Nội dung:
Trẫm nghe, bản tánh lắng mầu, chân tâm trong lặng; tròn khuyết đều dứt, chẳng phải tánh trí hay tìm được mối manh; tan hợp trọn quên, tai mắt đâu thể dự vào vang bóng; có không chung lại, đạo tục san bằng; sừng sững riêng còn, siêu nhiên không gì ngoài. Đây là trọng yếu tánh Kim cang vậy.
Bởi chúng sanh đã lâu huân nhiễm nghiệp tập khắn chặt, tuy có thần thức mà bị sóng gió tri kiến lay động, kẻ buông lung hạnh nhớp, che đậy chẳng phải không; người xoay tuệ quang soi sáng rất ít. Bèn khiến bốn phương đổi chỗ, mơ màng hướng về; lối tế đã sai, đường chánh thành nhiều ngõ. Bản giác thủy giác đâu rành, chân tâm vọng tâm khó phân biệt. Vàng ròng lẫn trong chất quặng, trăng sáng cùng bụi mù hiện chung. Cố hương, lầm về chốn nào? Diện mục, quên mất bản lại. Trên đường Niết-bàn rất khó tiến lên, hang ổ sanh tử chui vào có lúc. Cho nên Thầy ta bậc Năng Nhân chỉ “vô sanh từ nhẫn”, vì thương các khổ đắm chìm nên ôm ấp “tứ hoằng thệ nguyện”, nhọc nhằn da diết “tam tư[1]”. Pháp thân lắng lặng, báo thân hiện ra, điềm lành hiện rõ ở triều Châu. Chánh pháp đi, tượng pháp lại, nơi điện Hán mộng thấy người vàng. Ngài Ca-diếp Ma-dằng, Trúc Pháp Lan chở kinh vào, Tây Trúc (Ấn Độ) Chấn Đán (Trung Hoa) mới thông. Kinh chữ Phạn dịch ra văn Trung Hoa sáng tỏ, đổi lá bối viết vào giấy lụa. Biển giáo phô bày mọi trân bảo, nghĩa trời hiện rực các vì sao. Hoặc muốn tăng thêm nơi chưa ổn, hoặc mong bổ túc chỗ còn sót, nối gót theo lối Y Ngô, tiến chân trên đường Lưu Sa. Vượt biển không xa, quyết chí về Trung Quốc. Từ đời Hán bắt đầu, đến nay mở rộng. Nào là Thiên, Viên, Bán, Mãn không thiếu ở hòm châu. Nào là Đốn, Tiệm, Thật, Quyền dẫy đầy trong rương báu.
Kinh Kim Cang Tam-muội há chẳng phải là loại viên mãn đốn thật hay sao? Nếu chẳng vậy, sao dùng pháp yếu “vô sanh”, dùng thần thông làm phương tiện. Đại sĩ (Bồ-tát) hỏi nhân xuất thế. Tôn giả (Phật) gieo quả cứu cánh. Muốn dẹp trừ có trụ có diệt, trước nên vô tướng vô sanh. Thấy sanh niệm nơi vọng niệm là mờ, khởi thủy giác nơi bản giác là lợi. Chuyển các tình thức vào thức am-ma-la. Quên đầu không đoái thân mình, duỗi tay dắt về nơi thật tế. Nếu chấp ngoại trần duyên hợp là có, liền bàn chân tánh vốn không và tam tướng không quan hệ, Tứ thiền làm gì có? Hòa các vị thành vô thượng vị, đùa các dòng thành dòng sông bất nhị. Xoay chuyển vọng tâm biến kế, tiếp nhập thức Như Lai tàng, bao gồm hiển bày một tâm. Người nhân chấp mà mê, như Man, Thục giữ nhau. Người tùy sai mà ngộ, như Lỗ, Tề một lần đổi.
Trẫm xét đức làm chủ cả nước, chăn dắt muôn dân, mỗi khi nghĩ đến gian nan, quên mất sớm tối. Việc tuy hằng vạn, trộm lúc rảnh rang, chăm việc tiếc giờ, học càng tăng tiến. Chữ nghĩa còn ngại chưa rành, đêm đến canh khuya vẫn còn chăm học. Đã đọc sách Khổng Tử, lại xem kinh nhà Phật. Kinh này một phen xem, trăm thứ cảm hứng nảy sanh, tìm tòi chỗ thâm áo, ba nhẩm chín suy. Gặm nhấm nghĩa vị, thu thập văn hoa, muốn rõ lời Phật, để giúp ích phần nào cho kẻ hậu học. Lạm đem cái thấy biết cạn hẹp, hầu mở mang cho đàn vượn ngốc. Do đó, diễn tả lòng mình, tự làm chú giải. Tìm áo nghĩa nơi Long cung, dò lời mầu nơi Thứu lĩnh, nhỏ từng giọt nước trong nguồn chánh giác, bồi từng hạt bụi trên đường chân như. Phát huy u chỉ, mở sáng chân tông, khiến người vừa mở xem, liền thấy nghĩa rõ ràng. Phá giậu phân cố chấp của bọn tà, làm thầy nhóm nghĩa đồ nghi thức. Vọng kiến mênh mang, dần biết hướng chầu phương bắc; đường mê chi chít, tạm biết lối chánh về nam. Để làm chỗ nương cho học giả, mới thấy lòng Trẫm không keo sẻn. Cho nên làm lời tựa.
Sau khi đọc và giải thích xong quyển kinh Kim Cang Tam-muội, ngài Trần Thái Tông có làm bài tựa gọi là Tựa Kinh Kim Cang Tam-muội. Rất tiếc quyển kinh ngài giảng đã mất, chỉ còn lại bài tựa chúng ta học hôm nay. Đọc bài tựa này chúng ta biết tổng quát quyển kinh Kim Cang và biết được tâm niệm của ngài đối với người hậu học.
Trẫm nghe, bản tánh lắng mầu, chân tâm trong lặng; tròn khuyết đều dứt, chẳng phải tánh trí hay tìm được mối manh; tan hợp trọn quên, tai mắt đâu thể dự vào vang bóng; có không chung lại, đạo tục san bằng; sừng sững riêng còn, siêu nhiên không gì ngoài. Đây là trọng yếu tánh Kim cang vậy.
Trước tiên ngài giải thích thế nào là tánh Kim cang.
Bản tánh lắng mầu, chân tâm trong lặng. Bản tánh yên tịnh mà nhiệm mầu, chân tâm trong trẻo, lặng lẽ không dấy động.
Tròn khuyết đều dứt, chẳng phải tánh trí hay tìm được mối manh. Hai bên tròn và khuyết đều không còn, không thể dùng trí suy gẫm hiểu biết để tìm ra manh mối của chân tâm. Vì bản tánh chân tâm lìa đối đãi, nên dù dùng trí tìm hiểu cũng không thể được.
Tan hợp trọn quên, tai mắt đâu thể dự vào vang bóng. Tan và hợp đều quên, hai đối đãi đều dứt, dùng mắt dùng tai để thấy nghe vẫn không thể được. Dù cố lắng tại nghe hay chú mắt nhìn, chúng ta không bao giờ nghe được vang, thấy được bóng của chân tâm bản tánh.
Có không chung lại, đạo tục san bằng. Có không đều hợp nhất, có không riêng ngoài không, không cũng không ngoài có. Đạo tục san bằng, đạo là người xuất gia, tục là người tại gia, hai bên đều bình đẳng, người xuất gia có bản tánh chân tâm, người cư sĩ cũng có chân tâm bản tánh. Chân tâm lìa đối đãi không mắc kẹt hai bên, không thể nói người xuất gia mới có chân tâm, người tại gia vô phần. Ai ai cũng bình đẳng như nhau.
Sừng sững riêng còn, siêu nhiên không gì ngoài. Sừng sững riêng còn là chỉ bản thể rõ ràng sừng sững, trùm khắp, vượt hơn tất cả, không có cái gì thoát ngoài nó được.
Đây là trọng yếu tánh Kim cang vậy. Tánh Kim cang quan trọng là như vậy. Tánh Kim cang là chỉ bản tánh chân tâm của con người. Tại sao? Vì kim cang là chất cứng nhất đối với tất cả những loài khoáng sản, nó phá được tất cả chất cứng khác mà không chất nào phá được nó. Cũng vậy, tất cả sự vật mắt thấy tai nghe đều là tướng đối đãi sanh diệt nên là tạm bợ giả dối. Còn bản tánh chân tâm không phải là tướng sanh diệt nên dụ như kim cang. Bản tánh chân tâm là từ chuyên môn để chỉ tánh thấy nghe hiểu biết của chúng ta. Tánh này không bị vô thường sanh diệt mà nó bao trùm tất cả cái vô thường sanh diệt, cho nên dùng từ sừng sững riêng còn, siêu nhiên không gì ngoài.
