tánh thì làm sao hay giác được. Biết tất cả pháp không giác tri rồi nhập vào môn chữ A được biện tài trên. Bồ Tát ấy nhập môn chữ A rồi được vô biên biện tài, chữ A vô biên, chữ A chẳng phải phổ biến, chữ A vô tác, chữ A chẳng phải hữu vi, chữ A chẳng phải thành tựu, chữ A không phải sự, chữ A không sở y, chữ A không động chuyễn, chữ A chẳng phải lược, chữ A chẳng phải quảng, chữ A chẳng phải phân biệt, chữ A chẳng phải các sự thành, chữ A chẳng xuyên qua được, chữ A chẳng phải sắc, chữ A chẳng hiển thị được, chữ A chẳng xem được, chữ A không ai thấy được, chữ A chẳng suy nghĩ được, chữ A tánh bất định, chữ A chẳng phải bị biết, chữ A chẳng phải hay biết, chữ A chẳng lường được, chữ A chẳng tự hiển thị được, chữ A chẳng hiển thị được cái khác, chữ A chẳng phải tư nghị, chữ A chẳng đi, chữ A chẳng đến, chữ A chẳng phải gần, chữ A chẳng phải xa, chữ A chẳng phải ngôn thuyết, chữ A chẳng phải là pháp có thể nói được, chữ A chẳng phải danh, chữ A chẳng phải dụng, chữ A chẳng phải hiện tiền, chữ A chẳng phải che ngăn, chữ A chẳng phải di chuyễn, chữ A chẳng cải đổi được, chữ A chẳng phải sai biệt, chữ A không hai, chữ A chẳng phải sanh, chữ A chẳng phải hư vọng, chữ A chẳng phải chơn thiệt, chữ A bất khả thuyết, chữ A chẳng phải sanh diệt, chữ A chẳng phải thanh tịnh. Chữ A chẳng phải pháp bị tịnh, chữ A chẳng phải chấp trì, chữ A chẳng phải nhiếp lấy cái khác, chữ A chẳng phải vứt bỏ, chữ A chẳng phải vì pháp khác mà làm, chữ A chẳng làm pháp khác, chữ A chẳng sanh, chữ A chẳng diệt, chữ A chẳng hay sanh pháp khác, chữ A chẳng hay diệt pháp khác, chữ A chẳng phải sanh chẳng sanh, chữ A chẳng làm sanh nhơn cho pháp sanh cũng chẳng làm duyên bất sanh, chữ A chẳng phải y tựa, chữ A chẳng phải giả chẳng giả, chữ A chẳng phải từ chẳng từ , chữ A chẳng phải hứa chẳng hứa, chữ A chẳng phải khả đắc bất khả đắc, chữ A chẳng phải không bất không, chữ A chẳng phải phân biệt bất phân biệt, chữ A chẳng phải tướng bất tướng, chữ A chẳng phải nguyện bất nguyện.
Bạch đức Thế Tôn! Các pháp đều là tướng như vậy đó là vô tướng. Các pháp đều đồng một thiệt đó là vô thiệt, đều đồng một lý thú đó là vô lý thú, đều đồng một nhập đó là vô nhập, đều đồng một giả đó là vô giả, đều đồng một dụng đó là vô dụng, đều đồng một thuyết đó là vô thuyết.
Bạch đức Thế Tôn! Tất cả các pháp vô khởi, vì bất khả đắc vậy. Các pháp chẳng phải có, vì không có vậy. Các pháp vô sanh, vì chẳng sanh vậy. Các pháp vô diệt , vì chẳng diệt vậy. Là pháp vô vi, vì không có tạo tác vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Tất cả các pháp đều đồng nhứt như, phải biết như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Những pháp bất sanh ấy, thế nào biết được sự dụng của pháp ấy.
Thí như có người tác động trong chiêm bao, phải biết các pháp cũng như vậy. Tại sao?
Vì sự tác động trong chiêm bao chẳng sanh chẳng khởi cũng chẳng phải có vậy. Chiêm bao dầu chẳng thiệt, mà chẳng phải không giả danh nói là có chiêm bao làm. Tất cả các pháp cũng đều như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Thí như tiếng vang chỉ có giả danh. Các pháp chỉ giả danh cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Dụ như người ảo chỉ là giả danh. Phải biết các pháp cũng chỉ là giả danh như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Thí như dương diệm chỉ là giả danh. Các pháp giả danh cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Như tượng trong gương chỉ có danh dụng. Phải biết các pháp cũng như vậy.
Bạch đức Thế Tôn! Vì vui đẹp kẻ phàm ngu mà nói có sự chiêm bao, sự việc trong chiêm bao đều chẳng phải chơn thiệt, vang ảo diệm ảnh cũng đều như vậy, chỉ có giả danh đều không có sự thiệt .
Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi hiểu biết nghĩa ý những pháp được Như Lai tuyên nói”.
Chúng trời Quang Âm nói kệ tán thán đức Phật:
“Thế Tôn khéo biết pháp nghĩa nầy
Và vô biên những thứ pháp khác
Như Lai có những hàng Phật tử
Ðược tiền của cha thường du hí
Người đời ít trí chẳng vào được
Vì luôn có tâm chấp ngã vậy
Mười phương tâm ngã chẵng thễ được
Ngã thễ bổn lai tánh tự không
Như dương diệm chẳng phải thiệt nước
Ngu si thấy nắng tưởng là nước
Ðều do vô trí sanh mê lầm
Hư vọng điên đảo chấp ngã nhơn
Họ mê lầm lời dạy của Phật
Nên họ chẳng hiểu nghĩa thú sâu
Phàm phu tâm thức như nắng nước
Chẳng thể biết được nghĩa các ấm
Lòng ưa sanh tử dính tên độc
Các căn bị dòng nước mạnh cuốn
Ðó đều cứu cánh không tự tánh
Vì si che lấp vọng thọ khổ
Họ đều mất trí lòng mê loạn
Ở trong các khổ sanh tưởng vui
Tâm thường điên đảo thuận ba độc
Các phiền não ấy rất đáng sợ
Tham dục sân khuể và ngu si
Các kiết sử nầy thường theo dõi
Ham thọ vui nên sanh khát ái
Ngu si chẳng biết nên thọ khổ
Vô trí tùy thuận các phiền não
Như người ngu cõng kẻ thù đi
Nghe pháp môn không của Phật dạy
Lại sợ pháp không mất giải thoát
Như người khiếp sợ tay cầm dao
Lẽ ra an ổn lại sanh sợ
Thế Tôn đại trí chỗ thuyết pháp
Ðó là môn chữ A vi diệu
Hay sanh trí huệ thắng chơn thiệt
Dường như đất bằng mọc cây lớn
Hàng phục ma oán vô lượng chúng
Hay ngộ Bồ đề diệu an ổn
Dùng thuyền bè lớn bát chánh kia
Nơi biển sanh tử độ quần sanh
Bao nhiêu Phật tử của Thế Tôn
Biết rõ giáo pháp của Như Lai
Chóng diệt phiền não các oán địch
Mau chứng Vô thượng đại Bồ đề
Ðã tự giải thoát lìa tâm độc
Thấy các kẻ độc cho thuốc trí
Ðược đến cứu cánh quả bỉ ngạn
Ðược chỗ vô vi rất an vui
Tất cả các pháp thảy đều không
Những thế ngoại luận vọng phân biệt
Người sáng bỏ ác lên đường chánh
Ðều do bổn lai tu học lâu
Lòng không chấp trước tức giải thoát
Các pháp thể tánh tự như vậy
Người hay biết rõ được như vậy
Thành Phật đại lực na la diên
Không có trói buộc không ai trói
Các pháp tánh không đều cũng không
Chơn như tịch diệt và phi như
Chẳng phải cấu uế chẳng phải tịnh
Phiền não vô tướng cũng không đoạn
Bởi nó bổn lai tánh tự không
Biết pháp chơn thiệt được như vậy
Người ấy sẽ được Nhứt thiết trí
Tự chứng giải thoát lại độ người
Tất cả chẳng sanh cũng chẳng diệt
Thế gian Trời Người đều mê hoặc
Như cầm thú kia thấy nắng nước
Hư vọng phân biệt sanh thèm khát
Tưởng thấy nam nữ thọ khổ não
Do nhiều thứ nghiệp sanh các loài
Do tâm gây tạo mà sai khác
Chúng tôi hiểu Phật pháp như vậy
Là diệu cảnh giới của Như Lai
Thế nên Như Lai tâm điều phục
Các căn tịch tĩnh hay nhẫn nhục
Thế Tôn như pháp được cúng dường
Thanh tịnh vô cấu hết ô uế
Ðầy đủ công đức lìa tối tăm
Chỉ Phật hay làm mắt ba cõi
Nay tôi khen Phật chỗ được phước
Chỉ có đại Ðạo Sư xuất thế
Thế Tôn Lưỡng Túc khối công đức
Biết được quả báo chúng tôi được
Dùng thắng thiện căn vi diệu nầy
Hồi thí tất cả các quần sanh
Nguyện họ ở nơi đời vị lai
Ðều được thành tựu Nhứt thiết trí”.
Ðức Thế Tôn biết chúng trời Quang Âm thâm tâm tin ưa rồi, và biết họ tu hành biện tài đầy đủ, muốn khiến công đức thiện căn của đại chúng lại sẽ lần lần thắng tấn tăng trưởng, đức Phật liền hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi Ðức Phật:
“Ðại bi Thiện Thệ chẳng không nhơn
Mà hiện tướng cười rất hi hữu
Vô Thượng Sĩ hay lợi ích đời
Chánh giác trí huệ siêu quần sanh
Lưỡng túc Thế Tôn khối công đức
Thương xót chúng sanh xin tuyên nói
Vì ai mà hiện mỉm cười ấy
Phóng sáng thù thắng hiển thế gian
Tất cả chúng sanh nếu được nghe
Tâm ý quyết định sẽ rất mừng
Tu hành nghiệp lành chứng quả Phật
Ðược lìa sanh tử đến Niết bàn
Các chúng Trời Người thế gian nầy
Bị sanh tử khổ não bức bách
Xin độ quần sanh thoát biển khổ
Diễn nói bát chánh thuyền bè lớn
Chúng đây được nghe Ðại Tiên nói
Ðủ tám công đức đạo tối thắng
Nơi đây thế gian sanh mừng rỡ
Ưa tu nghiệp lành nguyện thành Phật
Dũng mãnh tinh tấn có sức lớn
Nội tâm thanh tịnh lìa lưới nghi
Sẽ truyền pháp của Như Lai nói
Là chơn Phật tử thọ thánh giáo
Chúng hội tại đây không nghĩ khác
Một lòng chiêm ngưỡng đại Cù Ðàm
Xin Phật nói bày sự thợ ký
Cho chúng quyết đoán lòng nghi hoặc
Chắp tay cung kính chánh ý niệm
Thảy đều mong miốn được lắng nghe
Lành thay xin nói vị cam lồ
Những người khát pháp sẽ được uống
Tất cả đại chúng tại hội nầy
Lòng sạch ưa mến thắng công đức
Chiêm ngưỡng Phật nhan rất thù thắng
Dường như trẻ thơ nhìn mặt mẹ
Ðại huệ xin thọ ký chúng trời
Giải bày nhơn duyên Phật mỉm cười
Ðược nghe Như Lai thọ ký rồi
Thế gian sẽ được lợi ích lớn
Ai ở nơi Phật thêm căn lành
Và đã phát nguyện được đầy đủ
Ðược tạng công đức thắng vi diệu
Nay tôi muốn nghe họ thọ ký
Ðại chúng chắc sanh lòng mừng vui
Vì được nghe Phật nói thọ ký
Quyết định sẽ đủ sức niệm huệ
Và được tu hành tam muội định”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:
“Lành thay việc hỏi của Mã Thắng
Biện tài ứng cơ nay đúng lúc
Ðây là thần thông của Như Lai
Do đó nay ông sanh trí huệ
Vì lợi ích đời nên thêm biện
Vì thế nay ông hay hỏi Phật
Nay Phật vì họ nói thọ ký
Lặng bặt các căn nhứt tâm nghe
Chúng trời Quang Âm huệ thù thắng
Quá khứ đã cúng vô lượng Phật
Thấy thế gian nầy không ai cứu
Phát tâm rộng lớn muốn làm Phật
Tu trị thiệt hạnh chơn vi diệu
Quyết định sẽ thành Nhứt thiết trí
Vì các chúng sanh cầu Phật đạo
Như mê lạc đường dạy đường chánh
Ðược nghe Thế Tôn dạy như vậy
Tiếng Phật tối thắng không ngang bằnng
Người trí huệ ưa Phật công đức
Quyết được cứu cánh đến bờ kia
Họ có trí lực biết căn lành
Quyết định sẽ được Phật Bồ đề
Mừng vui đã phát Bồ đề nguyện
Như mẹ sanh trai rất hài lòng
Chúng trời vì người cầu Bồ đề
Hiển thị đuường chánh chơn xuất thế
Trong bất khả thuyết do tha kiếp
Tu tập hạnh thắng diệu Bồ Tát
Giáo hóa chúng sanh hơn tinh tú
Ðã an trí nơi Phật Bồ đề
Ðời sau đầy đủ Thế Gian Giải
Tự nhiên thành tựu Nhứt thiết trí
Quốc độ của họ bất khả thuyết
Thế giới lớn rộng có trăm ức
Các quốc độ ấy rất nghiêm tịnh
Vô lượng nhiều thứ thắng trang nghiêm
Các chúng sanh trong cõi Phật ấy
Không ba ác ác đạo và tám nạn
Tất cả đều phát tâm Bồ đề
Thảy đều ở bực bất thối chuyễn
Trong quốc độ các Như Lai ấy
Cũng lại chẳng có pháp Tiểu thừa
Chúng sanh thảy đều cầu Phật đạo
Bèn được thẳng đến bực bất thối
Các chúng sanh trong quốc độ ấy
Tất cả thọ mạng đều bằng nhau
Tuổi đến mười ức hằng sa kiếp
Vì họ được gặp chư Phật vậy
Nếu dạy chúng sanh do tha cõi
Ðều được chứng nhập tiểu Niết bàn
Nếu lại có người dạỳ một người
Hoặc nam hay nữ vào Ðại thừa
Phước trước so sánh khối đức nầy
Toán số thí dụ chẳng bằng được
Vì thế người đã ở Ðại thừa
Phải nên chuyễ dạy cho người khác
Mã Thắng nên biết vì cớ ấy
Như Lai xuất thế rất là khó
Như hoa ưu đàm rất khó gặp
Vô biên đại trí nói như vậy
Bởi thiện tri thức trí khéo sâu
Giỏi biết phương tiện chỉ đường chánh
An ổn vô thượng thắng Bồ đề
Nếu ai mong cầu phải thân cận
Từ miệng Phật nghe lời như vậy
Ðầy đủ nghĩa vi diệu thậm thâm
Tất cả đại chúng đều vui mừng
Hớn hở sung mãn vừa lòng dạ
Do tha chư Thiên ở hư không
Ðều rải thiên y bay lần xuống
Ðầy tiếng mừng khen khắp hư không
Kính lễ vô thượng đại thần lực
Trí diệu thanh tịnh độ thế gian
Hay trừ chúng sanh phiền não nhiệt
Phật nói cam lộ dứt ba độc
Như thuốc A Dà Ðà tiêu độc
Ðược nghe trí huệ dứt kiết sử
Thế gian mê hoặc nhiều khổ não
Nơi sanh tử ấy sẽ được thoát
Vì nghe thắng pháp nơi Phật vậy”.
Bấy giờ có mười hai na do tha chúng trời Biến Tịnh thấy A Tu La nhẫn đến trời Quang Âm cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa mừng hớn hở tự hiện oai lực bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có tam muội tên Siêu quá tất cả pháp. Ðại Bồ Tát được tam muội ấy rồi, ở nơi các phan duyên và tất cả sự đều sanh lạc thọ mà chẳng sanh khổ thọ. Giả sử ở trong sự địa ngục khổ não, cũng đều sanh ý tưởng vui vẻ, hoặc nơi súc sanh đạo thọ báo súc sanh đạo thọ báo súc sanh cũng ý tưởng vui, hoặc tại ngạ quỉ đạo thọ đói khát cũng sanh tưởng vui, hoặc ở trong A Tu La đạo cũng sanh tưởng vui, hoặc trong loài người bị khổ cũng sanh ý tưởng vui mà chẳng hề sanh ý tưởng khổ. Giả sử bị chặt tay chặt chưn, lắt tai xẻo mũi hay dao gậy chém đập thân người,hoặc tù ngục giam cầm, treo ngược, xẻo da thịt như lột áo, cột trói thái thịt, chày giã ép nghiền như bã mía, chà đạp dập nát như lau cói, hoặc bị thiêu đốt như tim đèn như đuốc sáng, hoặc bị cho sư tử cọp sói xé ăn, hoặc bị rót nước dấm nước cay vào miệng mũi, hoặc bị nung nấu hay thui đốt , hoặc cho voi ngựa chà đạp, hoặc bị móc mắt, hoặc bị mâu sóc đâm giơ lên cao, hoặc bị chặt đầu,tất cả sự ấy đều sanh ý tưởng vui.
Tại sao vậy?
Vì đại Bồ tát ấy trong đêm dài tu hạnh Bồ Tát phát nguyện như vầy : Nếu có chúng sanh bố thí vật thực cho tôi,nguyện họ được vui Niết bàn, nếu có chúng sanh ở nơi tôi bố thí cúng dường lễ bái tôn trọng cung kính khen tặng hoặc chê bai xua đuổi quở mắng đánhgiết, đều nguyện cho tất cả đều được vui Niết bàn và giác ngộ Vô thượng Bồ đề.
Ðại Bồ Tát ấy thành tựu tâm như vậy, đầy đủ nghiệp như vậy, cũng lại trọn vẹn nguyện như vậy, đối với tất cả chúng sanh đều sanh ý tưởng vui, thường hay tu tập luôn chẳng hở dứt. Do nghiệp báo ấy mà được tam muội Nhứt thiết pháp lạc rất thiện thắng ấy. Lúc đại Bồ Tát được tam muội ấy chẳng bị các ma nhiễu hoại, cũng chẳng bị các ma sự ràng buộc. Phải biết đại Bồ Tát nầy được năm thứ tự tại : một là thọ mạng tự tại, hai là sanh tự tại, ba là nghiệp tự tại, bốn là giác quán tự tại, năm là những món quả báo tự tại. Ðại Bồ Tát nầy nếu muốn quá một đời chứng Vô thượng Bồ đề, do nơi sức tam muội ấy nên liền có thể được chứng. Nếu chẳng thích mau chứng Vô thượng Bồ đề thì có thể ở đời vô lượng a tăng kỳ kiếp cứu độ chúng sanh. Tại sao vậy? Phải biết Bồ Tát ấy an trụ đại thừa thường làm Ðạo Sư cho chư Bồ Tát nhiếp thọ tất cả chư Bồ Tát khác. Ðại Bồ Tát nầy nhàm lìa các loài mà vì độ chúng sanh nên lại sanh vào trong các loài, cứu cánh sở học của tất cả Bồ Tát được Bát Nhã Ba la mật nhiếp thọ, đầy đủ tất cả xảo phương tiện biết các ma nghiệp được pháp cứu cánh. Thừa Phật oai thần, chư đại Bồ Tát ấy nơi tất cả pháp đều biết được hết”.
Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật :
“Chúng tôi tất cả trời Biến Tịnh
Ở nơi Phật pháp đều biết hết
Ðầu mặt quy kính Thiên Nhơn Sư
Các căn tịch tĩnh như tịch diệt
Hiểu rõ các nghĩa được cúng dường
Ðấng Mâu Ni đã qua sanh tử
Tôi nay tán thán đại Ðạo Sư
Hay dắt dẫn người chẳng bị dắt
Các pháp tánh tướng chẳng cứu cánh
Cũng lại chẳng có chỗ y trụ
Như Lai khéo biết sự vọng tưởng
Như nhà ảo thuật biết sự ảo
Người trí hiểu rõ tiếng ngữ ngôn
Dụ như hang sâu dột tiếng vang
Thế Tôn tri kiến khéo như vậy
Tất cả thế gian Trời Người thảy
Không có chúng sanh không thọ mạng
Cũng lại không nhơn không có ngã
Ðại trí quan sát tất cả tưởng
Rõ thấu ý tưởng đều về không
Lưỡng Túc Thế tôn đại từ bi
Hằng thường hành từ chẳng tạm bỏ
Tất cả thế gian các Trời Người
Chẳng lường biết được trí Như Lai
Ðạo Sư diễn nói duyên chúng sanh
Ðó là từ tâm căn lành lớn
Biết rõ tất cả các chúng sanh
Không có chúng sanh và thọ mạng giả
Nơi đây chúng tôi không cấu trược
Tâm trí thanh tịnh lìa nghi hoặc
Thế nên nơi Phật thắng trí huệ
Ðấng đáng thọ cúng dâng cúng dường
Ở trong mười phương thế giới kia
Tìm khổ rốt ráo chẳng có được
Như Lai vô thượng trời trong trời
Nói duyên chúng sanh phát từ tâm
Ðây là lời dạy của Thế Tôn
Nay tôi được hiểu cũng như Phật
Vì thế tôi đối Thế Gian giải
Nay được cúng dường bực đáng cúng
Ðã không chúng sanh cũng không khổ
Thế nên không có được cứu độ
Ðã khiển trừ được lòng ưu muộn
Bèn được mừng vui rất hớn hở
Phật giáo như vậy bất tư nghị
Chúng tôi đã được biết như thiệt
Thế nên nay tôi cúng dường Phật
Nguyện được trí vô thượng Như Lai
Phật ở các loài chẳng thấy khổ
Niết bàn cũng lại bất khả đắc
Tăng thượng vứt bỏ nơi sanh tử
Dùng đây lợi ích các thế gian
Không khổ không loài không chúng sanh
Cũng không Niết bàn để y trụ
Biết được Phật pháp như vậy rồi
Thế nên chúng tôi nay cúng dường
Phật đủ từ bi và hỉ xả
Chuyễn vì chúng sanh thường diễn thuyết
Mà lại chẳng thấy có chúng sanh
Ðược trụ nơi bốn tâm vô lượng
Chẳng thấy có ai là phóng dật
Cũng lại chẳng thấy bất phóng dật
Biết được giáo pháp của Phật rồi
Nay tôi cúng dường đại Ðạo Sư
Vô Thượng Sĩ nơi thân lìa thân
Quán thân cứu cánh bất khả đắc
Dầu vậy chẳng phải chẳng nói niệm
Mà nói có niệm và thất niệm
Thiện Thệ thường nói tu học niệm
Ðó là quán thân chánh niệm xứ
Nay được cúng dường đấng cứu độ
Thế Tôn quán thọ bất khả đắc
Vì thọ không có thể tánh vậy
Cũng lại quán sát nơi thọ giả
Cứu cánh không có tánh chơn thiệt
Và quán người tu niệm xứ ấy
Cứu cánh cũng lại bất khả đắc
Chúng tôi biết Phật pháp như vậy
Nay được cúng dường Thiên Nhơn Sư
Quán tâm và quán tâm số pháp
Cứu cánh thể tánh bất khả đắc
Cũng lại chẳng thấy có tu niệm
Và không ai chánh trụ niệm xứ
Phật nói niệm cùng tâm hòa hiệp
Người cầu giải thoát phải tu học
Chúng tôi biết Phật giáo như vậy
Nay được cúng dường Chánh Biến Tri
Như Lai chẳng thấy có các pháp
Cũng chẳng thấy có người tu pháp
Ðại Thánh chỉ dạy tụ tập niệm
Niệm ấy cũng lại tánh tự không
Lại nói niệm cùng pháp hòa hiệp
Muốn cầu giải thoát phải nên tu
Chúng tôi biết Phật pháp như vậy
Nay được cúng dường Nhứt thiết trí
Một niệm xứ còn bất khả đắc
Huống lại còn có ba và bốn
Nghĩa là nơi niệm trụ xứ ấy
Các niệm xứ ấy thảy đều không
Thế nên thiệt cầu bất khả đắc
Cứu cánh không người thọ khổ lạc
Chúng tôi biết thánh giáo như vậy
Nay được cúng dường Phật Thế Tôn
Mâu Ni tuyên dạy tứ chánh cần
Nếu có Tỳ Kheo chuyên tu tập
Ðây thì hay làm đường giải thoát
Sẽ được ra khỏi biển sanh tử
Mà không ai thoát không ai trói
Không Phật không giáo không Bồ đề
Nhưng lại chẳng hoại giả danh dụng
Thế nên nay tôi cúng Ðại Thánh
Phật dạy bốn thứ như ý túc
Ðường an ổn giải thoát thắng diệu
Hàng chúng sanh các căn tịch tĩnh
Tu hành đạo nầy được Niết bàn
Như ý và túc cùng người tu
Chơn thiệt quán sát bất khả đắc
Nhưng chẳng đoạn tuyệt nêu có làm
Cảnh giới trí huệ chẳng thấy có
Trong giáo pháp Thế Tôn như vậy
Nơi đây chúng tôi đều biết cả
Tâm trí thanh tịnh không cấu uế
Ðều được xa rời các nghi hoặc
Dùng đây tức là thượng cúng dường
Cúng đấng kham thọ đấng thù thắng
Thế nên diệu trí không ngang sánh
Nay tôi đều được dâng cúng dường
Ðấng Thế Gian Giải nói ngủ căn
Xuất thế được đến giải thoát
Cẩn thận chớ lười thường siêng tu
Ðó là xu hướng Niết bàn lộ
Căn và người tu thảy đều không
Cũng không giải thoát và người thoát
Nơi đây chúng tôi đều không nghi
Thế nên nay được cúng dường Phật
Ðạo Sư chỉ dạy năm thứ lực
Ðường chánh đến được thành Niết bàn
Ðây dứt được hết phiền não phược
Khiến người bị trói được giải thoát
Thể các lực ấy tánh tự không
Phiền não và Phật đều cũng không
Chúng tôi nơi đây không nghi lự
Thế nên nay được cúng Như Lai
Ðại Tiên diễn nói bảy giác chi
Bồ đề phần pháp đạo tối thắng
Hay mở sự trói các chúng sanh
Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng
Không có trói buộc và giải thoát
Cũng không ai bị trói được mở
Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc
Thế nên nay được cúng dường Phật
Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo
Hiển thị tất cả các quần sanh
Ðây là gốc khổ các phiền não
Tu học thánh đạo dứt trừ được
Cả hai pháp ấy lìa đối trị
Ðó là thánh đạo và phiền não
Chúng tôi nơi đây đều không nghi
Thế nên được cúng đấng đáng cúng
Tu xa ma tha và xá na
Ðạo ấy hay hết các mé khổ
Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ
Thể các lực ấy tánh tự không
Phiền não và Phật đều cũng không
Chúng tôi nơi đây không nghi lự
Thế nên nay được cúng Như Lai
Ðại Tiên diễn nói bảy giác chi
Bồ đề phần pháp đạo tối thắng
Hay mở sự trói các chúng sanh
Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng
Không có trói buộc và giải thoát
Cũng không ai bị trói được mở
Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc
Thế nên nay được cúng dường Phật
Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo
Hiển thị tất cả các quần sanh
Ðây là gốc khổ các phiền não
Tu học thánh đạo dứt trừ được
Cả hai pháp ấy lìa đối trị
Ðó là thánh đạo và phiền não
Chúng tôi nơi đây đều không nghi
Thế nên được cúng đấng đáng cúng
Tu xa ma tha và xá na
Ðạo ấy hay hết các mé khổ
Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ
Kiếp xa Thế Tôn đã trừ sạch
Quả xa ma tha và xá na
Tất cả thứ ấy thảy đều không
Chúng trời nơi đây lìa nghi hoặc
Vì thế chúng tôi nay cúng dường
Phật nói bất tịnh trị tham dục
Từ tâm đối trị các sân khuể
Tỳ bà xá na đối trị si
Như Lai hiển thị các chúng sanh
Ðây đều vô tác không tạm dừng
Thế nên không cấu cũng không tịnh
Chúng tôi nơi ấy đều không nghi
Thường thích cúng dường đại Ðạo Sư
Mười nghiệp bất thiện của Phật nói
Thứ ấy gọi là nghiệp đạo ác
Sát sanh thâu đạo và tà dâm
Vọng ngữ lưỡng thiệt cùng ác khẩu
Ỷ ngữ tham dục và sân khuể
Tối hậu thứ mười tên tà kiến
Phật nói thứ ấy là bất thiện
Là nghiệp đạo ác của chúng sanh
Ðã không chúng sanh cũng không hại
Cả chín nghiệp kia cũng đều không
Không có đối trị các thiện ác
Vì tự tánh nó vốn không tịch
Nhưng chẳng phải không lời Phật dạy
Bởi vì chẳng hoại pháp thể tánh
Tôi nơi Phật huệ cũng chẳng nghi
Thế nên nay cúng trí vô thượng
Nếu người tu pháp của Như Lai
Người ấy tức là chơn Phật tử
Người ấy xứ xứ đều thọ vui
Hằng thường xa lìa các khổ não
Thiện Thệ trí huệ thắng như vậy
An ổn dẫn đạo các quần sanh
Chúng tôi nơi đây lìa lòng nghi
Nay đều cúng dường đấng đáng cúng ».
Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật rồi đều yên lặng đứng một phía.
Ðức Thế Tôn thấy chúng trời ấy đứng yên lặng, và biết lòng thâm tín của họ nên hiện tướng mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật :
« Nay Phật Thế Tôn trí thù thắng
Vì lợi ích đời hiện mỉm cười
Thập Lực Thế Hùng siêu tất cả
Mà hay hóa phục các đại chúng
Giỏi hiểu các pháp đại Ðạo Sư
Phật hiện tướng cười chẳng không nhơn
Ðấng Thế Gian Giải lòng không thiếu
Ngưỡng mong giải nói nghĩa mĩm cười
Các đại chúng đây đều một lòng
Không có loạn tưởng ở chánh niệm
Lòng vui chiêm ngưỡng núi công đức
Chỉ muốn được nghe cung kính đứng
Nơi Ðại Luận Sư tự tại Phật
Nếu được nghe nói đều vui mừng
Giỏi hiểu các pháp trí quyết định
Sẽ được làm Phật độ quần sanh
Nếu ai nơi Phật sanh tịnh tín
Chắc thành đại trí nhứt thế gian
Lường biết câu cam lộ vi diệu
Người nầy thấy được khắp mười phương
Ai ở trong kiếp đời vị lai
Sẽ được làm Phật thường thế gian
Ðấng đại Ðạo Sư diệu ngôn từ
Ngưỡng mong nói rõ cho chúng vui
Nếu ở nơi đấng Ðại Thánh Hùng
Mà sanh kính tin lòng tôn trọng
Cũng ở chánh pháp sanh tín huệ
Tất cả các ma chẳng động được
Nếu hay sanh tín được quyết định
Tức là Phật tử từ tâm sanh
Ngưỡng mong Thế Tôn diễn nói pháp
Do đó đại chúng được trừ nghi
Nếu có ai đối với chúng sanh
Tâm từ che chở khắp thế gian
Trí huệ kiên cố sẽ thành Phật
Bèn được an trụ Nhứt thiết trí
Ðấng vô thượng trăm phước trang nghiêm
Ngưỡng mong giải bày trừ lưới nghi
Chỉ muốn thọ trì pháp Thế Tôn
Như Lai vì họ hiện tướng cười
Mong được nghe Phật lời thiện xảo
Âm thanh tám đức rất vi diệu
Trước tự được đến nơi thiện đạo
Sau hay dẫn dắt các quần sanh
Phật pháp vi diệu là như vậy
Phật tử an trụ ở trong ấy
Giống Phật Thế Tôn chẳng đoạn tuyệt
Chắc được ở lâu tại thế gian”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo :
“Mã Thắng nay ông hỏi cớ cười
Phật vì lợi ích các thế gian
Ông được phước đức vừa lòng mình
Phước ấy vô lượng chẳng hết được
Người trí mới hay hỏi đúng lúc
Do đó lợi lớn các chúng sanh
Ông cùng tất cả hàng đại chúng
Mừng vui một lòng nghe Phật nói
Chúng trời Biến Tịnh hiện diện đây
Ở trong pháp Phật đều không nghi
Tất cả mừng vui lòng tịnh tín
Dùng kệ khen ngợi Phật công đức
Trời ấy đã ở đời quá khứ
Cúng dường ngàn ức do tha Phật
Cũng hỏi Phật ấy những nghĩa nầy
Trong tất cả pháp đều không nghi
Do các nhơn duyên thuở xưa ấy
Nay nói được kệ tán thán Phật
Cũng lại tịnh tâm sẽ tán thán
Hiền kiếp tất cả chư Như Lai
Trong kiếp Ưu Ba La họ sẽ
Thành Phật đại lực na la diên
Giáo hóa chúng sanh bất khả tư
Dẫn dắt vào nơi thành Niết bàn
Lúc chư Ðại Thánh ấy thành Phật
Ðược danh hiệu Phật rất vi diệu
Nay ta vì ông nói hiệu ấy
Ðồng trong kiếp ấy đều làm Phật
Hiệu là Pháp Tràng Phật Như Lai
Thảy đều cứu độ bất tư nghị
Na do tha chúng nhập Niết nàn
Các Như Lai ấy diệt độ rồi
Ðốt thân lưu bố những Xá lợi
Ðem Xá lợi ấy đều xây tháp
Ðầy trong quốc độ như rãi hoa
Bấy giờ tất cả Phật Xá lợi
Mỗi mỗi thảy đều lưu bố rộng
Sau mỗi mỗi Phật ấy nhập diệt
Thảy đều lợi ích các thế gian
Bất tư nghị do tha chúng sanh
Cúng dường Xá lợi Phật ấy rồi
Sẽ được cam lộ diệu Niết bàn
Tam thế chư Phật đều tán thán
Nếu ai xưng niệm danh Phật ấy
Thì được thiện căn thắng vi diệu
Sẽ được thành tựu đạo hữu học
Gặp Phật chuyễn được quả thù thắng
Dường như vô lượng nan tư chúng
Ðều ở chỗ ta trồng căn lành
Mừng ưa tin thích tâm thanh tịnh
Sẽ được gặp gỡ Phật Di Lặc
Chúng Thanh Văn của chư Phật ấy
Từ Phật ấy đến chỗ chư Phật
Sẽ được gặp Phật nhập chúng hội
Ðều do cúng dường Xá lợi ấy
Ðược nghe lời Phật như vậy rồi
Tất cả đại chúng sanh hi hữu
Công đức thắng diệu có oai thần
Chúng trời Biến Tịnh thanh tín sĩ
Và hàng đại chúng khắp vui vẻ
Thảy đều lưu chú hướng Bồ đề
Ðược biết Như Lai thế lực lớn
Thảy đều dảnh lễ chưn Thế Tôn”.
Bấy giờ có tám ức chúng trời Quảng Quả thấy A Tu La nhẫn đến trời Biến Tịnh cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa lòng vui mừng hớn hở nhập mỗi mỗi pháp môn, từ mỗi mỗi pháp môn được vô lượng môn, nơi tất cả pháp môn được vô lượng biện tài, bất đoạn biện tài, tương ưng biện tài , giải thoát biện tài, vô trước biện tài, vô ngại biện tài, vi tế biện tài, thậm thâm biện tài, chủng chủng biện tài, mỹ diệu biện tài, tương tục biện tài. Ở nơi các biện tài thảy đều biết rồi, chúng trời Quảng Quả ấy đối với Như Lai, kính tin tôn trọng mà bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn! Có đà la ni tên Vô Lượng Môn. Nếu có Bồ Tát tu tâp đà la ni vô lượng môn ấy, thì được các biện tài bất đoạn V.V…ấy, ở trong tất cả cảnh giới tâm chẳng mê hoặc. Các cảnh giới ấy không có một pháp nào chẳng phải đà la ni. Lúc đại Bồ Tát được đà la ni ấy, ở trong các pháp đều được đà la ni trí biện tài vô ngại. Lúc đại Bồ Tát an trụ đá la ni vô lượng pháp môn ấy thì nhập nơi ngũ ấm, nhập nơi thập nhị xứ, nhập nơi thập bát giới, nhập nơi các căn, nhập nơi tứ đế , thập nhị nhơn duyên, nhập nơi chúng sanh, nhập nơi phi chúng sanh , nhập nơi hữu, nhập nơi phi hữu, nhập nơi thủ tưởng, nhập nơi phi thủ tưởng, nhập nơi y nơi phi y,nhập nơi không nhập nơi ngã, nhập nơi tướng nơi phi tướng, nhập nơi nguyện nơi phi nguyện, nhập nơi hữu vi nơi vô vi, tất cả xứ như vậy được bất hoại biện tài.
