Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ-tát: “Này thiện nam tử! Nếu có đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn như vậy, thời đặng mười công đức mà hàng Thanh văn, Bích-chi Phật chẳng có. Công đức này chẳng thể nghĩ bàn, người nghe đến sẽ kinh sợ. Công đức này chẳng phải trong ngoài, chẳng phải khó dễ, chẳng phải tướng phi tướng, không có tướng mạo, chẳng phải thế pháp, trong thế gian không có. Đây là mười công đức:
Công đức thứ nhất có năm điều: một là chỗ chẳng nghe có thể đặng nghe, hai là nghe rồi có thể làm lợi ích, ba là có thể dứt tâm nghi hoặc, bốn là trí huệ chánh trực, năm là có thể biết tạng bí mật của Như Lai.
Vị Bồ-tát này tên là Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương. Quang Minh Biến Chiếu là ánh sáng soi khắp. Cao Quý Đức Vương tức là vị vua có đức cao quý hơn hết. Đây chỉ cho vị Bồ-tát có công đức như vị vua và có đầy đủ sáng suốt như ánh sáng soi khắp hết.
Đại ý của phẩm này là để chúng ta nhận ra được Phật tánh, hiểu được tất cả mọi sự hiện có, hoặc nghe hoặc thấy, hoặc lời nói của Phật đều là tùy duyên, phương tiện giáo hóa, không có thật. Nhận cho sâu, hiểu cho thấu đáo thì mới thấy Phật tánh là cứu cánh, là cao tột.
Trước hết Phật khen ngợi, người nào chịu đọc tụng hay tu trì theo kinh Đại Niết-bàn thì sẽ được mười công đức. Mười công đức quý báu như thế nào? Mười công đức này không trong không ngoài, không khó không dễ, không tướng không phi tướng, không thế gian không xuất thế gian… nghĩa là vượt ra ngoài tất cả đối đãi, thế gian không có.
Công đức thứ nhất có năm điều. Dưới đây Phật giải thích từng điều một.
Những gì là chỗ chẳng nghe có thể được nghe? Chính là nghĩa vi mật rất sâu: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phật và Pháp cùng Tăng không có sai khác, tánh tướng của Tam bảo là thường, lạc, ngã, tịnh, tất cả chư Phật không rốt ráo nhập Niết-bàn là thường trụ không biến đổi.
Lâu nay chúng ta chỉ nghe Phật pháp tăng bên ngoài, chưa nghe được nghĩa sâu xa mầu nhiệm, đó là chúng sanh đều có Phật tánh. Khi nhận ra có Phật tánh rồi thì Phật, Pháp, Tăng sẵn có nơi chúng ta. Ba ngôi báu đó đồng một thể là thường lạc ngã tịnh. Tất cả chư Phật không vào Niết-bàn mà luôn luôn thường trụ không biến đổi. Phật có hình tướng thì tám mươi tuổi nhập Niết-bàn, nhưng Phật tánh, pháp thân thì không có sanh làm gì có diệt, nên thường trụ bất biến. Khi nhập được Phật tánh, chúng ta cũng thường trụ bất biến. Đó là nghĩa lâu nay chưa từng nghe bây giờ được nghe.
Lại Niết-bàn của Như Lai chẳng phải có không, chẳng phải hữu vi vô vi, chẳng phải hữu lậu vô lậu, chẳng phải sắc phi sắc, chẳng phải danh phi danh, chẳng phải tướng phi tướng, chẳng phải hữu phi hữu, chẳng phải vật phi vật, chẳng phải nhân quả, chẳng phải đãi phi đãi, chẳng phải minh ám, chẳng phải xuất phi xuất, chẳng phải thường phi thường, chẳng phải đoạn phi đoạn, chẳng phải thủy chung, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải ấm phi ấm, chẳng phải nhập phi nhập, chẳng phải giới phi giới, chẳng phải thập nhị nhân duyên, chẳng phải phi nhân duyên. Những pháp như vậy đều vi mật rất sâu, từ trước chỗ chẳng nghe mà có thể được nghe. Lại có chỗ chẳng nghe, như là tất cả sách vở ngoại đạo: Tỳ-đà luận, Tỳ-già-la luận, Vệ-thế-sư luận, Ca-tỳ-la luận, cùng tất cả kỹ nghệ, chú thuật, y dược, thiên văn, địa lý v.v… nay ở nơi kinh này mà đặng biết tất cả. Lại có mười một bộ kinh trừ Tỳ-phật-lược, cũng không có những nghĩa rất sâu như vậy, nay do kinh này mà đặng biết rõ đó. Đây gọi là chỗ chẳng nghe mà có thể được nghe.
Niết-bàn tuyệt đối vượt khỏi phàm tình, vượt ra ngoài đối đãi của hai pháp có không, hữu lậu vô lậu, danh phi danh, nhân quả phi nhân quả… Đó là những pháp lâu nay chúng ta chưa nghe, bây giờ được nghe.
Trong mười hai bộ kinh, bộ kinh cao nhất là Tỳ-phật-lược, mười một bộ kinh kia không có nghĩa sâu như thế, nay nghe kinh Đại Niết-bàn có thể hiểu rõ điều này, nên nói nghe cái chưa được nghe. Đó là điều đầu tiên của công đức thứ nhất.
Nghe rồi có thể làm lợi ích, chính là nếu có thể nghe và lãnh thọ kinh Đại Niết-bàn này, thời có thể biết rõ tất cả kinh điển Phương đẳng Đại thừa những nghĩa vị rất sâu. Ví như đối với tấm gương sáng sạch, người thấy rõ ràng sắc tượng của mình. Cũng vậy, Bồ-tát cầm gương đại Niết-bàn thời đặng thấy rõ tất cả nghĩa rất sâu của kinh điển Đại thừa. Cũng như có người ở trong nhà tối cầm ngọn đuốc lớn thời thấy rõ các đồ vật. Cũng vậy, Bồ-tát cầm đuốc đại Niết-bàn thời đặng thấy rõ nghĩa rất sâu của Đại thừa. Cũng như mặt trời mọc có ngàn muôn ánh sáng soi rõ chỗ u ám của các núi, làm cho mọi người thấy những vật rất xa. Cũng vậy, huệ nhật thanh tịnh đại Niết-bàn này chiếu rõ chỗ rất sâu của Đại thừa, làm cho hàng Nhị thừa xa thấy Phật đạo, vì có thể nghe và lãnh thọ kinh Đại Niết-bàn vi diệu này.
Nghe rồi có thể làm lợi ích, nghĩa là chúng ta nghe kinh điển Đại Niết-bàn này, nhận được ý nghĩa sâu xa, rồi tùy phương tiện làm lợi ích cho chúng sanh.
Thứ nhất, như người cầm một tấm gương lớn sáng sạch thì bao nhiêu hình tượng đều thấy rõ ràng. Thứ hai, như người cầm ngọn đuốc sáng thì thấy được tất cả các vật trong nhà tối. Thứ ba, như mặt trời vừa mọc lên có muôn ngàn ánh sáng soi rõ chỗ tối tăm, tất cả những gì mọi người không thấy đều làm cho thấy rõ. Cũng vậy, khi chúng ta nhận được kinh Đại Niết-bàn này, hiểu sâu, biết được thâm ý của Đại thừa rồi, nhân đó dẫn dắt cho hàng Thanh văn Nhị thừa từ từ tiến vào Phật đạo. Cho nên nói nghe rồi có lợi ích.
Này thiện nam tử! Nếu có đại Bồ-tát nghe và lãnh thọ kinh Đại Niết-bàn này thời đặng biết danh tự của tất cả pháp. Nếu có thể biên chép đọc tụng thông thuộc vì người giảng thuyết, suy nghĩ ý nghĩa thời rõ biết nghĩa lý của tất cả pháp.
Này thiện nam tử! Người nghe và lãnh thọ thời chỉ biết danh tự mà chẳng biết ý nghĩa. Nếu có thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời có thể rõ biết được nghĩa.
Này thiện nam tử! Người nghe kinh này, nghe có Phật tánh nhưng chưa có thể thấy được. Nếu biên chép dọc tụng vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời thấy được Phật tánh. Người nghe kinh này, nghe có danh từ bố thí nhưng chưa có thể thấy được Đàn ba-la-mật, nếu biên chép đọc tụng vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời có thể thấy được Đàn ba-la-mật, nhẫn đến Bát-nhã ba-la-mật cũng vậy.
Kinh Đại Niết-bàn chỉ cho thể của muôn pháp, nghe kinh Đại Niết-bàn rồi lãnh thọ đúng đắn thì đã thông hiểu hết danh tự. Nhưng nếu chỉ nghe không thì chưa đủ. Tại sao? Bởi vì nghe nhận hiểu, mà chưa hành. Phải do đọc tụng, suy nghĩ, vì người giảng thuyết rồi sẽ đạt được ý nghĩa của tất cả pháp. Như trong kinh Pháp Hoa, Phật có bổn phận khai thị, tức là mở chỉ. Nhưng thấy và vào được thì phải do công phu của mình. Kinh này, Phật nói tất cả chúng sanh có Phật tánh. Chúng ta nghe hiểu nhận có Phật tánh, nhưng không dụng công tu hành, không dẹp trừ vọng tưởng thì làm sao thấy được. Cho nên phải thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết, suy nghĩ ý nghĩa thì từ từ mới thấy.
Như nghe Phật dạy bố thí, phải chịu khó thực hành, khi đó mới gọi là bố thí cứu cánh. Pháp lục độ cũng vậy, chỉ nghe không thì chưa được viên mãn, muốn viên mãn phải có thực hành.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát nếu có thể nghe kinh Đại Niết-bàn này thời biết pháp biết nghĩa đủ cả hai đức vô ngại, đối hàng Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc chư thiên, ma vương, Phạm vương, trong tất cả thế gian đều đặng vô sở úy, vì đại chúng khai thị phân biệt mười hai bộ kinh, diễn thuyết ý nghĩa không có sai lầm, có thể tự biết chẳng chờ học với người được gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đây gọi là nghe rồi có thể làm lợi ích.
Hàng Bồ-tát nghe kinh Đại Niết-bàn này rồi thì tự biết được pháp, biết được nghĩa, đủ hai công đức vô ngại, tức là nghĩa vô ngại và pháp vô ngại. Đối với hàng
Bà-la-môn, hoặc hàng Sa-môn, ma vương, thiên ma…, các ngài đều được vô sở úy không còn sợ sệt nữa. Các ngài hay vì đại chúng mà diễn nói mười hai bộ kinh một cách đúng đắn không sai lầm. Vì lẽ đó nên nói nghe rồi được lợi ích. Đó là điều thứ hai trong công đức thứ nhất.
Này thiện nam tử! Có thể dứt tâm nghi lầm, nghi có hai thứ: một là nghỉ nơi danh từ, hai là nghi ý nghĩa. Người nghe kinh này, dứt tâm nghi danh từ, người suy nghĩ ý nghĩa thời dứt tâm nghi ý nghĩa.
Nghi lại có năm thứ: Một là nghi Phật quyết định nhập Niết-bàn hay chăng? Hai là nghi Phật có phải thường trụ chăng? Ba là nghi Phật có phải chân lạc chăng? Bốn là nghi Phật có phải chân tịnh chăng? Năm là nghi Phật có phải chân ngã chăng? Người nghe kinh này thời dứt hẳn lòng nghi Phật nhập Niết-bàn. Biên chép đọc tụng vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời dứt hẳn bốn điều nghi, thường, lạc, tịnh, ngã.
Nếu nghi về danh từ hay ý nghĩa thì khi nghe kinh Niết-bàn này sẽ hết nghi. Tại sao? Vì kinh này nói tất cả đều tùy duyên, Phật lập ra phương tiện để giáo hóa chúng sanh, tất cả đều không có thật. Tuy nói có bao nhiêu danh từ sai biệt nhưng đều vì phương tiện giáo hóa có gì thật đâu để mà nghi. Nghi ý nghĩa cũng vậy. Bao nhiêu ý nghĩa thế gian đều là nông cạn, chỉ có ý nghĩa Phật tánh mới sâu xa. Nhận được ý nghĩa Phật tánh rồi thì bao nhiêu ý nghĩa khác không còn quan trọng, không còn nghi ngờ.
Nếu nghe kinh này rồi sẽ hết nghi Phật nhập Niết-bàn. Tại sao? Vì biết rằng Phật là pháp thân bất sanh bất diệt, Phật đâu có mất mà nhập Niết-bàn. Nhưng nghe kinh này chỉ dứt được điều nghi thứ nhất, vẫn còn các nghi thứ hai, ba, bốn, năm.
Muốn dứt bốn nghi sau chúng ta phải biên chép, thọ trì, đọc tụng, vì người giảng thuyết, suy nghĩ ý nghĩa. Nói tóm lại là phải hành, có hành mới dứt được nghi về thường lạc ngã tịnh.
Nghi lại có ba thứ: Một là nghi Thanh văn là có hay là không? Hai là nghi Duyên giác là có hay là không? Ba là nghi Phật thừa là có hay là không? Người nghe kinh này thời dứt hẳn ba điều nghi như vậy. Còn biên chép đọc tụng vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời có thể rõ biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh chẳng nghe kinh Đại Niết-bàn này, thời tâm họ nhiều sự nghi ngờ. Như nghi hoặc thường hay vô thường, hoặc lạc hay chẳng lạc, hoặc tịnh hay chẳng tịnh, hoặc ngã hay vô ngã, hoặc mạng hay phi mạng hoặc chúng sanh hay phi chúng sanh, hoặc rốt ráo hay chẳng rốt ráo, hoặc đời khác, hoặc đời đã qua, hoặc có, hoặc không, hoặc khổ, hoặc chẳng phải khổ, hoặc tập, hoặc chẳng phải tập, hoặc đạo, hoặc chẳng phải đạo, hoặc diệt, hoặc chẳng phải diệt, hoặc pháp, hoặc phi pháp, hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc không, hoặc chẳng phải không. Người nghe kinh này thời dứt hẳn các điều nghi như vậy.
Thiện nam tử! Nếu có người chẳng nghe kinh này thời lại có nhiều tâm nghi. Như nghi sắc uẩn là ngã ư? Thọ, tưởng, hành, thức, là ngã ư? Nhãn là năng kiến ư? Ngã là năng kiến ư? Cho đến thức là năng tri ư? Ngã là năng tri ư? Sắc uẩn thọ báo ư? Ngã thọ báo ư? Thọ, tưởng, hành, thức thọ báo ư? Ngã thọ báo ư? Sắc uẩn đến đời khác ư? Ngã đến đời khác ư? Thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Những pháp sanh tử là có thủy có chung ư? Hay là vô thủy vô chung ư? Người nghe kinh này cũng dứt hẳn được những điều nghi như vậy.
Nếu nghe kinh này rồi thì dứt ba cái nghi: nghi Thanh văn, Duyên giác và Phật có hay không. Nếu biên chép đọc tụng và thực hành thì có thể biết rõ chúng sanh đều có Phật tánh. Những cái nghi hai bên tức là nghi theo lối đối đãi, nếu nghe kinh này rồi thì dứt hẳn cái nghi ấy,
Không nghe kinh này thì sanh nhiều nghi hoặc về ngã, về kiến, về thọ báo, về thọ sanh v.v… Nếu thọ trì được kinh điển Đại Niết-bàn này thì không còn những cái nghi đó nữa. Tại sao? Vì khi đạt được Phật tánh rồi, thân năm uẩn vốn hư dối, đâu có gì mà chấp là ngã là phi ngã.
Lại có người nghi nhất-xiển-đề phạm bốn tội nặng tạo tội ngũ nghịch, hủy báng kinh Đại thừa phương đẳng, hạng người nghe kinh này cũng dứt hẳn được những điều nghi như vậy.
Lại có người nghi thế gian có ngằn mé hay không có ngằn mé? Có thập phương thế giới hay không thập phương thế giới. Người nghe kinh này cũng dứt hẳn được những điều nghi như vậy. Đây gọi là có thể dứt tâm nghi lầm.
Đây là điều thứ ba trong công đức thứ nhất. Thường các kinh khác thì nói xiển-đề không có Phật tánh, vì phải đọa nên đâu có Phật tánh được. Nhưng với kinh Đại Niết-bàn thì nói hàng xiển-đề vẫn có Phật tánh, vì những phiền não, tội lỗi che lấp cho nên không hiện. Nếu họ biết sám hối, biết dứt trừ những tội lỗi của họ thì Phật tánh sẽ hiện. Vì vậy kinh Đại Niết-bàn nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Có trí huệ chánh trực không tà vạy. Vì nếu tâm nghi thời chỗ nhận thấy chẳng chánh. Tất cả phàm phu nếu chẳng đặng nghe kinh Đại Niết-bàn này thời chỗ nhận thấy tà vạy. Nhẫn đến Thanh văn, Duyên giác chỗ thấy biết cũng vậy vò. Vì phàm phu ở trong hữu lậu mà thấy là thường, lạc, ngã, tịnh. Nơi Như Lai lại thấy là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, thấy có chúng sanh, có thọ mạng, có tri kiến, chấp trời Phi tưởng phi phi tưởng là Niết-bàn, thấy trời Tự Tại có tám thánh đạo, chấp có, chấp đoạn, các sự nhận thấy như vậy gọi là tà vạy. Đại Bồ-tát nếu đặng nghe kinh Đại Niết-bàn này tu hành thánh hạnh thời dứt trừ được những điều tà vạy như vậy.
Những người không nghe được kinh Đại Niết-bàn có những cái chấp sai lầm cong vạy, không chánh trực. Chấp sai lầm thế nào? Hoặc chấp thế giới có ngằn mé hay không ngằn mé. Chấp người tu là có thật hay không có thật… Tất cả cái chấp sai lầm thường lạc ngã tịnh nơi phàm phu hữu lậu… Thấy chúng sanh, thọ mạng, tri kiến… Cho tới những thấy biết sai lầm của hàng Thanh văn, Duyên giác chấp vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, trong phẩm Tứ Đảo đã giải thích. Nếu hiểu phẩm Tứ Đảo thì những cái chấp sai lầm này không còn nữa, cho nên dứt được tất cả các tà vạy.
Hàng Thanh văn, Duyên giác thấy Bồ-tát từ trời Đâu-suất hóa hiện ngự trên bạch tượng giáng thần vào thai mẹ tại thành Ca-tỳ-la, cha hiệu Tịnh Phạn, mẹ tên Ma-da. Ở thai đủ mười tháng sanh ra. Lúc sanh ra chưa đến đất, thiên Đế-thích đưa tay đỡ, Nan-đà long vương và Bạt-nan-đà long vương phun nước tắm.
Đại thần vương Ma-ni Bạt-đà cầm lọng báu đứng hầu phía sau. Địa thần hóa hoa sen đỡ dưới chân. Bồ-tát đi qua bốn phương đều đủ bảy bước. Lúc đến Thiên miếu các Thiên tượng đều đứng dậy tiếp nghinh. Tiên A-tư-đà hai tay bồng xem tướng, xem xong tiên nhân buồn khổ thương phận mình sắp chết chẳng được thấy Bồ-tát thành Phật. Lớn lên đến thầy học sách, học toán số, cưỡi ngựa, bắn cung, đồ sấm, các nghề nghiệp. Ở trong thâm cung cùng với sáu muôn thể nữ. Ra ngoài thành dạo chơi đến vườn Ca-tỳ-la, dọc đường gặp người già, người bệnh, người chết, và gặp thầy Sa-môn mặc pháp phục đi trên đường, khi trở về cung, thấy các thể nữ hình mạo như xương khô, xem cung điện không khác gò mả. Nhàm chán, nửa đêm vượt thành xuất gia, đến chỗ các đại tiên nhân Uất-đà-già, A-la-la v.v… nghe giảng nói về Thức vô biên xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nghe rồi quan sát kỹ biết những xứ ấy là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, bèn bỏ đi đến núi Tuyết, dưới cội cây tu khổ hạnh trọn sáu năm. Sau đó biết khổ hạnh chẳng đặng thành Vô thượng Chánh giác, bèn đến tắm rửa trong sông A-nậu-bạt-đề. Tắm xong nhận lấy cháo sữa của cô gái chăn bò dâng. Ăn xong lại đến ngồi dưới cây bồ-đề, phá ma Ba-tuần đặng thành Vô thượng Chánh giác. Đến thành Ba-la-nại chuyển pháp luân lần đầu độ năm vị Tỳ-kheo, nhẫn đến ở rừng ta-la nơi thành Câu-thi-na này nhập Niết-bàn. Các điều nhận thấy như vậy gọi là chỗ thấy biết vạy vò của Thanh văn, Duyên giác.
Hàng Thanh văn Duyên giác thấy Phật theo lịch sử, từ giáng sanh đến lớn lên học hành, vui hưởng ngũ dục, dạo chơi cổng thành thấy sanh già, bệnh, chết, rồi thấy Sa-môn, ngài bỏ cung điện đi tu, học đạo rồi thành đạo dưới cội bồ-đề… Nếu thấy như vậy là thấy biết công vạy. Vậy làm sao là thấy biết chánh trực?
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát nghe và lãnh thọ kinh Đại Niết-bàn này, thời dứt trừ đặng những điều thấy biết như vậy. Nếu có thể biên chép đọc tụng thông thuộc vì người diễn thuyết suy nghĩ ý nghĩa, thời đặng trí huệ chánh trực không tà vạy.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn, biết rõ Bồ-tát từ vô lượng kiếp nhẫn lại chẳng từ trời Đâu-suất giáng thần thai mẹ, nhẫn đến thành Câu-thi-na nhập Niết-bàn. Đây gọi là chỗ thấy biết chánh trực của đại Bồ-tát.
Nếu thấy đúng như kinh Đại Niết-bàn thì Phật lịch sử không còn quan trọng nữa. Tại sao? Vì Phật pháp thân đâu có sanh diệt. Đã không sanh không diệt thì nói Phật sanh ra Phật nhập Niết-bàn là lối nói không đúng lẽ thật. Có một số người nghi nói Phật muốn thoát khỏi sanh già bệnh chết, tại sao cuối cùng ngài cũng già bệnh, cũng đau lưng nằm, thấy Phật cũng đói đi khất thực, thấy Phật bị trái ý cũng rầy các thầy Tỳ-kheo, rồi Phật cũng chết, không có gì siêu xuất hết…. Nếu chúng ta không hiểu được pháp thân thường trụ thì cũng sẽ hoang mang. Nhờ hiểu được theo kinh điển Đại Niết-bàn này, biết được Phật là Phật pháp thân. Phật đã viên mãn được công hạnh, nên Phật tánh hiển lộ được trọn vẹn, Phật tánh đó là bất sanh bất diệt. Nhận sâu được Phật tánh, thấy tất cả đều là giả tướng nên gọi là hóa thân, tùy duyên thị hiện để độ chúng sanh, còn Phật tánh bản lại là bất sanh bất diệt, làm gì có sanh trong cung vua, làm gì có tử ở thành Câu-thi-na! Đó là điều thứ tư trong công đức thứ nhất.
Có thể biết nghĩa thâm mật của Như Lai, tức là biết rõ đại Niết-bàn, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, sám trừ bốn giới trọng, trừ tâm hủy báng chánh pháp, hết tội ngũ nghịch, dứt nhất-xiển-đề, rồi sau đặng thành Vô thượng Chánh giác.
Lại nghĩa thậm thâm là dầu biết chúng sanh thật không có ngã, nhưng nghiệp quả đời vị lai chẳng mất; dầu biết năm ấm hiện đây dứt hết, nhưng nghiệp thiện ác trọn chẳng hư mất; dầu có các hành nghiệp nhưng không có tác giả; dầu có chỗ đến nhưng không có người đi; dầu có trói buộc nhưng không người bị trói; dầu có Niết-bàn nhưng không có người diệt; đây gọi là nghĩa bí mật rất sâu.
Vì xiển-đề có Phật tánh nên xiển-đề biết sám hối để trừ bốn tội trọng và trừ tâm hủy báng chánh pháp, hết tội ngũ nghịch thì dứt nhất-xiển-đề, rồi cũng có thể sẽ thành Phật. Nếu không có Phật tánh thì sám hối cả triệu đời cũng không thể thành Phật được. Đây chứng minh xiển-đề còn có Phật tánh huống nữa là chúng ta. Ai ai cũng có Phật tánh chỉ vì bị phiền não che lấp thôi.
Tạng bí mật của Như Lai là gì? Là nghĩa thậm thâm, dầu biết chúng sanh thật không có ngã, nhưng nghiệp quả đời vị lai chẳng mất. Tức là với thân ngũ uẩn này, Phật thấy không có ngã thật. Tuy nói không có ngã mà nghiệp quả đời vị lai không mất, không có ta thật mà phải chịu. Dầu biết năm ấm hiện đây dứt hết, nhưng nghiệp thiện ác trọn chẳng hư mất. Năm ấm này hoại, nghiệp thiện ác đời sau vẫn thọ, đó là những bí mật làm người khó hiểu. Dầu có các hành nghiệp nhưng không có tác giả. Có hoạt động, có đến có đi, mà không có ta thật. Dầu có chỗ đến nhưng không có người đi, dầu có trói buộc nhưng không người bị trói, dầu có Niết-bàn nhưng không có người diệt, đây gọi là nghĩa bí mật rất sâu. Tại sao? Phật nói ngài nhập Niết-bàn, nghĩa thường là diệt mất. Nhưng diệt mà không có người diệt. Nếu ta biết năm uẩn là huyễn hóa không thật thì không có người tạo tác nhưng nghiệp không mất, có chỗ đến mà không có người đi… Năm uẩn không có thật ngã, nhưng duyên nghiệp không bao giờ mất và không có cái thật diệt. Như vậy, ý nghĩa tạng bí mật của Như Lai nói người ta khó hiểu khó nhận. Đó là điều thứ năm trong công đức thứ nhất.
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Như tôi hiểu nghĩa được nghe chỗ chưa từng nghe của Phật nói thời nghĩa này chẳng phải. Vì nếu pháp là có lẽ ra quyết định có, nếu pháp là không lẽ ra quyết định không, nếu không thời lẽ ra chẳng sanh, nếu có thời lẽ ra chẳng diệt, như nghe thời là nghe, nếu chẳng nghe thời là chẳng nghe, sao lại nói rằng nghe chỗ chẳng nghe, Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng nghe đây là chẳng nghe, còn nếu đã nghe thời lại chẳng nghe, vì đã dặng nghe. Sao lại nói rằng nghe lại chẳng nghe?
Ví như người đi, nếu đã đến thời chẳng đi còn đi thời chẳng đến. Cũng như đã sanh thời chẳng sanh, còn chẳng sanh thời là chẳng sanh. Đã đặng thời chẳng đặng, còn chẳng đặng thời là chẳng đặng. Nghe rồi thời chẳng nghe, còn chẳng nghe thời là chẳng nghe. Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng nghe mà nghe đó, thời tất cả chúng sanh chưa có Bồ-đề lẽ ra cũng có đó, người chưa đặng Niết-bàn lẽ ra cũng đặng đó, người chưa thấy Phật tánh lẽ ra cũng thấy Phật tánh, sao lại nói rằng bậc Thập trụ Bồ-tát dầu thấy Phật tánh nhưng chưa đặng rõ ràng.
Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng nghe mà nghe, thời đức Như Lai thuở xưa từ ai mà đặng nghe. Nếu nói rằng đặng nghe, cớ sao trong kinh A-hàm đức Như Lai lại nói là không có thầy. Nếu chẳng nghe thời là chẳng nghe mà đức Như Lai đặng thành Vô thượng Chánh giác, thời tất cả chúng sanh chẳng nghe lẽ ra cũng đặng thành Vô thượng Chánh giác. Nếu đức Như Lai chẳng nghe kinh Đại Niết-bàn mà thấy Phật tánh, thời tất cả chúng sanh chẳng nghe kinh này lẽ ra cũng được thấy Phật tánh.
Đây là vấn nạn của Bồ-tát Cao Quý Đức Vương.
Như nghe thời là nghe, nếu chẳng nghe thời là chẳng nghe, sao lại nói rằng nghe chỗ chẳng nghe. Nếu chưa từng nghe thì đó là chẳng nghe, còn nếu đã nghe rồi thì cũng chẳng nghe bởi vì nghe rồi thì đâu có nghe, tại sao nói rằng nghe lại chẳng nghe? Nếu đức Như Lai chẳng nghe kinh Đại Niết-bàn mà thấy Phật tánh, không có ai dạy ngài mà ngài thấy thì người ta không cần đọc kinh Niết-bàn cũng thấy vậy,
Bạch Thế Tôn! Phàm là sắc thời hoặc có thể thấy, hoặc chẳng thấy được, tiếng cũng như vậy, hoặc là có thể nghe, hoặc chẳng nghe được. Đại Niết-bàn này chẳng phải sắc chẳng phải tiếng, lại nói rằng có thể thấy nghe được.
Bạch Thế Tôn! Quá khứ đã diệt thời chẳng thể nghe, vị lai chưa đến cũng chẳng thể nghe, lúc hiện tại lóng nghe thời chẳng gọi là nghe, nghe rồi khiến dứt lại chẳng thể nghe. Kinh Đại Niết-bàn này cũng chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, nếu chẳng phải thời gian thời chẳng thể nói, nếu chẳng thể nói thời chẳng thể nghe, sao lại nói rằng Bồ-tát tu kinh Đại Niết-bàn này được nghe chỗ chẳng nghe.”
Nói về kinh Đại Niết-bàn là nói về Phật tánh, mà Phật tánh không phải sắc không phải tiếng, vậy sao lại nói nghe được cái chưa nghe? Kinh Đại Niết-bàn này chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại… nên chẳng thể nói và chẳng thể nghe, sao lại nói Bồ-tát tu kinh Đại Niết-bàn này được nghe chỗ chẳng nghe?
Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Nay ông khéo biết tất cả pháp như huyễn, như dương diệm, như thành càn-thát-bà, như dấu vẽ trong nước, cũng như bóng nước, bọt nước, cây chuối rỗng không chẳng chắc thật, chẳng phải mạng, chẳng phải ngã, không có khổ vui, như chỗ thấy biết của Thập trụ Bồ-tát.”
Khi Bồ-tát Cao Quý Đức Vương nạn vấn như vậy, Phật khen ngài biết các pháp như huyễn, như dương diệm (ảnh nắng), như thành càn-thát-bà, như dấu vẽ trong nước mau tan, như bóng nước, bọt nước, cây chuối rỗng không chẳng chắc thật, chẳng phải mạng, chẳng phải ngã, không có khổ vui, như chỗ thấy biết của Thập trụ Bồ-tát.
Hàng Thập trụ Bồ-tát đã thấy các pháp như huyễn, thấy như mộng, như bóng, như bọt… không có thật. Nếu chúng ta hằng ngày nhìn mọi vật đều với cái thấy đó, thì đúng là cái thấy của Bồ-tát, đó cũng là cái thấy của trí tuệ. Các pháp không có thật, như mộng, như huyễn, như bóng… thì không còn duyên cớ, không còn quyết định.