Bản tánh Kim cang ai ai cũng có, nhưng nếu có người đặt câu hỏi: Tánh Kim cang của tôi ở đâu? Có ai chỉ được không? Nghe lời Phật tổ dạy, chúng ta tin mình có tánh Kim cang, nhưng không biết nó ở đâu. Vậy tánh Kim cang có hay không? Đây là một câu hỏi để chúng ta suy gẫm, rồi một lúc nào bỗng nhiên chúng ta biết mình có thật, không còn nghi ngờ nữa.
Bởi chúng sanh đã lâu huân nhiễm nghiệp tập khắn chặt, tuy có thần thức mà bị sóng gió tri kiến lay động, kẻ buông lung hạnh nhớp, che đậy chẳng phải không; người xoay tuệ quang soi sáng rất ít.
Ai cũng có chân tâm thanh tịnh, nhưng do nghiệp tập huân vào làm cho nhơ nhớp, khắn chặt nơi mình. Huân nhiễm là chữ Hán, huân là xông ướp, nhiễm là nhuốm nhơ. Thí dụ như chúng ta có cái khăn tay trắng mới chưa có nhiễm dơ. Muốn khăn có mùi thơm hoa lài, chúng ta lấy hoa lài ủ vào, một lát sau khăn có mùi thơm hoa lài đó gọi là ướp. Muốn có mùi thơm hương trầm, chúng ta đốt gỗ trầm và xông khói cái khăn, một chốc sau khăn có mùi hương trầm đó gọi là xông. Vậy khăn không tự có mùi thơm hương trầm hay hoa lài mà phải nhờ xông ướp. Như thế từ không, xông ướp mãi thành có, mùi thơm tuy có mà không thấy, tuy không thấy mà vẫn dính. Chúng ta cũng như vậy, ai cũng có chân tâm thanh tịnh, thanh tịnh thì đâu có nhiễm ô, nhưng vì xông ướp những tập nghiệp thế gian, lâu ngày trở thành nhơ nhớp. Những tập nghiệp đó là gì? Thí dụ như chúng ta quen ai làm việc gì vừa ý thì vui, không như ý thì giận. Chân tâm vốn thanh tịnh, không có nóng giận, nhưng vì thói quen muốn hơn thiên hạ, muốn được tiếng khen, nên bị chê thì nổi giận liền. Đó là do mới huân tập, chứ không phải chân tâm sẵn có. Từ khi lọt lòng mẹ đến nay, nếu không có ai khen chê thì sau này khi nghe chê chúng ta có giận không? Hẳn là không. Sở dĩ có giận vì chúng ta quen được khen, nên bị chê là nổi tức ngay, đó gọi là huân tập, là xông ướp thói quen. Lời khen có khi thật, có khi khen cho vừa lòng, nếu nghe khen là vui, quen được như vậy, đó là ngầm chấp cái ngã của mình là tốt là hay. Vui mừng hay nổi giận vốn không có trong chân tâm thanh tịnh mà do xông ướp những thói quen của thế gian biến thành nghiệp cứng chắc nơi mình.
Tuy có thần thức mà bị sóng gió tri kiến lay động. Chữ thức ở đây không phải là vọng thức mà chỉ cho thức thứ chín, gọi là thức am-ma-la theo tiếng Phạn. Chúng ta có sẵn thức thanh tịnh nhưng bị sóng gió tri kiến làm cho lay động. Đây không phải tri kiến Phật mà là tri kiến chúng sanh. Sóng gió tri kiến là do thấy nghe hiểu biết đuổi theo sáu trần, làm cho biển thức thanh tịnh bị xao động nổi sóng.
Kẻ buông lung hạnh nhớp, che đậy chẳng phải không. Khi đuổi theo sáu trần, chúng ta buông lung hạnh nhớp, tức là buông theo những niệm tham sân si, làm che đậy tâm thức trong sạch sáng suốt nơi mình.
Đoạn này ngài Trần Thái Tông muốn nói: Mọi người ai cũng có chân tâm thanh tịnh, nhưng vì đuổi theo sáu trần nên dao động, tạo những hạnh nhớp nhơ che đậy bản tánh trong sạch, sáng suốt. Số người này rất nhiều.
Người xoay tuệ quang soi sáng rất ít. Còn người biết xoay trí tuệ sáng suốt soi chiếu lại bản tánh chân tâm, không để bụi như phủ kín, số người này quá ít.
Như vậy mỗi ngày chúng ta chạy theo sắc, thanh, hương, vị… độ bao nhiêu giờ, còn được bao nhiêu phút ngồi để xoay lại tìm cái chân thật nơi mình? Ở Thiền viện mỗi ngày chắc chắn chúng ta được sáu tiếng đồng hồ ngồi xoay lại nhưng vẫn bị thiệt thòi, vì ma ngủ che mắt ít ra cũng mất hai tiếng, chỉ còn bốn tiếng cho người biết xoay lại, thật là quá ít! Còn thời gian thả trôi ra ngoài lại quá nhiều, khi tỉnh khi mê, lúc quên lúc nhớ, không hoàn toàn sáng suốt. Khi mê lầm chạy theo bên ngoài thì thế nào?
Bèn khiến bốn phương đổi chỗ, mơ màng hướng về; lối tẽ đã sai, đường chánh thành nhiều ngõ. Nếu chúng ta buông lung hạnh nhớp thì bản tánh bị che mờ, tâm thể bị khuất lấp, bèn khiến bốn phương đối chỗ, tức là không biết nhận định đâu chánh đâu tà, đâu chân đâu ngụy. Cho nên mơ màng hướng về, đối với đường trở về bản tánh, chúng ta mơ màng không biết.
Bốn phương đổi chỗ, trong kinh Lăng-nghiêm có nói rất rõ. Thí dụ như cái bàn có bốn góc, mỗi góc ở một phương: phương đông, phương tây, phương nam, phương bắc. Như hiện giờ tôi đang ngồi giữa, tôi nói: Đây là đông, đây là tây, kia nam, kia bắc. Giả sử tôi đổi chỗ ngồi sang một bên phía đông thì góc bàn phía đông đối với tôi biến thành phía tây. Nếu tôi đổi qua ngồi phía trên thì góc bắc biến thành nam mất rồi. Thế nên nói bốn phương đổi chỗ vì khi mình dời vị trí, bốn hướng cũng đổi theo, không có cố định. Bèn khiến bốn phương đổi chỗ tức là không tìm ra được hướng cố định nữa, nên đường về sẽ mơ màng không nắm vững.
Lối tẽ đã sai, đường chánh thành nhiều ngõ. Đã đi lầm trong lối tẽ, chúng ta không còn nhận ra đường chánh. Đi trong đường tẽ mà tưởng lầm là đường cái thì không bao giờ tìm ra đường cái được.
Bản giác thủy giác đâu rành, chân tâm vọng tâm khó phân biệt. Bản giác là chỉ cho tánh giác sẵn có nơi mọi người, còn thủy giác là chỉ cho tánh giác mới ngộ thấy sau này. Như vậy thủy giác là cái mới nhận, bản giác là cái sẵn có. Trong nhà thiền hay đặt câu hỏi: Ai xúi giục các ông đi tu? Cha mẹ không xúi giục, anh chị em cũng không, vậy ai xúi giục mình đi tu? Chính là bản giác. Vì động cơ bên trong là bản giác nên nó mới thúc đẩy mình đi tìm cái giác. Vậy nếu ai có hỏi tại sao Thầy đi tu, thì trả lời: Tại bản giác của tôi thúc đẩy tôi đi tu. Đó là một sự thật mà ít người biết được. Cũng như nhân đói bụng mình mới đi tìm cơm cháo, ai xúi giục? Bao tử đói là động cơ bên trong, nó mới xúi mình được. Có nhu cầu nơi mình cho nên mình mới tìm kiếm cái đó. Cũng như vậy, bản giác thúc đẩy mình đi tìm cái giác, nó ngầm sâu bên trong, chúng ta không thấy. Đến khi học đạo rồi thỉnh thoảng chúng ta thức tỉnh, giác ngộ được chân lý sẵn có nơi mình. Nhận ra sau gọi là thủy giác, tức là cái giác sau.
