Nội dung:
Sư quê ở Ninh Quốc Tuyên Châu, con nhà họ Hề. Năm mười ba tuổi, Sư mới vào học Phát Mông, học chưa được nửa tháng liền bỏ đi xuất gia. Năm mười bảy tuổi, Sư được làm Tăng thọ giới cụ túc. Tuy Sư tuổi nhỏ đã biết có việc trong tông môn. Sư xem hết các Ngữ lục, thích nhất là lời Vân Môn, Mục Châu. Sư nghi Ngũ gia tông phái buổi đầu chỉ một Tổ Đạt-ma, vì sao lại có nhiều môn đình? Song tánh Sư cao siêu không chịu ràng buộc. Cha mẹ khuyên Sư đi du phương.
*
Khi ấy ở Tuyên Châu có Thiền sư Thiệu Trình ở Minh Giáo thừa kế Thiền sư Thản ở Hưng Giáo là cháu Thiền sư Giác ở Lang Nha. Sư nghe Thiệu Trình là người bảo tham nên tận tâm thờ phụng, Sư thường thưa hỏi về niêm cổ tụng cổ của Tuyết Đậu và nhân duyên các bậc cổ túc. Thiệu Trình chỉ dạy cốt phải thẳng đó tự thấy tự nói, chẳng rảnh bàn ngôn ngữ kia. Sư thấu suốt được chỗ chỉ dạy của Tiên đức. Thiệu Trình lấy làm lạ, mỗi khi khen nói: – Cảo là người tái lai.
*
Sư lại sang Dĩnh Châu tham vấn Thủ tọa Nguyên ở Đại Tùy, Hòa thượng Vi ở Động Sơn, Thị giả Kiên. Hòa thượng Vi làm thủ chúng ở Phù Dung, Thị giả Kiên làm thị giả Phù Dung mười năm. Sư tham học với ba vị này khá lâu, hiểu rõ được tông chỉ tông Tào Động. Một hôm, thấy kia thắp hương truyền trao để tỏ là phó chúc chẳng dối, Sư bất bình nói: – Thiền có truyền trao, đâu phải pháp tự chứng tự ngộ của Phật, Tổ.
*
Sư đi đến dưới tòa của Thiền sư Triết ở Chơn Như, vào thất Tạng chủ Khánh, Bồng đầu Hiền. Sư cùng Khánh đến Hoàng Long yết kiến Hối Đường, Đông Lâm, tham Chiếu Giác đều chẳng hợp. Sư lại yết kiến Thiền sư Tuần ở Tâm Ấn, Tuần là cao đệ của Tú Thiết Diện. Cùng Sư đàm đạo, Tuần lấy làm lạ, muốn lưu ở dưới hội mà Sư chẳng chịu. Tuần nhân chỉ đến Bảo Phong tham Thiền sư Chuẩn. Chuẩn tức là Trạm Đường.
*
Sư mới đến cơ biện tung hoành, Chuẩn bảo: – Lỗ mũi ông tại sao có nửa bên?
Sư thưa: – Môn hạ Bảo Phong.
Chuẩn bảo: – Thiền hòa đổ soạn.
Nhân tô vẽ lại tượng Thập Vương, Chuẩn chỉ hỏi Sư: – Quan nhân này họ gì?
Sư đáp: – Họ Lương.
Chính Chuẩn là họ Lương. Chuẩn xoa đầu tượng nói: – Tại sao họ Lương lại thiếu cái đầu trọc?
Sư thưa: – Đầu tuy chẳng đồng lỗ mũi tương tợ.
Chuẩn bảo: – Thiền hòa đổ soạn.
Nhân xem kinh Kim Cang, Chuẩn hỏi Sư: – “Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp”, vì sao núi Vân Cư cao núi Bảo Phong thấp?
Sư đáp: – Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp.
Chuẩn bảo: – Ông làm được kẻ tớ Tọa chủ.
Một hôm, Chuẩn bảo Sư: – Thượng tọa Cảo! Tôi có thiền tí xíu này, ông mỗi mỗi lý hội được chăng?
Sư thưa: – Lý hội được.
Chuẩn bảo: – Dạy ông nói cũng nói được, bảo ông làm cũng làm được, niêm cổ, tụng cổ, tiểu tham, phổ thuyết thảy được, chỉ có một sự kiện chẳng phải, ông có biết chăng?
Sư thưa: – Chưa biết là sự kiện gì?
Chuẩn bảo: – Ông chỉ thiếu một cái à! Vì thế khi nói thì có, khi chẳng nói liền không, khi vào phương trượng thì có, khi ra phương trượng liền không, khi tỉnh tỉnh thì có, khi ngủ mê liền không, làm sao địch được sanh tử?
Sư thưa: – Chính là chỗ con nghi.
Chuẩn bệnh, Sư đến hỏi: – Con về sau phải thấy người nào?
Chuẩn bảo: – Có gã Cần, ta chẳng biết y, ông nên yết kiến đó, sẽ hay biện được việc của ông. Nếu ông liễu chưa xong nên tu hành xem Đại Tạng Kinh, thân sau ra đời quyết định là thiện tri thức.
Trạm Đường tịch, Sư ra mắt Thừa tướng Trương Thiên Giác nhờ làm bài minh ở tháp. Thiên Giác môn đình cao, đối với Thiền khách ít hứa nhận. Gặp Sư một phen nói chuyện là khế hợp. Thiên Giác cùng giúp Sư đến yết kiến Viên Ngộ.
*
Khi ấy, Viên Ngộ từ Tương Sơn vâng chiếu trụ chùa Thiên Ninh tại Đông Kinh. Viên Ngộ chưa đến, Sư đã đến trước tạm dừng lại tham đường rồi, Viên Ngộ nhập viện, Sư sớm chiều thưa thỉnh. Viên Ngộ nhắc, “Tăng hỏi Vân Môn: thế nào là chỗ chư Phật xuất thân, Vân Môn đáp: núi đông trên nước đi” bảo Sư hạ ngữ. Sư tham ngót một năm, đã hạ bốn mươi chín chuyển ngữ đều chẳng hợp.
*
Một hôm, Viên Ngộ đến phó trai nhà một ông quan, đăng tòa nhắc, “Tăng hỏi Vân Môn: thế nào là chỗ chư Phật xuất thân, Vân Môn đáp: núi đông trên nước đi”. Nếu là Thiên Ninh thì không như thế. Nếu có người hỏi: thế nào là chỗ chư Phật xuất thân, chỉ nói với y: gió nam từ nam lại điện các sanh mát mẻ.
Sư nghe nhắc hoát nhiên tỉnh ngộ. Bèn đem sở ngộ trình Viên Ngộ. Viên Ngộ xét Sư tuy mé trước sau đoạn, tướng động chẳng sanh, song ngồi ở chỗ sạch trọi trơn, bảo Sư rằng: – Chưa phải, ông tuy có đắc mà đại pháp chưa sáng.
Một hôm, Sư vào thất, Viên Ngộ bảo: – Cũng chẳng dễ, ông đến trong điền địa này, chỉ đáng tiếc chết rồi không thể sống lại được. Chẳng nghi ngôn cú ấy là bệnh lớn. Chẳng thấy nói: Bờ thẳm buông tay tự nhận thừa đương, chết rồi sống lại dối anh chẳng được. Phải biết có đạo lý này.
Sư thưa: – Con chỉ cứ như chỗ được hiện nay đã là sống thích, lại không thể lý hội được.
Viên Ngộ không nhận, bèn sai Sư làm thị giả. Mỗi ngày, Sư cùng sĩ đại phu bàn luận, vào thất đến ba bốn lần. Viên Ngộ bèn nhắc: “có câu không câu như bìm nương cây”, hỏi Sư. Sư vừa mở miệng, Viên Ngộ liền nói: – Chẳng phải, chẳng phải.
Như thế đến nửa năm chưa được ấn khả, niệm niệm chẳng quên nơi tâm. Một hôm cùng các quan khách ăn cơm, Sư cầm đũa nơi tay mà quên há miệng. Viên Ngộ cười bảo: – Kẻ này tham Huỳnh Dương mộc thiền, lại rút ngược đi.
Sư liền nói thí dụ: – Đạo lý của Hòa thượng giống như con chó nhìn chảo mỡ nóng, muốn liếm lại liếm chẳng được, muốn bỏ lại bỏ chẳng được.
Viên Ngộ bảo: – Ông dụ rất hay, chỉ cái này là chuồng Kim Cang là lùm gai lật.
Lại một hôm Sư hỏi: – Nghe nói Hòa thượng đương thời ở chỗ Ngũ Tổ cũng hỏi thoại này, chẳng biết Ngũ Tổ đáp thế nào, xin Thầy chỉ dạy? Viên Ngộ lặng thinh không nói.
Sư thưa: – Khi xưa Hòa thượng chẳng phải tự hỏi riêng, phải ở trước đại chúng hỏi, nay nói lại có ngại gì?
Viên Ngộ nói: – Ta hỏi “có câu không câu như bìm nương cây” là thế nào, Ngũ Tổ bảo: tả cũng tả chẳng thành, vẽ cũng vẽ chẳng được. Ta lại hỏi: chợt gặp cây ngã bìm khô thì thế nào, Ngũ Tổ bảo: theo nhau lại vậy.
Sư nghe nhắc ngay đó đại ngộ, bèn nói: – Con hội vậy.
Viên Ngộ nói: – Chỉ e ông lại thấu công án này chưa được.
Sư thưa: – Thỉnh Hòa thượng cử.
Viên Ngộ liền cử một mạch những công án của tiền bối hỏi Sư. Sư theo tiếng đối đáp không trệ ngại. Viên Ngộ vỗ tay khen hay, lại đối chúng khen rằng: – Cảo chẳng phải một đời hai đời làm thiện tri thức lại.
Từ đây Sư nói dọc ngang tự tại như ném hòn gạch xuống nước, như xoay viên đá tròn trên bàn ngàn nhẫn. Chư lão túc khó vượt qua được sự bén nhạy của Sư. Sư đã đại triệt, một số Thiền khách có nghi đến hỏi Viên Ngộ. Viên Ngộ bảo: Cái thiền của ta giống như biển cả, các ông đem được biển cả đến nghiêng lấy mới được. Nếu chỉ đem bát chậu đến chứa được chút ít bèn thôi, khí lượng của các ông chỉ như thế, bảo ta phải làm sao, được bao nhiêu cái đến điền địa của ông. Khi trước có Thượng tọa Cảo cùng các ông một loại, lại đã chết rồi. Chưa bao lâu, Viên Ngộ cử Sư làm Thủ chúng. Khi ấy, hàng sĩ đại phu thường thường tranh đến với Sư.
Viên Ngộ trở về Thục, Sư từ về ở Cổ Vân Môn, học giả đua nhau đến. Lại chạy loạn sang Hồ Nam, qua Giang Hữu vào Mân, Sư cất am Trường Lạc ở sườn núi. Khi ấy theo Sư năm mươi ba người, chưa đầy năm mươi ngày mà đắc pháp mười ba người. Cấp sự Giang Công Thiếu Minh thỉnh Sư trụ am Vân Môn ở Tiểu Khê. Thừa tướng Trương Ngụy Công khi ở Thục nghe Viên Ngộ nói Sư thật được pháp tủy, khi về triều mời Sư trụ Cảnh Sơn phủ Lâm An. Sư đến trụ nơi đây pháp tịch hưng thạnh một thời. Những ngôi nhà chứa mấy trăm người đều không chỗ dung, phải lập lầu gác lớn chứa cả ngàn người, chúng thường có mặt trên hai ngàn.
Buổi khai pháp ban đầu, Sư đăng tòa vấn đáp chưa xong, lại có mấy vị Tăng tranh nhau ra hỏi. Sư nắm đứng lại nói: Dừng! Dừng! Giả sử quả đất có bao nhiêu cây cỏ nghiền nát làm bụi, mỗi mỗi hạt bụi có một cái miệng, mỗi mỗi cái miệng đủ vô ngại tướng lưỡi rộng dài, mỗi mỗi tướng lưỡi xuất vô lượng âm thanh sai biệt, mỗi mỗi âm thanh phát vô lượng ngôn từ sai biệt, mỗi mỗi ngôn từ có vô lượng diệu nghĩa sai biệt. Như trên, Thiền tăng bằng số bụi, mỗi mỗi đủ miệng như thế, lưỡi như thế, âm thanh như thế, ngôn từ như thế, diệu nghĩa như thế, đồng thời đặt trăm ngàn vấn nạn, mỗi vấn nạn khác nhau, mà chẳng đủ một tiếng tằng hắng của Trưởng lão Cảnh Sơn này, đồng thời đáp xong. Khi này ở trong ấy làm Phật sự vô lượng vô biên rộng lớn, mỗi mỗi Phật sự khắp cả pháp giới.