Ðại Bồ Tát ấy nhập trong ngũ ấm được đà la ni. Nghĩa là sắc ấm ấy tức chẳng phải thành tựu, tại sao, vì không có chút sắc pháp được thành tựu, tại sao, vì địa giới tánh chẳng phải thành tựu, thủy giới hỏa giới và phong giới tánh đều chẳng phải thành tựu, tại sa, vì địa giới tánh ly vậy, nếu pháp không có thể tánh thì gọi là chẳng phải thành tựu, thủy hỏa và phong giới tánh tự ly, vì không thể tánh nên chẳng phải thành tựu. Sắc chẳng phải thành tựu như vậy, do vì chẳng phải thành tựu nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại và vị lai, tại sao, vì sắc chẳng phải pháp có nên là bất khả đắc. Nếu sắc đã bất sanh tức laé bất diệt, do vì bất sanh diệt nên tức là bất khả thuyét, lại còn có thuyết như vầy, những sắc quá khứ, sắc hiện tại, sắc vị lai, các sắc ấy hòa hiệp gọi là sắc ấm, sắc ấy thể tánh cũng bất khả đắc, nào có quá khứ hiện tại vị lai, thế nên sắc ấm chẳng phải là khả thuyết, thọ tưởng hành và thức cũng như vậy. Vì vậy nhập nơi ấm tức là nhập nơi đà la ni. Do vì nhập đà la ni nên ấm bất khả đắc, vì ấm bất khả đắc nên đà la ni cũng bất khả đắc, do đó mà nhập đà la ni bất khả đắc, chỉ có rieng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là thế tục, chỉ là ngôn thuyết, chỉ là thi thiết, chẳng phải ấm chẳng sắc, chẳng phải nhập nơi sắc, cũng chẳng đà la ni thể tánh khả đắc. Tại sao ?
Nghiã là ấm v.v…chă »ng phải là tác pháp, vì chẳng phải tải tác pháp nên không có tích tụ. Do vì tích tụ nên giả gọi là ấm, như thế gian nhiều vật liệu tích tụ lại giả gọi là thành là nhà v.v…Các sắc ấy tánh bất khả đắc, không có tích tụ, vì không tích tụ nên là không sắc , cũng hông sắc ấm. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, tánh bất khả đắc không có tích tụ, vì không tích tụ nên không thọ tưởng hành thức, cũng không thọ tưởng hành thức ấm. Nhập nơi các ấm ấy phải biết như các ấm.
Nhập nơi nhãn rồi là ai nhập, nghĩa là khổ nhập. Gì là nhãn ? Ðó là thanh tịnh tứ đại tạo nên sắc gọi đó là nhãn. Những gì là tư đại ? Ðó là thanh ti(nh địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới, địa giới ấy tánh tự ly, đã là tánh tự ly thì là pháp thể bất khả đắc, nó là chẳng phải thành tựu. Như vậy thủy hỏa và phong giới tánh đều tự ly, vì pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải thành tựu. Nhãn nhập chẳng phải thành tựu như vậy nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại vị lai. Tại sao ?Vì nhãn nhập chẳng phải là vật. Vì chẳng phải là vật nên chẳng sanh chẳng diệt. Nếu chẳng sanh chẳng diệt tức là bất khả thuyết. Như vậy nhãn chẳng sanh diệt, nhập cũng chẳng sanh diệt, vì chẳng sanh diệt nên cũng bất khả thuyết. Phải hiểu biết như vầy : Chỉ là riêng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là thế tục, chỉ là ngôn thuyết. Danh ấy và danh thể cũng tư( tánh ly. Tại sao ? Vì không có một pháp gọi là nhãn, gọi là nhập, gọi là khổ. Vì danh bất khả đắc nên nhãn nhập cũng bất khả đắc.
Vì nhãn bất khả đắc nên tức là đà la ni nhập. Ðà la ni nhập nầy cũng bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly vậy, chỉ là danh dụng giả, chỉ là thế tục, ngôn thuyết thi thiết. Vì thế nên do nhãn nhập mà được đà la ni. Ðược đà la ni rồi thì được biện tài.
Nên biết nhĩ tỉ thiệt thân ý sắc thanh hương vị xúc pháp cũng đều như vậy.Nhập nơi giới ấy được đà la ni nhãn, nhãn thể bất khả đắc, giới thể bất khả đắc. Tại sao ? Vì nhã ly nhãn tánhvậy, vì giới ly giới tánh vậy. Bởi pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Chẳng thành tựu thì là chẳng sanh chẳng diệt. Vì chẳng sanh diệt nên nó chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai, chỉ là dan h dụng giả, chỉ là thế tục ngôn thuyết thi thiết. Danh ấy ly danh tự tánh, nhẫn đến thi thiết ly thi thiết tự tánh. Nếu pháp không tự tánh bất khả đắc tức là chẳng phải vật. Ðã chẳng phải vật thì chẳng phải thành tựu. Ðã chẳng phải thành tựu thì chẳng sanh chẳng diệt. Bởi bất sanh diệt nên chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai. Nếu chẳng nhiếp ở danh ấy tức chẳng phải tướng cũng chẳng phải tưởng, chẳng phải dụng, chẳng phải giả, chẳng phải hữu vi, chẳng phải khả thuyết, chẳng phải lai chẳng phải khứ, chẳng phải được nói cho người, chẳng phải được hiển thị, chẳng phải được biết, chẳng phải được rõ, chẳng phải đen, chẳng phải trắng, chằng phải nhà cửa. Vì ly nhà cửa vậy, vì chẳng phải đến, chẳng phải được đến vậy, vì chẳng phải được, chẳng phải bị được vậy, vì chẳng phải chứng, chẳng phải được chứng vậy, chẳng phải phàm phu cũng chẳng phải phàm phu địa, chẳng phải Thanh Văn cũng chẳng phải Thanh văn địa, chẳng phải Duyên Giác cũng chẳng phải duyên Giác địa, chẳng phải Bồ Tát cũng chẳng phải Bồ Tát địa, chẳng phải Phật cũng chẳng phải Phật địa, chẳng phải địa cũng chẳng phải phi địa, đây tức là chơn như, chẳng dị như, chẳng phải phi như, tịch diệt vô tướng, chỉ riêng dụng riêng giả. Nói rằng Như Lai chỉ riêng vì thế tục nên nói danh Như Lai, chẳng phải đệ nhứt nghĩa mà có Như Lai vậy. Tại sao ? Vì pháp ấy bất khả đắc nên không có Như Lai ở nơi giới ấy mà nhập. Phải nên nhập nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý giới pháp giới ý thức giới như vậy. Tất cả giới khác cũng phải biết như vậy. Phải nên rộng nhập pháp giới như vậy.
Bạch Thế Tôn ! Pháp giới ấy, lúc nói rằng ấm mà chẳng hư hoại bổn tánh của pháp giới ấy, lúc nói nhập lúc nói giới, lúc nói tứ đế, lúc nói thập nhị nhơn duyên, cũng đều chẳng hoạibổn tánh thể của pháp giới ấy.
Pháp giới tùy theo chỗ được nói tất cả các pháp kiến lập danh tự, đèu chẳng hoại thể tánh của pháp giới ấy.
Bạch đức Thế Tôn ! Thi như địa tùy theo chỗ nó ở mà làm danh tự sai khác, nhưng chẳng hư hoại bổn tánh của địa giới ấy. Cũng vậy, pháp giới tùy theo chỗ nó ở làm danh tự sai khác mà chẳng hoại bổn tánh pháp giới. Thi như tủy hỏa phong giới cũng vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Thí như hư không tùy theo chỗ nó ở có tác dụng sai khác mà chẳng hoại thể tánh hư không. Cũng vậy, pháp giới tùy theo chỗ nó ở có tác dụng danh tự sai biệt mà chẳng hoại thể tánh pháp giới.
Bạch đức Thế Tôn ! Lúc nhập các căn tức là nhập pháp giới? Nói các căn lá nhãn căn nhĩ căn tỷ căn thiệt căn than căn và ý căn, cùng nam nữ căn mạng căn, lạc căn khổ căn hỉ căn ưu căn xả căn, tín căn tinh tấn căn niệm căn định căn huệ căn, vị tri dục tri căn, tri căn tri dĩ căn.
Nhãn ấy, nhãn thể bất khả đắc. Căn ấy, căn thể bất khả đắc. Tại sao ?Vì nhãn ấy ly nhãn tự tánh vậy. Ðã ly tự tánh thì không pháp thể. Bởi pháp không thể tánh thì nó chẳng phải vật. Bởi chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Bởi chẳng thành tựu nên nó chẳng sanh. Bởi chẳng sanh nên chẳng diệt. Bởi chẳng sanh diệt nên chẳng thể nói nó là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong tam thế chẳng sanh diệt thì nó chẳng phải nhãn cũng chẳng phải nhãn căn thì làm sao có dụng, phải biết như vậy.
Bạch đức Thế Tôn !Thí như không quyền hư dối không có vật chỉ có danh tự chỉ có ngôn thuyết. Ở trong địa nhứt nghĩa không quyền cũng không có. Nhãn và nhãn căn ấy dường như không quyền hư vọng chẳng phải thiệt mà hiện tướng hư giả dối gạt phàm phu, chỉ có danh tự thi thiết ngôn thuyết, ở trong đệ nhứt nghĩa nhãn và nhãn căn đều bất khả đắc.
Bạch đức Thế Tôn ! Vì như vậy nên ngườo được Nhứt thiết trí rồi vì độ chúng sanh mà nói tên là căn. Các căn ấy, ở đệ nhứt nghĩa vì tự tánh ly nên căn thể đều không. Vì pháp ấythể kho-ng nên dụng cũng hư vọng chẳng có chẳng thiệt dối gạt phàm phu. Vì ly tự tánh nên chẳng sanh diệt. Vì chẳng sanh diệt nên chẳng được nói nó là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong tam thế không có thié nó không có danh không có tướng, chẳng phải được nói, chẳng phải được vì người khác nói, chẳng phải sanh chẳng phải bị sanh, chẳng phải đã biết sẽ biết, chẳng phải đã nghe sẽ ngh, chẳng phải biết chẳng phải biết chẳng phải bị biết, chẳng phải đã chứng sẽ chứng, chẳng phải đã được sẽ được, chẳng phải đã thấy sẽ thấy, chẳng phải đã đến sẽ đến, tại sao , vì nó chẳng phải có vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Thí như có người chiêm bao được vui mừng cười nói mớ đi chơi, người ấy sau khi thức dậy ghi nhớ sự vui chơi trong mộng mà tìm chẳng thấy chẳng được. Người ấy đương lúc chiêm bao sự vui chơi ấy còn chẳng có thiệt huống là lúc thức dậy, không bao giờ cảnh mộng ấy lại hoặc thấy hoặc được.
Bạch đức Thế Tôn ! Các căn như vậy giống cảnh vui chơi trong mộng thiệt bất khả đắc. Vì thế nên tất cả các pháp thể tánh đều bất khả đắc. Vì là bất khả đắc nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở nơi tam thế thế bất khả đắc thì nó chẳng thể nói được. Với tất cả các căn phải biết như vậy.
Bạch đức Thế Tôn nhập pháp giới là nhập tất cả pháp, nhập tất cả pháp là nhập pháp giới. Bạch đức Thế Tôn !Nhập pháp tứ đế là nhập pháp giới. NHững gì là tứ đế ? Ðó là khổ tập diệt đạo.
Ðức Thế Tôn cũng nói tất cả các pháp thảy đều là không, chẳng phải chúng sanh , chẳng phải mạng, chẳng phải nhơn, chẳng phải tưởng, chẳng phải tướng. Chúng tôi ở nơi pháp ấy chăẳng có nghi lự.
Bạch đức Thế Tôn ! Vì không chúng sanh nên cũng không có khổ. Tại sao ? Vì chúng sanh không nên khổ đế cũng không. Tại sao ?Vì không có nhơn như vậy nên không có quả như vậy. Vì không có tập nên diệt đế cũng không. Tại sao ? Vì không có đạo mà chẳng đoạn tập vậy. Bạch đức Thế Tôn ! Ðạo quả ấy là diệt đế. Phiền não tập kia bất khả đắc nên đoạn phiền não diệt cũng bất khả đắc. Do diệt bất khả đắc nên đạo cũng bất khả đắc. Không khi nào có đạo như vậy mà không có quả của nó. Bốn thánh đế ấy chỉ là phân biệt hư vông chẳng phải có. Bởi chẳng phải có nên chẳng thể nói được là quá khứ hiện tại vị lai.Nếu ở trong tam thế bất khả đắc thì nó chẳng phải sanh chẳng phải diệt, chẳng phải tướng chẳng phải tưởng, chẳng phải sắp bày chẳng phải bị sắp bày, chẳng phải nêu chỉ chẳng phải bị nêu chỉ, chẳng phải hiển hiện chẳng phải bị hiển hiện, chẳng phải ngũ ngôn chẳng phải bị ngũ ngôn, chẳng phải ngôn từ chẳng phải bị ngôn từ; chẳng no&i chẳng phải bị nói; chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải biết chă”ng phải bị biết, chẳng phải rõ chẵng phải bị rõ, chẳng phải lường chẳng phải bị lường, chẳng phải thấu chẳng bị thấu, chẳng phải đến chẳng phải bị đến, chẳng phải được chẳng phải bị được, chẳng phải nghe chẳng phải bị nghe, chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải đối chẳng phải bị đối, chẳng phải chứng chẳng phải bị chứng, chẳng phải trắng chẳng phải đen, chẳng phải sáng chẳng phải tối, chẳng phải đến chẳng phải đi, chẳng phải cạn chẳng phải sâu, chảng phải trong chẳng phải đục, chẳng phải sợ chẳng phải an.chẳng phải trói chẳng phải mở, chẳng phải ghét chẳng phải thương, chẳng phải phiền não chẳng phải thanh tịnh, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải đường sá chẳng phải chẳng đường sá, chẳng phải hoại chẳng phải chẳng hoại, chẳng phải nhiếp thọ chẳng phải chẳng nhiếp thọ, chẳng phải sanh tử chẳng phải chẳng sanh tử, chẳng phải được chẳng phải chẳng được, chẳng phải chúng sanh chẳng phải chẳng chúng sanh, chẳng phải thọ mạng chẳng phải chẳng thọ mạng, chẳng phải ngã chẳng phải chẳng ngã, chẳng phải vật chẳng phải chẳng vật, chẳng phải không chẳng phải chẳng không, chẳng phải tướng chẳng phải chẳng tướng,, chẳng phải nguyện chẳng phải chẳng nguyện, chẳng phải y chẳng phải chẳng y, chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, chẳng phải đoạn chẳng phải thường, chẳng phải tà chẳng phải chánh, chẳng phải thiệt chẳng phải vọng, chẳng phải vọng tưởng chẳng phải chẳng vọng tưởng, chẳng phải xứ chẳng phải chẳng xứ, chẳng phải nhà chẳng phải chẳng nhà, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải xả chẳng phải tu, chẳng phải sanh tử chẳng phải Niết bàn, chẳng phải giác chẳng phải chẳng giác, chẳng phải cảnh giới phàm phu chẳng phải cảnh giới Thanh Văn chẳng phải cảnh giới duyên giác chẳng phải cảnh giới Bồ Tát chẳng phải cảnh giới Phật, chẳng phải cảnh giới chẳng phải chẳng cảnh giới, chẳng phải tác chẳng phải bất tác. Nhập vào đế như vậy tức lànhập vào pháp giới. Nhập pháp giới rồi thì được đà la ni. Ðược đà la ni rồi thì được biện tài. Nhập vào mười hai nhơn duyên tức lá nhập vào pháp giới. Vô minh duyên hành hành duyên thức thức duyên danh sắc duyên sắc duyên lục nhập lục nhập duyên xúc xúc duyên thọ thọ duyên ái ái duyên thủ thủ duyên hữu hữu duyên sanh sanh duyên lão tutủ ưu bi khổ não, khối lớn nhiều khổ lớn như vậy. Vô minh diệt thì hành diệt nhẫn đến sanh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt, khối lớn nhiều khổ diệt.
Bạch đức Thế Tôn ! Vô minh ấy, vô minh thể bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly. Nếu pháp không có thể tánh thì nó chẳng phải vật. Vì chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựuBởi chẳng phải thành tựu nên chẳng phải sanh chẳng phải diệt. Bởi chẳng sanh diệt nên chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai. nếu ở trong tam thế bất khả đắc thì kho-ng có danh không có hình không tướng không tưởng cũng chẳng sai biệt. Chỉ là riêng danh riêng giả riêng dụng, chỉ là thế tục chỉ là ngôn thuyết, vì giáo hóa tất cả phàm phu chúng sanh. Vô minh ấy ở trong đệ nhứt nghĩa thiệt bất khả đắc. Bởi bất khả đắc nên chẳng phải dụng sai biệt cũng chẳng thể nói được
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu chỉ là chỉ riêng danh nhẫn đến chỉ riêng thi thiết thì nó chẳng phải thiệt chỉ là hư vọng ngôn thuyết phân biệt, giác quán chẳng phải định chỉ lá hí luận. Vô minh ấy nếu không có tự tánh thì làm sao sanh được hành. Vì vô minh đã không nên hành cũng chẳng sanh, bởi chẳng sanh nên nó tức là bất lão bất bịnh bất tử, chẳng lưu chuyển tức là bất sanh. Nếu chẳng sanh thì làm sao có lão tử. Nếu chẳng sanh chẳng tử tức là chư Phật Bồ đề quá khứ hiện tại vị lai chỉ là thế tục danh tự chẳng phải đệ nhứt nghĩa. Nói rằng vô minh đó tức là Bồ đề, các chỉ kia cũng vậy. Nhập mười hai nhơn duyên như vậy phải biết tức là nhập nơi pháp giới.
Bạch đức Thế Tôn ! Như Lai bất sanh tất cả pháp cũng bất sanh , vì thế tất cả pháp tức là Như Lai. Như Lai bất diệt tất cả pháp cũng bất diệt, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai , Như Lai vô tướng tất cả pháp cũng vô tướng, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.
Nói tóm lược, vô tướng bất khả đắc như vậy chẳng phải cấu chẳng phải tịnh, chẳng phải yêu chẳng phải ghét, pháp giới chẳng thể rõ cũng chẳng thể biết.
Bạch đức Thế Tôn ! Chơn như tức là Như Lai, tất cả các pháp tức là chơn như, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai
Bạch đức Thế Tôn ! Thiệt tế tức là Như Lai, tất cả pháp tức là thiệt tế, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Tùy trong pháp nào tức là có Như lai, trong pháp ấy tức là có tất cả pháp, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người nói Như Lai được Vô thượng Bồ đề, người ấy là có kiến chấp. Tại sao ? Vì Như Lai bất nhị, Bồ đề cũng bất nhị, bất nhị ấy chẳng có thể giác ngộ bất nhị vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người nói Như Lai chuyễn pháp luân vô thượng, người ấy là có kiến chấp. Tại sao ? Vì Như Lai chẳng phải tiến thối vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người,nói Như Lai độ vô lượng chúng sanh, người ấy là có chấp kiến. Tại sao ? Vì tất cả pháp thiệt không có chúng sanh nên không có ai được diệt độ vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người nói rằng Như Lai lợi ích vô lượng chúng sanh, người ấy là có kiến chấp. Tại sao ? Vì Như Lai chẳng vì lợi ích hay chẳng lợi ích chúng sanh mà xuất thế vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có chúng sanh ở đời vị lai nói rằng Như Lai xả bỏ thọ mạng, chúng sanh ấy là có chấp kiến. Tại sao ? Vì pháp giới không có nhiếp thọ cũng không có xả bỏ vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người nói Như Lai nhập vô dư Niết bàn, người ấy là có chấp kiến. Tại sao ? Vì pháp giới không có sanh tử cũng không có Niết bàn vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người ở nơi pháp của tôi nói mà có thể quyết định biết, người ấy chẳng còn thối chuyễn nơi Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế Tôn ! Giả sử pháp giới có biến khác, các thiện nam tử thiện nữ nhơn có thể tin như vậy, tất định sẽ giác ngộ Vô thượng Bồ đề không có biến đổi ».
Tám ức chúng trời Quảng Quả ở nơi Thế Tôn diễn nói pháp của mình được chứng rồi đầu mặt lễ chưn Phật, nhiễu Phật ba vòng đứng qua một phía chắp tay đồng thanh nói kệ tán thán đức Phật :
« Kính lễ Thiện Thệ đấng biết pháp
Ðại Ðạo Sư na la diên lực
Thắng Mâu Ni thương yêu tất cả
Phương tiện thị hiện nơi chơn thiệt
Ðã tự biết rõ tất cả pháp
Như thiệt hiển thị các thế gian
Cúi lạy thân vô lượng công đức
Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng
Pháp vi diệu chơn thiệt như vậy
Phật nói tương ưng không có khác
Thế Tôn đại Y Vương vô thượng
Khiến chúng sanh pháp nhãn thanh tịnh
Khai diễn tám thứ đường chơn chánh
Vì được đại Bồ đề Vô thượng
Quy kính thân vô lượng công đức
Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng
Hiễn thị Bồ đề đạo chánh chơn
Quyết định xu hướng đại Niết Bàn
Chứng được Vô thượng thắng Bồ đề
Tịch diệt an ổn rất kiên cố
Ðộ thoát nhiều ức na do tha
Chúng sanh luân hồi khổ sanh tử
Ðãnh lễ thân vô lượng công đức
Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng
Quan sát ngũ ấm đều không vô
Ấm thể rốt ráo bất khả đắc
Ấm ấy tức thể ly chẳng có
Chỉ gạt những chúng sanh phàm ngu
Thế gian nơi đây bị trói buộc
Như khỉ vượn kia bị dính nhựa
Người trí nơi đây được giải thoát
Du hành không ngại như gió trống
Các giới tức thể tánh tự không
Tất cả người trí nói như vậy
Không ấy cũng không có tự tánh
Cứu cánh cầu nó bất khả đắc
Phàm phu nơi đây đều bị trói
Do vì chẳng biết tánh chơn thiệt
Người trí quán sát được giải thoát
Nơi tam giới kia vô sở trước
Các nhập không thể tự không tịch
Tất cả người trí nói như vậy
Như nắm tay không giả chẳng thiệt
Dối gạt hàng chúng sanh ngu tối
Phàm phu vọng sanh lòng thủ trước
Ðều do nơi pháp sanh nghi hoặc
Trụy lạc sanh tử bị tán hoại
Như các nhà buôn chìm biển lớn
Các căn ấy tự nó tự không
Cứu cánh suy tìm bất khả đắc
Ví như trong gương hiện mặt mắt
Tượng ấy không thiệt cứu cánh không
Phàm phu vô trí chấp tượng ấy
Chánh vì chẳng biết pháp chơn thiệt
Dường như bầy chim vào lưới bẫy
Cũng như trong vực cá mắc câu
Chúng sanh không thể lìa tướng sanh
Chơn thiệt tìm cầu bất khả đắc
Ví như trên vách vẽ hình tượng
Cứu cánh không tướng chúng sanh thiệt
Phàm phu vô trí nên thử trước
Ðều do chẳng biết nghĩa chơn thiệt
Người trí quan sát được giải thoát
Ví như chim sanh ra khỏi vỏ
Nhơn duyên sanh pháp đều vô thường
Tất cả không tịch lìa phan duyên
Ví như trong mộng hưởng thọ vui
Hư dối gạt gẫm phàm phu mê
Ngu si vô trí bị nó trói
Do chẳng tư lương vọng phân biệt
Người trí quan sát được giải thoát
Như các chim khôn thoát lồng lưới
Như Phật công đức bất tư nghị
Tất cả các pháp cũng như vậy
Các pháp vô tướng như Mâu Ni
Pháp thể tịch diệt như Niết bàn
Các pháp vô y như Như Lai
Nơi tam giới kia chẳng thủ trước
Vì thế tất cả người thành Phật
Ðều do được biết nghĩa nầy vậy
Các pháp vô bố như Thế Tôn
Chẳng khởi tưởng thân mình thân người
Các pháp nan tư như Ðạo Sư
Chỉ Phật biết được dắt quần sanh
Pháp vô phân biệt như Thiện Thệ
Chẳng phải tâm cảnh của phàm phu
Là diệu cảnh giới của Như Lai
Chỉ Phật Ðại Thánh biết rõ được
Nếu có vô trí nói thế này
Phật chứng Vô thượng đại Bồ đề
Nếu lại có người nói như vầy
Thế Tôn đã chuyễn diệu pháp luân
Nếu lại có người nhận định rằng
Thiện Thệ đã độ vô lượng chúng
Họ đều bị kiến chấp trói buộc
Vì họ chẳng biết tánh chơn thiệt
Nếu người bảo Phật nói lời nầy
Sát hại hành ấm và cùng mạng
Hoặc nói Thập Lực nhập Niết bàn
Ðã lợi ích vô lượng chúng sanh
Tất cả người ấy đều chấp kiến
Bị trói chặt trong rọ của ma
Chẳng hiểu biết được pháp chơn như
Vì chẳng biết nên chẳng biết Phật
Nếu người khéo biết phải chẳng phải
Họ biết rõ được Ðại Ðạo Sư
Sẽ được khối vô lượng công đức
Thành Phật thương xót các thế gian
Ðây là chơn như không biến đổi
Tất cả các pháp lìa nghi hoặc
Ðấng thắng vô thượng trong Trời Người
Chúng tôi đã biết nghĩa như vậy
Tám ức chúng trời Quảng Quả nầy
Nơi pháp thảy đều được biết hết
Ðối Phật Ðạo Sư tự diễn nói
Hiện nội tâm mình tin hiểu rồi
Tất cả mừng vui không nghi lự
Ðều tự thấy mình sẽ thành Phật
Ðây là diệu pháp của Như Lai
Họ tự nhận lãnh Phật thọ ký ».
Ðức Thế Tôn biết chúng trời Quảng Quả có đủ thâm tín, ở trong Phật pháp quyết định không nghi, vì muốn đại chúng trồng căn lành nên hiện mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch đức Phật
« Ðạo sư trí huệ núi công đức
Chẳng phải không nhơn mà mỉm cười
Tôi từng nơi Phật thân tự nghe
Thế Tôn mỉm cười tất có cớ
Như Lai hiện tướng mỉm cười ấy
Khiến chúng đều thọ vui thanh tịnh
Trời Người Tu La đại Ðạo Sư
Ngưỡng mong diễn nói nhơn duyên cười
Nay thấy Như Lai từ nơi miệng
Hiện tướng mỉm cười rất thanh lương
Các chúng hội đây đều hoài nghi
Nhứt tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai
Ðại bi tối thắng Thiên Nhơn Sư
Xin nói cớ cười rất hi hữu
Thế gian nếu được nghe Phật nói
Quyết định trừ hết lòng nghi hoặc
Tám ức chúng trời Quảng Quả ấy
Thảy đều diễn nói tự thọ ký
Do công đức gì được quả gì
Xin nói thành Phật sự thần thông
Khai diễn phạm âm rất vi diệu
Ðể khắp trừ dứt chúng sanh nghi
Tất cả đại chúng nghe Phật nói
Thảy đều hớn hở rất vui mừng
Ðại chúng chắp tay đều nhứt tâm
Tịnh tín chiêm ngưỡng cung kính đứng
Chúng trời Phật tử đều tư duy
Mong cầu Vô thượng đại Bồ đề
Các chúng hội đây có nghi hoặc
Xin đức Như Lai trừ dứt cho
Chắc sẽ được trí biết phải chẳng
Ðầy đủ thành tựu Nhứt thiết trí
Ðược nghe Như Lai tiếng tám đức
Chúng trời không ai chẳng vui mừng
Sẽ được hộ trì Như Lai giáo
Tùy thuận chánh pháp như thuyết hành
Quan sát biết lòng chúng trời rồi
Ðại trí Vô thượng nguyện giải nói
Do đó đại chúng lòng mừng vui
Ở trong Phật pháp được tin hiểu
Nay nơi Ðạo Sư nguyện được nghe
Chúng trời quá khứ dã tu hành
Nếu nhờ Như Lai giải nói rồi
Sở nguyện thảy đều được đầy đủ
Chúng trời Quảng Quả như pháp hành
Chắc được thành tựu Nhứt thiết trí
Sẽ độ thế gian các chúng sanh
Hiển thị thể tánh pháp chơn như ».
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng :
« Lành thay Mã Thắng khéo biết giờ
Nay ông hỏi Phật thiệt đúng lúc
Phật vì chúng trời Quảng Quả ấy
Ở trước đại chúng hiện mỉm cười
Nay sẽ vì ông phân biệt nói
Ðều phải nhứt tâm cùng lắng nghe
Nghĩa nhơn duyên của tướng mỉm cười
Ông và đại chúng sẽ được rõ
Như Lai đầy đủ Nhứt thiết trí
Quan sát nhơn duyên có ba thứ
Lưỡng Túc Thế Tôn chánh quán rồi
Liền hiện mỉm cười thị thế gian
Có người thích ở nơi Niết bàn
Ít trí cạn nhỏ cầu Thanh Văn
Lại có người thích ở yên lặng
Chỉ cầu Bồ đề Bích Chi Phật
Lại có thích cầu đại Ðạo Sư
Thành Phật đại lực na la diên
Phật thấy chúng ấy thâm tín rồi
Tùy họ sở nguyện mà độ thoát
Vì cầu Thanh Văn mà thị hiện
Phải biết là tướng cười tối hạ
Phải nên biết Phật trung phẩm cười
Vì người Bích Chi mà thị hiện
Ông phải biết cười thượng phẩm đây
Vì chúng trời nầy thọ ký Phật
Phật giải nói ba nhơn duyên cười
Ðó là tối hạ và trung thượng
Khéo hiểu thế gian thắng Ðạo Sư
Thị hiện mỉm cười hiển thoại tướng
Phật biết chúng sanh muốn ba thừa
Nguyện ưa cầu chứng ba thánh quả
Vì cầu Thanh Văn mà hiện cười
Tia sáng mỉm cười vào nơi chưn
Vì cầu Bích Chi Phật thị hiện
Phải biết sáng cười nhập vào rún
Vì thọ ký Vô thượng Bồ đề
Tia sáng cười nhập vào đảnh Phật
Mã Thắng nầy Ông nên ghi rõ
Nhơn duyên mỉm cười có ba thứ
Vừa rồi Phật hiện tướng sáng cười
Sáng ấy nhập vào đảnh của Phật
Phải biết mỉm cười hiện sáng ấy
Ðều vì thọ ký Vô Thượng Giác
Nay Phật sẽ lại vì ông nói
Mỉm cười lại có ba nhơn duyên
Lành thay Mã Thắng và đại chúng
Một lòng lặng ý đều lắng nghe
Hiện tiền mỉm cười vì cầu Phật
Tia sáng phóng ra nhập vào đảnh
Tia sáng có lúc dừng ngang lưng
Giây lát mất là vì Duyên Giác
Phật hiện mỉm cười phóng tia sáng
Tạm thời dừng ở nơi chưn Phật
Sáng ấy theo thừa mà biến hiện
Phải biết là vì người Thanh Văn
Nay Phật lại nói cớ mỉm cười
Mã Thắng nghe kỹ có ba thứ
Ðạo Sư phóng ra các tia sáng
Ra rồi vòng quanh nơi mình Phật
Tia sáng ra rồi đều rẽ thưa
Trở lại tụ mau quanh lưng Phật
Lần lần trở lại thêm lớn rộng
Cũng lại vòng quanh bên hữu Phật
Có sáng đầu dừng sau rộng lớn
Lần lần hữu nhiễu quanh thân Phật
Sáng ấy đều khắp hết thân Phật
Cùng đồng với thân không sai khác
Sáng ấy trang nghiêm thân tướng Phật
Rực rỡ dường như khối hoàng kim
Mâu Ni phóng sáng từ miệng cười
Phải biết sáng ấy ký quốc độ
Có sáng phóng ra như lọng báu
Che khắp trên thân đức Thế Tôn
Có sáng như hoa ở hư không
Sáng ấy chói rỡ thân Ðạo Sư
Sáng ấy tất cả đều hữu triền
Ba vòng quanh ngoài thân Nhu Lai
Phải biết sáng áy ký thọ mạng
Xuất thế đại trí hiện thoại tướng
Ba thứ mỉm cười phóng sáng áy
Thiện Thệ theo căn hiện sai khác
Nay đây Mã Thắng cần nên biết
Ðó là ba thứ nhơn mỉm cười
Thế gian Ðạo Sư hiện thoại tướng
Khéo biết chúng sanh sâu tin thích
Nay ở trong pháp của Như Lai
Các ông nghe đây được trừ nghi
Tám ức chúng trời Quảng Quả đây
Hiện tiền trước Phật sâu kính tin
Nói rộng chánh pháp môn vi diệu
Ðều riêng cõi khác được thành Phật
Thọ mạng đầy đủ lâu vô lượng
Trải do tha kiếp trụ thế gian
Thế nên Như Lai hiện thoại tướng
Ánh sáng rộng lớn đủ năm màu
Chúng trời Quảng Quả thuở quá khứ
Ba mươi sáu a tăng kỳ kiếp
Thường được gặp gỡ chư Thế Tôn
Thân thừa cúng dường tu pháp lành
Lại trãi thời gian ba mươi sáu
A tăng kỳ kiếp rộng tu hành
Chư Ðại Sĩ này trụ thế gian
Cúng dường Như Lai chưa từng mỏi
Vì tư duy cứu độ các chúng sanh
Nên luôn siêng tu cúng dường Phật
Cúng dường Thế Ttôn đúng pháp nghi
Mong cầu Vô thượng đại Bồ đề
Chúng trời Quảng Quả đời vị lai
Sẽ làm được Phật na la diên
Thành hiệu Mâu Ni núi công đức
Kiếp ấy hiệu là Thắng Kim Tràng
Chư Như Lai ấy đều riêng ở
Trong quốc độ trang nghiêm thanh tịnh
Phật ấy đồng hiệu Nhựt Quang Luân
Ðầy đủ vô lượng khối công đức
Mỗi mỗi Như Lai đều trụ thế
Lâu đến vô lượng do tha kiếp
Chư Thiện Thệ ấy họp chúng hội
Vô lượng vô biên chẳng đếm được
Lúc mỗi mỗi Ðạo Sư thành Phật
Chỗ có hàng đệ tử Thanh Văn
Dầu Phật ở trong do tha kiếp
Tính đếm số ấy củng chẳng hết
Nếu tất cả toán sư cùng họp
Cũng tính chẳng hết số chúng ấy
Thuở ấy chỗ có chư Bồ Tát
Số đông gấp bội chúng Thanh Văn
Thảy đều phát tâm ở Phật thừa
Nguyện sẽ thành Nhứt thiết trí
Ở trong quốc độ thanh tịnh ấy
Ðều sẽ được thành Phật thập lực
Chư Bồ Tát ấy chỗ tu hành
Ðồng như Bỗn Sư không sai khác
Chư Như Lai ấy diệt độ rồi
Chánh pháp hưng thạnh ở đời lâu
Trải đến mười hai na do kiếp
Ðược chư Phật tử siêng hộ trì
Lúc pháp chư Phật ấy hưng thạnh
Kẽ phát tâm vô thượng Bồ đề
Số ấy nhiều hơn cát sông Hằng
Thảy đều siêng tu Bồ Tát hạnh
Chư Thiện Thệ ấy diệt độ rồi
Chỗ có tất cả chúng Thanh Văn
Chúng ấy thảy đều được Niết bàn
Nhiều hơn số cát nơi đại hải
Chánh pháp của chư Thế Tôn ấy
Ðầy đủ hưng thạnh nơi Thế gian
Lợi ích vô lượng các chúng sanh
Giáo pháp Phật ấy rất hưnh thạnh
Nghe Phật giải nói như vậy rồi
Tất cả đại chúng đều tin hiểu
Quyết sẽ được thành Phật Thế Tôn
Rộng làm lợi ích các quần sanh
Bấy giờ chúng hội đều mừng vui
Ðầu mặt lễ lạy chưn Như Lai
Cung kính vô lượng nơi Thiện Thệ
Ðúng pháp cúng dường Thiên Nhơn Sư
Thế nên hớn hở phát tinh tấn
Dường như cứu đầu đang bi cháy
Thường phải thân cận thiện tri thức
Siêng tu Bát Nhã Ba la mật
Ðây là hạnh thắng tấn thấy thiệt
Tỳ Kheo các ông phải tu tập
Sẽ thành Vô thượng Lưỡng Túc Tôn
Công đức như núi lợi thế gian ».