Tôi giải thích xa hơn một chút; Trên chánh điện thiền viện Trúc Lâm, ở giữa thờ đức Phật Thích-ca, hai bên là tượng Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền. Thường ở các chùa thì tượng ngài Văn-thù cưỡi sư tử, cầm kiếm, còn ngài Phổ Hiền cưỡi voi, cầm hoa sen. Nhưng ở Thiền viện đây có hơi khác, hai vị Bồ-tát là hai biểu trưng:
Bồ-tát Văn-thù biểu trưng cho trí tuệ bản giác hay căn bản trí. Ngài cầm một vật giống như ống loa và cầm cây gõ, tiếng nó vang lên, mình lắng tai nghe, đây là tượng trưng cho bản giác hay căn bản trí có sẵn nơi mỗi người. Còn Bồ-tát Phổ Hiền tay cầm quyển sách xem, là huân tập những hiểu biết hiện tại, ngài tượng trưng cho thủy giác hay là sai biệt trí. Căn bản trí hay bản giác là gốc giác ngầm sẵn có bên trong, nó thúc đẩy mình đi tìm cái giác. Sai biệt trí hay thủy giác có công dụng giáo hóa chúng sanh. Hiểu như vậy mới biết mỗi vị Bồ-tát có chỗ tượng trưng khác nhau.
Nơi các chùa khác, hình ảnh hai ngài tượng trưng cho trí tuệ và hạnh nguyện. Bồ-tát Văn-thù cầm kiếm cưỡi sư tử, là tượng trưng trí tuệ cắt đứt tất cả dây triền phược. Bồ-tát Phổ Hiền cầm hoa sen cưỡi voi là tượng trưng cho hạnh nguyện giáo hóa chúng sanh. Nếu có trí tuệ mà không hạnh nguyện để đem ứng dụng, đó là trí tuệ suông, không có lợi ích cho ai. Thế nên phải có hạnh nguyện mới làm được những điều lợi lạc, tức là phải lăn vào trong cõi đời ô trược để cứu độ chúng sanh. Hiểu như vậy chúng ta mới rõ ý nghĩa tượng trưng của mỗi hình tượng Bồ-tát.
Chân tâm vọng tâm khó phân biệt. Như hiện giờ chúng ta nói chân tâm vọng tâm, nhưng không biết cái nào là chân, cái nào là vọng. Khi chúng ta dấy niệm suy nghĩ, đó là vọng tưởng, vọng tâm. Còn biết rõ ràng không mờ mịt, biết một cách sáng suốt mà không niệm khởi, đó là chân tâm.
Vàng ròng lẫn trong chất quặng, trăng sáng cùng bụi mù hiện chung. Đây rất khó giản trạch. Khi vàng ròng ở trong quặng, trong mỏ, khó phân biệt cái nào là vàng, cái nào là cặn bã, cũng như trăng sáng cùng bụi mù hiện chung. Khi trăng sáng, ánh sáng rọi khắp bầu trời, khắp cả hư không, lúc đó có những hạt bụi lẫn trong hư không thì ánh trăng rọi chung với bụi, thật khó phân biệt cái nào là bụi, cái nào là ánh sáng mặt trăng. Nhưng ánh sáng và bụi khác nhau, ánh sáng sáng mà không động, bụi thì lay động lăng xăng. Trong kinh Lăng-nghiêm có một thí dụ: Ban ngày mặt trời lên, ánh nắng rọi qua cửa sổ, nhìn theo làn ánh sáng, chúng ta thấy rất nhiều hạt bụi lăng xăng bay qua lại. Ánh sáng sáng mà không động, bụi thì lay động, nhưng bụi và ánh sáng không thể tách rời nhau được, chính chỗ này là chỗ thiết yếu của sự tu. Bụi động mà không ngoài ánh sáng, vọng tưởng là động mà không ngoài chân tâm. Chân tâm không động mà hằng tri hằng giác, giống như ánh sáng mặt trời, sáng mà không động, còn bụi ở trong ánh sáng đó thì lay động, dời đổi chỗ luôn.
Vậy chúng ta tu phải khéo giản trạch, nếu ngồi để tìm chân tâm là bệnh, thật ra chân tâm không cần tìm, tìm chân tâm hay cầu giác ngộ đều là bệnh. Không tìm cầu, chỉ nhìn ánh sáng có bụi, thì biết bụi, biết ánh sáng. Ánh sáng không phải là bụi, bụi không phải là ánh sáng, biết rõ như vậy thì không quên ánh sáng. Vì thế tôi chỉ đơn giản nói Biết vọng không theo là đủ. Không theo vọng thì chân hiện, không phải tìm đâu xa. Thế mà có nhiều người không biết, ngồi lại tìm cho ra cái chân, càng tìm càng mất, càng tìm càng xa, tại sao? Vì nó là hiện hữu, lại đi tìm nó, thành ra mất cái hiện hữu, chỗ này phải rất tinh tế mới nhận ra được.
Cố hương, lầm về chốn nào? Không nhận ra chân tâm, cũng không biết vọng tâm, chân vọng không phân, như thế là chúng ta đã lẫn lộn bụi và ánh sáng, đất quặng và vàng ròng, không biết đâu là thật đâu là giả. Khi đã lầm rồi thì chúng ta quên mất cố hương, cho nên nói cố hương, lầm về chốn nào. Muốn về cố hương nhưng không biết nơi đâu. Chúng ta cứ nghĩ mình xa quê hương trăm ngàn dặm, nên bây giờ tìm về nơi đó. Thật ra cố hương là nơi không nơi, không nơi không chốn, nhưng lại là chỗ muôn đời của mình. Hiện nay do hoặc nghiệp tạo ra thân cảnh, chúng ta đuổi theo, đây là chỗ tạm, không phải cố hương, chúng ta chỉ là khách tạm, vậy cố hương ở đâu? Nếu chúng ta không phân biệt được chân vọng, không thấy rõ bản giác thủy giác, thì chúng ta đã quên cố hương, không biết đâu mà tìm.
Diện mục, quên mất bản lai. Mặt thật xưa nay của mình cũng quên mất. Đã quên cố hương thì quên mất cả mặt thật xưa nay. Mặt chúng ta hiện nay vài mươi năm sau thì hoại mất không còn, cho nên nó không thật. Mặt thật xưa nay mới là chân diện mục mà mình đã quên mất, chỉ sống với cái tạm bợ thôi.
Trên đường Niết-bàn rất khó tiến lên, hang ổ sanh tử chui vào có lúc. Bởi quên mất cố hương, quên mất bản lai diện mục, nên con đường Niết-bàn muốn tiến lên, làm sao tiến được? Vì không tiến được nên đang chui vào hang ổ của sanh tử, chúng ta quả thật là những kẻ ngu si.
Cho nên Thầy ta bậc Năng Nhân chỉ “vô sanh từ nhẫn”. Vua Trần Thái Tông nói Thầy ta là chỉ đức Phật, là bậc Năng Nhân, tức là có khả năng làm cho mọi người hết khổ được an vui (Nhân là nhân từ, cứu người hết khổ). Vì thế nên ngài chỉ ra pháp “vô sanh từ nhẫn”, tức là lòng từ an nhẫn chỗ vô sanh. Vô sanh là chủ yếu của kinh Kim Cang Tam-muội.
Vì thương các khổ đắm chìm nên ôm ấp “tứ hoằng thệ nguyện”, nhọc nhằn da diết “tam tư”. Đức Phật thương xót chúng sanh đang chịu đau khổ chìm đắm trong sanh tử, nên ngài mới ôm ấp tứ hoằng thệ nguyện:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Vì thương chúng sanh chìm đắm trong biển khổ nên đức Phật ôm ấp lòng từ bi nguyện độ tất cả chúng hàm linh. Nhọc nhằn da diết tam tư, lòng ngài luôn luôn nhọc nhằn da diết trong việc độ sanh.
Pháp thân lắng lặng, báo thân hiện ra, điềm lành hiện rõ ở triều Châu. Pháp thân lắng lặng là nói về pháp thân thanh tịnh tịch tĩnh không dấy động. Báo thân hiện ra nghĩa là báo thân từ pháp thân mà hiện, do phước báo hiện ra hình tướng. Cho nên điềm lành hiện rõ ở triều Châu, thể pháp thân bất sanh bất diệt lắng lặng không hình tướng, nhưng vì bi nguyện nên mới dùng báo thân hiện ra đời để cứu độ quần sanh. Chữ “triều Châu” là chỉ đời nhà Châu (tk XI – 256 TTL). Theo thánh ký ở Trung Hoa, đức Phật sanh ra năm thứ hai mươi sáu đời Châu Chiêu Vương, tức khoảng đầu thế kỷ X trước Tây lịch. Pháp thân lắng lặng, báo thân tùy duyên ứng hiện ra đời, vì thế đức Phật mới sanh ra ở Ấn Độ, nhằm triều nhà Châu bên Trung Hoa.