Cho nên nói, một sợi lông hiện thần biến, tất cả Phật đồng nói kinh, nơi vô lượng kiếp chẳng biết bờ mé, được thế ấy náo nhiệt môn đình thì phải. Nếu dùng chánh nhãn xem đó, chính là nghiệp thức mờ mờ không gốc để y cứ, dưới cửa Tổ sư một điểm dùng cũng chẳng được. Huống là soi móc chương cú, vạch bày ngôn phong, chẳng những chôn vùi tông thừa từ trước, cũng là cười vỡ lỗ mũi của Thiền tăng. Vì thế nói, còn mảy tơ buộc niệm là nghiệp nhân tam đồ, chợt vậy tình sanh là bao vây muôn kiếp, hiệu phàm danh thánh trọn là tiếng rỗng, tướng tốt hình xấu đều là sắc huyễn, ông muốn cầu đó lại không lụy sao? Nếu là chán đó cũng thành đại hoạn. Xem Tiên đức kia nói dạy như thế, như binh khí của quốc gia bất đắc dĩ mà dùng, trên việc bổn phận cũng không có tin tức này.
Ngày nay sơn tăng cử xướng như thế, giống hệt không mộng nói mộng, thịt lành khoét thành thương tích, kiểm điểm ra nên ăn cây gậy. Hiện nay có người hạ được độc thủ hay chăng? Nếu có, kham đền cái ơn chẳng đền, cùng giúp giáo hóa vô vi. Nếu không, hành ngược lệnh này vậy. Sư cầm gậy lên nói: Ngang chân Mạc Da toàn chánh lệnh, thái bình hoàn vũ chém ngu si. Sư lia một cái, hét một hét.
Sư dạy chúng: “Điên đảo tưởng sanh, sanh tử nối, điên đảo tưởng diệt, sanh tử dứt, chỗ sanh tử dứt Niết-bàn không, chỗ Niết-bàn không trong mắt bụi.” Niết-bàn đã không, nói cái gì trong mắt bụi? “Mây trắng chợt về che núi biếc, trăng trong khó bảo xuống trời xanh.” Sư lại nói: Nước Ma-kiệt-đề vẫn ở giữa đường, trước ngọn Thiếu Thất toàn không lỗ mũi, bàn huyền nói diệu thịt lành khoét thành thương tích, nhắc xưa rõ nay ném cát chọi đất. Đâu bằng đói ăn khát uống rảnh ngồi mệt ngủ, mặc cho bốn mùa đổi dời chẳng can hệ việc của ta. Tuy nhiên như thế, cũng phải thật đến điền địa này mới được. Chỉ như thật đến điền địa này làm sao thân cận? Sư hét một hét, nói: – Châm cứu trên vết thương lại để một viên ngải cứu cháy.
Sư thượng đường hỏi đáp xong, bèn nói: Hỏi được cũng tốt chẳng hỏi lại gần. Cớ sao? Con đường trước tiếng ngàn thánh chẳng truyền, học giả nhọc hình như khỉ bắt bóng. Trong đây nếu có kẻ anh linh, thế ấy chẳng thế ấy, tai nghe nhắc đến đứng dậy liền đi, vẫn ở trong hang ổ bìm sắn. Hẳn được trong không sở chứng ngoài không sở tu, giống như đất chở núi, đá ngậm ngọc, chưa phải chỗ Thiền tăng buông thân mạng. Dám hỏi đại chúng, thế nào là chỗ Thiền tăng buông thân mạng? Nếu như biết được trần trần niệm niệm đều không rỗng thiếu, xoay quanh cúi ngước trọn ở trong kia. Chính khi ấy cứu kính cái gì là trăng gia phong, lại hiểu chăng? – Ngàn Thánh nào biết đi đâu tá, Ỷ Thiên trường kiếm hiếp lạnh người. Sư xuống tòa.
Sư thùy ngữ hỏi học giả: Tôi trong đây không có pháp cho người, chỉ là cứ bản kết án. Giống như ông đem cái bình lưu ly đến tiếc giữ, giống cái gì? Tôi một phen trông thấy liền vì ông đập bể. Ông lại đem hạt châu ma-ni đến, tôi lại vì ông cướp mất. Đợi ông chỉ thế ấy lại, tôi lại vì ông chặt đứt hai tay. Vì thế Hòa thượng Lâm Tế nói: ?Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La-hán giết La-hán.? Đã nói là thiện tri thức vì sao lại thích giết người vậy? Hãy nói là đạo lý gì?
Những người tham thiền thỉnh Sư nói thiền bệnh. Sư bảo: Thiền có bệnh gì có thể nói. Thiền lại chẳng từng bệnh nhức đầu, chẳng từng bệnh điếc tai, chẳng từng bệnh mờ mắt, chỉ là người tham thiền tham được sai biệt, chứng được sai biệt, dụng tâm sai biệt, nương thầy sai biệt, nhân những sai biệt này nên nói là bệnh. Chẳng phải nói thiền có bệnh. Như hỏi thế nào là Phật, đáp tức tâm là Phật, có bệnh gì? Hỏi con chó có Phật tánh không, đáp không, có bệnh gì? Nếu nói bảo trúc bề (thanh tre) là chạm, chẳng bảo trúc bề là trái, có bệnh gì? Hỏi thế nào là Phật, đáp ba cân gai, có bệnh gì? Hỏi thế nào là Phật, đáp cục cứt khô, có bệnh gì? Ông chẳng thấu suốt, vừa khởi đạo lý cần thấu liền ngàn dặm muôn dặm không giao thiệp. Toan đem tâm phân biệt nó, toan đem tâm suy nghĩ nó, nhằm chỗ cử lên hiểu rõ, chỗ chọi đá nháng lửa luồng điện chớp hội, cái này mới là bệnh. Thầy thuốc thế gian đành bó tay. Song cứu kính chẳng can hệ việc thiền. Ngài Triệu Châu nói: – Cốt cùng vua “Không” làm đệ tử, chớ bảo tâm bệnh rất khó trị.
*
Bấy giờ có hai vị Trưởng lão Đàm Ý và Tôn Phác, buổi đầu hầu Viên Ngộ ở Tương Sơn có chỗ vào, sau lại đến dưới tòa Chơn Yết, tự vỗ ngực cho là hiện thời không ai qua nổi. Sư biết hai vị chưa triệt, mà đã khai pháp, sợ e làm lầm lẫn kẻ hậu học, nên viết thơ cho Đàm Ý bảo hãy tạm đến. Đàm Ý hổ thẹn chần chờ chẳng đi. Sư nhân buổi tiểu tham quở thẳng những sai lầm kia, nêu bảng ở trước cửa báo cho tứ chúng biết. Ý nghe như vậy, bất đắc dĩ phá hạ đến dưới hội Sư. Sư hỏi chỗ sở chứng kia rằng: – Ông kiến giải như thế đâu từng mộng thấy lão nhân Viên Ngộ, thật muốn cứu kính việc này, hãy giải tán chúng đến đây.
Đàm Ý nghe lời dạy trở về, qua hạ cùng với Tôn Phác đồng đến hội Sư. Hai vị vào thất, Sư hỏi Tôn Phác: – Tam Thánh nói ta gặp người ắt xuất, xuất ắt chẳng vì người. Hưng Hóa nói ta gặp người ắt chẳng xuất, xuất ắt vì người. Ông nói hai lão túc lại có chỗ xuất thân hay không?
Tôn Phác nhằm trên đầu gối Sư đánh một đấm.
Sư hỏi: – Một đấm này của ông vì Tam Thánh xuất khí, vì Hưng Hóa xuất khí. Nói mau! Nói mau!
Phác suy nghĩ, Sư nhằm xương sống liền đánh. Lại bảo: – Thứ nhất ông chẳng được quên một gậy này, đi ra!
Đã lâu mà hai vị chưa được vào cửa. Một hôm, nhân có vị Tăng khác vào thất, hai vị nghe lỏm. Sư hỏi vị Tăng: – Đức Sơn vừa thấy Tăng vào cửa liền đánh, Lâm Tế thấy Tăng vào cửa liền hét, Tuyết Phong thấy Tăng vào cửa liền nói là cái gì, Mục Châu thấy Tăng vào cửa liền nói hiện thành công án, tha ông ba mươi gậy. Ông nói bốn vị tôn túc này lại có chỗ vì người hay không?
Tăng thưa: – Có.
Sư bảo: – Chép.
Tăng suy nghĩ. Sư liền hét đuổi ra. Tôn Phác nghe chợt có tỉnh. Đàm Ý cũng tiếp theo nơi một câu nói có tỉnh, từ trước những ác tri ác giải khi này tiêu tan. Sau hai vị đều kế thừa Sư.
Có một vị Tăng vừa vào cửa. Sư bảo: – Chẳng phải đi ra.
Vị Tăng liền ra. Sư bảo: – Không lường đại nhân, bị trong ngữ mạch chuyển.
Kế một vị Tăng vào. Sư bảo: – Chẳng phải đi ra.
Vị Tăng lại đến gần. Sư bảo: – Đã nói với ông chẳng phải, lại đến gần tìm cái gì, liền đánh đuổi ra. Lại một vị Tăng vào nói: – Vừa rồi hai vị Tăng chẳng hiểu ý Hòa thượng.
Sư liền cúi đầu hư một tiếng. Vị Tăng mờ mịt. Sư liền đánh nói: – Lại là ông hiểu ý lão tăng.
Lại có vị Tăng vào. Sư bảo: – Ông chẳng hiểu đi ra.
Tăng cũng ra. Lại một vị Tăng vào. Sư bảo: – Vừa rồi có hai Thượng tọa một người biết nắm mà chẳng biết buông, một người biết buông mà chẳng biết nắm, ông lại biện được chăng?
Tăng thưa: – Một trạng lãnh qua.
Sư bảo: – Sau khi lãnh qua riêng có tin tức rất tốt.
Vị Tăng vỗ tay một cái liền ra. Sư bảo: – Sau ba mươi năm ngộ đi vậy.
Sư hỏi một vị Tăng: “Trên đường gặp người đạt đạo chẳng đem nói nín đáp là thế nào?” Tăng trân trọng liền đi. Sư cười hả! Hả! Kế một vị Tăng đến, Sư bảo: – Tôi vừa hỏi vị Tăng này: “trên đường gặp người đạt đạo chẳng đem nói nín đáp là sao”, y trân trọng rồi đi, ông nói y hội chẳng hội? Tăng suy nghĩ thưa hỏi. Sư liền đánh đuổi ra. Lại có vị Tăng đến. Sư nói: Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì? Tăng đáp: – Kẻ không mặt mày. Sư bảo: – Vừa rồi có vị Tăng nói như thế, bị đánh đuổi ra. Tăng suy nghĩ. Sư liền đánh.
*
Sư trụ Cảnh Sơn nổi danh một thời, như Thị lang Trương Tử Thiều, Trạng nguyên Uông Thánh Tích, Thiếu khanh Bằng Tế Xuyên đồng đến hỏi đạo. Còn bao nhiêu danh sĩ đại phu đến thưa hỏi. Sư tùy cơ khai ngộ đều được thông suốt.
*
Bởi Sư đương thời giáo hóa thành lập mình, mạt sát người nên bị nạn cổi pháp phục, đày ra Hàng Châu mười năm, lại đày đến Mai Châu. Mai Châu là nơi chướng khí quê mùa, mà Thiền khách vẫn mang lương thực theo dù chết cũng không hối hận. Được tám năm, vua Cao Tông đặc ân tha cho, năm sau trả lại pháp phục. Sau vua ra chiếu mời Sư trụ chùa Dục Vương, chúng tụ họp đông vô kể. Hai năm sau, chiếu vời trụ lại Cảnh Sơn.
*
Hoàng đế Hiếu Tông khi còn làm Phổ An Quận vương nghe danh Sư, sai Nội đô giám đến Cảnh Sơn yết kiến Sư. Sư làm bài kệ dâng vua: Đại căn đại khí đại lực lượng, gánh vác đại sự chẳng tầm thường, trên đầu sợi lông thông tin tức, khắp cõi sáng ngời chẳng giấu che. Vua xem rất vui. Ở Kiến Đề nhà vua sai Nội tri khách thỉnh Sư trong núi vì chúng nói pháp. Chính tay vua viết hai chữ Diệu Hỷ to tại am Diệu Hỷ của Sư, và làm bài tán cho Sư: “Sanh diệt chẳng diệt, thường trụ chẳng trụ. Viên giác sáng không, tùy vật chỗ hiện.” Hai năm sau, vua lên ngôi liền ban hiệu Sư là Đại Huệ Thiền sư.
Niên hiệu Long Hưng năm đầu (1163) ngày mười tháng tám, Sư thị tịch tại Minh Nguyệt Đường ở Cảnh Sơn. Khi sắp thị tịch Thị giả xin kệ, Sư cầm bút viết:
Sanh cũng chỉ thế ấy,
Tử cũng chỉ thế ấy,
Có kệ cùng không kệ,
Là cái gì quan trọng.
Sư ném bút thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi, năm mươi tám tuổi hạ.