Bấy giờ chư Tịnh Cư Thiên Tử biết vô lượng chúng sanh được an trụ Bồ Ðề ở trong Phật pháp không có nghi lự, họ đều vừa ý vui mừng đều riêng nói kệ vi diệu tán thán Phật công đức.
Tín Thí Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Xả thí vợ con yêu
Và xả thân được trọng
Ðến ngôi vua của cải
Tôi lạy đấng Ðàn Ðộ”
Lạc Trì Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Như Lai bổn trì giới
Tất cả không chấp trước
Ðược quả đến bờ kia
Tôi lạy đấng Giới Ðộ”
Lạc Nhẫn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Xưa Phật tu nhẫn nhục
Chịu được chặt tay chưn
Lòng không hề hối não
Tôi lạy đấng Nhẫn Ðộ”
Lạc Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðấng dũng kiện bất thối
Tinh tấn có đại lực
Ðã được thượng Bồ Ðề
Tôi lạy đấng Tấn Ðộ”
Lạc Thiền Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật bổn tu thiền định
Thế gian chẳng hay biết
Tam tế được bình đẳng
Tôi lạy đấng Thiền Ðộ”
Oai Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðại Hùng nơi Bát nhã
Tương tục mà tu hành
Chứng được vô tận huệ
Tôi lạy đấng Trí Ðộ”
Giới Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Bố thí và ái ngữ
Lợi hành cùng đồng sự
Tứ nhiếp độ chúng sanh
Tôi lạy đại Ðạo Sư”
Tịnh Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nơi đại từ bi hỉ
Ðêm dài thường tu tập
Dùng đây cứu quần sanh
Quy mạng Ðại Thuyền Sư”
Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:
Ðến được hạnh vô tranh
Ðiều tâm đại Mâu Ni
Ðiều được kẻ chưa điều
Tôi lạy Ðiều Ngự Sư”
Vô Cấu Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Tâm rộng tâm nhu nhuyến
Tâm điều và các căn
Biết tâm các chúng sanh
Tôi lạy đấng biết rõ”
Tịnh Ý Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðấng đầy đủ chánh niệm
An trị trong kiên huệ
Sáng suốt biết rõ ràng
Lạy đấng Giác Giác tha”
Trang Nghiêm Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Từ lâu tâm Phật tịnh
Cũng tịnh Phật quốc độ
Và tịnh quần sanh huệ
Tôi lạy Tịnh Pháp Vương”
Vô Thắng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Sở nguyện không bị hoại
Sức hàng phục ma oán
Mãn túc các nguyện lớn
Vui đẹp chúng chư Thiên”
Tốc Doanh Sự Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Như Lai mau biết pháp
Cũng chóng tịnh chúng sanh
Ðã thấy pháp khó thấy
Tôi lạy đấng Ứng Cúng “
Kiên Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Xứ xứ đều giải thoát
Lìa si không phiền não
Ðã đến ở bờ kia
Lạy đấng Kiên Cố Lực”
Lạc Oai Nghi Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ly dục không các lỗi
Trừ tối được lậu cận
Thắng phước điền cho đời
Thiện Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thế Tôn trụ chánh pháp
Ðược tam giới cúng dường
Một đường an ổn đi
Vì thế tôi kính lễ”
Vô Ðộng Thiên Tử nói kệ tán thán:
Chẳng bị gió làm động:
“Phật như núi tâm kiên cố
Chẳng bị gió làm đông
Chê khen thường bình đẳng
Vì thế tôi kính lạy”
Ðắc Bình Ðẳng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðại hùng sắc thù thắng
Ðủ ba mươi hai tướng
Có trí huệ lớn sâu
Tôi lạy Ðoan Chánh Trí”
Thâm Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðấng đại thân phi thân
An trụ pháp chơn như
Nói rõ nơi thiệt tế
Thế gian không ai bằng”
Vô Ðẳng Ngại Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Cứu cánh đồng bất nhị
Dũng kiện hay phục ma
Chẳng nghi nơi nghĩa sâu
Chiếu pháp đến bờ kia “
Hỉ Ý Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Hỉ Ý bổn dũng kiện
Sở học đều thông lợi
Bỏ lìa ba cõi ấy
Như rắn thoát da cũ”
Ðịnh Ý Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Như đèn trong nhà tối
Hết dầu nên mất sáng
Người trí dứt như vậy
Do nghe Phật pháp vậy “
Trụ Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Như Lai khắp quan sát
Bị dục nó trói buộc
Phật đoạn được lưới dục
Do cầm gương trí vậy”
Ða Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðịnh tâm và định hành
Ðịnh oai nghi cảnh giới
Phật diệt được phiền não
Tôi lạy đấng phục oán”
Vô Úy Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Học Phật xa ma tha
Bồ Tát được danh xưng
Vì chánh định dạo dẫn
Thành tựu định tâm Phật”
Ðịnh Thực Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Tịch diệt tất cả pháp
Của Ðại Hùng diễn nói
Ðấng Ðại Trí hiểu đó
Mau thành Phật Như Lai”
Thường Quán Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thường quán các chúng sanh
Ðều theo Như Lai học
Chứng được thắng Bồ đề
Ðầy đủ trí huệ lớn”
Trì Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật trí Ba la mật
Vì Bồ tát tu học
Thành bực đại oai đức
Thấy được vô lượng pháp”
Tạo Quang Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Người được bất tư quang
Sẽ được vui vô cấu
Chỗ Như Lai chiếu thế
Ðược nghe trí cảnh giới”
Vô Cấu Quang Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Các pháp vô phân biệt
Do thiện phương tiện vậy
Tu tập trí như vậy
Nên thành Diệu Trượng Phu”
Vô Sở Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vô trụ không xúc nhiễu
Các pháp không chỗ thấy
Chẳng thấy có tự tha
Phật y chơn thiệt thấy”
Trạch Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Các Pháp không quật trạch
Ðạo Sư thấy như vậy
Vì chúng sanh mà nói
Tùy thuận lấy pháp tướng”
Vô Y Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Các pháp vô sở y
Xa lìa nơi bỉ thử
Như Lai hiển hơn thiệt
Như am la trong tay”
Hư Không Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Biết pháp như hư không
Chẳng sanh cũng chẳng diệt
Phật thấy pháp như vậy
Nên lìa được thế gian”
Vô Tích Tụ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Không cầu cũng không mạn
Không giác không bất giác
Y chơn không tụ tánh
Là Phật thấy thế gian”
Tu Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Như nhà ảo thuật giỏi
Ảo hóa các thứ vật
Chẳng thiệt mà thấy thiệt
Nên Phật không ai bằng”
Hỉ Ngộ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Như hình tượng trong gương
Dầu thấy mà chẳng thiệt
Phật thấy pháp như vậy
Chẳng mẻ nơi thế gian“
Trừ nghi Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật như vang theo tiếng
Các pháp cũng như vậy
Nói nghe đếu chẳng thiệt
Là Phật thấy thế gian”
Vô Ngại Biện Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Người an trụ chánh pháp
Biện tài thuyết thâm diệu
Từ lâu Phật chứng pháp
Nên đầy đủ biện tài”
Vô Chướng Trí Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Y chơn không tự tánh
Tất cả pháp như vậy
Như Lai biết như vậy
Nên trừ được tối tăm”
Vô Ưu Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Không ưu cũng không não
Không tránh không nhiễu trược
Các pháp không cấu nhiễm
Phật thấy tánh chơn thiệt “
Hành Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Không lai cũng không khứ
Các pháp vô sở hữu
Như Lai chơn thiệt thấy
Vì đời nói như vậy”
Thắng Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Không nhiễm cũng không tịnh
Chẳng ngu cũng chẳng trí
Các pháp không năng sở
Phật thấu biết như thiệt”
Ðắc Vô Ngại Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chẳng sáng cũng chẳng tối
Chẳng sắc chẳng phi sắc
Chẳng được chẳng giải thoát
Phật huệ như thiệt thấy”
Dũng Mục Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chẳng cuộc cũng chẳng khắp
Chẳng không cũng chẳng có
Như mộng thọ ngũ dục
Phật thấy pháp như thiệt”
Bất Thuấn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chẳng sanh cũng chẳng diệt
Chẳng dừng ở trung gian
Mê đó là vô trí
Chỉ Phật thấy chơn thiệt”
Trụ Không Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chẳng nhơn chẳng chúng sanh
Chẳng dụng chẳng của đời
Theo thuyết nên có dụng
Phật hay thấy chơn thiệt “
Trụ Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Tất cả pháp được dùng
Nó đều không có tướng
Các pháp tánh tướng ly
Ðạo Sư thấy như vậy “
Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Do pháp không vô tướng
Thế nên chẳng khởi nguyện
Giả đặt có nguyện cầu
Chỉ Phật biết như thiệt”
Tam Muội Lưu Chú Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðã được môn giải thoát
Không có người giải thoát
Phiền não gốc cũng không
Phật thấy tánh chơn thiệt”
Vô Hủy Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Lìa bỏ tất cả ác
Họp những khối công đức
Nên Phật không bị chê
Cũng không có sự chê”
Ðiện Vân Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Dường như mây sấm chớp
Mưa xuống khắp mặt đất
Phật tuôn mưa chánh pháp
Sung túc các quần sanh”
Bất Ðường Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Lời của Phật vô thượng
Hay chuyển chánh pháp luân
Sáng thấu lý pháp sâu
Ðầy đủ Nhất thiết trí”
Cụ Trí Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Không sanh cũng không diệt
Các pháp tự tánh không
Vì Như Lai khéo biết
Nên dạy lại mọi người”
Sư Tử Hống Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai sư tử hống
Lúc din nói pháp không
Ngoại đạo đều kinh sợ
Như thú sợ sư tử”
Nghiệp Vô Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hiện tiền không phóng dật
Phật tu thành Bồ đề
Ðạo Sư nơi chánh pháp
Không dật đến bờ kia”
Trụ Vô Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán :
“An trụ chẳng phóng dật
Tăng ích Phật chánh pháp
Thập lực cũng công hạnh
Phật pháp bất tư nghị”
Vô Phóng Dật Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán :”
“Hội nơi không phóng dật
Trợ đạo được sanh thiên
Dùng đây cứu quần sanh
Phật cũng tự giải thoát”
Thành Vô Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Không dật được thành tựu
Các cõi nương giải thoát
Thanh văn và Bồ tát
Ðều từ đây mà học”
Bất Dật Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Bao nhiêu các Phật tử
Thường hành chẳng phóng dật
Hay được Nhất thiết trí
Vì khéo quán thế gian”
Vô Dật Hộ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Lúc Phật tu Bồ đề
Thủ hộ chẳng phóng dật
Ðến được thắng Bồ đề
Vì đại bi trang nghiêm”
Trụ Bất Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nếu trụ chẳng phóng dật
Giản trạch pháp nhứt tướng
Phật tử đại dũng kiện
Sẽ được sự nghiệp cha”
Lạc Bất Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Dũng kiện ưa chẳng dật
Hay phá núi phiền não
Ðây đồng dùng Phật trí
Mau dứt khối cao mạn”
Kiên Trì Bất Phóng Dật Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thủ hộ không phóng dật
Xưa cầu Nhứt thiết trí
A tăng kỳ ức kiếp
Phật tâm không mỏi mệt”
Xa Ma Tha Hiện Tiền Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Pháp tánh tự tịch diệt
Là cảnh giới chư Phật
Người trí y đó trụ
Hay đến thẳng Bồ đề”
Y Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chư Phật y xa ma
Y mà chẳng thủ trước
Chúng sanh phiền não diệt
Như mưa sạch bụi dơ”
Trụ Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chư Phật trụ xa ma,
Bất động như Thái Sơn
Thiên ma chẳng hoại được
Tâm tịch nên tôi lạy”
Xa Ma Tha Ðiều Phục Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Xa ma chỗ điều phục
Phật tử không chê bai
Ức ma chẳng động được
Ly dục như La hán”
Tu Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðại hùng xưa lúc tập
Xa ma tha đại định
Không ai biết tâm Phật
Y đâu được thiền định”
Xa Ma Tha Thượng Thủ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật chuyển chánh pháp luân
Liền được xa ma tha
Pháp khác đều y đó
Vì thế được Bồ đề”
Lưu Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật nói xa ma tha
Ðây là lồng lưới tâm
Chúng sanh xa ngục mê
Phật dạy hàng phục tâm”
Xa Ma Tha Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chư Phật diệu cảnh giới
Ðó là xa ma tha
Tu đây được vô ngại
Thành tựu đại Ðạo Sư”
Mãn Túc Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Dùng thiền sung mãn tâm
Rồi lại tu tập huệ
Nên Phật được Bồ đề
Lại hay an chúng sanh”
Trọng Xa Ma Tha Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chẳng thấy có đạo khác
Chỉ ở trong Phật pháp
Chứng được đại trí huệ
Thành bực Vô Thượng Sĩ”
Hân Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật y tỳ xá na
Hay thấy tất cả pháp
Bồ tát tùy thuần học
Thành tựu tự nhiên trí”
Sanh Tỳ Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Vì đến trí bờ kia
Nên thành đại Y Vương
Hiển thị bốn chơn đế
Ðều do tỳ xá na”
Trụ Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Trụ tì bà xá na
Như thiệt biết các pháp
Dũng kiện chứng Bồ đề
Hay thành đại Ðạo Sư”
Tu Tận Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðại Sĩ dùng trí huệ
Tu tập thắng Bồ đề
Chẳng sanh cảnh giới thức
Thành tựu đại Ðạo Sư”
Lạc Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người trí y chơn thiệt
Quan sát pháp như đây
Hay được quả vô đẳng
Thành Phật hiệu Ðạo Sư”
Cần Tập Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Do siêng tu trí huệ
Hay lập các khổ hạnh
Kia thành khó hàng phục
Chẳng bị tà đạo hoại”
Tì Bà Xá Ma Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Bao nhiêu các Phật tử
Do quan sát pháp tướng
Biết pháp tướng ấy rồi
Thành tựu Ðiều Ngự Sư”
Tu Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai nơi đêm dài
Tu tập thắng trí huệ
Hay thành Nhứt thiết trí
Ðộ thoát vô lượng chúng”
Thù Thắng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật tu Nhứt thiết trí
Thành tựu đại Ðạo Sư
Dùng pháp cứu thế gian
Vượt khỏi dòng nước xiết”
Trụ Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Trụ tì bà xá na
Quan sát tất cả pháp
Xuất sanh các Phật pháp
Ðất sanh cây Ni câu”
Trì Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thế Tôn các Phật tử
Nhiếp thọ thắng trí huệ
Ðược thượng Bồ đề rồi
Hay độ các chúng sanh”
Du Hí Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Du hí nói các pháp
Ðược Phật vô sở úy
Không khiếp cũng không sợ
Thắng trí đại mâu ni”
Tùy Thuận Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðại hùng nơi các pháp
Ðều hội tì xá na
Quan sát không tự tánh
Ðây là Phật Bồ đề”
Tì Bà Xá Na Kiên Cố Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chư Phật trí kiên cố
Nói pháp không chỗ sợ
Xem thấy quần sanh khổ
Hay khởi đại bi tâm”
Tì Bà Xá Na Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Do trí đến Bồ đề
Có trí hay khéo học
Phật được thắng Bồ đề
Ðộ thoát các chúng sanh”
Tu Không Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tu tập nói pháp không
Người trí ngộ Bồ đề
Phá hoại các lao ngục
Cũng độ kẻ bị trói”
Giải Không Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Vì Thế Tôn giải không
Nên chẳng thấy thân mạng
Không duyên không tự tánh
Y đây vì đời nói”
Không Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Cảnh giới của chư Phật
Các pháp tánh tự không
Ðại Hùng học trong đó
Vì thương cứu chúng sanh”
Tín Không Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai lìa xú uế
Bố úy khỏi đã lâu
Chẳng trước ở các pháp
Như gió không tựa đâu”
Lạc Không Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người tu tập pháp không
Hay ưa cảnh giới Phật
Tức là cúng dường Phật
Cũng thành vô thượng cúng”
Không Kiến Lập Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Do tu tập pháp không
Ðạo Sư hay kiến lập
Thông đạt pháp không rời
Thành tựu Thế Gian Giải”
Hướng Không Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật biết không một pháp
Chẳng là Niết bàn ấy
Các pháp đến Niết bàn
Ðây là Phật Bồ đề”
Không thành Tựu Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðã được không tịch định
Phật tử được thành tựu
Chúng ấy cúng dường Phật
Là người tu pháp không”
Thú Không Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Bao nhiêu người quy không
Có trí chẳng ngu si
Vô trược đoạn phiền não
Ly cấu được Bồ đề”
Mãn Túc Không Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật pháp được mãn túc
Thành tựu khó hàng phục
Bao nhiêu người tu không
Hay lợi ích thế gian”
Trụ Không Thiên Tử nói kệ tán thán :
“An trụ trong Phật pháp
Người hay tu không trí
Vô lượng các ma chúng
Chẳng động được chúng ấy”
Lạc Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Mừng ưa nơi vô tướng
Chẳng trước trong hữu tướng
Giản trạch các pháp rồi
Phật hay siêu thế gian”
Vô Tướng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Lúc tập hành vô tướng
Thanh tịnh tịch diệt hạnh
Ly tướng chúng sanh thảy
Ma chẳng biết chỗ họ”
Vô Tướng Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Vô tướng Phật cảnh giới
Như Lai tu trong ấy
Vô tướng khó chứng hiểu
Tôi lạy đấng định hành”
Khát Lạc Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tất cả đại chúng đây
Khát Ba pháp vô tướng
Mong cầu Phật Bồ đề
Cúng dường Thiên Nhơn Sư”
Tu Vô Tuớng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai nơi vô tướng
Ngày đêm thường tu hành
Trời Người và quỉ thần
Chẳng biết chư Phật đến”
Vô Tướng Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðại Hùng trụ vô tướng
Tư lương tất cả pháp
Ðạo Sư chỗ tu học
Vì thế tôi kính lạy”
Vô Tướng Du Hí Thiên tử nói kệ tán thán :
“Ðại từ hiện du hí
Thượng y pháp vô tướng
Vì thành thục chúng sanh
An trụ trong Phật trí”
Vô Tướng Thành Tựu Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người khéo tu ly tướng
Hay được Phật Bồ đề
Cũng hay cúng dường Phật
Như con kính mến cha”
Cửu Lạc Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người mến Phật chánh pháp
Tức là tháp chúng sanh
Bao nhiêu người ly tướng
Ðược ở chỗ của Thầy”
Vô Tướng Ðạo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chúng sanh những chỗ về
Y đạo được tế độ
Vô trước tịch diệt hạnh
Như Lai tối vô thượng”
Tín Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người tin hiểu vô tướng
Tịch diệt lìa các oán
Tôi lạy tất cả Phật
Ðấng tự độ độ người”
Thú Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thế Tôn có những nguyện
Cầu tìm bất khả đắc
Chúng ấy lìa sở tác
Là Phật xuất thế gian”
Tu Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nơi có chẳng khởi nguyện
Tu hành tâm tịch diệt
Dứt trừ dây khát ái
Là Phật lìa thế gian”
Vô Nguyện Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người được đại tinh tấn
Nơi có lìa khát ái
Những Như Lai tử ấy
Ðều lạy cha của mình”
Tùng Vô Nguyện Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chúng ấy chẳng khởi nguyện
Nơi có mà phá có
Dứt rời được dây ái
Phật tử lìa chê bai”
Vô Nguyện Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Vô nguyện được giải thoát
Chẳng cầu lìa trói buộc
Buông bỏ chẳng khởi nguyện
Phật tử giữ oai đức”
Xuất Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Xuất ly đồng hoang ưu
Nhổ đứt gốc ái nhiễm
Chúng ấy lạy Như Lai
Ðồng trừ được đói khát”
Tất Ðịnh Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người khéo biết hữu khổ
Biết thế lạc hư vọng
Phật là cha chúng ấy
Họ là con Ðại Sư”
Hướng Vô nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người nơi hữu thấy khổ
Người ấy được điều phục
Tôi lạy khéo điều phục
Phá hữu Ðiều Ngũ Sư”
Siêu Vô Nguyện Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Vượt khỏi đồng hoang hữu
Ðược ở chỗ an ổn
Khắp lạy đại Ðạo Sư
Ðã phục phiền não oán”
Bị Vô Nguyện Khải Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chiến thắng phá oán địch
Kẻ tối cường khó phục
Hàng các ma chúng rồi
Dũng kiện chẳng cầu hữu”
Vô Nguyện Lực Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðại lực nơi giải thoát
Dứt được các dây ma
Các hàng Phật tử nầy
Xem ma như cỏ nhỏ”
Quán Thân Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Các hữu quán thân nầy
Họ hay mến Phật pháp
Không thân không tác giả
Chúng ấy tùy thuận pháp”
Niệm Thân Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Suy niệm nơi thân này
Dơ nhớp không thanh tịnh
Ðã biết thân như thiệt
Kính lạy đại Ðạo Sư”
Yểm Hoạn Thân Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Buộc niệm nội nơi thân
Xem thấy tướng bất tịnh
Họ lìa được thân khổ
Ðiều phục nên kính lễ”
Xả Thân Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Bỏ thân máu mủ nầy
Như rắn thoát da cũ
Kính lạy nơi phi thân
Là thân đại Như Lai”
Yểm Ố Thân Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chán ghét thân máu mủ
Chẳng sạch rất hôi dơ
Bỏ thân bất tịnh nầy
Quy kính Thiên Nhơn Sư”
Hoạn Thân Bì Lao Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thân hư rã đáng sợ
Phật tử cầu thanh tịnh
Chúng ấy đều lạy Phậ
Ðược tu thân chánh pháp”
Bố Thân Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Xem biết tứ đại nầy
Dường như rắn độc ác
Chúng ấy vượt khỏi thân
Kính lạy đại Ðạo Sư”
Kiến Thân Quá Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hiện tiền thấy thân lỗi
Là đượcc mắt trí tuệ
Chiếu rõ ba kiếp nầy
Người trí y Phật huệ”
Bất Lạc Thân Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Những ai chẳng ưa thân
Chẳng dựa ở pháp tướng
Không mắc nơi kiết sử
Chúng ấy lạy Ðiều Ngự”
Ư Hữu Khởi Oán Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nơi hữu tướng oán thù
Tu quán phá các hữu
Phật tử học như vậy
Sanh trí ngộ Bồ đề”
Hoại Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nơi hữu thấy lỗi rồi
Biết được diệt vô úy
Phật tử siêng cầu đạo
Ðược hưởng di sản cha”
Khí Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tu học bỏ các hữu
Thích ở đại Niết bàn
Tâm định lìa kiết sử
Tôi lạy đại Ðạo Sư”
Ðoạn Hầu Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Dứt trừ gốc rễ hữu
Chiếu suốt cõi Ðại Thiên
Các con của Thế Tôn
Sở học đều thông lợi”
Ðộ Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðã qua khỏi biển hữu
Cứu tế kẻ cô độc
Ở trong ba cõi nầy
Chúng ấy chẳng tại số”
Phá Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật tử người hành đạo
Phá được hết tam hữu
Họ đã cúng dường Phật
Vì giáo hóa chúng sanh”
Ư Hữu Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Giải thoát được dòng hữu
Cứu cánh trụ hậu tế
Ðại Hùng xuất thế gian
Kính lạy đấng đoạn hữu”
Diệt Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Diệt trừ gốc rễ hữu
Khỏi hữu đến bờ kia
Ðã đoạn nơi hậu thế
Thế gian không bằng Phật”
Trụ Hậu Tế Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai trụ hậu tế
Tịch diệt đến bỉ ngạn
Nhứt thiết trí độ hầu
Giác ngộ người chưa ngộ”
Ư Hữu Trụ Hậu Tế Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật trụ nơi hậu tế
Nói rõ nhơn ba hữu
Chẳng thấy có kiết sở
Sau được chẳng sanh hữu”
Ðắc Diệt Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Biết hữu không tịch rồi
Mở được nhơn ba hữu
Tinh tấn chẳng khiếp nhược
Tôi lạy đấng bình đẳng”
Ðộ Hữu Ðáo Bỉ Ngạn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Khỏi hữu đến bờ kia
Nhổ trừ nguồn gốc hữu
Cứu độ các quần sanh
Ðạo Sư thương tất cả”
Ư Thọ Vô Não Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nơi thọ không cống cao
Không tư cũng không lự
Thiền sự đều hiểu biết
Xem thọ như bóng nước”
Giải Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai biết các thọ
Bổn Lai không tự tánh
Chỉ phàm phu chấp trước
Như mộng thọ dục lạc”
Quán Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Có trí quán các thọ
Hay được nói thiện đạo
Chẳng sanh thọ vị lai
Như vậy thấy Ðạo Sư”
Ly Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Năng thọ và sở thọ
Phật thấy không tự tánh
Liền nói cho chúng sanh
Câu thậm thâm khó biết”
Quyết Ðịnh Tri Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Các thọ chỉ thế đế
Trong nhứt nghĩa không có
Như Lai nói chơn thiệt
Trừ dứt nghi thế gian”
Thiện Giải Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thế Tôn khéo biết thọ
Dường mây trong hư không
Ai mê người vô trí
Riêng có Phật thiệt hiểu”
Thông Ðạt Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai đạt các thọ
Hiểu thọ đến bờ kia
Biết thọ không ngã sở
Thuyết pháp là tối thượng”
Ðộ Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thế Tôn lâu đã khỏi
Biển ba thọ khó qua
Bỏ rời bùn lầy xấu
Phật trí hiện vô thượng”
Ðoạn Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðạo Sư nơi các thọ
Biết rõ xuất thế gian
Lìa khỏi bùn ô nhiễm
Chẳng trước chấp các hữu”
Tư Thọ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai niệm các thọ
Do thọ mà đời khổ
Chúng sanh phiền não trói
Phật trí chơn thiệt tánh”
Giải Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật tâm phục phiền não
Cũng hàng các ma oán
Y chơn không bị phá
Nên Phật hiệu Mâu Ni”
Thức Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật biết rõ tâm tưởng
Như nhà ảo thuật giỏi
Thuật ra các thứ hình
Nên Phật hiện Ứng Cúng”
Tâm Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðại Hùng đã tu hành
Dứt được tâm sở duyên
Ức kiếp a tăng kỳ
Tâm tánh bất khả đắc”
Nhiếp Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tháo động khó điều phục
Không thể mà ở hang
Phật đoạn tâm tốc tật
Nên được thọ cúng dường”
Giảng Trạch Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật đã giảng trạch tâm
Chúng sanh bị tâm trói
Phật biết được chơn thiệt
Như ảo sư dạy con”
Tu Tâm Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Sở hành tâm cảnh giới
Ðạo Sư quyết định thấy
Như mộng thọ ngũ dục
Làm mê kẻ ngu si”
Tâm Tự Tại Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðiều phục tác nghiệp rồi
Tâm không phân biệt sự
Như Lai thấy tâm tướng”
Tâm Dũng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nói rằng người tâm dũng
Hay phá chúng ma quân
Người dùng tâm thấy tâm
Quán tâm chẳng mỏi mệt”
Kiến Lập Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai quán chúng sanh
Người kiến lập nơi pháp
Dùng tâm biết được tâm
Họ là chơn Phật tử”
Ðịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Những người phục được tâm
Họ hay hành tịch diệt
Người ấy lìa trói buộc
Chẳng bị ma làm não”
Nhu Nhuyến Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tâm dũng kiện nhu nhuyến
Ðiều phục các chúng sanh
Những người ưa Phật pháp
Chẳng chấp trước dục lạc”
Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thiện tâm thích thanh tịnh
Suy gẫm mà tác nghiệp
Nghe Phật Chánh pháp rồi
Không còn nghi nghĩa sâu”
Trụ Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người tâm xu hướng pháp
Rất thích chẳng lui mất
Họ là chơn Phật tử
Ðã đến chỉ điều phục”
Tư Duy Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tư duy nơi pháp giới
Cảnh giới nơi cảnh một
Nhứt pháp giới thanh tịnh
Là chỗ học của Phật”
Pháp Giới Kiến Lập Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Pháp giới được kiến lập
Là tâm đại từ bi
Trụ được trong nhứt tướng
Họ là chơn Phật tử”
Pháp Giới Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thế Tôn nói pháp giới
Ðó là các Phật độ
Ðại sĩ chỗ sở hành
Trí ấy bất tư nghì”
Pháp Giới Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Pháp giới chỗ xuất sanh
Trí ấy khó nghĩ bàn
Chẳng nghi Phật pháp sâu
Cũng biết các căn tánh”
Nhập Pháp Giải Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người nhập thâm pháp giải
Hiểu pháp không gì bằng
Trí lực bất tư nghì
Cũng được các điều nguyện”
Pháp Giới Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðã được pháp vô úy
Là trụ chỗ an ổn
Có được sức biện tài
Không ai sánh bằng được”
Thiện Giải Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai hiểu pháp giới
Cũng đạt nhứt thiết trí
Thị hiện tướng pháp giới
Như am la trong tay”
Trụ Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thế Tôn trụ pháp giới
Thấy pháp chơn thiệt tánh
Chẳng y cũng chẳng ly
Chẳng thủ cũng chẳng xả”
Pháp Giới Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai hành pháp giới
Tịch tĩnh như hư không
Cảnh giới Ðại Mâu Ni
Kính lạy từ bi phụ”
Quy Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Theo nhiều thứ pháp môn
Thế Tôn nói pháp giải
Trong các pháp môn ấy
Không tâm cũng không sắc”
Pháp Giải Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thế Tôn nói tinh tấn
Biết được nơi pháp giải
Nhơn vì tu tinh tấn
Giác trí đến bờ kia”
Pháp Giới Sung Mãn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðại từ dùng chánh pháp
No đầy các thế gian
Người biết được pháp giới
Thì được trụ Bồ đề”
Triệt Pháp Giới Thiên Tử nói kệ tán thán ;
“Thế Tôn suốt thâm pháp
Nên hay quán thế gian
Biết rõ pháp giới rồi
Tôi lạy Thiên Nhân Sư”
Trụ Trí Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Xứ ấy trên tất cả
Trí Như Lai chứng được
Pháp giới và mười phương
Chỗ đi của Ðạo Sư”
Trụ Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Pháp giới là trụ xứ
Ðường được đi của trí
Trọn tất cả các pháp
Ðều hiểu là một tướng”
Tri Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thế Tôn biết pháp giới
Ðã làm một tướng tu
Chúng sanh các dục tánh
Phật cũng đều biết rõ”
Xuất Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Lấy được Nhất thiết trí
Gọi là hàng Phật tử
Ở chỗ pháp giới nầy
Chỉ trí biết được thôi”
Học Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người tu tập pháp giới
An trụ trong Bồ đề
Thấu được chỗ tự nhiên
Mau thành Phật Như Lai”
Phi Xứ Học Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người được thấy phi xứ
Hay thich Như Lai giáo
Ngàn ức chúng ma quân
Chẳng mê hoặc được họ”
Tri Phi Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thấy biết được phi xứ
Người trí được mừng vui
Chúng tôi tu chánh giác
Ức ma chẳng động được”
Thâm Mật Xử thiên Tử nói kệ tán thán :
“Khéo học chỗ thâm trí
An trụ trong chánh pháp
Cưỡi được ma Ba Tuần
Như xe đóng ngựa thuần”
Thiện Phi Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phi xứ thiện pháp giới
Tập học nơi nhứt tướng
Nếu ma mà não được
Phật nói không hề có”
Trụ Xứ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thị xứ và phi xứ
Chỉ bày người ngu si
Như Lai tự giác rồi
Lời nói dạy chúng sanh”
Thiện Thủ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nhơn ấy lấy được sự
Và tác nghiệp thuở xưa
Chỗ nhơn ấy tu nghiệp
Thế Tôn đều biết rõ”
Xảo Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tham dục và khuể si
Phật cũng biết nghiệp nhơn
Là nhơn là nghiệp ấy
Như Lai đều biết rõ”
Tri Ðương Lai Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Biết đời đương lai ấy
Chúng sanh sở tác nghiệp
Nhơn ấy sở tác nghiệp
Xứ ấy Phật biết rõ”
Tư Hiện Tại Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Khắp đến mười phương cõi
Chúng sanh nghiệp và nhơn
Xứ và nhơn nghiệp sự
Ðạo Sư đều biết rõ”
Lực Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hoặc nghiệp hoặc là nhơn
Xứ sở và xuất sanh
Như Lai đều biết rõ
Nên hiểu Thiên Nhân Sư”
Lạc Lực Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nhơn nghiệp và xứ sở
Trong quả báo ba cõi
Kia có sự sở tác
Như Lai đều biết rõ”
Lực Chư Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nhơn nghiệp sở tác sự
Báo nhơn và nhơn duyên
Xứ sở tánh tự ly
Là chỗ Phật không có”
Lực Cát Tường Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nhơn nhiệp sở tác sự
Xứ nhơn duyên thế đế
Quả báo được thọ dụng
Phật biết nó đều không”
Lục Duyệt thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nhơn nghiệp sở tác sự
Chỗ nhơn duyên tục đế
Phật tự biết rõ rồi
Nói nó không tự tánh”
Lực Du Hí Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nhơn duyên sở tác sự
Xứ nhơn duyên thế đế
Chẳng do tự tha sanh
Phật biết từ duyên khởi”
Lực Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nếu những nhơn duyên nghiệp
Và quả báo chỉ được
Thể tánh nó đều không
Phật nói như sư tử”
Tùy Thuận Lực Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nếu dùng nghiệp nhơn duyên
Tăng trưởng các quả báo
Ðấng Lượng Túc biết rõ
Vì thế Phật vô thượng”
Thuận Hành Lực Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tu tập pháp giới ấy
Tạo tác những nghiệp ấy
Sẽ lại được quả ấy
Phật nhãn thấy biết rõ”
Lực Khởi Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tu tập pháp giới ấy
Thành tựu tánh như vậy
Phật biết các chúng sanh
Như nhìn năm ngón tay”
Lực Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tu tập pháp giới ấy
Lại gặp bạn như vậy
Thân cận nhau như vậy
Thắng trượng phu biết rõ”
Lực Gia Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Gia trì nói pháp giới
Ðạo Sư biết rõ cả
Thân cận nơi các bạn
Thế Tôn đều soi thấy”
Quyết Ðịnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Giới ấy yếu kỳ ấy
Bạn ấy tương ưng ấy
Phật đều quyết định biết
Nên trừ được nghi hoặc”
Chánh Ðịnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Giới ấy tương tục ấy
Tùy chỉ ở thế gian
Chỉ làm và chỉ được
Thắng Nhơn đều biết rõ”
Học Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ở trong các giới ấy
Ðạo Sư trí biết rõ
Trí ấy thể tánh không
Thắng trí mới nói vậy”
Thừa Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tu tập pháp giới ấy
Tùy thời cơ ở đời
Phật đều biết như thiệt
Nên hiệu Vô Tỷ Thân”
Tùy Thuận Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tu tập pháp giới ấy
Tùy chỗ được công đức
Y nhơn và quả báo
Phật đều biết không dư”
Cộng Giới Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tùy chỗ tu pháp giới
Tùy đạo kia được hướng
Phật đều biết không thừa
Nên được người trí kính”
Trí Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tùy pháp giới tu tập
Tùy đạo ấy được hướng
Phật biết chúng sanh hành
Nên hiệu đấng học trí”
Hành Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chánh định và tà định
Cùng bất định chúng sanh
Ở trong ba khối này
Phật quyết định biết được”
Thừa Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nếu chánh định chúng sanh
Người kham đến Niết bàn
Phật là mặt nhựt sáng
Soi đời trí vô ngại”
Giải Thoát Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nếu có những chúng sanh
Trụ nơi khối bất định
Ðọa trong các ác đạo
Phật cũng dạy Niết bàn”
Lực Kỳ Hội Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật ấy chỉ giả danh
Lực trí cũng như vậy
Và tứ vô úy thảy
Chỉ có nghe ngôn thuyết”
Kiến Thiệt Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Không Phật không Phật pháp
Cũng không khối trí khác
Hiển thị nghĩa đệ nhứt
Như Lai biết như thiệt”
Lực Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Trụ nơi sức Phật pháp
Nhơn đây được vô úy
Tự tại tùy sở dục
Ðều là hàng Phật tử”
Pháp Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thế đế và chơn đế
Hiển thị hai đế nầy
Ở trong chơn đế ấy
Ngôn thuyết bất khả đắc”
Trí Tôn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Pháp ngôn thuyết đều khác
Pháp tướng cũng sai khác
Ngôn thuyết ấy vô tướng
Phật biết pháp tướng ấy”
Hành Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phi xứ chúng bất định
Hoặc hướng đến dị đạo
Tà định tất cả xứ
Mâu Ni đều biết rõ”
Tín Lực Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tu tập nơi giới ấy
Như khởi tâm tin ưa
Thấy tham cho là sạch
Mâu Ni đều biết rõ”
Bất Tịnh Thừa Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chẳng thiệt vọng phân biệt
Tăng trưởng tham dục giới
Tin thì đi đạo ấy
Mâu Ni biết như thiệt”
Từ Thừa Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chẳng thiệt vọng phân biệt
Tăng trưởng sân khuể giới
Tin thì đi đường ấy
Mâu Ni biết như thiệt”
Thừa Nhơn Duyên Ðạo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chẳng thiệt vọng phân biệt
Tăng trưởng ngu si giới
Tin thì đi đường ấy
Mâu Ni biết như thiệt”
Thùa Xả Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Có người sợ chẳng sống
Tăng trưởng lòng tật đố
Tin thì tập làm theo
Mâu Ni biết như thiệt”
Tập Cận Thiên tri Thức Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Gần bạn tốt bạn xấu
Trở lại tăng tịnh tín
Hoặc lại tăng ác nghiệp
Mâu Ni biết như thiệt”
Thức Kiên cố Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Lưu chuyển trong thế gian