Lúc đó trong đại chúng thoạt có ánh sáng lớn chiếu đến, ánh sáng này chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, mà thấy là xanh, vàng, đỏ, trắng, chẳng phải sắc, chẳng phải sáng, mà thấy là sắc là sáng, chẳng phải thấy mà thấy.
Đại chúng gặp ánh sáng này thân tâm vui thích như Tỳ-kheo nhập Sư tử vương định.
Hào quang sáng là hiện thân của trí tuệ. Người thấy các pháp như huyễn là người có trí tuệ. Trí tuệ đó gọi là trí tuệ Bát-nhã. Có trí tuệ Bát-nhã sẽ được an lành giống như nhập định Sư tử vương.
Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn Ai phóng ánh sáng này?”
Đức Như Lai yên lặng chẳng đáp.
Ca-diếp Bồ tát lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: “Nhân duyên gì mà có ánh sáng này chiếu đến đại chúng?”
Văn-thù-sư-lợi yên lặng chẳng đáp.
Vô Biên Thân Bồ-tát lại hỏi Ca-diếp Bồ-tát: “Ai phóng ánh sáng này?”
Ca-diếp Bồ-tát yên lặng chẳng đáp.
Tịnh Trụ Vương Tử Bồ-tát lại hỏi Vô Biên Thân Bồ-tát: “Duyên cớ gì trong đại chúng đây có ánh sáng này?”
Vô Biên Thân Bồ-tát yên lặng không đáp. Lần lượt đến năm trăm vị Bồ-tát xoay vần hỏi nhau, nhưng không ai giải đáp.
Ngài Văn-thù-sư-lợi hỏi Phật ánh sáng từ đâu tới, Phật im lặng. Sau đến lượt Bồ-tát Ca-diếp, Bồ-tát Vô Biên Thân… và năm trăm vị Bồ-tát lần lượt hỏi và đều lần lượt trả lời bằng im lặng. Đã biết các pháp như huyễn rồi thì chỗ này không còn gì để nói năng bàn luận. Nói năng bàn luận chỉ là hý luận không thật, chạy theo huyễn mộng. Vì muốn chỉ đệ nhất nghĩa nên các ngài im lặng. Chỗ đệ nhất nghĩa là chỗ không ngôn ngữ, không nói năng. Nhưng không lẽ không có phương tiện để khởi lên cơ duyên mà hóa độ chúng sanh hay sao? Vì vậy sau đó Phật lại hỏi ngài Văn-thù.
Đức Thế Tôn hỏi Văn-thù-sư-lợi: “Duyên cớ gì trong đại chúng đây có ánh sáng này?”
Câu này ngài biết hỏi là xa với đệ nhất nghĩa rồi. Nhưng nếu im lặng thì chỉ được thể mà mất dụng.
Một hôm đi núi hái trà, ngài Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: “Gần đây ta nghe tiếng ngươi mà không thấy ngươi.” Ngài Ngưỡng Sơn rung cây ào ào. Tổ Quy Sơn nói: “Ngươi chỉ được dụng mà chưa được thể.” Ngưỡng Sơn hỏi: “Còn Hòa thượng thì sao?” Quy Sơn im lặng. Ngài Ngưỡng Sơn nói: “Như vậy Hòa thượng được thể mà chưa được dụng.” Im lặng là được thể. Thiền không trái với kinh. Các pháp như huyễn, muốn trở về thể đệ nhất nghĩa đế chân thật thì chỗ đó không ngôn ngữ, nên các ngài im lặng. Nhưng nếu chỉ im lặng thì được thể mà mất dụng. Vì vậy sau Phật liền hỏi lại ngài Văn-thù, tức là từ thể mà khởi dụng.
Văn-thù-sư-lợi đáp: “Bạch Thế Tôn! Ánh sáng này gọi là trí huệ. Trí huệ chính là thường trụ. Pháp thường trụ không có nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ gì có ánh sáng này.
Ánh sáng này gọi là đại Niết-bàn, đại Niết-bàn thời gọi là thường trụ, pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ gì có ánh sáng này.
Ánh sáng này chính là Như Lai, Như Lai chính là thường trụ, pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ?
Ánh sáng này gọi là đại từ đại bi, đại từ bi gọi là thường trụ, pháp thường trụ chẳng phải từ nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ.
Ánh sáng này chính là niệm Phật, niệm Phật là thường trụ, pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ.
Ánh sáng này là đạo bất cộng với tất cả Thanh văn, Duyên giác, đạo bất cộng là thường trụ, pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ. Đức Thế Tôn cũng có nhân duyên:
Nhân dứt vô minh chứng đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Ngài Văn-thù bẻ lại Phật, pháp thường trụ tức là đệ nhất nghĩa đế, đệ nhất nghĩa đế thì không có nhân duyên, sao Phật lại hỏi duyên do? Ngài nói, đức Thế Tôn cũng có nhân duyên: Nhân dứt vô minh chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức là mở đầu cho cái dụng.
Phật nói: “Này Văn-thù-sư-lợi! Nay ông chớ nhập đệ nhất nghĩa đế, nên dùng thế đế để giải đáp.”
Ban đầu Phật im lặng khi ngài Văn-thù hỏi, đó là Phật đã nhập đệ nhất nghĩa đế, các vị Bồ-tát tuần tự nhập đệ nhất nghĩa đế, nếu đã nhập đệ nhất nghĩa đế rồi thì chỉ vào thể mà mất dụng. Đến đây Phật khởi dụng để hỏi ngài Văn-thù và bảo nên theo thế đế mà đáp, tức là thể dụng tùy duyên hóa độ, không nên chấp vào thể mà im lặng.
Văn-thù-sư-lợi nói: “Bạch Thế Tôn! Từ đây qua phương đông cách hai mươi hằng hà sa thế giới, có cõi Bất Động, chỗ Phật ngự rộng một muốn hai ngàn do diên. Cõi đó toàn thất bảo không có đất đá, bằng thẳng êm dịu không có hầm hố. Cây cối toàn bằng bốn chất vàng, bạc, lưu ly và pha lê, trên cây thường có hoa trái. Nếu có chúng sanh nào được ngửi mùi thơm của hoa này thời thân tâm an vui nhập đệ tam thiền. Khắp nơi có hai ngàn sông lớn nước sông đủ tám vị công đức, nếu có chúng sanh nào tắm trong nước đó thời thân tâm vui vẻ như nhập đệ nhị thiền. Trong sông có nhiều thứ hoa đẹp: những hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng. Hai bờ sông cũng có các thứ hoa thơm đẹp. Đáy sông toàn trải cát vàng. Có những thềm bậc bằng vàng, bạc, lưu ly cùng pha lê nhiều màu, nhiều giống chim đẹp bay đậu trên đó. Lại có vô lượng cọp, sói, sư tử v.v… Các cầm thú ấy xem nhau như con đỏ. Trong cõi đó không có những tội ác cùng hạng nhất-xiển-đề. Khí hậu điều hòa không có lạnh nóng đói khát khổ sở, không có tham dục, sân hận, phóng dật, tật đố. Không mặt trời mặt trăng, thời tiết như cõi trời Đao-lợi. Nhân dân cõi đó đồng có ánh sáng, không có tâm kiêu mạn. Tất cả đều là Bồ-tát đại sĩ đầy đủ thần thông, có công đức lớn, tôn trọng chánh pháp, mến tu Đại thừa, có đại từ bi thương xót tất cả chúng sanh.
Đức Phật ở cõi đó hiệu là Mãn Nguyệt Quang Minh Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Lúc đức Phật đó thuyết pháp, toàn thể chúng sanh trong cõi Bất Động đều được nghe. Đức Phật đó vì Lưu Ly Quang Bồ-tát mà giảng thuyết kinh Đại Niết-bàn đến đoạn Bồ-tát tu hành kinh này thời đều đặng nghe chỗ chẳng đặng nghe. Lưu Ly Quang Bồ-tát gạn hỏi đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh, như tại đây Cao Quý Đức Vương Bồ-tát vừa hỏi đức Như Lai giống nhau không khác. Đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh bảo Lưu Ly Quang Bồ-tát rằng: Phương tây của cõi Bất Động này cách hai mươi hằng hà sa Phật độ có cõi Ta-bà, cõi ấy đầy những đất đá, gai chông hầm hố, gò nổng, thường có những khổ về đói khát, lạnh nóng. Nhân dân cõi Ta-bà chẳng biết cung kính Sa-môn, Bà-la-môn, cha mẹ, sư trưởng, phần nhiều tham đắm phi pháp, tà pháp, chẳng tin chánh pháp, thọ mạng của họ ngắn ngủi. Nhiều kẻ gian trá bị chánh quyền trừng phạt. Dầu đã có nước để cai trị, nhưng vua quan chẳng biết vừa đủ sanh lòng tham kéo binh đánh chiếm nước khác làm cho những người vô tội lại chết oan. Các nhà lãnh đạo thật hành những điều phi pháp như vậy, nên Tứ thiên vương các thiên thần không hoan hỷ, thường giáng tai họa: hạn hán, bão lụt, mất mùa, đói khát, nhân dân nhiều bệnh, vô lượng sự khổ não. Cõi Ta-bà đó có Phật hiệu Thích-ca-mâu-ni Như Lai mười hiệu đầy đủ, hiện ở thành Câu-thi-na trong rừng ta-la song thọ, vì đại chúng diễn thuyết kinh Đại Niết-bàn, hiện có Bồ-tát tên Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương đã đem việc này hỏi đức Thích-ca-mâu-ni, nay đức Phật đó đương giải đáp, ông nên mau qua cõi đó sẽ được nghe.
Bạch Thế Tôn! Lưu Ly Quang Bồ-tát vâng lời đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh cùng tám muôn bốn ngàn vị đại Bồ-tát sắp đến đây. Do nhân duyên này nên hiện điềm phóng ánh sáng. Đây là có duyên cớ mà có ánh sáng này.”
Ngài Văn-thù đáp: Cách đây hai mươi hằng hà sa thế giới, qua phía phương đông có cõi Phật Bất Động. Phật ấy đang giảng kinh Đại Niết-bàn, trong đó có vị Bồ-tát tên là Lưu Ly Quang, nghe Phật nói đến chỗ “nghe chỗ chẳng nghe”, Bồ-tát ấy nghi hỏi, Phật giới thiệu cõi Ta-bà có Phật Thích-ca đang giảng kinh đến câu này, và cũng có vị Bồ-tát tên là Cao Quý Đức Vương cũng đang hỏi câu đó, ông muốn nghe hãy thẳng đến cõi Ta-bà mà nghe. Vì thế Bồ-tát Lưu Ly Quang cùng với một số quyến thuộc đi đến cõi Ta-bà, do đó mà có ánh sáng hiện ra.
Lúc đó Lưu Ly Quang Bồ-tát cùng tám muôn bốn ngàn đại Bồ-tát mang theo các thứ phan lọng, hương hoa, chuỗi ngọc nhiều thứ kỹ nhạc, đồng đến rừng ta-la nơi thành Câu-thi-na, đầu mặt lễ chân Phật, đem đồ cúng dường dâng lên, cung kính đi nhiễu bên hữu ba vòng rồi ngồi qua một phía.
Đức Phật hỏi Lưu Ly Quang Bồ-tát: “Ông vì đến mà lại, hay vì chẳng đến mà lại?”
Khi Bồ-tát Lưu Ly Quang đến Phật cúng dường xong ngồi qua một bên, Phật liền hỏi Bồ-tát, ông vì đến chỗ này cho nên ông lại đây, hay ông không vì đến chỗ này mà ông lại đây.
“Bạch Thế Tôn! “Đến cũng chẳng lại, chẳng đến cũng chẳng lại.” Tôi quán sát nghĩa này đều không có lại. Các hành pháp nếu là thường cũng chẳng lại, nếu là vô thường cũng không có lại. Nếu người thấy có chúng sanh tánh thời có lại, chẳng lại. Nay tôi chẳng thấy chúng sanh có định tánh, thời đâu có lại cùng chẳng lại.
Bồ-tát Lưu Ly Quang bạch rằng: Đến cũng chẳng lại, chẳng đến cũng chẳng lại. Tôi quán sát nghĩa này đều không có lại. Đây phù hợp với Trung Quán luận, nói đi cũng không có đi.
Các hành pháp tức là các pháp hoạt động tạo tác, nếu chấp là thường thì cũng chẳng có lại, nếu chấp là vô thường thì cũng không có lại. Ví dụ nói ăn cơm, nếu ăn cơm là thường thì phải ăn cơm hoài không dừng. Nếu tất cả các hoạt động là thường thì có gì đổi dời mà nói đi lại? Nếu vô thường thì không thật, không thật thì còn gì nói có đi có lại? Như vậy cả hai, chấp thường có thật cũng không có nghĩa đi lại, chấp vô thường không thật cũng không có nghĩa đi lại. Nếu người nào thấy có chúng sanh thật thì mới thấy có lại có chẳng lại. Nếu không thấy chúng sanh thật thì tất nhiên không thấy có lại và chẳng lại.
Bồ-tát với con mắt trí tuệ nhìn thấy chúng sanh chỉ là duyên hợp như huyễn, không có tánh cố định, đã không có tánh cố định thì làm sao thấy thật có lại và thật có chẳng lại.
Người có kiêu mạn thời thấy có đi, có lại. Người không kiêu mạn thời không thấy có đi, có lại. Người có chấp lấy tạo tác thời thấy có đi có lại. Người không chấp lấy tạo tác thời không thấy có đi có lại.
Nếu thấy Như Lai rốt ráo nhập Niết-bàn thời có đi, có lại. Người chẳng thấy Như Lai nhập Niết-bàn thời không đi, không lại.
Người chẳng nghe Phật tánh thời có đi, có lại. Người nghe Phật tánh thời không đi, không lại.
Kiêu mạn bởi chấp ngã, chấp ngã nên mới khinh khi kẻ khác, thấy cái ngã là thật nên mới thấy có đi có lại. Không chấp ngã, thấy thân năm ấm không thật, nên không thấy có đi có lại.
Người chấp những tạo tác, những hành động là thật thì mới thấy có đi có lại thật. Người không chấp những tạo tác hành động là thật thì thấy không có đi có lại.
Bồ-tát Lưu Ly Quang giải thích, tất cả chúng sanh khi nào chấp thật có ngã thật có pháp thì lúc đó mới thấy thật có đi thật có lại. Nếu những người không chấp thật có ngã thật có pháp thì đi lại không thật.
Nếu thấy Phật nhập Niết-bàn nghĩa là Phật chết, nếu chết thật thì có đi có lại, đi là chết mà lại là sanh. Vì thấy Phật có thật chết thì thấy Phật có thật sanh. Nếu không thấy Phật thật chết thì không thấy Phật thật sanh. Đối với người đã hiểu kinh điển Đại Bát-niết-bàn này rồi thì thấy Như Lai pháp thân bất sanh bất diệt, làm gì có chết có sanh, nên không có đi có lại.
Nếu thấy hàng Thanh văn, Bích-chi Phật có Niết-bàn thời thấy có đi, có lại. Người chẳng thấy hàng Thanh văn, Bích-chi Phật có Niết-bàn thời không đi, không lại.
Nếu người thấy hàng Thanh văn, Bích-chi Phật là thường, lạc, ngã, tịnh, thời có đi, có đến. Nếu người không thấy thời không đi, không đến.
Nếu thấy Như Lai không có thường, lạc, ngã, tịnh thời có đi, có đến. Nếu thấy Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh thời không đi, không đến.
Vì Niết-bàn của Thanh văn và Bích-chi Phật đối với kinh điển Đại thừa là hóa thành, là chỗ an ổn tạm thời, không phải là bảo sở, không phải cứu cánh an ổn. Các ngài thấy đây là sanh tử thật, kia là Niết-bàn thật, nên chán sanh tử cầu Niết-bàn. Thấy còn có hai bên thật thì còn có đi có lại, chán bỏ là đi, cầu được là lại. Vì vậy nói nếu thấy hàng Thanh văn Bích-chi Phật có Niết-bàn thời thấy có đi có lại.
Bồ-tát thấy rằng Niết-bàn của Thanh văn Bích-chi Phật chỉ là hóa thành, hay là chỗ tạm thời không thật. Nếu nhận được như vậy thì thấy được lý cứu cánh tuyệt đối, không đến không đi, cho nên nói là không đi không lại.
Nếu thấy hàng Thanh văn Bích-chi Phật được Niết-bàn đầy đủ bốn đức thường lạc ngã tịnh, là thấy cái giả mà tưởng là thật, tức là thấy có đi có đến. Nếu biết Niết-bàn của Thanh văn Bích-chi Phật không có đầy đủ bốn đức thường lạc ngã tịnh, chỉ là giả tạm thì thấy rõ không có nghĩa đi đến
Nếu thấy Phật Thích-ca ở Ấn Độ có già có bệnh có chết, tức là không thường lạc ngã tịnh, nghĩa là thấy có đi có đến. Nếu thấy Phật là pháp thân bất sanh bất diệt thì pháp thân đó là thường, luôn luôn thanh tịnh nên là tịnh, an ổn tuyệt đối gọi là lạc, do Phật tánh hiển lộ tức là ngã. Thấy Như Lai có thường, lạc, ngã, tịnh thì thấy rõ Như Lai không đi không đến, “Như Lai giả, vô sở tùng lai diệc vô sở khứ” (kinh Kim Cang). Hóa thân chỉ tạm thời nên không có thường lạc ngã tịnh, pháp thân mới là cứu cánh viên mãn chân thật, nên đầy đủ bốn đức thường lạc ngã tịnh.
Bạch Thế Tôn! Xin để việc đó lại. Nay tôi có chỗ muốn hỏi mong đức Phật thương xót cho phép.”
Phật nói: “Này thiện nam tử! Giờ đây phải lúc tùy ý ông hỏi ta sẽ giải đáp cho ông. Vì chư Phật khó gặp như hoa ưu-đàm, pháp cũng khó được nghe, trong mười hai bộ kinh bộ Phương đẳng Đại thừa lại khó hơn. Vì thế nên phải chuyên tâm lóng nghe và lãnh thọ.”
Lưu Ly Quang Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ tát có thể tu hành kinh Đại Niết-bàn được nghe chỗ chẳng nghe?”
Phật khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Nay ông muốn cùng tận biển Đại thừa đại Niết-bàn, lại gặp Phật có thể khéo giải thuyết. Phật là lương y có thể khéo nhổ mũi tên độc nghi ngờ của ông. Phật có đuốc huệ soi sáng Phật tánh cho ông. Ông muốn qua khỏi sông lớn sanh tử Phật có thể làm thuyền sư cho ông. Ông ở nơi Phật tưởng là cha mẹ, Phật cũng ở nơi ông tưởng là con một. Lòng ông tham của báu chánh pháp, gặp Phật có nhiều pháp lại hay bố thí. Ông nên lóng nghe khéo suy nghĩ đó.
Đức Phật khen ngợi Bồ-tát và nói Phật đầy đủ mọi phương tiện, tùy chỗ ông cần Phật liền giúp cho ông mãn nguyện, vậy thì ông phải cố gắng để nghe thật kỹ. Trước khi dạy, Phật bảo ngài phải kính trọng người nói pháp. Tại sao phải nói điều này? Vì Bồ-tát Lưu Ly ở cõi Bất Động là cõi thanh tịnh, các Bồ-tát đều có tướng tốt, đầy đủ phước đức, ngài sang cõi Ta-bà xấu xí, gai chông gập ghềnh, Phật và chúng ở đây nhỏ xíu, xấu xí, sợ ngài khởi tâm khinh thường không được lợi ích.
Này thiện nam tử! Khi nghe pháp rồi phải sanh lòng kính tin tôn trọng. Đối với chánh pháp chớ tìm cầu chỗ lỗi, chớ nghĩ tham sân si. Chớ nhìn xem giòng họ tốt xấu của pháp sư. Sau khi nghe pháp chớ sanh lòng kiêu mạn, chớ vì cung kính, danh dự, lợi dưỡng, phải vì được lợi ích pháp vị cam lồ độ thế gian. Cũng chớ nghĩ rằng, tôi nghe pháp rồi trước tự độ mình sau sẽ độ người, trước sẽ tự giải thoát sau sẽ giải thoát cho người, trước tự an thân sau sẽ làm cho người được an, trước tự được Niết-bàn sau sẽ làm cho người được Niết-bàn. Nên có quan niệm bình dẳng đối với Phật, Pháp, Tăng. Trong sanh tử phải có quan niệm là khổ oan lớn. Đối với đại Niết-bàn phải quan niệm là thường, lạc, ngã, tịnh. Trước vì người sau sẽ vì mình. Nên vì Đại thừa chớ vì Nhị thừa.
Đối với Phật pháp chỉ một bề nghe pháp thôi, đừng có nghĩ những lỗi lầm của người nói pháp rồi sanh tham sân si.
Nghe pháp, đừng vì được người ta cung kính mà cũng đừng vì danh dự vì lợi dưỡng, mà chỉ vì lợi ích pháp vị, tức là hưởng pháp vị cam lồ để độ thế gian. Không có tâm lo phần mình cho xong rồi sẽ độ người khác. Cõi sanh tử này phải thấy là chỗ đau khổ, chỗ oan gia lớn lao, đừng có đắm mến nó. Đối với pháp đại Niết-bàn phải thấy đầy đủ bốn đức thường lạc ngã tịnh. Nên đem pháp Đại thừa mà giáo hóa chứ đừng đem pháp Nhị thừa giáo hóa. Trước vì người sau sẽ vì mình.
Ví dụ có người nghe kinh Đại Niết-bàn rồi vào cốc tu luôn năm năm hay bảy năm, thì người đó có bị lỗi trước vì mình sau vì người không, và người nghe kinh Đại Niết-bàn rồi khuyên người này tu người kia tu mà mình thì không tu, như vậy có hợp với lời dạy ở đây hay không? Chúng ta ráng chú ý cho cẩn thận, quan niệm đúng và sai chỉ cách nhau một tí thôi. Nếu nghĩ rằng mình lo tu trước, năm mười năm, hai mươi năm xong, sau đó hãy giáo hóa cho người. Nghĩ như vậy là sai lầm, bị Phật quở. Nếu nghĩ, Phật nói đại Niết-bàn hay quá, chúng sanh đều có Phật tánh, mình ráng nỗ lực nhận được Phật tánh để độ chúng sanh. Như vậy vì độ người mà tu, còn kia vì mình mà tu, Hai trường hợp khác nhau. Cho nên, người sau cũng cứ vào cốc tu như thường nhưng không có lỗi, vì muốn tu cho có công đức để người ta tin mà giáo hóa họ, là đặt lợi ích vì người hơn vì mình.
Có nhiều người thấy ai tu một mình cho là ích kỷ. Ích kỷ là khi nào chỉ nghĩ lợi ích cho mình, còn đây tu là vì muốn độ người. Nếu chỉ nói suông mà không tu thì người ta không tin, muốn người ta hiểu Phật pháp, chúng ta phải ráng tu cho họ đủ niềm tin, thì đó là vì người chứ đâu phải vì mình. Cho nên ngồi một chỗ chuyên tu có thể là Nhị thừa mà cũng có thể là Đại thừa. Còn người nay làm việc này mai gánh vác việc kia, nhưng nếu làm để có lợi riêng cho mình thì đâu phải là Đại thừa.
Nên không trụ trước đối với tất cả pháp, cũng chớ chuyên chấp tất cả pháp tướng. Đối với các pháp chớ có lòng tham, thường có quan niệm biết pháp thấy pháp.
Này thiện nam tử! Ông có thể hết lòng nghe pháp như vậy, đây thời gọi là được nghe chỗ chẳng nghe.
Này thiện nam tử. Có chẳng nghe mà nghe, có chẳng nghe mà chẳng nghe, có nghe mà chẳng nghe, có nghe mà nghe.
Không nên trụ trước đối với tất cả pháp và cũng không nên chấp tất cả pháp tướng. Đối với tất cả các pháp chớ có lòng tham. Pháp là nói chung tất cả pháp tướng, mình đừng có lòng tham. Thường có quan niệm biết pháp thấy pháp. Biết pháp tức là nhận biết đúng mỗi một sự vật. Biết đúng lẽ thật gọi là biết pháp thấy pháp.
Nghe với một tâm thành khẩn thiết tha như vậy gọi là được nghe chỗ chẳng nghe.
Này thiện nam tử! Như chẳng sanh mà sanh, chẳng sanh mà chẳng sanh, sanh mà chẳng sanh, sanh mà sanh.
Như chẳng đến mà đến, chẳng đến mà chẳng đến, đến mà chẳng đến, đến mà đến.”
Phật từ cái nghe chuyển qua cái sanh để cho người ta dễ hiểu dễ nhận. Trên là nghe, kế là sanh, sau là đến nhưng cũng cùng một ý.
“Bạch Thế Tôn! Thế nào là chẳng sanh mà sanh?”
“Này thiện nam tử! An trụ nơi thế đế, lúc mới xuất thai đây gọi là chẳng sanh mà sanh.”
“Bạch Thế Tôn! Thế nào là chẳng sanh mà chẳng sanh?”
“Này thiện nam tử! Đại Niết-bàn đây không có tướng sanh, đây gọi là chẳng sanh mà chẳng sanh.” “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là sanh mà chẳng sanh?”
“Này thiện nam tử! Cứ theo thế đế, lúc chết thời gọi là sanh mà chẳng sanh.”
An trụ nơi thế đế tức thế gian, khi lọt lòng mẹ tức trước chưa sanh mà giờ sanh, cho nên gọi là chẳng sanh mà sanh. Chẳng sanh là trước đó chưa sanh mà bây giờ từ mẹ sanh ra gọi là sanh. Vì vậy nên nói chẳng sanh mà sanh.
Đại Niết-bàn không hình tướng, không hình tướng thì chẳng sanh mà cũng chẳng diệt, không có tướng sanh ra, cũng không phải trước không mà bây giờ có, nên nói chẳng sanh mà chẳng sanh. Lúc còn sống gọi là sanh, khi chết mất thì gọi là chẳng sanh, tức là không còn sống. Như vậy, nói sanh mà chẳng sanh là căn cứ vào thế đế mà nói.
“Bạch Thế Tôn! Thế nào là sanh mà sanh?”
“Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu thời gọi là sanh mà sanh. Vì phàm phu sanh, sanh chẳng dứt, vì tất cả hữu lậu niệm niệm sanh luôn, đây gọi là sanh mà sanh. Bậc Tứ trụ Bồ-tát thời gọi là sanh mà chẳng sanh, vì sanh mà tự tại.”
Sanh mà sanh có hai ý. Ý thứ nhất, hàng phàm phu gọi là sanh mà sanh, vì phàm phu cứ sanh ra đời này chết rồi tiếp tục sanh đời khác nữa, liên miên không biết bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp bỏ thân mang thân. Cho nên gọi là sanh mà sanh, tức là sanh ra đời này rồi sanh ra đời khác. Ý thứ hai, vì tất cả hữu lậu niệm niệm sanh luôn, đây gọi là sanh mà sanh. Hàng phàm phu trong tâm mỗi niệm mỗi niệm vọng tưởng liên tục. Bởi vọng tưởng liên tục cái này diệt cái kia sanh, niệm niệm sanh luôn, như vậy cũng gọi là sanh mà sanh.
Bậc Tứ trụ Bồ-tát thời gọi là sanh mà chẳng sanh, vì sanh mà tự tại, cũng có hai ý. Thứ nhất, Bồ-tát Tứ trụ sanh ra là vì sở nguyện độ đời, không bị nghiệp như phàm phu. Các ngài tự tại giáo hóa chúng sanh, không phải mê lầm như chúng ta. Cho nên gọi là sanh mà chẳng sanh. Đó là căn cứ vào ý nghĩa sanh đời này đến đời khác. Ý nghĩa thứ hai, hàng Bồ-tát Tứ trụ còn sống, còn hiện hữu tất nhiên các ngài cũng có tâm niệm như chúng ta, nhưng các ngài làm chủ được nó, cần nghĩ thì nghĩ, không cần nghĩ thì thôi. Không như mình, muốn nghĩ hay không nghĩ, niệm cũng cứ trào ra. Vì các ngài làm chủ được tâm niệm của mình, cho nên nói sanh mà chẳng sanh.
Này thiện nam tử! Trên đó là nói về nội pháp. Còn về ngoại pháp cũng có chưa sanh mà sanh, chưa sanh mà chưa sanh, sanh mà chưa sanh, sanh mà sanh. Như hột giống lúc chưa mọc mầm, được t đại hòa hiệp, công người săn sóc, rồi sau mới mọc lên đây gọi là chưa sanh mà sanh. Như hột giống hư và hột giống chưa gặp đủ duyên, thời gọi là chưa sanh mà chưa sanh. Như mầm đã mọc mà chẳng lớn thêm, thời gọi là sanh mà chưa sanh (tuy có lên mà không tăng trưởng). Như mầm lớn thêm thời gọi là sanh mà sanh (nghĩa là sanh ra là cứ tăng trưởng mãi mãi). Tất cả ngoại pháp hữu lậu sanh mà sanh như vậy.
Nội pháp tức là sự vật bên trong của con người. Ngoại pháp là chỉ cho những sự vật bên ngoài. Phật ví dụ như ươm hột giống xuống đất. Trước đó không có cây lúa hoặc cây bắp mà bây giờ đủ duyên nó nảy mầm lên cây, như vậy gọi là chưa sanh mà sanh.
“Bạch Thế Tôn! Pháp hữu lậu nếu có sanh, thời là thường hay vô thường?
Sanh nếu là thường, thời pháp hữu lậu không có sanh, sanh nếu là vô thường thời hữu lậu là thường.
Bạch Thế Tôn! Nếu sanh có thể tự sanh, thời sanh không tự tánh. Nếu có thể sanh cái khác duyên cớ gì chẳng sanh vô lậu?
Bạch Thế Tôn! Nếu lúc chưa sanh mà có sanh, sao lại đến nay mới gọi là sanh. Nếu lúc chưa sanh là không sanh, cớ sao chẳng nói hư không là sanh?”
Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Chẳng sanh mà sanh không thể nói được, cho đến sanh mà sanh cũng không thể nói được, sanh cùng bất sanh đều không thể nói được. Vì có nhân duyên nên cũng có thể nói được.
Sanh nếu là thường thời pháp hữu lậu không sanh. Tại sao? Nếu con người là thường thì còn hoài không mất. Có chết rồi mới tiếp tục sanh, mới có thân sau gọi là sanh sanh, chứ nếu còn hoài tức chỉ có đời này không có đời khác, sanh ra một lần thôi, không cần sanh nữa.