Sư quê ở Hàm Sơn, chín tuổi đã từ cha mẹ vào viện Phật Huệ, trải sáu năm được độ làm Tăng thọ giới cụ túc. Sau năm năm, Sư đến yết kiến Tín Công ở Trường Lô được chút ít mùi vị. Có người đem lời Viên Ngộ đến cho Sư nghe. Sư than: Tưởng đến me liền chảy nước miếng, tuy chưa được nếm vào miệng nuốt vào bao tử, đã làm cho người thích thú, chỉ hận chưa được nghe tiếng ho hen thôi. Sư bèn đến Bảo Phong nương với Trạm Đường, rồi làm khách thưa hỏi Thiền sư Tử Tâm ở Hoàng Long, sau mới đến Viên Ngộ.
*
Một hôm, Sư vào thất, Viên Ngộ hỏi: – “Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập”, Ngộ đưa nắm tay lên hỏi: – Thấy chăng?
Sư thưa: – Thấy.
Viên Ngộ bảo: – Trên đầu lại để đầu.
Sư nghe bỗng nhiên khế chứng.
Viên Ngộ quở: – Thấy cái gì?
Sư thưa: – Tre dầy chẳng ngại nước chảy qua.
Viên Ngộ thừa nhận, sai làm Tri tạng. Có người hỏi Viên Ngộ: – Tạng chủ Long mềm mại dường ấy đâu hay vì người?
Viên Ngộ đáp: – Con cọp ngủ.
Sau Sư trở về quê hương trụ tại chùa Khai Thánh. Khoảng niên hiệu Kiến Viêm (1127-1131) có loạn, Sư bèn cất am dưới chót Đồng Phong. Quận thú Lý Công Quang mời Sư trụ chùa Chương Giáo. Sau cùng, Sư đến Hổ Khưu, nơi đây chúng rất thịnh hành, đạo được hưng hóa.
*
Sư dạy chúng: Mở toang cửa nẻo muôn dặm chẳng dính mảnh mây, mặt trời sáng lên không, bốn phương gió mát đầy tòa, mặt hồ ánh sáng thênh thang, đồng nội sắc trong lặng sáng, vạn tượng sum la đồng bày hải ấn. Nếu được nơi nơi diệu dụng vật vật chân cơ, tâm cảnh nhất như mảy trần chẳng lập, chính thế ấy là muôn cơ thôi nghỉ, ngàn thánh chẳng mang, ngồi đoạn đảnh Tỳ-lô, chẳng trình Thích-ca Văn, xem thường Thanh văn, ngạo nghễ Bồ-tát, Đức Sơn Lâm Tế trông thấy mắt trợn miệng lẩm bẩm, có gậy có hét một điểm cũng dùng chăng được. Hãy nói, khi chợt gặp người trong kia lại làm sao thoại hội? Nghiêng che gặp nhau vốn cố cựu, ngại gì đến uống trà Triệu Châu.
*
Sư dạy: Trước mắt không pháp, vạn tượng rậm rạp, ý tại trước mắt, chợt hiện khó biện, chẳng phải pháp trước mắt, chạm đến gặp y chẳng phải chỗ mắt tai đến, chẳng lìa thấy nghe hiểu biết. Tuy nhiên như thế, cũng phải là kia nhằm trên cây chốt cửa mới được. Vì thế nói, lưới bủa chẳng dừng trụ, kêu gọi chẳng xoay đầu, Phật Tổ chẳng an bày, đến nay không nơi chốn. Như thế thì chẳng nhọc liễm niệm lầu các cửa mở, tấc bước chẳng dời trăm thành đều đến. Sư cầm gậy vạch một lằn nói: “Rắn chết trên đường chớ đập chết, giỏ tre không đáy bỏ mang về.”
*
Sư dạy: Sáng chẳng soi cảnh cảnh cũng chẳng còn, sáng cảnh đều mất lại là vật gì? Trên đầu trăm cỏ dẹp hết binh đao thì gác lại, chợt như voi lớn Gia Châu cỡi ngược ngựa sắt Thiểm Phủ, nắm núi Tu-di một vả nát nghiến, trong nước Tân La cỡi ngựa, Nam Thiệm Bộ Châu nói thiền, lại làm sao? “Trên núi Ngũ Đài cơm mây nấu, trước thềm điện Phật chó đái trời, trên đầu cột phướn nung chùy quả, ba con khỉ vượn đêm vãi tiền.”
*
Sư dạy: Phàm có bày đỡ trọn rơi thời nay, chẳng bày chẳng đỡ rơi hầm rớt hố, dù cho gió thổi chẳng vào, nước rưới chẳng dính, kiểm điểm về sau tự cứu chẳng xong. Há chẳng thấy, dù giống bóng trăng đầm lạnh, tiếng chuông đêm vắng, chạm sóng to mà không tan, tùy dóng đánh vẫn không thiếu, còn là việc đầu bờ sanh tử. Sư cầm cây gậy vạch một vạch nói: Chặt sắn bìm nhiều năm của cổ nhơn, đá điểm đầu bất chợt vỗ tay cười. Hãy nói cười cái gì? Sau ót thấy má chớ cùng qua lại.
*
Khoảng niên hiệu Thiệu Hưng, Sư có chút bệnh rồi tịch. Tháp toàn thân ở góc Tây Nam chùa.
Sư họ Tiền, quê phủ Thiệu Hưng. Từ khi được yếu chỉ nơi Thiền sư Viên Ngộ khắp trụ các ngôi chùa to. Ban đầu Sư phụng chiếu trụ Cảnh Sơn, vua ban hiệu Phật Trí Đại sư. Kế Sư dời trụ chùa Dục Vương.
*
Sư thường dạy chúng: Một pháp nếu có lớp lớp vách sắt núi bạc, muôn pháp nếu không chốn chốn chìm không kẹt lặng. Con mắt mình nếu chánh thấy gai nhọn cũng dẹp, một pháp chẳng rơi vào duyên trần, muôn pháp vốn không chướng ngại. Núi là núi nước là nước, tục là tục Tăng là Tăng, chẳng khác chẳng đồng. Dù cho thế ấy, vẫn là đóng cửa ráp xe, chưa phải mở cửa lắp trục. Lại phải biết trên đảnh để một cái, làm sao rõ? Xưa nay tròn trặn không vá thiếu, sức mạnh Ma-la mở chẳng ra.
Sư dạy: Khi đi bặt dấu đi, khi nói không vết nói, đi nói nếu đến thì ụ đất sanh tên (mũi tên), đi nói chưa rõ thì tên thần cũng gãy. Dù cho nói không rỉ chảy, đi chẳng quên đường, vẫn kẹt rỉ chảy. Nếu là chim đại bàng cánh vàng bay nhanh trăm ngàn do-tuần, ngựa thần mười bóng chạy tột bốn phương tám hướng, chẳng mắc chỗ ăn uống, chẳng tùy chỗ chôn thân, thảy không có chỗ nương tựa, lại có phần dẫm đạp hay không? Cõi cõi bụi bụi là yếu tân.
Sư dạy chúng nhắc: Nam Tuyền nói: Lão tăng mười tám tuổi đã biết tạo kế sống. Triệu Châu nói: Tôi mười tám tuổi liền biết tan nhà nát cửa. Hiểu chăng? Tạo kế sống mới hiểu tan nhà nát cửa, tan nhà nát cửa mới hiểu tạo kế sống. Giả sử vàng ròng làm thành, bạc trắng làm vách, thiền duyệt làm thức ăn, giải nghĩa làm nước tương, kẻ Thiền tăng bản sắc chẳng ưng ngó lại. Sao vậy? Há chẳng thấy nói: Kẻ mắt sáng vào hang ổ, dù cho muôn dặm không vắng tanh, nên khéo một chùy đều đập nát. Hãy nói một câu chẳng rơi vào tiến tu làm sao nói? Sư im lặng giây lâu nói: Cây dong cỏ lát nếu biết mặt xưa rực rỡ, dẹp hết đầy bồn đầu tử đỏ. Sư gõ phất tử một cái.
*
Sư dạy chúng: Khi chưa thế ấy, một câu siêu Thích-ca việt Di-lặc, đến lúc rõ phá chẳng được nửa phần. Sao vậy? Chỉ vì chấp thói quen. Nếu gọt vuông được tròn như đầu cọp mọc sừng lưng rồng sanh cánh, là điềm lành điều tốt. Nếu bình thản trầm lặng, buồn ngủ thì nhắm mắt, cơm đến thì há miệng. Hãy nói gọt vuông được tròn phải hay bình thản trầm lặng phải? Lại biện được chăng? Dù cho biện được cũng là gò chén bể.
*
Sư dạy chúng: Trọn đại địa là con mắt Sa-môn, trọn đại địa là ánh sáng chính mình, vì sao ở Đông Phất Vu Kiện đánh trống ở Tây Cù Da Ni chẳng nghe, ở Nam Thiệm Bộ Châu đốt đèn ở Bắc Uất Đơn Việt tối mò. Dù cho nhằm trong đây nói được thập toàn, vẫn là kế sống quang ảnh. Sư cầm phất tử đánh một cái nói: Trăm hỗn loạn thế nào là con đường xuất thân? Nếu thật chẳng thấy, theo đường hái hoa hướng dương.
*
Sư dạy chúng: Một chùy liền thành, chẳng phải kẻ tánh tháo, một nhảy ngàn dặm, chẳng phải con ngựa hạn huyết, mũi nhọn chẳng bày, chùy sắt không lỗ, tám mặt linh lung, nhiều rỗng ít thật. Dù được khuỷu tay treo dạ minh phù, đảnh môn đủ con mắt kim cang, tột đầu thấu đuôi sanh sát lẫn hành, mặc kia ma Phật hiện trước, liền khéo đao bén chặt hết. Hãy nói, căn cứ cái gì được như thế? Cần biết chăng? Ngọc bá nhẹ đưa núi biển tối.
Sư họ Lý, người đất Thục, thuở nhỏ chuyên nghiệp Nho, văn chương nổi tiếng. Bỗng Sư chán tục xuất gia thọ giới cụ túc. Sư dạo khắp các tùng lâm thân cận các bậc kỳ túc. Nơi Ngũ gia tông phái, Sư khéo được gia phong, riêng ở Viên Ngộ, Sư nhận được tủy. Khi Viên Ngộ ở Đạo Lâm, Tương Sơn đều cử Sư làm Thủ tọa. Sau Sư nhận khai pháp ở Đức Sơn.
*
Sư dạy chúng: Tổ Sư nói: Muốn được hiện tiền, chớ còn thuận nghịch. Ông già Thích-ca là cái gì, giày cỏ rách; một đại tạng giáo là giấy cũ lau ghẻ. Đạt-ma chín năm xây mặt vào vách ngủ vùi chưa tỉnh. Cả thảy các ông, trong da không máu trong mắt không gân, lại nhằm trong này tìm cái bát gì? Mời mỗi người trở về phòng đi.
Sư dạy: “Dừng dừng chẳng cần nói, pháp ta diệu khó nghĩ”, ông già Thích-ca vô cớ nhằm trên đất sạch mà ỉa, các người tăng thượng mạn nghe ắt chẳng kính tin, kia kia kẻ trượng phu, các người nhằm chỗ nào thấy ông già Thích-ca? Nếu là thấy, được vào cửa Đức Sơn, chưa vào thất Đức Sơn. Hãy nói thất Đức Sơn làm sao vào? Sư im lặng giây lâu nói: – Ba mươi năm sau.
Sư dạy: Có khi mở miệng quấy, có khi mở miệng phải, lời thô và ngữ tế đều về đệ nhất nghĩa. Ông già Thích-ca tiếng chim hát, Đạt-ma Tây sang mùi phân hôi, chỉ có con trâu trước núi thân phóng hào quang soi trời đất.
Sư dạy: Pháp chẳng vậy mà vậy, tối đi sáng lại, đạo chẳng thế mà thế, sấm chạy mưa bay. Liền được ngàn sông đua chảy muôn suối giành trôi, đầu núi sóng bủa ngập trời, đất bằng người cá cùng ở, chớ hỏi mầm Tăng trưởng, như nay trên đầu mênh mông. Tuy nhiên nước đến thành đầm, đâu ngờ qua vẫn chẳng đến. May thay! Mây tan mưa tạnh sóng lặng mòi yên, mặt trời sáng lên không vạn tượng đồng vui. Hãy nói, công lớn chẳng chủ một câu làm sao nói? Lão quê chẳng biết sức Nghiêu Thuấn, đùng đùng đánh trống tế thần sông.
*
Sư dạy: Kiếm báu cầm lại liền dùng, há có nghi ngờ, lông mày dựng đứng liền đi, lại không xoay lại, tất cả chỗ vượt nay suốt xưa, tất cả chỗ cắt đứt lồng lưới, chẳng phạm mũi nhọn cũng chẳng đoái xem. Riêng vượt vật ngoại thì hãy gác, khi muôn cơ tan hết thì thế nào? Mùa thu tháng tám chỗ nào nóng?
*
Sư dạy: Thanh văn ngộ đạo chưa khỏi dính nước trong lỗ tai, thấy sắc sáng tâm cũng là ném cát trong con mắt. Dù được mảy may không chướng ngại, có không đồng là không, dưới bặt chính mình trên không vin ngưỡng, riêng xa vời bặt tình trần, cao vòi vọi lìa phân biệt, vẫn là việc bên kia. Hãy nói việc bên này lại làm sao? Thôi luyến đầm lạnh cây không bóng, hãy xem tháng sáu hoa tuyết bay.