Tùy giải được tu tập
Tùy thuận tin theo đó
Phật biết rõ không dư”
Hành Kiên cố Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Lưu chuyển nơi sanh tử
Tu tập hạnh như vậy
Tùy thuận tin nơi ấy
Phật biết rõ không dư”
Tín Căn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nếu có những chúng sanh
Tùy giới được tu tập
Phật đều biết rõ cả
Nên hiểu Trí Vô Ngại”
Căn Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật biết rõ các căn
Tùy theo phương tiện khởi
Phan duyên và cảnh giới
Tùy chỗ nhập như sanh”
Thừa Căn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thân bị khổ bức bách
Do tham trước khát ái
Ðoạn diệt những khát ái
Chỉ Phật trí hơn cả”
Căn Cảnh Giải Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Dạy chúng sanh hạ căn
Xa lìa nơi sắc ái
Dạy lợi căn quán sát
Là lời dạy của Phật”
Căn Thắng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hạ căn trụ không nhàn
Diệt được các tham dục
Chánh quán nơi khát ái
Lưỡng Túc Tôn biết rõ”
Căn Quyết Ðịnh Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nơi ái dục khởi trước
Phật quán vô sở đắc
Tri vô tri đều diệt
Nên gọi là thắng căn”
Bất Ly Căn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Xa lìa chẳng giận hờn
Là lìa đối trị sân
Là hạ căn sở hành
Phật biết chúng sanh dục”
Tín Căn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hành từ trừ sân khuể
Hay khởi trí chúng sanh
Họ diệt được sân khuể
Thế Tôn đều biết rõ”
Cầu Căn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chẳng sân không lỗi ác
Hành từ tánh tịch diệt
Tịnh uế bất khả đắc
Nên hiệu Thiên Nhơn Sư”
Căn Thuận Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hành nơi tà phân biệt
Vì người nói tà hạnh
Mê nặng không phương tiện
Phật thấy nên giải thoát”
Trí Khởi Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tham sân si phiền não
Thủ trước nơi sự việc
Trái nó thì được trí
Vô Thượng Sĩ biết rõ”
Ly Trí Ái Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tham sân và ngu si
Cùng cảnh sự sáng tối
Tánh nó bất khả đắc
Ðấng Lưỡng Túc biết rõ”
Trì Oai Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chúng sanh chỗ được trí
Tùy được trí nhiều ít
Theo đó thành trí khí
Ðức Như Lai biết rõ”
Cầu Căn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Dùng trí biết nơi trí
Xa lìa các phiền não
Thiên Nhơn Sư biết rõ
Nên tôi cúi đầu lạy”
Nhứt Hướng Lạc Căn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Quốc độ và thời tiết
Quan sát pháp phương tiện
Phiền não uế và tịnh
Phật biết nó đều không”
Trí Tràng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chúng sanh căn dục tín
Thượng trung hạ sai biệt
Phược giải và trí huệ
Ðều thấy vô giác tri”
Căn Tràng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Các căn thượng trung hạ
Phiền não trí và thọ
Ðiều phục chẳng điều phục
Phật nói đều vô tướng”
Tu Căn Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thiền giải thoát phiền não
Chánh thọ tam ma đề
Khởi thanh tịnh chúng sanh
Như Lai đều biết rõ”
Lực Tốc Tật Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Vì được thiền tịch diệt
Nơi các pháp tự tánh
Thảy đều biết rõ được
Nên hiệu Nhứt Thiết trí”
Lục Khải Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nếu pháp và tự tánh
Nói được nơi pháp nầy
Ðược như thiệt chánh thọ
Thì chẳng trước ba cõi”
Lạc Thực Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phiền não tà phân biệt
Phát sanh ra bốn thứ
Biết được nghiệp chỗ sanh
Nên hiệu đấng Vô Tỉ ”
Tri Lực Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Biết được pháp thanh tịnh
Ðối trị các phiền não
Hay tuyên nói nơi nghiệp
Nên hiệu Phật Vô Tỉ ”
Lực Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nơi thiền giải thoát khởi
Tam ma đề chánh thọ
Phiền não và thanh tịnh
Phật đều nói hư giả ”
Lực Sanh Khởi Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thiền giải thoát thanh tịnh
Tam muội và chánh thọ
Từ bất phóng dật sanh
Nơi đây Phật biết rõ ”
Lực Tăng Trưởng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðại hùng ở trong đây
Ðược nơi thiền khắp chuyển
Biết nhập xả vô ngại
Như gió thổi hư không ”
Tri Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nơi vô số ức kiếp
Ở nơi trong các cõi
Chẳng bị lỗi ô nhiễm
Nên hiệu Thắng Trượng Phu ”
Trụ Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nơi vô số ức Phật
Ðã từng tu cúng dường
Vì cầu đạo vô thượng
Do đó tôi quy y ”
Kiến Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Từng ở đời quá khứ
Nhiều thứ cúng dường Phật
Nơi các thứ biện tài
Thế Tôn đều được cả ”
Tiền Tế Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Xưa lưu chuyển thế gian
Như pháp học như hành
Từng thấy vô lượng Phật
Nên sâu hiểu được Pháp ”
Học Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chỗ chư Phật Pháp Vương
Ðại Hùng xưa tu hành
Ở bên Phật học rồi
Nên lạy đấng Biến Tri ”
Bổn Phương Tiện Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nơi vô lượng ức kiếp
Vô biên chư Phật hành
Tu hành thắng tinh tấn
Vì cầu Phật trí vậy ”
Bổn Phương Tiện Quyết Ðịnh Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tất cả pháp quyết định
Nhiều ức kiếp quan sát
Tất cả pháp không nhập
Chỉ nói duyên hòa hiệp ”
Tư Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nơi vô lượng ức kiếp
Ðạo Sư từng tu hành
Biết nơi xứ phi xứ
Nên hiện Thế Gian Giải ”
Giảng Trạch Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Trụ nơi xứ phi xứ
Quan sát nơi nghiệp nhơn
Giới căn thiền giải thoát
Phật đều biết rõ hết ”
Quan Sát Tiền Tế Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Quá khứ từng quan sát
Tăng trưởng sức trí huệ
Thập Lực đại hùng mãnh
Dùng trí quán thế gian”
Tiền Tế Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Ðại Hùng bổn tu hành
Biết tất cả chúng sanh
Tịnh hành bất tịnh hành
Nên trị được chúng sanh ”
Quan Sát Tiền Tế Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Trước quán nơi chúng sanh
Quá khứ chỗ sở hành
Tin ưa và cùng giới
Rồi sau trị chúng sanh ”
Tín Lực Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nay tôi tin Như Lai
Bất khả tư nghị kiếp
Quan sát bổn sở hành
Tâm đều vô sở trước”
Trí Tín Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nơi vô số ức kiếp
Suy Phật xưa sở hành
Không một ai có thể
Lường công đức Như Lai ”
Quán Hậu Tế Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai dùng Phật nhãn
Quán chúng sanh mười phương
Sơ sanh và già chết
Nhiều thứ nghiệp tương ưng ”
Học Hậu Tế Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nếu nhơn và với nghiệp
Tùy xu hướng Phật đạo
Mâu Ni đều biết hết
Nên hiệu Nhứt thiết trí ”
Thức Sanh Tử Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nếu chúng sanh dùng giới
Huân tập tạo các nghiệp
Chúng sanh và nghiệp tập
Phật biết rõ vô giác ”
Trí Sanh Tử Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Gần bằng hữu như vậy
Gây tạo nghiệp như vậy
Xu hướng đạo như vậy
Mâu Ni đều biết rõ ”
Sở Tu Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Biết được nơi sở tu
Tùy theo chỗ tác nghiệp
Tác nghiệp như vậy rồi
Như Lai đều biết rõ ”
Sự Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nương nơi sự như vậy
Tạo các nghiệp như vậy
Phật đều biết được hết
Ðều là cảnh giới Phật ”
Tri Sự Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tùy nơi sự chấp trước
Có được chỗ tạo tác
Vì Phật biết rõ các căn
Nên biết rõ nghiệp ấy ”
Trí Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hoặc trí hoặc cảnh sự
Phật biết nó vọng tưởng
Tùy nó như chấp trước
Phật cũng biết không dư ”
Tu Tác Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tùy chấp trước tạo nghiệp
Do nơi phiền não vậy
Phật đều biết rõ được nó
Nên được thế gian quy ”
Thú Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tùy thú như tạo nghiệp
Tùy nghiệp được quả ấy
Tùy sở duyên tác nghiệp
Phật nhãn đều biết rõ ”
Phan Duyên Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Biết được nơi sở duyên
Tùy duyên nghiệp thành thục
Nơi các thú thọ báo
Phật đều biết không mất ”
Tập Khí Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Biết ác nghiệp tập khí
Thiện nghiệp cũng như vậy
Biết quá khứ sở hành
Chúng sanh đến trong thú”
Nghiệp Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Biết được ba thứ nghiệp
Hiện vị và quá khứ
Chúng sanh ở trong thú
Trong ấy phàm phu mê ”
Báo Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Làm ít được báo nhiều
Làm nhiều được báo ít
Và biết nhiều í thảy
Ngoại đạo mê trong đó ”
Học Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Biết nơi nghiệp thiện báo
Cũng biết nghiệp sanh báo
Và biết nghiệp hậu báo
Phật nhãn đều biết rõ ”
Tri Hiện Pháp Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hoặc hiện đời tác nghiệp
Hiện tại được thọ báo
Phật đều biết rõ ràng
Phàm phu chẳng hiểu được ”
Tri Sanh Báo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hoặc tác nghiệp hiện tại
Ðời kế được thọ báo
Phật đều biết rõ ràng
Phàm phu chẳng hiểu được ”
Tri Hậu Báo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hoặc nghiệp nhiều ức kiếp
Rồi sau được thọ báo
Hoặc còn quá xa hơn
Như Lai đều biết rõ ”
Tri Nghiệp Bất Thục Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hoặc nghiệp được thọ tạo tác
Nghiệp duyên ấy chưa thục
Chưa được thọ quả báo
Như Lai đều biết rõ ”
Quán Nghiệp Vị Thục Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như Lai khéo quán nghiệp
Hoặc lúc nghiệp tương ưng
Sanh nơi các chúng sanh
Thảy đều hay khéo nói ”
Thiện Tri Nghiệp Thục Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nghiệp ấy hoặc thành thục
Hay thọ báo đương lai
Phật đều biết như thiệt
Cũng biết trí ấy không ”
Nghiệp Thục Quyết Ðịnh Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nhứt thiết trí rõ thấu
Nghiệp khinh và nghiệp trọng
Biết được chúng sanh dục
Nên được làm Thế Tôn ”
Tri Nghiệp Khinh Trọng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chúng sanh đến ác đạo
Theo nghiệp thấy như vậy
Nghiệp ấy hoặc khinh trọng
Người trí đều biết rõ ”
Tri Chúng Sanh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thấy chúng sanh sở hành
Và những nghiệp khinh trọng
Hùng mãnh tùy thuận biết
Ngoại đạo chẳng biết được ”
Quán Chúng Sanh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Quán nơi chúng sanh hành
Tuyên nói nơi nghiệp báo
Như cả nước sông Hằng
Ném muối chừng một lượng ”
Học Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hoặc thọ nơi tu nghiệp
Phật nói nghiệp cứu cánh
Cũng báo học vô học
Thắng Tiên đã tuyên nói ”
Lạc Phật Trí Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Phật nhãn chỗ thấy biết
Ngu trí trong ba cõi
Tùy nghiệp thọ được báo
Tôi đảnh lễ Phật trí ”
Thuyết Nghiệp Tận Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Chỗ sanh tử chúng sanh
Thế Tôn đại Ðạo Sư
Ðều biết rõ không dư
Nên lạy trí vô úy ”
Vô Sở Ðắc Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Hoặc nghiệp và sanh tử
Chỗ chúng sanh riêng đến
Báo ấy như cảnh mộng
Lưỡng Túc Tôn đều biết ”
Cầu Phiền Não Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Tham dục sân ngu si
Lưỡng Túc Tôn biết hết
Dường người mơ khát nước
Mơ uống nước mát trong ”
Ly Phân Biệt Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Từ nơi phân biệt sanh
Tham dục sân ngu si
Như chơi đùa trong mộng
Quy mạng đấng Thắng Thuyết ”
Diệt Phân Biệt Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nếu diệt được phân biệt
Thì gọi hết phiền não
Như mộng thấy mây tan
Thế Tôn hiển hiện đấy ”
Quan Sát Lậu Tận Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như mộng thấy trời mưa
Khởi lậu cũng như vậy
Ðại Hùng hay hiển thị
Nhơn duyên phát khởi lậu”
Quan Sát Mộng Tận Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như mộng thấy trời mưa
Khởi lậu cũng như vậy
Ðại Hùng hay hiển thị
Phàm phu mê sanh lậu”
Như Tự Tánh Tri Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như mẹ mộng sanh con
Sanh rồi con lại chết
Sanh mừng cũng sanh buồn
Phật thấy đời cũng vậy”
Tư Lương Mộng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như mộng thấy chặt đầu
Hết lậu cũng như vậy
Tự hiểu cũng dạy người
Tôi lạy đại Ðạo Sư”
Tu Tập Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Thấy pháp hay hiểu rõ
Như mộng gặp sự mến
Xa lìa nó chẳng thiệt
Như vậy vui thế gian”
Trí Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nghe nơi pháp Như Lai
Lấy pháp không tự vui
Như trong mộng nói mộng
Như vậy hiểu thế gian”
Hoan Hỉ Ý Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Người thiền định hay khiến
Trời Người thế gian mừng
Quan sát nơi các thú
Dường như tượng trong gương”
Quyết Ðịnh Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Nghe nơi pháp Như Lai
Như tiếng đờn không hầu
Ðộ Trời Người nghi hối
Nên tôi lạy Pháp Vương”
Ảo Hỉ Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như người làm ảo thuật
Mê hoặc các kẻ ngu
Người trí trọn chẳng mê
Vì biết ảo chẳng thiệt”
Trừ Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Quán tất cả thế gian
Như trong mộng làm ảo
Trong ấy tôi không nghi
Do nghe Phật pháp vậy”
Học Ảo Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Như ảo sư làm ảo
Từ nơi ảo chẳng mê
Vì biết ảo hư giả
Phật thấy đời cũng vậy”
Quán Vọng Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán :
“Vọng tưởng sanh thế gian
Ðại Ðạo Sư đều biết
Như tinh tấn niệm Phật
Trong mộng liền thấy Phật”
Diệt vọng Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chẳng phải sự sanh dục
Ðều do vọng tưởng khởi
Chẳng thiệt vọng khởi dục
Thế Tôn biết như thiệt ”
Thức Giải Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Như tiếng vang hang sâu
Vang ấy không có thiệt
Vì thế chẳng chấp trước
Quán thế gian như vậy ”
Thuyết Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Tiếng ấy không có thiệt
Mà trong ấy lắng nghe
Phật tuyên nói pháp ấy
Cứu vớt các phàm ngu ”
Như Thuyết Hành Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ở trong pháp biệt nghĩa
Chúng sanh vọng lấy khác
Người ta hành biết pháp
Trong ấy trừ nghi hoặc”
Thuận Nghĩa Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nếu nghĩa và pháp thiệt
Không có ai biết được
Không nói cũng không chứng
Mâu Ni nói thuyết ấy ”
Pháp Giả Danh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nếu nghĩa và pháp thiệt
Không có ai biết đưọc
Không nói cũng không chứng
Mâu Ni nói thuyết ấy”
Pháp Giả Danh Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phiền não cấu lậu tập
Ðều tưởng vọng phân biệt
Uế ô và thanh tịnh
Chỉ giả danh ngôn thuyết ”
Phân Biệt Thiện Xảo Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Tất cả chỉ danh tự
Gọi phiền não lậu thảy
Uế ô và thanh tịnh
Là lời dạy của Phật ”
Vô Y Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nơi ba cõi chẳng trước
Tâm ấy như hư không
Lìa ác thiệt phước điền
Tôi lạy tâm tịch diệt ”
Bất Hạ Liệt Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chẳng sắc chẳng không sắc
Chẳng dục chẳng Niết Bàn
Phật tâm vô sở y
Nó như là hư không ”
Vô Dục Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Lìa nơi dục giới ái
Sắc vô sắc cũng lìa
Giải thoát nơi tham si
Ðảnh Lễ đấng Ái Tận ”
Viễn Ly Ái Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ở trong có không có
Phật dứt hẳn xa lìa
Chẳng trước chấp ba cõi
Ðảnh lễ đấng Tự Tại”
Chướng Ái Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chướng che nơi ba cõi
Hành nơi trượng phu hành
Hay giải thoát chúng sanh
Quy mạng đấng Cứu Tế”
Giải Thoát Khát Ái Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Lìa xa các kiết sử
Sau đó hết sanh diệt
Thân tâm đều thanh tịnh
Ðảnh lễ đấng Bình Ðẳng”
Tri Tự Tánh Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðại Hùng hiểu tự tánh
Biết trong pháp không sự
Không phược cũng không giải
Ðảnh lễ đấng Kiến Thiệt”
Xuất Ứ Nê Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Xa lìa bùn ái dục
Cũng rời lìa các cõi
Không thủ cũng không xả
Ðảnh lễ đấng Vô Sanh ”
Thổ Khí Tư Duyên Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vứt cấu và tư duyên
Bỏ tội cũng xa ái
Lìa bỏ các chướng ngại
Quy mạng Ðại Ðạo Sư”
Khí Dục Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vứt bỏ lợi bất lợi
Vô trước hành quyết định
Ra khỏi nơi lưới ma
Ðảnh lễ đấng Vô Trước”
Lạc Lợi Ích Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Hoặc tự đạo tha đạo
Người xa lìa não nhiệt
Ðại Hùng thấy đạo ấy
Ðảnh lễ Vô Ngại Kiến ”
Ðắc Danh Xưng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Tương ưng cùng Phật trí
Người như thuyết như quán
Họ trừ được phiền não
Ðảnh lễ Thế Gian Giải”
Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Quyết định nơi các nghiệp
Không ai đương đối được
Sư Tử hống vô úy
Biển trí rống cũng vậy”
Nhứt Thiết Xứ Vô Sở Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Khéo độ tất cả xứ
Xa lìa các tên độc
Vô úy chẳng khiếp nhược
Tôi lạy đấng Tối Thắng”
Vô Sở Hí Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chẳng phải Trời Càn Thát
Ma Vương cùng Phạm Vương
Có thể nạn hỏi được
Nên Phật như sư tử”
Sư tử Du Bộ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật nơi pháp vô úy
Vì hiểu rõ các pháp
Vô ngại nên vô trước
Không ai nạn hỏi được”
Vô Bố Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Như sư tử ở rừng
Không hề có kinh sợ
Dẹp phục các cầm thú
Giữa rừng rống lớn lên
Thế Tôn rống như vậy
Kinh bố các ngoại đạo
Trời Rồng Càn Thát Bà
Chẳng thấy ai đối địch”
Nhứt Thiết Xứ Siêu Thắng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Tất cả trong ba cõi
Tất cả đều không có
Ai địch nổi nơi Phật
Vì thế tôi quy y”
Sư Tử Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðại trí thất tất cả
Nơi các pháp vô úy
Thế gian không ai bằng
Tôi lạy đấng Vô Úy”
Xứng Thuận Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Tự biết là chánh giác
Như pháp không nạn được
Thế gian đều không có
Ai có thể nạn được”
Trì Tạng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật làm sư tử hống
Mở bày các pháp tạng
Ức Phạm Thiên nghe nói
Ðều phát tâm Bồ Ðề”
Thuận Oai Nghi Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chứng ấy được lợi lớn
Người thuận Phật oai nghi
Pháp tâm Bồ Ðề rồi
Quyết làm Thắng Ðạo Sư”
Thuận Lạc Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðại chúng sanh thuở ấy
Ðược nghe Phật pháp rồi
Hay phát tâm Bồ Ðề
Quyết thành Diệu Trượng Phu”
Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðược nghe Phật dạy rồi
Thế gian không gì bằn
Ngàn muôn ức chúng sanh
Phát thắng Bồ đề tâm”
Thanh Tịnh Lưu Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nhơn Vương nơi đêm dài
Khéo tu tập Phật học
Nên thân Phật thanh tịnh
Ba mươi hai nghiêm tướng”
Vô Lậu Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vì Phật được vô lậu
Mà làm sư tử hống
Ðược núi thượng trí huệ
Không ai nạn hỏi được”
Thuận Chúng Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Trông ba cõi đều không
Trời Người A Tu La
Nói Phật lậu chẳng hết
Nên Phật đủ thập lực”
Xảo Tận Lậu Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Tất cả những lậu tận
Phật đều hết không thừa
Không ai vấn nạn được
Nên Phật là cha tôi”
Thường Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế gian chẳng thể có
Ai nạn được Pháp Vương
Rằng còn có phiền não
Nên là cha tự tại”
Tịch Diệt Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật đã dứt tham sân
Ngu si và tập khí
Cũng diệt ác nghiệp hành
Tôi lạy đấng tịch diệt”
Phương Tiện Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nếu dùng phương tiện quán
Dứt hết các phiền não
Phật trí đã đầy đủ
Nên tôi đảnh lễ Phật”
Phương Tiện Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðạo Sư chiếu thế gian
Xảo huệ không cùng tận
Nên dứt hết phiền não
Cũng dứt hết tập khí ”
Tu Tịch Diệt Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vì dứt các phiền não
Tập khí đều không thừa
Do đó Phật đại trí
Bất động vô sở úy”
Quán Ðạo Lý Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật dứt hết phiền não
Và dứt các tập khí
Chiếu sáng như đức Phật
Thế gian không còn sánh”
Ðoạn Sử Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật dứt các tập khí
Không có sự tanh hôi
Nên Phật Nhứt thiết trí
Huệ tối thắng trong trời”
Trụ Biên Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nay Phật tối hậu thân
Ðã dứt nhơn duyên sanh
Do vì hết các lậu
Nên Phật được vô úy”
Vô Lượng Trí Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðại Hùng dứt chủng tử
Ðốt cháy mầm khổ não
Khô rụi nhánh dây ưu
Tôi lạy đấng ly não”
Xuất Khanh Giản Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn Nhứt thiết trí
Ðã lìa hố vô minh
Phật hành đã được tịnh
Nên Phật được vô úy”
Ðộ Hữu Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðã độ biển sanh tử
Ðạo Sư việc làm xong
Cũng bỏ nơi bờ kia
Tự lợi được vô úy”
Nhập Niết Bàn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật đã được tịch diệt
Phá hết các phiền não
Nhẫn đến chút tập khí
Thế Tôn thảy đều không ”
Pháp Tràng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật dựng tràng chánh pháp
Xô gãy tràng kiêu mạn
Ðại Hùng đã hiển thị
Vô Lượng những pháp hạnh ”
Pháp Tánh Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Tánh cùng những trí biết
Mâu Ni đạt các pháp
Bạn lành của quần sanh
Tôi lạy biển Tối Thắng”
Pháp Sung Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Khát ưa nơi Phật pháp
Nên đuợc vô sở úy
Các Phật tử vô trước
Mà làm sư tử hống ”
Cầu Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vì cầu các pháp nên
Phật tử được phát tâm
Và thấy Phật vô úy
Có trí cầu Bồ đề ”
Kháp Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vì khát ưa Phật pháp
Nên nhiều ức chúng sanh
Nghe Phật vô úy rồi
Sâu pháp đại tinh tấn ”
Pháp Khởi Tinh Tấn nói kệ tán thán:
“Thấy Phật nói pháp thắng
Kiến lập nơi chánh pháp
Vô úy bố thí rồi
Phật tử cầu Bồ đề”
Trì Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Pháp được Thế Tôn nói
Thậm thâm khó thấy được
Phật tử được nghe rồi
Cầu Vô thượng Bồ đề ”
Vô Lẫn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thân mạng và của cải
Phật tử không lẫn tiếc
Nghe Phật sư tử hống
Ðều cầu diệu Bồ Ðề”
Vô Dị Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nghe Phật nói pháp rồi
Tâm tư không có khác
Ở chỗ Phật vô úy
Cầu pháp giữ luật nghi ”
Vô Dị Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nghe Pháp Vương hống rồi
Chẳng đến các dị lộ
Xa rời nơi hai thừa
Cầu Vô thượng Bồ đề ”
Cận Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thấy Phật sư tử hống
Phật tử được nghe rồi
Quyết được thắng Bồ Ðề
Sẽ thành thân Như Lai ”
Cận Biện Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ở chỗ Phật Thế Tôn
Ðược nghe biện tài rồi
Trong diệu pháp Như Lai
Rất sanh lòng mừng vui ”
Ðắc Biện Tài Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Lúc Phật hống vô úy
Nói pháp chẳng hủy được
Lòng tin ưa quyết định
Trọn không ý thối chuyển ”
Thường Hỉ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thập Lực hống vô úy
Bao nhiêu các Phật tử
Tất cả thời hoan hỷ
Tầm thuận cầu Bồ Ðề ”
Vô Khiếp Nhược Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thường mừng chẳng khiếp nhược
Thế Tôn các Phật tử
Ưa cầu thắng Bồ đề
Vì được nghe lời Phật ”
Vô Ngại Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chúng ấy tìm Phật tâm
Trọn chẳng có thối chuyển
Tâm mừng vui vi diệu
Vì nghe Phật khéo nói”
Xảo Tri Vô Biên Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Do vì tu chánh pháp
Khối pháp lành chẳng giảm
Ðạo Sư biết phi xứ
Chẳng sanh lòng nhàm đủ”
Xảo Thuyết Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Tu hành nếu pháp ác
Mà chẳng thối giảm đó
Thế Tôn biết phi xứ
Nên Phật vô sở úy”
Pháp Tánh Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Pháp ác thể tánh nó
Sẽ ô uế pháp lành
Nó chẳng ô nhiễm tâm
Phật biết là phi xứ”
Xảo Tương Ưng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Pháp ác và pháp lành
Hai thứ khác chẳng hiệp
Phật nói nơi nghĩa ấy
Nên Phật là Thầy tôi ”
Xảo Tri Thiện Bất Thiện Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðại Hùng đều biết hết
Các pháp chẳng tạp tụ
Vì vọng tưởng phân biệt
Trong pháp lành mà thối”
Như Thuyết Hành Mãn Túc Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Người hiện hành phiền não
Trọn chẳng sanh pháp lành
Vì chẳng sanh pháp lành
Nên biết chắc thối giảm”
Lạc Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nếu người ưa giải thoát
Mà tu hành pháp ác
Phật nói họ có chướng
Nên Phật Nhứt thiết trí ”
Tịnh Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Người lòng ưa giải thoát
Cần biết sự phiền não
Ðại Hùng nói pháp ấy
Nên Phật đáng thọ cúng”
Kiến Phiền Não Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ði ở trong phiền não
Mà chẳng biết phiền não
Họ chẳng biết chánh pháp
Thiện Thệ nói như vậy
Nếu nói làm việc ác
Mà chẳng thối pháp lành
Chẳng phải khí giải thoát
Lời Lưỡng Túc Tôn nói ”
Ðiều Phục Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Lìa dục lìa ồn náo
Cũng lìa sân si thảy
Như pháp được Phật nói
Phải nên tu như vậy
Phiền não với pháp lành
Ngu si chẳng biết rõ
Phật chẳng phải thầy họ
Ðại Tiên nói như vậy ”
Cần Tu Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật nói pháp đối trị
Ðể trừ phiền não vậy
Y theo trừ hết lậu
Không ai vấn nạn được ”
Hướng Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật nói pháp như vậy
Vì để dứt phiền não
Tu theo dứt hết hoặc
Không ai nạn vấn được”
Phương Tiện Tương Ưng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật là người thuyết pháp
Vì các chúng Thanh Văn
Tu hành theo được chúng
Không ai nạn được Phật ”
Thú Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật nói pháp như vậy
Vì muốn dứt phiền não
Tu hành theo diệt hoặc
Không ai nạn được Phật ”
Vô Úy Công Ðức Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vì để dứt phiền não
Phật nói bất tịnh quán
Hành theo diệt hết hoặc
Không ai nạn được Phật ”
Thiện Phát Tâm Tất Tu Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Từ tâm dứt sân khuể
Tu từ dứt được hoặc
Không ai nạn được Phật
Thế Tôn được vô úy ”
Tịnh Mục Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật nói tu trí huệ
Thì trừ diệt ngu si
Nếu tu huệ chẳng diệt
Không ai nạn được Phật ”
Diệt Giác Quán Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vì đối trị giác quán
Phật nói pháp tức quán
Tu theo dứt giác quán
Không ai nạn được Phật ”
Tôn Trọng Vô Tướng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vì dứt trừ ngô ngã
Phật nói không tịch diệt
Hành theo diệt ngã chấp
Không ai nạn được Phật ”
Tịnh Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thâm tâm tin thanh tịnh
Tất cả phiền não hết
Tu theo dứt phiền não
Không ai nạn được Phật ”
Thâm Giải Tưởng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðối trị và bạn đảng
Cầu tìm nơi phiền não
Người vô úy nạn Phật
Không bao giờ thấy có ”
Giải Dụng Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn chỉ danh dụng
Thử bỉ tận bất tận
Người vô úy vấn nạn
Họ cũng chỉ giả danh”
Ðiều Phục Thân Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Dùng trí khéo hiểu rồi
Thân nghiệp được lưu hành
Thế Tôn đều biết khắp
Nên hiệu Nhứt thiết trí”
Trí Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thân nghiệp rất thanh tịnh
Ðại Hùng đều không thừa
Ðấng thương xót quần sanh
Tôi lạy Thế Gian Phụ”
Thân Nghiệp Giảng Trạch Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Khéo giảng trạch thân nghiệp
Thương xót các chúng sanh
Chiếu thế mà tạo tác
Nên hiệu Thắng Trượng Phu”
Thiện Kiến Thân Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thân nghiệp được thanh tịnh
Ðạo Sư đều xem thấy
Thương xót các quần sanh
Nên hiệu Nhứt thiết trí”
Thiện Quán Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Khéo quán đưọc thanh tịnh
Thân nghiệp được tương ưng
Vì thương xót quần sanh
Thắng Trượng Phu du hành”
Thành Tựu Ngữ Ngôn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðủ công đức cam mỹ
Rời lìa lời dệt thô
Trí huệ vây quanh nhau
Như Lai thường diễn nói ”
Thời Ngữ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Y thời nghĩa tương ưng
Xa lìa sự vô ích
Lời Phật đều trung thực
Chúng sanh vui thọ hành ”
Thành Tựu Trí Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thương chúng sanh chẳng não
Thành tương ưng chẳng trược
Chẳng hư hoại nhơn quả
Phật vốn nói như vậy ”
Bất Tương Vi Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nhẫn đến vì thân mạng
Chưa từng có vọng ngữ
Vì thế Phật công đức
Nơi đời không chướng ngại ”
Thiệt Ngữ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật tu nhơn thiệt ngữ
Vì thế đời chiêm ngưỡng
Chí tâm ưa lắng nghe
Ðể được Phật pháp vậy”
Tùng Thiệt Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn do thiệt ngữ
Lần đủ thành Bồ đề
Các pháp chơn thiệt tánh
Thế Tôn đều biết rõ ”
Thiệt Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nơi các pháp hữu vi
Như tánh chơn thiệt thấy
Thế Tôn đều biết rõ
Các pháp chơn thiệt tướng ”
Giảng Trạch Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nơi mình và nơi người
Biết thân khẩu ý nghiệp
Bởi trí ấy thanh tịnh
Nên hiệu Phật Vô Ðẳng ”
Quan Sát Ý Nghiệp Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Pháp Vương tâm ý nghiệp
Bao nhiêu sự tư lương
Thương nhớ nơi chúng sanh
Nên tôi lạy Từ Phụ ”
Xảo Giác Quán Ý Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn chỗ tâm duyên
Tâm ấy đều điều thuận
Thương nhớ nơi chúng sanh
Tôi lạy đấng thương đời ”
Xảo Phương Tiện Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chúng sanh tâm sở duyên
Ý nghiệp chỗ khởi tác
Các thứ trí huệ sanh
Thế Tôn đều biết rõ ”
Giải Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ý nghiệp là Phật địa
Vì thương nhớ chúng sanh
Phương tiện trí thanh tịnh
Phật trí không thể tánh”
Xảo Trí Quá Khứ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật biết đời quá khứ
Nếu người chỗ tạo nghiệp
Giới nhẫn tấn định trí
Phật đều biết rõ cả ”
Quan Sát Quá Khứ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Quan sát quá khứ hành
Biết được nhiều ức Phật
Chỗ sở hành quá khứ
Vì cầu thắng Bồ đề”
Bổn Hạnh Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nhớ biết sự bổn hành
Ức kiếp a tăng kỳ
Phật tâm vô sở trước
Chỗ bổn hành của Phật”
Quan Sát Bổn Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:
“A tăng kỳ ức Phật
Ðạo Sư đều từng học
Xuất sanh tam muội lực
Thành các thứ Phật pháp”
Bổn Hành Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vô lượng a tăng kỳ
Ðạo Sư tam muội môn
Chỗ chư Phật quá khứ
Từng học cũng tu hành”
Quan Sát Bổn Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Trong sanh tử nhiều lỗi
Ứng cúng phi ứng cúng
Quán rồi độ chúng sanh
Ðộ thoát kẻ mù lòa ”
Yểm Quá Khứ Thế Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Kia đây ăn nuốt nhau
Cũng từng vui đùa nhau
Cùng giết hại lẫn nhau
Thế Tôn đều biết rõ ”
Tri Vị Lai Cảnh Giới Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðạo Sư thuở vị lai
Trí huệ được vô ngại
Chúng sanh tin nghiệp báo
Các loài Phật đều biết ”
Tùng Bổn Hàn Lai Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn nơi quá khứ
Trí huệ không chướng ngại
Thiện nghiệp tam ma đề
Lìa loài biết các loài”
Xảo Tri Vị Lai Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật nơi thuở vị lai
Trí huệ không chướng ngại
Chúng sanh chết và sanh
Nghiệp báo đều biết rõ”
Ly Hữu Pháp Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn vua ba cõi
Thuyết thắng trong ba đời
Phật trí thường vô ngại
Khéo biết cảnh giới hữu”
Dụng Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Chúng sanh chỗ nghiệp hành
Và sự thọ quả báo
Thứ ấy chỉ giả danh
Thế Tôn nói như vậy”
Quan Sát Hiện Tại Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn vua hiện tại
Trí huệ trọn vô ngại
Nơi vô số Phật độ
Mâu Ni đều biết rõ”
Hiện Tại Vô Úy Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn chánh quan sát
Ba đời đều bình đẳng
Cứu cánh vô sở hữu
Mê hoặc trí phàm phu”
Trí Vô Sở Trụ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðạo Sư thấy như vậy
Ba đời vô sở trụ
Bởi y nơi pháp tánh
Nên các pháp vô sự”
Giáo Tam Thế Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Quá khứ và vị lai
Ấm sanh tất bại hoại
Không sự không tự tánh
Ðạo Sư dạy như vậy”
Ý Vô Thức Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn nói vô trước
Thảy đều không bền chắc
Như ảo như dương diệm
Nói năng như tiếng vang”
Tam Thế Tự Tại Phú Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn nơi tam thế
Thường siêng thêm trí huệ
Biết các hành như ảo
Các căn vô sở trước”
Dục Ðáo Bỉ Ngạn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðại Hùng nơi đêm ấy
Ðược chứng đại Bồ đề
Thế Tôn tinh tấn dục
Ðến nay không thối giảm”
Dục Tác Tinh Tấn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Ðăng chỗ có dục
Thường chẳng có thối giảm
Các con của Thế Tôn
Rất ưa tinh tấn dục”
Kiến Lập Dục Tác Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn từ dục khởi
Như hoa sen trong nước
Chẳng bị đời ô nhiễm
Như sen ở trong nước”
Dục Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Dục và Thế Gian Phụ
Hai ấy gọi pháp giới
Chẳng hai không hai thể
Thế Tôn thảy đều thấy”
Tinh Tấn Sanh Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Do tinh tấn oai đức
Chứng được đại Bồ đề
Nơi pháp thị pháp phi
Trọn chẳng bỏ tinh tấn”
Niệm Cụ Túc Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật ở tất cả chỗ
Phát tâm đều tùy thuận
Nơi pháp thiện pháp ác
Phật niệm chẳng tổn giảm”
Nhiếp Tâm Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Phụ thường nhiếp tâm
Biết hành nghiệp chúng sanh
Theo chỗ họ tu hành
Mà vì họ thuyết pháp”
Kính Trọng Bát Nhã Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn biển trí huệ
Biên tế bất khả đắc
Dầu ức vô số kiếp
Phật nói cũng chẳng hết”
Học Giải Thoát Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Vô Ðẳng Phật Thế Tôn
Giải thoát chẳng tổn giảm
Giải thoát và người thoát
Phật tìm chẳng thể được”
Hội Giải Thoát Trí Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn đấng giải thoát
Tri kiến khắp giải thoát
Hiểu chơn thiệt chẳng giảm
Vì biết không tự tánh”
Quan Sát Thân Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật nơi Phật Nhiên Ðăng
Thường tu hành chơn thiệt
Ba nghiệp không lỗi lầm
Nên hiệu là Như Lai”
Thâm Hành Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Thế Tôn không lỗi lầm
Chẳng như chúng sanh khác
Biết các pháp tự tánh
Phật tự tánh chẳng mê”
Ðại Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Phật nơi nhứt thiết chủng
Tâm niệm chẳng mê hoặc
Niệm ấy thường hiện tiền
Ví như dầu đầy chén”
Tâm Bất Tán Loạn Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nhẫn đến thời gian ngắn
Tâm niệm chẳng tán loạn
Phật được pháp bất cộng
Chúng sanh đều chẳng biết”
Thiện Giải Trí Huệ Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Nếu có tư lương xả
Thiện Thệ không sự ấy
Thế Tôn bất cộng pháp
Ðức ấy bất tư nghì”
Siêu Nhứt Thiết Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ở trong ba cõi nầy
Biết tất cả pháp đó
Tất cả không bằng Phật
Nên hiệu Nan Hàng Phục”
Kiên Trì Thiên Tử nói kệ tán thán:
“Ðấng Vô Thượng Kiên Cố
Nơi pháp vô sở úy
Bằng đồng tất cả Phật
Giác ngộ kẻ chưa ngộ”.