Còn sanh nếu là vô thường thời hữu lậu là thường. Nếu cái sanh này là vô thường, vì có sanh rồi có diệt, thì các pháp hữu lậu sanh ra rồi diệt, diệt rồi sanh, như vậy hữu lậu còn hoài không hết, nên pháp hữu lậu là thường.
Nếu sanh có thể tự sanh, thời sanh không tự tánh. Cái sanh tự sanh ra nó thời sanh không tự tánh. Ví dụ cây viết này không ai làm, không có cái gì hợp lại, tự nó sanh ra nó. Có cái này sanh ra cái kia thì mới gọi là sanh, còn tự nó thành hình rồi, đã có làm sao gọi là sanh. Sanh không nhất định cho nên nói là không tự tánh.
Nếu có thể sanh cái khác duyên cớ gì chẳng sanh vô lậu. Ví dụ như bà mẹ sanh ra đứa con, thì như vậy bà mẹ sanh ra cái khác rồi. Con khác mẹ thì hữu lậu lẽ ra sanh vô lậu tại sao không sanh? Nghĩa là cái khác sanh ra nó, như người thợ làm thành cây viết thì hữu lậu có thể sanh ra vô lậu, ngược lại vô lậu cũng có thể sanh ra hữu lậu.
Nếu lúc chưa sanh mà có sanh, sao lại đến nay mới gọi là sanh. Nói cho dễ hiểu, đây là căn cứ trên thời gian mà vấn nạn. Như cây xoài lúc chưa ra trái mà nói trái xoài đã có sẵn trong cây. Nếu nó có sẵn thì đâu đợi ra trái mới nói có trái, nói vậy là không đúng. Đây cũng vậy, khi chưa sanh mà nói đã có thì khi sanh ra rồi nói sanh là dư. Ở đây là bác trong nhân sẵn có quả, đã có rồi thì không nói sanh nữa. Trong nhân sẵn có quả hay là trong nhân không có quả… đều không phải chân lý.
Nếu lúc chưa sanh là không sanh cớ sao chẳng nói hư không là sanh? Nếu chưa sanh là không sanh rồi sau mới sanh, thì hư không cũng vốn không sanh sao không nói hư không sau sẽ sanh. Đây ngầm ý bác cái chấp trong nhân có quả, trong nhân không quả. Chấp cố định thì đều sai lầm. Tất cả tùy duyên hợp mà có, không duyên thì không, không có thật tánh đừng chấp cố định. Nếu chấp cố định thì không đúng. Nhưng cũng có duyên cớ để nói được.
Thế nào là chẳng sanh mà sanh, chẳng thể nói được? Chẳng sanh lại gọi là sanh, làm sao có thể nói được, vì nó sanh.
Thế nào là sanh mà sanh, chẳng thể nói được? Vì sanh mà sanh nên là sanh, vì sanh mà sanh nên là chẳng sanh, cũng chẳng nói được.
Thế nào là sanh mà chẳng sanh, chẳng thể nói được? Sanh thời gọi là sanh, sanh chẳng tự sanh, nên chẳng thể nói được.
Thế nào là chẳng sanh mà chẳng sanh, chẳng thể nói được? Chẳng sanh gọi là Niết-bàn, vì Niết-bàn chẳng sanh nên chẳng thể nói được, vì Niết-bàn do tu mà chứng đặng.
Thế nào là sanh cũng chẳng thể nói được? Vì sanh vốn là không.
Thế nào là chẳng sanh không thể nói được? Vì có chứng đặng.
Thế nào là vì có nhân duyên cũng có thể nói được? Mười pháp nhân duyên làm sanh tác nhân do đây nên cũng có thể nói được.
Này thiện nam tử! Nay ông chớ nhập thậm thâm không định, vì đại chúng căn trí chậm lụt.
Thế nào là chẳng sanh mà sanh chẳng thể nói được? Lý do vì nó sanh. Nghĩa là trước không có bây giờ mới có. Căn cứ vào thế đế mà nói, mới ra gọi là sanh. Theo nhân duyên thế tục gọi là sanh nhưng về chân lý thì chưa đúng.
Những câu này tương tự như Trung Quán luận.
Thế nào là sanh mà chẳng sanh, chẳng thể nói được? Khi sanh gọi là sanh, sanh chẳng tự sanh. Khi sanh ra như vậy chẳng phải tự nó sanh mà do duyên hợp, không phải tự có, nên không thể nói được. Đủ duyên hợp thì có gọi là sanh, đủ duyên hợp thì có, nên không một cái nào sanh ra. Ví dụ hỏi cái bàn này sanh ra từ đâu? Nói tự cái bàn thành cái bàn thì không được, nên nói sanh mà không tự sanh. Nếu nói từ thợ hay từ gỗ sanh ra cũng không đúng, mà do nhiều duyên hợp lại mới có. Nói một bên đều là phiến diện chưa phải chân lý. Đã do nhiều duyên khác hợp thì không cố định là từ cái nào. Vì vậy nói duyên sanh như huyễn không thật, chẳng nói được.
Niết-bàn không sanh mà cũng không diệt vì không có hình tướng. Không sanh không diệt cho nên không sanh mà chẳng sanh. Chỗ này thoát ly ngôn ngữ, vì ngôn ngữ chỉ bàn luận được chỗ sanh diệt, còn bất sanh bất diệt thì không thể bàn đến được. Chúng ta nói ra điều gì, diễn tả việc gì thì cũng đều do mắt thấy, tai nghe, do suy nghĩ đến mà nói. Còn Niết-bàn mắt không thấy, tai không nghe, suy nghĩ không đến thì làm sao nói ra được? Cho nên nói Niết-bàn không có thể nói được.
Chẳng sanh gọi là Niết-bàn, vì Niết-bàn chẳng sanh nên chẳng thể nói được. Không nói được, nhưng không phải hoàn toàn không. Vì Niết-bàn do tu mà chứng đặng. Tuy không nói được mà có chứng được.
Đáng lẽ sanh là có, tại sao ở đây nói không? Con người hay các loài động vật gọi là sanh, còn các hình tướng sự vật thì gọi là thành. Ví dụ cái bàn gọi là thành, nghĩa là ông thợ đóng gỗ thành cái bàn coi như cái bàn sanh ra. Nhưng cái bàn này chỉ do từng bộ phận ráp lại có hình tướng tạm gọi là cái bàn, thật thể cái bàn không có, chỉ là duyên hợp tạm thành. Con người cũng vậy, nói sanh là nhìn trên hình tướng, còn xét cho tột cùng thì thân này không có thể nhất định, sắc thọ tưởng hành thức hợp lại thì gọi là thân ta. Nhưng thân của ta do năm uẩn duyên hợp không thật, tạm nói là có. Không thật thì không có tự thể hay không có tự tánh. Không có tự tánh mà nói sanh thì không thể được, nên nói vốn là không. Không không phải là không ngơ mà là không có tự tánh nhất định, chỉ do duyên hợp nên có như huyễn.
Chẳng sanh gọi là Niết-bàn, Niết-bàn chẳng sanh mà có chứng được. Chỗ chẳng sanh này là cứu cánh cùng tột nên không thể nói được.
Vì có nhân duyên cũng có thể nói được? Mười pháp nhân duyên làm sanh tác nhân do đây nên cũng có thể nói được. Vì có nhân duyên có thể nói được, là căn cứ vào mười pháp làm nhân làm duyên, cho nên các pháp ở thế gian này hiện hữu. Như vậy căn cứ trên nhân duyên hòa hợp, tạm có thể nói được.
Đây là lối lý luận của Bát-nhã không định, là định của trí tuệ Bát-nhã thấy tất cả pháp không có tự tánh. Sợ hội chúng căn trí chậm lụt nghe không nổi nên Phật yêu cầu Bồ-tát chớ nhập thậm thâm không định.
Này thiện nam tử! Pháp hữu vi sanh cũng là thường, do trụ vô thường, nên sanh cũng vô thường.
Trụ cũng là thường do sanh mà sanh nên trụ cũng vô thường. Dị cũng là thường, do pháp vô thường nên dị cũng vô thường. Hoại cũng là thường, do trước không nay có nên hoại cũng vô thường.
Con người có bốn tướng sanh trụ dị diệt, sự vật thì thành trụ hoại không.
Pháp hữu vi sanh cũng là thường, do trụ vô thường, nên sanh cũng vô thường. Phật muốn nói thấp đi, căn cứ vào căn cơ chậm lụt của những người thường để họ dễ biết dễ hiểu. Vì có chân lý tương đối, chân lý tuyệt đối. Chúng sanh nào cũng phải chịu luật sanh trụ dị diệt hay sanh lão bệnh tử, đó là lẽ thường.
Do trụ vô thường nên sanh vô thường. Sanh rồi qua trụ, qua dị… trở thành vô thường. Qua trụ là vô thường thì chúng ta thấy sanh đã vô thường, nghĩa là có đổi dời từ sanh qua trụ.
Trụ cũng là thường, do sanh mà sanh nên trụ cũng vô thường. Từ sanh nên mới có trụ, sanh đã vô thường thì trụ cũng vô thường. Trụ là chỗ dừng lại, sanh và trụ đều là lẽ thường của chúng sanh. Nhưng vì đối đãi có sanh có trụ. Từ sanh chuyển qua trụ là vô thường, từ trụ chuyển qua sanh cũng thành vô thường. Sanh và trụ đều là đắp đổi từ trước qua sau, từ sau qua trước, vì vậy thấy nó cũng vô thường.
Dị cũng là thường, do pháp vô thường nên dị cũng vô thường. Dị là lẽ thường trong sanh trụ dị diệt. Sanh già bệnh chết là bốn lý thường của chúng sanh ở cõi đời này. Cho nên nói sanh là thường, già là thường, bệnh là thường, chết là thường. Tại sao nó thành vô thường? Vì sanh rồi chuyển qua già, già rồi bệnh, bệnh rồi chết. Từ sanh nhìn qua già thành vô thường, già nhìn qua bệnh là vô thường. Vì vậy từ thường biến thành vô thường.
Hoại cũng là thường, do trước không nay có nên hoại cũng vô thường. Nếu hiểu ý trước thì sau không khó nữa.
Này thiện nam tử! Vì cứ nơi tánh, nên sanh, trụ, dị, hoại đều là thường, vì niệm niệm diệt nên không thể nói là thường, vì đại Niết-bàn này có thể dứt diệt được, nên lại gọi là vô thường.
Bốn tướng sanh trụ dị hoại, tự tánh là thường, nhưng vì niệm niệm sanh diệt nên không thể nói thường, vì đại Niết-bàn này có thể diệt được nên gọi là vô thường.
Lục Tổ khi hỏi Pháp Đạt, Phật tánh là thường hay vô thường. Ông nói là thường. Tổ nói Phật tánh là vô thường. Ông thắc mắc, trong kinh rõ ràng nói là thường, sao Tổ nói là vô thường? Phật tánh là thường, thông suốt không hình dáng, không sanh diệt, nhưng chúng ta mê, lăn lộn trong sanh tử, khi ngộ phát tâm tu hành tiến tới thành Phật. Phật tánh là thường, nhưng khi mê tạo nghiệp chúng sanh rồi ngộ trở thành Phật, như vậy có đổi thay. Có đổi thay tức là vô thường, nên Tổ nói Phật tánh là vô thường. Nếu Phật tánh là thường thì không phát tâm Bồ-đề được. Phật tánh ở trong mê là thường thì ngày nào ông ra khỏi mê? Nếu là thường thì cứ vậy mê suốt kiếp. Bây giờ phát tâm Bồ-đề tức từ mê chuyển thành giác, tất nhiên là khác trước rồi, nên nói Phật tánh vô thường. Nếu biết, thì nói thường hay vô thường đều đúng. Nếu không biết, nghe nói thường chấp là thường, nghe nói vô thường chấp là vô thường, cái nào cũng sai.
Như vậy biết trên thể tánh Phật không hình tướng, không sanh diệt, nhưng trên tướng dụng có vô thường. Hiểu tường tận rồi thì không nghi. Cũng vậy, trước Phật nói Niết-bàn là thường lạc ngã tịnh, sao ở đây ngài nói vì đại Niết-bàn này có thể dứt diệt được nên gọi là vô thường? Vì nương nơi Niết-bàn mình diệt được tất cả phiền não, tất cả những vô minh che đậy. Tánh của Niết-bàn là không sanh, nhưng nương nơi Niết-bàn ta diệt được phiền não nên Niết-bàn cũng là vô thường. Cũng như vậy sanh, trụ, dị, diệt là thường nhưng vì đối đãi với nhau, niệm niệm sanh diệt nên là vô thường.
Này thiện nam tử! Pháp hữu lậu lúc chưa sanh, đã có tánh sanh, vì thế nên sanh có thể sanh được. Pháp vô lậu vốn không tánh sanh, vì thế nên sanh không thể sanh được. Như lửa có tánh sẵn gặp duyên thời phát. Mắt có tánh thấy đủ duyên thời thấy. Sanh pháp của chúng sanh cũng như vậy, do tánh sẵn có, gặp nhân duyên của nghiệp, cha mẹ hòa hiệp thời bèn có sanh.”
Lưu Ly Quang Bồ tát cùng tám muôn bốn ngàn đại Bồ-tát nghe pháp này rồi, vọt thân lên hư không cao bảy cây đa-la, chắp tay cung kính bạch Phật: “Thế Tôn! Tôi nhờ đức Như Lai ân cần dạy bảo, do đại Niết-bàn mới đặng tỏ ngộ ý nghĩa nghe chỗ chẳng nghe, cũng làm cho tám muôn bốn ngàn Bồ tát này hiểu rõ những nghĩa chẳng sanh mà sanh v.v… của các pháp.
Pháp hữu lậu tự thể của nó sanh là diệt, diệt là sanh, sanh diệt liên miên, cho nên nói nó có tánh sanh. Vì có tánh sanh nên nó mới sanh được, nếu không có tánh sanh làm sao nó sanh được. Pháp vô lậu vì không sanh không diệt nên không có tánh sanh, nên sanh không thể sanh được. Bồ-tát đến đây thì ngộ.
Bạch Thế Tôn! Nay tôi đã tỏ ngộ dứt hết nghi ngờ, nhưng trong hội này có một Bồ-tát hiệu là Vô Úy lại muốn thưa hỏi mong đức Phật cho phép.” Phật bảo Vô Úy Bồ-tát: “Này thiện nam tử! Tùy ý ông hỏi, ta sẽ vì ông giải nói.”
Vô Úy Bồ-tát cùng tám muôn bốn ngàn Bồ-tát đồng đứng dậy nghiêm chỉnh y phục, quỳ chắp tay bạch Phật: “Thế Tôn! Chúng sanh cõi Ta-bà này phải thật hành hạnh nghiệp gì để được sanh về cõi Bất Động? Bồ-tát cõi đó thế nào mà đặng đầy đủ trí huệ, đầy đủ các công hạnh, có oai đức lớn, trí huệ lanh lẹ, nghe liền hiểu rõ?”
Bồ-tát Vô Úy cùng các Bồ-tát hỏi Phật. Ở cõi Ta-bà này xấu xa, con người yếu kém nhỏ nhít, tất cả cái khổ dồn dập. Cõi kia thì an lành sung sướng tốt đẹp, trí khôn ngoan, phải tu hạnh nghiệp gì để sanh về cõi đó? Bồ-tát cõi đó thế nào mà đặng đầy đủ trí huệ, đầy đủ các công hạnh, có oai đức lớn, trí huệ lanh lẹ, nghe liền hiểu rõ?
Đức Phật liền nói kệ rằng:
Chẳng hại mạng chúng sanh
Giữ gìn các cấm giới
Bẩm thọ pháp của Phật
Thời sanh cõi Bất Động.
Chẳng đoạt của người khác
Thường ban cho tất cả
Tạo chiêu-đề tăng phường
Thời sanh cõi Bất Động.
Chẳng phạm vợ con người
Vợ nhà chẳng phi thời
Thí trì giới ngọa cụ
Thời sanh cõi Bất Động.
Chẳng vì mình hoặc người
Cầu lợi và khủng bố
Giữ lời chẳng vọng ngữ
Thời sanh cõi Bất Động.
Chớ phá thiện tri thức
Xa lìa quyến thuộc ác
Thường nói lời hòa hiệp
Thời sanh cõi Bất Động.
Như các bậc Bồ-tát
Thường lìa lời ác khẩu
Nói ra người thích nghe
Thời sanh cõi Bất Động.
Nhẫn đến lúc giỡn cười
Chẳng nói lời phi thời
Giữ gìn lời chánh pháp
Thời sanh cõi Bất Động.
Thấy người đặng lợi dưỡng
Thường sanh lòng vui mừng
Chẳng sanh lòng tật đố
Thời sanh cõi Bất Động.
Chẳng não hại chúng sanh
Thường sanh lòng từ bi
Chẳng làm phương tiện ác
Thời sanh cõi Bất Động.
Tà kiến bác bố thí
Không cha mẹ, khứ lai
Chẳng có tà kiến ấy
Thời sanh cõi Bất Động.
Đường xa làm giếng tốt
Trồng rừng rậm cây trái
Thường thí người khất thực
Thời sanh cõi Bất Động.
Đối với Phật, Pháp, Tăng
Cúng một đèn một hương
Nhẫn đến dâng một hoa
Thời sanh cõi Bất Động.
Nếu vì cớ sợ sệt
Lợi dưỡng cùng phước đức
Chép một kệ kinh này
Thời sanh cõi Bất Động.
Nếu vì cầu phước lợi
Tô quét chỗ Phật Tăng
Thời sanh cõi Bất Động.
Được ở trong một ngày
Đọc tụng kinh điển này
Thời sanh cõi Bất Động.
Nếu vì đạo vô thượng
Trong một ngày một đêm
Thọ trì bát quan trai
Thời sanh cõi Bất Động.
Chẳng cùng người phạm tội
Người hủy báng Đại thừa
Đồng ở chung một chỗ
Thời sanh cõi Bất Động.
Nếu thí cho người bệnh
Nhẫn đến một trái cây
Vui mừng mà săn sóc
Thời sanh cõi Bất Động.
Chẳng lạm dùng của Tăng
Khéo giữ vật của Phật
Tạo tượng và tháp Phật
Chừng bằng ngón tay cái
Thường sanh lòng vui mừng
Thời sanh cõi Bất Động.
Nếu vì kinh điển này
Đem thân cùng của cải
Cúng dường người thuyết pháp
Thời sanh cõi Bất Động.
Nếu nghe và biên chép
Thọ trì cùng đọc tụng
Tạng bí mật của Phật
Thời sanh cõi Bất Động.
Phật giải thích bằng bài kệ.
Đoạn thứ nhất, những người giữ giới không sát sanh thì được sanh lên cõi Bất Động. Đoạn thứ hai, những người không cướp giật của người mà còn bố thí, cất chùa, làm nhà tăng….. thì được sanh vào cõi Bất Động. Đoạn thứ ba, những người không phạm tà dâm, biết bố thí ngọa cụ cho những vị tăng trì giới thì được sanh về cõi Bất Động.
Đoạn thứ tư, không nói dối, không khủng bố người thời được sanh về cõi Bất Động. Đoạn thứ năm, không phá hòa hợp tăng, không phá thiện tri thức, xa lìa quyến thuộc ác, thường nói lời hòa hợp thì được sanh về cõi Bất Động. Kế đó là các vị Bồ-tát thường lìa ác khẩu, nói ra người thích nghe thì được sanh về cõi Bất Động. Nhẫn đến lúc giỡn cười, chẳng nói phi thời (ỷ ngữ), gìn giữ lời chánh pháp thì sanh cõi Bất Động.
Thấy người được lợi dưỡng, thường sanh lòng vui mừng chẳng sanh lòng tật đổ thì sanh cõi Bất Động.
Ở trên theo kinh Thập thiện nói chẳng sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, ác khẩu, ý ngữ, không tật đố, không não hại chúng sanh, không tà kiến đều là gốc được sanh về cõi Bất Động. Sau đó Phật giải thích thêm tu hạnh bố thí, đào giếng, trồng cây rậm rạp… để bố thí cho những người đi khất thực, đối với Tam bảo cúng đèn hương nhẫn đến dâng hoa, đối với những người sợ hãi, bố thí vô úy, lợi dưỡng cùng phúc đức, chép kinh truyền bá chánh pháp thì được sanh về cõi Bất Động.
Nếu vì cầu phước lợi, trong một ngày đọc tụng kinh điển này thì sanh cõi Bất Động. Nếu vì đạo vô thượng, trong một ngày một đêm thọ trì bát quan trai, chẳng cùng người phạm tội và người hủy báng Đại thừa ở chung thì sanh cõi Bất Động. Nếu bố thí giúp đỡ cho người bệnh, chẳng lạm dùng của Tam bảo, biết tô tạo tượng Phật, tháp…, nếu vì kinh điển này đem thân cùng của cải cúng dường người thuyết pháp, nếu nghe, biên chép, thọ trì và đọc tụng tạng bí mật của Phật thì sanh cõi Bất Động.
Đó là những lý do đức Phật nêu ra để được sanh cõi Bất Động. Phần này là phần sự nên dễ hiểu.
Vô Úy Bồ-tát Bạch Phật: “Thế Tôn! Nay tôi đã biết những công hạnh đặng sanh về cõi nước Bất Động.
Thế Tôn! Cao Quý Đức Vương Bồ-tát này vì khắp xót thương tất cả chúng sanh nên trước kia có chỗ thưa hỏi, nếu đức Như Lai giải thuyết thời có thể lợi ích an vui cho hàng trời, người, bát bộ.”
Đức Phật bảo Cao Quý Đức Vương Bồ-tát:“Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ông nên hết lòng lóng nghe, tôi sẽ vì ông phân biệt giải thuyết.
Vì có nhân duyên nên chưa đến chẳng đến. Vì có nhân duyên nên chẳng đến mà đến, vì có nhân duyên nên đến mà chẳng đến. Vì có nhân duyên nên đến mà đến.
Này thiện nam tử! Xét về chẳng đến gọi là đại Niết-bàn. Hàng phàm phu chưa đến bởi có tham dục, sân khuể và ngu si. Vì hai nghiệp thân và khẩu chẳng thanh tịnh, cùng lãnh thọ tất cả vật bất tịnh, phạm bốn trọng tội, hủy báng Phương đẳng Đại thừa là hạng nhất-xiển-đề tạo tội ngũ nghịch. Do nghĩa này nên chưa đến chẳng đến.
Chẳng đến gọi là chẳng đến đại Niết-bàn. Do nghĩa gì mà được đến? Vì dứt hẳn tham dục, sân khuể, ngu si và tội ác của thân khẩu, chẳng thọ tất cả vật bất tịnh, chẳng phạm bốn tội trọng, chẳng hủy báng Phương đẳng Đại thừa, chẳng làm hạng nhất-xiển-đề, chẳng tạo tội ngũ nghịch. Do nghĩa này nên gọi là chẳng đến mà đến.
Bồ-tát Vô Úy nghe xong liền hiểu, ngài ca ngợi Bồ-tát Cao Quý Đức Vương khéo hay thưa hỏi để đức Như Lai theo đó mà giải thuyết làm lợi ích an vui cho hàng trời người bát bộ.
Sở dĩ chúng phàm phu không đến Niết-bàn vì do còn ba thứ độc tham sân si và hai nghiệp bất tịnh thân khẩu, lại cộng thêm phạm tội trọng, hủy báng Đại thừa. Vì vậy nên chưa đến chẳng đến.
Hai phần này rất dễ hiểu, chưa đến mà chẳng đến vì còn những điều xấu trên, chưa đến mà sẽ đến vì đã dứt được những điều xấu đó.
Bậc Tu-đà-hoàn tám muôn kiếp thì đến, bậc Tư-đà-hàm sáu muôn kiếp thì đến, bậc A-na-hàm bốn muôn kiếp thì đến, bậc A-la-hán hai muôn kiếp thì đến, Bích-chi Phật mười ngàn kiếp thì đến. Do nghĩa này nên gọi là chẳng đến mà đến.
Đến gọi là hai mươi lăm cõi. Tất cả chúng sanh đều bị vô lượng phiền não che đậy, qua lại chẳng ngừng dường như bánh xe lăn, đây gọi là đến. Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát vì đã đặng lìa hẳn nên gọi là chẳng đến, lại ba bậc này vì muốn hóa độ chúng sanh nên thị hiện ở trong đó, nên cũng gọi là đến.
Đến chính là hai mươi lăm cõi. Tất cả phàm phu, Tu-đà-hoàn nhẫn đến A-na-hàm, vì phiền não nên gọi là đến mà đến,
Này thiện nam tử! Nghe chỗ chẳng nghe cũng như vậy. Có chẳng nghe mà nghe, chẳng nghe mà chẳng nghe, nghe mà chẳng nghe, nghe mà nghe.
Chẳng nghe là đại Niết-bàn vì chẳng phải hữu vi, vì chẳng phải âm thanh, vì chẳng thể nói. Thế nào là cũng nghe?
Vì đặng nghe danh từ: thường, lạc, ngã và tịnh. Do nghĩa này nên gọi là chẳng nghe mà nghe.”
Hàng Tu-đà-hoàn tu thêm tám muôn kiếp thì đến Niết-bàn, bậc Tư-đà-hàm sáu muôn kiếp thì đến… Ở đây nói có khác so với kinh A-hàm. Kinh A-hàm nói Tu-đà-hoàn còn bảy phen sanh tử mới đến Niết-bàn, sao ở đây lại nói tám muôn kiếp? Niết-bàn của kinh A-hàm khác với Niết-bàn của kinh Đại Bát-niết-bàn, Niết-bàn của A-la-hán chỉ là chỗ tạm thời, Niết-bàn của Đại Bát-niết-bàn mới là rốt ráo, là chỗ cứu cánh tận cùng. Một bên nói A-la-hán hai muôn kiếp thì đến, một bên nói A-la-hán là được Niết-bàn rồi.
Vì đại Niết-bàn không có hình tướng cho nên không phải là pháp hữu vi, không có âm thanh và không thể nói. Vì vậy nên chẳng phải nghe. Nhưng thế nào là cũng nghe? Gốc Niết-bàn là chẳng nghe nhưng nay Phật nói danh từ Niết-bàn thường lạc ngã tịnh thì chúng ta được nghe.
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát bạch Phật:“Thế Tôn Như Phật nói đại Niết-bàn là chẳng thể nghe được, sao lại nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh mà có thể nghe được. Vì người đoạn phiền não gọi là đặng Niết-bàn, nếu chưa đoạn gọi là chẳng được. Do nghĩa này tính Niết-bàn trước không mà nay có. Nếu pháp thế gian trước không mà nay có thời gọi là vô thường. Ví như bình bồn v.v.. trước không mà nay có, đã có hoàn không, nên gọi là vô thường. Niết-bàn nếu như vậy, sao lại nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh.
Bạch Thế Tôn! Phàm do trang nghiêm mà được thành đều gọi là vô thường. Niết-bàn nếu như vậy? Lẽ ra là vô thường. Những gì trang nghiêm Niết-bàn? Chính là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu pháp ba-la-mật, bốn tâm vô lượng, quán tướng xương trắng A-na-ba-na, lục niệm xứ, phá tích sáu đại, do những pháp đó mà thành tựu Niết-bàn nên là vô thường.
Trước chưa đoạn phiền não nên không được, bây giờ đoạn phiền não thì được, là trước không nay có. Như vậy Niết-bàn là vô thường. Ví như bình bồn… trước không mà nay nặn thành có, có mà trở lại không gọi là vô thường. Phật nói như vậy thì Niết-bàn thành vô thường. Đó là nạn vấn thứ nhất.
Cái gì do sự trang nghiêm đều là vô thường, Niết-bàn là do lấy ba mươi bảy phẩm trợ đạo trang nghiêm, lục độ trang nghiêm… nên Niết-bàn cũng trở thành vô thường. Đó là nạn vấn thứ hai.
Bạch Thế Tôn! Phàm là có, thời gọi là vô thường. Nếu Niết-bàn là có thời lẽ ra là vô thường. Như ngày trước trong kinh A-hàm Phật nói: Thanh văn, Duyên giác, chư Phật đều có Niết-bàn, do nghĩa này nên gọi là vô thường.
Bạch Thế Tôn! Pháp có thể thấy thời gọi là vô thường. Như ngày trước đức Phật nói: Người thấy Niết-bàn thời dứt trừ được tất cả phiền não. Ví như hư không chẳng có chướng ngại nên gọi là thường. Giả sử Niết-bàn là thường v.v… cớ sao chúng sanh lại có người được, người chẳng được. Như vậy Niết-bàn đối với chúng sanh chẳng bình đẳng lẽ ra chẳng gọi là thường.
Nạn vấn thứ ba, cái gì có thì vô thường. Phật bảo Niết-bàn có, vậy nó vô thường.
Nạn vấn thứ tư, có người được có người không được thì không bình đẳng, mà không bình đẳng là pháp vô thường. Niết-bàn là một thể chung cho tất cả chúng sanh. Một số người trí thức Tây phương cho rằng tất cả đều trở về một. Một là chân lý, là cứu cánh. Họ nhìn đạo Phật cũng tương tự như vậy. Vì quen quan niệm có một đấng tối cao duy nhất. Mọi người cuối cùng trở về với Chúa, trở về một thể. Chúa không còn là một con người nữa mà là một thể đại đồng. Mọi người nhập vào một thể đại đồng duy nhất, một người được, tất cả người cũng phải được, Đây cũng vậy, nếu nói Niết-bàn là thể chung của mọi người, một người được, tất cả người cũng được.
Ví như trăm người chung có một kẻ oán thù, nếu hại được kẻ này thời nhiều người được an lạc. Giả sử Niết-bàn là pháp bình đẳng, lúc một người được, lẽ ra nhiều người cũng được, một người dứt kiết sử lẽ ra nhiều người cũng dứt, nếu chẳng như vậy sao lại gọi là thường.
Như có người cung kính cúng dường tôn trọng tán thán quốc vương, vương tử, phụ mẫu, sư trưởng thời được lợi dưỡng, đây chẳng gọi là thường. Niết-bàn cũng vậy, như ngày trước trong kinh A-hàm đức Phật nói với A-nan: Nếu có người cung kính Niết-bàn thời dứt được kiết sử hưởng thọ vô lượng an lạc do đây nên chẳng gọi là thường.
Bạch Thế Tôn! Nếu trong Niết-bàn có danh từ thường, lạc, ngã, tịnh thời chẳng gọi là thường, như không có, sao lại có thể nói?”
Như trăm người chung một kẻ thù, nếu người nào giết được kẻ thù đó thì cả trăm người được an ổn. Giả sử Niết-bàn là pháp bình đẳng, lúc một người được, lẽ ra nhiều người cũng được, đó là bình đẳng. Một người dứt kiết sử lẽ ra nhiều người cũng dứt, nếu chẳng như vậy sao lại gọi là thường. Nếu vì cung kính tôn trọng mà được lợi dưỡng thì đối tượng cung kính không phải là thường.