Chánh pháp đi, tượng pháp lại, nơi điện Hán mộng thấy người vàng. Thời chánh pháp là năm trăm năm đầu lúc đức Phật còn tại thế. Thời tượng pháp là năm trăm năm kế tiếp sau. Trong thời sau này, vua Hán Minh Đế, niên hiệu Vĩnh Bình thứ bảy (năm 61 TTL), một đêm nằm mộng thấy có người vàng, trên đầu tỏa ánh hào quang. Nhà vua mới hội quần thần lại, hỏi người đó là ai? Có người biết nói đó là hình ảnh đức Phật bên Ấn Độ, nhà vua mới cho người sang Tây Trúc thỉnh kinh, và rước chư tăng về
Ngài Ca-diếp Ma-đằng, Trúc Pháp Lan chở kinh vào, Tây Trúc (Ấn Độ) Chấn Đán (Trung Hoa) mới thông. Hai vị tăng Ấn Độ theo lời mời của vua Hán Minh Đế chở kinh về Trung Hoa. Từ đó Ấn Độ với Trung Hoa mới thông, Trung Hoa mới hiểu những kinh điển của Phật.
Kinh chữ Phạn dịch ra văn Trung Hoa sáng tỏ, đổi lá bối viết vào giấy lụa. Ở Ấn Độ ghi kinh trên lá bối, từng miếng xấu lại thành một thiên, gồm một ngàn miếng, nên từ thường dùng là bối diệp, tức là kinh lá bối. Kinh từ chữ Phạn dịch sang văn Trung Hoa rất sáng tỏ, ghi kinh không dùng lá bối nữa mà viết vào lụa trắng.
Biển giáo phô bày mọi trân bảo, nghĩa trời hiện rực các vì sao. Biển giáo tức là giáo lý Phật rộng như biển cả, trong ấy toàn là những lời vàng ngọc quý báu. Nghĩa trời hiện rực các vì sao, nghĩa của kinh mênh mông như trời cao biển rộng, trong kinh có những điểm sáng suốt rất là cao quý.
Hoặc muốn tăng thêm nơi chưa ổn, hoặc mong bổ túc chỗ còn sót, nối gót theo lối Y Ngô, tiến chân trên đường Lưu Sa. Đường Y Ngô là con đường buôn bán tơ lụa qua Ấn Độ, thuộc vùng đất của Hung Nô ngày xưa, nhà Đông Hán chiếm lấy làm đường sang Tây Vức, nay thuộc huyện Cáp Mật tỉnh Tân Cương. Đây là vùng sa mạc nên cũng gọi là Lưu Sa. Những vị truyền giáo ngày xưa từ Ấn Độ sang Trung Hoa đều theo con đường này.
Vượt biển không xa, quyết chí về Trung Quốc. Các vị truyền giáo khi trước hay tổ Bồ-đề-đạt-ma sau này cũng đều đi đường biển sang Trung Hoa.
Từ đời Hán bắt đầu, đến nay mở rộng. Khởi sự từ đời Hán Minh Đế đến nay, sự truyền bá Phật pháp càng ngày càng mở rộng.
Nào là Thiên, Viên, Bản, Mãn không thiếu ở hòm châu. Chữ thiên là chỉ cho thiên lệch, nằm một bên. Viên là tròn đủ. Bán là phân nửa. Mãn là đầy khắp. Trong những bài kinh, tùy duyên người hỏi, đức Phật trả lời. Người căn cơ cao ngài dạy pháp cao, người căn cơ thấp ngài dạy thấp. Đối với người ngoại đạo, ngài dùng luận ngoại đạo để chuyển họ trở về chánh pháp. Bởi thế Phật nói pháp không có nhất luật giống nhau, có khi chỉ nói phân nửa hay một phần chân lý. Còn những bài kinh gọi là “Vô vấn tự thuyết”, nghĩa là không ai hỏi mà tự lòng Phật muốn dạy, đó mới thật là kinh gốc. Tùy hỏi mà đáp, cao thấp khác nhau, nên trong kinh Phật có những bài kinh chưa viên mãn.
Thí dụ như trong kinh Thi-ca-la-việt hay là Lễ Bái Lục Phương, ông Thi-ca-la-việt sáng nào cũng ra trước nhà lạy sáu phương. Một hôm ông đang lạy, Phật đi tới hỏi: Ông lạy cái gì? Ông đáp: Tôi cũng không biết nữa, cha tôi khi trước dạy sáng nào cũng phải lạy sáu phương, tôi cứ y lời cha dạy mà làm. Nhân đó đức Phật mới dạy ý nghĩa lễ bái lục phương, lạy phương Đông là ý nghĩa gì, phương Tây ý nghĩa gì v.v… Từ ý của ngoại đạo, ngài chuyển về đạo lý chân thật, nhưng chưa phải hoàn toàn, chỉ có một phần thôi nên gọi là thiên hay bán. Song tất cả pháp Phật dạy đều chứa đựng những của báu, cho nên nói không thiếu ở hòm châu, nghĩa là rương chứa đầy châu báu,
Nào là Đốn, Tiệm, Thật, Quyền dẫy đầy trong rương báu. Đốn là đốn ngộ. Tiệm là tiệm tu, là pháp tu từ từ. Thật là chỉ ngay cái chân thật. Quyền là dùng phương tiện để hướng dẫn người đi. Vì thế giáo lý của đức Phật, đốn tiệm thật quyền tuy có khác, nhưng đều là của báu, nên tất cả đầy dẫy trong rương báu không có thiếu. Tóm lại, ngài Trần Thái Tông tán thán kinh điển Phật dạy, ngài thấy kinh Phật là rất cao quý, mênh mông rực rỡ như những hòn ngọc quý, những của báu vô giá. Dù trong kinh có chia ra thứ bậc sai biệt, nhưng đều là của báu chứ không phải thường.
Sau đây ngài nói thẳng về kinh Kim Cang.
Kinh Kim Cang Tam-muội há chẳng phải là loại viên mãn đốn thật hay sao? Ngài đặt câu hỏi mà chính là đã trả lời. Phần trên có nói kinh điển Phật chia ra thiên, viên, bán, mãn hay đốn, tiệm, thật, quyền. Nhưng xét lại riêng quyển Kim Cang Tam-muội này không phải là viên, mãn, đốn, thật hay sao? Quả thật vậy, kinh Kim Cang Tam-muội là Viên giáo, Mãn giáo, Đốn giáo, Thật giáo.
Nếu chẳng vậy, sao dùng pháp yếu “vô sanh”, dùng thần thông làm phương tiện. Nếu không phải là viên mãn đốn thật thì làm sao trong kinh này lại lấy pháp yếu “vô sanh” làm chủ? Còn những thần thông chỉ là phương tiện. Đoạn sau tôi sẽ dẫn trong kinh để chỉ pháp yếu vô sanh là gì.
Đại sĩ (Bồ-tát) hỏi nhân xuất thế. Tôn giả (Phật) gieo quả cứu cánh. Trong các kinh thường gọi đức Phật là Thế Tôn, trong kinh Kim Cang Tam-muội thưa là Tôn giả. Bồ-tát hỏi về nhân xuất thế, đức Phật chỉ cho quả cứu cánh, tức là quả vị cùng tột.
Muốn dẹp trừ có trụ có diệt, trước nên vô tướng vô sanh. Thấy được vô tướng vô sanh là trừ được sanh trụ dị diệt. Thí dụ như hiện giờ cái bàn ở đây đang còn gọi là trụ, ngày mai nó cũ mục gọi là dị, sau này nó hoại đi gọi là diệt. Nếu thấy cái bàn là thật thì có đúng bản chất trụ diệt của nó không? Cho cái bàn là thật là chúng ta lầm, vì không đúng với bản chất của nó. Nguyên thể cái bàn là tướng thành trụ hoại không, phàm có tướng là phải hoại, phải không? Còn ở chung quanh chúng ta có cái gì không hoại, không “không” chăng? Thí dụ như hư không trong cái nhà này có hoại chăng? Nếu cái bàn là có, thì chỗ không này gọi là gì? Là hư không. Như vậy đây là có cái bàn, đây là có hư không. Nhưng cái bàn này có tướng, nên bị hoại diệt, hư không này không tướng, ai hoại diệt được nó? Chúng ta phải nhớ cái không đây là không có tướng, chứ không phải là không ngơ.