Bấy giờ có tám ngàn người ngoại đạo Giá La Ca Ba Lợi Bà La Xà Ca thấy A Tu La nhẫn đến Tịnh Cư Thiên cúng dường được thọ ký, và nghe tiếng tán thán, họ sanh lòng hi hữu. Họ nghe pháp môn ấy, pháp mà họ chưa hề được nghe, họ sanh nghi tự bạch đức Phật rằng : « Thưa Cù Ðàm ! Chúng tôi nghe pháp mà từ trước chưa được nghe, nghe xong chúng tôi không thích Giá La Ca Ba Lợi Bà la Xà Ca ngoại đạo, cũng chẳng thích tại gia. Ở nơi pháp nầy, chúng tôi lại nghĩ lự chẳng kính tin, do vì từ trước chưa hề được nghe. Chúng tôi ở chỗ Cù Ðàm Sa Môn cũng có nhơn duyên, do nơi Cù Ðàm làm thần thông biến hóa như vậy, chúng tôi được thấy chư Thiên chư Thần được thân vi diệu, và thấy đại chúng qui phục Cù Ðàm rất đông , nên biết vì Cù Ðàm rất khéo thuyết pháp. Do đó ở nơi Cù Ðàm chúng tôi có chút lòng tin.
Cù Ðàm lại vì chúng trời Quảng Quả nói pháp rằng : « Tất cả pháp là Như Lai ». Nơi pháp thuyết ấy chúng tôi rất nghi lự : thế nào tất cả pháp gọi là Như Lai ?
Chúng tôi ở nơi Cù Ðàm sanh lòng tin như vậy : chỉ có Cù Ðàm biết được ý chúng tôi như vậy như vậy. Xin Cù Ðàm vì chúng tôi mà giải nói cho chúng tôi hiểu nghĩa của pháp ngữ ấy hầu được lìa lưới nghi ’’.
Ðức Thế Tôn bảo chúng ấy rằng : “ Nay Phật hỏi lại các ông, tùy ý các ông đáp ”.
Chúng ngoại đạo thưa : “ Lành thay Cù Ðàm ! Ngài có hỏi chúng tôi xin nói ”.
Ðức Thế Tôn hỏi: “ Các ông có biết thế nào thai nhập bụng mẹ chăng? ”.
– Thưa Cù Ðàm ! trong luận của phái tôi có nói ba thứ nhơn duyên hòa hiệp thai nhập bụng mẹ. Ðó là cha mẹ gần nhau sanh tham nhiễm nghĩ đến sự dục, do nghĩ mà hành dục nên thai nhập mà thành thai
– Nầy các ông ! Theo ý các ông thế nào, lúc cha mẹ nghĩ tưởng, tham nhiễm ấy có phải từ nơi tâm mẹ mà phát khởi chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! không phải.
– Nầy các ông ! Có phải từ mẹ nghĩ tưởng sanh khởi chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! Không phải.
– Nầy các ông ! Có phải từ nơi tâm cha phát khởi chăng?
– Thưa Cù Ðàm ! Không phải.
– Nầy các ông ! Có phải từ cha nghĩ tưởng sanh khởi chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! Không phải.
– Nầy các ông !Tham dục ấy của cha có vào bụng mẹ chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! Không phải.
– Nầy các ông ! Tâm người cha có vào bụng mẹ chăng ?
– Thưa Cù Ðàm !Không phải.
– Nầy các ông ! Sự phân biệt của cha có vào bụng mẹ chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! Không phải.
– Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ thân trời chết rồi xuống vào bụng mẹ chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
– Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ thân địa ngục chết rồi đến vào bụng mẹ chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
– Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ súc sanh chết rồi đến vào bụng mẹ chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
– Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ ngạ quỉ chết rồi đến vào bụng me chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
– Nầy các ông ! Thai ấy có phải từ thân A Tu La chết rồi đến vào bụng mẹ chăng?
– Thưa Cù Ðàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
– Nầy các ông ! Thai ấy có phải là phi sắc đến vào bụng mẹ chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
– Nầy các ông ! Thai ấy có phải là sắc đến vào bụng mẹ chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
– Nầy các ông ! Thai ấy có phải là thọ tưởng hành và thức đến vào bụng mẹ chăng ?
– Thưa Cù Ðàm ! Chúng tôi chẳng biết được.
Ðức Thế Tôn bảo chúng ngoại đạo : “ Nầy các ông ! Pháp ấy thậm thâm tịch diệt vi diệu
Khó lường, khó hiển thị được, chẳng phải cảnh giới tư lương, chẳng phải các ông biết được. Các phái ngoại đạo dị kiến dị nhẫn, ưa muốn dị chủng. Nơi pháp chẳng chánh thì tinh tấn tu hành, nơi trong dị kiến thì quyết định xu hướng.
– Nầy các ông ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn gặp được thiện tri thức thì ở trong pháp thậm thâm sanh được mắt sáng tỏ.
Ví như có người đau mắt lòa tối gặp được lương y chữa lành, họ do nơi mắt lành sáng ấy mà hiện đời được thấy những hình sắc từ trước chưa hề thấy.
Cũng vậy, nầy các ông ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn chẳng có đủ các căn tính v.v…, họ gặp thiện tri thức nên huệ nhãn thanh tịnh, do huệ nhãn nên thấy được thâm pháp.
Hàng ngoại đạo các ông từ đêm dài xa xưa bị tà luận dối phỉnh mà sanh dị kiến, ở nơi phi pháp lại cho là thiện pháp, nơi phi giải thoát lại cho là giải thoát, nơi phi xuất thế lại cho là xuất thế.
Thấy các ông tự hư hỏng lại làm các ông hư hỏng. Như có người mù bảo người mù khác rằng tôi dẫn anh đi. Người có trí nên biết hai người mù ấy chắc sẽ trụy lạc nơi phi đạo mà bị khổ.
Cũng vậy, nầy các ông ! Hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn thiệt chẳng phải Ðạo Sư mà tự xưng Ðạo Sư, thiệt chẳng phải chánh giác mà tự xưng chánh giác, thiệt chẳng biết đạo xuất thế mà tự xưng là biết, thiệt chẳng thấy đạo xuất thế mà tự xưng là thấy, thiệt chẳng biết chỗ cạn qua mà tự xưng là biết, thiệt chẳng phải giáo sư mà tự xưng là giáo sư, điều họ dạy bảo là tà giáo, là tá giác, là tà xuất, là tà đạo, chẳng biết chỗ cạn tự xưng là biết rồi đưa người , người được đưa qua trở lại càng khốn khổ hơn.
Nầy các ông ! Ví như kẻ chăn bò chẳng biết chỗ cạn lùa bầy bò xuống nước, đưa đến chỗ nước sâu giữa dòng bị khốn không ai cứu hộ. Ðó là do kẻ chăn bò chẳng biết chỗ nước cạn vậy.
Cũng vậy, Hàng ngoại đạo các ông chẳng phải Ðạo Sư mà tưởng mình là Ðạo Sư, người được độ trở lại bị khốn khổ.
Nầy các ông ! Phật là Ðạo Sư thiệt có khả năng hóa đạo, người được hóa độ đều chánh được độ. Phật là chánh giác lời nói chẳng hư, người được Phật giác ngộ đều được chánh ngộ. Phật là năng xuất lời nói chẳng hư, người được dạy xuất thì được chánh xuất. Phật thấy đạo dạy đường chánh cho người. Phật biết chỗ cạn lời nói chẳng hư , người được Phật độ thì được chánh độ. Phật biết pháp giáo hóa hay giáo hóa người. Phật biết Phật pháp hay giác ngộ người. Phật biết pháp xuất khiến người được xuất. Do vì Phật chánh kiến nên hay chánh chỉ bảo người. Phật biết chỗ độ qua được nên hay độ người, người được dắt qua đều được đường tốt.
Ngoại đạo các ông, người ưa giải thoát. Phật là Ðạo Sư nay ở trước các ông đây, các ông nên đến. Phật là chánh ngộ hiểu rõ pháp xuất ly, khéo thấy đạo xuất ly nên làm chỗ cạn qua.
Các ông nhứt tâm lắng nghe kỹ khéo suy nghĩ đều sanh ưa muốn chánh niệm hiện tiền tâm sẽ lưu chú phát cần tinh tấn, vì chưa chứng pháp khiến được chứng, vì chưa dến được pháp khiến đến được., vì xưa chưa hành đạo khiến tiến hành , vì xưa chưa đến chỗ khiến đến chỗ, vì chưa phục ma khiến hàng phục, vì xưa chưa tìm bạn khiến cầu bạn lữ, vì chưa được pháp phương tiện khiến được pháp phương tiện.
Nầy các ông ! Như Phật đã nói ba pháp hòa hiệp được thọ thai. Nay sẽ nói , các ông phải nhứt tâm nghe kỹ pháp môn thọ thai.
Nầy các ông ! Phật nói mẹ đó là quá khứ tác nghiệp ấy làm duyên. Phật nói cha , đó là quá khứ tác nghiệp ấy làm nhơn. Phật nói Càn Thát Bà, đó là nghiệp chiêu vời thức. Phật nói Ca La Lã, đó là nghiệp an trí. Phật nói bụng mẹ, đó là chỗ nơi mà nghiệp an trí thức. thức ở nơi bụng rồi thì sanh mạng được tăng trưởng lần lần lớn rộng.
Nầy các ông ! Vì như có thuốc rừng rậm nương đại địa mà được tăng trưởng lần lần lớn rộng. Cũng vậy, thức ấy vào bụng mẹ rồi tăng trưởng lớn rộng. Trong bụng mẹ ấy, hài nhi trưởng thành mới được sản sanh , sanh rồi lần tăng, đã được trưởng thành hành tánh thuở đời trước theo chỗ đã chết mà đến, chỗ sở hành quá khứ kia, quen tập phát khởi hiện tại đây. Cái ấy phải là trí mới biết , chẳng phải ngu rõ được. Kết bạn cùng ở thường quan sát luôn mới biết tánh ấy.
Các ông lắng nghe đây ! Người ấy nếu từ địa ngục chết rồi đến sanh trong loài người đây sẽ có tướng nầy mà người trí phải biết : tiếng họ ré lên ồ ề, như tiếng con la, tiếp gấp rút , tiếng kinh sợ, tiếng to tiếng nhỏ lòng thường sợ sệt, luôn luôn run rẩy nổi ốc dựng lông trong chiêm bao phần nhiều thấy lửa cháy lớn, hoặc thấy chạy trên núi, hoặc thấy khối lửa, hoặc thấy nồi chảo nước sôi trào, hoặc thấy có người cầm gậy gộc mà chạy, hoặc thấy thân mình bị mâu xóc đâm, hoặc thấy la sát nữ, hoặc thấy bầy chó dữ, hoặc thấy bảy voi dữ rượt, hoặc thấy mình chạy bốn phương mà không có chỗ nương về, lòng họ ít tin, không có thân hữu.
Nầy các ông ! Vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lượt bấy nhiêu, đây gọi là từ địa ngục chết đến sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được mà chỉ có trí mới biết.
Nầy các ông ! Người ấy nếu từ súc sanh chết rồi đến sanh trong loài người, họ sẽ có những tướng dạng nầy, mà người trí phải biết, họ ám độn ít trí lười biếng ăn nhiều, thích ăn bùn đất, tánh họ khiếp nhược, ngôn ngữ chẳng rành, họ thích làm bạn với kẻ ngu, ưa chỗ tối tăm , mến thích nước đục, ưa nhăn cỏ cây, ưa lấy ngón chưn đào khoét đất cát, ưa động đầu xua đuổi ruồi lằn, thường cất cao đầu ngáp nhai không, thường ưa có chưn tùy nghi nằm trên đất chẳng tránh ô uế, ưa ngửi không, ưa trần truồng, ưa dối trá, nói khác làm khác ưa nói thêm bớt, họ thường chiêm bao thấy lấy bùn trét lên mình, hoặc mộng thấy mình ở đồng ruộng ăn cỏ, hoặc mộng thấy mình bị rắn quắn, hoặc mộng thấy muình vào trong hang núi rừng rậm. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là từ súc sanh chết đến sanh trong loài người. Trí mới biết chẳng phải ngu lường được.
Nầy các ông ! Người ấy nếu từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người thì sẽ có các tướng sau đây mà người trí phải biết. Tóc họ vàng, giận trợn mắt nhìn, thường ưa nhịn đói nhịn khát, tham lam bỏn xẻn ghen ghét, ưa tham ăn tham uống, ưa nói lén người, thân nhiều lông, tròng mắt sáng đỏ, nhiều nghĩ tưởng các thức ăn, ưa muốn tích tụ chẳng muốn chia cho, chẳng thích thấy người lành tốt, thấy tài vật liền sanh lòng trộm cắp nhẫn đến được chút ít cũng liền mừng vui, thường cầu tài lợi, ưa ăn dơ, thấy người có của cải liền ganh ghét, lại ở nơi của người tưởng là của mình, thấy người thọ dùng thì tiếc lẫn, nghe nói ăn ngon thì lòng chẳng ưa, nhẫn đến nơi xóm nơi đường thấy trái cây rụng hay lúa đậu liền sanh lòng tham lượm hái. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật chỉ nói lược các tướng ấy, đây gọi là từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.
Nầy các ông ! Nếu người ấy từ A Tu La chết đến sanh trong loài người sẽ có những tướng sau đây mà người trí phải biết :
Họ cao ngạo ngã mạn, ưa giận dữ đấu tranh, oán hận chẳng quên, khởi tăng thượng mạng, thân họ to mạnh, mắt trắng như mắt chó, răng dài lộ ra ngoài, dũng kiện nhiều sức lực hay chiến trận, cũng ưa lưỡng thiệt phá hoại kẻ khác, lòng họ cao ngạo khinh miệt sách luận của người, người khác dầu biết mà họ khéo dùng lời lẽ kín sâu, họ cũng có trí lực và phiền não lực, thích tự dưỡng thân thể. Có vô lượng tướng cảnh như vậy nay Phật nói lược những tướng ấy, đây gọi là từ A Tu La chết đến sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.
Nầy các ông ! Nếu từ loài người chết rồi sanh trở lại trong loài người thì có những tướng như sau mà người trí phải biết : Người ấy hiền trực ưa gần người lành, chê trách kẻ ác, mến tiếc dang vọng nhà mình , đốc hậu thủ kín, ưa thích tiếng tâm và lời khen tặng, mến ưa nghề khéo, kính trọng trí huệ, có tâm tàm sĩ, tâm tánh nhu nhuyến, biết ơn dưỡng nơi các thiện hữu, lòng thuận không trái, ưa xả thí, biết người hay dở, giỏi quan sát người có ích hay vô ích, giỏi đối đáp lãnh hội ngôn nghĩa ấy, giỏi hòa hiệp cùng giỏi trái lìa, giỏi làm sứ giả tuyên truyền ngôn ngữ, nơi các thứ ngôn ngữ giỏi thông đạt ghi nhớ chẳng quên, cũng biết được thị xứ phi xứ. Có vô lượng tướng như vậy nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là người từ loài người chết trở lại sanh trong loài người. Chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.
Nầy các ông ! Nếu người ấy từ thân trời chết rồi sanh trong loài người sẽ có các tướng sau đây mà người trí phải biết. Người ấy đoan chánh thích thanh tịnh, hay mang vòng hoa và ướp hương thoa hương nơi thân, thích tắm gội, thọ ngũ dục thì chọn thứ đẹp tốt mà chẳng ưa thứ xấu, ưa âm thanh và ca vũ, thuần giao hữu với các thượng nhơn , chẳng kết bạn với hạ nhơn, ưa lầu các nhà cao phòng rộng, lòng từ hòa mỉm cười không giận, lời nói dịu dàng đẹp hay khiến người nghe đẹp dạ vui lòng, thích chuổi ngọc và y phục trang sức, thường ưa đi ra vào, bước đi thong dong nhàn nhã, làm việc chuyên cần chẳng biếng lười. Có vô lượng tướng như vậy, nay Phật nói lược các tướng ấy, đây gọi là người từ thân trời chết rồi sanh trong loài người, chẳng phải ngu lường được, chỉ trí mới biết.
Nầy các ông ! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn muốn siêu thoát các tướng ấy thì phải gần gũi thiện tri thức, thuận theo ý và làm theo chỗ làm của thiện tri thức. Thiện tri thức ấy sẽ thuyết pháp để họ được siêu độ.
Nầy các ông ! Người từ địa ngục chết sanh trong loài người ấy, trước đời địa ngục lúc họ làm thân người họ tạo những tội ác, vì họ sân khuể nên giết hại, do nghiệp giết hại ấy dắt họ đọa địa ngục thọ nhiều thứ khổ, sau đó sanh trong loài người vẫn còn tập khí.
Người ấy đã biết tướng dạng như vậy rồi cần phải tự biết là mình từ địa ngục đến sanh trong loài người. Vì bỏ lìa nhơn duyên địa ngục, người ấy phải tìm thiện tri thức. Gặp được thiện tri thức rồi cung kính thưa sự. Thiện tri thức ấy vì trừ nghiệp sân hại mà dạy nói từ bi và trợ đạo tương ưng từ bi. Do các pháp hành ấy trừ được tập khí tàn thừa nhơn duyên địa ngục của người ấy. Thiện tri thức ấy hoặc vì họ nói Thi la Ba la mật tương ưng từ bi để trừ tội ác sân hại cho người ấy. Lúc người ấy tu từ bi, sáu Ba la mật sẽ đầy đủ thêm lớn phước đức.
Nầy các ông ! Người từ súc sanh chết, sanh trong loài người, trước đời súc sanh, lúc làm thân người, họ thật hành quen tập pháp ngu si, do quen tập ngu si bèn làm ác nghiệp, do ác nghiệp ấy sanh trong loài súc sanh, ăn ở chung chạ lâu ngày với các súc sanh, hành động nghi thức súc sanh, nên nay làm thân người vẫn còn những tướng theo tập khí súc sanh. Người ấy phải tự biết sau khi thấy hành tưởng của mình, tôi từ súc sanh chết đến sanh trong loài người đây. Vì bỏ rời nhơn duyên súc sanh, họ phải tìm thiện tri thức. Vì trừ tập khí ngu si. Thiện tri thức dạy họ mười hai nhơn duyên. Do pháp nhơn duyên ấy mà trừ được ngu si. Thiện tri thức ấy hoặc vì họ mà dạy Bát Nhã Ba la mật, do đó ngu si thể tánh tự lìa dứt, bèn sanh trí huệ.
Nầy các ông ! Người từ ngạ quỉ chết đến sanh trong loài người, trước đời làm ngạ quỉ, lúc làm thân người, họ thật hành chứa quen pháp xan tham, do nghiệp lực xan tham sanh trong loài ngạ quỉ, cùng chung với các ngạ quỉ ăn ở, hành động theo nghi thức ngạ quỉ. Người ấy quan sát thấy hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn là ngạ quỉ chết rồi đến sanh trong loài người nầy. Vì muốn bỏ rời hành nghiệp ngạ quỉ, người ấy phải tìm thiện tri thức. Vì trừ nghiệp xan tham của người ấy nên thiện tri thức dạy họ pháp bố thí. Nhờ pháp bố thí mà nghiệp xan tham được trừ. Hoặc thiện tri thức dạy họ pháp trợ Bồ đề tương ưng với bố thí, hoặc dạy họ Ðàn na Ba la mật. Người ấy tu Bàn na Ba la mật mà được đủ sáu Ba la mật. Thiện tri thức hoặc dạy họ tất cả pháp đều bình đẳng. Người ấy tu pháp bình đẳng nên được đủ Bát Nhã Ba La mật. Vì tu Bát Nhã ba la mật nên lưu chú xu hướng Nhứt thiết trí.
Nầy các ông ! Người từ A Tu La chết đến sanh trong loài người, trước đời A Tu La, lúc làm thân người, họ làm nhiều căn lành mà kiêu mạn, do kiêu mạn mà tạo các nghiệp , do sức nghiệp kiêu mạn tích tập mà sanh trong A Tu La cùng chung ăn ở với chư A Tu La làm những nghiệp A Tu La. Từ A Tu La chết họ sanh trong loài người đây nhưng tập khí nghiệp A Tu La vẫn còn. Người ấy nghe pháp như vậy, quan sát hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn từ A Tu La chết rồi sanh trong loài người. Vì muốn bỏ rời hành nghiệp A Tu La nên người ấy phải tìm thiện tri thức. Vì trừ nghiệp kiêu mạn cho người ấy, thiện tri thức dạy họ thánh trụ xứ, do pháp môn nầy khiến họ trừ được nghiệp kiêu mạn. Hoặc dạy họ không pháp môn, do đây trừ được nghiệp kiêu mạn ngô ngã mà được trí vô ngã. Hoặc dạy họ nhơn duyên hòa hiệp mà có các pháp, do hòa hiệp mà có sở tác. Nếu không hòa hiệp thì không sở tác. Quan sát như vậy thì kiêu mạn và nghiệp đều tiêu trừ. Hoặc dạy các pháp nhứt tướng, tu theo đây thì được đủ Bát Nhã Ba la mật mau chứng Nhứt thiết trí trọn chẳng thối chuyển.
Nầy các ông ! Người từ thân người chết rồi lại sanh trong loài người, lúc đời trước làm thân người, họ tu hành tích tập mười nghiệp đạo lành, do nghiệp lực luôn luôn tu hành tích tập nghiệp đạo lành ấy mà lại sanh trong loài người đây. Người ấy nghe pháp như vậy phải tự biết rằng tôi vốn từ thân người chết rồi lại sanh trong loài người nầy. Vì muốn siêu tập khí nghiệp người , họ phải tìm thiện tri thức. Vì trừ tập khí ấy, thiện tri thức dạy họ vô thường tưởng để trừ tập khí. Hoặc dạy họ sanh từ lỗi khổ, Niết bàn rất vui. Nghe pháp ấy rồi, người ấy được nhàm sanh tử lỗi khổ mà ưa thích Niết bàn vui. Hoặc dạy họ sáu Ba la mật, do đó hoặc họ có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề. Hoặc dạy họ thiện phương tiện, do đó họ có thể kiên trì sáu Ba la mật mau chứng Nhứt trí trọn chẳng thối chuyển.
Nầy các ông ! Người từ thân trời chết rồi đến sanh trong loài người, trước đời làm thân trời, lúc làm thân người tu phạm hạnh bố thí trì giới đều mong phước báu tương lai. Tu hành tích tập thiện nghiệp như vậy dài lâu xong trọn, do nghiệp lực ấy sanh thân trời, cùng chư Thiên chung ăn ở quen nghi thức chư Thiên , từ thân trời chết, tập khí pháp hành chư Thiên vẫn còn, khi được thân người rồi, nghe pháp như vậy quan sát hành động của mình phải tự biết rằng tôi vốn quyết từ thân trời chết đến sanh trong loài người. Vì muốn siêu tập khí chư Thiên, người ấy phải tìm thiện tri thức. Thiện tri thức ấy dạy họ tu trì phạm hạnh chẳng cầu báo tương lai, dạy cho họ biết cầu phước báu là lầm lỗi, dạy rõ tịnh tu phạm hạnh không chỗ y trước thì được phước vô lượng. Dạy họ tu bố thí chẳng cầu phước báu, nói cầu báo là lỗi lầm, dạy rõ bố thí không chỗ y trước thì được phước vô lượng. Dạy họ tu trì giới chẳng cầu phước báu tương lai, nói cầu báo là lỗi lầm, dạy rõ trì giới không chỗ y trước thì công đức vô lượng. Hoặc dạy họ thiện xảo phương tiện, do đó người ấy có hành lục Ba la mật, đầy đủ lục Ba la mật mau chứng Nhứt thiết trí trọn chẳng thối chuyển.
Nầy các ông ! Người từ địa ngục chết đến sanh trong loài người phải nương tựa thiện tri thức để được nghe pháp tam thế chư Phật bình đẳng. Ðược nghe pháp bình đẳng rồi phải phát cần tinh tấn y thành ấp tụ lạc cùng đại chúng chung ở nơi đủ cả bốn bộ chúng cùng nhau luận lượng Phật pháp học vấn nạn đáp, pháp tam thế bình đẳng được hiện ra trước, hiểu tất cả pháp không có tự tánh. Do tu trí hiểu nầy mà phiền não lần trừ.
Nầy các ông ! Người từ súc sanh chết sanh trong loài người ấy phải nương tựa thiện tri thức gần gũi người đa văn, do gần người đa văn mà trừ lần ngu si. Người ấy dầu gần người đa văn và các kinh luận mà quán tưởng chẳng phải có. Người ấy quán tưởng chẳng phải có rồi tự nhiên hiểu chứng pháp không tự tánh, do đây mà pháp tam thế bình đẳng tự nhiên hiện tiền mau chứng Nhứt thiết trí chẳng có thối chuyển.
Nầy các ông ! Người từ ngạ quỉ chết sanh trong loài người ấy phải nương tựa thiện tri thức tu hành bố thí để trừ xan tham và làm các công đức. Do vì tu xả thí nên tâm họ chằng tich tụ, do đó pháp tam thế bình đẳng tự nhiên hiện tiền được nhứt tướng, tức là vô tướng. Người ấy do tu trí hiểu vô tướng nầy nên mau chứng Nhứt thiết trí trọn chẳng thối chuyển.
Nầy các ông ! Người từ A Tu La chết đến sanh trong loài người phải nương tựa thiện tri thức để cùng chiến đấu với phiền não ma, đó là kiêu mạn. Bấy giờ người ấy nên quán sát “ gì là mạn, ai mạn, ai bị khinh mạn, ai do mạn nầy mà khởi phiền não xứ, ai bỏ mạn ấy ?”. Suy tìm như vậy không có mạn để được, cũng chẳng thấy có ai nhiếp thọ mạn ấy. Người ấy do quán sát nghĩa như vậy nên không có mạn để được, không có người mạn, cảnh giới tương ưng với mạn cũng chẳng có được, cũng chẳng thấy có ai bỏ kiêu mạn. Quan sát như vậy, không một pháp có thể được. Người ấy lại quan sát như vậy : “Do ác nhiếp thọ tự phỉnh thân mình cũng phỉnh thân người ”. Lúc quan sát như vậy có thể thấy các pháp không có tự tánh. Do thấy các pháp đều không có tự tánh nên thấy pháp chẳng phải có, do chẳng phải có nên biết chẳng thành tựu, do biết chẳng thành tựu nên biết là chẳng sanh, vì biết là chẳng sanh nên biết là chẳng diệt, đã chẳng sanh diệt thì đó là bất khả thuyết. Nếu hiểu được bất khả thuyết thì nó chẳng phải quá khứ chẳng phải hiện tại chẳng phải vị lai tam thế bất khả đắc. Các pháp đã là tam thế bất khả đắc thì nên biết chưa hề có được có mất, đây là tất cả pháp bình đẳng. Do tất cả pháp bình đẳng nên biết tất cả pháp là chơn như bất biến bất dị, Như Lai cũng là chơn như bất biến bất dị, vì tất cả pháp tức là chơn như.
Do đó nên quan sát kiêu mạn được biết người ấy từ thân người đời trước chết rồi lại sanh trong loài người, vì họ có sức tập khí kiêu mạn. Nhẫn đến từ địa ngục chết đến sanh trong loài người do có tập khí kiêu mạn nên biết được tướng ấy. Nếu không tập khí kiêu mạn thì không thể nói được là người ấy từ thân người đến hay nhẫn đến từ trong địa ngục đến.
Nầy các ông ! Ðây gọi là trí huệ lìa rời kiêu mạn. Tướng ấy phải do đủ xảo phương tiện mới có thể biết được. Lại do Bát Nhã Ba la mật gia trì nên người ấy mới biết được ”.
Lúc ấy, tám ngàn người ngoại đạo được nghe đức Phật thuyết pháp liền được vô sanh pháp nhẫn. Chúng ấy được vô sanh pháp nhẫn rồi liền đứng dậy đảnh lễ chưn Phật. Họ đảnh lễ chưn Phật rồi đứng qua một phía khác miệng đồng lời nói kệ tán thán đức Phật:
“Ðạo Sư kiến lập sức trí huệ
Biết các đạo thú chẳng do người
Biết các chúng sanh đi các thú
Như thấy trái cây cầm trong tay
Do các kiến thủ trược thế gian
Thí như mây mù chướng hư không
Do đây bầy ngu thường lưu chuyển
Như bọn người mù lạc đường chánh
Thế gian là thường là vô thường
Lại nói cũng thường cũng vô thường
Lại nói phi thường phi vô thường
Họ như voi đui đi vào thành
Nói đời hữu biên hay vô biên
Nói cũng hữu biên cũng vô biên
Nói phi hữu biên phi vô biên
Do đây lưu chuyển như chim lồng
Lại nói tức thân là thần ngã
Hoặc nói ly thân có thần ngã
Bị vọng tưởng phân biệt trói buộc
như chim sa lưới lòng sanh khổ
Lại nói Trời Tự Tại hóa ra
Lại nói sanh chẳng phải do nhơn
Chúng sanh bị kiến thủ che lấp
Ví như mây mù che khuất trăng
Như trứng trong lồng nở ra chim
Theo các lỗ trống thường muốn ra
Chúng sanh bị kiến thủ làm ngu
Họ chẳng giải thoát như chim lồng
Lại để Phạm Vương và Thiên chúa
Lại để đồng hài và phụ nhơn
Lại để phương hải Tỳ Sa Môn
Như giặc bị bắt cầu thần linh
Dường như kẻ nghèo gặp chủ nợ
Cầu lập bảo chứng cùng chủ nợ
Như vậy người đời chấp kiến thủ
Ngu si cầu trời mong dục lạc
Phật thấy chúng sanh y chơn thiệt
Như thấy năm ngón trên bàn tay
Ở trong các thú chịu trăm khổ
Như bọn giặc cướp vào lao ngục
Với họ Thế Tôn lòng thương xót
Tu các đạo hạnh biết các thú
Thế Tôn đã dạy pháp xuất ngục
Như vua sanh trai phóng đại xá
Thương đời chẳng kể vô số kiếp
Tu các khổ hạnh được Bồ đề
Kiến thủ phá hoại bọn ngu si
Phật dạy cho họ được giải thoát
Do đây Thiện Thệ Thiên Nhơn Sư
Ở trong các pháp được tự tại
Chúng tôi kiến thủ nên lạc đường
Nơi kiến thủ Phật cứu chúng tôi
Do đây Thế Tôn có đại lực
Có đủ vô úy không oán đối
Giữa chúng đại hống như sư tử
Chúng tôi cũng nguyện được pháp ấy
Vì nó hay động cõi Ðại Thiên
Cũng dùng pháp ấy chiếu khắp chốn
Dùng nó thọ ký các chúng sanh
Cũng nguyện chúng tôi gặp gỡ họ”.
Ðức Thế Tôn biết chư ngoại đạo đã thâm tín nên hiện tướng mỉm cười phóng ánh sáng.
Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật :
“Phật thương thế gian hiện mỉm cười
Vì thấy các chúng ngoại đạo ấy
Ngưỡng mong Như Lai nói cớ cười
Phật hiện mỉm cười có nghĩa chi
Ðấng khéo hiểu nhơn chẳng không nhơn
Mà hiện mỉm cười phóng ánh sáng
Lành thay đấng hiện sáng mỉm cười
Ðại chúng chiêm ngưỡng mong Phật nói
Ðại chúng tại hội đều hoài nghi
Vì thấy Phật hiện ánh sáng cười
Tất cả đều như nhìn trăng tròn
Nhìn Phật chờ nói cớ mỉm cười
Ai tại hôm nay dâng cúng dường
Ai ngày nay làm vui từ phụ
Nay ai có được Phật công đức
Lành thay Ðại Trí xin diễn nói
Ðại chúng nghe nói chắc mừng vui
Ðều do ngoại đạo được thọ ký
Ngưỡng mong Ðạo Sư thương nói cho
Ở trong thừa nào họ đắc đạo
Lành thay Mâu Ni trừ chúng nghi
Do đây đại chúng được mừng vui
Một bề đến Phật không thối chuyển”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ kheo :
“ Lành thay Mã Thắng khéo biết giờ
Hay hỏi Như Lai hàng ma oán
Thương xót thế gian nói lời ấy
Hay hỏi Ðạo Sư Vô Thượng Sĩ
Phật sẽ nói sự hiện mỉm cười
Ông phải nhứt tâm nghe duyên cớ
Ông phải vui mừng nghe Phật nói
Nay nói nghĩa cớ Phật mỉm cười
Tám ngàn ngoại đạo đều điều phục
Bỏ các ác kiến trụ thiện kiến
Thấy thế gian bị kiến thủ não
Họ khởi bi tâm cầu Bồ đề
Tất cả kiến thủ đều được bỏ
Vì họ đã biết chánh kiến vậy
Từ Phật được nghe ký vô ngại
Họ đều ưa cầu Nhứt thiết trí
Chỗ Phật quá khứ được ký rồi
Cúng dường Ðại bi Lưỡng Túc Tôn
Ðầy đủ chỗ hai ức chư Phật
Ðể được lên Vô thượng Bồ đề
Chỗ Phật tu thí cũng chẳng thiếu
Tu trì tịnh giới tu thiền định
Tịnh tu trí huệ phát tinh tấn
Nơi c ác quần sanh tu nhẫn nhục
Thường tu tập sáu Ba la mật
Lựa chọn trí huệ cầu Bồ đề
Mã Thắng thỉnh hỏi đấng hàng ma
Phát tâm thích cầu Phật Bồ đề
Những khổ não ấy do đảng ác
Y chỈ trong chỗ có kiến thủ
Chúng ấy nay thấy Thắng Ðạo Sư
Bỏ các ác kiến đều không thừa
Do được thiệt hiểu lời Phật dạy
Tùy thuận Phật pháp khởi thâm tín
Họ có nhiều ức Phật vị lai
Ðều siêng cúng dường cầu Bồ đề
Ở đời vị lai kiếp Tinh Tú
Ðều được làm Phật đồng một hiệu
Hiệu Phổ Văn Phật danh tiếng lớn
Phật ấy đại trí độ thế gian
Quốc độ Phật ấy rất thanh tịnh
Nhiều thứ trang nghiêm không đâu bằng
Cõi ấy chúng sanh không ác kiến
Thuần cầu Bồ đề quả hiền thánh
Cõi ấy chúng sanh không ác thú
Thuở ấy cũng không tất cả nạn
Tất cả Phật ấy thọ mạng lâu
Ðồng trụ thế gian tám vạn tuổi
Chúng sanh nghe được danh Phật ấy
Ðều được bất thối thượng Bồ đề
Nếu những người nữ nghe hiệu Phật
Tất cả đều được thân nam nhi
Như vậy Thế Tôn đấng hàng ma
Ðã thọ ký cho chúng ngoại đạo
Tất cả Trời Người nghe thọ ký
Thảy đều mừng vui sanh kính tin”.
Bấy giờ Tịnh Phạn Vương và quyến thuộc thấy A Tu La nhẫn đến trời Quảng Quả cúng dường Phật được thọ ký, cũng nghe trời Tịnh Cư nói kệ tán thán Phật, lại thấy ngoại đạo cũng được thọ ký, nhà vua suy nghĩ rằng : Việc ấy hi hữu chẳng nghĩ bàn được. Ðức Thế Tôn rất khéo nói như vậy, tất cả thế gian rồi đều vui mừng.
Do ái luyến con trai mình nên Tịnh Phạn Vương đối với đức Phật tình ý rất ân cần. Ðức Thế Tôn nói với Tịnh Phạn Vương rằng : “Pháp của Phật nói, trước giữa sau đều thiện cả, nghĩa ấy sâu xa, vị ấy thuần thiện thanh tịnh không xen tạp thanh bạch không ô nhiễm, nói rõ pháp phạm hạnh. Những phạm hạnh gì ? Ðó là pháp môn phân biệt lục giới.
Nay vua nên lắng nghe khéo suy nghĩ sẽ vì vua mà nói ”.
Vua nói : “ Lành thay, nay tôi nghe kỹ xin Phật nói cho”.
Ðức Phật nói : “ Nầy Ðại Vương ! Gì là pháp môn phân biệt lục giới ?
Nầy Ðại Vương lục giới được nói đó là trượng phu, lục xúc nhập cũng là trượng phu, thập bát ý thức cảnh giới cũng là trượng phu.
Nầy Ðại Vương ! Cớ gì Phật nói lục giới tức là trượng phu ? Những gì là lục giới ? Ðó là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới và thức giới.
Nói rằng lục giới là trượng phu đó là đây vậy.
Cớ gì Phật nói lục xúc nhập gọi là trượng phu? Nhũng gì là lục xúc nhập ? Ðó là vì nhãn xúc nhập thấy các sắc, nhĩ tỷ thiệt thân cũng như vậy, nhẫn đến vì ý xúc nhập biết các pháp.
Nói rằng lục xúc nhập là trượng phu đó là đây vậy
Có gì Phật nói mười tám ý thức cảnh giới là trượng phu ? Gì là mười tám ý thức cảnh giới ? Ðó là nhãn thấy được sắc khả ý do ức
Tưởng phân biệt mà sanh tư giác, thấy sắc bất khả ý cũng ức tưởng phân biệt mà sanh tư giác, thấy sắc xả ý cũng ức tưởng phân biệt mà sanh tư giác. Nhĩ tỷ thiệt thân cũng như vậy. Nhẫn đến ý biết pháp khả ý, biết pháp xả xứ ý đều ức tưởng phân biệt.
Nói rằng thập bát ý thức cảnh giới là trượng phu đó là đây vậy.
Nầy Ðại Vương địa giới có hai thứ : đó là nội và ngoại.
Nội địa giới là trong tự thân được có những thứ cứng rắn có được có lấy như là tóc long móng răng da thịt gân xương tủy não ngũ tạng lục phủ đại tiện ngoại địa giới là ngoài thân có những thứ cứng rắn chẳng được chẳng lấy.
Nầy Ðại Vương ! địa giới trong thân, lúc nó sanh không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng không đi đâu.
Nầy Ðại Vương : Có lúc nữ nhơn tự phân biệt tôi là nư’ nhơn, thấy nam tử kia lại sanh phân biệt kia là nam tử, bèn sanh ý tưởng dục ưa muốn hòa hiệp mà sanh ái nhiễm nơi nam tử ấy.
Có lúc nam tử ấy tự phân biệt tôi là nam tử, thấy nữ nhơn kia bèn sanh phân biệt kia là nữ nhơn rồi sanh ái nhiễm.
Nam tử và nữ nhơn ấy đều sanh ái nhiễm mà cùng hòa hiệp. Do hòa hiệp mà có ca la lã.
Nầy Ðại Vương ! Nam tử phân biệt ấy và sự được phân biệt, cả hai đều bất khả đắc, nam tử và tánh nam tử cũng bất khả đắc, do đó chẳng tương tục mà sanh phân biệt. Phân biệt ấy tự tánh cũng bất khả đắc. Như phân biệt tự tánh bất khả đắc, hòa hiệp và hòa hiệp tư( tánh cũng bất khả đắc, ca la lã và ca la lã tư( tánh cũng bất khả đắc.
Nếu tự tánh bất khả đắc thì nó làm sao sanh được yết bồ đàm?
Nầy Ðại Vương ! Nhơn phân biệt mà sanh ra có thứ cứng rắn ấy. Thứ cứng rắn lúc sanh không có từ đâu đến.
Nầy Ðại Vương ! Có lúc thân nầy rốt cuộc làm tử thi. Tử thi cứng rắn ấy lúc biến hoại nó chẳng về phương Ðông cũng chẳng về phương Nam phương Bắc phương Tây bốn cạnh trên dưới.
Như trên ấy, đó là nội thân địa giới.
Nầy Ðại Vương ! Có lúc thế gian đây đều trống rỗng, lại sanh Phạm Thiên cung điện thất bửu. Tướng cứng rán của cung điện ấy lúc sanh không từ đâu đến.
Tướng cứng rắn của cung điện thất bửu trời Tha Hóa Tự Tại, trời Hóa Lạc, trời Ðâu Suất, trời Dạ Ma, trời Ðao Lợi, trời Tứ Thiên Vương, lúc sanh không từ đâu đến.
Núi Thiết Vi, núi Ðại Thiết Vi cứng rắn,lú sanh không từ đâu đến. Nhẫn đến núi Tu Di, khắp cõi tam thiên Ðại Thiên , tất cả thứ cứng rắn trong ấy, lúc sanh không từ đâu đến.
Ðại địa nầy dày một trăm sáu mươi vạn do tuần, lúc sanh không từ đâu đến.
Nầy Ðại Vương ! Có lúc thế giới nầy hư hoại. Lúc sắp hoại, đại địa hoặc bị lửa cháy nát, hoặc bị nước trôi rã, hoặc bị gió thổi tan. Lúc lửa cháy đại địa nầy cho đến khói tro không còn thấy, như dầu tô bị lửa cháy tan biến không sót thừa, như lấy muối bỏ vào nước tiêu tan hết cả. Lúc bị gió thổi hoại cũng không còn sót thừa, như gió mạnh tỳ lam thổi tan mất bầy phi điểu không còn sót thừa. Ðịa giới trong ấy lúc tan diệt cũng không đi đâu.
Nầy Ðại Vương ! Ðúng vậy đúng vậy, nội thân địa giới và ngoại thân địa giới, lúc nó sanh không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Lúc nó sanh cũng không lúc nó trụ cũng không. Sanh và trụ hai thời gian thể tánh đều không.
Nầy Ðại Vương ! Thủy giới cũng có hai thứ : nội và ngoại.
Nội thân thủy giới là những thứ nước, tánh nước, thể nước, hoặc nhuần, tánh nhuần, thể nhuần ở trong thân, như nước mắt, nước mũi, mồ hôi, nước miếng, mủ, máu, đàm, mỡ, tủy, sữa, tiểu tiện.
Ngoại thân thủy giới là những nước tánh nước thể nước và nhuần tánh nhuần thể nhuần mà thân chẳng được chẳng nhiếp.
Nầy Ðại Vương ! Thủy giới trong thân ấy, lúc nó sanh không từ đâu lại, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Như líc thấy người yêu thương thì trong mắt chảy nước mà lúc bị khổ trong mắt cũng chảy nước, lúc nghe pháp kính tin nước mắt chảy ra mà bị phong hàn cũng chảy nước mắt, lúc mắt nhặm đỏ cũng vậy.
Nước mắt ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng chẳng đi đâu.
Nầy Ðại Vương có lúc thủy giới trong thân tăng trưởng quá nhiều có thể diệt hỏa giới trong thân. Lúc hỏa giới ấy diệt, nó không đi đến đâu. Có lúc hỏa giới trong thân quá tăng thạnh hay làm khô cạn thủy giới trong thân. Lúc bị đốt cạn, thủy giới ấy đi không đến đâu.
Nầy Ðại Vương ! Hỏa giới và thủy giới trong thân ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đi đâu. Lúc sanh nó cũng không, thể tánh nó tự không.
Nầy Ðại Vương !Có lúc thế giới nầy hư hoại. Lúc thế giới nầy sắp hoại, trong không gian nổi lên ba mươi hai lớp mây đầy trùm trắp tam thiên Ðại Thiên thế giới đến năm trung kiếp mưa lớn không dứt, giọt mưa như tượng vương đái. Sau đó lại trải qua năm trung kiếp mưa thật to lớn, nước ngập đầy đến Phạm Thiên.
Nầy Ðại Vương ! Thủy giới to lớn ấy, lúc đầu sanh không từ đâu đến.
Nầy Ðại Vương ! Lại có lúc thế giới nầy hư hoại. Lúc sắp hoại, trong thế giới nầy có hai mặt nhựt xuất hiện, bấy giờ suối nguồn sông nhỏ đều khô cạn.
Kế đến có bốn mặt nhựt xuất hiện, bấy giờ nguồn nước của các sông lớn đều khô hết.
Kế đến có năm mặt nhựt xuất hiện, bấy giờ nước trong đại hải lần lần khô cạn từ một do tuần, lần lần khô cạn đến mười do tuần, trăm do tuần, ngàn do tuần, vạn do tuần, đến bốn vạn bốn ngàn do tuần đều khô cạn.
Bấy giờ nước còn thừa trong đại hải từ bốn vạn do tuần, lần lần còn ba vạn, hai vạn, một vạn, chín ngàn, tám ngàn đến còn một ngàn do tuần, lần lần cạn còn thừa chín trăm tám trăm đến một trăm do tuần, lần lần cạn còn thừa chín mươi đến còn mười do tuần, cạn lần còn thừa chín đến một do tuần, cạn lần còn thừa năm dặm đến mười đa la thọ , chín đến còn một đa la thọ, cạn lần cho đến chỉ còn vũng ướt như dấu chơn.
Bấy giờ trong đại hải chỉ còn chút tướng ẩm ướt như lúc tròi mưa thoạt ướt thoạt khô.
Lần đến lúc trong đại hải hơi nước chỉ còn thắm mặt ngón tay.
Nầy Ðại Vương ! Thủy giới ấy lúc lần lần diệt, nó đi chẳng đến đâu, mười phương đều không đến, lúc sanh nó cũng không, lúc trụ nó cũng không, lúc diệt nó cũng không. Tánh thủy giới ây bất khả đắc chỉ có riêng tác dụng thôi. Nhưng tác dụng ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ không có tướng để được. Nầy Ðại vương hỏa giới cũng có hai thứ : : nội và ngoại.
Nội hỏa giới là trong thân chỗ có hỏa, hỏa thể, hỏa tướngvà nhiệt, nhiệt thể, nhiệt tướng. Ðó là trong thân có hơi ấm nóng hay làm tiêu hóa thức uống ăn nhập vào số nhiệt độ ấy.
Ngoại hỏa giới là những hỏa, thể hỏa, tướng hỏa và hơi ấm nóng ở ngoài thân chẳng lấy chẳng thọ ấy.
Nầy Ðại Vương ! Có lúc ca la lã trong bào thai, thân nội hỏa giới tăng thạnh làm thủy giới lần kém nên ca la lã đặc lần cứng lần. Như,đồ kim khí do hỏa lực mà lần cứng rắn. Ca la lã cứng đặc thì gọi là yết bồ đàm. Yết bò- đàm do hỏa lực mà thành tên là ty thi ca. Ty thi ca do hỏa lực mà thành tên là kiên cố.
Kiên cố do hỏa lực mà thành mọc ra năm nhánh.
Ðúng vậy, nầy Ðại Vương ! Thủy giới ấy do hỏa giới thành thục như vậy như vậy. Thủy giới ấy lần đặc lần cứng mà thành khối thịt.
Nầy Ðại Vương! Lúc hỏa giới ấy sanh, nó không từ đâu lại, mà có thể đốt tiêu thủy giới.
Nầy Ðại vương ! Có lúc trong thân người hỏa giới lần diệt tận. Vì hỏa giới diệt tận nên đồ ăn uống không tiêu hóa mà người bệnh ấy không thể ăn uống được. Vì không ăn uống được nên ho”a giới diệt hết mà người bệnh phải chết.
Nầy Ðại Vương! Hỏa giới lúc diệt, nó chẳng đi đến mười phương. Lúc sanh nó cũng không, lúc diệt nó cũng không, mà hỏa giới ấy từ nào thể tánh nó tự không.
Nầy Ðại Vương! Có thời kỳ thế giới hư hoại. Lúc thế giới hoại hỏa giới ngoài thân tăng thạnh cháy đỏ suốt khắp cả tam thiên Ðại Thiên thế giới.
Nầy Ðại Vương ! Lửa ngoài thân ấy, lúc sanh không tưé đâu đến.
Nầy Ðại vương ! Lại có lúc khối lửa lớn ấy cháy khắp cõi Ðại Thiên rồi tắt. Lúc lửa ấy diệt, nó chẳng đến đâu, chẳng đến mười phương.
Nầy Ðại Vương ! Hỏa giới ngoài thân ấy, lúc sanh cũng không, lúc diệt cũng không, thể tánh nó tự không, chẳng phải có, chẳng thể được. Chỉ là riêng dụng, nhưng riêng dụng ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ.
Nầy Ðại Vương ! Phong giới cũng có hai thứ : nội và ngoại.
Gì là phong giới trong thân ? Trong thân mình và trong thân người được có phong giới bị thọ bị lấy, thể phong, danh phong, tốc tật, thể tốc tật,, danh tốc tật. Ðó là ở nơi tứ chi là phong, ở nơi tỳ vị là phong đi nơi năm vóc là phong, đi nơi lóng đốt chi phần là phong, hơi thở ra vào cũng là phong. Nói tóm lại, đi khắp trong thân thể đều là phong.
Có lúc phong giới trong thân ấy tăng thạnh tập hiệp có thể làm cho thủy giới khô khan, cũng có thể làm tổn giảm hỏa giới, do đó thân người không nhuận trạch cũng không ấm nóng, bụng phình trướng, tay chưn co cúng, các mạch máu căng đầy, gân nóng rút giựt rất đau khổ hoặc phải chết.
Nầy Ðại Vương ! Phong giới trong thân ấy, lúc sanh không từ đâu đến.
Nầy Ðại vương !Người bịnh phong ấy hoặc gặp lương y cho đúng thuốc hay nên bịnh phong dứt hết. Lúc phong giới ấy diệt, cũng không đi đâu. Lúc nó sanh cũng không, lúc nó diệt cũng không, thể tánh nó tự không.Gì là phong giới ngoài thân ?
Nầy Ðại Vương ! Ngoài thân được có , thân chẳntg thủ chẳng thọ, thể phong, danh phong, tốc tật, danh tốc tật, đây gọi là phong giới ngoài thân.
Nầy Ðại Vương ! Có lúc ngoại phong giới ấy tăng thạnh tập hiệp làm rụng lá gãy nhánh, gãy cây trốc gốc, lở non ngã núi, tan nátthành vi trần, cả cõi Ðại Thiên nầy bị gió mạnh ấy thổi lăn chuyển xoay tròn. Như thợ gốm lấy gậy xoay chuyển vòng khuôn, cõi Ðại Thiên nầy bị gió thổi xoay tròn cũng vậy. Như chút ít bột mịn bị gió thổi tan khó thấy được, cõi Ðại Thiên nầy bị gió mạnh thổi tan thành vi trần cũng khó thấy được . Như lúc có gió lớn lấy nắm đất rải theo gió bay tan khó thấy được, cõi Ðại Thiên nầy lúc bị gió mạnh thổi tan cũng khó thấy được như vậy.
Nầy Ðại Vương phong giới ngoài thân ấy, lúc sanh không từ đâu đến.Lại như đầu mùa hạ không gió cây cỏ khô héo.
Nầy Ðại Vương ! Ngoại phong giới ấy, lúc diệt nó không đi đâu.
Phong giới ấy lúc sanh cũng không, lúc diệt cũng không, thể tánh nó tự không.
Nầy Ðại Vương !Nội phong giới và ngoại phong giới ấy cả hai đều không. Thể tánh nó tự ly, tướng cũng tự ly, tánh cũng bất khả đắc, tướng diệt cũng ly.
Tại sao ? Vì phong giới ấy chẳng phải tác, không có tác giả vậy.
Nầy Ðại Vương ! Gì là hư không giới ? Nó cũng có hai thứ : nội và ngoại.
Gì là nội hư không giới ? Hoặc trong thân mình, hoặc trong thân người được thọ được lấy, đó là hư không, thể hư không, danh hư không, trong thân sanh ra ấy nhập vào số các ấm các xứ và các giới bao nhiêu những lỗ huyệt. Ðây gọi là nội hư không giới.
Gì là ngoại hư không giới ? Ðó là ngoài thân có chẳng phải sắc, rỗng không nhẫn đến không có lông nhỏ ấy gọi là hư không. Ðây gọi laé ngoại hư không giới.
Nầy Ðại Vương có lúc do nghiệp nhơn duyên nên sanh các nhạ-p. Các nhập ấy được sanh rồi vây quanh không giới, bấy giờ được gọi là vào số nội hư không giới.
Nầy Ðại Vương trong mỗi mỗi pháp như vậy suy cầu không một nhãn nhập có thể được, chỉ có tác dụng.
Nầy Ðại Vương do có gì mà không ? Vì địa giới thanh tịnh vậy. Như địa giới thanh tịnh nên không, thủy hỏa phong giới thanh tịnh nên cũng không như vậy, nó không từ đâu đến.
Nầy Ðại Vương ! Có lúc tất cả các sắc đều hoại diệt làm hư không. Tại sao ? Vì hư không giới vô tận vậy.
Nầy Ðại Vương ! Chỉ nội hư không giới an trụ bất động.
Như vô vi Niết bàn giới an trụ bất động, phải biết hư không giới khắp tất cả chỗ cũng vậy.
Nầy Ðại Vương !Như có người ở đồng hoang trống đào đất làm ao làm giếng. Ý Ðại Vương thế nào, hư không ấy từ đâu đến ?
– Bạch Thế Tôn ! Nó không từ đâu đến.
– Nầy Ðại Vương ! Nếu người ấy lấy đất đắp lại. Ý Ðại Vương thế nào, hư không ấy đi đến đâu ?
– Bạch Thế Tôn ! Nó không đi đến đâu. Tại sao ? Bạch Thế Tôn ! Hư không giới ấy không đến không đi. Tại sao ? Vì hư không giới ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ vậy
– Nầy Ðại Vương ! Ngoại hư không giới cũng bất động tánh nó không biến đổi. Hư không giới rỗng không chẳng phải là pháp có. Tại sao ? Vì hư không giới chẳng phải nam chẳng phải nữ vậy.
Nầy Ðại Vương ! Gì là thức giới ?
Như nhãn làm chủ phan duyên nơi sắc, vì đối sắc mà biết nên thức sanh ra hoặc biết được xanh vàng đỏ trắng các màu sắc, cũng biết được dài vắn to nhỏ các hình sắc. Tất cả những vật sắc mà nhãn thức thấy được ấy gọi là nhãn thức giới.
Cũng vậy, hoặc biết tiếng , biết hương, biết vị, biết xúc, hoặc biết pháp, hoặc biết sáu căn ssở duyên sở tri thì gọi đó là nhĩ thức giới đến gọi là ý thức giới.
Nầy Ðại Vương ! Lại thức giới ấy chẳng y nương các căn, cũng chẳng y nương nơi giới. Tại sao ? Vì chẳng phải địa tịnh sắc làm nhãn nhập, chẳng phải thủy hỏa phong tịnh làm nhãn nhập. Tại sao ? Chẳng phải địa giới thanh tịnh và các pháp khác làm nhãn nhập và người có đủ nhãn nhập, chẳng phải thủy hỏa phong giới thanh tịnh sắc và các pháp khác làm nhãn nhập và người có đủ nhãn nhập. Tại sao ? Vì các pháp vô tri vô liễu biệt vậy, không kham năng vậy, chẳng phải sơ trung hậu vậy, chẳng phải nội ngoại trung gian vậy.
Nầy Ðại Vương : Thức giới ấy biết cảnh trước rồi liền dứt mất chẳng còn sanh lại. Thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không chỗ đến.
Nầy Ðại Vương ! Gì gọi là nhãn nhập ?
Ðó là bốn đại chủng cấu thành sắc thanh tịnh. Các pháp thể tánh nếu là tự không, thì có gì là thanh , có gì là trược. trong các pháp không có tịnh uế thì sao lại ở trong các pháp mà thấy có tịnh uế.
Như vậy, nầy Ðại Vương ! Vì thế nên biết nhãnh nhạ-p quyết định thể tánbh cứu cánh không tịch, tiền tế hậu tế đều bất khả đắc. Tại sao ?
Vì vị lai chưa đến nên bất khả đắc, quá khứ đã diệt nên cũng bất khả đắc. Vị lai và sự vị lai bất khả đắc. Nhãn xứ ấy cũng bất khả đắc, vì tự tánh ly vậy. Nếu thể tánh bất khả đắc thì cũng không có được tánh nam và tánh nữ. Ðã không có tánh nam và tánh nữ thì nào có ngã ngã sở.
Nầy Ðại Vương ! Nếu có ngã ngã sở, đó là cảnh giới ma . Không ngã không ngã sở thì gọi là cảnh giới chư Phật Như Lai. tại sao ? Vì tất cả pháp ly ngã ngã sở vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như thiệt biết rõ nhãn nhập không, nhãn nhập tự tánh không, tại sao ? Vì nhãnh nhập ấy tướng nó bất khả đắc, thế nên nhãn nhập ấy thể tánh nó không tịch. Tánh không ấy ly tướng nhãn nhập, đây gọi là vô tướng. Ở nơi tướng không mong cầu nên gọi là vô nguyện. Ðây là ở nơi nhãn nhập ba môn giải thoát hiện ra trước.
Nầy Ðại Vương ! Gì là nhĩ nhập giới đến thân nhập giới ?
Nầy Ðại Vương! Tất cả pháp ấy đối ba giải thoát môn, hiện tiền quyết định đến pháp giới cứu cánh khắp hư không, chẳng gọi được, chẳng nói được, chẳng dùng được, chẳng chỉ được, không tranh luận, không ngữ ngôn, chẳng đo lường được.
Nầy Ðại Vương ! Ðem nhãn đối sắc gọi là điên đảo, nhĩ đối thanh, tỷ đối hương, thiệt đối vị, thân đối xúc, ý đối pháp, gọi là điên đảo. Vì thế các pháp gọi là ý cảnh giới.
Nầy Ðại Vương ! Nhãn nhập đối sắc qua thấy lấy dính có ba thứ ngại : ngó thấy cảnh thuận sanh ý tưởng ái luyến, nếu thấy cảnh trái sanh ý tưởng sân khuể, thấy cảnh trung dung sanh ý tưởng không tham không sân, năm nhập kia đối cảnh cũng có ba thứ ngại như vậy, nếu duyên cảnh thuận sanh tâm ái, duyên cảnh nghịch sanh tâm sân, duyên cảnh trung dung sanh tâm ngu hoặc. Cảnh giới như vậy là chỗ sở hành của ý. Vì ý đi khắp nên gọi là ý cảnh giới.
Nầy Ðại Vương ! Ý ấy hành nơi sắc thuận thì sanh tham dục, hành nơi ssác trái thì khởi sân nộ, hành sắc trung dung thì khởi ngu si. Như vậy, ý hành nơi thanh hương vị xúc cũng đều có ba sự khởi tham sân si. Nghĩa là ý duyên cảnh thuận ý pháp sanh tham dục, ý duyên cảnh trái ý pháp sanh sân khuể, ý duyên cảnh trung dung ý pháp sanh khởi vô minh ngu si.
Nầy Ðại Vương !Phải như vậy mà biết nơi các căn dường như ảo hóa, biết cảnh giới ấy như mộng.
Nầy Ðại Vương ! Như người trong mộng cùng các thể nữ và đại chúng vui vầy. Người ấy sau khi thức dậy ghi nhớ sự việc trong mộng nào đại chúng nào các thể nữ. Ý Ðại Vương thế nào, sự việc được thấy trong mộng có thiệt chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Không có thiệt
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy đang lúc ở trong mộng cho là thiệt, có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Không phải trí. Tại sao ? Ðại chúng và thể nữ được thấy trong mộng cứu cánh là không, cũng là bất khả đắc, huống lại cùng nhau vui vầy. Người ấy chỉ tự khổ nhọc, trọn không có thiêt.
– Nầy Ðại Vương ! Các phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy sắc khả ý, mắt thấy sắc rồi sanh lòng chấp trước, sanh chấp trước rồi khởi lòng ái trọng, khởi ái trọng rồi sanh tâm nhiễm trước,sanh nhiễm trước rồi làm nghiệp trước, đó là thân ba nghiệp, khẩu bốn nghiệp và ý ba nghiệp, tạo nghiệp rồi liền dứt mất, nghiệp ấy dứt rồi nó chẳng y nương
Ở mười phương, nghiệp ấy nhẫn đến lúc lâm chung thức tối hậu diệt thấy việc từ trước hiện ra trong tâm tưởng.
Nầy Ðại Vương ! Người ấy, tự phần nghiệp dứt hết, nghiệp khác hiện ra, giống như từ mộng thức dậy rồi nhớ sự việc trong mộng.
Nầy Ðại Vương ! Như vậy, thức tối hậu làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy mà trong phần sanh thức tâm bắt đầu khởi hoặc sanh địa ngục, hoặc sanh súc sanh, hoặc sanh giới diêm ma la, hoặc sanh A Tu La, hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! không có một pháp nào từ đời nầy đến đời khác, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả ba 1o đều chẳng hư mất. Không có người tác nghiệp, cũng không người thọ báo.
Nầy Ðại Vương ! Lúc tối hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Nầy Ðại Vương ! Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng không đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt không đến đâu. Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức ấy, thể tánh hậu thức không. Duyên ấy, thể tánh duyên không. Nghiệp ấy, nghiệp thể tánh không. Tử ấy, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ, thể tánh thọ không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không.Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.
Nầy Ðại Vương ! Như vậy, tác nghiệp và quả báo không hư mất, không có người tác nghiệp, cũng không có người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã không có tướng thì cũng không có nguyện cầu gọi là vô nguyện giải thoát môn.
Nầy Ðại Vương ! Như vậy tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng với không đi chung, đường trước là Niết bàn, xa rời các tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương! Nên biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như người trong mộng đấu với kẻ oán thù. Người ấy thức dậy rồi ghi nhớ cùng kẻ địch đấu nhau. Ý Ðại Vương thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng?
– Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy ở trong mộng cho sự ấy là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Không phải là trí . Tại sao ? Vì trong mộng cứu cánh không có kẻ oán địch, huống là chiến đấu. Người ấy huống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mắt thấy sắc bát khả ái, lòng họ chẳng vui thích mà sanh chấp trước rội khởi tâm sân khuể làm cho tâm trược loạn mà tạo nghiệp sân nơi thân ba, miệng bốn, ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo xong liền dứt mất. Nghiệp ấy dứt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp ấy đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng.
Nầy Ðại Vương ! Người ấy thấy nghiệp ấy hiện rồi, lòng họ kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như lúc thức dậy nhớ sự trong mộng.
Nầy Ðại Vương ! Như vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên. Do hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm bắt đầu khởi, hoặc sanh địa ngục súc sanh ngạ quỉ, hoặc sanh A Tu La Nhơn Thiên. Thức trước diệt rồi, sanh phần thức sanh. Sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau nhưng mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng hư mất. Không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo.
Nầy Ðại Vương ! Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Nầy Ðại Vương ! Hậu thức ấy lúc khởi , nó không từ đâu đến, đến lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử cũng không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến , lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức ấy, thể tánh hậu thức không. Duyên ấy, thể tánh duyên không. Nghiệp á-y, thể tánh nghiệp không. Tử ấy, thể tánh tử không. Sơ thức ấy, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh ấy, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi , thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.
Nầy Ðại Vương !Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không nên là vô tướng giải thoát môn.Nếu đã vô tướng thì không có nguyện cầu nên gọi là vô nguyện giải thoát môn. Tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như có người ở trong chiêm bao bị quỉ nhiễu não lòng họ kinh sợ. Thức dậy, người ấy ghi nhớ quỉ trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, quỉ được thấy trong mộng có thiệt chăng?
– Bạch Thế Tôn ! Không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy ở trong mộng cho là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Không phải là trí. Tại sao ? Vì trong mộng quỉ còn không có huống là sợ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
– Nầy Ðại vương ! Cũng vậy hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mắt thấy xả xứ sắc lòng họ chấp trước rồi tạo nghiệp chấp trước nơi thân ba miệng bốn ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương.
Nghiệp ấy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã tạo từ trước hiện ra trong tâm tưởng.
Nầy Ðại Vương ! Người ấy thấy rồi lòng họ kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sanh ra, giống như thức dậy nhớ sự việc trong mộng.
Nầy Ðại Vương ! Như vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước diệt, sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không có người tác nghiệp và thọ báo.
Nầy Ðại Vương ! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ sanh gọi là sanh số.
Hậu thức ấy , lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, Thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không.Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không.
Nầy Ðại Vương ! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư , không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương !Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Nếu đã vô tướng thì không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng đi chung với không. Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như người trong mộng thấy nữ nhơn đoan chánh đệ nhứt trong nước, ở bên nữ nhơn ấy được nghe âm nhạc vi diệu khả ái. Người ấy gần nữ nhơn nghe âm nhạc thọ vui ngũ dục. Sau khi thức dậy, người ấy ghi nhớ âm nhạc vi diệu khả ái trong mộng. Ý Ðại vương thế nào, âm nhạc được nghe trong mộng có thiệt không ?
– Bạch Thế Tôn không thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Trong mộng người ấy cho là thiệt thì có phải là trí chăng?
– Bạch Thế Tôn không phải trí. Tại sao ? Trong mộng nữ nhơn và âm nhạc cứu cánh đều không huống là vui ngũ dục. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy nữ nhơn và nghe âm nhạc thích ý sanh lòng nhiễm trước rồi tạo nghiệp nhiễm trước nơi thân ba miệng và ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung , tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sinh ra , giống như thức dậy nhớ sự trong mộng.
Nầy Ðại Vương ! Như vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai nhơn duyên nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến trong Nhơn Thiên. Thức ấy diệt rồi sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báu đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.
Nầy Ðại Vương ! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc không từ đâu đến, lúc diệt cũng chẳng đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao? Vì tự tánh ly vậy. Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệpkhông. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không. Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả đều có đủ ba môn giải thoát môn cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! tai nghe ác thanh, sanh khởi ác tâm.
Nầy Ðại Vương ! Như người trong mộng thấy nữ nhơn đoan chánh đệ nhứt trong nước, ở bên nữ nhơn ấy được nghe âm nhạc vi diệu khả ái. Người ấy gần nữ nhơn nghe âm nhạc thọ vui ngũ dục. Sau khi thức dậy, người ấy ghi nhớ âm nhạc vi diệu khả ái trong mộng. Ý Ðại vương thế nào, âm nhạc được nghe trong mộng có thiệt chăng?
– Bạch Thế Tôn ! Không thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy cho sự trong mọ-ng là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải trí, tại sao ? Vì thân ái biệt ly được thấy trong mộng ấy cứu cánh không có huống là buồn khóc. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy nghe ác thanh liền chấp trước nên sanh lòng chẳng ưa rồi giận hờn mà tạo nghiệp sân nơi thân ba miệng bốn và ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng kinh sợ, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra, giống như thức dậy nhớ sự trong mộng. Cũng vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do nhơn duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi hoặc sanh địa ngục v.v… đến sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương không một pháp nào từ đời nầy đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.
Nầy Ðại Vương ! Hậu thức ấy, lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu
Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên , thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.
Nầy Ðại Vương ! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương tai nghe xả thanh, khởi xả tướng.
Như người trong mộng nghe câu chẳng rõ nghĩa. Thức dậy người ấy ghi nhớ tiếng được nghe trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, tiếng nghe trong mộng có thiệt chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! không thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy nằm mộng cho là thiệt thì có phải là trí không ?
– Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng cứu cánh không có âm thanh để được, huống là có câu liễu nghĩa câu bất liễu nghĩa. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hang phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ nghe xả thanh bèn chấp trước nên mê hoặc mà tạo nghiệp. Nghiệp được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương.
Nghiệp như vậy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy sự đã làm từ trước hiện ra trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi tâm sanh chấp trước, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, giống như thức dậy nhớ tiếng câu chẳng rõ nghĩa được nghe trong mộng.
Nầy Ðại Vương ! Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v…đến, hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, thức thọ sanh phần sanh, sanh phần tâm tương tục chủng hoại chẳng duyệt.
Nầy Ðại Vương ! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không có người tạo nghiệp cũng không có người thọ báo.
Nầy Ðại Vương ! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên thức không. Nghiệp, thể tánh nghiệp thức không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không.Hoại, thể tánh hoại không.
Nầy đại Vương ! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.