Nếu nói Niết-bàn có danh từ thường lạc ngã tịnh thì những danh từ đó chỉ cho giả tướng không thật, thì vô thường, tại sao đức Phật nói là thường. Nếu là thường, sao đức Phật có thể nói ra được.
Đức Phật bảo Cao Quý Đức Vương Bồ-tát: “Thể Niết-bàn chẳng phải trước không nay có. Nếu thể Niết-bàn trước không nay có thời chẳng phải vô lậu. Pháp thường trụ, nay có Phật hay không Phật, tánh tướng vẫn thường trụ. Bởi chúng sanh bị phiền não che đậy nên chẳng thấy Niết-bàn, bèn gọi là không. Đại Bồ-tát dùng giới, định, huệ siêng tu tâm mình, dứt xong phiền não bèn đặng thấy Niết-bàn. Phải biết Niết-bàn là pháp thường trụ chẳng phải trước không nay có nên gọi là thường.
Như dưới giếng trong nhà tối có các thứ châu báu, người cũng biết là có nhưng vì tối nên không thấy. Người có trí, thắp đèn sáng lớn cầm soi đó thời thấy châu báu rõ ràng. Người trí này trọn chẳng nghĩ rằng: Nước giếng cùng châu báu, trước không mà nay có.
Cũng vậy, Niết-bàn trước vốn tự có, chẳng phải nay mới có, vì phiền não tối tăm nên chúng sanh chẳng thấy. Đức Như Lai đại trí thắp đèn trí huệ, làm cho Bồ-tát đặng thấy Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh. Do đây nên người trí chẳng nên nói rằng Niết-bàn trước không mà nay có.
Nếu trước không mà nay mới sanh thì là cái bị tạo tác, mà bị tạo tác là vô thường không phải vô lậu. Niết-bàn là pháp thường trụ, dù có Phật ra đời hay không Phật ra đời Niết-bàn cũng vẫn như thế, sẵn có mà chúng ta vì phiền não tối tăm nên không thấy. Bồ-tát do tu giới định tuệ, dứt sạch phiền não liền được thấy Niết-bàn thường trụ. Như châu báu nằm sẵn trong giếng, vì tối mình không thấy. Bây giờ chỉ chịu khó thắp đèn lên cho sáng thì sẽ thấy.
Đây là giải đáp nạn vấn thứ nhất của ngài Cao Quý Đức Vương.
Này thiện nam tử! Như ông nói do trang nghiêm nên đặng thành Niết-bàn lẽ ra là vô thường, nghĩa này cũng không phải. Vì thể của Niết-bàn chẳng phải sanh, chẳng phải xuất, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải tạo tác mà có, chẳng phải là pháp hữu lậu, hữu vi, chẳng phải nghe, chẳng phải thấy, chẳng phải đọa, chẳng phải chết, chẳng phải tướng biệt dị, cũng chẳng phải tướng đồng, chẳng phải qua, chẳng phải lại, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng phải một và nhiều, chẳng phải dài và vắn, chẳng phải tròn và vuông, chẳng phải nhọn và méo, chẳng phải có tướng và không tướng, chẳng phải danh và sắc, chẳng phải nhân và quả, chẳng phải ngã và ngã sở. Do những nghĩa này nên Niết-bàn là thường không biến đổi. Phải tu tập pháp lành trong vô lượng kiếp để tự trang nghiêm rồi mới được thấy.
Ví như dưới đất có mạch nước trong mát chúng sanh chẳng thấy được, người trí ra công đào đất, thời đặng nước. Niết-bàn cũng như vậy.
Ví như người mù chẳng thấy mặt trời mặt trăng, lương y điều trị thời đặng thấy. Mặt trời mặt trăng chẳng phải là trước không mà nay có. Niết-bàn cũng như vậy từ trước đã tự có, chẳng phải mới có ngày nay.
Như người có tội bị trói nhốt trong khám, lâu ngày mãn tù mới được thả ra, trở về nhà đặng thấy cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc. Niết-bàn cũng như vậy.
Đến nạn vấn thứ hai, Phật giải thích Niết-bàn không phải là pháp đối đãi có – không, phải – quấy, tròn – vuông, danh – sắc…, làm sao nói là vô thường? Tuy thường nhưng phải do tu tập mới được thấy. Đây là chỗ quan trọng cần phải nhớ. Bởi vì chúng ta có bệnh nghe nói cái gì sẵn có thì không muốn tu: Có rồi thì tu làm gì! Phật nói tuy có sẵn nhưng phải tu tập trong vô lượng kiếp cho nó hiển lộ và dùng ba ví dụ để rõ hơn.
Ví dụ thứ nhất, nếu có ai chỉ cho chúng ta nơi có mạch nước ngầm, nhưng biết mà không đào xới gì hết thì cũng không có nước. Phải có công phu đào đất bươi đá rồi từ từ mới tới mạch nước, mới dùng được nước. Không đào không có nước, nhưng cũng không thể nói nước do mình đào mà có. Đó là ý nghĩa thật sâu mầu. Lâu nay mình cứ hiểu lầm. Niết-bàn đã sẵn có thì tu làm chi nữa? Tu chẳng có mà không tu cũng chẳng ra. Nói tu được thì không đúng vì Niết-bàn sẵn có không phải do tu mà được, nhưng không tu thì không được. Nghĩa này qua ví dụ thật rõ ràng.
Ví dụ thứ hai, như người mù chẳng thấy mặt trời mặt trăng, lương y điều trị con mắt lành thì thấy được. Như vậy mặt trời mặt trăng có sẵn, chỉ cần trị hết mắt bệnh là thấy. Không trị con mắt thì suốt kiếp cũng không thấy mặt trời mặt trăng.
Ví dụ thứ ba, như người có tội bị nhốt trong khám, mãn tù được thả ra, trở về nhà thấy được cha mẹ anh em quyến thuộc. Vậy có phải là anh em cha mẹ mới có hay không? Không phải. Sẵn có nhưng vì không được thấy, khi về tới nhà sẽ thấy.
Cũng vậy, chúng ta sẵn có tánh Niết-bàn ngay trong tâm, nhưng vì mê lầm không hồi quang phản chiếu nên không thấy. Nếu hồi quang phản chiếu thì liền được thấy. Niết-bàn không phải do trang nghiêm mà được và cũng không phải lìa trang nghiêm mà được.
Này thiện nam tử! Ông nói vì nhân duyên nên pháp Niết-bàn lẽ ra vô thường, nghĩa này chẳng đúng.
Này thiện nam tử! Xét về nhân có năm thứ: Một là sanh nhân, hai là hòa hiệp nhân, ba là trụ nhân, bốn là tăng trưởng nhân, năm là viễn nhân.
Sanh nhân chính là nghiệp phiền não, cũng như hột giống của cây cỏ.
Hòa hiệp nhân, như pháp lành hòa hiệp với tâm lành, pháp chẳng lành hòa hiệp với tâm chẳng lành, pháp vô ký hòa hiệp cùng tâm vô ký.
Trụ nhân, như dưới có cột thời nóc nhà chẳng sập, núi, sông, cây cối, nhân mặt đất mà đặng đứng vững, cũng vậy, nhờ có tứ đại cùng vô lượng phiền não mà chúng sanh dặng an trụ.
Tăng trưởng nhân, do uống ăn, y phục v.v.. làm cho chúng sanh tăng trưởng. Ví như lửa chẳng đốt, chim chẳng ăn thời hột giống của cây cỏ được tăng trưởng. Như hàng Sa-môn Bà-la-môn nhờ thầy lành bạn tốt mà được tăng trưởng. Như nhờ cha mẹ mà con được tăng trưởng.
Viễn nhân, như nhân thần chú mà quỷ chẳng hại được, độc chẳng trúng được, như nhờ quốc vương không có trộm cướp, như nương đất nước mà mầm mọc lên, như nước khuấy, công người là viễn nhân của chất tô. Như ánh sáng màu sắc v.v… là viễn nhân của nhãn thức, tinh huyết của cha mẹ là viễn nhân của chúng sanh. Như thời tiết v.v… đều gọi là viễn nhân.
Này thiện nam tử! Thể Niết-bàn chẳng phải do nhân như vậy làm thành, sao ông lại nói là vô thường?
Phật giải thích về năm thứ nhân.
Nghiệp và phiền não của thời quá khứ làm nhân để đời này sanh ra chịu khổ, đó gọi là sanh nhân, cũng như từ hạt giống sanh ra cây nên hạt giống là sanh nhân của cây.
Cái xấu hòa hiệp với cái xấu, cái tốt hòa hiệp với cái tốt, có sự chung hợp như vậy gọi là hòa hiệp nhân.
An trụ ở đây nghĩa là còn hoài chứ không phải như an trụ trong Niết-bàn. Sở dĩ có chúng sanh sanh đời này đời kia, là do tứ đại, vô lượng phiền não làm cho mình mãi mãi ở trên thế gian, mất rồi sanh, tiếp tục luôn luôn. Cũng như đất là chỗ an trụ của nhà cửa cây cối, như cây cột là trụ của nóc nhà… Đó là trụ nhân.
Tăng trưởng nhân là nhân giúp cho được trưởng thành. Con người nhờ y phục, nhờ uống ăn mà được trưởng thành. Hột giống không có gì phá nên lần lần trưởng thành. Người tu nhờ thầy lành bạn tốt mà được tăng trưởng. Như con nhờ cha mẹ mà được trưởng thành. Đó gọi là tăng trưởng nhân.
Viễn nhân, như nhân thần chú mà quỷ chẳng hại được, độc chẳng trúng được. Như nhờ quốc vương, chính phủ cai trị, gìn giữ đúng pháp thì không có trộm cướp, đây là viễn nhân giúp cho chúng ta khỏi bị trộm cướp. Như nương đất nước mà mầm mọc lên thì đất nước là viễn nhân của mầm. Như sữa là sanh nhân, nước khuấy với công người là viễn nhân của chất kem. Nhãn thức có nhân chánh của nó, nhờ bên ngoài có ánh sáng, có màu sắc nó mới thấy thì đó là viễn nhân của nhãn thức. Tinh huyết của cha mẹ là viễn nhân của chúng sanh. Như thời tiết v.v… đều gọi là viễn nhân, tức là nhân phụ ở bên ngoài.
Đó là năm nhân. Cái gì thuộc về năm nhân trên đều là vô thường, còn Niết-bàn không thuộc về năm nhân đó, tại sao nói là vô thường?
Lại có hai thứ nhân; một là tác nhân, hai là liễu nhân. Như khí cụ của thợ gốm thời gọi là tác nhân, như đèn đuốc v.v… soi vật trong tối thời gọi là liễu nhân.
Này thiện nam tử! Đại Niết-bàn chẳng do tác nhân mà có, chỉ do liễu nhân. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu pháp ba-la-mật gọi là liễu nhân. Bố thí là nhân của Niết-bàn, chẳng phải là nhân của
đại Niết-bàn. Đàn ba-la-mật mới được gọi là nhân của đại Niết-bàn. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là nhân của Niết-bàn, chẳng phải nhân của đại Niết-bàn. Vô lượng vô số pháp trợ Bồ-đề mới được gọi là nhân của đại Niết-bàn.”
Phật giải thích hai thứ nhân.
Tác nhân là nhân tạo tác, như thợ gốm có bàn, có dụng cụ để tạo ra bình, bồn… Bình, bồn do thợ gốm làm, thợ gốm và những món đồ của ông là vô thường. Còn liễu nhân, ví như trong nhà tối có mõ chuông, đồ đạc đầy đủ sẵn, nhưng không thấy, đốt ngọn đèn thấy rõ chuông mõ và những vật dụng. Như vậy liễu nhân không sanh ra các món đồ mà làm sáng những vật gì sẵn có. Niết-bàn do công phu tu hành mà thấy chứ không phải chúng ta tạo ra Niết-bàn nên Niết-bàn thuộc về liễu nhân.
Niết-bàn và đại Niết-bàn khác nhau chỗ nào? Niết-bàn là chỉ cho Niết-bàn của A-la-hán, của Nhị thừa. Còn đại Niết-bàn là Niết-bàn của Bồ-tát, của chư Phật. Niết-bàn trong kinh Pháp Hoa gọi là hóa thành, còn đại Niết-bàn gọi là bảo sở. Hình tướng bố thí thông thường là nhân được an ổn, được Niết-bàn theo Nhị thừa. Đàn ba-la-mật là bố thí cứu cánh, là bố thí ba-la-mật. Bố thí cứu cánh mới gọi là nhân của đại Niết-bàn của Bồ-tát và chư Phật.
Niết-bàn của A-la-hán chỉ cần tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo là được Niết-bàn. Còn vô lượng vô số pháp trợ Bồ-đề là nhân của đại Niết-bàn.
Phật giản trạch cho chúng ta biết Niết-bàn thuộc về liễu nhân không phải là tác nhân. Nó không nằm trong năm nhân trước đã kể, và đại Niết-bàn này trong các pháp trợ đạo phải vô lượng vô số pháp Bồ-đề mới được gọi là nhân đại Niết-bàn.
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Tại sao bố thí chẳng được gọi là Đàn ba-la-mật? Bố thí thế nào mới được gọi là Đàn ba-la-mật, nhẫn đến Bát-nhã ba-la-mật? Thế nào gọi là Niết-bàn và đại Niết-bàn?”
Phật nói: “Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát tu hành Đại thừa phương đẳng đại Niết-bàn, chẳng nghe bố thí cũng chẳng thấy bố thí. Chẳng nghe Đàn ba-la-mật, cũng như chẳng thấy nhẫn đến chẳng nghe Bát-nhã, chẳng thấy Bát-nhã, cũng chẳng nghe chẳng thấy Bát-nhã ba-la-mật. Chẳng nghe chẳng thấy Niết-bàn và đại Niết-bàn.
Đại Bồ-tát tu đại Niết-bàn, biết và thấy pháp giới, hiểu rõ thật tướng không có tất cả tướng.
Bồ-tát Cao Quý Đức Vương nghe nói bố thí là nhân của Niết-bàn, không phải là nhân của đại Niết-bàn, Bố thí ba-la-mật mới gọi là nhân của đại Niết-bàn. ngài bèn đặt các câu hỏi trên.
Phật giải thích, nếu người tu về đại Niết-bàn là chỗ cứu cánh thì không chia bố thí và bố thí ba-la-mật, Niết-bàn và đại Niết-bàn, tức là không thấy có hai, không nghe có hai. Vì đó là chỗ cứu cánh không đối đãi.
Người tu đại Niết-bàn đạt được tánh của pháp giới là thể chung cùng của tất cả pháp, không thấy tướng sai biệt của nó. Hiểu rõ thật tướng không có tất cả tướng. Như cái bàn này là do nhân duyên hòa hợp không có tự tướng, chỉ là giả hợp của các nhân duyên thôi. Kinh luận thường nói sự vật tánh là không. Tướng thật của cái bàn do giả duyên hòa hợp. Suy ra những thứ khác như cây viết, cây kim, cuốn sách, nhà cửa… cho đến cả thế giới cũng vậy, từ những hạt bụi hợp lại mà thành, đều không có tướng thật.
Vì không có tướng nhất định nên nói là không có tánh hay tánh không. Biết được tánh không của các pháp tức là biết được tướng thật, gọi là thấy được thật tướng.
Không có tướng hòa hiệp giác tri. Đặng tướng vô lậu, tướng vô tác, tướng như huyễn hóa, tướng ánh nắng, tướng thành càn thát-bà, tướng trống không, Bồ-tát thấy được những tướng như vậy thời không tham, sân, si, chẳng nghe chẳng thấy. Đây gọi là đại Bồ-tát an trụ thật tướng.
Đại Bồ-tát tự biết đây là bố thí, đây là Đàn ba-la-mật nhẫn đến đây là Bát-nhã ba-la-mật, đây là Niết-bàn, đây là đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Thế nào là bố thí mà chẳng phải ba-la-mật? Thấy có người xin rồi sau mới cho, đây là bố thí chẳng phải ba-la-mật. Nếu không người xin tâm tự thí xả, thời gọi là Đàn ba-la-mật. Nếu bố thí có thời gian thời gọi là bố thí chẳng phải ba-la-mật. Nếu thường thật hành bố thí thời gọi là Đàn ba-la-mật, nếu bố thí rồi trở lại sanh lòng hối hận đây gọi là bố thí chẳng phải ba-la-mật. Thí rồi chẳng ăn năn thời gọi là Đàn ba-la-mật.
Đại Bồ-tát đối với của cải có bốn quan niệm lo sợ: một là vua quan tịch thâu, hai là trộm cướp, ba là nước lụt, bốn là lửa cháy, do đó nên vui vẻ đem bố thí, đây gọi là Đàn ba-la-mật, nếu mong được báo đền mà bố thí thời chẳng phải ba-la-mật. Bố thí chẳng mong báo đền thời gọi là Đàn ba-la-mật.
Nếu vì kính sợ, vì tiếng tăm lợi lộc, vì gia pháp tương truyền, vì cầu vui cõi trời, vì kiêu mạn, vì hơn người, vì quen thân, vì cầu báo đền thời như là buôn bán đổi chác. Như người trồng cây để được bóng mát, được bông, trái, hoặc để được cây gỗ. Nếu người tu hành mà bố thí như vậy thời gọi là bố thí chẳng phải ba-la-mật.
Khi biết tất cả pháp không tự tướng, do duyên hợp mà tạm có như huyễn như hóa, như ánh nắng, như thành càn-thát-bà, trống không không thật. Hiểu rõ như vậy thì tham sân si theo đó mà hết. Bồ-tát tu đại Niết-bàn thấy như vậy, không có cái gì thật là bố thí, thật là bố thí ba-la-mật, thật Niết-bàn, thật đại Niết-bàn… tất cả chỉ là như huyễn hóa thôi. Dùng trí tuệ quán chiếu như vậy, thì tham sân si sẽ không còn. Nếu thấy thân là thật, ai chọc giận mình nổi nóng lên ngay, nhưng khi biết thân là giả, không còn quý tiếc, bảo bọc nó quá đáng thì bỏ được tham, khi bị xúc chạm, chúng ta tha thứ được nên không sân. Vậy nhờ quán đúng lẽ thật, thấy thân như huyễn như hóa, như bóng nắng, như thành càn-thát-bà thì chúng ta dứt được si. Nếu thường quán như vậy gọi là Bồ-tát an trụ thật tướng.
Khi sống đúng với thật tướng thì tự thấy tự biết thế nào là bố thí, thế nào là bố thí ba-la-mật, thế nào là Bát-nhã, thế nào là Bát-nhã ba-la-mật, thế nào là Niết-bàn, thế nào là đại Niết-bàn…, không cần phải giải thích.
Không ai tới xin nhưng lúc nào mình cũng nghĩ của cải này không thật, là vô thường, sẵn sàng thí xả, đó gọi là thí ba-la-mật. Bố thí có thời gian tức là định rằng tôi bố thí ba tháng thôi, ngoài ba tháng đó không bố thí nữa. Nhiều người trong túi có vài ngàn, thấy người ta gặp tai nạn khổ sở quá, đem cho hết. Nhưng sau đó hối hận, đó cũng là bố thí không phải ba-la-mật. Đưa rồi không nuối tiếc mới là ba-la-mật. Đó là trường hợp thứ nhất.
Do trí biết của cải vô thường đem bố thí gọi là bố thí ba-la-mật. Nếu bố thí mà mong người ta đền ơn, hôm nay mình cho họ biết đâu ngày mai họ giúp lại mình bằng hai bằng ba. Nếu họ không đáp trả, sẽ nói đồ vô ơn bạc nghĩa, rồi sanh ra bực bội sân si. Bố thí mong đền ơn dễ bị sân. Bố thí không mong đền ơn, họ biết ơn cũng tốt mà không biết ơn cũng tốt mới gọi là ba-la-mật. Nhưng rất ít người bố thí ba-la-mật. Ví dụ gần nhất, chúng ta cúng chùa, nhưng thắp nhang cầu cả chục việc, như vậy không phải ba-la-mật. Cúng dường Tam bảo mà thắp nhang “cầu cho con khỏi điêu đứng…” đủ thứ việc, thì bố thí chẳng những không ba-la-mật mà còn là mua bán đổi chác.
Hầu hết chúng ta bố thí đều nằm trong các trường hợp: Hoặc là kính sợ mà bố thí, như trường hợp gặp người có vũ khí tới nói cho tôi mượn cái này cái nọ thì đưa liền không dám chần chừ, đó là vì sợ mà đưa không phải là bố thí. Hoặc vì tiếng tăm lợi lộc, như làm từ thiện để tỏ ra mình có lòng tốt, giúp cho được nhiều để được tiếng tăm. Hoặc gia pháp tương truyền, vì làm theo ông bà cha mẹ, theo thói quen trong gia đình chứ không ý thức gì trong việc bố thí. Hoặc cầu lên cõi trời, trường hợp này nhiều lắm, bố thí cho đời sau, hoặc làm người hoặc sanh lên cõi trời được hưởng thú vui. Hoặc kiêu mạn, muốn tỏ ra ta đây bố thí hơn thiên hạ, người ta cho một đồng mình cho hai đồng, người ta cho một trăm mình cho hai trăm để hơn người ta. Hoặc quen thân, như sư nào quen đến thì giúp, còn lạ thì không giúp. Hoặc cầu báo đền, cho rồi cầu người đền ơn lại mình nhiều hơn hoặc bằng. Như trồng cây mình mong nó lớn để có trái, có bông để ngửi, để ăn hay có gỗ để mình sử dụng. Những bố thí mong được kết quả như vậy Phật nói là buôn bán đổi chác chẳng phải là bố thí ba-la-mật.
Phật tử phải biết của cải là vô thường, vì cúng dường Tam bảo làm lợi ích chúng sanh nên bố thí, chứ không phải làm để được hưởng, đời sau hưởng cái này cái nọ.
Đại Bồ-tát tu hành Phương đẳng đại Niết-bàn, chẳng thấy người bố thí, cũng như chẳng thấy kẻ lãnh thọ và của cải, chẳng thấy thời tiết, chẳng thấy phước điền, hay chẳng phải phước điền, chẳng thấy nhân duyên, quả báo, chẳng thấy người làm kẻ thọ, chẳng thấy nhiều hay ít, tịnh hay bất tịnh, chẳng khinh người lãnh thọ cũng như chẳng khinh thân mình hay của cải, chẳng để ý người ngó thấy hay không ngó thấy, chẳng chấp mình cùng người chỉ vì pháp thường trụ Phương đẳng đại Niết-bàn mà thật hành bố thí, chỉ vì lợi ích tất cả chúng sanh mà thật hành bố thí, vì dứt tất cả phiền não cho chúng sanh mà thật hành bố thí, chỉ vì chúng sanh nên chẳng thấy người thí kẻ thọ cùng của cải, mà thật hành bố thí.
Đoạn này y hệt trong kinh Kim Cang. Bố thí mà không thấy có mình là hay bố thí, có kẻ thọ thí và có vật bố thí. Mấy năm về trước khi dạy đến đây tôi buồn vì cảm thấy mình làm không được. Thấy rõ ràng có mình bố thí, có người thọ bố thí và có đồ vật bố thí, tại sao Phật nói không thấy? Nhưng bây giờ thấy được mấu chốt rồi thì làm được không khó. Chỉ cần dùng trí tuệ Bát-nhã thấy mình không thật, chúng sanh không thật, đời không thật thì có ai bố thí, ai là người thọ thí, có cái gì là vật đem bố thí? Bố thí mà có trí tuệ đó, gọi là bố thí ba-la-mật. Chỉ có Bát-nhã mới có bố thí ba-la-mật, mới có trì giới ba-la-mật, mới có tinh tấn ba-la-mật, nếu thiếu Bát-nhã thì không có Độ nào được ba-la-mật cả.
Khi làm việc bố thí, luôn luôn quán chiếu mình, vật, người thọ thí không thật duyên sanh như huyễn, đó là bố thí ba-la-mật. Nghĩa là bố thí đi đôi với trí tuệ.
Ví như có người té xuống biển lớn, ôm lấy tử thi mà được thoát nạn. Đại Bồ-tát tu đại Niết-bàn lúc thật hành bố thí cũng như ôm lấy tử thi để được vào bờ.
Ví như có người bị nhốt trong ngục kín, cửa nẻo đều đóng chặt, chỉ có lỗ cầu xí, bèn do nơi đó chui ra mà được thong thả, đại Bồ-tát tu hành đại Niết-bàn lúc thật hành bố thí cũng như vậy.
Ví như người sang quý phải nạn gấp kinh sợ không có chỗ dựa nương, bèn nương nhờ Chiên-đà-la. Đại Bồ-tát tu đại Niết-bàn thật hành bố thí cũng như vậy.
Ví như người bệnh nặng, vì muốn được lành mạnh nên uống chất thuốc dơ. Đại Bồ-tát tu đại Niết-bàn thật hành bố thí cũng như vậy.
Như Bà-la-môn gặp lúc mất mùa đói khát vì mạng sống nên ăn thịt chó, đại Bồ tát tu đại Niết-bàn thật hành bố thí cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Trong đại Niết-bàn những việc như vậy, từ vô lượng kiếp đến nay chẳng nghe mà được nghe. Giới luật cùng Thi-la ba-la-mật nhẫn đến Bát-nhã cùng Bát-nhã ba-la-mật, như trong kinh Tạp Hoa đức Phật đã giảng rộng.
Đại Bồ-tát tu đại Niết-bàn lúc thực hành bố thí, biết của cải đem cho là vật tạm, vô thường, không phải là cái xứng đáng, không phải cứu cánh. Nhưng mượn tạm cái vô thường để đi đến chỗ cứu cánh, như bị rớt xuống biển phải ôm tử thi mà được vào bờ an ổn. Bố thí là pháp sanh diệt, nhưng nương bố thí này để được đại Niết-bàn, cũng như nương nơi lỗ cầu xí là nơi hội hám dơ dáy để thoát ra khỏi ngục tù…
Trong kinh Tạp Hoa có nói đầy đủ, đây Phật chỉ tóm lược.
Này thiện nam tử! Thế nào là Bồ-tát tu đại Niết-bàn chẳng nghe mà được nghe? Mười hai bộ kinh nghĩa lý thâm thúy từ trước chẳng nghe, nay nhân kinh này mà được nghe đầy đủ. Trước dầu được nghe nhưng chỉ nghe danh tự, nay ở kinh này mới đặng nghe nghĩa lý. Thanh văn, Duyên giác chỉ nghe danh tự của mười hai bộ kinh mà chẳng nghe nghĩa lý, nay ở kinh này được nghe đầy đủ. Đây gọi là chẳng nghe mà được nghe.
Trong tất cả kinh của Thanh văn, Duyên giác chẳng nghe đức Phật có thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng rốt ráo nhập diệt, Tam bảo và Phật tánh không có tướng sai khác, người phạm bốn trọng tội, hủy báng kinh điển Đại thừa, tạo tội ngũ nghịch và nhất xiển-đề, tất cả đều có Phật tánh. Nay ở kinh này mà đặng nghe đó. Đây gọi là chẳng nghe mà được nghe.”
Phật giải thích thêm ý nghĩa chẳng nghe mà được nghe. Các kinh kia chưa từng nói đến những điều này, đến kinh Đại Niết-bàn này Phật mới nói ra gọi là chẳng nghe mà được nghe.
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu nhất-xiển-đề v.v… mà có Phật tánh, tại sao bọn họ lại đọa địa ngục?
Bạch Thế Tôn! Giả sử bọn họ có Phật tánh, sao lại nói là không có thường, lạc, ngã, tịnh?
Nếu dứt căn lành gọi là nhất-xiển-đề, lúc dứt căn lành tại sao Phật tánh lại chẳng dứt? Phật tánh nếu dứt sao lại nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh? Như Phật tánh chẳng dứt sao lại gọi là nhất-xiển-đề?
Bạch Thế Tôn! Phạm bốn tội nặng gọi là bất định, hủy báng kinh Đại thừa, tạo tội ngũ nghịch cùng nhất-xiển-đề đều gọi là bất định. Những hạng này nếu quyết định làm sao đặng thành vô thượng Bồ-đề? Tu-đà-hoàn nhẫn đến Bích-chi Phật cũng gọi là bất định, vì nếu quyết định lẽ ra Tu-đà hoàn nhẫn đến Bích-chi Phật đều chẳng được thành vô thượng Bồ-đề.
Bạch Thế Tôn! Nếu phạm bốn tội nặng là chẳng quyết định, thời Tu-đà-hoàn nhẫn đến Bích-chi Phật cũng là chẳng quyết định, chư Phật Như Lai cũng lại chẳng quyết định. Như thế, thể tánh Niết-bàn cũng lại chẳng quyết định, tất cả pháp cũng chẳng quyết định. Tại sao chẳng quyết định gọi là nhất-xiển đề.
Trừ nhất-xiển-đề thời thành Phật đạo. Chư Phật Như Lai lẽ ra cũng như vậy, nhập Niết-bàn rồi đáng lẽ cũng lại trở ra chẳng nhập Niết-bàn. Nếu như vầy thời tánh Niết-bàn cũng là chẳng nhất định. Vì chẳng nhất định nên biết chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh. Sao lại nói rằng: Nhất-xiển-đề v.v… sẽ đặng Niết-bàn?”
Ngài Cao Quý Đức Vương sau khi nghe đức Phật nói nhất-xiển-đề cũng có Phật tánh, cũng sẽ thành Phật thì nghi ngờ và vấn nạn Phật. Nếu nói quyết định thì người đoạn thiện căn kiếp kiếp đời đời không bao giờ thành Phật được. Còn tuy đoạn thiện căn mà có Phật tánh, sau này họ ăn năn hối cải tu hành thì cũng sẽ thành Phật. Như vậy là không quyết định.
Quyết định là không dời đổi, nghĩa là ở ngay nơi vị của mình hoài không tiến lên được, mà tiến lên tức là bất định. Hay nói cách khác Như Lai thành Phật rồi sau cũng trở lại thành chúng sanh. Bởi vì các pháp đều không quyết định. Đã không quyết định thì nhất-xiển-đề đoạn căn lành nhưng sau cũng thành Phật, và Như Lai là Phật rồi cũng sẽ trở lại thành chúng sanh. Nếu không quyết định thì làm gì có thường. Nếu không có thường thì làm gì có lạc ngã tịnh, sao lại nói rằng nhất-xiển-đề v.v… sẽ được Niết-bàn?
Đức Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Ông vì muốn lợi ích an lạc chúng sanh, vì lòng từ bi xót thương thế gian, vì muốn sách tấn các Bồ-tát phát Bồ-đề tâm, nên hỏi Phật những điều như vậy.