*
Sư dạy: Động thì bóng hiện, giác thì băng sanh, chẳng động chăng giác đất cây không khác. Thiền tăng đến trong đây phải có một con đường chuyển thân mới được. Nếu chuyển được chia ba thành sáu, xướng chín thành mười, nhét Tu-di trong hạt cải, ném Đại thiên ở phương ngoài. Nếu chuyển chẳng được, giữ hang quỉ ở núi người, chẳng khỏi là tinh linh.
*
Sư dạy: Đạt được nhân không pháp không, chưa gọi gia phong Tổ Phật, thấu được toàn dụng toàn chiếu, cũng chưa phải yếu diệu Thiền tăng. Cần phải đập phá cổng chắc biết được một lỗ hướng thượng? Thế nào là một lỗ hướng thượng? Xuân lạnh tuyết động đầu núi chết thiếu niên.
Sư thượng đường: “Niết-bàn không đường khác, phương tiện cửa có nhiều.” Sư cầm gậy lên nói: Xem! Xem! Cây gậy của Sơn tăng, một ngụm hớp cạn nước Tây Giang. Cá lý ngư ở biển đông nhảy phóc trời Tam thập tam. Đế Thích nổi giận nắm núi Tu-di đấm một đấm tan nát, địa thần Kiên Lao chắp tay tán thán rằng: Xem kỹ pháp Pháp vương, pháp Pháp vương như thế. Sư cầm cây gậy gõ giường thiền một cái xuống tòa.
*
Sư dạy: Vào cửa Đức Sơn liền đánh, đất bằng sanh gò. Vào cửa Lâm Tế liền hét, không gió nổi sóng. Câu Chi chỉ dựng một ngón tay, chưa khỏi mập mờ. Tuyết Phong đánh ra ba chiếc cầu, trẻ con đùa thích. Đến trong đây thảy dùng chẳng được. Đâu bằng tháng sáu tam phục cam lồ khắp ướt, nước đủ đồng cao lúa xanh nam khoảnh, nông phu vỗ bụng tiều già ca to, gia phong Cổ Phật nghiễm nhiên như còn. Nơi đây hội được cùng vui thăng bình, nếu như chưa được, chỉ biết “việc đi qua trước mắt”, chẳng ngờ “trên đầu già đến rồi”.
Sư họ Chu quê ở phủ Gia Định. Buổi đầu Sư giảng kinh Lăng Nghiêm ở Thành đô, là bậc được trọng vọng trong hàng nghĩa học. Khi ấy Viên Ngộ ở Chiêu Giác, Sư cùng Thiền sư Thắng kết bạn cùng đi đến.
*
Sư nghe Viên Ngộ tiểu tham nhắc: – Việc Quốc sư ba phen gọi thị giả. Triệu Châu niêm rằng: Như người viết chữ trong tối, chữ tuy chẳng thành văn thể đã bày. Trong kia chỗ nào là văn thể đã bày?
Sư tâm nghi, thắp hương vào thất. Viên Ngộ hỏi: – Tọa chủ giảng kinh gì?
Sư thưa: – Kinh Lăng Nghiêm.
Viên Ngộ hỏi: – Kinh Lăng Nghiêm có bảy chỗ hỏi tâm, biện thấy có tám hoàn, cứu kính tâm ở chỗ nào?
Sư trình nhiều kiến giải, Viên Ngộ đều chẳng nhận. Sư lại thưa thỉnh, Viên Ngộ dạy: – Tất cả chỗ dùng văn thể đã bày hội. Bỗng gặp vị Tăng thưa hỏi về Thập huyền đàm, mới nhắc hỏi tâm ấn anh nhan mạo gì? Viên Ngộ gằn giọng nói: – Văn thể đã bày.
Sư nghe liền có tỉnh, bèn cầu ấn chứng.
Viên Ngộ bảo: – Dùng bản sắc kiền chùy.
Sư lại mờ mịt. Một hôm Sư bạch Viên Ngộ: – Hòa thượng thôi nhắc thoại đợi con nói xem.
Viên Ngộ chịu. Sư thưa: – Bình thường cầm chùy dựng phất, há chẳng phải trong kinh nói, tất cả thế giới đã có các tướng đều là Bồ-đề diệu minh chân tâm.
Viên Ngộ cười bảo: – Ông xưa nay ở trong đây làm kế sống.
Sư lại thưa: – Khi hét hay gõ giường thiền, há chẳng phải phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo.
Viên Ngộ bảo: – Ông đâu chẳng thấy trong kinh nói “Diệu tánh viên minh lìa các danh tướng”.
Sư ngay câu này liền thấu hiểu.
Viên Ngộ ra đất Thục trụ Giáp Sơn. Sư liền thôi giảng đi theo hầu. Viên Ngộ vì chúng dạ tham, nhắc nhân duyên “buồm xưa chưa treo”. Sư nghe chưa lãnh ngộ bèn cầu quyết nghi. Viên Ngộ bảo: – Ông hỏi ta.
Sư nhắc thoại trước. Viên Ngộ bảo: – Cây bá trước sân.
Sư liền thấu suốt, thưa với Viên Ngộ: – Cổ nhân nói một giọt nước gieo vào hồ to, đâu chẳng biết biển cả gieo vào giọt nước.
Viên Ngộ bảo: – Làm gì được kẻ này.
Chưa bao lâu, Viên Ngộ cử làm Đệ nhất tọa. Viên Ngộ nói bài kệ:
Thôi khoa Tứ phần bãi Lăng Nghiêm.
Dưới án đầu mày triệt để tham.
Chớ học Lương Công gần Mã Tổ.
Lại như Đức Sơn hỏi Long Đàm.
Bảy năm qua lại dạo Chiêu Giác.
Tam tải bay lên thẳng Bích Nham.
Kim nhật phiền mời đệ nhất tọa.
Hoa trắng rặng tùng hiệu Ưu-đàm.
Sau Sư đến yết kiến Phật Giám ở Tương Sơn. Phật Giám hỏi: – Phật Quả có câu chẳng vì người loạn nói, từng vì ông nói chăng?
Sư thưa: – Ngậm lấy miệng chó.
Phật Giám gằn giọng nói: – Chẳng phải đạo lý này.
Sư thưa: – Không người cướp túi muối trà của Thầy, kêu to làm gì?
Phật Giám bảo: – Nếu Phật Quả chẳng nói, ta vì ông nói.
Sư thưa: – Hòa thượng nghi thì thối viện riêng tham đi.
Phật Giám cười: Hả! Hả!
*
Sư khai pháp ở Bảo Ninh, kế dời sang Hoa Tạng, xoay lại lãnh Trung Phong.
Sư thượng đường: “Chúng mua hoa chừ ta mua tùng, xanh xanh nhan sắc chẳng băng hồng, tính ra trọn chẳng cùng thời hợp, về lại đi chừ trong rừng xanh.” Tức cười cổ nhân nói thế ấy, giống như trốn núi nhảy xuống hồ, tránh chìm gieo vào lửa, chi bằng tùy phần đến đầu cuốc thước tám, thước năm thảo luận một cái nửa cái. Tuy nhiên như thế, Bảo Ninh nửa cái cũng chẳng cần. Cớ sao? Giàu hiềm ngàn miệng thiếu, nghèo hận một thân nhiều.
*
Đông chí, Sư thượng đường nhắc: Hòa thượng Hạo ở Ngọc Tuyền nói: Tuyết tuyết mảnh mảnh chẳng rơi chỗ khác, đến tháng chạp lại theo, năm sau tháng giêng tháng hai tháng ba tháng tư tháng năm tháng sáu tháng bảy tháng tám tháng chín tháng mười, như trước chẳng thôi, chết lạnh chết đói, khỏi bảo nói hồ nói loạn. Sư bảo: Chẳng phải mắng người cũng chẳng tán thán, cao xuất Lâm Tế Đức Sơn, chẳng giống Vân Cư La-hán. Hãy nói, Ngọc Tuyền ý chỉ thế nào? Sư im lặng giây lâu nói: – Chỉ được tuyết tiêu đi, tự nhiên xuân lại về.
*
Sau Sư thị tịch ở Bổn Sơn, trà-tỳ lưỡi và tim không cháy.
Sư họ Dương, quê ở Gia Châu, thuở nhỏ thông minh sách sử qua mắt thành tụng, viết sách bài Phật giáo. Bỗng thấy ác cảnh hiện, Sư liền hối cải đi xuất gia. Sư nương theo Thiền sư Năng ở Huệ Mục, chưa bao lâu bị bệnh ung thư ở đầu gối, năm năm mà trị chẳng lành. Nhân Sư viết Hoa Nghiêm Hiệp Luận xong, ban đêm mộng thấy điềm lạ, sáng ra bỏ gậy đi bộ. Một hôm, Sư tụng đến phẩm Hiện Tướng nói: ?thân Phật không có sanh, không đứng cũng không đi, chốn chốn đều thấy Phật?, Sư liền ngộ tông chỉ kinh Hoa Nghiêm. Gặp khi Sư đăng tăng tịch, Phủ soái thỉnh giảng ở Thiên Bộ đường. Sư giảng lời lẽ khoáng đạt, cả chúng đều kính phục. Chợt Thiền sư Tỉnh ở Nam Đường đi qua cửa, bảo Sư rằng: Xem Thầy giảng nói vượt cả mọi người, rất tiếc chưa lìa tướng văn tự. Nếu đi hỏi đạo ở xứ ngoài tức là Chu Kim Cang hiện nay. Sư vui vẻ bãi giảng Nam du.
*
Sư nương Viên Ngộ ở Chung Phụ. Một hôm Sư vào thất, Viên Ngộ nhắc La Sơn nói: “khi có nói, chận đầu cọp nắm đuôi cọp, dưới câu thứ nhất rõ tông chỉ; khi không nói, thấy bày máy nhọn như đồng điện chớp”, làm sao hội? Sư không thể đáp, ngày đêm tham cứu bỗng nhiên có tỉnh, Sư làm kệ trình Viên Ngộ:
Nhà ở đảnh Cô Phong,
Hằng năm đóng nửa cửa,
Tự than thân đã già,
Kế sống giao con cháu.
Viên Ngộ xem hứa khả. Hôm sau vào thất, Viên Ngộ lại hỏi: – Hôm qua công án thế nào?
Sư nghĩ đáp. Viên Ngộ liền hét bảo:
– Phật pháp chẳng phải đạo lý này. Sư lưu lại năm năm, lại càng mê muộn.
*
Sau Sư đến chùa Thê Hiền ở Lô Sơn xem bộ luận Tỏa Chấp của Thiền sư Viễn ở Phù Sơn đến câu: “nếu nói ngộ có thân sơ, đâu có trong rừng chiên-đàn lại sanh cỏ thối”, Sư hoát nhiên khế ngộ, làm kệ gởi Viên Ngộ rằng: “Ra rừng như cũ vào bồng hao, lưới trời lồng lộng trốn được nào, ai tin nghiệp duyên không thể trốn, trở về chẳng sợ lời nói cao.” Viên Ngộ rất vui, đem đến bảo chúng: – Giác Hoa Nghiêm đã triệt vậy.
*
Sau Sư trụ viện có vị Tăng hỏi: – Tối sơ Phật Oai Âm Vương rốt sau Phật Lâu-chí, chưa biết tham thấy người nào?
Sư đáp: – Nhà ở thành Đại Lương lại hỏi đường Trường An.
Tăng hỏi: – Như Đức Sơn gánh bộ Sớ Sao đi hành cước ý ở chỗ nào?
Sư đáp: – Đè vỡ tròng mắt ông.
Tăng hỏi: – Cùng Hòa thượng ngộ tông chỉ Hoa Nghiêm cách nhau bao nhiêu?
Sư đáp: – Đồng đường chẳng đồng dấu.
Tăng nói: – Ngày xưa Đức Sơn ngày nay Hòa thượng.
Sư đáp: – Trời chiều về Tây nước chảy về Đông.
*
Sư thượng đường nhắc: Hòa thượng Thạch Sương thiên hóa, chúng thỉnh Thủ tọa nối tiếp trụ trì, thị giả Kiền hỏi công án. Sư nói: – Chỗ tông sư đi như lửa đốt băng, thấu qua cổng thị phi, toàn cơ quên, được tột đạo. Thủ tọa kẹt ở một sắc. Thị giả tri kiến vượt thầy, đáng gọi thể diệu mất tông toàn mê hướng bối. Đâu chẳng biết Thủ tọa như cò trắng đứng trong tuyết, phẩm loại chẳng đồng. Thị giả dường chim phượng bay trong không chẳng dính lưới vàng. Một người đứng trên chót vót núi cao, một người đi tận đáy biển sâu. Mỗi vị tự theo phương mà đến, đồng hội trong thành cửu trùng. Hiện nay cần biết hai người này chăng? Sư dựng đứng phất tử lên nói: – Rồng nằm đầm biếc gió ầm ầm. Sư hạ phất tử xuống nói: – Hạc về không rộng lưng mài trời.