Tất cả pháp không là không giải pháp môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn.Nếu vô tướng thì không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba giải thoát môn cùng đi chung với không, Niết bàn là con đường trước, xa rời tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! thí như người chiêm bao lấy hương gỗ chiên đàn hoặc hương lá đa ma la và các thứ hương khác để xoa thân mình. Thức dậy người ấy các thứ hương được xoa trong mộng vừa rồi. Ý Ðại Vương thế nào?, sự thấy trong mộng ấy có thiệt chăng ?
– Bạch Thế Tôn! không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương !Người ấy cho là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng cứu cánh không có hương huống là xoa thân. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phu ngu si không học chánh pháp, họ ngửi hương thơm bèn mến thích rồi tạo mười nghiệp nhiễm trước nơi thân ngữ ý. Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất, khi mất, nghiệp ấychẳng nương ở mười phương. Nghiệp ấy đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Như trong chiêm bao thức dậy nhớ hương thơm được ngửi trong mộng. Nầy Ðại Vương ! Tối hậu thức lám chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu sanh khởi, hoặc sanh địa ngục v.v…đến hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! Không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo. Nầy Ðại Vương ! Lúc hậu thức diệt gọi là tử số.Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.
Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.
Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệtnó chẳng đến đâu.
Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nóchẳng đến đâu.
Thọ sanh ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó chẳng đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không.Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.
Nầy Ðại Vương ! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ vì theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.
Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã không tướng nên không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả phápđều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không. Niết bàn là con đường trước, xa rời tướng xa rời nguyện, cứu cánh
Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như người chiêm bao thấy cổ mình đeo những tử thi rắn, chó, thây người v.v…Thức dậy, người nhớ cảnh mộng rồi sợ sệt. Ý Ðại Vương thế nào , cảnh mộng ấy có thiệt chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy chấp lấy tử thi được thấy trong mộng có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn !Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng tử thi thì không có, huống là cột nơi cổ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phám phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy thúi xấu thì chấp trước ghét bỏ mà tạo mười nghiệp sân ghét nơi thân khẩu ý? Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng ghét bỏ, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra? Như thức dậy nhớ sự việc trong mộng.
Nầy Ðại Vương ! Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, vì hai nhơn duyên ấymà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v…đến hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! không có một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp được làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư , không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lu&c diê(t cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Sơ thức, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không.Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh của hoại không.
Nầy Ðại Vương ! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không có người tác nghiệp cũng không có người thọ báo, chỉ vì theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn? không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không , trên đường đến Niết bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như người chiêm bao thấy tỷ căn hoại. Thức dậy, người ấy ghi nhớ mũi mình hư. Ý Ðại Vương như thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Chẳng có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy chấp cảnh mộng là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng cứu cánh không có tỷ căn huống là hư hoại. Người ấy tự luống nhọc nhằn, đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy tỷ căn hoại thì chấp trước lo sợ mà tạo mười nghiệp chấp trước lo sợ nơi thân khẩu ý.
Nghiệp ấy được tạo xong liền dứt diệt . Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc đã làm hiện trong tâm tưởng. Thấy rồi người ấy sanh lòng sợ sệt, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra. Như thức dậy nhớ việc trong mộng.
Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, vì hai nhơn duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng hoại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! Không một pháp nầy từ đời nầy đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã tạo và thọ quả báo đều không mất hư, không người tác nghiệp cu’ng không người thọ báo.
Lúc hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh gọi là sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu tới, lúc diệt cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Sơ thức sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cung không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không.Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.
Nầy Ðại Vương ! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. tất cả pháp không là không giải thoát môn.. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.
Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, trên đường trước là Niết bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện,cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới cùng khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.Nầy Ðại Vương ! Như người mộng thấy mình đói khát được cơm canh ngon tha hồ ăn uống. Thức dậy thấy người ghi nhớ cơm canh ngon được ăn trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn !Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng cứu cánh không có cơm canh huống lại có ăn. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy các thức ăn thì chấp trước tham ưa say nhiễm rồi tạo nghiệp tham nhiễm mười thứ nơi thân khẩu ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, nhẫn lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm từ reươ&c hiện ra trong tâmtưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng tham chấp, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.
Nầy Ðại Vương ! Tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên , vì hai nhơn duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, thức sanh trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại vương ! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp dã làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.
Lúc hậu thức ấy diệt gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu dến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên thức không. Nghiệp, thể tánh nghiệp thức không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không.Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không,. Hoại, thể tánh hoại không. Nầy Ðại Vương ! Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước là Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện, cứucánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.
Nấy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giớiu như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như người mộng thấy miénh quá đói gặp được dưa đắng, trái câu xa, trái nhâm bà v.v…liền lấy ăn. Thức dậy người ấy ghi nhớ trong mộng ăn những trái đắng. Ý Ðại Vương thế nào, trong mộng người ấy có thiệt ăn trái đắng chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! không có thiệt.
– Nầy Ðai Cương ! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng còn không có trái đắng huống là có ăn. Người ấy luống sự nhọc nhằn, đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mộng thấy bị đói khổ, họ liền chấp trước mà tạo mười nghiệp chấp trước nơi thân khẩu và ý. Nghiệp được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương, cho đến lúc lâmchung, tối hậu thức diệt, thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng.
Người ấy thấy rồi, trong tâm sanh vọng tưởng, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác sanh ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vậy tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi thác sanh vào sáu loài. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại vương ! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ quả báo, đều chẳng mất hư, không có người tạo nghiệp cũng không có người thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không.Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không.Hoại, thể tánh hoại không.
Nầy Ðại Vương ! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.
Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng đi với không trên đường trước, Niết bàn, xa lìa tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như gnười mộng thấy lưỡi mình hư hoại. Thức dậy người ấy ghi nhớ sự trong mộng. Ý Ðại vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
– Bạch Ðại Vương ! Không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy cho sự mọ-ng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải là trí . Tại sao ? Vì trong mộng lưỡi còn chẳng có huống là hư hoại. Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy thiệt căn hư hoại thì chấp trước sanh long chẳng ưa mà khởi mười nghiệp chấp trước nơi thân khẩu ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt, chẳng nương ở mười phương, cho đến lúc lâm chung, tối hậu thức diệt thấy việc làm trước hiện trong tâm tưởng.
Người ấy thấy rồi lòng lo sợ, tự phần nghiệp hết nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp zấy làm nhơn duyên, vì hai nhơn duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu thú. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại vương ! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ báođều không mất hư , không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.Hậu thức ấy khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến; lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không.Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.Thế gian, thể tánh rhế gian không.Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.
Tác nghiệp và quả báo như vậy đều không mất hư, không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ thei thế tụcmà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều kho-ng tịch, tất cả pháp không là không giải thoát môn, không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.
Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát môn cùng đi chung với không trên đường trước Niết bàn, xa rời tướng xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ đều phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như người mộng thấy ôm ấp nữ nhơn đẹp nhất nước. Thức dạ-y, người ấy ghi nhớ sự chạm xúc êm dịu trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng cứu cánh không có gái đẹp, huống là chạm xúc êm diệu.Người ấy luống tự nhọc nhằn, đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phàm phu nghu si không học chánh pháp, họ thấy sắc khả ý thì chấp trước mà khởi ái dục sanh lòng nhiễm trước rồi tạo mười nghiệp nhiễm trước nơi tân khẩu và ý.
Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương cho đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng, người ấy thấy rồi sanh lòng ưa vui, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, vì hai nghiệp ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu loài.
Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ quả báo đều chẳng mất hư. Không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Nầy Ðại Vương ! Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đếu đâu. Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy, không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh không ttừ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.
Nầy Ðại Vương ! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp, không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhưt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.
Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn.
Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như người mộng tự lấy đồng lá nóng quắn thân mình. Thức dậy, người ấy ghi nhớ trong mộng quấn đồng lá nóng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao? Vì trong mộng còn không có đồng lá huống là có quấn thân mình. Người ấy tự luống nhọc nhằn đều không có thiệt
Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy sự kinh sợ thì chấp trước nên sợ hải nên tạo mười nghiệp sợ hải thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương cho đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt, người ấy thấy việc làm hiện trong tâm tưởng liền sợ hải, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vậy, tối hậu thức làm chủ, do nghiệp ấy làm nhơn duyên, vì hai duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy việc làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.
Nầy Ðại Vương ! Hậu thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không tưù đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh, không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức lúc sanh không tưé đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không.Sơ thức, thể tánh sơ thức không.Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thê” tánhNiết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.
Nầy Ðại Vương ! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả các pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp tánh , cùng khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như người mộng thấy thân căn hư hoại chẳng cảm giác khi xúc chạm . Thức dậy, người ấy ghi nhớ sự hư hoại trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng?
– Bạch Thế Tôn ! không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng cứu cánh không có thân căn huống là có hư hoại. Người tự ấy luống nhọc nhằn, đều không có thiệt.
Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp , tự thấy thân căn hư hoại thì chấp trước nên sợ hải rồi tạo mười nghiệp sợ hải nơi thân khẩu và ý . Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm hiện trong tâm tưởng?. Người ấy thấy rồi sanh lòng sợ hải, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vật, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy mà trong sanh phần tức tâm sơ khởi vào trong sáu thứ.
Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh, sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy việc làm từ trước và thọ báo đều chẳng mất hư không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt gọi là vào tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy, lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Nghiệp ấy, lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đậu.
Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức , thể tánh không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp khôn. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không. hoại, thể tánh hoại không.
Nầy Ðại Vương ! Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như người mộng thấy nhà ảo thuật hóa ra ngũ dục, tự thấy thân mình hưởng thọ ngũ dục. Thức dậy người ấy ghi nhớ cảnh ngũ dục trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy cho sự mộng được thấy là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải trí . Tại sao ? Vì trong mộng nhà ảo thuật còn cứu cánh không có huống là ngũ dục và hưởng thọ. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt
– Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, họ thấy ảo sư thuật ra ngũ dục thì chấp trước mà ái trọng rồi nhiễm trước, do đó họ tạo mười nghiệp ái nhiễm nơi thân khẩu và ý.
Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt diệt chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt, thấy nghiệp đã làm hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng ái nhiễm. Nghiệp trước đã hết, nghiệp khác sanh ra, như mộng thức nhớ cảnh sự trong mộng.
Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai nhơn duyên ấy mà trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu loài. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tạo nghiệp cũng không người thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cung không đến đâu.
Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không.Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Hoại, thể tánh hoại không.
Tác nghiệp và thọ báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn . Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy, tất cả pháp đầy đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không trên đường trước Niết bàn, xa lìa tướng xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các cann như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phảibiết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như người mộng thấy nước lớn cuốn trôi thân mình, vợ con quyến thuộc thấy vậy buồn rầu vô lượng. Thức dậy, người ấy nhớ sự nước trôi và buồn rồi trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy cho sự mộng ấy là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mọ-ng cứu cánh không có nước, huống là cuốn trôi và buồn rầu. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy nước cuốn trôi thì chấp trước mà lo buồn rồi tạo mười nghiệp lo buồn nơi thân khẩu và ý.
Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Người ấy thấy rồi sanh lòng buồn sợ, nghiệp trước đã hết, nghiệp sau hiện ra, như người thức dậy nhớ sự cảnh trong mộng .
Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi, sanh vào trong sáu thú. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! không một pháp nào từ đời nay đến đời sau mà có sanh diệt thấy việc làm tưé trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là vào tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là vào sanh số.
Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy lúc tữ không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tư” không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi khọng. Hoại, thể tánh hoại không.
Tác nghiệp và thọ quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp , cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại vương ! Phải biết tất cả pháp đều không tịch.Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả pháp đều là đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn? xa rời tường xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, cùng khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như người mộng thấy mình uống rượu say không còn hay biết, chẳng biết phải trái thiện ác tội phước tôn ty ưu liệt. Thức dậy, người ấy ghi nhớ sự việc trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào, sự mộng ấy có thiệt chăng ?
– Bạch Thế Tôn ! Không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương ! Người ấy cho sự mộng là thiệt thì có phải là trí chăng ?
– Bạch Thế Tôn !Chẳng phải trí. Tại sao ? Vì trong mộng cứu cánh còn không có rượu huống là có uống say mê loạn chẳng biết tội phước tôn ti thiện ác phải trái hơn kém. Người ấy luống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
– Nầy Ðại Vương! Cũng vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy uống rượu mê loạn họ sanh chấp trước mà nhiễm ái rồi tạo mười nghiệp nhiễm ái nơi thân khẩu và ý. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất chẳng nương ở mười phương, mãi đến lúc lâm chung tối hậu thức diệt thấy nghiệp đã làm từ trước hiện trong tâm tưởng. Thấy rồi người ấy sanh lòng ái trước, tự phần nghiệp hết, nghiệp khác hiện ra, như người mộng thức dậy nhớ sự trong mộng.
Như vậy, tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy nên trong sanh phần thức tâm ban đầu khởi sanh vào trong sáu đạo. Thức trước đã diệt, thọ sanh phần thức sanh , sanh phần tâm tương tục chủng loại chẳng tuyệt. Nầy Ðại Vương! Không một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm từ trước và thọ quả báo đều chẳng mất hư. không người tác nghiệp cũng không người thọ báo.
Hậu thức ấy lúc diệt thì gọi là tử số. Nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Hậu thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũ’ng không đến đâu. Duyên ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Thọ sanh ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu. Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức, thể tánh hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, thể tánh nghiệp không. Tử, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh, thể tánh thọ sanh không.Thế gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Hoại, thể tánh hoại không.
Nghiệp được tạo tác và quả báo như vậy đều chẳng mất hư, không người tác nghiệp cũng không người thọ báo, chỉ theo thế tục mà cóchớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không là không giải thoát môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã vô tướng nên cũng không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Như vậy tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi với không trên đường trước Niết bàn, xa rời tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như pháp giới, cùng khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ đều phải biết như vậy.
Bấy giờ đức Phật nói với Tịnh Phạn Vương: “Nầy Ðại Vương ! Các pháp như đã nói ở trên phải chuyên tâm tinh tiến quan sát tu hành chớ theo nơi khác.
Pháp ấy là Bồ đề của chư Phật quá khứ vị lai hiện tại, hay tự tại siêu việt tất cả thế gian, hay trừ tất cả khát ái hàng phục ngã mạn, diệt trừ tội lỗi, được bình đẳng nơi tất cả pháp. Nó chẳng phải là chỗ của hạng phàm phu, tất cả Thanh Văn chẳng đến được, chẳng phải cảnh giới của tất cả Bích Chi Phật, là chỗ tu hành của tất cả Bồ Tát, là chỗ chứng đắc của tất cả chư Phật.
Ở trong pháp ấy, Ðại Vương phải để tâm suy nghĩ rằng : Tôi phải thế nào để được làm mắt sáng ở trong Trời Người, được làm đèn sáng , đuốc lớn, thuyền bè, biết thủy lộ giới là Ðạo Sư, là thương chủ, là đạo thủ ở trong Trời Người.
Tôi phải thế nào để tự độ mình rồi lại độ được người, tự đã giải thoát lại giải thoát người, tự được an ổn lại an ổn người, tự chứng Niết bàn lại khiến người chứng Niết bàn.
Ðại Vương nên biết chẳng nên quan sát đời quá khứ và trải qua sự giàu mạnh tự tại.
Nầy Ðại Vương ! Các căn như ảo, không bao giờ thỏa mãn, cũng không có gì làm nó thỏa mãn được. Cảnh giới như mộng, ở nơi sắc thanh hương vị xúc không biết chán đủ.
Nầy Ðại Vương ! Thuở quá khứ có chuyển luân vương tên Vô Biên Xưng có đủ thất bửu oai lực tự tại thống lãnh tứ thiên hạ. Nhà vua ấy ở chỗ đức Phật trước trồng các cội lành nên được thành tựu ý lực nghĩ gì được nấy.
Lúc ấy, vua Vô Biên Xưng tự nghĩ ta thử sức phước đức của ta, nay ta tự nương phước đức khiến tất cả cây cối trong bốn thiên hạ nầy thường có bông trái dùng hoài không hết.
Nầy Ðại Vương ! Vua Vô Biên Xưng ý nghĩ như vậy rồi, khắp bốn thiên hạ tất cả rừng cây trổ bông kết trái xum xuê nhơn dân dùng mãi không hết.
Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng làm cho tất cả nhơn dân trong bốn thiên hạ muốn gì đều được cả không hề trái ý. Nhà vua ấy nghĩ tưởng như vậy rồi, tất cả nhơn dân đều được đầy đủ theo chỗ mong cầu.
Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng khiến khắp bốn thiên hạ đều mưa nước thơm. Liền đó khắp nơi đều mưa nước thơm.
Nhà vua ấy thử phước lực của mình nên lại nghĩ tưởng khắp bốn thiên hạ đều mưa hoa đẹp. Liền theo ý tưởng của nhà vua ấy, khắp nơi đều mưa hoa đẹp.
Nhà vua ấy lại nghĩ tưởng khắp nơi đều mưa y phục đẹp. Liền đó khắp nơi mưa y phục kiếp bối cõi trời
Nhà vua ấy lại muốn thử phước lực của mình nên nghĩ tưởng khắp bốn thiên hạ mưa bạc, rồi lại tưởng mưa vàng. Theo đúng ý tưởng của nhà vua ấy, khắp nơi mua bạc rồi mưa vàng.
Tại sao như vậy ? Vì vua Vô Biên Xưng ấy từ quá khứ đã ở nơi tất cả chúng sanh tu cộng nghiệp thiện.
Nầy Ðại Vương ! Thuở ấy mặt đất Diêm Phù Ðề dọc ngang đều một vạn tám ngàn do tuần, có sáu mưoi ngàn vạn đại thành. Trung ương có hoàng thành tên Bửu Trang Nghiêm dọc ngang mười hai do tuần, bốn phía bằng phẳng khéo đẹp, đường sá trang nghiêm, ranh giới rành rẽ.
Ngoài thành Bửu Trang Nghiêm ấy có bảy lớp hàng cây Ða La bằng bốn thứ báu là vàng bạc lưu ly và pha lê rất đẹp đáng ưa. Nếu là cây Ða La vàng thì thân cành gốc rễ bằng vàng mà lá bông và trái bằng bạc. Nếu là cây Ða La bạc thì thân cành gốc rễ bằng bạc mà lá bông và trái bằng vàng. Nếu là cây Ða La bằng lưu ly thì gốc rễ thân cành bằng lưu ly mà lá bông và trái bằng pha lê. Nếu là cây Ða La pha lê thì gốc rễ thân cành bằng pha lê mà lá bông và trái bằng lưu ly.
Thành Bửu Trang Nghiêm ấy giáp vòng có bảy lớp treo lưới linh lạc báu, lại có màn lưới báu che trùm phía trên.
Ngoài thành có bảy lớp hào, mỗi hào sâu nửa do tuần, rộng một do tuần, đáy và bờ hào đều bằng phẳng, đầy nước trong sạch đủ tám đức, chim chóc uống nước ấy. Trong nước hào mọc đầy bốn thứ hoa sen xanh, vàng đỏ và trắng. Ðáy hào trải cát vàng. Bờ hào bằng bốn báu vàng bạc lưu ly và pha lê : bực vàng thì thang bạc, bực bạc thì thang vàng, còn lưu ly và pha lê thì trang sức trên dưới xen lẫn trang nghiêm. Lan can xung quanh hào bày bảy báu trang nghiêm vô tỉ.
Mỗi con đường đều có bảy lớp cổng báu, hai bên đường có những cây chuối vàng, bốn bên hào đường sá giáp vòng, nơi hai đầu đều có tọa ngồi bằng bảy báu.
Tất cả sự trang nghiêm báu quí ấy đều do phước đức của vua Vô Biên Xưng cảm thành.
Xung quanh ngoài thành Bửu Trang Nghiêm có tám vạn rừng vườn. Làm những rừng vườn ấy, vua Vô Biên Xưng không có lòng chấp trước là sở hữu của mình mà cho tất cả nhơn dân cùng hưởng.
Mỗi khu vườn ấy có tám ao lớn dọc ngang đều nửa do tuần, đầy hoa sen bốn màu. Bờ ao có tám thềm đường bằng bốn báu và cổng ngỏ bảy báu.
Hai bên thềm đường có cây chuối vàng Diêm Phù Ðàn trang nghiêm. Trong ao đầy nước tám đức, các loài chim uống nước ấy. Bốn bên ao nhà vua ấy lại cho trồng nhiều hoa đẹp để nhơn dân cùng hưởng.
Các lưới báu linh lạc báu khắp thành Bửu Trang Nghiêm, lúc gió nhẹ thoảng phát ra tiếng hòa nhã như ngũ âm do nhạc công giỏi trổi lên. Nhơn dân trong thành cùng vui chơi theo nhạc điệu ấy.
Thuở ấy thành lớn Bửu Trang Nghiêm giàu vui an ổn, nhơn dân giàu có no đủ, mọi nơi đều có hoa sen bốn màu đẹp thơm vô tỉ.
Một lúc khác, vua Vô Biên Xưng lại nghĩ rằng :Nay ta sẽ qua châu Tây Cù Ðà Ni. Vua cùng bốn binh chủng cùng bay lên hư không qua Cù Ðà Ni. Chư tiểu Quốc Vương ở châu Tây ấy đều đến phụng nghinh và đem quốc độ phụng hiến. Vua Vô Biên Xưng ở lại đó trăm ngàn muôn năm rồi mang bốn binh chủng lên hư không bay qua châu Ðông Phất Bà Ðề, các tiểu Quốc Vương ở châu Ðông đều phụng nghinh và đem quốc độ phụng hiến. Vua Vô Biên Xưng ở lại đó trăm ngàn vạn năm rồi đem bốn binh chủng lên hư không bay đến châu Bắc Uất Ðơn Việt, nhơn dân nơi châu Bắc đều hoan nghênh. Vua Vô Biên Xưng ở lại châu Bắc nhiều trăm ngàn năm cùng quyến thuộc vui vầy.
Một hôm vua Vô Biên Xưng nghĩ rằng ta có nghe trời Ðao Lợi ỏ đảnh núi Tu Di, nay ta nên lên đó.
Nghĩ như vậy rồi nhà vua ấy ngồi long tượng đem bốn binh chủng bay lên hư không thẳng lên núi Tu Di. Nhà vua ấy hỏi quan hầu cận rằng ngươi thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ thế nào ?
Quan hầu thưa : Tâu Ðại Vương, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ đều xoay tròn. Như nhà gốm quay tròn vòng khuôn, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ cũng quay tròn như vậy.
Nhà vua ấy bảo quan hầu cho long tượng vương đại hành chưa ngừng thẳng tiến lên trước.
Nhà vua ấy lại hỏi quan hầu : Giờ đây ngươi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn châu thiên hạ thế nào ?
Quan hầu thưa : Tâu Ðại Vương ! Tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn châu thiên hạ đều chấn động.
Nhà vua ấy nói nay ta muốn đến đánh núi Tu Di, cho long tượng vương nầy tiểu hành chưa ngừng thẳng tiến lên trước.
Nhà vua ấy hỏi quan hầu : Giờ đây người thấy núi Tu Di cùng đại hải và tứ thiên hạ thế nào ?
Quan hầu thưa : Tâu Ðại Vương, tôi thấy núi Tu Di cùng đại hải và bốn thiên hạ đều chẳng động chẳng chuyển.
Nhà vua ấy bảo : Ðã đến đảnh núi Tu Di rồi.
Vua ấy cùng bốn binh chủng đến đảnh núi Tu Di.
Ðế Thích thấy vua Vô Biên Xưng thì vui mừng đón tiếp và chia nửa tòa ngồi cho cho vua ấy cùng ngồi. Vua Vô Biên Xung tiếp nhận chỗ ngồi rồi cùng Ðế Thích ngự trời Ðao Lợi cả vô lượng năm.
Sau đó, vua Vô Biên Xưng lại nghĩ rằng : Ta nên truất phế Ðế Thích để riêng ta làm Thiên Vương.
Vừa nghĩ xong như vậy, nhà vua ấy cùng bốn binh chủng từ trời Ðao Lợi rơi xuống vườn bảy báu ngoài thành Bửu Trang Nghiêm ở Nam Diêm Phù Ðề.
Bấy giờ có dân trong thành ra thấy như vậy vội cấp bảo vào thành. Lúc ấy vua đang ngự trị thành Bửu Trang Nghiêm tên là Tác Ái, nghe có vị Thiên Tử bốn binh chủng từ trên không giáng xuống vườn thất bửu ngoài thành, liền truyền nghiêm xa giá cùng bốn bộ binh chủng xuất thành đến vườn thấy vua Vô Biên Xưng. Vua Tác Ái sai đem các thứ hoa và hương bột hương thoa đến rồi tự trịch y vai hữu quỳ gối hữu chắp tay hướng về vua Vô Biên Xưng mà thưa rằng : Ngài là ai ?
Vua Vô Biên Xưng nói : Người có từng nghe thuở xa xưa có vua Vô Biên Xưng chăng ?
Vua Tác Ái và các quan dân đều nói : Chúng tôi có nghe người xưa nói thuở trước có vua Vô Biên Xưng ngự trị bốn châu thiên hạ. Vua ấy cùng bốn binh chủng bay lên trời Ðao Lợi.
Vua Vô Biên Xưng nói : Như chỗ các ngươi đã nghe, vua Vô Biên Xưng chính là ta đây.
Từ đó vua Vô Biên Xưng nghe mùi vị đồ ăn uống ở nhân gian lòng chẳng ưa thích chẳng chịu được nên thân tâm trầm trọng hôn mê. Như đem đề hồ để trên cát nóng liền chìm mất chẳng tạm dùng còn, vua Vô Biên Xung ở Diêm Phù Ðề ăn uống các thứ lòng không ưa thích, thân tâm chìm mất cũng như vậy.
Vua Tác Ái thấy vua Vô Biên Xưng chẳng chịu được mùi vị đồ ăn uống ở nhơn gian nên thân tâm chóng hư hoại chẳng thể sống còn bèn thưa rằng : Ðại Vương có lời gì dặn bảo để tôi truyền lại cho người đời sau.
Vua Vô Biên Xưng nói với vua Tác Ái : Nhà vua nên biết từ xưa vua Vô Biên Xưng ngự trị bốn thiên hạ oai đức tự tại, tùy ý muốn gì đều được như vậy, muốn rừng cây đầy hoa quả thì bông trái có luôn hay trừ khổ cho mọi người. Nhơn dân muốn cần gì thì đều được thỏa mãn cả. Ta lại có thể mưa nước thơm, mưa hoa đẹp, mưa y phục báu, mưa bạc trắng, mưa vàng ròng. Ngự trị bốn châu giàu mạnh tự tại. Ta lên trời Ðao Lợi, Ðế Thích chia ngự tọa cùng cai trị cõi trời. Vì lòng tham không chán đủ nên phải từ cung trời rơi xuống Diêm Phù Ðề mà chết.
Vua Vô Biên Xưng bảo vua Tác Ái : Các sự việc vừa kể ấy, nhà vua nên truyền nói như vậy và kết luận rằng : Vua Vô Biên Xưng giàu mạnh tự tại, vì tham cầu không chán nên phải chết mất.
Vua Vô Biên Xưng nói xong thì chết”.
Thuật đến đây, đức Phật nói với vua Tịnh Phạn : Vua Vô Biên Xưng ấy tức là thân Phật đây vậy. Nầy Ðại vvương ! Phải biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng.
Nầy Ðại Vương !Vì thế nên phải nhiếp tâm quan sát như vậy, chớ tin nơi khác ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
“ Thường vui pháp tự tại
Luôn luôn sách tấn mình
Trong tham dục tự tại
Lòng phải biết chán lìa
Ly dục tự tại rồi
Trụ trong pháp tự tại
Nếu hàng phục được tâm
Thì hàng phục phiền não
Hàng phục được phiền não
Liền được lìa nghiệp đạo
Ðược lìa nghiệp đạo rồi
Là tháp chùa thế gian
Chẳng bị dục ô nhiễm
hiển bày lỗi phiền não
Nhớ lợi ích chúng sanh
Nên hiệu là tháp chùa
Nghe lời tham dục rồi
Liền lìa được tham dục
Nhứt thiết trí tịnh tâm
Nên hiệu là tháp chùa
Tối thắng đại trượng phu
Nhớ dứt lỗi chúng sanh
Giải thoát sân cho họ
Nên hiểu là tháp chùa
Tối thắng đại trượng phu
Nhớ dứt si cho chúng
Thoát tâm ngu si ấy
Nên hiệu là tháp chùa
Ðiều ngự thiên nhơn sư
Nhớ dứt mạn cho chúng
Làm tâm chúng sanh sạch
Nên hiệu là tháp chùa.”
Ðức Phật phán tiếp phán tiếp với vua Tịnh Phạn : “ Nầy Ðại Vương ! Thuở xưa quá khứ có Quốc Vương tên là Ðịa Thiên, làm vua đúng pháp, có đủ bảy báu và luân báu, tượng báu, mã báu, minh châu báu, ngọc nữ báu, trưởng giả báu và chủ binh báu.
Cha của vua Ðịa Thiên tên là Ðịa Sanh. Sau khi Ðịa Sanh chết, Ðịa Thiên là trưởng tử nên phụ tướng đại thần lấy nước bốn biển rưới đảnh của Ðịa Thiên tôn làm vua, đó là vua Sát Ðế Lợi Quán Ðảnh.
Lúc lên ngôi vua rồi, đến ngày rằm trăng tròn ngày thọ trai, vua ÐịaThiên tắm rửa gội đầu cắt cạo râu tóc và móng tay móng chưn, mặc y phục mới sạch, dùng vòng hoa chuổi ngọc mũ mão vòng xuyến trang sức thân mình, ngồi trên lầu cao, các thể nữ vây quanh. Liền đó từ phương Ðông có luân bửu bằng vàng đủ ngàn căm giàn trục đều đủ, ánh sáng chói ngời, ngang dọc đều bảy cánh tay, thuần bằng vàng ròng.
Thấy kim luân bửu xuất hiện, vua Ðịa Thiên nghĩ rằng : Ta từng nghe người xưa nói nếu vua Sát Ðế Lơi Quán Ðảnh lên ngôi mà kim luân bửu ứng hiện thì sẽ là Chuyển Luân Thánh Vương. Nay ta có phải là Luân Vương chăng, ta nên thử xem.
Vua Ðịa Thiên liền đứng dậy trịch y vai hữu đối luân bửu chắp tay khấn rằng : Luân bửu nên hạ xuống đây. Vua khấn xong, luân bửu liền hạ xuống dừng trước vua.
Vua Ðịa Thiên dùng hương thơm thoa tay, mặc y mão đẹp, tay mặt tiếp lấy luân bửu để trong tay trái, tay mặt xoa vuốt luân bửu mà khấn rằng : Nay ngươi nên hàng phục phương Ðông.
Kim luân ấy liền bay lên hư không xoay vòng hai bên rồi dừng ở phương Ðông tại con đường chuyuển Luân Vương thuở xưa. Con đường ấy bằng phẳng rải đầy hoa bằng phẳng rải đầy hoa rất khả ái. Chỗ kim luân đi qua mặt đất đều bằng phẳng không có cao thấp. Do phước đức của vua Ðịa Thiên nên những ao suối giếng hồ khô cạn đều đầy nước tám đức, tất cả cây cối đều xum xê tươi tốt đầy trĩu hoa trái.
Bấy giờ vua Ðịa Thiên mang bốn binh chủng đi theo luân bửu, nếu luân bửu dừng lại vua và binh chủng cũng dừng theo. Những xứ nhà vua đến, quốc vương và thần dân xứ ấy đồng mang lễ vật ra nghênh đón và phụng hiến cả quốc độ ấy cho vua ngự trị.
Vua Ðịa Thiên Chuyển Luân Vương liền bảo rằng : Ta chẳng cần đến quốc độ nầy, các ngươi cứ cai trị như xưa, nhưng phải xa lìa những sự sát sanh, cũng chớ trộm cắp, chẳng được tà dâm, không nên vọng ngữ lưỡng thiệt ác khẩu ỷ ngữ, chớ có tham dục giận thù và tà kiến. Các người phải tự mình tu mười nghiệp đạo lành và bảo người khác cùng tu. Nay ta nhận biết các người quy phục nơi ta, tuân lời ta truyền, ta xem các người như con em ta. Các người phải thảo ngay phụng dưỡng cha mẹ sư trưởng và các nhà tu hành. Chớ làm sự phi pháp và sự ác bất thiện, cũng khuyên người làm lành lánh dữ. Nếu được như vậy mới thiệt quốc độ và nhơn dân xứ nầy qui phục nơi ta.
Lần lượt như vậy, vua Ðịa Thiên theo luân bửu hàng phục xong châu Phất Bà Ðề phương Ðông và cả ba châu Nam, Tây, Bắc rồi trở lại Diêm Phù Ðề tại cung thành cũ, kim luân bửu ấy dừng ở bất động tại hư không trên chỗ vua ngự. Lúc ấy cả bốn châu thiên hạ, do phước lực của vua Ðịa Thiên nên đều biến thành bảy báu trang nghiêm, đó là vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ , xích châu và mã não. Ba ác đạo cũng được giải trừ sanh vào đường lành. Toàn cõi không còn tiếng ác, không còn một ai tạo nghiệp ác.
Tại sao được như vậy ? Ðó là do bổn nguyện lực của vua Ðịa Thiên. Vả lại lúc kim luân bửu xoay lăn đến đâu, cả tứ thiên hạ chẳng cần gieo trồng mà mọi nơi đều mọc đầy những cạnh mễ tự nhiên không có cám trấu. Mọi nơi lại tự nhiên sản xuất y phục báu đẹp từ những cây thiên thọ. Tất cả bệnh hoạn khắp nơi đều tự nhiên lui mất, chỉ trừ ba điều là cầu dục lạc, ăn nuốt và suy già. Tất cả nhơn dân đều thọ đủ ngàn muôn tuổi, tất cả những khổ não đều tự nhiên tiêu trừ. Có vô lượng sự hi hữu chẳng thể nghĩ bàn như vậy xuất hiện nơi thế gian sau lúc vua Ðịa Thiên theo luân bửu ngự trị toàn bốn châu thiên hạ.
Thời gian lâu về sau, một hôm vua Ðịa Thiên nghĩ rằng : Nơi đây ta thọ hưởng khoái lạc, chẳng biết còn có chốn nào hơn ? Vua lại nhớ đã từng nghe trời Ðao Lợi ở đảnh núi Tu Di, sự vui đẹp ở đó thế nào ?
Vì lòng còn nặng ái dục nên vua Ðịa Thiên chán ghét sự thọ dụng ở nhân gian mà mong muốn sự vui đẹp ở cõi trời, nên vua cùng bốn binh chủng bay lên cung trời Ðao Lợi.
Thấy vua Ðịa Thiên đến, Ðế Thích vui mừng đón tiếp và chia chỗ ngự trị cho.
Cùng Ðế Thích chia trị cõi trời vô lượng trăm ngàn năm, vua Ðịa Thiên bỗng có ý nghĩ truất bỏ Ðế Thích để mình trọn quyền. Vừa nghĩ như vậy xong, vua Ðịa Thiên và bốn binh chủng từ cung trời Ðao Lợi rơi xuống thành An Ổn nơi Diêm Phù Ðề.
Bấy giờ vua Ðịa Thiên vì lâu ngày ăn dùng vật thực thắng diệu cõi trời , nay bỗng đến nhơn gian nên chẳng chịu được đồ thô xấu, thân tâm vua bị trầm một, như đem đề hồ đổ trên cát nóng liền chìm mất .