Ông đã gần gũi vô lượng chư Phật quá khứ trồng những căn lành, từ lâu đã thành tựu công đức Bồ-đề hàng phục các loài ma, đã giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh đưa họ đến Vô thượng Chánh giác, từ lâu đã thông đạt tạng thâm mật của Như Lai, đã từng đem những nghĩa thâm mật như trên thưa hỏi hằng hà sa chư Phật thuở quá khứ. Tất cả thế gian hoặc người hoặc trời hoặc Sa-môn hoặc Bà-la-môn hoặc ma vương, Phạm vương, ta đều không thấy ai có thể hỏi được như vậy. Ông nên thành tâm lóng nghe.
Phật không lấy làm bực mình vì mấy câu vấn nạn này mà lại hết sức khen Bồ-tát Cao Quý Đức Vương là hỏi hay bậc nhất.
Này thiện nam tử! Nhất-xiển đề cũng chẳng nhất định. Vì nếu nhất định thời nhất-xiển-đề trọn không thể đặng thành Vô thượng Chánh giác. Vì chẳng nhất định nên có thể đặng thành.
Như ông hỏi: Phật tánh chẳng dứt, sao nhất-xiển-đề lại dứt căn lành?
Này thiện nam tử! Căn lành có hai thứ: trong và ngoài. Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nên chẳng dứt.
Căn lành lại có hai thứ: hữu lậu và vô lậu. Phật tánh chẳng phải hữu lậu vô lậu nên chẳng dứt.
Lại có hai thứ căn lành: thường và vô thường. Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường nên chẳng dứt.
Nếu là những thứ bị dứt, thời trở lại đặng. Nếu chẳng trở lại đặng thời gọi là chẳng dứt. Nếu dứt rồi trở lại đặng thời gọi là nhất-xiển-đề. Phạm bốn tội nặng, hủy báng Đại thừa, tạo tội ngũ nghịch cũng chẳng nhất định như vậy. Vì nếu nhất định thời những hạng này trọn chẳng thể đặng vô thượng Bồ-đề.
Phật chỉ rõ nhất-xiển-đề không nhất định thì các điều sau cũng đều không nhất định. Căn lành có bên trong bên ngoài, còn Phật tánh không thuộc trong ngoài, cho nên căn lành có dứt mà Phật tánh không dứt. Căn lành hữu lậu vô lậu là đối đãi thuộc về có dứt, Phật tánh không đối đãi cho nên không dứt. Vì căn lành có dứt nên có được, còn Phật tánh chẳng có được nên chẳng dứt. Phật muốn nói những pháp của nhất-xiển-đề đều là bất định, bởi bất định nên từ nhất-xiển-đề trở thành Phật.
Sắc cùng tướng của sắc, hương, vị, xúc, sanh đến vô minh, ấm, nhập, giới, hai mươi lăm cõi, bốn loài sanh, tất cả pháp cũng đều không có tướng nhất định. tVí như nhà ảo thuật ở trong đại chúng biến hóa làm quân lính, chuỗi ngọc đồ trang sức, xóm làng, thành ấp, rừng cây, suối, ao, sông, giếng. Trong đại chúng có bọn trẻ thơ vì không đủ trí, nên lúc xem coi cho đó là thật. Người trí biết đó là hư dối, do sức ảo thuật làm lầm mắt người.
Tất cả phàm phu nhẫn đến Thanh văn, Bích-chi Phật, đối với tất cả pháp thấy có tướng nhất định. Chư Phật Bồ-tát đối với tất cả pháp chẳng thấy tướng nhất định.
Ví như mùa hạ thấy ánh nắng gợn, trẻ thơ cho là nước. Người trí trọn chẳng nhận là nước thật, chỉ là ánh nắng gợn làm lầm mắt người.
Tất cả phàm phu, Thanh văn Duyên giác thấy tất cả pháp đều cho là thật. Chư Phật, Bồ-tát chẳng thấy có tướng nhất định.
Ví như khe núi, do tiếng mà có vang. Trẻ thơ cho là thật tiếng. Người trí hiểu là không thật, chỉ có tướng tiếng phỉnh dối nơi nhĩ thức.
Tất cả phàm phu, Thanh văn Duyên giác đối với tất cả pháp thấy có tướng nhất định. Chư Phật, Bồ-tát hiểu rõ đều không tướng nhất định, thấy là tướng vô thường, tướng không tịch, tướng không sanh diệt. Do nghĩa này, đại Bồ-tát thấy tất cả pháp là tướng vô thường.
Này thiện nam tử! Cũng có định tướng, chính là thường, lạc, ngã, tịnh nơi quả đại Niết-bàn.
Đây là trả lời tổng quát tất cả pháp hữu lậu hữu vi đều không nhất định vì đều hư giả chẳng khác như huyễn thuật. Chỉ có trẻ thơ mới cho các pháp này là thật. Người trí thấy nó là không thật, là huyễn hóa cho nên đều nói là không quyết định.
Thanh văn Nhị thừa còn thấy có hai bên, thấy có sanh tử khác Niết-bàn nên thấy có tướng nhất định. Còn Bồ-tát thấy tất cả như sóng nắng, tiếng vang… không thật, cho nên là bất định. Phật xác định lại tất cả tướng đều không nhất định.
Tất cả pháp thế gian thuộc về hữu vi hữu lậu đều không có tướng nhất định, chỉ có đại Niết-bàn hay Phật tánh mới nhất định. Vì sao? Vì bất sanh bất diệt. Như vậy tất cả pháp thế gian, xuất thế gian trong tương đối cũng đều không nhất định, chỉ có đại Niết-bàn hay Phật tánh vượt ra ngoài đối đãi mới gọi là nhất định.
Này thiện nam tử! Quả Tu-đà-hoàn cũng chẳng quyết định,vì chẳng quyết định nên trải qua tám muôn kiếp đặng Vô thượng Chánh giác. Quả Tư-đà-hàm cũng chẳng quyết định, vì trải qua sáu muôn kiếp đặng Vô thượng Chánh giác. Quả A-na-hàm cũng chẳng quyết định, vì trải qua bốn muôn kiếp đặng Vô thượng Chánh giác. Quả A-la-hán cũng chẳng quyết định, vì trải qua hai muôn kiếp đặng Vô thượng Chánh giác.
Bích-chi Phật cũng chẳng quyết định, vì trải qua mười ngàn kiếp đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Các quả của hàng Nhị thừa đều chưa quyết định. Vì sau nhiều muôn kiếp sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Này thiện nam tử! Hôm nay Như Lai ở trong rừng ta-la song thọ nơi thành Câu-thi-na, thị hiện nằm dựa trên giường sư tử sắp nhập Niết-bàn, làm cho chúng đệ tử chưa chứng quả A-la-hán cùng các lực sĩ rất lo rầu, cũng làm cho trời, người, a-tu-la, càn-thát-bà, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu- la-già v.v… trần thiết đồ cúng dường. Muốn khiến mọi người dùng ngàn bức vải lông vấn thân Như Lai, bảy báu làm quan tài, đựng đầy dầu thơm, chất những gỗ thơm để thiêu đó. Chỉ trừ hai thứ chẳng thể cháy được: một là y lót mình, hai là lớp vải vấn phía ngoài hết. Vì chúng sanh nên phân chia xá-lợi làm tám phần.
Tất cả hàng Thanh văn đệ tử đều cho rằng đức Như Lai nhập Niết-bàn. Phải biết đức Như Lai cũng chẳng quyết định rốt ráo nhập Niết-bàn, vì đức Như Lai thường trụ chẳng biến đổi. Do nghĩa này nên đức Như Lai nhập Niết-bàn cũng chẳng nhất định.
Này thiện nam tử! Nên biết Như Lai cũng chẳng quyết định. Như Lai chẳng phải Thiên. Có bốn hạng thiên: Một là Thế gian thiên, hai Sanh thiên, ba là Tịnh thiên, bốn là Nghĩa thiên.
Thế gian thiên, lệ như các vị quốc vương. Từ Tứ thiên vương nhẫn đến trời Phi tưởng phi phi tưởng gọi là Sanh thiên. Từ Tu-đà-hoàn đến Bích-chi Phật gọi là Tịnh thiên. Thập trụ Bồ-tát v.v… gọi là Nghĩa thiên, vì có thể hiểu rõ nghĩa của các pháp, chính là thấy nghĩa không của tất cả pháp.
Này thiện nam tử! Như Lai chẳng phải Quốc vương, chẳng phải Tứ thiên vương, nhẫn đến trời Phi phi tưởng, cũng chẳng phải Tu-đà hoàn, Bích-chi Phật, Thập trụ Bồ-tát. Do đây nên Như Lai chẳng phải Thiên. Mặc dầu như vậy, nhưng chúng sanh cũng gọi Phật là Thiên trung thiên. Vì thế nên Như Lai chẳng phải là Thiên cũng chẳng phải là chẳng phải Thiên, chẳng phải là người cũng chẳng phải là chẳng phải người, chẳng phải là quỷ cũng chẳng phải là chẳng phải quỷ, chẳng phải là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, cũng chẳng phải là chẳng phải địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, chẳng phải là chúng sanh cũng chẳng phải là chẳng phải chúng sanh, chẳng phải là pháp cũng chẳng phải là chẳng phải pháp, chẳng phải là sắc cũng chẳng phải là chẳng phải sắc, chẳng phải là dài, vắn cũng chẳng phải là chẳng phải dài, vắn. Chẳng phải là tướng cũng chẳng phải là chẳng phải tướng, chẳng phải là tâm cũng chẳng phải là chẳng phải tâm, chẳng phải là hữu lậu, chẳng phải là vô lậu, chẳng phải là hữu vi, chẳng phải là vô vi, chẳng phải là thường, chẳng phải là vô thường, chẳng phải là huyễn hóa cũng chẳng phải là chẳng phải huyễn hóa, chẳng phải là danh cũng chẳng phải là chẳng phải danh, chẳng phải là định cũng chẳng phải là chẳng phải định, chẳng phải có không cũng chẳng phải là chẳng phải có không, chẳng phải ngôn thuyết cũng chẳng phải là chẳng phải ngôn thuyết, chẳng phải Như Lai cũng chẳng phải là chẳng phải Như Lai. Do nghĩa này nên Như Lai chẳng quyết định.
Này thiện nam tử! Cớ sao Như Lai chẳng gọi là Thế gian thiên? Thế gian thiên chính là của vị Quốc vương, Đức Như Lai từ vô lượng kiếp đã bỏ ngôi Quốc vương, cho nên Như Lai chẳng phải là Quốc vương. Như Lai giáng sanh nơi nhà vua Tịnh Phạn tại thành Ca-tỳ-la-vệ, nên Như Lai chẳng phải là chẳng phải Quốc vương.
Như Lai từ lâu đã lìa khỏi các cõi, nên chẳng phải là Sanh thiên. Như Lai lên trời Đâu-suất xuống Diêm-phù-đề, nên chẳng phải là chẳng phải Sanh thiên.
Như Lai chẳng phải Tu-đà-hoàn nhẫn đến Bích-chi Phật, nên Như Lai chẳng phải là Tịnh thiên.
Tám pháp trong đời chẳng ô nhiễm được, dường như liên hoa chẳng dính bụi, nước, nên Như Lai chẳng phải là chẳng phải Tịnh thiên.
Như Lai chẳng phải là Thập trụ Bồ-tát, nên Như Lai chẳng phải là Nghĩa thiên. Như Lai thường tu mười tám nghĩa không, nên Như Lai chẳng phải là chẳng phải Nghĩa thiên.
Như Lai chẳng phải là người vì Như Lai từ vô lượng kiếp đã lìa quả báo người. Như Lai giáng sanh thành Ca-tỳ-la nên chẳng phải là chẳng phải người.
Như Lai chẳng phải là quỷ vì chẳng hại tất cả chúng sanh. Như Lai cũng dùng thân quỷ để hóa độ chúng sanh nên chẳng phải là chẳng phải quỷ.
Như Lai chẳng phải là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ vì từ lâu đã lìa ác nghiệp, cũng hiện thọ thân trong ác đạo để giáo hóa chúng sanh, nên Như Lai cũng chẳng phải là chẳng phải địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.
Như Lai chẳng phải là chúng sanh vì từ lâu đã lìa tánh chúng sanh.
Có lúc Như Lai diễn thuyết chúng sanh, nên cũng chẳng phải là chẳng phải chúng sanh.
Các pháp mỗi mỗi đều có tướng sai khác, Như Lai chỉ có một tướng, nên chẳng phải là pháp. Như Lai là pháp giới nên cũng chẳng phải là chẳng phải pháp.
Như Lai chẳng nhiếp trong mười sắc pháp, nên chẳng phải là sắc.
Thân Như Lai có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, nên chẳng phải là chẳng phải sắc.
Vì dứt tất cả sắc nên Như Lai chẳng phải là cao. Tất cả thế gian không ai thấy được đỉnh đầu của Như Lai, nên chẳng phải là chẳng phải cao.
Từ lâu đã xa lìa kiêu mạn, nên Như Lai chẳng phải là thấp. Vì độ trưởng giả Cù-sư-la, Như Lai hiện thân ba thước, nên chẳng phải là chẳng phải thấp.
Từ lâu đã xa lìa các hình tướng, nên Như Lai chẳng phải là tướng. Như Lai biết rành tất cả tướng, nên chẳng phải là chẳng phải tướng.
Như Lai rỗng rang như hư không, nên chẳng phải là tâm. Vì Như Lai có mười tâm trí lực, cũng có thể rõ biết tâm của chúng sanh, nên cũng chẳng phải là chẳng phải tâm.
Vì Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh, nên chẳng phải là hữu vi. Như Lai thị hiện có đến, đi, ngồi, nằm cùng thị hiện Niết-bàn nên chẳng phải là vô vị.
Vì có thân phần đoạn nên Như Lai chẳng phải là thường. Lại vì có biết, vì có nói năng, vì có họ tên, vì có cha mẹ, vì có bốn oai nghi, vì có nơi chỗ, do đây nên Như Lai chẳng phải là thường. Phàm pháp có sanh gọi là vô thường. Như Lai là vô sanh nên chẳng phải là chẳng phải thường. Phàm pháp thường trụ thời khắp tất cả chỗ như hư không, không chỗ nào không có, Như Lai khắp tất cả chỗ cũng như vậy nên là thường. Những pháp vô thường thời chỗ này có, chỗ kia không, Như Lai chẳng như vậy nên là thường. Pháp vô thường thời có lúc có, lúc không, Như Lai chẳng như vậy nên là thường. Pháp thường trụ không danh, sắc, không nhân, không quả, Như Lai cũng như vậy nên là thường. Pháp thường trụ chẳng nhiếp trong thời gian ba đời, Như Lai cũng như vậy nên là thường.
Vì dứt tất cả tâm luống dối, nên Như Lai chẳng phải là huyễn hóa. Như Lai có lúc chia một thân làm vô lượng thân, vô lượng thân hiệp làm một thân, đi thẳng qua núi qua vách không bị chướng ngại, đi trên nước như đất, vào trong đất như nước, đi trên hư không như đất bằng, thân tuôn ra khói lửa, hực hỡ như đống lửa, hiện tiếng mây sấm chấn động, hoặc hiện làm thành ấp, xóm làng nhà cửa, núi sông cây cối, hoặc hiện thân to lớn, hoặc thân nhỏ, thân nam, thân nữ, thân đồng nam, thân đồng nữ, vì thế nên Như Lai cũng chẳng phải là chẳng phải huyễn hóa.
Trong rừng ta-la nơi thành Câu-thi-na, Như Lai thị hiện nhập Niết-bàn vì thế nên Như Lai chẳng phải quyết định. Do vì thường, lạc, ngã, tịnh nên Như Lai lại cũng chẳng phải là chẳng quyết định.
Vì đã dứt ba thứ lậu: một là dục lậu tức là tất cả phiền não ở Dục giới trừ vô minh; hai là hữu lậu tức là tất cả phiền não Sắc giới và Vô sắc giới trừ vô minh; ba là vô minh lậu tức là vô minh trong tam giới. Vì thế nên Như Lai chẳng phải hữu lậu.
Tất cả phàm phu đối với đời vị lai đều có tâm nghi: Trong đời vị lai sẽ có thân hay chẳng có thân? Trong đời quá khứ thân vốn có hay là vốn không? Trong đời hiện tại thân này có hay thân này không? Nếu có ngã, thời ngã ấy là sắc hay là chẳng phải sắc? Là tưởng hay chẳng phải tưởng? Thân này thuộc về cái khác hay chẳng thuộc? Là có mạng có thân hay có thân không mạng? Thân cùng mạng là thường hay vô thường? Thân cùng mạng do Tự Tại thiên tạo ư? Thời tiết tạo ư? Vô nhân tạo ư? Thế tánh tạo ư? Vi trần tạo ư? Pháp cùng phi pháp tạo ư? Sĩ phu tạo ư? Phiền não tạo ư? Cha mẹ tạo ư? Ngã ở nơi tâm hay ở nơi nhãn? Ngã khắp đầy trong thân ư? Ngã từ đâu đến, đi đến chỗ nào? Ai sanh ai chết? Ngã thuở quá khứ là chủng tánh nào? Đời vị lai sẽ thuộc chủng tánh nào? Thuở quá khứ, thân này của ta là nam hay nữ? Nếu ta sát sanh sẽ phải tội hay không tội? Nhẫn đến uống rượu sẽ có tội hay không tội? Ta tự gây tạo hay vì người mà gây tạo? Ngã thọ báo hay thân thọ báo?
Vô lượng điều nghi chấp như vậy che đậy chúng sanh làm cho tâm phiền muộn. Do những điều nghi chấp này sanh ra sáu thứ quan niệm: một là quyết định có ngã; hai là quyết định không ngã; ba là ngã thấy là ngã; bốn là ngã thấy là không ngã; năm không ngã thấy là ngã; sáu là ngã làm ngã thọ, ngã biết. Những quan niệm trên đây gọi là tà kiến.
Hôm nay Phật thị hiện nhập Niết-bàn làm đệ tử chưa chứng A–la-hán cũng rúng động, trời người lo buồn, bày lễ cúng dường, lo sắm sửa vải gỗ… trà-tỳ.
Nhưng Như Lai không quyết định rốt ráo nhập Niết-bàn. Như Lai không phải trời, không phải quốc vương, không phải Thanh văn, Bích-chi, Bồ-tát Thập trụ… nhưng được gọi là Thiên trung thiên.
Như Lai cũng là trời mà cũng chẳng phải là trời, Như Lai là quỷ cũng chẳng phải là quỷ, là Bồ-tát cũng chẳng phải là Bồ-tát v.v… Tại sao? Vì thân hiện nhập Niết-bàn đây là hóa thân, còn Như Lai là chỉ cho phép thân. Đối với pháp thân thì tất cả những tướng thị hiện đều chẳng phải, về hóa thân thì đều là phải, Cho nên vì muốn độ loài quỷ nên hóa làm quỷ để hóa độ chứ không phải là quỷ, độ người thì hóa làm người cũng không phải người… Pháp thân thì không phải tất cả, còn hóa thân là tùy duyên hóa độ nên cái gì cũng phải.
Chúng ta cũng vậy, vì Phật tánh không sanh diệt nên không phải địa ngục, thiên đường, hay người v.v… Do nghiệp duyên huân tập mà chúng ta hiện ra thân người, thân địa ngục, thân ngạ quỷ, thân trời… đủ cả, nên nói Phật tánh lăn lộn trong sáu đường. Tuy lăn lộn trong sáu đường nhưng Phật tánh vẫn là Phật tánh.
Tất cả cái nghi của phàm phu là nghi thân, nghi mạng, nghi từ đâu mà sanh, từ đâu mà đến… Phật kết luận, vô lượng điều nghi chấp như vậy che đậy làm cho tâm phiền muộn. Do những điều nghi chấp này sanh ra sáu thứ quan niệm. Đây cũng là sáu tà chấp mà lúc xưa ở Ấn Độ cho là quan trọng.
Một là quyết định có ngã, hai là quyết định không ngã, ba là ngã thấy là ngã, bốn là ngã chẳng thấy là ngã, năm là không ngã thấy là ngã. Sáu là ngã thọ, ngã biết. Đó là sáu quan niệm chấp về ngã. Những quan niệm này đều thuộc về tà kiến. Vì lỗi tại quyết định, quyết định là không, quyết định là có, quyết định là một, quyết định là khác… Tất cả pháp thế gian đều không quyết định mà chấp quyết định nên thành một rừng tà kiến.
Như Lai đã dứt hẳn vô lượng cội gốc tà kiến hữu lậu như vậy, nên Như Lai chẳng phải hữu lậu. Đại Bồ-tát tu thánh hạnh đại Niết-bàn cũng dứt hẳn được những lậu như vậy. Chư Phật thường tu thánh hạnh nên là vô lậu.
Này thiện nam tử! Phàm phu chẳng thể khéo nhiếp năm căn thời có ba thứ lậu, bị nghiệp ác kéo dắt đến nơi chỗ chẳng lành. Ví như ngựa dữ tánh hung hăng, có thể làm cho người cưỡi đến chỗ hiểm nạn, Người không khéo nhiếp năm căn cũng như vậy, có thể làm cho người đó xa lìa pháp lành đến những chỗ ác.
Ví như voi dữ chưa điều thuận, người cưỡi nó chẳng thể tùy ý, nó đưa người xa lìa thành ấp đến nơi rừng sâu. Chẳng khéo điều nhiếp năm căn nó sẽ dắt người xa lìa thành ấp Niết-bàn đến nơi rừng rậm sanh tử. Ví như tôi nịnh bảo vua làm ác, như đứa con hư chẳng tuân lời dạy của cha mẹ sư trưởng, chẳng khéo nhiếp ngũ căn nó sẽ khiến người làm ác chẳng thuận pháp lành.
Như Lai không còn là hữu lậu, nên không mắc kẹt trong quyết định tà kiến. Phật giải thích, Phật Bồ-tát tu đại Niết-bàn đã dứt hẳn hữu lậu nên là vô lậu. Người không giữ năm căn mắt tai mũi lưỡi thân thì sẽ bị lôi đến chỗ chẳng lành. Ví dụ thứ nhất, như người cưỡi con ngựa dữ tánh hung hăng, có thể đưa đến chỗ hiểm nạn. Ví dụ thứ hai, như giữ con voi dữ chưa có điều thuận, thế nào nó cũng mang mình vào tận rừng sâu. Cũng vậy, nếu không điều phục, không khéo gìn giữ năm căn thì nó sẽ theo nghiệp ác lôi chúng ta tới những chỗ đau khổ, tức là xa lìa thành Niết-bàn đến với rừng rậm sanh tử, Ví dụ thứ ba, như vua gần gũi với nịnh thần thì thế nào rồi có ngày cũng bị mất ngôi. Ví dụ thứ tư, như đứa con không nghe lời cha mẹ dạy dỗ, tức là đứa con hư, thế nào sau này nó cũng chịu khổ.
Phàm phu chẳng nhiếp ngũ căn thường bị địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ tàn hại, như giặc cướp hại người lành.
Phàm phu chẳng nhiếp ngũ căn chạy theo ngũ trần, như người chăn trâu chẳng khéo giữ gìn để trâu làm hại lúa mạ.
Phàm phu chẳng nhiếp ngũ căn nên thường ở trong ba cõi chịu nhiều sự khổ não.
Đại Bồ-tát lúc tu thánh hạnh đại Niết-bàn, thường có thể khéo nhiếp ngũ căn, dứt trừ tham dục, sân khuể, ngu si, kiêu mạn, tật đố, để được thành tựu tất cả pháp lành.
Nếu người có thể khéo giữ gìn ngũ căn thời nhiếp được tâm, nếu nhiếp được tâm thời nhiếp ngũ căn. Ví như có người ủng hộ quốc vương thời là ủng hộ quốc gia, ủng hộ quốc gia thời là ủng hộ quốc vương.
Phàm phu chẳng nhiếp ngũ căn chạy theo ngũ trần, như người chăn trâu chẳng khéo giữ gìn để trâu mình làm hại lúa mạ. Nghĩa là năm căn chạy theo năm trần ở ngoài như trâu dữ chạy trên lúa mạ người. Nếu biết điều phục được năm căn thì sẽ dứt được các căn bản phiền não là tham, sân, si, mạn, tật đố. Tâm loạn là do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân mà ra. Nếu khéo gìn giữ được năm căn không chạy theo năm trần ở ngoài thì tâm cũng dễ được yên.
Đại Bồ-tát nếu đặng nghe kinh Đại Niết-bàn này thời được trí huệ vì được trí huệ thời được chuyên niệm. Nếu ngũ căn tán loạn thời chánh niệm có thể nhiếp dừng lại, vì là niệm huệ vậy. Như người chăn giỏi, giả sử trâu sút dây đi ăn lúa mạ của người thời liền bắt lại. Nhờ niệm huệ, nên đại Bồ-tát thâu nhiếp ngũ căn chẳng cho tán loạn. Nhờ có niệm huệ nên đại Bồ-tát chẳng thấy ngã tướng, chẳng thấy tướng ngã sở, chẳng thấy chúng sanh cùng chỗ thọ dụng. Thấy tất cả pháp đồng là pháp tánh, sanh ra tướng đất đá ngói sạn.
Nghe kinh Đại Niết-bàn thì được trí tuệ, được trí tuệ thì được chuyên niệm. Như kinh Đại Niết-bàn, Phật phân tích cho chúng ta thấy tất cả pháp hữu vi, hữu lậu đều là bất định, là như huyễn như hóa, không thật. Nhìn tất cả cũng đều biết như vậy là tâm luôn luôn có chuyên niệm, có trí tuệ.
Nếu ngũ căn tán loạn chạy theo trần cảnh, do chánh niệm tức là niệm tuệ biết căn trần là huyễn thì liền dừng lại được. Chúng ta tu nên lấy trí tuệ Bát-nhã làm đầu. Như người chăn giỏi, nếu trâu sút dây đi ăn lúa mạ của người liền bắt lại. Tuy nó có chạy rỗng nhưng vẫn nắm mũi lôi nó được. Năm căn tán loạn mà có niệm huệ thì cũng trừ được.
Nhờ có niệm huệ nên đại Bồ-tát chẳng thấy ngã tướng, chẳng thấy tướng ngã sở, chẳng thấy chúng sanh cùng chỗ thọ dụng. Vì có trí tuệ Bát-nhã nên thấy thân người là do ngũ uẩn hợp, không thật, tất cả sự vật cũng do tứ đại hợp không thật. Do đó nên thấy người năng thí, kẻ thọ thí và vật đem ra thí đều là huyễn hóa không thật. Đó là không thấy có mình, có người, có vật. Hiểu kinh điển Đại thừa rồi thì tin mình làm được.
Thấy tất cả pháp đồng là pháp tánh, sanh ra tướng đất đá ngói sạn. Tức là thấy tất cả pháp như huyễn không thật, đều từ pháp thân biến hiện nên đồng pháp tánh. Từ pháp thân biến hiện ra tướng đất đá ngói sạn…
Như nhà cửa do nhiều duyên hiệp lại thành không có tánh nhất định. Thấy chúng sanh do tử đại, ngũ ấm hiệp thành không tánh quyết định. Vì không tánh quyết định nên Bồ-tát ở trong đó chẳng sanh tham đắm. Tất cả phàm phu vì thấy có chúng sanh nên khởi phiền não. Đại Bồ-tát tu đại Niết-bàn vì có niệm huệ nên đối với chúng sanh chẳng sanh tham trước.
Đại Bồ-tát tu kinh Đại Niết-bàn chẳng chấp trước tướng chúng sanh mà hiện làm ra những pháp tướng. Như thợ vẽ dùng các thứ màu vẽ thành những hình tượng: hoặc nam, hoặc nữ, hoặc trâu, hoặc ngựa. Phàm phu không trí huệ thấy đó thời cho rằng có tướng nam nữ v.v… Thợ vẽ rõ biết không có nam nữ. Cũng vậy vì có niệm huệ nên đại Bồ-tát đối với tướng sai khác của các pháp thấy là một tướng, trọn chẳng thấy tướng chúng sanh.
Đại Bồ-tát tu kinh Đại Niết-bàn vì khéo quan sát pháp tướng nên lúc thấy nam nữ đoan chánh trọn chẳng sanh lòng tham trước.
Chúng sanh thấy tất cả mọi người là thật nên sanh ra phiền não. Bồ-tát có niệm huệ là biết các pháp không có tính nhất định, như huyễn nên không tham đắm. Không chấp trước tướng chúng sanh là thật nhưng giúp ích họ được những gì thì cứ làm.
Thấy một tướng tức là không tướng, chỉ là tướng không cố định, nên không thấy thật có chúng sanh. Khéo quán sát pháp tướng là nhìn vào mọi hình thức biết là duyên hợp như huyễn. Vì quán sát luôn như vậy nên dù gặp người nam đẹp người nữ đẹp cũng không bị đắm trước, biết đó là ảo mộng huyễn hóa có gì đâu mà mê? Vì vậy nên dứt được tâm tham đắm.
Đại Bồ-tát biết ngũ dục không có thật vui, chẳng tạm dừng, như chó gặm xương khô, như người cầm lửa đi ngược gió, như rắn độc đựng trong trấp, như trong chiêm bao lượm được trái cây trên đường, như khối thịt bầy chim đuổi theo, như bóng nước, như dấu vẽ trong nước, như dệt hết đường canh chỉ, như người tù dắt ra chợ, như vật mượn tạm. Bồ-tát quan sát ngũ dục nhiều lỗi ác như vậy.
Đại Bồ-tát quan sát chúng sanh vì sắc, hương, vị, xúc, nên từ vô lượng kiếp đến nay, chịu nhiều khổ não. Trong một kiếp, mỗi chúng sanh, xương nơi thân chất như thành Vương Xá, như núi Tỳ-phú-la. Uống sữa mẹ nhiều như nước trong bốn biển. Máu trong thân chảy ra nhiều hơn nước bốn biển. Nước mắt khóc người chết của cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, nhiều hơn nước bốn biển. Dùng tất cả cỏ cây trên mặt đất làm thẻ dài hơn bốn tấc để đếm cha mẹ cũng không thể hết. Từ vô lượng kiếp, hoặc ở địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ chẳng thể tính đếm. Vò quả đất này bằng trái táo còn có thể dễ hết, nhưng sanh tử rất khó hết.
Đại Bồ-tát quán sát tất cả chúng sanh vì ngũ dục mà chịu vô lượng sự khổ như vậy, do đây Bồ-tát chẳng mất niệm huệ.
Như chó gặm xương khô đâu có ăn gì được chỉ là nhai hưởng chút mùi thôi, dục của thế gian cũng vậy.
Như người cầm lửa đi ngược gió bị phỏng tay không có lợi gì hết, chỉ là tai họa.
Như rắn độc đựng trong trấp. Như trong rương có bốn năm con rắn hổ, đưa tay vô thì nó mổ.