Thường chúng ta hay phân biệt theo con mắt, vật gì có tướng gọi là có, không tướng gọi là không. Như thế con mắt chúng ta có đáng tin chăng? Thật ra trong cái không này còn có không khí, có vô số vi trùng, có những làn điện chằng chịt mà chúng ta không thấy. Vì không thấy nên nói không, nên không đúng chân lý. Chẳng qua con mắt chúng ta chỉ thấy cái thô, không thấy được cái tế, chứ chẳng phải không có cái tế. Có cái có tướng, có cái không tướng, có tướng thì bị hoại, không tướng thì không hoại. Thế nên nói muốn dẹp trừ có trụ có diệt, trước nên vô tướng vô sanh, Nhận ra cái vô tướng, cái đó là vô sanh. Trở lại con người chúng ta, thân này là có tướng. Có tướng ắt hoại diệt, bám vào cái hoại diệt cho là thật, cho là ta, sẽ có lỗi gì? Thế thì ta là cái hoại diệt, ta sẽ mất đi. Còn ngay trong thân hoại diệt có cái không tướng, không hoại diệt mà chúng ta lại bỏ quên. Vì vậy chúng ta phải nhận ra cái không tướng đó, mới là vô sanh.
Cái không tướng là cái gì? Tức là cái thấy, cái nghe…, nó không có tướng. Học kinh Lăng-nghiêm, chúng ta thấy rất rõ điều này. Đức Phật từng quở ngài A-nan chấp cái có tướng mà quên cái vô tướng.
Đức Phật dùng thí dụ đưa tay lên và hỏi ngài A-nan: Ông thấy không? Ngài A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, thấy. Phật để tay xuống lại hỏi: Ông thấy không? Ngài đáp: Bạch Thế Tôn, không thấy. Khi đức Phật đưa tay lên ngài A-nan nói thấy, để tay xuống lại nói không thấy, vậy cái thấy là cái tay phải không? Có cái tay nói có thấy, không tay nói không thấy, như thế đã lầm cái thấy với cái tay mất rồi. Biến cái tay thành cái thấy mà quên mất cái thấy đi, nên Phật mới quở dạy: Đưa tay lên thì ông thấy có cái tay, để tay xuống thì thấy không có tay, chứ đâu phải không thấy. Nếu không thấy làm sao biết không có cái tay? Vì lẫn lộn giữa cái tay và cái thấy, thành ra chúng ta chỉ biết cái có tướng mà quên đi cái không tướng, chả trách chúng ta trôi lăn trong sanh tử!
Đến thí dụ đánh chuông, đức Phật dạy ngài La-hầu-la đánh tiếng chuông “boong” rồi hỏi ngài A-nan: Ông nghe không? Ngài A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, nghe. Tiếng chuông lặng hết, Phật hỏi: Ông nghe không? Ngài thưa: Bạch Thế Tôn, không nghe. Phật lại dạy đánh chuông một lần nữa và hỏi nghe không? Thưa nghe. Chuông lặng, hỏi nghe không? Thưa không nghe. Nên ngài A-nan bị Phật quở một lần nữa:
– Có tiếng chuông thì ông nghe tiếng chuông, khi tiếng chuông lặng hết thì ông nghe không có tiếng chuông, tại sao lại nói không nghe? Nếu không nghe làm sao biết không có tiếng chuông?
Chúng ta hiện nay cũng lầm lẫn như vậy, có tiếng động nói có nghe, không tiếng động nói không nghe. Vậy là chúng ta đã đồng hóa tiếng động thành cái nghe, nên quên mất cái hay nghe, tức là quên mình. Kỳ thật tiếng động có sanh có diệt, còn cái hay nghe không diệt không sanh; song chúng ta lại chấp cái sanh diệt là mình, mà quên đi cái không sanh diệt, quên đi cái vô tướng vô sanh. Chỗ này rất là tế nhị, chúng ta phải hiểu cho thật rõ, nếu không sẽ lầm chấp mà quên mất mình. Vì thế muốn dẹp trừ có trụ có diệt, trước nên vô tướng vô sanh, phải nhận ra cái vô sanh mới diệt trừ được cái trụ diệt.
Thấy sanh niệm nơi vọng niệm là mờ, khởi thủy giác nơi bản giác là lợi. Thấy sanh niệm nơi vọng niệm nghĩa là đang yên tĩnh bỗng dấy lên một niệm, gọi là sanh niệm, niệm đó che mờ bản giác. Vì mỗi niệm khởi là một hạt bụi, nếu niệm khởi liên miên thì có rất nhiều hạt bụi. Tánh giác giống như mặt gương, một hạt bụi dính vào thì gương mờ đi một chút, nếu nhiều hạt liên tục, lớp lớp phủ lên gương, thì gương sẽ bị mờ đi không sáng nữa. Cũng như vậy, nếu niệm khởi liên miên thì mặt gương trí tuệ bị mờ tối. Thế nên chúng ta tu buông vọng niệm là để cho những hạt bụi vọng tâm đừng tiếp tục dấy lên. Nếu chúng ta dứt được vọng niệm thì tánh giác của mình được sáng tỏ không bị lu mờ.
Khởi thủy giác nơi bản giác là lợi, tại sao? Vì tất cả chúng ta ai cũng có bản giác, tức là tánh giác sẵn có, trong sáng. Khởi lên thủy giác nơi bản giác là có lợi cho chúng sanh. Khởi thủy giác tức là biết xoay chiếu lại, thủy giác là cái sáng xoay lại, từ chuyên môn nhà thiền gọi là hồi quang. Xoay ánh sáng thủy giác thì sẽ có lợi cho mình, cho nên chỗ chúng tôi nói biết vọng, chính là dụng của trí, gọi là thủy giác, chứ không phải là cái động của vọng tưởng. Chúng ta không biết nên nói biết vọng cũng là động, song không ngờ cái đó là trí, là thủy giác. Thế nên ngài Trần Thái Tông nói: Thấy sanh niệm nơi vọng niệm là mờ, khởi thủy giác nơi bản giác là lợi. Phật dạy chúng ta tu là phải quán, quán chiếu tức là thủy giác. Thí dụ như Phật dạy: quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường v.v…, đó là thủy giác, chứ không phải là cái động, cái tạm bợ. Chính thủy giác loại bỏ những mê lầm, làm cho bản giác được trong sáng. Vậy thủy giác rất là hữu ích, nên nói là có lợi.
Chuyển các tình thức vào thức am-ma-la (amra vijñāna). Trong các kinh Nguyên thủy chỉ nói sáu thức: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân và ý. Bên Đại thừa nói tới tám thức, ngoài sáu thức còn thức mạt-na (mānas) và thức a-lại-da (ālaya). Riêng trong kinh Kim Cang Tam-muội này nói thêm thức thứ chín là thức am-ma-la.
Sáu thức ai cũng hiểu rõ, như mắt duyên với sắc trần khởi phân biệt gọi là nhãn thức, tai xúc chạm với thanh trần khởi phân biệt gọi là nhĩ thức v.v…, cho đến ý duyên với pháp trần dấy khởi phân biệt buồn vui thương ghét, gọi là ý thức.
Thức thứ bảy là thức mạt-na, cũng gọi là ý hay ý căn, cũng có tên là truyền tống thức. Thức này có công năng truyền tống (như ông tống thư văn), nghĩa là thâu thập những gì của sáu thức trước và dồn vào thức thứ tám là thức a-lại-da hay là tàng thức. Thức thứ sáu hay ý thức, khi có khi không, khi dấy lên hoạt động, khi lắng xuống ẩn vào mạt-na, nên gọi mạt-na là ý căn, tức là gốc của ý. Thức mạt-na không có công dụng nhiều, chỉ bám vào thức thứ tám làm ngã.
Thức thứ tám gọi là a-lại-da, Trung Hoa dịch là tàng thức, tức là kho chứa đựng. Thức a-lại-da chứa để dành tất cả những gì mắt thấy tai nghe v.v…, gọi chung là chủng tử hay hạt giống. Thức a-lại-da chứa đựng tất cả chủng tử thiện ác tốt xấu v.v…, không lựa chọn, không chê khen. Khi các chủng tử trồi lên (hiện hành) thì chúng ta nhớ biết lại. Vì thức a-lại-da chứa tất cả chủng tử nên còn gọi là tàng thức.