Thân tâm quá mệt suy vua Ðịa Thiên nói kệ rằng:
Các vua chúa tự tại
Chẳng trừ được khát ái
Như cỏ khô gặp lửa
Thế nên phải bỏ dục
Thường làm sự dâm dục
Chưa từng có lúc thỏa
Như khát uống nước mặn
Chẳng bao giờ hết khát
Như các dòng về biển
Chẳng bao giờ đầy được
Ái dục cũng như vậy
Chưa bao giờ thỏa đủ
Như lửa cháy cỏ cây
Không bao giờ thôi đủ
Ái dục cũng như vậy
Không bao giờ thỏa đủ
Như tiếng vang hang sâu
Theo tiếng không thôi dứt
Nghe tiếng cũng như vậy
Không bao giờ thôi dứt
Như thùng chứa chất thơm
Chứa đựng không chọn lọc
Ngửi hương cũng như vậy
Không bao giờ chán đủ
Như vá múc đồ ăn
Không bao giờ thôi đủ
Lưỡi nếm các vị ngon
Cũng không hề biết đủ
Như gương sáng hiện bóng
không bao giờ thôi đủ
Người hành dục cũng vậy
Với dục không chán đủ
Như hư không chứa gió
Không bao giờ đầy đủ
Thân thường ưa chạm xúc
Không bao giờ chán đủ
Như trong mộng uống nước
Chẳng bao giờ trừ khát
Y thức duyên các pháp
Cũng chẳng hề chán đủ
Người tham cầu ái dục
Càng thêm lớn ái dục
Nhìn xem các sự cảnh
Ái luyến chẳng chán đủ
Thấy dục tăng khổ não
Dường như lửa cháy củi
Dứt trừ các ái dục
như dùng nước tắt lửa
Nầy Ðại Vương, chớ nghĩ là ai khác, vua Ðịa Thiên thuở xưa ấy chính lá thân Phật đây vậy.
Thuở xưa ấy vua Ðịa Thiên giàu mạnh tự tại, vì tham cầu không chán đủ nên phải chết mất. Tại sao ? Do vì các căn không chán đủ nên sự cảnh không thỏa mãn được. Các ăn như gương soi, sự cảnh như bóng tượng. Các căn như ảo, cảnh giới như mộng.
Ðại Vương phải để tâm nơi pháp nầy tự quan sát thật kỹ sâu, chớ theo nơi khác. Pháp nầy là vô thượng Bồ đề của chư Phật ba đời.
Ðại Vương phải xa rời tất cả giàu mạnh, phải tiêu kiệt tất cả ái dục, lật đổ núi kiêu mạn, rời xa tất cả suy họa, bình đẳng đối với tất cả pháp. Ðây chẳng phải là địa vị với tất cả phàm phu, chẳng phải đường đi của tất cả hàng Thanh Văn, cũng chẳng phải cảnh giới của tất cả Duyên Giác, mà chính là chỗ đi của tất cả Bồ Tát, là tất cả chứng đắc của tất cả chư Phật Ðẳng Chánh Giác.
Ðại Vương phải chú tâm chớ để tán loạn, phải suy nghĩ rằng ; Ở trong tất cả thế gian thuở vị lai, tôi phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc lớn, làm ánh sáng, làm thuyền bè, làm đạo sư, làm thương chủ, làm đạo thủ, làm thượng thủ, tự độ và độ người ,tự thoát và giải thoát người, tự an và an cho người, tự được Niết bàn khiến người cũng được Niết bàn.
Ðại Vương chớ xem xét sự giàu mạnh tự tại đã có thuở trước. Phải biết các căn như ảo nó chẳng hề chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được. Cảnh giới như mộng, chẳng thể làm thỏa mãn được ”.
Ðức Phật lại nói với vua Tịnh Phạn :“ Thuở quá khứ có vua tên Ðảnh sanh. Vua ấy có oai đức lớn, có đại thần thông, có oai thế lớn. Vua ấy từ trên đảnh của phụ vương Ô Bô Sa mà sanh ra. Vua từ lâu chứa nhiều căn lành, đã từng thấy vô số chư Phật và tu các thiện căn, cung kính cúng dường chư Phật, tích chứa cội lành, rất được giàu mạnh tự tại trong bốn thiên hạ. Sau khi được quán đảnh lên ngôi vua bảy ngày thì bảy báu hiện ra đủ, làm Chuyển Luân Thánh Vương.
Những gì là bảy báu của Chuyển Luân Thánh Vương ?
Một là kim luân bbửu, thuần bằng vàng ròng, đủ ngàn căm, giàn trục đủ, ngang dọc đều bảy cánh tay, tự nhiên hiện đến trước nhà vua.
Hai là bạch tượng bửu, đủ sáu ngà, bảy chi chống đất, trắng như núi Tuyết, tự nhiên ứng hiện đến.
Voi và ngựa hai báu ấy, từ sáng sớm đến giờ ăn có thể đi khắp tám phương bốn châu thiên hạ, hết mé các biển rồi trở về chỗ cũ
Bốn là minh châu bửu , lớn bằng bắp vế người, thuần lưu ly xanh ánh sáng chiếu ra xung quanh đều một do tuần..
Năm là trưởng giả bửu, giàu có vô lượng, tùy ý vua muốn đều có thể sẵn đủ cả. Sáu là ngọc nữ bửu, đoan trang xinh đẹp tuyệt luân, toàn thân toát ra mùi chiên đàn, hơi miệng sạch thơm, như hoa sen xanh , lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt, thân sắc mịn màng như lá đồng đỏ. Cả thân mềm dịu như không có xương, mùa đông thì ấm, mùa hạ thì mát. Lòng dạ từ bi luôn nói lời nhỏ nhẹ tay chạm đến vua liền hiểu được ý nghĩa của vua.
Bảy là chủ binh bửu, tự nhiên xuất hiện, dũng mảnh sách mưu võ lược đệ nhứt, biết trước ý nghĩ của vua cả bảy ngày, giỏi điều binh đánh trận.
Vua ấy lại có đủ ngàn con trai đoan chánh dũng kiện hàng phục được oán địch.
Thuở ấy vua Ðảnh Sanh ngự trị bốn thiên hạ, đúng pháp giáo hóa, khiến bốn thiên hạ giàu vui an ổn, nhân dân đông nhiều, thành ấp tụ lạc gần liền nhau. Toàn cõi không có đá sỏi gai góc mà nhiều châu báu đầy đủ vô lượng, vườn rừng ao suối rất tốt khả ái. Ðó là do vua Ðảnh Sanh an trụ nơi pháp lực mà cảm hiện lành tốt như vậy. Thời kỳ ấy hoặc Người hoặc Trời hưởng thọ dục lạc tối đệ nhứt.
Ðô thành của vua Ðảnh Sanh ngự tên là A Du Xà. Thành ấy Ðông Tây đều rộng mười hai do tuần, Nam Bắc đều rộng bảy do tuần. Trong thành ngoài thành các thứ trang nghiêm đều đồng như thành Bửu Trang Nghiêm của vua Vô Biên Xung ở trên, cũng như Ðắc Thắng Ðường ở trời Ðao Lợi.
Ðảnh Sanh Vương tạo ba bửu điện : Một là Nguyệt Xuất điện, vua ở đó trong mùa Hạ, hai là Tỳ Lưu Ly điện, vua ở đó trong mùa Xuân, Ba là Nhựt Oai Ðức Khởi, vua ở đó trong mùa Ðông rét lạnh. Lúc vua cùng ngọc nữ và thể nữ vào điện Nguyệt Xuất thì thân thể vua mát mẻ như ướp thoa hương ngưu đầu chiên đàn. Lúc vua cùng quyến thuộc vào điện Tỳ Lưu Ly thì thân vua thư thới như ướp thoa hương lá đa ma la. Lúc vua cùng quyến thuộc vào điện Nhựt Oai Ðức thì thân vua ấm áp như thoa ướp hương trầm thủy.
Vua Ðảnh Sanh ấy theo chỗ thích muốn đều được tùy ý tự tại, khiến các cung điện theo thời tiết mà phát sanh sự cảm xúc vừa ý : tùy ý phát xuất gió, tùy ý phát xuất mưa, các thứ âm nhạc tùy ý vua mà đến, các đồ cần dùng cũng theo ý vua mà xuất hiện.
Bấy giờ nơi cung điện mà vua Ðảnh Sanh ngự trọn bảy ngày, trời mưa vàng và bạc. Qua bảy ngày vua nghĩ rằng : Rất là hi hữu chẳng nghĩ bàn được, nghiệp nhơn thanh tịnh cảm lấy quả báo như vậy, tùy ý hiện đến đầy đủ theo ý ta muốn, phước đức gây nên như vậy không thể sai lạc. Có ai thấy quả báo nầy mà ở nơi sự tu phước đức lại thôi nghỉ.
Vua Ðảnh Sanh ngự Diêm Phù Ðề trăm ngàn năm, sau đó vua tự nghĩ rằng nay Diêm Phù Ðề của ta an ổn giàu vui, nhơn dân đông đúc và đều quí thuộc nơi ta, trong cung điện ta mưa vàng bạc trọn cả bảy ngày. Giờ đây ta nên qua châu Tây Cù Ðà Ni.
Nghĩ xong, vua Ðảnh Sanh cùng quyến thuộc mang bốn binh chủng bay lên hư không thẳng đến châu Tây Cù Ðà Ni. Vua đã đến rồi ngự trị châu Tây trăm ngàn năm, cũng tác ý mưa vàng bạc, là cho nhơn dân đều an ổn giàu vui. Sau đó vua lại mang bốn binh chủng đến ngự trị châu Ðông Phất Bà Ðề trăm ngàn năm cũng khiến toàn châu Ðông giàu vui an ổn. Vua Ðảnh Sanh lại sang ngự trị châu Bắc
Uất Ðơn Việt vô lượng ngàn năm, vua hưởng thọ y báu hơn Người mà chưa bằng Trời.
Sau đó vua Ðảnh Sanh nghĩ rằng, ta có nghe đảnh núi Tu Di có trời Ðao Lợi, ta nên đến đó quan chiêm coi thế nào.
Vua Ðảnh Sanh liền mang bốn binh chủng bay lên hư không thẳng đến đảnh núi Tu Di.
Bấy giờ Thiên Ðế Thích Ðề Hoàn Nhơn cùng ba mươi ba Thiên Vương hợp tại Thiện Pháp Ðường luận sự việc Trời Người.
Thấy vua Ðảnh Sanh đến, Ðế Thích đón tiếp chia ngự tòa cùng ngồi.
Lúc vua Ðảnh Sanh lên ngự tòa cùng ngồi với Ðế Thích xong liền có mười sự việc thù thắng che chói chư Thiên. Ðó là thọ mạng hơn chư Thiên , dung nhan hơn chư Thiên , danh tiếng hơn chư Thiên, thọ lạc hơn chư Thiên, ngự trị tự tại hơn chư Thiên, thân hình hơn chư Thiên, âm thanh hơn chư Thiên, hơi thơm hơn chư Thiên, vị ăn hơn chư Thiên, chạm xúc mịn dịu hơn chư Thiên.
Vua Ðảnh Sanh cùng Ðế Thích hình dung tướng mạo hành động oai nghi đồng nhau không sai khác, ăn uống y phục đồ dùng cũng đồng, chỉ có nhìn nháy là khác nhau thôi.
Nhưng chư Thiên phân biệt biết rõ thiên Vương và Nhơn Vương sai khác.
Rất là lạ lùng hi hữu, Ðế Thích và vua Ðảnh Sanh là Trời và Người mà hình dung tướng mạo lại đồng nhau, đó là sức phước đức tạo ra như vậy, ai lại ở nơi phước đức mà chẳng thích ưa.
Vua Ðảnh Sanh ở trời Ðao Lợi vô lượng ngàn năm là tăng thượng tự tại, vua chẳng biết đủ nên sau đó lại nghĩ rằng : nay ta nên một mình làm Thiên Vương cần gì Ðế Thích, ta sẽ truất phế ông ấy. Vừa nghĩ xong như vậy, vua Ðảnh Sanh cùng toàn thể quyến thuộc bốn binh chủng liền rơi xuống Diêm Phù Ðề trong vườn ngoài thành A Tu Xà.
Lúc vua Ðảnh Sanh rơi xuống oai quang chiếu sáng khắp mọi nơi làm luốt mất ánh sáng mặt trời. Như lúc mặt trời mọc, mặt trăng bị luốt mất, lúc vua Ðảnh Sanh sa xuống mặt trời bị luốt mất cũng như vậy.
Bấy giờ có người xuất thành thấy như vậy, vội vào phổ cáo cho mọi người trong thành hay rằng : Nay có Thiên Tử cùng bốn binh chủng từ hư không sa xuống vườn ngoài thành.
Ðược tin ấy, quốc Vương cùng thần dân chỉnh đốn nghi lễ mang hoa hương kỹ nhạc xuất thành đến khu vườn ấy để tiếp nghinh vua Ðảnh Sanh.
Lúc vua Ðảnh Sanh sa xuống, toàn cõi đất chấn động sáu cách.
Vua Ðảnh Sanh vì đã quen hưởng thọ dục lạc cõi trời nên chẳng chịu được hơi hám và đồ dùng ở nhơn gian, vua mê mệt nằm trên đất, như tô lạc đề hồ đổ vào cát rất nóng liền tiêu tan.
Quốc Vương và thần dân thấy vua Ðảnh Sanh hôn mê nằm trên đất liền kêu hỏi : Ngài là ai ?
Vua hỏi lại các người có từng nghe nói vua Ðảnh Sanh thuở xưa chăng ?
Quốc vương và thần dân đáp đã có nghe các bực kỳ cựu thuật rằng có vua Ðảnh Sanh chẳng bỏ thân người đem quyến thuộc và bốn binh chủng bay lên trời.
Vua nói Ðảnh Sanh Vương thuở xưa chính là ta đây . Ta cùng bốn binh chủng từ trời rơi xuống vậy.
Quốc Vương và thần dân nói kệ hỏi vua rằng :
Tôi nghe kỳ cựu nói
Xưa có vua oai đức
Hiệu là Ðảnh Sanh Vương
Có danh tiếng rất lớn
Vua mang bốn binh chủng
Từ đây bay lên trời
Cũng đem cả quyến thuộc
Thánh Vương trị đúng pháp
Trời Người tuân lời vua
Sức vô thường làm hại
Mất báo trời chịu khổ
Ðảnh Sanh Vương là Ngài
Chúng tôi đều chắp tay
Cúi đầu lạy chân vua
Có sự hi hữu gì
Sẽ truyền lại đời sau.
Vua Ðảnh Sanh Vương từ trời sa xuống bị khổ nói kệ đáp rằng :
Ðảnh Sanh Thánh Vương xưa
Thống lãnh bốn thiên hạ
Thọ lạc hơn Trời Người
Tham không nhàm phải chết
Xưa trong cung vua ấy
Mưa trân bửu bảy ngày
Trị thiên hạ đúng pháp
Tham không nhàm phải chết
Vua trước cùng Thiên Ðế
Chia ngự tọa mà ngồi
Vì phát khởi ác niệm
Quá tham dục phải đọa
Ở trong biển sanh tử
Vì vô trí nên chìm
Vì say đấm ngũ dục
Tham không nhàm phải chết
Như khát mộng uống nước
Chẳng thể hết khát được
Thọ ngũ dục cũng vậy
Trọn không hề chán đủ
Các chúng sanh trí huệ
Dứt trừ tối ngu si
Người trí ấy biết đủ
Chánh quán sát các loài
Trí quán sát các loài
Huệ thấy già bịnh chết
Dứt trừ các khát ái
Bỏ các loài không ham
Quán chạm xúc như lửa
Thì bỏ được khát ái
Quán thọ lạc cũng vậy
Biết ái là chẳng lành
Như đánh các âm nhạc
Căn cảnh giới cũng vậy
Dùng thánh giáo điều phục
Bỏ được căn tự tánh
Tất cả năm loài sanh
Sanh ra từ danh sắc
Trong ấy thức phân biệt
Thì phát sanh tưởng nghĩ
Thánh giả chánh quán sát
Chẳng tham chấp nghiệp nhơn
Trí giả đủ sáng suốt
Chứng diệt như củi tàn
Vua Ðảnh Sanh nói kệ đáp mọi người xong thì chết.
Nầy Ðại Vương ! Vua Ðảnh Sanh thuở xưa ấy chính là thân Phật đây. Ngày xưa Phật từng làm Ðảnh Sanh Chuyển Luân Vương thống lãnh Trời Người oai thế tự tại, vì tham dục không nhàm đủ mà phải chết mất.Vì lẽ ấy nên phải rời bỏ giàu sang kiêu mạn oai thế mà an trụ chẳng phóng dật . Nếu có thể an trụ được nơi hạnh chẳng phóng dật, thì có thể tu các thiện căn.
Nầy Ðại Vương ! Nếu chẳng phóng dật lại có thể vào pháp giới bình đẳng. Nếu người lìa được phóng dật thì thành tựu lợi ích.
Nầy Ðại Vương !Hữu vi vô vi giới chẳng phải nam nữ, chẳng phải quá vị hiện tại. Ðại Vương nên ở nơi pháp nầy mà an trụ tự tâm, chớ theo giáo pháp khác. Pháp nầy là Vô thượng Bồ đề của tam thế chư Phật.
Ðại Vương nên xa rời tất cả hào quí, tiêu cạn tất cả biển dục, xô ngã núi kiêu mạn, rời xa tất cả suy đọa, bình đẳng với tất cả. Ðây chẳng phải chỗ của phàm phu, chẳng phải hàng Thanh Văn làm được, cũng chẳng phải cảnh giới của Duyên Giác. Ðây là công hạnh của tất cả Bồ Tát, là chỗ chứng của chư Phật Chánh Ðẳng Giác.
Ðại Vương phải nhiếp tâm chớ để tán loạn, phải suy nghĩ rằng: Ðời vị lai ở trong tất cả Nhơn Thiên thế gian, ta phải thế nào để được làm đèn sáng, làm đuốc, làm ánh sáng, làm thuyền, làm hướng đạo, làm thầy, làm thương chủ, làm đạo thủ, làm vô thượng, tự độ độ người, tự thoát giải thoát người, tự an an ổn người, tự được Niết bàn khiến người được.
Ðại Vương chớ quan sát thuở trước đã từng giàu sang tự tại, phải biết các căn như ảo không có chán đủ, cũng không gì làm cho nó đủ được, cảnh giới như mộng chẳng thỏa mãn được
Nầy Ðại Vương ! Thuở quá khứ có vua hiệu là Ni Di, rõ thấu các pháp, làm vua đúng pháp, trọn chẳng phóng dật, khi vua có làm việc thì rời lìa phóng dật.
Vua Ni Di ấy thường quán tam thế bình đẳng, lại quán tất cả pháp cũng như tam thế bình đẳng. Vua ấy quán tất cả pháp quá khứ xa lìa tự tánh, quán vị lai tất cả pháp xa lìa tự tánh, quán hiện tại tất cả pháp cũng xa lìa tự tánh. Quán tất cả pháp bình đẳng rồi, vua ấy ở nơi tất cả pháp chẳng thủ trước. Vua ấy quán tất cả thế gian bị bốn thứ điên đảo nó làm điên đảo : ở trong pháp bất tịnh mà tưởng là tịnh, ở trong pháp khổ mà tưởng là vui, ở trong pháp vô thường mà tưởng là thường, ở trong pháp vô ngã mà tưởng là ngã. Vua quán thế gian rồi tự nghĩ rằng : Thế gian bại hoại đại bại hoại, chúng sanh ở nơi tất cả pháp tự tánh, không tịch mà họ chẳng hay biết. Ta nên dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp các chúng sanh. Các chúng sanh ấy tùy thuận ta rồi tất sẽ lãnh thọ lời ta dạy.
Vua Ni Di dùng bốn nhiếp pháp nhiếp các chúng sanh rồi liền đem pháp bình đẳng dạy các chúng sanh.
Nầy đại chúng ! Tất cả các pháp lìa tự tánh. Nếu tất cả pháp lìa tự tánh thì nó cũng chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Tại sao ? Vì các pháp ấy tự tánh chẳng phải thiệt vậy. Các pháp đã lìa tự tánh thì các pháp ấy chẳng thể gọi nó lá quá khứ vị lai hiện tại.
Vua Ni Di dạy các chúng sanh về pháp tam thế bình đẳng rồi, có tám mươi ngàn vạn na do tha vô lượng trăm ngàn chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn.
Bấy giờ tại cung trời Ðao Lợi, chư Thiên Tử tụ hội nghị luận rằng : Lành thay lành thay, người nước Diêm Phù Ðề được đại lợi ích. Vua Ni Di hiểu rõ các pháp, làm vua đúng pháp có đủ phương tiện. Ở nơi các chúng sanh điên đảo, vua ấy dùng phương tiện khéo dạy họ pháp chẳng điên đảo
Bấy giờ Thích Ðề Hoàn Nhơn ở cách xa Thiện Pháp Ðường, do thiên nhĩ vói nghe lời các Thiên tử nghị luận, liền đến Thiện Pháp Ðường lên ngự pháp tọa bảo các Thiên Tử rằng : Vua Ni Di ấy thành tựu đầy đủ phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Tại trời Ðao Lợi nầy, các Ngài có muốn thấy vua Ni Di ấy chăng ? Chư Thiên Tử đồng thưa muốn được thấy.
Thiên Ðế liền truyền ngự thần tên Ma Ða Lê rằng : Nhà ngươi nên trang bị ngàn xe báu cõi trời đến Diêm Phù Ðề nước Bệ Ðề A thưa với vua Ni Di rằng : Ðây là ngàn xe báu cõi trời sai đến rước vua, xin vua chớ kinh sợ. Tất cả chư Thiên Ðao Lợi đều muốn được thấy vua. Xin vua lên ngự trên xe báu nầy.
Lúc thấy vua Ni Di lên xe rồi, thì ngươi hỏi : “ Thưa Ðại Vương ! Nay tôi đem vua theo đường nào để đi đến trên trời Ðao Lợi ? Theo đường chúng sanh an trụ điên đảo mà đi hay theo đường chúng sanh chẳng an trụ điên đảo mà đi.
Thiên thần Ma Ða Lê lãnh lịnh Thiên Ðế Thích nghiêm bị ngàn xe báu, tự lên ngồi rồi từ Ðao Lợi Thiên xuống Diêm Phù Ðề đến nước
Bệ Ðề A thưa vua Ni Di rằng : Chư Thiên Ðao Lợi đem ngàn xe báu đến rước xin vua chớ nghi sợ. Chư Thiên trên ấy đồng muốn thấy vua.
Bấy giờ vua Ni Di lòng không kinh sợ buớc lên xe báu. Vua đã lên rồi, thiên thần Ma Ða Lê lại thưa rằng : Nay tôi phải đem vua đi đường nào, đi đường chúng sanh an trụ điên đảo, hay đi đường chúng sanh chẳng an trụ điên đảo ?
Vua Ni Di bảo Thiên Thần : Ngài có thể đưa tôi đi khoảng giữa hai đường ấy.
Ma Ða Lê liền đem vua đi giữa hai đường ấy.
Vua Ni Di bảo Thiên Thần : Ngài nên tạm dừng xe lại, tôi muốn quan sát các chúng sanh điên đảo.
Thiên Thần tuân lời dừng xe. Trong thời gian ngắn ấy, vua Ni Di làm cho tám mươi ngàn vạn chúng sanh an trụ trong thiệt kiến tam muội. Tại sao được như vậy ? Vì vua từ lâu đã khéo tu tập bất phóng dật hạnh. Khiến chúng sanh nhập thiệt kiến tam muội rồi sau sẽ đều được vô sanh pháp nhẫn.
Ma Ða Lê trọn chẳng hay biết việc làm của vua Ni Di, tiếp tục đưa vua đi đến đảnh núi Tu Di. Từ xa vua thấy rừng rậm xanh tốt liền bảo Thiên Thần :Rừng ấy quyết định là chỗ ở của các chúng sanh chẳng điên đảo.
Thiên Thần Ma Ða Lê thưa : Nơi ấy chính là Thiện Pháp Ðường, chư Thiên Ðao Lợi đang chờ được thấy vua, xin vua bước lên chớ sợ.
Bấy giờ vua Ni Di lòng chẳng sợ bước lên Thiện Pháp Ðường. Thiên Ðế Thích đón tiếp vua và chia nửa bửu tọa cho vua cùng ngồi.
Hai vua ngồi xong. Thiên Ðế Thích ôn nhu nói với vua Ni Di rằng : Ðại vua làm được lợi ích lớn, có thể làm cho Phật pháp thạnh hưng tăng trưởng.
Thiên Ðế Thích lại bảo chư Thiên Ðao Lợi rằng : Vua Ni Di nầy đầy đủ thành tựu phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Trong thời gian ngắn, vua nầy có thể làm cho tám mươi ngàn vạn chúng sanh an trụ Phật pháp mà Ma Ða Lê đều chẳng hay biết.
Lúc ấy vua Ni Di vì chư Thiên Ðao Lợi mà giảng rộng Phật pháp vi diệu. Làm cho chư Thiên được lợi ích xong, vua thưa với Thiên Ðế Thích rằng : Tôi muốn trở lại Diêm Phù Ðề,. Tại sao ? Vì tôi muốn hộ trì chánh pháp của Phật tại Diêm Phù Ðề vậy.
Thiên Ðế Thích liền truyền Ma Ða Lê nghiêm bị ngàn cổ xe đưa vua Ni Di về.
Về đến Diêm phù Ðề vua Ni Di thành tựu phương tiện đại từ thiện xảo dìu dắt vô lượng chúng sanh an trụ Phật pháp.
Nầy Ðại Vương ! Vua Ni Di thuở xưa ấy chính là thân Phật đây vậy.
Ðại Vương nên quan sát năng lực của hạnh bất phóng dật khó nghĩ bàn được. Vua Ni Di lên ngồi ngự tọa của Thiên Ðế Thích mà còn chẳng tham trước. Vì thế nên Ðại Vương ở trong Phật pháp phải siêng năng tinh tấn tu các hạnh chẳng phóng dật.
Nầy Ðại Vương ! Thế nào gọi là Phật pháp ?
Nầy Ðại Vương ! Tất cả pháp đều là Phật pháp cả ».
Tịnh Phạn Vương nghe lời dạy nầy liền bạch rằng : « Bạch Thế Tôn ! Nếu tất cả pháp là Phật pháp, thì tất cả chúng sanh cũng lẽ ra là Phật » .
Ðức Phật phán rằng : « Nếu chẳng điên đảo thấy chúng sanh thì chính là Phật vậy ».
Nầy Ðại Vương ! Nói là Phật đó , là như thiệt thấy chúng sanh vậy, như thiệt thấy chúng sanh chính là thấy thiệt tế. Thiệt tế chính là pháp giới.
Nầy Ðại Vương ! Thiệt tế ấy chẳng thể hiển thị được. Chỉ là danh từ, chỉ là thế tục, chỉ là trong số thế tục, chỉ có ngôn thuyết, chỉ giả đặt để. Phải nhận xét như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Tất cả pháp vô sanh đây là môn đà la ni. Tại sao đây gọi là môn đà la ni ? Ở đây tất cả pháp không động không lay, không lấy không bỏ, đây gọi là môn đà la ni.
Nầy Ðại Vương ! Tất cả pháp bất diệt là môn đà la ni. Tại sao bất diệt là môn đà la ni ? Trong ấy, tất cả pháp chẳng động chẳng lay, chẳng lấy chẳng bỏ. Môn đà la ni ấy không có tướng mạo, không có tự tánh, không đặt đề được, không tác không tạo, không lai không khứ, không ngã không nhơn, không chúng sanh không thọ mạng, không dưỡng dục chẳng phải đối trị, không hình không trạng, không trói không rời, không uế không tịnh, không thương không ghét, không buộc không mở, không xuất không thối, không được không ở, không định không loạn, không tri chẳng phải vô tri, chẳng phải kiến chẳng phải vô kiến, chẳng phải giới chẳng phải phạm, chẳng phải ăn năn chẳng phải không ăn năn, chẳng phải mừng chẳng phải không mừng, chẳng phải khổ chẳng phải vui, chẳng phải định chẳng phải bất định , chẳng phải thiệt chẳng phải đảo, chẳng phải Niết bàn chẳng phải không Niết bàn, chẳng phải ái kiến chẳng phải lìa ái kiến, chẳng phải giải thoát chẳng phải không giải thoát, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải nhìn xem chẳng phải chẳng nhìn xem, chẳng phải nghiệp chẳng phải chẳng nghiệp, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo.
Nầy Ðại Vương ! Phải dùng sáu mươi bảy pháp môn để vào tất cả pháp.
Nầy Ðại Vương tự thể các pháp chẳng phải từng có sẽ có hiện có. Như tượng trong gương chẳng phải có không, tự thể của sắc cũng vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như vang chẳng phải đã sẽ, và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.
Nầy Ðại Vương ! Như dương diệm chẳng phải đã sẽ và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.
Nầy Ðại Vương như khối bọt nước chẳng bền chắc, nó chẳng phải đã sẽ và hiện có, sắc thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, thể tánh nó chẳng phải đã sẽ và hiện có.
Nầy Ðại Vương ! Như mộng thấy nữ nhơn đẹp, sự thấy trong mộng chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thể tánh của sắc thọ tưởng hành thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có.
Nầy Ðại Vương ! Như Thạch Nữ mộng thấy đẻ con trai, sự được thấy trong mộng ấy chẳng phải đã sẽ và hiện có. Thể tánh của thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, chẳng phải đã sẽ và hiện có.
Nầy Ðại Vương ! Sắc không có sanh cũng không có diệt, thọ tưởng hành và thức không có sanh cũng không có diệt, như Niết bàn giới không có sanh không có diệt vậy.
Như pháp giới không sanh không diệt, sắc thọ tưởng hành và thức không sanh không diệt cũng như vậy.
Nầy Ðại Vương Tất cả pháp là Như Lai cảnh giới, bất khả tư nghì cũng là Như Lai cảnh giới, bất cộng pháp, cũng là Như Lai cảnh giới, vì chẳng cùng chung với cảnh giới của tất cả phàm phu vậy, cũng chẳng cùng chung với cảnh giới của tất cả Thanh Văn Duyên Giác vậy.
Tất cả pháp ấy chẳng phải chê chẳng phải khen, chẳng phải được chẳng phải mất, chẳng phải giác chẳng phải bất giác, chẳng phải trí chẳng phải bất trí, chẳng phải thức chẳng phải bất thức, chẳng phải xả chẳng phải bất xả, chẳng phải tu chẳng phải bất tu, chẳng phải thuyết chẳng phải bất thuyết, chẳng phải chứng chẳng phải bất chứng, chẳng phải hiển thị chẳng phải chẳng hiển thị, chẳng phải khả văn chẳng phải chẳng khả văn.
Tại sao vậy ?
Vì pháp ấy không có pháp phò cử được xô ngã được như vậy.
Tại sao vậy ?
Vì tất cả pháp rời lìa tự tánh vậy.
Ðại Vương nay phải an tâm ở trong pháp ấy, sâu quan sát nó chớ tin nơi khác ”.
Bấy giờ Tịnh Phạn Vương nghĩ rằng : Ở trong các pháp không có pháp gì để được. Không có pháp ấy chứng được pháp ấy mà gọi là Phật ấy. Các pháp thiệt chẳng có được. Chỉ vì chúng sanh mà đức Phật giả ngôn thuyết thôi.
Lúc Phật nói pháp ấy, Tịnh Phạn Vương và bảy vạn Thích chủng được vô sanh pháp nhẫn.
Ðức Phật biết hàng Thích chủng được thâm tín rồi liền hiện mỉm cười.
Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ hỏi Phật:
“Ðấng Ðại Hùng Ðạo Sư
Vì đời mà mỉm cười
Mong đuốc sáng thế gian
Diễn nói sự mỉm cười
Thập lực Nhứt thiết trí
Cớ chi hiện mỉm cười
Xin nói cớ cười ấy
Dứt lưới nghi thế gian
Phật vì hàng Thích chủng
Mà hiện tướng mỉm cười
Xin mau trừ lưới nghi
Của chúng Trời và Người
Ðược nghe đức Phật nói
Thế gian hết nghi ngờ
Lòng họ được hoan hỉ
An trụ trong Phật pháp
Các con của Thế Tôn
Ðược nghe cớ mỉm cười
Bền chắc ở thệ nguyện
Trí huệ tất thông đạt
Ngưỡng mong đấng Ðạo Sư
Dứt trừ lòng chúng nghi
Chúng được hết nghi rồi
Tất được vui lớn rộng ”.
Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo :
“ Phật hiện cười tịch diệt
Mã Thắng hãy lắng nghe
Nay Phật sẽ nói rõ
Thích chủng quyết định trí
Các pháp bất khả đắc
Thích chủng đều biết được
Vì thế tâm quyết định
An trụ nơi Phật pháp
Dòng họ Thích danh tiếng
Y cứ vô sở đắc
Sẽ được Vô Thượng Giác
Biết rõ tất cả pháp
Mạng người nầy mãn rồi
Thích chủng ấy quyết định
Ðược sanh nước cực lạc
Gần kề Phật Di Ðà
Họ ở cực lạc rồi
Vô úy thành Bồ đề
Hay đến mười phương cõi
Cúng đường vô số Phật
Ở tại một Phật độ
Hay cúng mười phương Phật
Vì thương xót chúng sanh
Mà cầu đạo vô thượng
Du lịch các Phật quốc
Cúng dường chư Phật ấy
Ðều do thần lực mình
Theo chỗ chư Phật mà đến
Vô lượng vô số kiếp
Cúng dường các Ðạo Sư
Với các thứ diệu cúng
Sau sẽ thành Phật đạo
Mỗi mỗi thành Phật rồi
Hay độ vô lượng chúng
Khiến được thành Phật đạo
Lại giáo hóa chúng sanh
Chúng sanh ở nước ấy
Ðều sẽ thành Phật đạo
Chư Phật Thế Tôn ấy
Chẳng độ chúng Thanh Văn
Mỗi Phật Thế Tôn ấy
Ðều thọ một kiếp tuổi
Chánh pháp chư Phật ấy
Vô lượng vô số kiếp
Chư Phật ấy diệt độ
Chư Bồ Tát đại Trí
Gìn pháp độ thế gian
Ức Vô số ngàn năm
Chư đại Bồ Tát ấy
Giáo hóa vô lượng chúng
Ðặt ở đạo Vô thượng
Thuyết pháp đều không tịch
Khiến trụ bất phóng dật
Tu tập pháp không tịch
Hay được Nhứt thiết trí
Ưa hạnh bất phóng dật
Nghe Thế Tôn tuyên nói
Thọ ký hàng thích chủng
Trời Người đều vui mừng
Chí cầu đạo vô thượng ”.
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Huệ Mạng Xá Lợi Phất : Nầy Xá Lợi Phất ! Ðây là tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát. Ông phải nói lại với hàng bất thối chuyển của Bồ Tát. Tại sao vậy ? Nầy Xá Lợi Phất ! Tam muội nầy chẳng thể nói được. Như Lai ở trong tam muội ấy chẳng được một pháp. Nếu là chẳng được thì nó là chẳng thể giác được. Nếu chẳng thể giác đuợc thì nó là chẳng thể nói được. Nếu chẳng thể nói được thì nó là chẳng thể biết được. Chẳng thể biết được ấy tức là pháp của tam thế chư Phật vậy.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nay ta phó chúc cho ông, đây là tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát phải nên thọ trì đọc tụng giảng nói rộng cho người.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu có thiện nam thiện nữ an trụ đại thừa trải qua mười kiếp tu hành năm ba la mật, lìa Bát Nhã Ba la mật, nếu có người được nghe tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát nầy thì phước đức lớn hơn. Nếu người tạm nghe tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát nầy, nếu lại có người được nghe đây rồi nói cho mọi người thì phước đức càng lớn hơn.
Nếu có người trong mười kiếp nghe đây rồi nói cho mọi người, nếu lại có người nhẫn đến trong thời gian một sát na tu tập tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát thì phước đức càng lớn hơn.
Vì thế nên Xá Lợi Phất đem kinh Bồ Tát Kiến Thiệt Tam Muội nầy vì chư Bồ Tát mà diễn nói chỉ dạy tu hành.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu tu theo tam muội nầy thì sẽ được vô sanh pháp nhẫn.
Nầy Xá Lợi Phất ! Trong pháp hội đây, chư Bồ Tát được ta thọ ký đạo vô thượng đều được an trụ trong tam muội thấy chơn thiệt của Bồ Tát. Bấy giờ tất cả Bồ Tát Thanh Văn, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà, Nhơn Phi Nhơn tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều vui mừng phụng hành.
Trang trước | Mục lục | Trang sau |