Như trong chiêm bao lượm được trái cây trên đường. Trong chiêm bao lượm được trái xoài hay trái ổi ngon quá, giật mình thức dậy thành không.
Như khối thịt bầy chim đuổi theo. Như một miếng thịt thối, bao nhiêu con vật đuổi theo để giành.
Như bóng nước, như lằn vẽ trong nước, như dệt hết đường canh chỉ, tức là khi dệt tới cùng rồi thì không còn lối để dệt nữa.
Như người tù bị dắt ra chợ, không thấy vui chỉ thấy càng tủi nhục thôi.
Như vật mượn tạm của người khác rồi sau đó cũng bị người ta đòi về, không có cái gì thật. Bởi Bồ-tát luôn thấy ngũ dục có những lỗi, tạm bợ nên các ngài không mến không thích.
Những hình ảnh trên mô tả sự sanh tử không thể tính đếm được của chúng sanh chỉ vì chạy theo sáu trần mà chịu mang nhiều thân xác, chịu nhiều sanh ly tử biệt, chưa kể chịu bao nhiêu thống khổ trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Vì vậy mà Bồ-tát biết lúc nào phải biết quán sát nguy hiểm của ngũ dục, chẳng mất niệm huệ là nhớ các pháp như huyễn không thật để không bị nhiễm ngũ dục như chúng sanh.
Ví như trong đời có nhóm người đông đầy chật hai mươi lăm dặm. Vua truyền một quan chức cầm một chén dầu đầy đi qua giữa đám đông ấy mà không được làm đổ, nếu đổ rơi một giọt sẽ bị tội chết. Vua lại sai một người cầm gươm theo sau nếu thấy dầu đổ thời chém. Vì sợ chết, nên quan chức ấy hết lòng gìn giữ chén dầu, đi qua khỏi đám đông chẳng làm đổ một giọt.
Cũng vậy, đại Bồ-tát ở trong sanh tử chẳng mất niệm huệ, nên dầu thấy ngũ dục mà tâm không tham trước. Lúc bấy giờ ngũ căn của Bồ-tát thanh tịnh, vì ngũ căn thanh tịnh nên giữ gìn giới căn đầy đủ.
Tất cả phàm phu ngũ căn chẳng thanh tịnh chẳng khéo giữ gìn nên gọi là căn lậu. Bồ-tát đã dứt hẳn nên là vô lậu. Như Lai đã dứt hẳn cội gốc nên chẳng phải là lậu.
Cũng ví dụ đó nhưng kinh A-hàm lấy chén dầu dụ cho pháp Tứ niệm xứ, nghĩa là phải giữ pháp tu của mình không dám sai hở như giữ chén dầu. Nếu đổ một chút thì quỷ vô thường đã chực sẵn, nghĩa là sơ hở phút giây nào thì cái chết đến với mình phút giây đó. Bồ-tát học Đại thừa, học Niết-bàn lúc nào cũng phải dùng trí tuệ Bát-nhã, gìn giữ chánh niệm hay niệm huệ của mình chăm chăm, như gìn giữ chén dầu không dám làm đổ, vì đổ thì chết. Phải ráng giữ như vậy thì không bị sanh tử lôi.
Không nhiễm ngũ dục thì năm căn thanh tịnh, giới đức đầy đủ. Tuy giới có rất nhiều, nhưng không nhiễm ngũ dục thì mình đã giữ đủ hết giới. Sở dĩ chúng ta nhiễm ngũ dục nên Phật mới chế nhiều giới.
Căn lậu tức là còn luân hồi. Bồ-tát đã dứt hẳn nên các ngài vô lậu, không còn luân hồi nữa.
Này thiện nam tử! Lại có ly lậu. Đại Bồ-tát vì muốn được quả Phật vô thượng cam lồ nên lìa các ác lậu.
Nếu có thể tu hành kinh Đại Niết-bàn, biên chép, thọ trì, đọc tụng, giải thuyết, tư duy ý nghĩa, đây gọi là xa lìa.
Tức là xa lìa các ác lậu.
Này thiện nam tử! Ta chẳng thấy trong mười hai bộ kinh có kinh nào lìa được các ác lậu như kinh Đại thừa đại Niết-bàn này.
Ví như ông thầy giỏi dạy các đồ đệ, trong hàng đồ đệ người thuận theo lời thầy dạy thời chẳng gây tạo việc ác.
Cũng vậy đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thời tâm chẳng gây tạo nghiệp ác.
Ví như trong đời có người giỏi chú thuật, nếu ai một lần nghe được chú này trong bảy năm chẳng bị trúng độc, rắn độc chẳng cắn được, nếu có người tụng thuộc chú này thời trọn đời không có những sự họa hại. Cũng vậy, nếu có chúng sanh một lần nghe kinh Đại Niết-bàn này thời trọn bảy kiếp chẳng bị đọa ác đạo. Nếu có người biên chép, đọc tụng, giải thuyết, tư duy ý nghĩa, thời quyết định thấy Phật tánh đặng vô thượng Bồ-đề.
Kinh Đại Niết-bàn này có vô lượng công đức như vậy. Nếu người nào biên chép, đọc tụng, giải thuyết, tư duy ý nghĩa của kinh này, thời thật là đệ tử Phật, khéo lãnh thọ giáo pháp của Phật, là người mà Phật thường thấy, thường nhớ, là người biết rõ Phật chẳng nhập Niết-bàn. Người này ở tại chỗ nào thời Phật cũng ở trong đó.
Ác lậu tức là các ác làm chúng ta luân hồi.
Nếu biên chép, đọc tụng, giải nói, tư duy kinh này rồi, chúng ta sẽ thấy rõ Phật tánh, pháp thân không có sanh diệt và biết rõ Phật không nhập Niết-bàn, Phật sẽ thường thấy, thường nhớ mình, chúng ta ở đâu thì Phật cũng ở ngay đó. Vì chúng ta nhận được Phật tánh nên Phật luôn ở nơi mình.
Thường nhận sự cúng dường của người này, Ưu-bà-tắc, hoặc hiện làm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà tắc, Ưu-bà-di, Bà-la-môn, Phạm chí, người nghèo khổ ăn xin. Người này hoặc ở trong chiêm bao thấy tượng Phật, hoặc thấy trời, thấy Sa-môn, thánh vương, quốc vương, sư tử vương, hoa sen, hoa ưu đàm, hoặc thấy núi cao, biển lớn, mặt trời, mặt trăng, hoặc thấy bạch tượng, bạch mã, hoặc thấy cha mẹ, đặng bông, đặng trái, vàng bạc, lưu ly, pha lê những châu báu, thấy sữa, lạc, tô, đề hồ v.v.. nên biết chính là Như Lai nhận sự cúng dường. Người này sau khi tỉnh giấc vui mừng liền đặng những đồ vật cần dùng, tâm chẳng nghĩ điều ác, thích thật hành điều lành.
Này thiện nam tử! Kinh Đại Niết-bàn có vô lượng vô số công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, nay ông phải tin lấy lời của Phật.
Nếu người nào muốn thấy Phật, muốn cung kính Phật, muốn đồng pháp tánh mà thấy Phật, muốn đặng không định, muốn thấy thật tướng, muốn tu tập Thủ-lăng-nghiêm định, Sư tử vương định, muốn phá tám ma: phiền não, ngũ ấm, tử ma, thiên ma, vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, muốn đặng hưởng vui trong loài người hay trên trời, thời phải qua gần gũi học hỏi, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán người thọ trì đọc tụng, biên chép, giải thuyết, tư duy ý nghĩa kinh Đại Niết-bàn, rửa tay chân cho người đó, trải giường chiếu cung cấp đầy đủ tất cả đồ cần dùng. Nếu người đó từ xa đến, phải ra rước ngoài mười do-diên. Vì tôn trọng kinh Đại Niết-bàn nên đem tất cả vật nhu dụng dâng cúng cho người đó. Nếu không có, phải tự bán thân mình để mua sắm. Vì kinh này khó được gặp hơn hoa ưu-đàm.
Những người đối với kinh Đại Niết-bàn biết suy nghĩ, đọc tụng, giải thuyết và tư duy đúng ý nghĩa, người đó sẽ được phước đức như vậy.
Kinh Đại Niết-bàn rất quý báu nên người nào y theo kinh tu, y theo kinh mà giáo hóa người khác thì công đức vô lượng vô biên. Vì vậy nên người biết thành kính hướng về kinh Đại Niết-bàn thì phải biết quý trọng người chuyên tu, người chuyên truyền bá kinh Đại Niết-bàn. Phật muốn chúng ta thấy rõ giá trị cụ thể đó nên ngài dẫn sự tích thuở xưa của ngài.
Này thiện nam tử! Ta nhớ thuở quá khứ vô lượng vô biên na-do-tha kiếp, thuở đó có cõi nước hiệu là Ta-bà, Phật hiệu là Thích-ca-mâu-ni đầy đủ mười hiệu, vì hàng đại chúng tuyên nói kinh Đại Niết-bàn. Thuở đó ta được nghe kinh này nơi các người bạn. Lòng ta vui mừng muốn sắm đồ cúng dường, nhưng vì quá nghèo thiếu nên không có một vật chi đáng giá. Ta tự đem thân đi bán, nhưng vì bạc phước nên chẳng ai chịu mua. Buồn tủi trở về nhà, giữa đường ta gặp một người, bèn đem tâm sự bày tỏ. Người ấy bảo ta: Nếu ông bằng lòng làm theo nhu cầu của người thời người sẽ mua với giá năm đồng tiền vàng. Người ấy có bệnh lạ y sĩ chế thuốc mỗi ngày cần có ba lượng thịt người. Ta vui mừng nhận lời yêu cầu. Người đó trả tiền trước, sau bảy ngày ta sẽ đến nhà để theo đúng nhu cầu của người. Người ấy bằng lòng nhưng chỉ cho một ngày vì bệnh người phải gấp dùng thuốc.
Sau khi lãnh tiền ta liền đến chỗ Phật đảnh lễ chân Phật, rồi đem tất cả năm đồng tiền vàng dâng lên Phật. Cúng dường xong, ta chí thành lóng nghe Phật giảng kinh Đại Niết-bàn. Lúc đó tâm trí ta quá tối, dầu đặng nghe kinh nhưng chỉ thọ trì được một bài kệ.
Thuở xưa có đức Phật Thích-ca cũng ở cõi Ta-bà nói kinh Đại Niết-bàn. Chính vì muốn nghe kinh Đại Niết-bàn, nên ngài đã bán thân được mấy đồng tiền vàng đến cúng dường Phật và chỉ nghe nhớ được bốn câu kệ.
Như Lai chứng Niết-bàn.
Dứt hẳn nơi sanh tử.
Nếu người hết lòng nghe.
Thường được vui vô lượng.
Sau khi thọ trì bài kệ trên đây rồi, ta liền đến nhà người bệnh. Nhờ ta niệm tưởng bài kệ, nên dầu mỗi ngày cắt lấy ba lượng thịt nơi thân, nhưng ta chẳng lấy làm đau khổ lắm. Trọn một tháng, mỗi ngày ta cắt lấy thịt cho người làm thuốc, do đó bệnh người được lành mà thân của ta cũng được bình phục, ta liền phát tâm vô thượng Bồ-đề, nguyện đời vị lai đặng thành Phật hiệu Thích-ca-mâu-ni.
Này thiện nam tử! Do công đức của một bài kệ ấy làm cho ta ngày nay được thành Phật, ở trong đại chúng tuyên nói kinh Đại Niết-bàn này.
Chỉ nghe có bốn câu kệ mà ngài đã cắt thịt hòa với thuốc đem cho người uống, đến khi người ta hết bệnh thì ngài được bình phục như xưa. Chính công đức hy sinh thân mạng để cúng dường kinh Đại Niết-bàn mà sau này ngài cũng được thành Phật hiệu là Thích-ca-mâu-ni và cũng đem kinh Đại Niết-bàn để truyền bá. Như vậy thấy rõ nhân với quả không khác nhau.
Này thiện nam tử! Kinh Đại Niết-bàn thành tựu vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, đây là tạng bí mật rất sâu của chư Phật. Do nghĩa này nên người thọ trì dứt lìa được những ác lậu. Chính là voi ác, ngựa ác, trâu ác, chó ác, rắn độc, chỗ đất nhiều gai, gộp cao, bờ biển, nước xoáy chảy xiết, người ác, nước ác, thành ác, nhà ác, bạn ác v.v…
Những nơi đó nếu là nhân ác lậu thời Bồ-tát liền xa lìa, nếu chẳng phải nhân ác lậu thời Bồ-tát chẳng xa lìa. Nếu thêm hữu lậu thời xa lìa, nếu chẳng thêm thời chẳng xa lìa. Nếu là pháp ác thời bèn xa lìa, nếu có thể làm lành thời chẳng xa lìa. Xa lìa như thế nào? Chẳng cầm dao gậy, thường dùng trí huệ phương tiện mà xa lìa đó, đây gọi là chánh huệ viễn ly, vì muốn thêm lớn pháp lành thời phải xa lìa pháp ác.
Thọ trì kinh này sẽ xa lìa được những ác lậu, tâm được an ổn. Như mình tìm một chỗ để tu hành cho yên ổn, nhưng lại tìm đến những nơi tai nạn dồn dập, những chuyện phiền toái thì tất nhiên mình ở không yên, tu không được. Đó gọi là chỗ ác. Như vậy cần phải có chỗ thuận duyên thuận cảnh, sự tu hành không bị chướng ngại thì việc tu mới tiến. Chỗ ác lậu làm mình lo sợ, tu không tiến. Nếu tu không tiến thì sanh tử luân hồi. Những vị Bồ-tát thường xa lìa những ác này.
Đại Bồ-tát quán sát thân tướng của mình, xem như ghẻ, như nhọt, như oán thù, như tên độc, là chỗ khổ, là cội gốc của tất cả thiện ác.
Thân này dầu bất tịnh như vậy, Bồ-tát vẫn săn sóc nuôi dưỡng, chẳng phải vì tham thân, chính là vì pháp lành; chẳng phải vì sanh tử, chính là vì Niết-bàn; vì thường, lạc, ngã, tịnh; vì đạo Bồ-đề; vì Nhất thừa; vì ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vì Pháp vương.
Bồ-tát nhìn thẳng vào thân xem nó như ghẻ nhọt. Nếu người nào ngồi lắng lại thì thấy cái thân này thật là ghẻ, thật là nhọt. Ví dụ mỗi bữa đúng mười hai giờ trưa ăn cơm, nhưng bữa nay đến một giờ chiều vẫn chưa ăn thì thấy xót xa, bào bọt trong bụng chịu không nổi, không khác nào mụt nhọt chảy mủ nên đau nhức khó chịu. Còn khi thân này bài tiết ra những chất hôi thối thì cũng như ghẻ nhọt bài tiết mủ máu, là chỗ làm mình khổ não.
Thân tứ đại bất hòa, đối nghịch nhau làm cho mình đau lên đau xuống, hiếm có ai nói tôi không bệnh. Không bệnh này thì cũng bệnh kia, hoặc bệnh ngầm ngầm chưa phát, hoặc bệnh đã phát. Vì vậy nên nói như kẻ oán thù. Như tên độc là tên độc cắm vào mình làm lúc nào cũng nhức nhối. Thân là cội gốc của thiện và ác.
Thân này dầu bất tịnh như vậy, Bồ-tát vẫn săn sóc nuôi dưỡng. Săn sóc nuôi dưỡng chẳng phải vì tham thân, mà lợi dụng nó để tiến tu theo chánh pháp, mượn nó để đưa mình tới Niết-bàn.
Đại Bồ-tát thường phải giữ gìn thân thể cho được an toàn để biên chép, thọ trì, đọc tụng, giải thuyết, tư duy ý nghĩa kinh Đại Niết-bàn này. Vì thế nên Bồ-tát phải khéo giữ gìn thân thể. Do nghĩa này nên Bồ-tát đặng xa lìa tất cả ác lậu.
Như người muốn qua sông phải khéo giữ gìn thuyền bè. Người đi đường xa khéo giữ gìn ngựa hay. Như nhà trồng tỉa khéo giữ gìn phân tro. Như vì chữa độc nên khéo giữ gìn rắn độc. Như người vì của cải nên nuôi dưỡng Chiên-đà-la. Như vì muốn phá giặc nên nuôi dưỡng dũng sĩ. Như người lạnh giữ gìn ngọn lửa. Như người bệnh hủi tìm cầu thuốc độc. Cũng vậy, đại Bồ-tát dầu thấy thân này đầy vô lượng nhớp nhơ, nhưng vì muốn thọ trì kinh Đại Niết-bàn nên vẫn giữ gìn nuôi dưỡng.
Khi có quan niệm chân chính thì tu chân chính, nếu quan niệm sai lầm thì tu sai lầm. Nếu xem thân này là nguồn gốc hạnh phúc, thì còn sống là còn vui vẻ, nếu mất đi thì sẽ đau khổ, nên kiếm đủ cách để bổ dưỡng nó. Đó là quan niệm sai lầm của hàng phàm phu. Hàng Nhị thừa khi quán bất tịnh, nhiều vị thấy thân như nhớp quá muốn tự tử. Như vậy cũng sai lầm.
Chỉ Bồ-tát có quan niệm đúng đắn, tuy biết thân này như ghẻ nhọt, như oán thù, nhưng không hủy hoại mà lợi dụng nó để tiến tới Niết-bàn đạt được quả Bồ-đề. Chúng ta cần biết rõ và nuôi dưỡng quan niệm đúng đắn để sống đúng với tư cách của người tu theo tinh thần Đại thừa. Biết thân này là gốc của khổ, nhưng lợi dụng nó để được Bồ-đề, để đến Niết-bàn, không hủy hoại thân mà cũng không cưng yêu thân, như vậy mới là Trung đạo.
Phật dùng những ví dụ: Thuyền bè không quan trọng nhưng vì cần qua sông nên phải giữ thuyền bè. Muốn đi đường xa thì buộc lòng phải nuôi ngựa ăn uống cho no đủ. Như nhà trồng tỉa khéo giữ gìn phân tro vì muốn có trái bắp lớn, trái dưa tốt. Như khéo giữ gìn rắn độc để lấy nọc độc chữa những thứ độc khác. Như người vì của cải nên nuôi dưỡng Chiên-đà-la, là hạng nô lệ bị khinh bỉ, hèn hạ nhất.
Đại Bồ-tát xem voi ác cùng bạn ác đồng nhau không khác, vì đều làm hại thân. Đối với voi ác, Bồ-tát chẳng sợ bằng sợ bạn ác. Vì voi ác chỉ hại thân mà chẳng hại được tâm. Bạn ác thời hại cả hai thứ thân và tâm. Voi ác chỉ làm hại một thân. Bạn ác có thể làm hại vô lượng thân lành vô lượng tâm lành. Voi ác chỉ có thể phá hoại thân hội nhơ. Bạn ác có thể phá hoại tịnh thân cùng tịnh tâm. Voi ác chỉ có thể làm hại nhục thân. Bạn ác làm hại đến pháp thân. Bị voi ác giết chẳng sa đến ba đường ác. Bị bạn ác giết tất sa đến ba đường ác. Voi ác chỉ là kẻ oán thù của thân. Bạn ác là kẻ oán thù của pháp lành. Do đây nên Bồ-tát thường phải xa lìa bạn ác.
Những ác lậu như vậy, phàm phu chẳng xa lìa nên sanh ác lậu, Bồ-tát xa lìa thời chẳng sanh ác lậu. Bồ-tát còn không có ác lậu như vậy huống là Như Lai.
Bồ-tát nói rằng voi ác cùng bạn ác đồng nhau không khác. Nhưng bạn ác hại hơn voi ác. Vì voi ác chỉ phá hoại được thân thể, còn bạn ác có thể phá hoại cả pháp thân, làm cho mình phải đời đời luân hồi, nên xa lìa bạn ác hơn là xa lìa voi ác. Chúng ta sợ rắn độc vì nó có thể cắn được mình. Nhưng những người tà kiến sai lầm rủ rê mình vào những chỗ hư hèn lại không sợ, rốt cuộc bị nhiễm những cái dở. Bồ-tát quan niệm những thú dữ tuy hại được thân, nhưng không hại được tâm mình. Bạn ác có thể làm hại cả tâm mình. Thân bị hại không thể đọa địa ngục mà tâm bị hại thành xấu xa, đó là gốc của địa ngục khổ hơn.
Bồ-tát còn không có ác lậu như vậy huống là Như Lai.
Thế nào là gần gũi ác lậu? Tất cả phàm phu lãnh lấy y phục, vật thực, đồ nằm, thuốc thang, họ vì sự đòi hỏi của thân tâm mà tìm cầu những vật như vậy, nên gây tạo nhiều tội ác, chẳng biết là lỗi lầm, phải luân hồi trong ba đường ác, do đây nên gọi là ác lậu. Đại Bồ-tát thấy những lỗi như vậy thời bèn xa lìa.
Lúc cầu y phục Bồ-tát bèn nhận lấy. Chẳng phải vì thân mục đích chỉ vì pháp lành; chẳng kiêu mạn, thường khiêm tốn, chẳng vì phục sức tốt đẹp, chỉ vì hổ thẹn, để che lạnh, che nắng, che gió mưa, ngăn muỗi mòng.
Y phục, vật thực, đồ nằm và thuốc thang là bốn nhu cầu trong cuộc sống. Phàm phu vì những nhu cầu này mà làm nhiều tội ác, không biết lỗi lầm nên phải luân hồi, gọi là ác lậu. Còn Bồ-tát thì thấy những lỗi trên bèn xa lìa.
Bồ-tát nhận y phục không phải vì thân mà vì pháp lành. Nếu vì thân thì không phải vì pháp lành. Mua vải cho tốt và lựa người may khéo, như vậy là vì pháp lành hay vì thân? Nếu không học thì chúng ta nhiều khi bị lệch mà không thấy.
Mặc y phục lành lẽ cũng không kiêu mạn, luôn luôn khiêm tốn. Chúng ta mặc áo không phải để cho người ta khen, mà mặc vì hổ thẹn và để che lạnh nóng, gió mưa, ngăn muỗi mòng chứ không phải mặc cho tốt. Nếu nhận cúng mà cho cái này mặc coi được, cái kia coi không được… như vậy thì đã lệch rồi.
Bồ-tát dầu lãnh thọ vật thực, nhưng lòng chẳng tham đắm, chẳng vì thân chỉ vì chánh pháp, chẳng vì da thịt chỉ vì chúng sanh, để trị bệnh đói, dầu dặng món ăn ngon cũng vẫn không tham đắm. Bồ-tát lúc nhận lấy phòng nhà cũng như vậy, chẳng để quan niệm tham đắm ở nơi lòng, vì che mưa gió, vì Bồ-đề mà nhận lấy phòng nhà.
Lúc cầu thuốc thang lòng Bồ-tát không tham đắm, chẳng phải vì mạng sống chỉ vì chánh pháp, vì pháp thân huệ mạng.
Ăn chẳng phải vì cho thân bổ khỏe mà cốt là vì chánh pháp, ăn để sống còn mà tiến tu, để làm lợi ích chúng sanh. Ngon cũng ăn nhưng không tham đắm, dở cũng ăn mà không phiền muộn, đó là quan niệm của Bồ-tát. Người cúng dường và người thọ cúng dường thường có hai bệnh. Phật tử mời thầy về nhà cúng dường bữa cơm, dĩ nhiên họ muốn nấu ngon cho thầy ăn. Khi ăn xong họ hay hỏi, thưa Thầy ăn có ngon không? Nếu nói ngon là mình thích, lần sau họ sẽ nấu cho mình ăn nữa, nếu nói không ngon thì sợ họ buồn. Có khi họ không đặt câu hỏi, mà thầy ăn rồi trầm trồ món này ngon quá, món kia ngon quá. Không nên. Vì trầm trồ ngon thì đã tham đắm rồi, cho nên phải dè dặt.
Thấy nhà nào thuận tiện cho chuyện tu hành thì mình nhận. Vì đạo lý chứ không phải vì tốt xấu. Vì che mưa che gió để tu hành tiến đến đạo quả Bồ-đề cho nên nhận lấy phòng nhà.
Khi cần có thuốc thang trị bệnh, Bồ-tát không tham đắm thuốc, cũng chẳng phải vì mạng sống. Không phải nghe nói thuốc này trường sanh bất tử rồi tham quá, uống để được sống hoài; mà chính uống thuốc là chỉ vì chánh pháp, vì pháp thân tuệ mạng. Uống thuốc để sống, để tiến tu theo đường lối của Phật Bồ-tát thì đó là vì chánh pháp. Vì pháp thân tuệ mạng là thế nào? Nếu sống mình tiến tu dẹp trừ được phiền não thì pháp thân hiện bày, nếu không dẹp trừ được phiền não thì pháp thân làm sao hiện? Tuệ mạng cũng vậy, nhờ thuốc thang để mạnh khỏe tiến tu cho trí tuệ càng ngày càng tăng trưởng. Trí tuệ đó là mạng sống vĩnh viễn sau này. Nếu đời này trí tuệ chưa tăng trưởng mà chết đi thì không nuôi lớn được tuệ mạng, cho nên uống thuốc không phải vì mạng sống mà chỉ vì chánh pháp, vì pháp thân tuệ mạng.
Như người bị ung nhọt, dùng thuốc đắp lên lấy vải bó đó, như vậy là chỉ vì để rút máu mủ cho bệnh được lành. Vì tránh gió độc, nên ở trong nhà kín. Cũng vậy, đại Bồ-tát xem thân thể là ung nhọt nên lấy y phục che đậy, vì cửu khiếu máu mủ mà tìm cầu món ăn vật uống, vì mưa gió độc nên nhận lấy phòng nhà, vì bốn độc phát bệnh nên tìm cầu thuốc thang. Vì đạo Bồ-đề mà Bồ-tát lãnh lấy bốn thứ cúng dường, chẳng vì mạng sống.
Thân như ung nhọt, sợ ruồi muỗi đậu sanh giòi tửa nên phải lấy y phục che đậy. Cửu khiếu là chín lỗ: mũi, tai, mắt, miệng… Nếu thiếu ăn nó sẽ khô kiệt, hoặc sẽ không còn đủ nuôi dưỡng ung nhọt này cho nên phải ráng mà ăn. Vì mưa gió nhận phòng nhà, vì bệnh mà tìm thuốc.
Chúng ta ráng tập, khi nào thọ những cúng dường không phải muốn sống đến tám chín mươi tuổi, mà chính vì muốn sống để tu hành cho đạt được đạo quả Bồ-đề.
Bồ-tát suy nghĩ như vầy: Nếu tôi chẳng nhận lấy bốn thứ cúng dường này, thời thân thể phải chết mất, chẳng thể nhẫn thọ khổ nhọc; nếu không kham sự khổ nhọc thời không thể tu tập pháp lành; nếu kham sự khổ nhọc thời có thể tu tập vô lượng pháp lành; nếu tôi chẳng kham nhẫn các sự khổ, thời sẽ sanh lòng giận hờn đối với việc nghịch trái, và sẽ sanh lòng tham đắm đối với cảnh thuận vui; nếu tìm cầu sự vui mà chẳng đặng thời sanh lớn vô minh mê muội.
Do đây nên phàm phu sanh những ác lậu đối với bốn thứ cần dùng. Bồ-tát vì có thể quan sát như vậy nên chẳng sanh những ác lậu, do đây nên gọi là vô lậu. Bồ-tát còn vô lậu như vậy huống là Như Lai. Vì thế nên Như Lai chẳng gọi là hữu lậu.
Chúng ta nhận bốn thứ cúng dường để cho thân thể này sống còn để nhận chịu những khổ nhọc mà tiến tu. Nếu không nhẫn nổi sự khổ nhọc thì pháp lành không có, gặp thuận thì sanh đắm, gặp nghịch thì sanh hờn… Sanh tham sân si thì sự tu hành không tới nơi tới chốn được.
Tu đúng tinh thần thiền thì đi đứng nằm ngồi đều tu được, không phải ngồi kiết già mới tu. Nhưng vào Thiền viện phải ngồi kiết già, đau đến méo mặt mà cũng ráng ngồi. Ngồi như vậy là để tập chịu đựng, những cái khó khổ mà nhẫn nổi thì mọi việc khác tới, mình có thể thắng được dễ dàng. Nếu nuôi dưỡng lười biếng thì dễ hư. Chịu cực chịu khó giúp cho mình trở thành con người có ý chí mạnh mẽ, gặp khó cũng vươn lên được, gặp vừa ý cũng không đắm mến, đó là khéo léo.
Phàm phu sanh ác lậu vì ham thích bốn thứ cần dùng là y phục, uống ăn, đồ nằm, thuốc thang nên chìm đắm trong sanh tử. Bồ-tát bởi khéo nhận xét đúng nên không vì bốn thứ đó mà phải chìm đắm trong sanh tử. Trái lại, nhờ chúng lại được đi tới chỗ giải thoát thanh tịnh, cho nên nói do đây được vô lậu. Bồ-tát còn vô lậu huống là Như Lai, vì thế Như Lai chẳng gọi là hữu lậu.
Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu dầu khéo giữ gìn thân tâm nhưng vẫn còn sanh ba thứ ác giác, do cớ này nên dầu phục trừ phiền não đặng sanh cõi trời Phi phi tưởng, nhưng vẫn trở lại đọa trong ba đường dữ. Ví như có người đi qua biển lớn, sắp đến bờ mà bị chết đuối. Phàm phu trên đây cũng vậy, sắp ra khỏi ba cõi trở lại đọa nơi tam đồ. Đó là do vì không có thiện giác, chính là không có sáu chánh niệm.
Ba thứ ác giác là gì? Ác giác là quán sát, xem xét, hiểu biết ác. Hiểu biết cộng với tham với sân với si là ba cái hiểu biết ác, làm cho người ta dù cố gắng tu hành được tới cõi trời Phi phi tưởng, rồi cũng phải đọa trở lại trong ba đường dữ chưa ra khỏi vòng sanh tử.
Chúng ta phải có chánh niệm, phải nhận xét cho đúng đắn đối với thân, với đồ ăn mặc, thuốc thang… đừng có lầm lẫn. Mỗi bữa ăn cơm, vị Duy-na xướng: “Phật chế Tỳ-kheo thực tồn ngũ quán, tán tâm tạp thoại tín thí nan tiêu, đại chúng văn khánh thinh các chánh niệm.” Chánh niệm ở đây là “thực tồn ngũ quán”. Trong khi ăn phải gìn giữ năm điều quán xét, phối hợp với chỗ này, nghĩa là khi thọ dụng bốn thứ cúng dường, chúng ta giữ cho đúng quan niệm của Bồ-tát thì gọi là chánh quán, chánh niệm. Nếu không sẽ bị ác quán hay là ác giác.
Phàm phu tâm lành kém yếu, tâm ác lại lẫy lừng. Vì tâm lành kém nên trí huệ cũng kém. Vì trí huệ kém nên thêm lớn những ác lậu.
