Thiền Sư Trung Hoa

Đời Thứ Hai Sau Lục Tổ



∗ THIỀN SƯ HY THIÊN – Thạch Đầu (695-785)

Sư họ Trần, quê ở Cao Yếu, Đoan Châu. Lúc thọ thai Sư, mẹ thích ăn chay, không ưa đồ mặn. Khi còn hài nhi, Sư tự hành động lấy, không phiền mẹ săn sóc. Đến lớn khôn, Sư tự an ổn vui tươi, không khi nào tỏ vẻ không bằng lòng người. Ở thôn Động Liêu, dân chúng sợ quỉ thần nên lập nhiều miếu thờ, thường họp nhau mua rượu làm bò tế lễ. Một hôm, đi chơi thấy dân chúng tế lễ, Sư bèn phá miếu giựt bò đem về. Đến tuổi vài mươi, Sư từ giã quyến thuộc đi xuất gia.

Nghe Lục tổ Huệ Năng đang giáo hóa tại Tào Khê, Sư tìm đến thọ giáo.

Lục Tổ độ Sư làm đệ tử. Sư chưa thọ giới cụ túc, cũng chưa đạt đạo, Tổ đã báo tin sắp tịch, Sư hỏi Tổ:

– Sau khi Hòa thượng viên tịch, con phải nương tựa nơi ai?

Tổ bảo:

– Tầm Tư đi.

Tổ tịch rồi, mỗi ngày Sư đến bên cạnh tháp ngồi tư duy đến quen cả ăn ngủ. Có vị Thượng tọa thấy thế hỏi:

– Thầy đã tịch, ngươi làm gì ngồi đây mãi?

Sư thưa:

– Trước khi thầy tịch, tôi hỏi chỗ nương tựa, thầy dạy tầm Tư, nên tôi ngồi tư duy.

Thượng tọa bảo:

– Ngươi có sư huynh hiệu Hành Tư đang ở núi Thanh Nguyên, nên đến đó nương tựa, thầy dạy đã rõ, ngươi còn nghi gì?

Nghe lời dạy này, Sư thu xếp đồ đạc, tìm đến núi Thanh Nguyên ra mắt Thiền sư Hành Tư (Phần đối đáp khi Sư đến núi Thanh Nguyên, xem lại bài Thiền sư Hành Tư.)

Một hôm Thiền sư Hành Tư hỏi:

– Có người nói Lãnh Nam có tin tức.

Sư thưa:

– Có người không nói Lãnh Nam không có tin tức.

– Nếu thế, đại tạng tiểu tạng từ đâu mà ra?

– Thảy từ trong ấy, trọn không thiếu việc lạ.

Thiền sư Hành Tư gật đầu.

*

Đời Đường niên hiệu Khai Nguyên thứ mười sáu (728 TL), Sư đến La Phù thọ giới cụ túc. Niên hiệu Thiên Bảo năm đầu (742 TL) Sư tìm đến Hoành Nhạc tại Nam Tự, cạnh chùa phía đông có gộp đá cao giống như cái đài, Sư lên đó cất am tranh ở. Thời nhân kính trọng Sư nên gọi là Hòa thượng Thạch Đầu.

*

Một hôm, thượng đường dạy chúng, Sư bảo:

– Pháp môn của ta do Phật trước truyền trao, không luận thiền định tinh tấn, chỉ đạt Tri kiến Phật, tức tâm tức Phật. Tâm, Phật, chúng sanh, Bồ-đề, phiền não tên tuy khác mà thể vẫn đồng. Các ngươi nên biết, thể tâm linh của mình lìa tánh đoạn và thường, không phải nhơ sạch, lặng lẽ tròn đầy, phàm thánh ngang bằng nhau, ứng dụng không lường, lìa tâm ý thức, ba cõi sáu đường chỉ do tâm mình hiện, như trăng đáy nước, bóng trong gương, đâu có sanh diệt. Các ngươi khéo biết nó thì không gì chẳng đủ.

*

Đệ tử Đạo Ngộ hỏi:- Ý chỉ Tào Khê người nào được?

Sư đáp:- Người hội Phật pháp được.

– Thầy được chăng?

– Ta không hội Phật pháp.

*

Có vị Tăng hỏi:

– Thế nào là giải thoát?

Sư đáp:- Ai trói ngươi?

– Thế nào là Tịnh độ?

– Cái gì làm nhơ ngươi?

– Thế nào là Niết-bàn?

– Ai đem sanh tử cho ngươi?

*

Sư hỏi vị Tăng mới đến:- Từ đâu đến?

Tăng thưa:- Từ Giang Tây đến.

– Thấy Mã Đại sư chăng?

– Dạ thấy.

Sư bèn chỉ khúc cây bảo:- Mã Đại sư sao giống cái này?

Tăng không đáp được, trở về thuật lại Mã Tổ.

*

Tăng hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?

Sư đáp:- Hỏi cây cột cái đi!

– Con không hội.

– Ta cũng chẳng hội.

*

Đại Điên hỏi:- Nói có nói không là hai cái đáng chê, xin Thầy trừ?