Thức thứ chín là gì? Thức thứ chín cũng không ngoài thức thứ tám. Theo kinh Lăng-già, thức thứ tám gọi là Như Lai tàng, thức thứ chín gọi là Không Như Lai tàng Như Lai tàng tức là kho của Phật (hay kho Như Lai). Thức thứ tám không có mất, vì nó chứa lẫn lộn những chủng tử thiện ác nên nó mang chúng ta đến các nơi theo nghiệp chủng tử chứa trong nó. Hiện giờ chúng ta tu là để loại sạch hết những chủng tử, để tàng thức được hoàn toàn trong sạch, không còn một chủng tử nào tạp nhạp, khi ấy thức này có tên là thức am-ma-la, tức là thức thứ chín. Thức am-ma-la, Trung Hoa dịch ra nhiều tên như: thanh tịnh thức hay vô cấu thức, chân như thức, Như Lai tạng thức hay là bạch tịnh thức. Bạch là trắng, tịnh là sạch. Tuy có nhiều tên nhưng cùng một nghĩa thanh tịnh. Nói tóm lại thức thứ tám khi chứa các chủng tử tạp nhạp gọi là tàng thức, khi loại hết tất cả chủng tử gọi là am-ma-la thức hay bạch tịnh thức. Tuy có tên thức thứ chín nhưng thật sự nó chỉ là thức thứ tám sạch hết các chủng tử. Hiểu rõ như vậy mới thấy ý nghĩa ngài Trần Thái Tông nói: chuyển các tình thức vào thức am-ma-la, nghĩa là xoay các tình thức trở về chỗ thanh tịnh, tức là trở về thức am-ma-la.
Quên đầu không đoái thân mình, duỗi tay dắt về nơi thật tế. Quên đầu là một câu chuyện trong kinh Lăng-nghiêm, Phật kể lại: Có chàng Diễn-nhã-đạt-đa, một buổi sáng cầm gương soi mặt, thấy đầu mặt đàng hoàng, úp gương lại đầu mặt mất tiêu, hốt hoảng phát cuồng, ôm đầu bỏ chạy cùng xóm làng và la: “Tôi mất đầu rồi! Tôi mất đầu rồi!” Đây là câu chuyện quên đầu. Chúng ta hiện giờ có giống Diễn-nhã-đạt-đa không? Nếu nhớ bản giác hiện tiền thì không giống, bằng không nhớ, đó là quên đầu. Tất cả chúng ta có cái chân thật mà quên đi, giống như chàng Diễn-nhã-đạt-đa thấy bóng trong gương cho là thật mà quên cái đầu thật của mình. Cũng như vậy, chúng ta có tâm thể thanh tịnh bất sanh bất diệt nhưng chúng ta quên đi, cứ nghĩ điều này việc kia, cho cái suy nghĩ là tôi. Khi dừng nghĩ, lại nói: Tôi đâu mất rồi! Giống như Diễn-nhã-đạt-đa nói mình mất đầu, không ngờ cái đầu thật vẫn còn đây! Khi vọng tưởng lặng, chính là tâm thể thanh tịnh hiện tiền, có mất đi đâu mà nói tôi không có tâm!
Ở đây nói quên đầu không đoái thân mình, nghĩa là đầu mình sờ sờ mà quên không nhớ. Duỗi tay dắt về nơi thật tế, với những người quên đầu, đức Phật duỗi tay dẫn họ trở về, chỉ cái chân thật để cho họ đừng hoảng sợ phát cuồng ôm đầu bỏ chạy.
Nếu chấp ngoại trần duyên hợp là có, liền bàn chân tánh vốn không và tam tướng không quan hệ, Tứ thiền làm gì có? Đối với người chấp ngoại trần duyên hợp cho là có thật, đức Phật liền nói cho họ biết chân tánh vốn không, tức là chân tánh của mình vốn không có các trần, không có các trần thì ba tướng sanh trụ diệt không quan hệ, Tứ thiền làm gì có? Tứ thiền là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền cũng không phải thật, tức là chỉ cho chúng ta trở về chỗ cứu cánh.
Hòa các vị thành vô thượng vị, đùa các dòng thành dòng sông bất nhị. Hòa các mùi vị chuyển thành vị vô thượng, là nói đức Phật khéo đem tất cả pháp hòa lại rồi hướng dẫn chúng ta đến chỗ cứu cánh chân thật; cũng như đem các mùi vị hòa hợp lại để thành một vị hơn tất cả, Đùa các dòng thành dòng sông bất nhị, nghĩa là trên các con sông, mỗi sông có nhiều chi nhánh khác nhau, bây giờ ngài dồn các chi nhánh lại thành một dòng sông bất nhị. Đó là nói ý của kinh Kim Cang Tam-muội.
Xoay chuyển vọng tâm biến kế, tiếp nhập thức Như Lai tàng, bao gồm hiển bày một tâm. Những sách Duy thức học có nói về ba tánh: biến kế sở chấp tánh, y tha khởi tánh và viên thành thật tánh. Biến kế sở chấp tánh là tánh hư vọng chấp sai lầm. Thí dụ như ban đêm đi đường, trời tối lờ mờ, chúng ta thấy sợi dây luột tưởng là con rắn, hoảng sợ bỏ chạy. Y tha khởi tánh là nương nơi cái khác để thấy biết, đó là nói lên lý nhân duyên. Tức là chúng ta mượn cây đuốc để soi đường, thấy rõ đây là sợi dây thì chúng ta không còn sợ nữa mà chỉ cười cái ngu khi nãy. Viên thành thật tánh là tánh thấy rõ tròn đủ lẽ thật, như ánh sáng cây đuốc thấy rõ đây là sợi dây.
Chúng ta hiện giờ cũng vậy, vọng tưởng chấp trước đủ việc phải quấy, hay dở, rồi cả ngày sầu muộn lo âu. Thí dụ như một người thân đi xa, có hẹn ngày về. Nhưng đúng ngày hẹn người ấy chưa về, những người ở nhà biến kế sở chấp đủ điều, đặt ra đủ trường hợp nguy hiểm để lo sợ, rối loạn lên. Đó toàn là biến kế, không đúng sự thật, mà tưởng tượng ra, giống như tưởng lầm sợi dây là con rắn rồi hoảng sợ. Tâm vọng tưởng là biến kế sở chấp, chúng ta không nên theo nó, bởi thế ngài Trần Thái Tông nói: Xoay chuyển vọng tâm biến kế, tiếp nhập thức Như Lai tàng, nghĩa là xoay vọng tâm trở về với thức Như Lai tàng, bao gồm hiển bày một tâm, khi trở về tới chỗ cứu cánh thì chỉ còn một tâm, không có thức nào khác.
Người nhân chấp mà mê, như Man, Thục giữ nhau. Người tùy sai mà ngộ, như Lỗ, Tề một lần đổi. Trong sử Trung Hoa nói rằng: Nước Man và nước Thục là hai nước nhỏ như hai sừng ốc sên mà cứ đánh nhau mãi, nên hai bên phải giữ nhau. Khi chúng ta mê chấp, cũng giống như hai nước nhỏ kia đánh nhau mãi không dừng. Người tùy sai mà ngộ như Lỗ, Tề một lần đổi. Nước Tề một lần thay đổi thì đến được nước Lỗ, nước Lỗ một lần thay đổi đến được với đạo. Câu chuyện Man Thục đánh nhau có ghi trong sách Trang Tử, chuyện Lỗ Tề là trong sách Luận Ngữ. Ngài Trần Thái Tông dẫn chuyện trong sử sách để nói: Nếu chúng ta mê chấp thì giống như hai nước nhỏ đánh nhau hoài, không có lợi; nếu tùy duyên chuyển biến để tiến tới giác ngộ là giống như nước Lỗ nước Tề, mỗi lần đổi mỗi lần tiến lên.
Sau đây vua Trần Thái Tông nói lên tâm trạng của ngài.
Trẫm xét đức làm chủ cả nước, chăn dắt muôn dân, mỗi khi nghĩ đến gian nan, quên mất sớm tối. Việc tuy hằng vạn, trộm lúc rảnh rang, chăm việc tiếc giờ, học càng tăng tiến. Chữ nghĩa còn ngại chưa rành, đêm đến canh khuya vẫn còn chăm học. Đã đọc sách Khổng Tử, lại xem kinh nhà Phật. Ngài Trần Thái Tông đang làm vua, chăm lo việc nước, chăn dắt muôn dân, bận rộn rất nhiều. Những lúc rảnh rỗi ngài càng gắng học cho tăng tiến. Song e chữ nghĩa chưa thông, nên đêm đã khuya ngài vẫn còn chăm học, xem kinh sách thánh hiền.