Có vị Tăng hỏi: – Thế nào một hét như Kim Cang Vương bảo kiếm?
Sư đáp: – Máu đẫm Phạm Thiên.
Tăng hỏi: – Thế nào một hét như sư tử ngồi xổm?
Sư đáp: – Chồn hoang hoảng hốt.
Tăng hỏi: – Thế nào một hét như sào dò bóng cỏ?
Sư đáp: – Nghiệm được xương của ông.
Tăng hỏi: – Thế nào một hét chẳng có dụng một hét?
Sư đáp: – Phải nên biết rõ người cầm kim, chớ nói oan ương lông cánh tốt.
Sư họ Bành, quê ở trấn Kim Lưu My Sơn. Năm 13 tuổi, Sư theo tăng Tông Biện viện Dược Sư xuất gia. Sau đó đến Thành đô học kinh luận. Sư lại trở về Nga My tại chùa Vân Nham, là nơi Thiền sư Trưng trụ trì. Thiền sư Trưng là cháu đời thứ tư của Thiền sư Huệ Nam Hoàng Long, tri kiến khá cao. Sư mới vào cửa gặp Trưng thọ trai xong đi dạo hành lang chùa. Vừa gặp, Sư liền để túi vải xuống hỏi: – Văn-thù là thầy bảy đức Phật, chưa biết người nào là thầy Văn-thù?
Trưng đáp: – Cát vàng bờ khe Mã Lang về.
Khi ấy có Thiết Phất Khởi làm Thủ tọa, Sư cũng đến thân cận. Khởi thường nhắc nhở Sư, trải qua hai năm mà không sở đắc. Một hôm, Sư tĩnh tọa có một vị Tăng đi một mình tự nói: – Mượn tứ đại để che đậy, duyên sáu trần mà sanh tâm, chợt gặp sáu trần liền dứt, gọi cái gì là tâm? Sư nghe bỗng dưng có tỉnh. Sư đứng dậy trình với Thủ tọa, Thủ tọa nhận đó, đến phương trượng trình với Trưng, Trưng cũng nhận đó. Ngày sau liền từ giã đi, đồng học giữ lại. Sư không chịu nói: – Thầy tôi cho là được, mà tôi trọn chưa hài lòng.
*
Bấy giờ Viên Ngộ từ Vân Cư trở về Thục trụ ở Chiêu Giác, Sư liền đến đó. Mỗi khi hỏi thoại ý chỉ rất cao vót, Viên Ngộ thầm nhận. Một hôm Viên Ngộ phổ thuyết nhắc Bàng Cư sĩ hỏi Mã Tổ: – Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì? Mã Tổ bảo: – Đợi ông hớp một ngụm cạn nước Tây Giang liền nói với ông.
Sư nghe nói bỗng nhiên đại ngộ, ngã tại trong chúng, chúng cho là trúng gió cùng dìu dậy. Sư nói: – Tôi mộng hay thức?
Đến tối Viên Ngộ tiểu tham, Sư ra hỏi: – Sạch trọi trơn rỗng không một vật, thân trần nghèo tột không một tiền, cửa nát nhà tan xin Thầy cứu giúp?
Viên Ngộ đáp: – Bảy trân tám bảo một lúc lấy.
Sư thưa: – Làm sao cướp chẳng vào nhà cẩn thận?
Viên Ngộ đáp: – Cơ chẳng rời vị rơi trong biển độc.
Sư theo tiếng liền hét. Viên Ngộ lấy cây gậy gõ giường thiền nói: – Ăn được gậy hay chưa?
Sư lại hét. Viên Ngộ hét liên tiếp hai tiếng. Sư lễ bái. Viên Ngộ rất vui làm kệ tặng Sư. Có cựu Thiết Thiệt có lời tháo chốt cửa, chúng gọi Sư là Thiết Thiệt Viễn. Từ đây cơ phong cao vót không ai chống lại.
*
Mùa xuân năm Ất Mão hiệu Thiệu Hưng, Huyện thú My Sơn mời Sư trụ núi Tượng Nhỉ, Sư chẳng nhận. Năm ấy Viên Ngộ thị tịch, Sư than: Triết nhân đã mất nối đó là ai? Sư đóng một chiếc thuyền nhỏ xuống núi. Ban đầu đến Hoài Nam, Sư trụ ở Long Bàng tám năm, kế dạo Lang Nha lại sang Phổ Tế, Định Nghiệp. Từ Sư phát minh tâm yếu liền được du hí, như gió đại tự tại tam-muội.
*
Sư khai pháp đăng tòa nói: Trời không cửa đất không vách, trên gác hồ lô trồng đông qua, hai tay kéo cày nước đến gối, nhảy chuồn vàng nuốt dạ gai lật, vỗ bản thổi sáo không lỗ, thua! Thua! Sơn tiêu một chân giỏi nhảy đôi, năm rồi mùa đông không than đốt, năm nay định là không lửa hơ, khi đói đói đến tròng mắt vàng, khi nghèo nghèo đến thân trần đứng, thua! Thua! Hãy nói thua cái gì? Tại sao Giám tự, Phó tự, Duy-na, Điển-tọa, Trực-tuế? lại cùng thợ bùn nước thương lượng, thả ra chim cú hai đầu, nhai nát xương sống Phật điện.
*
Sư thượng đường nhắc: “Hòa thượng Chơn Tịnh dạy chúng: Trời đất cùng ta đồng gốc, vạn vật cùng ta đồng thể, đầu gót chân đuôi gót chân ngang ba dọc bốn, Bắc Câu-lô Châu nổi lửa đốt lông mày Đế Thích, Đông Hải Long vương không thể nhịn được, sấm vang một tiếng ầm ầm, liền được hồ nghiêng núi ngã mây đầy không dài, chữ thập đầu đường con nhà họ Liêu họ Hồ, trong lúc ngủ mê trỗi dậy vỗ tay cười hả! Hả! Nói: Trong thành Quân Dương gần đây ít cướp. Hòa thượng cầm cây gậy nói: Cướp! Cướp!” Sư nhắc xong nói: Phải thì một trường bán buôn chẳng ít, nào ngờ lỗ mũi tròng mắt mỗi người còn có chủ. Cớ sao? Trong gò sắn bìm lấy trộm chưa phải kẻ cướp ban ngày, trước cửa quán rượu bỏ sót chẳng phải chánh cướp. Khi ấy ở đông lang đường có tiếng chó sủa, Sư liền gọi cư sĩ xem: Trước cửa có quan khách nào. Đại chúng đều xoay đầu nhìn. Sư bảo: Cần thấy chánh cướp chăng? Sư bèn huýt sáo một tiếng, chao tay xuống tòa.
*
Khi ấy Đại Huệ ở Mai Châu có người truyền kệ tụng và đề xướng của Sư đến, Đại Huệ ngạc nhiên nói: Lão sư về già có đứa con như thế ư? Nhân đây Đại Huệ biên thơ thông tin và gởi tặng pháp y của Viên Ngộ. Sư làm tụng nghênh đón, hai vị gặp nhau rất vui. Đại Huệ hết lời khen ngợi, lại đề ảnh Sư: Cái võ Xuyên này không chân không giả, một cây gậy trắng Phật đến cũng đánh, lại có một chỗ rất hay, giỏi nhằm trên bát bồn chạy ngựa.
Kế Sư dời trụ Quang Hiếu trải mười năm. An định quân vương Triệu Biểu Chi cùng Sư làm bạn ngoài đời. Thị lang Tăng Khai theo Sư thưa hỏi. Tăng tuy là sĩ đại phu mà đã bảo tham nơi chư kỳ lão, theo Đại Huệ dạo đi rất lâu mà chưa thâm giải thoát, đến gặp Sư mới dứt các nghi.
*
Sau Sư dời đến Nam Nhạc trụ ở Nam Đài. Khi đó Thiền sư Liêu ở Long Vương, Thiền sư Phương ở Quãng Hạnh đều là cao đệ của Nguyệt Am, đạo đức nổi tiếng ở Hồ, Tương. Hai vị nói với nhau: Khoảng này vách đứng ngàn nhẫn, Viễn chỗ nào tá túc ư? Nhân thỉnh Sư đang tòa, lập hơn ba mươi câu hỏi đều là hóc búa nguy hiểm, chỗ học giả khó đến. Sư tùy cơ giải đáp lời lẽ thâm áo nghĩa luận siêu việt, mọi người rất thán phục. Liêu dẫn đồ chúng đảnh lễ nói: Gối này chẳng cúi nơi người đã lâu.
*
Sư lại sang Thiên Thai trải trụ trì ba chùa Hộ Quốc, Quốc Thanh, Hồng Phước. Khoảng niên hiệu Càn Đạo (1165-1174) Thượng thơ Trần Đức Hòa trấn thú Bình Giang do đại đạo tràng Hổ Khưu gần đây không có người, tận tâm mời Sư trụ trì. Sư đến đây hết lòng mở mang đạo pháp. Sư lại vâng chiếu trụ chùa Sùng Tiên ở núi Cao Đình. Chưa bao lâu, Sư thối viện đến trụ am Nghinh Chiếu. Sư lại vâng chiếu trụ Linh Ẩn. Ngày khai đường có Trung sứ niêm hương chúc Thánh xong. Sư niêm hương rằng: – Một cây hương này trời đất không thể che đậy, mắt Phật không thể xem lường, đưa lên diệt chủng tộc Ấn Độ, nắm lại mờ mịt giết người, lụy ta ba mươi năm, trong cỏ hoang nằm ngang, đến khiến một đời làm kẻ chẳng nghẹn ngào, tựu trung có chút sai lầm, đối chúng cũng phải nói phá.Sơn tăng hai mươi năm trước, bị gió nghiệp thổi đến dưới núi Dân Nga trong rừng gai góc, chạm đến chiếc chùy không lỗ, bị kia một đập nửa say nửa tỉnh, sẽ bảo câm miệng một đời không thể mở. Hai mươi năm sau, lại bị gió nghiệp thổi đến rửa giặt ở đầu Cẩm Giang, trong gò sắn bìm gặp được cái đuôi đỏ trăng trắng, khi ấy chính bị cắn một cái, liền không tán đảm vong hồn, mở được miệng đến nay thọ dụng chẳng hết. Hãy nói, hương này vì thiện tri thức hai mươi năm trước là phải, vì thiện tri thức hai mươi năm sau là phải? Một con hạc chẳng đậu hai cây, một người khách chẳng phiền hai nhà. Đâu chẳng thấy nói: Trước đi chẳng đến, rốt sau vượt xa. Ngày nay thân cướp đã bày tang vật hiện tại. Phụng vì Thành đô phủ Chiêu Giác tiên Viên Ngộ Thiền sư Đại Hòa thượng. Chẳng trọng Thầy đối ngự bàn không, hoành hành hải thượng, chỉ trọng Thầy trong ngực không vật trong bụng không thiền, khói nhằm trong lò dùng đều pháp nhũ.
*
Khi ấy, vua Hiếu Tông để tâm về Thiền học, nhiều phen mời Sư vào triều, ban hiệu là Phật Hải Thiền sư. Vua làm bài tụng tặng Sư:
Bát bồn chạy ngựa đến thiên đình,
Quen đạp ven trời ngựa chẳng sợ,
Xoay đầu bay lại núi cao vót,
Mây trắng bao trùm đế đô xuân.
Một hôm đánh trống đăng tòa xong, Sư vẫn ngồi trong màn. Thị giả tìm Sư chẳng thấy. Sư vạch màn ra nói: – Chỉ ở trong này vì sao chẳng thấy?
Thị giả không đáp được. Sư đáp thay: – Búa lớn bửa ba cửa.
Có vị Tăng Nhật Bản tên Giác A, thông Thiên Thai giáo và các sách, hay nói các thứ tiếng. Ban đầu đến yết kiến Sư tỏ ra rất lanh lợi, Sư đem Thiền tông chỉ dạy. Giác ở ba năm liền đốn ngộ làm tụng đầu cơ trình Sư. Nhân đây có phái thiền truyền sang Nhật Bản.
Niên hiệu Thuần Hy thứ hai (1175) năm nhuần sáng tháng chín, Sư thượng đường nói kệ:
Thuần Hy thứ hai nhuần,
Cuối thu sáng tháng chín,
Chỗ ồn chớ xuất đầu,
Đất lạnh để mắt thấy
Tối sáng chẳng tương can,
Kia đây phân một nửa,
Một thứ làm người quí,
Bảo ai bán củi than.
Nói với ông, không thể chê không thể khen, thể dường hư không chẳng bờ mé, gọi nhau kêu nhau về lại đi, năm tới định là tháng giêng nữa.
Sư con nhà họ Từ, quê ở My Châu. Năm ba mươi tuổi được độ làm Tăng, Sư đến Thành đô học tập Duy thức tự cho là tột cùng. Có vị Tăng đồng chùa hỏi: – “Ba cõi duy tâm, muôn pháp duy thức, nay vạn tượng trước mắt rõ ràng, tâm thức ở đâu?”