Bồ-tát nhờ huệ nhãn thanh tịnh thấy lỗi của ba thứ giác quán, biết ba thứ giác quán này có những họa hoạn thường làm oán thù đối với ba thừa. Do ba thứ giác quán này làm cho vô lượng phàm phu chẳng thấy Phật tánh, trong vô lượng kiếp điên đảo cho rằng Phật Thế Tôn không có thường, lạc và ngã, chỉ có tịnh thôi; lại cho rằng Như Lai rốt ráo nhập Niết-bàn. Tất cả chúng sanh là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, mà điên đảo cho là có thường, lạc, ngã, tịnh. Thật không có tam thừa mà điên đảo cho là thật có tam thừa. Đạo Nhất thừa chân thật mà điên đảo cho là không có Nhất thừa.
Ba thứ giác quán này thường bị chư Phật và Bồ-tát quở trách. Ba thứ giác quán này thường hại nơi mình cũng hại đến kẻ khác. Có ba thứ giác quán này thời sanh ra tất cả điều ác. Ba thứ giác quán này chính là ba sợi dây trói liền chúng sanh trong sanh tử vô biên.
Bồ-tát thường quán sát ba thứ giác quán này. Hoặc có lúc vì nhân duyên dáng lẽ phải sanh dục giác Bồ-tát yên lặng chẳng lãnh thọ. Ví như người xinh đẹp sạch sẽ chẳng nhận lãnh tất cả phẩn nhơ, như hoàn sắt nóng không ai cầm lấy, như giòng Bà-la-môn chẳng nhận thịt bò; như người no bụng chẳng nhận đồ ăn dở. Như vua Chuyển luân chẳng ngồi chung một giường với Chiên-đà-la. Bồ tát khinh ghét ba thứ ác giác chẳng nhận chẳng ham.
Đó là ba giác quán khiến mình thấy lộn ngược, không biết sự thật. Nếu còn có những nghĩ niệm do tham sân si lôi cuốn, đó là gốc của luân hồi. Chúng ta ai cũng còn những tập lậu của đời hiện tại hoặc quá khứ, nên tuy tu chứ thỉnh thoảng những niệm, những giác quán ác vẫn nảy sanh. Khi nó nảy sanh phải nhớ đừng chấp nhận, nếu theo là đi con đường luân hồi.
Bồ-tát thường quán sát ba thứ giác quán này. Thứ nhất là giác quán tham, hoặc có lúc vì nhân duyên đáng lẽ phải sanh dục giác, Bồ-tát yên lặng chẳng lãnh thọ, tức là xả bỏ, như người xinh đẹp chẳng nhận những món đồ dơ. Như không cầm hoàn sắt nóng, như Bà-la-môn không nhận thịt bò… Còn nếu nhận thì sao? Như người mặc áo trắng mà nhận phân dơ, đó là chịu nhơ nhớp. Khi tham có suy nghĩ theo cái tham, ví dụ suy nghĩ món này ngon, thứ kia đẹp, tăng thêm ưa thích thì gọi là giác quán tham
Thứ hai là giác quán sân. Gặp điều trái ý, giác quán sân dấy lên: cái này đáng giận, cái này là họ nói bậy!… Bởi chúng ta cho họ bậy, họ xấu nên mới giận, tức bị ác giác quán sân xâm chiếm. Như thế chẳng khác nào kẻ ăn mặc sạch sẽ mà nhận lấy những đồ dơ để bôi vô mình. Có người nói “Những điều đáng giận như vậy, không giận sao được!” Không có cái gì là đáng giận hết, chỉ tại chúng ta nhẫn không được mà thôi. Như bị chửi thật đáng giận mà Phật vẫn không giận chút nào. Tại chúng ta nhẫn không được, cứ ôm trong bụng hoài, nói đáng giận nên cứ giận, tức là đã chấp nhận, đã nuôi dưỡng ác giác quán sân. Khi có những ác giác quán về sân thì phải xả bỏ đừng dính mắc. Điều này không phải dễ, vì là tập quán nhiều đời nhiều kiếp. Chúng ta không phải thánh nhân, nghe xong lời tuy trôi mất mà bóng dáng nó vẫn còn lảng vảng. Dù không nổi giận, không tức tối, không oán thù, nhưng nó vẫn còn lảng vảng, chưa bỏ sạch được.
Phật dạy thêm một phương tiện, biết giận là xấu, là tự chuốc luân hồi. Thấy xa hơn nữa, mình phải ráng tiến hơn, là người thì ai cũng có tham sân si. Bởi có sẵn nên động vào thì nó nổi lên. Nhờ dùng trí quán nó tạm êm, nghe người ta chửi, trong bụng cũng hơi khó chịu, nhưng mình dằn được, gọi là không giận. Dằn được sau này chúng ta bỏ mau, xả được, đó là tiến rồi.
Cũng như vậy, Bồ-tát thường suy nghĩ: Chúng sanh biết rằng ta là ruộng phước tốt, ta đâu nên nhận pháp ác ấy, nếu ta nhận pháp ác thời chẳng đáng là ruộng phước của chúng sanh. Dầu ta chẳng tự nói mình là ruộng phước tốt, nhưng chúng sanh thấy hình tướng bèn nói ta là ruộng phước. Nếu ta sanh ác giác như vậy thời là khi dối tất cả chúng sanh. Thuở quá khứ, vì khi dối nên trong vô lượng kiếp đọa ba đường ác trôi lăn trong sanh tử. Nếu ta có ác tâm nhận của người cúng thí, tất cả thiên nhân và ngũ thông tiên đều sẽ rõ biết, sẽ bị quở trách.
Chúng sanh thấy Bồ-tát hoặc Tỳ-kheo tu hành là ruộng phước của mình, nên họ mới cúng dường, mới gieo phước. Nếu chúng ta ôm lòng giận, ôm lòng tham thì đâu phải là ruộng phước. Gieo mà không gặp ruộng phước thì người gieo bị mất phước. Cho nên chúng ta phải bỏ, không nên nuôi dưỡng những ác giác quán.
Chúng sanh xem chúng ta là ruộng phước của họ, mà chúng ta lại tham sân si thì thật là lừa thiên hạ. Cho nên nhớ câu này thì tu dễ lắm. Nhớ mình là ruộng phước của chúng sanh, nếu sân tức là mình lừa bịp chúng sanh. Quá khứ chúng ta khi dối thiên hạ nên phải đọa trong ba đường ác, trôi lăn trong sanh tử cho tới bây giờ. Nếu còn khi dối nữa thì biết đọa đến chừng nào? Nên phải dừng đi, đừng có khi dối thiên hạ nữa. Nếu trong lòng còn có những niệm ác xấu, thọ của thí chủ cúng dường, tuy người phàm không thấy, nhưng chư thiên và những vị tu được ngũ thần thông thấy tâm niệm chúng ta, các vị sẽ quở trách. Khi tâm niệm xấu dấy lên, ma quỷ cũng thấy, nhân đó dẫn mình đi trong con đường xấu.
Nếu ta có ác giác nhận sự cúng thí của người, sẽ làm cho thí chủ dược phước đức kém ít, hoặc không phước đức, như thế ta là kẻ thù oán của thí chủ, Tất cả thí chủ thường mến kính ta, sao ta lại khi dối họ mà cho làm kẻ oán thù của họ, vì ta làm cho họ được ít phước đức, hoặc không phước đức.
Bồ-tát thường suy nghĩ: Ta thường tự xưng là người xuất gia. Luận về người xuất gia chẳng sanh ác giác, nếu sanh ác giác thời chẳng phải xuất gia. Người xuất gia thân cùng miệng phải tương ưng, nếu chẳng tương ưng thời chẳng phải xuất gia. Ta bỏ cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, bạn bè để xuất gia tu hành, chính là thời kỳ tu tập những thiện giác, chẳng phải là thời gian sanh ác giác.
Thí chủ cúng dường thường để cầu phước, nếu chúng ta cứ ôm tâm niệm xấu, người ta gieo phước trên đất chai thì làm sao có kết quả. Nếu gieo hạt giống xuống đất mà nó không ra hoa ra trái thì mình có giận không? Đất gì mà hư xấu quá, gieo gì cũng không lên. Cũng vậy, chúng ta thọ của thí chủ mà còn ôm những tâm niệm xấu thì thí chủ không được phước, sẽ oán trách và chúng ta trở thành kẻ oán thù của họ.
Thí chủ kính mến quý trọng mình tại sao mình lại làm cho họ bớt phước đức hoặc mất phước đức, sanh ra oán thù? Nhớ như vậy, khi có niệm ác dấy lên thì phải đuổi đi cấp tốc, không chứa không nuôi. Nếu còn nghĩ ác thì đâu phải là người xuất gia. Nói cách khác, người tu mà còn nghĩ ác thì sao gọi là người tu
Phật dạy: Người xuất gia thân cùng miệng phải tương ưng, nếu chẳng tương ưng thời chẳng phải xuất gia. Chúng ta nhiều khi thân và miệng không tương ưng, làm một đường mà nói một nẻo. Phải ráng nói sao làm vậy, còn không làm thì đừng nói.
Nhiều người không tu thiền định gì hết, tâm chạy như ngựa, như khỉ. Ai hỏi “sao Thầy không ngồi thiền” thì đáp “đứng cũng thiền, đi cũng thiền, nói cũng thiền, nín cũng thiền đợi gì phải ngồi?” Đó là nói một đằng mà làm một nẻo. Nếu thật đi đứng nằm ngồi đều thiền thì nói được, còn tâm như khỉ vượn mà nói đi đứng nằm ngồi đều là thiền, cần gì phải ngồi, đó là nói dóc.
Hoặc lâu lâu ghé tiệm kêu vài chai bia, người ta nói “ủa, sao Thầy vô quán, tu đâu được vô quán!” thì nói: “Dâm phòng tửu điếm vô phi thanh tịnh đạo tràng.” Như vậy là thân và miệng không hợp nhau, phải dè dặt! Nhiều người hay coi thường điều này, nói sao cho qua thôi mà không nghĩ hậu quả, nói không đúng với việc làm. Cho nên, thà làm mười mà nói tám chứ đừng làm ít nói nhiều, nói quá, đừng như vậy!
Bỏ cha mẹ, bỏ anh em tu hành để làm gì? Để sanh những tâm niệm thiện tâm niệm lành, chứ đâu phải để dính những tâm niệm xấu ác. Nếu có những tâm niệm xấu tâm niệm ác, ấy thật là trái với việc xuất gia rồi.
Ví như có người vào biển tìm châu báu, chẳng lấy chân châu mà lại lấy thủy tinh. Cũng như có người bỏ âm nhạc mà đi chơi giỡn trên đống phản nhơ. Như bỏ bảo nữ mà giao thông với tớ gái. Như bỏ bồn vàng mà dùng chậu sành. Như bỏ vị cam lộ mà uống thuốc độc. Như bỏ y sĩ thân thiện tài giỏi mà cầu thuốc với y sĩ oán thù dở. Cũng vậy, ta bỏ lìa pháp vị cam lồ của đại sư Như Lai Thế Tôn, mà nhận lấy các thứ ác giác của ma oán. Thân người khó đặng như hoa ưu đàm mà ta đã được. Như Lai khó gặp như hoa ưu-đàm mà ta đã gặp. Pháp bảo thanh tịnh khó được thấy nghe mà ta được nghe. Như con rùa đui gặp được bộng cây nổi. Mạng người chẳng dừng qua mau hơn thác nước đổ, ngày nay dầu còn khó bảo đảm được ngày mai, sao lại buông lung ở nơi pháp ác?
Cực khổ đi vào biển, coi như vào sanh ra tử để cốt tìm châu báu, vào rồi không chịu lấy ngọc thật mà lấy thủy tinh, uổng công biết mấy! Chúng ta cũng vậy, xuất gia bỏ cha mẹ anh em cốt để được điều lành mà vào chùa còn nuôi dưỡng tâm ác thật là trái lý.
Chỗ có âm nhạc hay ho không chịu, lại chạy lăn trong đống phẩn nhơ mà chơi. Bỏ vị cam lồ ngon ngọt của đại sư Như Lai Thế Tôn dạy, mà lại đi theo cái ác giác quán của ma oán.
Những lời răn nhắc này thật thống thiết. Phật khó được gặp như hoa ưu-đàm quý, ít có ít thấy. Giáo pháp của Phật khó được nghe, khó được thấy mà bây giờ được nghe, như con rùa mù tìm được bộng cây. Mạng sống của chúng ta chẳng dừng, qua mau hơn thác nước đổ, cứ ầm ầm tuôn chảy, ngày nay khó bảo đảm được ngày mai. Vậy mà vẫn lơ là, tưởng mình sống lâu, Tại sao hời hợt quá vậy? Ngày nay còn đây chưa chắc có ngày mai, vậy mà còn tính thong thả đã, để năm năm nữa rồi tu rút, giờ còn sớm lo gì. Đó là những quan niệm hời hợt, quá hời hợt! Phải nhớ mạng mình qua mau, không dừng chút nào, tu được thì ráng tu, đừng chờ tới vài ba năm nữa tu rút thì không được.
Thời tráng kiện chẳng dừng qua mau như ngựa chạy, sao lại tự thị sanh lòng kiêu mạn? Bốn ác ma rình rập tìm cầu lỗi lầm của ta, sao lại để cho ác giác sanh khởi! Ví như nhà hư mục sắp sập, mạng sống của ta cũng vậy, đâu nên sanh việc ác. Phàm Sa-môn gọi là tỏ ngộ nơi thiện giác, ta là Sa-môn sao lại sanh ác giác? Người xuất gia phải tu đạo lành, nay ta làm ác đâu đáng gọi là xuất gia. Bà-la-môn gọi là người tu hạnh thanh tịnh, nay ta thật hành ác giác chẳng thanh tịnh đâu gọi là chân thật Bà-la-môn. Nay ta cũng gọi là giòng Sát-đế-lợi. Luận về giòng Sát-đế-lợi thời hay trừ được kẻ oán dịch, nay ta chẳng trừ được oán địch ác giác, đâu đáng gọi là giòng Sát-đế-lợi. Tỳ-kheo gọi là phá phiền não, nay ta chẳng phá được ác giác phiền não đâu đáng gọi là Tỳ-kheo.
Mấy chú thanh niên, cứ tự kiêu ta còn trẻ, không biết thời tráng kiện qua nhanh như ngựa chạy qua cửa sổ, thoáng qua là mất. Bốn ác ma rình rập tìm cầu lỗi lầm của ta, sao lại để cho ác giác sanh khởi! Sa-môn là người nghĩ lành nghĩ thiện, tại sao chúng ta là Sa-môn lại nghĩ ác? Nếu khi nào nổi sân với ai, mà nhớ mình là Sa-môn sao lại nghĩ ác, thì hết sân liền.
Tỳ-kheo cũng có nghĩa là phá ác, tức là phá các phiền não ác; còn nghĩ ác không phải là Tỳ-kheo. Khi nào than “lúc này tôi phiền não quá”, hãy tự nói “lúc này tôi không phải Tỳ-kheo”. Như vậy, chúng ta phải phá hết phiền não, không cho nó làm chủ mình, nếu để nó làm chủ tức là mất nghĩa Tỳ-kheo.
Trong đời có sáu chỗ khó được gặp gỡ, nay ta đã được, đâu nên để ác giác ở nơi lòng. Những gì là sáu chỗ khó được? Một là Phật ra đời khó gặp, hai là chánh pháp khó nghe, ba là tâm lo sợ khó sanh, bốn là khó được ở trung quốc, năm là khó được thân người, sáu là năm căn khó đầy đủ. Sáu việc như vậy khó được mà ta đã được, vì thế nên chẳng nên sanh ác giác.
Trước tiên, Phật khuyên chúng ta biết những ác giác dấy lên, cũng như những đồ dơ bẩn thỉu phải hủy đi. Thứ hai, nhắc chúng ta là người bỏ cha mẹ đi tu, luôn luôn phải nuôi dưỡng niệm lành, tại sao lại có niệm ác? Có niệm ác thì chẳng khác nào như bỏ thuốc cam lồ mà uống thuốc độc, bỏ châu báu mà lấy thủy tinh… Đó là để răn nhắc mình nhớ tư cách của người xuất gia để ráng tu. Thứ ba, Phật răn nhắc chúng ta đã được điều khó được, ráng nỗ lực mà tu..
Những điều khó gặp gỡ có sáu: Một là Phật ra đời mình không gặp. Hai là chánh pháp khó nghe mà chúng ta được nghe kinh học đạo. Ba là tâm lo sợ khó sanh, chúng ta có lo sợ nên mới đi tu. Bốn là khó được ở trung quốc, trung quốc là chỉ cho những chỗ thị tứ, chỗ có giảng kinh học đạo, mà bây giờ chúng ta lại được. Năm là khó được thân người, bây giờ chúng ta được thân người. Sáu là năm căn khó đầy đủ, bây giờ chúng ta có được năm căn là mắt tai mũi lưỡi thân đầy đủ. Sáu cái khó được mà chúng ta đã được năm cái rồi, như vậy hy hữu quá, tại sao lại không cố gắng gìn giữ để tu Phật rất tế nhị, dạy chúng ta đủ cách như thế.
Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn này thường siêng quán sát những ác giác như vậy.
Hàng phàm phu chẳng thấy lỗi họa của ác giác, nên lãnh thọ ba thứ ác giác, gọi đó là lãnh thọ ác lậu.
Bồ-tát thấy như thế nên chẳng lãnh chẳng ham, nương nơi tám thánh đạo để trừ bỏ đó, để chặt đứt đó. Do đây nên Bồ-tát không thọ ác lậu. Sao lại nói rằng Như Lai có ác lậu? Do nghĩa này nên Như Lai chẳng phải là hữu lậu.
Này thiện nam tử! Phàm phu nếu gặp lúc thân tâm khổ não thời sanh các sự ác. Lúc bị thân bệnh hay tâm bệnh, khiến thân, khẩu, ý, tạo những nghiệp ác. Vì tạo nghiệp ác nên luân hồi trong ba đường dữ thọ những sự khổ. Tại sao vậy? Vì phàm phu không có niệm huệ.
Bồ-tát thường tự suy xét rằng: Ta từ vô số kiếp xưa đến nay, vì thân tâm này mà gây tạo những nghiệp ác, nên phải lưu chuyển trong sanh tử đọa nơi ác đạo chịu đủ sự khổ, làm cho ta xa lìa con đường chân chánh ba thừa. Suy nghĩ như vậy rồi Bồ-tát rất sợ sệt đối với thân tâm của mình, lìa bỏ việc ác mà thẳng đến đạo lành.
Vì người đời không cho tham sân si là xấu, lãnh thọ nó cho nên cứ phải chịu luân hồi bởi ba ác giác này. Bồ-tát dùng tám thánh đạo để trừ bỏ nên không thọ ác lậu, Bồ-tát còn như thế huống là Như Lai, Như Lai làm sao lại có ác lậu, do đó Như Lai là vô lậu.
Bồ-tát khác với phàm phu, vì có niệm huệ, thường suy nghĩ tội lỗi của thân tâm, nên sợ sệt không dám tạo những nghiệp ác mà phải trôi lăn trong sanh tử chịu nhiều khổ não, các ngài lìa bỏ việc ác, thẳng đến đạo lành.
Ví như có quốc vương đem bốn con rắn độc đựng chung trong một cái trấp, sai người nuôi dưỡng cho ăn, tắm rửa. Vua ra lệnh nếu để một con rắn giận dữ không vừa lòng, thời ta sẽ xử tử nhà ngươi.
Người đó nghe lệnh nghiêm khắc của quốc vương, sợ quá bỏ trấp rắn chạy trốn. Vua liền sai năm Chiên-đà-la cầm dao rượt theo. Người ấy ngó ngoái lại thấy phía sau năm người rượt gấp bèn vội chạy đi. Năm người lập kế giấu dao, rồi bí mật sai một người giả dạng hiền lành đến khuyên bảo người ấy trở lại. Người ấy chẳng tin chạy thẳng đến một tụ lạc kia để ẩn trốn. Lúc đã vào trong tụ lạc, xem thấy những nhà cửa đều không có người, cũng không có đồ vật, bên ngồi trên đất. Thoạt nghe trên không có tiếng nói: Này nam tử! Tụ lạc này hoang vắng không có cư dân, đêm nay sẽ có sáu tên cướp đến. Nếu người gặp cướp thời khó bảo tồn tánh mạng. Người ấy nghe tiếng trên hư không bảo như vậy sợ hãi quá bèn bỏ tụ lạc mà đi. Dọc đường gặp một con sông nước chảy gấp. Tìm không có thuyền bè, vì sợ nên lấy các thứ cỏ cây kết làm bè. Tự nghĩ rằng: Nếu ta dừng ở nơi đây tất sẽ bị rắn độc, năm Chiên-đà-la, một người dối hiền lành và sáu tên cướp làm nguy hại. Còn nếu qua sông thời chiếc bè này không bảo đảm có thể sẽ phải chìm chết. Nhưng thà chết đuối, trọn chẳng để kẻ ác kia làm hại. Suy nghĩ xong, kéo bè cỏ xuống nước, thân nằm trên bè, tay ôm bè, chân đạp nước vượt dòng nước chảy xiết mà qua sông.
Khi Lúc đã được qua đến bờ bên kia an ổn không họa hoạn, hết kinh sợ trong lòng rất thơ thới vui vẻ.
Bồ-tát đặng nghe và thọ trì kinh Đại Niết bàn suy xét thân này như cái trấp, địa, thủy, hỏa, phong như bốn rắn độc: kiến độc, xúc độc, khí độc, nọc độc. Tất cả chúng sanh gặp bốn rắn độc này thời phải mất thân mạng. Tứ đại cũng như vậy: hoặc kiến chấp làm độc, hoặc chạm xúc làm độc, hoặc hà khí làm độc, hoặc cắn nọc làm độc, do đây nên xa lìa những điều lành.
Bồ-tát suy xét bốn rắn độc có bốn giòng họ: Giòng Sát-đế lợi, giòng Bà-la-môn, giòng Tỳ-xá, giòng Thủ-đà. Tứ đại cũng có bốn chủng tánh: tánh cứng, tánh ướt, tánh nóng, tánh động. Vì thế nên Bồ-tát xem tứ đại đồng chủng tánh với bốn rắn độc.
Bồ-tát lại suy xét bốn rắn độc này thường rình hại người; lúc nào sẽ nhìn ngó, lúc nào sẽ chạm xúc, lúc nào sẽ hà hơi, lúc nào sẽ cắn. Tứ đại cũng như vậy thường rình chờ dịp để hại chúng sanh.
Nếu bị bốn rắn độc hại chết chẳng đến nỗi phải đọa trong ba đường ác. Nếu bị tứ đại giết hại tất sa vào ba đường ác. Bốn rắn độc này dầu săn sóc nuôi dưỡng nó nhưng nó cũng thường muốn giết người. Cũng vậy, dầu thường cung cấp, nhưng tứ đại cũng luôn kéo dắt người tạo những nghiệp ác. Bốn rắn độc ấy nếu một con sân giận thời sẽ giết người. Tánh tứ đại nếu một đại phát lên cũng có thể hại người. Bốn rắn độc ấy dầu ở chung một chỗ, nhưng tâm tánh của nó đều riêng khác. Tứ đại dầu đồng ở một thân mà tánh của mỗi đại khác nhau. Bốn rắn độc ấy dầu có cung kính nó cũng khó có thể gần gũi nó, tứ đại cũng như vậy. Bốn rắn độc ấy nếu lúc hại người, có được phù chú thuốc men của Sa-môn hay Bà-la-môn thời có thể chữa trị. Tứ đại giết người dầu có Sa-môn hay Bà-la-môn dùng thần chú phép tắc cũng chẳng trị được. Như người trí nghe hơi tanh của rắn độc liền tránh xa. Chư Phật, Bồ-tát nghe hơi hội của tứ đại cũng liền tránh xa.
Bồ-tát lại suy nghĩ tứ đại như rắn độc, nên rất sợ sệt chạy đi lo tu tám thánh đạo.
Năm Chiên-đà-la dùng lệ cho năm ấm. Bồ-tát quán sát năm ấm như Chiên-đà-la.
Chiên-đà-la thường hay làm cho người phải xa lìa ân ái mà hội họp với oán thù. Cũng vậy năm ấm khiến người tham gần pháp ác mà xa lìa những pháp lành.
Như Chiên-đà-la võ trang để tự vệ; hoặc dao, gậy, cung tên hoặc thuẫn giáp, họ có thể hại người. Cũng vậy, năm ấm dùng các thứ phiền não để tự võ trang, hại những người ngu si làm cho sa vào trong ba cõi.
Như Chiên-đà-la bắt được người có tội lỗi bèn giết hại. Cũng vậy, năm ấm có những kiết sử thường hay hại người.
Do nghĩa này nên Bồ-tát quán sát năm ấm như Chiên-đà-la.
Lại như Chiên-đà-la không tâm từ mẫn họ hại cả người thân cũng như kẻ thù. Cũng vậy, năm ấm hại cả pháp lành, pháp ác, không lòng từ mẫn.
Như Chiên-đà-la não hại tất cả mọi người, ngũ ấm dùng các thứ phiền não thường não hại tất cả chúng sanh trong dòng sanh tử.
Chiên-đà-la luôn luôn có tâm niệm muốn giết hại, năm ấm cũng thường có những kiết sử não hại.
Như người cụt chân lại không dao gậy không người hộ vệ, phải biết người này ắt bị Chiên-đà-la giết hại. Cũng vậy, chúng sanh không chân, không dao, không hộ vệ, thời bị giặc năm ấm làm hại. Chân lệ cho giới, dao lệ cho trí huệ, người hộ vệ lệ cho thiện tri thức. Nếu không ba điều này tất bị năm ấm làm hại. Do dây nên Bồ tát xem năm ấm như Chiên-đà-la.
Bồ-tát lại quán sát năm ấm còn hơn Chiên-đà-la. Vì người bị Chiên-đà-la giết hại chẳng đọa địa ngục, còn bị năm ấm giết hại thời đọa địa ngục. Do đây nên Bồ tát lập thệ rằng: Tôi thà trọn đời
Bồ-tát gần Chiên-đà-la, chứ chẳng gần năm ấm dầu chỉ tạm thời.
Chiên-đà-la chỉ có thể hại nơi người ngu si ở cõi Dục. Giặc ngũ ấm hại khắp tất cả phàm phu chúng sanh trong ba cõi.
Chiên-đà-la chỉ có thể giết hại người có tội, năm ấm giết hại chúng sanh không luận có tội hay không tội.
Chiên-đà-la chẳng giết hại người già cả, phụ nữ và trẻ thơ, năm ấm giết tất cả chúng sanh không luận già trẻ cùng phụ nữ.
Vì thế nên Bồ-tát quán sát năm ấm còn hơn Chiên-đà-la, lập thệ trọn đời thà ở gần Chiên-đà-la chứ chẳng gần gũi năm ấm dầu chỉ tạm thời.
Chiên-đà-la chỉ hại người khác không bao giờ tự hại mình, giặc năm ấm hại mình hại người hơn Chiên-đà-la.
Chiên-đà-la có thể dùng lời lành, tiền của, châu báu lo lót mà được thoát khỏi. Năm ấm chẳng như vậy, không thể dùng lời lành để khuyến dụ cũng không thể dùng tiền của châu báu lo lót mà được thoát khỏi.
Trong ngày đêm Chiên-đà-la chẳng ắt luôn luôn giết hại, năm ấm thời niệm niệm thường giết hại chúng sanh.
Chiên-đà-la chỉ ở một chỗ, có thể trốn lánh khỏi, năm ấm thời ở khắp tất cả chỗ nên không thể trốn lánh.
Chiên-đà-la dầu hại người, lúc hại xong, thời chẳng theo nữa. Năm ấm khi đã giết hại chúng sanh lại theo dõi luôn chẳng rời.
Do đây nên Bồ-tát lập thệ thà trọn đời ở gần Chiên-đà-la, quyết không gần gũi năm ấm dầu chỉ tạm thời.
Người có trí huệ dùng phương tiện lành khéo thoát khỏi đặng năm ấm. Chính là thật hành tám thánh đạo, sáu ba-la-mật, bốn vô lượng tâm mà được giải thoát, thân tâm chẳng bị năm ấm làm hại. Vì thân như kim cương, tâm như hư không.
Do nghĩa này nên Bồ-tát quán sát năm ấm có những điều chẳng lành, lòng rất sợ sệt lo tu tám thánh đạo. Cũng như người kia sợ bốn rắn độc cùng năm Chiên-đà-la, kiếm đường chạy trốn không dám ngó ngoái lại.
Kẻ giả làm bạn thân chính là để lệ cho tham ái. Bồ-tát quán sát kỹ tham ái như kẻ địch giả làm người thân. Nếu đã biết được là giả thời không bị hại, còn nếu chẳng rõ biết tất sẽ bị hại. Cũng vậy, nếu biết được tánh của tham ái thời nó chẳng thể làm cho chúng sanh luân chuyển sanh tử, như không rõ biết thời phải luân hồi trong sáu loài chịu đủ mọi sự khổ. Vì tham ái làm hại khó bỏ lìa, như kẻ địch giả làm người thân nên khó xa lìa. Kẻ oán địch giả làm người thân, luôn rình chờ có dịp để hại người, tham ái làm cho người xa lìa tất cả pháp lành gần gũi tất cả pháp ác cũng như vậy. Bồ-tát quán sát kỹ tham ái như kẻ địch giả người thân, vì thấy mà chẳng thấy, vì nghe mà chẳng nghe, như người phàm phu thấy lỗi sanh tử, dầu có trí huệ nhưng vì si mê che đậy nên rồi lại chẳng thấy lỗi. Hàng Thanh văn, Duyên giác cũng như vậy: dầu thấy nhưng chẳng thấy, dầu nghe nhưng chẳng nghe. Do tâm tham ái nên dầu thấy lỗi sanh tử mà không thể mau đến vô thượng Bồ-đề. Do nghĩa này nên Bồ-tát xem tham ái như kẻ địch giả người thân.
Như kẻ oán địch chẳng thân mà giả là người thật thân, chẳng thể gần gũi mà giả gần gũi, là ác mà giả là lành, chẳng thân yêu mà giả là thân yêu, để luôn luôn chờ dịp hại người. Tham ái cũng như vậy.
Kẻ địch giả người thân, chỉ thấy được thân và miệng của họ mà chẳng biết được tâm của họ, nên họ có thể phỉnh gạt. Tham ái hư dối khó biết nên nó có thể làm mê lầm tất cả chúng sanh.
Kẻ địch giả người thân thời có trước, có sau có thể dễ xa lìa, tham ái không trước, không sau nên khó xa lìa được.