Kinh này một phen xem, trăm thứ cảm hứng nảy sanh, tìm tòi chỗ thâm áo, ba nhẩm chín suy. Vừa xem kinh Kim Cang Tam-muội, trăm thứ cảm hứng nảy sanh.
Tìm tòi chỗ sâu kín nhiệm mầu, nhẩm đi nhẩm lại đôi ba lần, suy tới nghĩ lui tám chín lượt.
Gặm nhấm nghĩa vị, thu thập văn hoa, muốn rõ lời Phật, để giúp ích phần nào cho kẻ hậu học. Gặm nhấm nghĩa vị cho thấm, thu thập những lời văn hay trong kinh, cốt sao cho thấu hiểu lời Phật dạy để giúp ích phần nào cho người học đạo đời sau.
Lạm đem cái thấy biết cạn hẹp, hầu mở mang cho đàn vượn ngốc. Câu chuyện đàn vượn ngốc như sau: Ngày xưa ông Thi Công nước Tống nuôi một bầy vượn. Buổi sáng ông cho vượn ăn ba phần, buổi chiều bốn phần, thì mấy con vượn giận dữ la hét. Nhưng khi ông đổi lại, sáng cho ăn bốn phần, chiều ba phần, bầy vượn mừng rỡ không kêu la nữa. Bầy vượn ngốc là như vậy. Ý ngài Trần Thái Tông muốn nói cái hiểu biết của ngài còn cạn hẹp, nhưng vì thương người ngu như bầy vượn ngốc, nên ngài ráng cứu được phần nào hay phần ấy.
Do đó, diễn tả lòng mình, tự làm chú giải. Theo sự hiểu biết của ngài, ngài chú giải kinh này.
Tìm áo nghĩa nơi Long cung, dò lời mẫu nơi Thứu lĩnh, nhỏ từng giọt nước trong nguồn chánh giác, bồi từng hạt bụi trên đường chân như. Tìm áo nghĩa nơi Long cung, tức là ngài tìm nghĩa thâm áo nơi những kinh Đại thừa do Bồ-tát Long Thọ xuống Long cung đem về. Dò lời mầu nơi Thứu lĩnh là tìm hiểu nghĩa nhiệm mầu nơi kinh thuộc hệ Pháp Hoa, Phật đã giảng ở núi Linh Thứu. Nhỏ từng giọt nước trong nguồn chánh giác, nghĩa là những lời giải của ngài như những giọt nước nhỏ rơi trong nguồn chánh giác. Bồi từng hạt bụi trên đường chân như là ngài giải thích cho chúng ta hiểu được chút ít như hạt bụi nhỏ bồi trên đường chân như
Phát huy u chỉ, mở sáng chân tông, khiến người vừa mở xem, liền thấy nghĩa rõ ràng. Phá giậu phên cố chấp của bọn tà, làm thầy nhóm nghĩa đồ nghi thức. Hiểu được nghĩa chánh của kinh là chúng ta phá được hàng rào của bọn tà giáo và cũng phá cái chấp của nghĩa đồ nghi thức. Nghĩa đồ là nhóm người tu chỉ chấp vào nghĩa mà không hiểu lý. Nghi thức là chỉ những người giữ hình thức nghi lễ mà không đạt được lý đạo cao siêu.
Vọng kiến mênh mang, dần biết hướng chầu phương bắc; đường mê chi chít, tạm biết lối chánh về nam. Những người mang nhiều vọng kiến dần dần biết hướng chầu về phương bắc, tức là hướng về ngôi sao Bắc đẩu. Khi xưa những người đi biển bị lạc hướng thì họ nhắm sao Bắc đẩu để đoán hướng trở về. Ý ngài muốn nói những người có vọng kiến lăng xăng biết hướng trở về chỗ chánh. Đường mê chi chít, tạm biết lối chánh về nam, tức là đường mê rối loạn, muốn đi không lầm đường lạc hướng phải nhờ kim chỉ nam. Vì thế ngài giải thích kinh Kim Cang này cho những người lầm lạc nhờ đó mà thấy rõ lối về.
Để làm chỗ nương cho học giả, mới thấy lòng Trẫm không keo sẽn. Cho nên làm lời tựa. Những điều hiểu biết, ngài muốn đem cho tất cả mọi người cùng hiểu. Vậy mới biết lòng ngài không keo sẻn. Nếu biết mà giấu thì mắc tội xan tham keo kiệt. Thế nên ngài làm lời tựa kinh Kim Cang Tam-muội này.
Đến đây chúng tôi dẫn một vài điểm để chúng ta thấy rõ kinh Kim Cang Tam-muội này nằm trong Đại Tạng, chúng tôi sẽ giải thích. Tuy ngài Trần Thái Tông ngộ kinh Kim Cang Bát-nhã nơi câu ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, nhưng ngài lại giảng kinh Kim Cang Tam-muội. Kinh Kim Cang Bát-nhã nằm trong hệ Bát-nhã, còn kinh Kim Cang Tam-muội nằm trong hệ Pháp Hoa, đó là bài kinh số 273 trong Đại Tạng. Kinh Kim Cang Tam-muội chia làm tám phẩm:
– Phẩm thứ nhất là phẩm Tự, Phật kể lại nơi Phật nói pháp.
– Phẩm thứ hai là phẩm Vô Tướng Pháp. Trong phẩm này ngài Bồ-tát Giải Thoát chắp tay bạch Phật, nguyên văn chữ Hán:
Tôn giả, nhược Phật diệt hậu, chánh pháp khử thế, tượng pháp trụ thế, ư mạt kiếp trung, ngũ trược chúng sanh, đa chư ác nghiệp, luân hồi tam giới, vô hữu xuất thời. Nguyện Phật từ bi, vị hậu thế chúng sanh, tuyên thuyết nhất vị quyết định chân thật, linh bỉ chúng sanh đẳng đồng giải thoát.
Nghĩa là ngài Bồ-tát Giải Thoát hỏi Phật: Tôn giả (kinh khác thường gọi đức Phật là Thế Tôn, còn ở đây gọi là Tôn giả), nếu sau khi Phật diệt độ, thời chánh pháp qua rồi, hiện nhằm thời tượng pháp, ở thời mạt pháp chúng sanh có đủ năm thứ trược, phần nhiều nghiệp ác luân hồi trong tam giới không khi nào ra được. Nguyện Phật thương xót vì chúng sanh đời sau, tuyên nói nghĩa nhất vị quyết định chân thật, khiến chúng sanh kia đồng được giải thoát.
Phật ngôn: Thiện nam tử, nhữ năng vấn ngã, xuất thế chi nhân, dục hóa chúng sanh, linh bỉ chúng sanh hoạch đắc xuất thế chi quả, thị nhất đại sự bất khả tư nghì. Dĩ đại từ cố, dĩ đại bi cố, ngã nhược bất thuyết tức xan lẫn tham. Nhữ đẳng nhất tâm để thính, để thính vị nhữ tuyên thuyết.
Phật bảo: Ông hỏi câu đó rất là quý… Vì thương xót chúng sanh, nếu ta không nói thì mắc tội tham lam bỏn sẻn, nên ta sẽ vì ông nói, hãy gắng nghe.
Thiện nam tử, nhược hóa chúng sanh, vô sanh ư hóa, bất sanh vô hóa, kỳ hóa đại yên. Linh bỉ chúng sanh, giai ly tâm ngã, nhất thiết tâm ngã, bản lai không tịch. Nhược đắc không tâm, tâm bất huyễn hóa, vô huyễn vô hóa, tức đắc vô sanh, vô sanh chi tâm, tại ư vô hóa.