Sư mờ mịt không đáp được, bèn ra đi đến sông Giang sông Hoài, rồi đến chùa Thái Bình. Sư nghe Thiền sư Phật Giám dạ tham nhắc thoại cây bá trước sân của Triệu Châu, đến Giác Thiết Chùy nói: – Tiên sư không lời này, chớ chê bai Tiên sư.
Nhân đây, Sư nghi rất thiết để khởi khá lâu, một hôm bỗng nhiên khai ngộ. Sư liền chạy đến trượng thất trình sở ngộ. Phật Giám thấy Sư đến liền đóng cửa. Sư thưa: – Hòa thượng chớ lừa con.
Phật Giám bảo: – Mười phương không tường vách sao chẳng vào cửa?
Sư liền thoi phủng cửa sổ giấy. Phật Giám liền mở cửa, nắm đứng bảo: – Nói! Nói!
Sư lấy hai tay vòng quanh đầu Phật Giám dùng miệng cạp một cái rồi đi, làm bài kệ trình:
Triệu Châu có một thoại cây bá,
Thiền khách truyền nhau khắp thiên hạ,
Phần nhiều vạch lá với tìm cành,
Không thể thẳng đến cội nguồn hiểu.
Giác Công nói rằng không lời này,
Chính là lời ác ngay mặt mắng,
Thiền nhân nếu đủ thông phương mắt,
Khéo nhằm trong đây biện chân giả.
Phật Giám thâm nhận đó, mỗi khi nói chuyện khách thường khen ngợi Sư, sau lại chia tòa cùng giáo hóa.
*
Thái thú họ Tương thỉnh Sư khai pháp ở Thiên Ninh, chưa bao lâu lại cử trụ trì chùa Văn-thù.
Sư thượng đường nói: Sư tử ngáp voi chúa rống, Vân Môn trong Bắc Đẩu ẩn thân, Bạch Vân vì sao gọi tác thủ, chư Phật ba đời không thể biết, chồn hoang trâu trắng lại biết có. Hãy nói thế nào là việc kia biết có? Mưa xối hoa lê con bướm bay, gió đưa tơ liễu lông cừu chạy.
Sư thượng đường cầm gậy chỉ lên nói: Khi thế ấy đâm phủng gót chân Kiều-thi-ca. Sư lia một cái nói: Khi thế ấy lia vỡ xương đầu vua Diêm-la. Sư chỉ bờ Đông nói: Khi thế ấy xỏ qua tròng mắt cá lý ngư ở biển đông. Sư chỉ bờ Tây nói: Khi thế ấy bít mất lỗ mũi Tây Vương Mẫu. Hãy nói khi thảy không thế ấy thì sao? Năm nay mưa nước nhiều mỗi người nên phơi mắt.
Niên hiệu Tuyên Hòa (1119) Cải Nguyên ra chiếu đổi hiệu Tăng là Đức Sĩ. Sư thượng đường nói: Tây sang việc Tổ ý, ngày nay mới hoàn toàn, xưa là Tỳ-kheo tướng, nay làm hình Lão quân. Lông hạc kết áo bạc, đầu quấn khăn lá xanh, lâm tuyền khách vô sự, hai lần thọ quân ân. Sở dĩ nói: muốn biết nghĩa Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên. Hãy nói hiện nay là thời tiết gì? Tỳ-lô-giá-na đầu đội bảo quan, vì bày trong chân có tục, ông già Văn-thù thân mặc áo lông hạc. Cốt phải tùy thuận thời nghi, một người đã vậy đông người cũng vậy, cả đoàn thành lập tùng lâm, mừng được quần tiên tụ hội. Cùng rót rượu tiên mê, đồng xướng từ Thiệp hư, hoặc xem kinh Linh Bảo độ nhân, hoặc nói thuốc trường sanh bất tử. Đàn cầm dưới trăng, ngón tay phát ấm rất xưa, cờ bày trước hiên, diệu đến vượt ngoài thần cơ. Tiến một bước liền đến trên trời Đại La, lùi một bước lại vào trong thành Cửu U. Chỉ như không tiến không thối một câu lại làm sao nói? Dù cho lông hóa tam thanh lộ, cũng vẫn luân hồi một huyễn thân.
Năm thứ hai, Sư thượng đường nói: Chẳng đắp điều y, mặc áo lông, Lão quân hình tướng lại tương đồng, một năm rưỡi ấy tư tưởng rảnh, đại để hưng suy mỗi có thời. Phật Như Lai của ta dự biết pháp có nạn, trong kinh chép rõ thảy đều rành rành, so sánh niên đại chính là khi này, ma được tiện kia mê loạn chánh tông, Tăng đổi hình tục Phật lại danh tự, vọng sanh tà giải cắt sửa văn kinh, chuông khánh im tiếng bát bồn thêm chân, nhiều loại dối trá gạt lừa thánh quân, nhờ hoàng đế bệ hạ ta thánh đức sáng tỏ, chẳng quên dặn dò chẳng phế giáo kia, đặc tứ chấn chương ban hành khắp thiên hạ, vẫn cho Tăng Ni cạo tóc đắp y như trước. Thật là lò tàn nổi lửa cây khô lại tươi, chẳng lìa hình tục mà làm hình Tăng, chẳng ra ma giới mà vào Phật giới.Tiếng trống pháp vang lại chỉnh đốn suy đồi. Rượu tiên mê biến làm huỳnh tương cam lồ, từ Thiệp hư đổi thành bản nhạc Hoàn hương, buông đi ngàn mộc giản đưa lên Ni sư đoàn, ngày trước cúi đầu vòng tay, hôm nay hòa nam chẳng xét. Chỉ đổi tướng thời xưa chă?g đổi người thời xưa. Dám hỏi đại chúng, người thời xưa là một là hai? Sư im lặng giây lâu nói: – Gió thu cũng hiểu hiềm lan tịch, thổi hết năm này đạo giáo tro.
*
Niên hiệu Kiến Viêm năm thứ ba (1129) mùa xuân, Sư dạy chúng nhắc nhân duyên Lâm Tế sắp nhập diệt dặn dò Tam Thánh. Sư bảo: “Chánh pháp nhãn tạng lừa mù diệt, Lâm Tế đâu từng có nói thế, xưa nay thời nhân đều vọng truyền, chẳng tin chỉ xem sau tam ngoạt.” Đến tháng ba nhuần giặc Chung làm phản, đồ chúng muốn dời Sư chạy sang miền Nam, Sư bảo: Học đạo sở dĩ liễu sanh tử nào có chạy đi đâu. Giặc đến, Sư bảo: Chóng thấy được giết, để vui tâm ngươi. Giặc liền đưa giáo giết Sư, máu tuôn ra đều thành sữa trắng. Bọn giặc kinh sợ lấy chiếu đậy lại rồi đi.
Sư con nhà họ Thí, quê ở Thơ Châu. Còn trẻ đã hầu hạ ở pháp tịch Phật Giám, làm công tác chăng từ khó khăn, tiếng vang cả tùng lâm.
*
Sư du phương đến Hoàng Long, gặp Thiền sư Tử Tâm ở tam môn, hỏi: – Từ đâu đến?
Sư xưng danh, liền biết là Trang chủ Tài ở Thái Bình Thơ Châu. Hôm khác, Sư vào thất, Tử Tâm hỏi: – Hội được câu tối sơ là hội được câu rốt sau, hội được câu rốt sau liền hội được câu tối sơ. Tối sơ rốt sau cầm ném một bên, thoại Bá Trượng dã hồ làm sao hội?
Sư thưa: – Vào cửa đã rành kiến giải đến, đâu cần lại nhắc lối nghẽn bùn.
Tử Tâm nói: – Trưởng lão Tâm chết trong tay Thượng tọa.
Sư thưa: – Ngữ ngôn tuy có khác chí lý vẫn không sai.
Tử Tâm hỏi: – Thế nào là việc không sai?
Sư thưa: – Chẳng gõ sừng Hoàng Long đâu biết châu dưới hàm.
Tử Tâm liền đánh.
Buổi đầu Sư trụ Nhạc Lộc, ngày khai đường Tăng hỏi: – Đức Sơn gậy Lâm Tế hét, ngày nay thỉnh Thầy vì kéo rút.
Sư đáp: – Tố rô tố rô.
Tăng hỏi: – Tố rô tố rô lại có ý Tây lai hay không?
Sư đáp: – Tố rô tố rô.
Do đây tùng lâm gọi Sư là Tài tố rô.
Sau Sư dời trụ Long Nha. Sư thượng đường khảy móng tay một cái nói: Khảy tay trọn thành tám vạn môn, sát-na diệt hết tam kỳ kiếp. Nếu cùng thấy được hành được, khỏe thì kinh hành mệt thì nghỉ. Nếu cũng chẳng hội, thêm con cồng cọc ném con trạnh.
Sư thượng đường nhắc Hòa thượng Tử Tâm tiểu tham nói: “Nếu luận việc này như nhà người có ba con. Đứa thứ nhất thông minh trí tuệ hiếu dưỡng cha mẹ, tiếp đãi khách khứa coi sóc gia nghiệp. Đứa thứ hai hung hăng gian giảo say rượu mê gái, nằm bờ té bụi phá hoại gia nghiệp. Đứa thứ ba mù điếc câm ngọng, đậu bắp chẳng phân, mọi việc không rành chỉ biết ăn uống. Trong ba người này Hoàng Long cần chọn một người dùng. Lại có bốn câu: trong chết có sống, trong sống có chết, trong chết thường chết, trong sống thường sống. Đem bốn câu này nghiệm Thiền tăng trong thiên hạ. Sư nói: Gọi cái gì là bốn câu? Ba người tên họ là gì? Nếu hay hiểu được cùng Hoàng Long nắm tay đồng đi, lại không mảy may ngăn cách. Nếu như chưa thế, chẳng khỏi mượn nước dâng hoa đi vậy. Ba người cộng thể dụng phi dụng, bốn câu đồng âm không chẳng không. Muốn biết ba người cùng bốn câu. Quạ vàng mới mọc một vầng hồng.
Sư trụ Long Nha mười ba năm, dùng thanh đạm khổ hạnh tiếp chúng, Thiền tăng đều kính quí. Sau Sư dời trụ Vân Khê được bốn năm.
Đến niên hiệu Thiệu Hưng năm Mậu Ngọ ngày rằm tháng tám, Sư họp chúng giao việc chùa, viết kệ rằng:
Ngày trung thu năm Mậu Ngọ,
Xuất gia trụ trì việc xong,
Sắp đi chính mình còn không,
Có gì hư không khá kiếm.
Sư dạy dỗ như thường.
Đến ngày hai mươi ba, Sư lại họp chúng dạy: Niết-bàn sanh tử trọn là hoa đóm trong không, Phật và chúng sanh đều là Tăng ngữ. Cả thảy các ông nên phải làm sao? Chúng đều hạ ngữ mà không hợp. Sư hét rằng: Khổ! Khổ! Lại nói: Mây trắng vọt lên, trăng sáng tại trời. Nói xong, Sư lặng yên thị tịch.
Sư con nhà họ Thí quê ở Quận Chi. Trước đến tham vấn Thiền sư Anh ở Quảng Giám mà không khế hội, Sư sang chùa Thái Bình theo chúng thưa hỏi vẫn không có chỗ vào. Sư bèn cột cái chăn lại thệ rằng: – Đời này nếu không triệt, thề chẳng trải cái chăn này.
Khi ấy, Sư ngày ngồi, đêm đứng, như đi chôn ma mẹ. Trải qua bốn mươi chín ngày, chợt Phật Giám thượng đường nói: – Sum la cùng vạn tượng là sở ấn của một pháp.
Sư liền đốn ngộ đến yết kiến Phật Giám. Phật Giám nói: – Đáng tiếc một viên minh châu bị gã phong điên này lượm được.
Bèn hỏi Sư: – Linh Vân nói “sau ngày thấy được hoa đào ấy, thẳng đến ngày nay vẫn chẳng nghi”, thế nào chỗ không nghi của Linh Vân?
Sư thưa: – Chớ nói Linh Vân chăng nghi, chính nay tìm chỗ nghi trọn không thể được.
Phật Giám bảo: – Huyền Sa nói “đúng đắn rất đúng đắn, dám bảo lão huynh còn chưa triệt”, trong đây chỗ nào kia chưa triệt?
Sư thưa: – Biết rõ Hòa thượng tâm lão bà tha thiết.
Phật Giám nhận đó. Sư lễ bái, đứng dậy trình kệ:
Ngày trọn ngó trời chẳng ngước đầu,
Hoa đào lả tả mới đưa tròng,
Dù anh lại có che trời lưới,
Thoát được lao quan tức liền thôi.
Phật Giám dặn dò khiến hộ trì. Đêm ấy Phật Giám to tiếng nói với chúng: – Khi này Thượng tọa Tuần ẩn ngủ đi vậy.
Viên Ngộ nghe được, nghi chưa đúng, bèn nới: – Ta phải khám qua mới được. Bèn sai người mời Sư đến, cùng Sư đi dạo núi, bỗng đến một cái đầm, Viên Ngộ xô Sư té xuống nước. Viên Ngộ đứng trên hỏi: – Ngưu Đầu khi chưa thấy Tứ Tổ thì thế nào?