Sư đáp:- Một vật cũng không, trừ cái gì?

Sư lại hỏi:- Dẹp bỏ cổ, họng, môi, lưỡi, ngươi nói đi?

Đại Điên thưa:- Không cái ấy.

Sư bảo:- Như thế là ngươi được vào cửa.

*

Đạo Ngộ hỏi:- Thế nào là đại ý Phật pháp?

Sư đáp:- Không được, không biết.

– Tiến lên lại có chỗ chuyển hay không?

– Hư không dài không ngại mây trắng bay.

*

Sư ở Nam Nhạc có nhiều vị thần linh hiện ra nghe pháp và xin thọ qui giới.

Đời Đường niên hiệu Quảng Đức năm thứ hai (763 TL), đệ tử thỉnh Sư xuống Lương Đoan xiển hóa. Từ đây, hóa chủ Hồ Nam là Thạch Đầu, hóa chủ Giang Tây là Mã Tổ.

Đến ngày rằm tháng chạp niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ sáu (785 TL), Sư viên tịch, thọ chín mươi mốt tuổi, sáu mươi ba tuổi hạ. Vua sắc ban là Vô Tế Đại sư, tháp hiệu Kiến Tướng.

Sư trước tác một thiên Đồng Tham Khế có chú giải lưu hành khá rộng, lại có làm một bài ca Thảo Am:

− THẢO AM CA

Ngô kết thảo am vô bảo bối

Phạn liễu tùng dung đồ thùy khoái

Thành thời sơ kiến mao thảo tân

Phá hậu hườn tương mao thảo cái.

Trụ am nhân, trấn thường tại

Bất thuộc trung gian dữ nội ngoại

Thế nhân trụ xứ ngã bất trụ

Thế nhân ái xứ ngã bất ái.

Am tuy tiểu, hàm pháp giới

Phương trượng lão nhân tương thể giải

Thượng thừa Bồ-tát tín vô nghị

Trung hạ văn chi tất sanh quái.

Vấn thử am, hoại bất hoại?

Hoại dữ bất hoại chủ nguyên tại

Bất cư nam bắc dữ đông tây

Cơ thượng kiên lao dĩ vi tối.

Thanh tùng hạ, minh song nội

Ngọc điện châu lâu vị vi đối

Nạp bì mông đầu vạn sự hưu

Thử thời Sơn tăng đô bất hội.

Trụ thử am, hưu tác giai

Thùy khoa phô tịch đồ nhân mãi

Hồi quang phản chiếu tiện qui lai

Khoách đạt linh căn phi hướng bối.

Ngộ Tổ sư thân huấn hối

Kết thảo vi am mạc sanh thối

Bách niên phao phước nhậm tung hoành

Bãi thủ tiện hành thả vô tội.

Thiên chủng ngôn, vạn ban giải

Chỉ yếu giáo quân trường bất muội

Dục thức am trung bất tử nhân

Khởi ly nhi kim giá bì đại.

Dịch:

Bài ca THẢO AM

Tôi cất am tranh không của báu

Ăn xong thong thả ngủ ngon lành

Khi thành nhìn thấy cỏ tranh xanh

Lúc hỏng lại tìm cỏ tranh lợp.

Người chủ am vẫn mãi còn

Không thuộc khoảng giữa chẳng ngoài trong

Chỗ trụ người đời, ta chẳng trụ

Chỗ yêu người đời, ta chẳng yêu (ưa).

Am tuy nhỏ, trùm khắp giới

Lão già phương trượng mới hiểu tường

Bồ-tát thượng thừa tin chẳng ngại

Trung hạ nghe đây ắt lạ kỳ.

Hỏi am này hoại chẳng hoại?

Hoại cùng chẳng hoại chủ mãi còn

Chẳng ở đông tây hoặc nam bắc

Nền móng vững vàng là rất chắc.

Dưới tùng xanh, trăng giọi song

Điện ngọc lầu châu chưa dám đối

Màn che chăn đắp muôn việc thôi

Khi này Sơn tăng toàn chẳng hội.

Ở am này, thôi khởi nghĩ

Ai khéo trải chiếu mời người mua

Hồi quang phản chiếu là trở về

Đạt suốt linh căn không theo bỏ.

Gặp Tổ sư thân chỉ dạy

Kết cỏ làm am chớ thối lui

Trăm năm bỏ sạch mặc tung hoành

Buông thõng tay đi vẫn không tội.

Ngàn thứ nói, muôn điều hiểu

Chỉ cốt dạy anh thường chẳng muội

Muốn biết không chết, người trong am

Đâu rời đãy da hiện nay có.

*

∗ THIỀN SƯ ĐẠO NHẤT – Mã Tổ (709-788)

Vì người đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi là Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sư họ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư dung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài khỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùa La-hán xin xuất gia với Hòa thượng Đường ở Từ Châu. Sau Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Đời Đường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 TL), Sư tập thiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền sư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng tham học với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâm ấn.