Đức Phật chỉ nghĩa quyết định chân thật, ngài nói: Nhược hóa chúng sanh, vô sanh ư hóa, nếu chúng ta muốn giáo hóa chúng sanh thì không thấy có chúng sanh để giáo hóa. Bất sanh vô hóa, kỳ hóa đại yên, không có chúng sanh, không có người giáo hóa, thì giáo hóa đó mới lớn vậy. Nghĩa là muốn giáo hóa chúng sanh đến chỗ giải thoát thì phải thấy chúng sanh không thật, thấy mình không thật. Trái lại, thấy mình thật thấy chúng sanh thật thì giáo hóa không lớn, tại sao? Vì thấy mình thật là ngã, thấy chúng sanh thật là nhân, thấy có ngã có nhân là sự giáo hóa không lớn. Thí dụ giáo hóa được một trăm người thì nói tôi được một trăm đệ tử. Như vậy tôi là thầy, đệ tử thuộc về tôi nên cái ngã to ra. Nếu giáo hóa được một ngàn đệ tử, mười ngàn đệ tử thì cái ngã to đến mức nào! Thế nên giáo hóa càng nhiều thì chấp ngã càng lớn, nếu còn thấy mình thật người thật. Kinh dạy giáo hóa tất cả mà không thấy có mình hay hóa, có người bị hóa, mình người đều không thật, đó mới là thật lớn. Nếu thấy có mình thật người thật thì không bao giờ giải thoát. Muốn được giải thoát không bị trầm luân tức phải không thấy có thật mình thật người.
Linh bỉ chúng sanh, giai ly tâm ngã, nhất thiết tâm ngã, bản lai không tịch. Khiến cho chúng sanh kia đều lìa tâm chấp ngã. Tất cả tâm chấp ngã xưa nay là rỗng lặng. Đó mới là giáo hóa hay nhất. Chữ không tịch này tôi tạm giải thích cho quý vị hiểu. Thí dụ như tôi đưa bàn tay lên co năm ngón lại, đây là nắm tay. Thử hỏi hiện giờ thật có nắm tay hay không, nếu nói không, chúng ta có bằng lòng chăng? Thế mà đức Phật lại nói là không, nắm tay là không tịch. Nói có nói không là theo con mắt chúng ta thấy; nhưng với mắt trí tuệ Bát-nhã, Phật nói nắm tay là không tịch, lặng lẽ. Tướng nắm tay tuy hiện hữu, nhưng nhìn với mắt trí tuệ chỉ là năm ngón co lại, giả danh đặt là nắm tay chứ nó có thật đâu. Do co năm ngón lại thành có, vậy là do duyên hợp tạm có thì nắm tay không thật có. Nó là không tịch.
Không này là thể không, chứ không phải là con mắt thấy không. Thể nắm tay là không, do duyên hợp tạm có, duyên tan thì mất. Như tôi buông năm ngón tay ra thì đâu có nắm tay, vậy khi tạm có mà nói là thật đó là sai lầm. Nhìn bằng trí tuệ biết nắm tay giả có, thể nó không tịch, là đúng lẽ thật. Khi năm ngón rời ra, nắm tay không có thì năm ngón là có hay không? Trong kinh Nguyên thủy, Phật dạy thân này vô ngã, vô ngã là không chủ thể, tại sao? Thân này do năm uẩn hợp, năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nếu năm uẩn rời ra thì thân này không còn, giống như năm ngón tay hợp lại thì có nắm tay, rời ra thì không có nắm tay. Nhưng qua hệ Bát-nhã chiếu kiến ngũ uẩn giai không, nghĩa là ngã của năm uẩn hợp lại là không và năm uẩn cũng không luôn, giống như năm ngón tay rời ra cũng không. Thật là khó hiểu. Thử phân tích từng ngón tay xem, đây là xương, thịt, máu, gân, da bọc lại. Năm phần này rời ra thì không có ngón tay. Từ nắm tay, ngón tay nhìn lại con người, Phật nói thân này do năm uẩn hợp lại thì không thật, thân này không thật thì năm uẩn cũng không thật.
Phật nói không thật vì ngài giác, còn chúng ta nói thật vì ngu mê. Thế mà ai nói mình ngu thì sân si nổi dậy, như vậy mới thấy chúng ta ngu si quá mức. Thế nên con đường tu không phải khó, mà khó vì si mê muôn kiếp không bỏ được. Học Phật là học bằng trí tuệ. Trong mười hai nhân duyên, nhân duyên đầu tiên là vô minh (đen tối) cho nên Phật dạy muốn giải thoát chỉ có giác ngộ, chỉ có ánh sáng trí tuệ mới phá trừ vô minh. Thí dụ như trong cái nhà tối không có đèn, muốn đuổi bóng tối, đổ cát đất vào nhà được không? Nhọc công vô ích. Chỉ cần thắp một ngọn đèn, công phu không bao nhiêu mà kết quả tròn đủ. Vì thế người tu gốc là phải giác ngộ, giác thì hết mê, có trí tuệ thì hết vô minh.
Thấy bằng trí tuệ chứ không thấy bằng vọng tình, nhìn người nam cũng là năm uẩn hợp lại hư dối, người nữ cũng năm uẩn hợp lại hư dối, năm uẩn bình đẳng không ai hơn ai kém. Thấy như vậy thì nhẹ biết bao nhiêu. Đây là nói về tướng. Đến tánh giác hay chân tâm, ai cũng có như nhau không khác. Thấy được như vậy thì còn gì điên đảo, tất cả nghiệp đều tan như mây khói, chúng ta mới thấy cái hay của phẩm này.
Đến một đoạn nữa, kinh này có cái hay giống với hệ Pháp Hoa. Trong kinh Pháp Hoa đức Phật có nói dụ Hệ châu, tức là hạt châu vô giá cột trong chéo áo. Có một người đến thăm bạn cũ, hai huynh đệ dùng bữa tiệc. Anh bạn nghèo say rượu nằm ngủ, anh kia còn tỉnh, mới lấy hạt châu báu cột trong chéo áo cho người bạn rồi có việc phải đi. Người bạn nghèo lang thang đầu đường xó chợ xin ăn. Lâu sau người bạn cũ gặp lại mới nói: Ngày xưa tôi có cột trong chéo áo anh một hạt châu, sao anh không lấy ra bán, thành người giàu có, tội gì phải đi xin ăn? Anh bạn nghèo nghe vậy mừng rỡ, mở chéo áo lấy được hạt châu thành người giàu có, ngay đó anh hết khổ. Đây là dụ Hệ châu trong kinh Pháp Hoa. Còn trong kinh Kim Cang Tam-muội, đức Phật lại dùng một thí dụ khác cũng cùng ý nghĩa. Phật nói có một anh chàng mê, người cha cho một số tiền vàng để trong túi áo, nhưng vì mê không biết, anh đi lang thang nghèo khổ. Năm mươi năm sau, người cha gặp lại nói: Hồi xưa cha cho con một số tiền vàng để trong túi áo, sao con không lấy ra xài, lại đi ăn mày lang thang khổ sở như vậy? Anh chàng giật mình sờ lại thấy túi đầy vàng. Anh lấy vàng ra bán, thành người giàu có sang trọng.
Khi Phật nói dụ như vậy, Bồ-tát Vô Trụ mới hỏi Phật: Người cha của người mê kia tại sao để cho con đi lang thang khổ sở đến năm mươi năm sau mới chỉ. Nếu biết con mình trong túi có vàng thì chỉ cho nó dùng cho đỡ khổ, tại sao đợi tới năm mươi năm? Đức Phật trả lời.
Phật ngôn: Kinh ngũ thập niên giả, nhất niệm tâm động, thập phương du lịch, viễn hành biến kế.
Trải qua năm mươi năm là dụ cho một tâm động niệm thì dạo đi mười phương khắp tất cả chỗ. Chỉ một niệm động tâm liền vào ngũ uẩn rồi tiếp tục sanh. Đó là tượng trưng cho cái mê năm mươi năm.
Vậy kinh Kim Cang Tam-muội này đi đôi với kinh Pháp Hoa vì có mấy thí dụ gần nhau, nên không nằm trong hệ Bát-nhã mà nằm bên hệ Pháp Hoa. Đó là chúng tôi giải thích đại khái cho quý vị được rõ.
[1] Tam tư: Phàm khi sắp phát khởi hai nghiệp thân và ngữ (lời nói), cần phải có tam tư (ba điều suy nghĩ).
Thẩm lự tư: tức là trước khi muốn nói cần phải suy nghĩ cho cặn kẽ.
Quyết định tư: tức là trước khi hành động phải có suy nghĩ quyết định (dứt khoát).
Động phát thắng tư: tức là khi thân và ngữ (lời) hành động thì cần phải suy nghĩ xem việc nào thiện ác, việc nào tốt nhất để làm.
Trong đây, hai cái tư đầu thuộc về ý nghiệp. Cái tư thứ ba (động phát thắng tư) là thuộc về hai nghiệp thân và ngữ.
Trang trước | Mục lục | Trang sau |