Sư đáp: – Đầm sâu cá tụ.
Viên Ngộ hỏi: – Sau khi thấy thế nào?
Sư đáp: – Cây cao vời gió.
Viên Ngộ hỏi: – Khi thấy cùng chưa thấy thì thế nào?
Sư đáp: – Duỗi chân ở trong rút chân.
Viên Ngộ rất khen ngợi.
Phật Giám dời đến Tương Sơn sai Sư phân tòa thuyết pháp. Kế Sư trụ Hòa Sơn ở Lô Lăng. Sư thối Hòa Sơn lui về cố hương ở ẩn. Tăng tục đón Sư ở chùa Thiên Thánh. Sau Sư trụ Hà Sơn và Thiên Ninh.
Sư thượng đường: Cây dùi xoay, chiếc búa ở núi, Phật Tổ ra đời chưa dễ cho, dù khiến đề-hồ đầy thế gian, ông không bát báu làm sao lấy. A ha! Ha! Thần Sơn đập lưới, Đạo Ngô múa, dưa ngọt tột gốc ngọt, dưa đắng rễ cũng đắng.
Sư thượng đường nhắc thoại bà già thiêu am, Sư nói: Phò tông lập giáo phải là người kia, ông xem bà già nọ tuy là nữ nhân vẫn có tác lược trượng phu, hai mươi năm hao dầu tốn tương vẫn là khá biết, một hôm nhằm trên đầu sào trăm trượng làm cái rơi mất, dù được dùng tận bình sanh khí lực trong đầu, tự chẳng phải kẻ tục biết, cơ tưởng là khéo trọn thành vụng. Song tuy như thế, các người cần hội chăng? Sau tuyết mới biết sức tùng bá, việc khó mới thấy tâm trượng phu.
Sư thượng đường: Như Lai thiền, Tổ sư đạo, tối kỵ đem tâm bên ngoài thảo, từ cửa mà được tức phi trân, hoàn toàn chôn kín trong y báu. Hàng thiền gia phải đến sớm, mở toang cây chốt của Tổ sư, giặt giũ nhiều năm chiếc áo vải, phải quấy khen chê gởi cho không, đứng rộng ngang dài lẫn nhau tô?. Anh chẳng thấy Hàn Sơn lão, trọn ngày vui cười năm dài quét, người hỏi trong kia việc thế nào? Vào ruộng hoang chẳng lựa, nắm lấy đưa ra cỏ. Tham!
Tăng hỏi: – Thế nào là khách trong khách?
Sư đáp: – Đường khách như trời dài, cửa hầu tợ biển sâu.
Tăng hỏi: – Thế nào là khách trong chủ?
Sư đáp: – Dài nhân chỗ tiễn khách, nhớ được khi nhà riêng.
Tăng hỏi: – Thế nào là chủ trong khách?
Sư đáp: – Gặp nhau chẳng thiết hỏi tiền trình.
Tăng hỏi: – Thế nào là chủ trong chủ?
Sư đáp: – Một sớm quyền Tổ lệnh, ai là người xuất đầu.
Tăng hỏi: – Khách chủ đã nhờ thầy chỉ dạy, hướng thượng tông thừa việc thế nào?
Sư đáp: – Biển cả nếu biết đủ, trăm sông phải ngược dòng.
Tăng lễ bái. Sư nói: – Thượng tọa Tuần ba mươi năm học được đấy.
*
Sư thường bảo chúng: Huynh đệ! Như có chỗ tỉnh ngộ, chẳng nệ thời tiết nhân duyên mời đến bày cái tin tức.
Đêm tuyết có vị Tăng đến gõ cửa phương trượng, Sư dậy cầm đuốc nghiêm chỉnh nạt rằng: Tuyết dầy nửa đêm cầu giải quyết tình nghi, tại sao mà chẳng đủ oai nghi. Tăng ngoái xem chiếc áo. Sư đuổi ra khỏi viện.
Mỗi khi nói với chúng, Sư nói: Tiên sư chỉ năm mươi chín, tôi năm mươi sáu vậy, ngày lại không nhiều.
Niên hiệu Thiệu Hưng năm Giáp Dần ngày giải chế, Sư thối tịch ở Thiên Ninh. Sư bảo Song Hòe cư sĩ Trịch Tích rằng: – Ngày tám tháng mười là kỵ Phật Giám, ắt tôi thời chí.
*
Sư xin về Chương Nam, ngày mùng bốn tháng mười, Trịnh Công sai em là Tăng Đạo Như đến thăm. Sư bảo: – Ông đến rất đúng lúc, trước một ngày cũng chẳng tốt, sau một ngày sai qua rồi. Tôi tuy cùng Phật Giám đồng điều sanh trọn chẳng cùng đồng điều tử. Sáng mai nên vì ta tìm một chiếc thuyền nhỏ đến.
Đạo Như hỏi: – Cần dài hay cần cao?
Sư bảo: – Cao chừng năm thước.
Qua ba ngày, lúc gà gáy sáng, Sư ngồi ngay thẳng như thường. Thị giả xin để kệ. Sư bảo: – Chăng từng làm được.
Nói xong, Sư tịch.
Đệ tử hỏa thiêu, chiếc lưỡi vẫn còn.
Sư con nhà họ Sử ở Thành đô. Buổi đầu Sư nương thầy Tông Nhã ở chùa Đại Từ, tâm say Lăng Nghiêm trải qua năm năm. Sư dạo đi phương Nam yết kiến các hàng tôn túc rồi mới đến Long Môn. Sư đem chỗ bình thường sở đắc bạch Phật Nhãn. Phật Nhãn bảo: – Ông hiểu tâm đã tột, chỉ thiếu gắng sức mở mắt thôi. Sư bèn vào nhà ban chức sự.
Một hôm Sư đứng hầu hỏi rằng: – Khi tuyệt đối đãi thì thế nào?
Phật Nhãn đáp: – Giống hệt ông trong Tăng đường bạch chùy. Sư mờ mịt. Đến chiều Phật Nhãn vào nhà ban chức sự, Sư đem thoại khi sáng hỏi. Phật Nhãn bảo: – Ngôn ngữ nhàn.
Ngay lời này Sư đại ngộ.
Cuối niên hiệu Chánh Hòa (1116) Sư trụ trì ở Thiên Ninh, từng dời đến nhiều ngôi danh lam. Khoảng niên hiệu Thiệu Hưng (1131-1163), Sư vâng chiếu đến khai sơn chùa Năng Nhơn ở Nhạn Đãng. Khi ấy, Chơn Yết ở Giang Tâm nghe Sư đến, e duyên pháp chưa chín, đặc biệt qua sông đón Sư về phương trượng lạy chín lạy để dẫn dụ người xứ Ôn. Do đó, dân chúng hợp nhau qui kính. Chưa xem giấy cử, đồ chúng kia sợ hành qui pháp, giữa đêm phóng lửa đốt, ngôi chùa trở thành một đống ngói gạch vụn. Sư cột chùm cây làm thất, đăng tòa dạy chúng: Thích nhàn chẳng đánh trống Cổ Sơn, dưỡng già lại xem núi Nhạn Đãng, gác đẹp lầu to toàn chẳng thấy, bên suối nhà tranh hai ba căn. Lại có người cùng chung ra tay chăng? Sư hét một hét xuống tòa. Tín thí đến nghe pháp góp sức xây dựng chưa bao lâu thành ngôi chùa khang trang. Kế đó, Sư bị bổ đến Giang Tâm.
Sư thượng đường: Muôn năm một niệm, một niệm muôn năm, hòa y trong bùn lẫn, rửa chân trên giường ngủ, việc đã trải qua chỉ như hiện nay, biển cả sóng to vỗ, tiểu nhân tấc vuông sâu. Sư cầm cây gậy lên nói: Cả thảy các ngươi chưa được lối vào, cần phải được lối vào, đã được lối vào, cần phải có con đường xuất thân mới được. Đại chúng! Thế nào là một con đường xuất thân? Sư im lặng giây lâu nói: – Tùng hiện đáy khe tuyết khó đè, bên trời gió thổi trăng nào động. Sư chao cây gậy một cái, xuống tòa.
Sư thượng đường: Muôn cơ chẳng đến, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, một câu hiện bày, đầu đội trời chân đạp đất. Các ông chỉ biết ngày nay là mùng một tháng năm, đâu chẳng biết “quạ vàng nửa đêm đi gấp gấp, thỏ ngọc ngày mai biển đông lên”. Sư lấy phất tử gõ giường thiền một cái xuống tòa.
Sư thượng đường: Rõ ràng không ngộ, có pháp tức mê. Các người nhằm trong ấy lập chẳng được, các người nhằm trong ấy trụ chẳng được. Nếu lập thì nguy, nếu trụ thì mù. cần phải ý chẳng dừng huyền, câu chẳng dừng ý, dụng chẳng dừng cơ. Ba điều này đã rõ, tất cả chỗ không nên bó buộc tự nhiên hiện tiền, chẳng phải chiếu cố tự nhiên minh bạch. Tuy nhiên như thế, lại phải biết có việc hướng thượng. Mưa lâu chẳng tạnh. Dốt!
Sư thượng đường: Một lá rụng thiên hạ thu muốn cùng ngàn dặm mắt, lại lên một từng lầu. Một hạt bụi dấy đại địa thâu, Gia Châu đánh voi lớn, Thiểm Phủ tắm trâu sắt. Kẻ sáng mắt nên làm sao? Sư im lặng giây lâu nói: Hạn lâu mái thềm vắng, cầu trôi nước chẳng trôi. Sư chao cây gậy xuống tòa.
Sư thượng đường: “Kiến kiến chi thời kiến phi thị kiến, kiến du ly kiến kiến bất năng cập”, hoa rơi có ý theo giòng nước, giòng nước vô tình luyến hoa rơi. “Các cái có thể trả tự nhiên chẳng phải ông, cái chẳng bị ông trả chẳng phải ông là ai?” Thường hận xuân về không chỗ kiếm, đâu ngờ chuyển nhập trong đây rồi. Sư hét một tiếng nói: Sau ba mươi năm chớ nói Năng Nhơn (chùa) dạy phá hoại nam nữ nhà người.
Tăng hỏi: – Thế nào là ý Tổ sư Tây sang?
Sư đáp: – Nhà đông đốt đèn nhà tây ngồi tối.
Tăng hỏi: – Chưa biết ý chỉ thế nào?
Sư đáp: – Ngựa nên gác yên, lừa nên cột dây.
Tăng lễ bái. Sư bảo: – Thiền tăng lanh lợi, chỉ tiêu một cái, Sư bèn nói: – Ngựa nên gác yên, lừa nên cột dây, thiền tăng lanh lợi chỉ tiêu một cái, dù khiến nhà đông đốt đèn sáng, chưa hẳn nhà tây ngồi trong tối, Tây sang ý chỉ hỏi thế nào, ông thầy lắm mồm tự chuốc họa.
Tăng hỏi: – Thế nào là đệ nhất nghĩa?
Sư đáp: – Ông hỏi ấy là đệ nhị nghĩa.
Tăng hỏi: – Con chó lại có Phật tánh hay không, Triệu Châu nói không, ý chỉ thế nào?
Sư đáp: – Một phen bị rắn cắn, sợ thấy dây giếng đứt.
Tăng hỏi: – Chim én sâu bàn thật tướng khéo nói pháp yếu, lý này thế nào?
Sư đáp: – Chẳng bằng nhạn ngậm lau.
Tăng hỏi: – Thế nào là Phật?
Sư đáp: – Con rùa cửa động Hoa Dương.
Tăng hỏi: – Tổ Đạt-ma xây mặt vào vách ý chỉ thế nào?
Sư đáp: – Kim mộc thủy hỏa thổ, sao La Hầu Kế Đô.
Tăng hỏi: – Câu có câu không như bìm nương cây là thế nào?
Sư đáp: – Làm giặc lòng người rỗng.
Tăng hỏi: – Quốc sư ba phen gọi thị giả lại là sao?
Sư đáp: – Đánh trống khỉ đùa giỡn, trống vỡ khỉ chạy tan.
*
Đến ngày mười tám tháng bảy năm Bính Dần, Sư gọi Trưởng lão Tông Phạm đến dặn dò việc sau. Hôm sau, Sư tắm gội đánh chuông họp chúng đến tòa ngồi yên thị tịch.
Sư con nhà họ Đào quê ở Tứ Minh. Năm mười chín tuổi, Sư thi kinh được độ làm Tăng. Buổi đầu, Sư tập Thiên Thai giáo ngộ được yếu chỉ nhất tâm tam quán. Song chưa có thể mất dấu, Sư khắp tham các bậc danh túc, đến Long Môn. Sư xem xe nước xoay liền ngộ được tâm yếu. Sư thuật kệ:
Chuyển đại pháp luân,
Trước mắt bao trong,
Lại hỏi thế nào
Nước đẩy xe đá.
Sư trình Phật Nhãn. Phật Nhãn hỏi: – Trong kia việc thế nào?