Sau khi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật Tích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam Dương. Niên hiệu Đại Lịch (765 TL) Liên soái Lộ Từ Cung và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bá tông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rất đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Một hôm Sư dạy chúng:- Các ngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm Phật. Tổ Đạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng thừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh Lăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên đảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinh Lăng già nói: “Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp.” (Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàm người cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng có Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không có tự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều là cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâm không tự là tâm, nhân sắc mới có.

Các ngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn không có chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh ra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳng sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơm mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua, đâu còn có việc gì.

Các ngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Đương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Đất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Có vị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sư đáp:- Vì dỗ con nít khóc.

– Con nít nín rồi thì thế nào?

– Phi tâm phi Phật.

– Người trừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

– Nói với y là “phi vật”.

– Khi chợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

– Hãy dạy y thể hội đại đạo.

*

Có vị Tăng hỏi:

– Ly tứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?

Sư đáp:- Hôm nay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi Trí Tạng.

Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

Trí Tạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăng đáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

Trí Tạng hỏi:

– Hôm nay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh Hải.

Tăng đến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Đến chỗ ấy tôi cũng chẳng hội.

Tăng trở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu hắc.

*

Cư sĩ Long Uẩn đến hỏi:

– Nước không gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này thế nào?

Sư đáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gân xương?

Uẩn bảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn lên!

Sư liền nhìn thẳng xuống.

Uẩn nói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sư liền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng. Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Một đêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sư hỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

Trí Tạng thưa:- Nên cúng dường.

Hoài Hải thưa:- Nên tu hành.

Phổ Nguyện phủi áo ra đi.

Sư bảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện vượt ngoài sự vật.

*

Hoài Hải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sư đáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sư lại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

Hoài Hải dựng đứng cây phất tử.

Sư bảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

Hoài Hải ném cây phất tử xuống.

*

Tăng hỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sư đáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tăng hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?

Sư liền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ cười ta.

*

Đặng Ẩn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Đi đến đâu?

Ẩn Phong thưa:- Đi đến Thạch Đầu.

– Đường Thạch Đầu trơn.

– Có cây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

Ẩn Phong vừa đi đến Thạch Đầu đi nhiễu giường thiền một vòng, dựng tích trượng dộng đất một tiếng, hỏi:

– Ấy là tông chỉ gì?

Thạch Đầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

Ẩn Phong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

– Ngươi nên đi lại bên ấy, nếu Thạch Đầu nói “trời xanh!” ngươi “hư! hư!”

Ẩn Phong lại đi đến Thạch Đầu làm như trước.

Thạch Đầu bèn: Hư! hư!

Ẩn Phong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

– Ta đã nói với ngươi “đường Thạch Đầu trơn”.

*

Có vị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sư hỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

– Tôi giảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

– Đâu không phải là sư tử con?

– Không dám.

Sư thốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảng sư nói: – Đây là pháp.

– Là pháp gì?

– Pháp sư tử ra khỏi hang.

Sư bèn im lặng.

Giảng sư nói: – Đây cũng là pháp.

– Là pháp gì?

– Pháp sư tử ở trong hang.

– Không ra không vào là pháp gì?

Giảng sư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

– Chủ tọa!

Giảng sư xoay đầu lại.

Sư hỏi:- Là pháp gì?

Giảng sư cũng không đáp được.

Sư bảo:- Ông thầy độn căn.

*

Một hôm Sư dạy chúng:

– Đạo không dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? – Có tâm sanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn hội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi là tâm bình thường? – Không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: “Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnh Bồ-tát.” Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếp vật đều là đạo. Đạo tức là pháp giới, cho đến diệu dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải vậy, tại sao nói “pháp môn tâm địa”, tại sao nói “vô tận đăng”? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên đều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là cội gốc của muôn pháp. Kinh nói: “Biết tâm đạt cội nguồn nên hiệu là Sa-môn.”

Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp đều đồng thuần nhất không lẫn lộn. Nếu ở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lập pháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như, lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháp trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác, toàn là diệu dụng.

Lại không có lý riêng, đều do xoay lại của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêu mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, mà bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói đạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu các thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được, dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn là nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân, thảy đều là thể của nhà mình.

Nếu chẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật pháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chân như, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy là dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: “Chỗ chỗ nơi nơi đều có Phật.” Phật là năng nhân, có trí tuệ khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúng sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v… tình chấp phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe không gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lý đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không diệt. Đại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất triền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm, hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như trăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốc, chẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng của vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương, nên nói: “Như không chẳng chỗ nương.” Nghĩa tâm sanh diệt, nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vật tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt. Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanh văn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu đạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác, dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí. Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâm mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộ chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên không trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền trừ vọng tưởng.

Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp tánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi tức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp đạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh huân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng thông.

Đệ tử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, là đã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làm chủ một phương truyền hóa vô cùng.

Đời Đường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 TL) khoảng tháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành trong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thị giả:

– Thân cũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này.

Nói xong, Sư trở về.

Đến ngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi kiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi tuổi hạ.

Sau vua sắc ban hiệu Đại Tịch.


Tip: You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.