Sư thưa: – Dưới khe nước thường chảy.
Phật Nhãn nói: – Ta có một câu rốt sau đợi phân phó cho ông.
Sư liền bịt tai mà đi.
Sau Sư đến Lô Sơn ở trong cây khô tại Đồng An tuyệt thực ngồi lặng lẽ. Khoảng niên hiệu Tuyên Hòa (1119-1125) vùng Tương Đàm đại hạn dân chúng cầu đảo mà không mưa. Sư liền nhảy vào Long Uyên hô to: Nghiệp súc nên mưa một thước. Liền đó trời mưa. Sư ở Nam Nhạc mỗi khi đi cỡi cọp mà dạo. Những hàng Nho, Thích nhìn theo làn bụi mà lễ bái. Sau Sư trụ ở Hoàng Long.
Sư thượng đường: Trương Công uống rượu Lý Công say, Lý Công say tỉnh hỏi Trương Công, vừa khiến Trương Công vẻ không vui, vẻ không vui chẳng bằng về nhà ngủ.
Sư thượng đường: Hôm nay nửa tháng giêng có việc gì anh đoạn, tối kỵ hai tròng mắt, bị người đốt đèn chích.
Sư thượng đường: Ta có một câu ấy, chẳng nhờ miệng chư thánh, chẳng động lưỡi chính mình, chẳng tiếng hơi ra vào, phi tình thức phân biệt. Giả sử Tịnh Danh ngậm miệng nơi Tỳ-da, Thích-ca đóng nơi thất Ma-kiệt, giống hệt bịt tai nghe linh, chưa khỏi tiết lậu thiên cơ. Dù cho Đức Sơn vào cửa liền đánh, Lâm Tế vào cửa liền hét, nếu nhằm dưới cửa Mục Am, kiểm điểm đem lại chỉ là một cây cọc. Ngàn thứ ngôn muôn cách nói, chỉ cốt dạy anh nhà mình hết. Mặc tình đại địa hư không bảy lồi tám lõm.
*
Tăng hỏi: – Thế nào là Phật?
Sư đáp: – Chớ nhằm bên ngoài tìm.
Tăng hỏi: – Thế nào là tâm?
Sư đáp: – Chớ nhằm bên ngoài tìm.
Tăng hỏi: – Thế nào là đạo?
Sư đáp: – Chớ nhằm bên ngoài thảo.
Tăng hỏi: – Thế nào là thiền?
Sư đáp: – Chớ nhằm bên ngoài mà truyền.
Tăng hỏi: – Cứu kính thế nào?
Sư đáp: – Chỗ lặng tát-bà-ha.
Tăng hỏi: – Đại chúng nhóm họp thỉnh thầy cử xướng.
Sư dựng đứng cây phất tử. Tăng thưa: – Xin thầy lại bày phương tiện.
Sư gõ giường thiền một cái.
*
Sau Sư thị tịch đồ chúng xây tháp tại động Hương Nguyên.
Sư họ Diệp quê ở Xử Châu, nương Thiền sư Anh ở Phổ Chiếu Thất Châu được độ. Sư đến tham vấn Phật Nhãn. Một hôm, Sư nghe Phật Nhãn nhắc câu chuyện “Huyền Sa chạm đến ngón chân”, liền đại ngộ.
*
Sau khi Sư trụ, thượng đường: Hội tức liền hội ngọc vốn không tỳ, nếu nói chẳng hội tai cối sanh hoa, thử hỏi chín năm xây mặt vào vách, sao bằng đại hội niêm hoa. Nam Minh (Sư) thương xót thế ấy, cũng là thuận gió ném cát. Tham!
*
Sư thượng đường: Mây che đảnh núi trăm chim tiếng im, trăng ẩn đầm lạnh châu rồng tự chói. Chính khi thế ấy liền được kèo đá bỗng nhiên đại ngộ, động đá chóng vậy thôi tâm, hư không mở miệng làm chứng, khe bắc thầy đá gật đầu, mọi người thảy ở trong ấy ngủ khò, cười chết trâu sắt Thiểm Phủ.
Sư thượng đường: Phật nói ba thừa mười hai phần giáo đốn tiệm thiên viên, người si trước mặt chẳng được nói mộng. Tổ sư tây sang chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật, người si trước mặt chẳng được nói mộng. Lâm Tế tam huyền, Vân Môn tam cú, Động Sơn ngũ vị, người si trước mặt chẳng được nói mộng. Nam Minh (Sư) nói thế ấy lại khỏi bị người kiểm trách hay không? Sở dĩ cổ nhân nói: người máy đá giống như ông, cũng biết xướng bài ca, ông nếu giống người đá, Tuyết khúc cũng nên hòa. Lại có hòa Tuyết khúc hay chăng? Nếu có kêu lại cùng lão tăng rửa chân.
*
Sư thượng đường: Khắp thân là miệng nói được phân nửa, khắp thân là mắt dùng được một cây, chỗ dùng chẳng đến nói có dư, chỗ nói không đến dùng không hết. Vì thế nói: Đang dùng không nói, đang nói không dùng, dùng nói đồng thời dùng nói chẳng đồng thời. Các người nếu có nghĩ nghị, Tây Phong dưới gót chân ông.
*
Sư đến Quốc Thanh chúng thỉnh thượng đường: Câu cũng cắt ý cũng cắt, chỗ bặt hào bặt ly như non như núi. Câu cũng đến ý cũng đến, chỗ như non như núi bặt hào bặt ly. Nếu chợt đẩy ra một lối, ý câu đều đến đều chẳng đến, đều cắt đều chẳng cắt. Dù được ngoài ba câu bặt lao quan, ngoài sáu câu không tiêu đích. Chính khi thế ấy một câu làm sao nói? Nghiêng che đồng đường chẳng đồng dấu, cùng nhau nắm tay lên đài cao.
*
Sư thượng đường nhắc Triệu Châu dạy chúng nói: Lão tăng trừ đi hai thời cơm cháo là chỗ tạp dụng tâm. Sư bảo: Hôm nay sáng tháng sáu, cư sĩ đánh trống Trưởng lão đăng đường. Cả thảy các ngươi thảy đến trong đây tạp dụng tâm.
Sư thượng đường nhắc: “Tăng hỏi Vân Môn: – Thế nào là câu kinh người? Vân Môn đáp: – Vang.” Sư bảo: – Câu Vân Môn đáp vị Tăng này chẳng được liền thôi, lại hô hào cơm cháo để hợp bình sanh.
Sư thượng đường: Hoàng Mai mưa mạch thu hàn, thế ấy hội rất vô đoan, thời tiết nhân duyên nghĩa Phật tánh, cả thảy đều là đầu lâu khô.
Sư dạy chúng nhắc: “Hòa thượng Cơ hỏi Tăng: Thiền lấy gì làm nghĩa? Chúng hạ ngữ đều không hợp lý. Tăng thỉnh ích Hòa thượng Cơ. Hòa thượng Cơ thay rằng: Lấy chê bai làm nghĩa.” Sư bảo: Chư Phật ba đời là chê bai, hai mươi tám vị Tổ ở Tây Thiên là chê bai, sáu vị Tổ ở Trung Hoa là chê bai, Hòa thượng khắp thiên hạ là chê bai, các người là chê bai, sơn tăng là chê bai, trong đây lại có người chẳng chê bai hay không? Bàn huyền nói diệu hà sa số, đâu giống Song Phong chê được gần.
Sư có chút bệnh, đệ tử giáo thọ Uông Công Kiều đến thăm. Sư đem việc sau dặn dò xong, để kệ rằng:
Biết thì biết bản tâm mình,
Thấy thì thấy bản tánh mình,
Biết được bản tâm bản tánh,
Chính là tông môn đại bệnh.
Hôm sau, Sư tắm gội mặc y phục ngồi kiết già thị tịch.
Sư họ Du quê ở bổn quận, thuở nhỏ thờ Thiền sư Uẩn ở Báo Bổn đến được thọ giới cụ túc. Sau Sư dạo đi tham vấn các bậc tôn túc, đến Tây Kinh ở Thiếu Lâm nghe vị Tăng nhắc Phật Nhãn dùng cổ thi phát minh vua nước Kế-tân chém Tôn giả Sư Tử rằng:
Đầu sông Dương Tử, dương liễu xuân,
Hoa dương buồn chết người qua sông.
Một tiếng sáo tây lìa trạm tối.
Anh đến Tiêu Tương tôi đến Tần.
Sư thầm có chỗ khế hội. Sư liền tìm đến Long Môn xin vào thất. Phật Nhãn hỏi: – Từ trước Tổ sư nhân duyên sách vở cho ông hiểu được.
Chợt đưa nắm tay hỏi: – Cái này tại sao gọi là nắm?
Sư toan đáp. Phật Nhãn bụm miệng Sư nói: – Chẳng được khởi đạo lý. Khi ấy Sư chóng bỏ tri kiến.
Sau khi Sư trụ, thượng đường: Bên miệng cọp mạnh lượm được, trên đầu rắn độc an bài, lại chẳng đóng cọc dời thuyền, xoay đầu riêng có sanh nhai. Bà già bị ta khám phá xong, trong viện Đại Bi có làng trai.
Sư thượng đường: Tịnh ngũ nhãn phún vàng xuân sắc chiều, đắc ngũ lực thổi rơi hoa đào biếc, duy chứng mới biết khó thể lường. Sư chao cây gậy nói: Một mảnh, người nào được truyền mười vạn nhà.
Sư thượng đường: Hoa nở trên gò tơ liễu bên bờ, hoàng anh điệu đàn thúc dạ, cỏ thơm vào câu Tạ công. Nào hẳn nghe tiếng ngộ đạo thấy sắc minh tâm. Chẳng những trên nước tìm bọt, đã là trong mắt dính bụi. Sư vạch ngực nói: “Các ông hãy xem thân sắc vàng tía của ta đây, ngày nay ắt còn ngày mai thì không.” Giống như không gió nổi sóng, toàn chẳng biết hổ thẹn. Hãy nói việc ngày nay là thế nào? Khéo kẻ mê gặp Đạt-ma, chẳng biết ai hiểu tiếp nối.
Tăng hỏi: – Thế nào là Phật?
Sư bèn khảy móng tay ba cái. Tăng hỏi: – Nói nín kẹt ly vi, thế nào thông chẳng phạm?
Sư đáp: – Thân ngang ngoài tam giới, riêng thoát trước muôn cơ.
Tăng hỏi: – Chỉ như Phong Huyệt nói “thường nhớ Giang Nam trong tháng ba, chá cô hót chốn trăm hoa ngát”, lại là sao?
Sư đáp: – Nói cái gã chẳng nấc cục ấy làm gì?
Tăng hỏi: – Tre gầy gió nam lay nhè nhẹ, trăm hoa đầy đất nhặt từ từ.
Sư hỏi: – Ông nhằm chỗ nào thấy Phong Huyệt?
Tăng thưa: – Trong tai trong mắt rất thích thú.
Sư bảo: – Nghĩ lường không giao thiệp.
Tăng hỏi: – Thế nào là Phật?
Sư đáp: – Không củi lửa mạnh đốt.
Tăng hỏi: – Thế nào là Pháp?
Sư đáp: – Nghèo làm trong dáng giàu.
Tăng hỏi: – Thế nào là Tăng?
Sư đáp: – Bà già bán quạt tay che trời.
Tăng hỏi: – Thế nào là lật cước bồng của Hòa thượng?
Sư bảo: – Chẳng đáp thoại này.
Tăng hỏi: – Vì sao chẳng đáp?
Sư cười to nói: – Nuốt chẳng vô mửa chẳng ra.
Ngày kỵ Phật Nhãn, Sư niêm hương: Hòa thượng Long Môn Xiển đề lạo đảo, chẳng tin Phật pháp diệt trừ thiền đạo, đạp vỡ Tỳ-lô cổng tiến lên, con mèo rửa mặt tự nó? tốt. Một cây hương trầm đốt trên lò, kéo tay vạch ngực luống sầu thảm. Sư quơ tay nói: Thôi buồn thảm! Sư lấy tọa cụ vắt lên vai làm người nữ lạy, nói: Chớ lạ trong phòng con dâu, phạm đến đại nhân tốt.
*
Sư làm bài tán Đạt-ma rằng: “Trước gác Thăng Nguyên bối rối, bờ ngọn Lạc Dương trái bày, da tủy truyền thành nói cán, chiếc giày không đâu chôn vùi, chẳng phải một phen xương lạnh buốt, đâu được hoa mai ngát mùi thơm.”
Sắp lâm chung, Sư đăng tòa cầm cây gậy lia bên trái một cái nói: – Ba mươi hai tướng không tướng này. Sư lia bên phải một cái nói: – Tám mươi vẻ đẹp không đẹp này. Cây viết Tăng Dao vẽ chă?g thành, Chí Công bày ra cỏ khô. Sư lại lia một cái nhìn đại chúng nói: – Chớ áo não, thẳng đây thừa kế thôi lại thảo. Sư xuống tòa về phương trượng, ngồi kiết già ngay thẳng thị tịch.
Trang trước | Mục lục | Trang sau |