Kẻ địch giả người thân, ở xa thời khó biết, gần gũi thời dễ biết. Tham ái gần gũi còn khó rõ biết huống là ở xa.
Tất cả chúng sanh vì tham ái mà xa đại Niết-bàn gần gũi sanh tử, xa thường, lạc, ngã, tịnh mà gần vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Do đây nên trong các kinh Phật nói là nhơ nhớp trong ba cõi. Nơi việc hiện tại vì vô minh nên chẳng thấy lỗi họa chẳng xa lìa được. Kẻ địch giả người thân trọn chẳng hại được người có trí. Do đây nên Bồ-tát quán sát kỹ tham ái này, lòng rất sợ lo tu tám thánh đạo. Như người kia sợ bốn rắn độc, năm Chiên-đà-la và một kẻ giả người thân nên kiếm đường chạy trốn chẳng trở lại.
Tụ lạc trống rỗng không cư dân chính là lệ cho lục nhập. Bồ-tát quán sát nội lục nhập trống rỗng không chỗ có như tụ lạc trống. Như người sợ chết kia đã vào tụ lạc nhẫn đến chẳng thấy có một người ở, tìm khắp nơi cũng chẳng gặp được một món đồ. Cũng vậy, Bồ-tát quán sát kỹ lục nhập trống rỗng không chỗ có, chẳng thấy chúng sanh, chẳng thấy một vật thật có.
Tụ lạc trống rỗng đó, đảng cướp ở xa trọn chẳng tưởng là trống rỗng. Phàm phu cũng như vậy, đối với lục nhập chẳng nghĩ là trống rỗng, do đó nên luân chuyển trong sanh tử thọ vô lượng sự khổ. Bồ-tát quán sát lục nhập này luôn nghĩ tưởng là trống rỗng, nên chẳng bị khổ luân hồi sanh tử. Bồ-tát đối với lục nhập thường không có quan niệm điên đảo, nên chẳng còn luân hồi sanh tử. Như đảng cướp, lúc vào tụ lạc trống rỗng này thời được an vui. Giặc phiền não cũng như vậy, lúc vào trong lục nhập thời được an vui. Như đảng cướp vào tụ lạc này thời không lòng sợ sệt.
Giặc phiền não ở nơi lục nhập này cũng không sợ sệt như vậy. Như tụ lạc trống rỗng là chỗ ở của các loài ác thú: sư tử, cọp, sói. Lục nhập này cũng là chỗ ở của tất cả phiền não ác.
Do đây nên Bồ-tát quán sát kỹ lục nhập trống rỗng không chỗ có là chỗ ở của tất cả việc ác. Tụ lạc này trống rỗng không vui, mà đảng cướp tưởng là có người, có vật là an vui. Đối với lục nhập trống rỗng không chỗ có, mà người ngu tưởng là có, là vui, chỉ có người trí mới biết được sự thật.
Tụ lạc kia lúc thời có người, lúc thời không người. Lục nhập một mặt luôn không người, vì tánh nó vốn là không, chỉ có người trí rõ biết, chẳng phải là mắt thấy được. Do đây nên Bồ-tát quán sát lục nhập nhiều sự oán thù tai hại, lo tu tám đạo thánh chẳng thôi chẳng nghỉ. Như người kia sợ bốn rắn độc, năm Chiên-đà-la, một kẻ giả bạn thân cùng sáu tên cướp mà vội vã lên đường chạy thẳng.
Sáu tên cướp dùng lệ cho sáu trần: Bồ-tát quan sát sáu trần này như sáu tên cướp hung dữ, vì chúng nó có thể cướp tất cả những pháp lành, như sáu tên cướp có thể cướp tài vật của tất cả nhân dân.
Như sáu tên cướp vào nhà người thời có thể cướp đoạt tất cả tài sản hiện có trong nhà chẳng chọn tốt xấu, làm cho người giàu to thoạt vậy nghèo cùng. Giặc sáu trần này lúc vào nơi sáu căn thời nó có thể cướp giật tất cả pháp lành của người, làm cho người hết lành hết phước thành kẻ bần cùng nhất-xiển đề. Vì thế nên Bồ tát quán sát sáu trần như sáu tên cướp.
Như sáu tên cướp lúc muốn cướp nhà người phải nhờ người trong nhà làm nội ứng, nếu không người nội ứng thời bọn cướp bèn trở lại. Giặc sáu trần này cũng như vậy, lúc muốn cướp pháp lành cần phải do bề trong chúng sanh có những tướng tri kiến: thường, lạc, ngã, tịnh, bất không v.v… Nếu không có những tướng bề trong như vậy, thời giặc sáu trần chẳng thể cướp được pháp lành.
Người trí trong tâm không có những tướng như vậy, phàm phu thời có, nên sáu trần thường đến xâm đoạt pháp lành của phàm phu.
Người trí có thể khéo dùng trí huệ đề phòng giữ gìn nên chẳng bị cướp đoạt. Do đây nên Bồ-tát quán sát sáu trần này như sáu tên cướp.
Như sáu tên cướp có thể làm khổ não thân tâm của nhân dân, giặc sáu trần thường làm thân tâm chúng sanh khổ não cũng như vậy.
Sáu tên cướp chỉ có thể đoạt tài sản hiện có của người, giặc sáu trần thường cướp đoạt pháp lành của chúng sanh cả ba đời.
Sáu tên cướp đến đêm tối thời vui mừng, giặc sáu trần ở trong vô minh hắc ám thời nó vui thích. Sáu tên cướp chỉ có nhà vua mới có thể dẹp bắt, giặc sáu trần chỉ có Phật, Bồ-tát mới ngăn dứt được nó.
Sáu tên cướp này, lúc muốn cướp giật, chẳng lựa chọn người xinh đẹp, thông minh, học rộng, giàu sang hay nghèo hèn. Giặc sáu trần lúc muốn cướp pháp lành cũng chẳng lựa chọn người xinh đẹp nhẫn đến nghèo hèn.
Sáu tên cướp này, dầu nhà vua bắt được, chặt tay chân, nhưng vẫn không thể làm cho tâm chúng nó hết hung ác. Giặc sáu trần cũng như vậy, dầu Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, chặt đứt nó, cũng chẳng thể làm cho nó chẳng cướp pháp lành. Như người dũng kiện mới có thể dẹp hẳn sáu tên cướp này. Cũng vậy, chư Phật và Bồ-tát mới có thể dẹp hẳn giặc sáu trần.
Như có người quyến thuộc đông, giòng họ lớn, bà con nhiều, thời chẳng bị sáu tên cướp xâm đoạt tài sản. Cũng vậy, chúng sanh nếu có thiện tri thức thời chẳng bị giặc sáu trần cướp hại.
Sáu tên cướp này nếu thấy tài vật của người, thời có thể trộm cướp. Giặc sáu trần nếu thấy, nếu biết, nếu nghe, nếu ngửi, nếu chạm, nếu hay biết, thời đều có thể cướp đoạt.
Sáu tên cướp chỉ có thể cướp đoạt tài sản của người cõi Dục, giặc sáu trần có thể cướp đoạt tất cả của báu pháp lành ba cõi.
Do đây nên Bồ tát quán sát kỹ sáu trần còn hơn sáu tên cướp kia, do đây nên lo tu tám thánh đạo thẳng tiến chẳng trở lại. Như người kia sợ bốn rắn độc, năm Chiên-đà-la, một kẻ giả bạn thân, cùng sáu tên cướp, rời bỏ tụ lạc trống rỗng theo đường thẳng chạy đi.
Dọc đường gặp một con sông, chính là lệ cho Bồ tát quán sát phiền não này như sông lớn, nước sông chảy xiết có thể làm trôi hương tượng. Phiền não cũng có thể làm trôi bậc Duyên giác.
Sâu khó đến đáy nên gọi là “sông”, bờ xa khó qua đến nên gọi là “lớn”. Giữa sông có nhiều loài cá hung dữ. Phiền não cũng như vậy, chỉ có Phật và Bồ-tát mới có thể cùng tột nên gọi là rất sâu, chỉ có Phật và Bồ-tát mới qua đến bờ nên gọi là rộng lớn, thường hại tất cả chúng sanh si mê nên gọi là hung dữ. Do đây nên Bồ-tát quán sát phiền não này dường như sông lớn.
Như nước sông lớn có thể sanh trưởng tất cả cỏ cây, lùm rừng, phiền não cũng có thể sanh trưởng chúng sanh hai mươi lăm cõi. Như có người té xuống sông lớn mà không hổ thẹn, chúng sanh sa vào trong phiền não cũng không hổ thẹn, như té xuống sông chìm chưa đến đáy mà đã chết, chúng sanh sa vào phiền não luân hồi trong hai mươi lăm cõi vẫn chưa đến đáy. Trên đây nói đáy sông là lệ cho tướng không, nếu chẳng tu tướng không này, thời chẳng đặng ra khỏi hai mươi lăm cõi. Tất cả chúng sanh vì chẳng thể khéo tu tướng không nên thường bị phiền não nhận chìm. Do đây nên Bồ-tát quán sát phiền não này dường như sông lớn.
Như sông lớn kia chỉ có thể làm hại thân mạng mà chẳng phá được pháp lành, phiền não thời có thể phá hoại tất cả pháp lành của thân tâm.
Sông lớn kia chỉ có thể làm trôi chìm người trong cõi Dục, phiền não thời có thể hại tất cả nhân thiên trong ba cõi.
Sông lớn trong đời nếu tay ôm phao, vịn bè, chân đạp, thời có thể đến bờ bên kia. Với phiền não thời chỉ có Bồ-tát tu sáu pháp ba-la-mật mới qua khỏi được.
Như sông lớn người khó lội qua, chúng sanh cũng khó thoát qua khỏi phiền não. Thế nào gọi là khó? Đến bậc Thập trụ Bồ-tát vẫn còn chưa rốt ráo thoát khỏi hẳn phiền não, chỉ có chư Phật mới rất ráo. Do đây nên gọi là khó qua khỏi được.
Như có người bị nước sông đẩy trôi chẳng có thể làm được việc gì, chúng sanh bị phiền não lôi cuốn cũng không thể tu tập pháp lành. Như người té sông bị nước cuốn đi, người có đủ sức thời cứu vớt được. Chúng sanh sa vào phiền não làm nhất-xiển-đề, hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật đều không cứu tế được. Sông lớn trong đời phải khô cạn lúc kiếp tận. Với phiền não hàng Thanh văn, Duyên giác dầu tu thất giác chi vẫn còn chẳng làm khô được. Vì thế nên Bồ-tát quán sát các phiền não dường như sông lớn.
Nhưngười kia sợ bốn rắn độc, năm Chiên-đà-la, một kẻ giả bạn thân, cùng sáu tên cướp mà bỏ tụ lạc trống rỗng thẳng đường chạy đi đến bên sông lớn, rồi lấy cỏ kết làm bè. Cũng vậy, Bồ-tát sợ tứ đại, ngũ ấm, tham ái, lục nhập, lục trần, đến sông phiền não, rồi tu giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, sáu môn ba-la-mật, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, dùng đây làm thuyền bè để vượt qua sông phiền não đến bờ Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh kia.
Phật dùng ví dụ, ông vua bảo một người bỏ bốn con rắn độc vào trong rương. Bắt người đó điều hòa, làm sao đừng để cho bốn con rắn độc nổi sân. Nếu để nó nổi sân thì người đó sẽ bị xử tử. Bốn rắn này tượng trưng cho tứ đại đất nước gió lửa. Gió có hợp với đất hay không? Lửa có hợp với nước hay không? Nước với lửa tối kỵ nhau, nước thì làm tắt lửa, lửa làm khô nước. Gió với đất, gió mạnh thì tan đất… Vậy mà thân mình lại gồm cả bốn thứ đó. Chúng ta cố tình dung hòa nó cách này cách nọ, nhưng nó có chịu không? Một thứ thắng thế thì đã rên rỉ rồi, nếu nó thắng tột tức nhiên là chết. Nên nói nếu một con phát sân lên thì bị tử hình. Nuôi bốn con rắn độc trong một cái rương thì làm sao không nổi sân, thật là chuyện hết sức khó.
Như khi nghe trong người hơi nóng thì kiếm cái gì mát uống vô để điều hòa. Hơi rêm rêm trong mình tức là bị phong làm cho mình đau, gió động đất nên nghe đau, phải cạo gió cho nó tan. Cả ngày cứ lo điều bốn thứ đó, nghe thứ nào hơi lấn một chút là kiếm cái khác để điều hòa. Bất hòa ít ít thì ráng, tự mình điều hòa không được thì kiếm ông thầy giúp để điều hòa. Điều hòa đến khi nào bất hòa rồi lúc đó tử. Như vậy cuộc sống của nhân gian chỉ là điều hòa bốn con rắn độc, giữ gìn bốn con rắn độc đừng cho con nào lấn con nào. Mà nó là rắn độc thì làm sao nó không lấn! Lúc nào nó cũng chực sân, chực hại nhau. Chúng ta đang nuôi bốn con rắn độc, vậy mà cứ cưng yêu thì chuyện vô lý quá.
Người này nghe nói nuôi bốn con rắn độc mà nổi sân lên là tử hình, sợ quá bỏ chạy. Chúng ta nghe Phật nói thân này do tứ đại giả hợp, không bền lâu, không chắc thật; nghe vậy rồi ráng đi tu để giải thoát, đừng mang thân nữa. Đó là ví dụ cho người bỏ chạy không dám lãnh trách nhiệm điều hòa bốn con rắn.
Khi chạy thì có năm Chiên-đà-la đuổi theo dụ cho năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức của mình. Năm uẩn là hợp cả sắc và tâm; sắc là chỉ cho thân vật chất; thọ, tưởng, hành và thức chỉ cho tâm. Năm uẩn luôn luôn sanh diệt, gây ra bao nhiêu thứ phiền não, cho nên ví dụ như năm Chiên-đà-la. Thọ có thọ khổ thọ vui, thọ khổ thì buồn, thọ vui thì thích thì ham. Sắc, tưởng, hành, thức cũng vậy. Đó là gốc của phiền não.
Năm Chiên-đà-la đuổi theo, một người giấu dao rồi giả làm bạn thân tới dụ dỗ. Kẻ giả người thân chỉ cho tham ái. Ví dụ, thấy món ăn ngon, làm mình thèm rồi thích ăn, nhưng vì không có tiền nên nghĩ kế này mưu nọ, dấy lên những ý niệm xấu. Như vậy tham ái là kẻ thù giả làm người thân đeo đuổi giết hại, dẫn mình đến bao nhiêu đau khổ chết chóc kiếp này tới kiếp nọ.
Chạy đến tụ lạc trống rỗng, tụ lạc trống rỗng đó chỉ cho sáu căn. Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, Phàm phu thấy sáu căn là thật có, nhưng với Bồ-tát quán sát sáu căn chỉ là giả dối, trống rỗng không thật.
Như đối với mắt, ở trong tứ đại hợp lại cộng thêm thức và thêm duyên bên ngoài: hư không, ánh sáng… mới thành cái thấy của mắt. Như vậy mắt thấy chỉ là duyên hợp không có tự tánh hay không có tướng thật của nó. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng chỉ là duyên hợp như huyễn không thật, không có tự tánh, không phải là chỗ đáng nương tựa.
Kế đó được báo có sáu tên cướp chỉ cho sáu trần. Sáu trần ở bên ngoài đối với sáu căn làm cho loạn tâm loạn tưởng, rồi dấy lên những tham đắm sân hận si mê. Đó là sáu tên cướp luôn phá hoại của báu pháp thân của mình.
Người đó bỏ tụ lạc trống rỗng chạy tới con sông lớn. Sông lớn là chỉ cho con sông chứa đầy tất cả phiền não, qua khỏi con sông phiền não đó là một mất một còn. Nhưng qua khỏi sông lớn này thì phải nhờ thuyền bè, nên chặt cây lấy cỏ kết làm bè. Cái bè dụ cho bát chánh đạo hoặc lục độ…, nương nơi đó để ta qua con sông lớn phiền não, Như vậy nếu người nào muốn thoát khỏi đau khổ của vòng sanh tử luân hồi hay của phiền não thì phải nương nhờ vào bát chánh đạo hoặc vào lục độ để qua khỏi bờ sanh tử này đến bờ an vui Niết-bàn.
Phật nhắc tới nhắc lui nhiều lần, nhưng chúng ta có thể tóm tắt mấy ví dụ như bốn rắn độc, năm Chiên-đà-la, kẻ giả người thân, sáu tên cướp, tụ lạc trống rỗng, sông lớn và kết bè đến bờ kia. Như vậy chúng ta đã rõ ý nghĩa của đoạn kinh này. Người tu phải chịu cực chịu khổ vượt qua những khó khăn mới đến Niết-bàn an ổn, nếu không thì không bao giờ an ổn được.
Bồ-tát tu kinh Đại Niết-bàn suy nghĩ như vầy: Nếu tôi không suy nghĩ nhận lấy sự khổ nơi thân, sự khổ nơi tâm, thời không thể làm cho tất cả chúng sanh qua khỏi sông phiền não. Nhờ suy nghĩ như vậy nên dầu có khổ não, Bồ-tát vẫn yên lặng nhẫn thọ. Vì nhẫn thọ thời chẳng sanh ác lậu. Bồ-tát còn không có những ác lậu, huống là Như Lai. Do đây nên chư Phật là vô lậu. Vì Như Lai thường đi trong hữu lậu, chính là hiện thân trong hai mươi lăm cõi, nên hàng Thanh văn cùng kẻ phàm phu cho rằng Phật là hữu lậu. Thật ra chư Phật Như Lai chân thật vô lậu. Do nhân duyên trên đây nên chư Phật Như Lai không có tướng quyết định. Và cũng do những cớ trên đây nên người phạm bốn tội nặng, hủy báng kinh Đại thừa và nhất-xiển-đề đều không quyết định.”
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát nói: “Phải lắm! Phải lắm! Đúng như lời đức Phật dạy, tất cả pháp đều không quyết định, do đây nên biết Như Lai cũng chẳng rốt ráo nhập Niết-bàn.
Như vừa rồi đức Phật nói trong đoạn đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn nghe chỗ chẳng nghe, có nói đến Niết-bàn cùng đại Niết-bàn. Bạch Thế Tôn! Thế nào là Niết-bàn? Thế nào là đại Niết-bàn?”
Đức Phật khen: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Nếu Bồ-tát đặng niệm tổng trì, mới có thể thưa hỏi như ông.
Này thiện nam tử! Như người đời nói: có biển, có biển lớn; có sông, có sông lớn; có núi, có núi lớn; có thành, có thành lớn; có chúng sanh, có chúng sanh lớn; có vua, có vua lớn; có người, có người lớn; có trời, có trời lớn; có đạo, có đạo lớn; Niết-bàn cũng vậy: có Niết-bàn và có đại Niết-bàn.
Bồ-tát Cao Quý Đức Vương ca ngợi lời Phật: Tất cả pháp không quyết định, do đây nên biết Như Lai cũng chẳng rốt ráo nhập Niết-bàn. Nhân đó Bồ-tát hỏi về Niết-bàn và đại Niết-bàn.
Phật khen ngợi Bồ-tát được đại tổng trì mới có thể hỏi được như vậy, và dùng ví dụ như nói sông thì có sông nhỏ sông lớn, biển có biển nhỏ biển lớn, thành có thành nhỏ thành lớn, chúng sanh có chúng sanh nhỏ chúng sanh lớn, vua có vua nhỏ vua lớn, người có người nhỏ người lớn… Và Niết-bàn cũng có Niết-bàn và đại Niết-bàn. Niết-bàn của Nhị thừa là Niết-bàn nhỏ, Niết-bàn của Đại thừa là Niết-bàn lớn.
Thế nào là Niết-bàn?
Như người đói đặng chút ít cơm ăn thời gọi là được an vui. Như người bệnh được lành thời gọi là an vui. Như người kinh sợ đặng chỗ nương dựa thời được an vui. Như người nghèo cùng dặng châu báu thời được an vui. Như người quán xương trắng chẳng sanh lòng tham dục thời được an vui. Tất cả sự an vui trên đây cũng gọi là Niết-bàn, nhưng chẳng được gọi là đại Niết-bàn, vì còn trong phạm vi tương đối.
Nghĩa của Niết-bàn là an vui. Nhưng những an vui trên là Niết-bàn chứ chẳng phải là đại Niết-bàn, vì chỉ là cái an vui tạm, chưa phải là an vui cứu cánh. Ở Ấn Độ được an vui người ta gọi là Niết-bàn. Nhưng Niết-bàn của phàm phu khác, Niết-bàn của hàng Nhị thừa khác, Niết-bàn của chư Phật và Bồ-tát cũng khác. Những an vui trên đây đều là an vui của phàm phu, nên gọi là Niết-bàn của phàm phu.
Này thiện nam tử! Nếu người phàm phu nhẫn đến hàng Thanh văn, hoặc nhân thế tục, hoặc nhân thánh đạo, mà dứt được kiết sử cõi Dục thời được an vui. Có thể dứt kiết sử cõi Sơ thiền nhẫn đến có thể dứt kiết sử cõi Phi phi tưởng thời được an vui. Những sự an vui này cũng gọi là Niết-bàn, nhưng chẳng được gọi là đại Niết-bàn, vì còn tập khí phiền não.
Thế nào gọi là tập khí phiền não?
Hàng Thanh văn, Duyên giác còn có tập khí phiền não, chính là những quan niệm: thân tôi, áo tôi, tôi đi, tôi đến, tôi nói, tôi nghe, chư Phật Như Lai nhập Niết-bàn, bản tánh Niết-bàn không ngã, không lạc, chỉ có thường và tịnh, Phật, Pháp, và Tăng có tướng sai khác, Như Lai rốt ráo nhập Niết-bàn, chỗ chứng đặng Niết-bàn của Thanh văn, Duyên giác cùng chư Phật đồng nhau không sai khác, những quan niệm trên đây là tập khí phiền não. Vì thế nên chỗ chứng đặng của hàng Nhị thừa chẳng phải là đại Niết-bàn, vì không có thường, lạc, ngã, tịnh. Có thường, lạc, ngã, tịnh mới được gọi là đại Niết-bàn.
An vui này là của hàng Nhị thừa do dẹp trừ kiết sử mà được Niết-bàn, chưa được gọi là đại Niết-bàn. Tại sao? Vì còn những tập khí phiền não nhỏ nhiệm chưa sạch.
Hàng Thanh văn Duyên giác có tập khí về ngã chưa hết, chưa sạch. Nói thân tôi, áo tôi đó là nói ngã sở. Tôi đi, tôi đến, tôi nói, tôi nghe là ngã. Như vậy ngã và ngã sở của hàng Thanh văn chưa sạch, nên tập khí phiền não chưa dứt. Niết-bàn các ngài được chỉ có thường và tịnh, mà không có lạc và ngã. Các ngài tưởng Niết-bàn của chư Phật cũng như Niết-bàn của các ngài. Nếu dứt hết các tập khí đó mới được thường lạc ngã tịnh, mới gọi là đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Ví như vùng nào có thể chứa đựng tất cả những dòng nước thời gọi là biển lớn. Chỗ nào Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chư Phật chứng nhập thời gọi là đại Niết-bàn. Tứ thiền, ba môn tam-muội, tám pháp bội xả, tám pháp thắng xứ, mười pháp nhất thiết xứ, vị nào có thể nhiếp thủ vô lượng pháp lành như vậy thời gọi là đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Ví như có con sông, hương tượng lớn nhất lội không đến đáy thời gọi là sông lớn. Hàng Thanh văn, Duyên giác nhẫn đến Thập trụ Bồ-tát chẳng thấy Phật tánh thời gọi là Niết-bàn, chẳng phải đại Niết-bàn. Nếu có thể thấy rõ Phật tánh thời được gọi là đại Niết-bàn.
Vì đại Niết-bàn là chỗ dung hội được tất cả từ Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đến Phật nên mới gọi là Đại. Còn Niết-bàn của Thanh văn, Duyên giác không dung hội được Bồ-tát và Phật nên không gọi là Đại. Có thể nhiếp thủ vô lượng pháp lành như vậy thời gọi là đại Niết-bàn, nếu chưa nhiếp thủ hết thì chưa gọi là đại Niết-bàn.
Phật dùng lối so sánh Niết-bàn và đại Niết-bàn nhiều bậc. Thứ nhất là Niết-bàn do dung hội được tất cả từ thấp đến cao gọi là Đại. Niết-bàn do chứa đầy đủ tất cả công đức gọi là Đại. Ở đây Niết-bàn do thấy được Phật tánh thì gọi là Đại, chưa thấy thì không gọi là Đại.
Chỉ có đại tượng vương mới có thể tột đến đáy sông lớn đại Niết-bàn. Đại tượng vương đây là lệ cho chư Phật.
Chỉ có chư Phật mới đi tới chỗ đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Nếu các đại lực sĩ trải qua nhiều thời gian không thể leo lên được, mới gọi là núi lớn. Hàng Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát không thể thấy được mới gọi là đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Nơi trấn giữ của các vị tiểu vương thời gọi là thành nhỏ, chỗ của vua Chuyển luân vương trấn đóng mới gọi là thành lớn. Chỗ chứng nhập của Thanh văn, Duyên giác: tám muôn, sáu muôn, bốn muôn, hai muôn, một muôn kiếp, thời gọi là Niết-bàn. Chỗ chứng nhập của Như Lai vô thượng Pháp vương mới được gọi là đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Ví như có người thấy bốn đội binh lòng chẳng sợ sệt, nên biết người này gọi là đại chúng sanh. Nếu có chúng sanh đối với ác đạo phiền não ác nghiệp mà chẳng sợ sệt, có thể ở trong đó rộng độ chúng sanh, nên biết người này đặng đại Niết-bàn.
Nếu có người cúng dường cha mẹ, cung kính Sa-môn và Bà-la-môn thật hành pháp lành, lời nói thành thật không có khi dối, có thể nhẫn những sự ác hại, lại hay bố thí cho kẻ nghèo thiếu, thời gọi là bậc đại trượng phu. Cũng vậy, Bồ-tát có đại từ bi thương xót tất cả, xem chúng sanh như cha mẹ, đưa chúng sanh qua khỏi sông sanh tử, đem đạo Nhất thừa chân thật chỉ dạy cho chúng sanh, đây gọi là đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Chữ Đại là nói chẳng thể nghĩ bàn, nếu chẳng thể nghĩ bàn mà chúng sanh chẳng thể tin được, thời gọi là đại Niết-bàn, chỉ có Phật và Bồ tát thấy được. Lại do vô lượng nhân duyên rồi sau mới có thể được nên gọi là đại. Vì có đại ngã nên gọi là đại Niết-bàn. Vì Niết-bàn không có ngã, vì đại tự tại nên gọi là đại ngã.
Niết-bàn của Phật gọi là đại Niết-bàn, Niết-bàn của Nhị thừa gọi là Niết-bàn. Hàng đại trượng phu thì mới chứng được đại Niết-bàn. Cũng như trên, đại chúng sanh thì mới chứng được đại Niết-bàn.
Niết-bàn không có ngã, đại tự tại gọi là đại ngã, có đại ngã nên gọi là đại Niết-bàn.
Đại tự tại vì có tám điều tự tại: Một là có thể thị hiện một thân làm nhiều thân, số thân lớn nhỏ nhiều như vị trần đầy khắp mười phương vô lượng thế giới. Thân Như Lai thật chẳng phải vi trần vì sức đại tự tại mà thị hiện vi trần thân. Tự tại như vậy thời gọi là đại ngã.
Hai là thị hiện một thân vi trần đầy khắp cõi đại thiên, thật ra thân Như Lai chẳng đầy nơi cõi đại thiên, vì là vô biên, do sức tự tại nên thị hiện đầy khắp nơi cõi đại thiên. Tự tại như vậy gọi là đại ngã.
Ba là có thể đem thân khắp cõi đại thiên này, bay trên hư không nhẹ nhàng đến nơi hai mươi hằng hà sa thế giới mà không chướng ngại. Thật ra thân Như Lai không có nặng nhẹ, do sức tự tại nên làm có nhẹ có nặng, đây gọi là đại ngã.
Bốn là Như Lai chỉ có nhất tâm an trụ chẳng động, do sức tự tại, vô lượng thân hình hóa hiện ra đều làm cho có tâm. Cũng do sức tự tại, có lúc Như Lai làm một việc mà khiến cho tất cả chúng sanh đều được thành tựu. Do sức tự tại thân Như Lai thường ở một cõi mà làm cho tất cả chúng sanh ở cõi khác đều thấy. Tự tại như vậy gọi là đại ngã.
Năm là căn tự tại, với một căn Như Lai có thể thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm vị, cảm xúc, hay biết. Sáu căn của Như Lai thật ra chẳng thấy.
nghe, ngửi, nếm, cảm biết, do sức tự tại nên làm cho sáu căn đều tự tại, do đây gọi là đại ngã.
Sáu là vì tự tại nên chứng đặng tất cả pháp, thật ra tâm Như Lai không có quan niệm chứng đặng, vì là vô sở đắc. Phật thời không có sở đắc nhưng đắc được tất cả. Nếu pháp là có thời có thể gọi là chứng đắc, pháp vẫn không thật có, đâu được gọi là chứng đắc. Giả sử Như Lai có quan niệm chứng đắc thời chư Phật chẳng được Niết-bàn. Do vì không chứng đắc nên gọi là được Niết-bàn. Do tự tại mà chứng được tất cả pháp nên gọi là đại ngã.
Một là do sức đại tự tại thị hiện tự do không ngăn ngại, biến hiện thân lớn nhỏ rất nhiều, gọi là đại ngã. Hai là biến hiện thân trùm khắp đại thiên gọi là đại ngã. Ba là do sức tự tại dời đi không thấy nặng, không bị chướng ngại. Bốn là như trong kinh có nêu, khi Phật phóng quang thấy mười phương thế giới đều rõ ràng. Nhiều chúng sanh nương đó mà thấy các cõi Phật, hoặc các chúng sanh nơi các cõi khác được thấy đức Phật ở cõi này… Đó là sức tự tại. Bởi tự tại nên gọi là đại ngã.
Năm là căn tự tại. Sáu căn tự tại này trong kinh Lăng nghiêm gọi là lục căn hỗ dụng. Nghe thật khó hiểu. Lỗ mũi làm sao nếm mùi, nghe tiếng được? Lỗ mũi làm sao xúc chạm được? Tay xúc chạm thì chỉ biết nóng, biết lạnh, biết vuông, biết tròn… Nhưng có nhiều người chạm tay mà biết được là ai hay vật gì, lỗ mũi có thể biết được mùi và có thể biết được vật đó có vị chua, có vị ngọt hay có vị mặn thay cho lưỡi. Có khi không cần mắt thấy mà vẫn biết có người ở trước mình, như nghe âm thanh gõ cọc cọc, tôi biết thợ đá đang ở phía trước này; người điếc, chỉ cần thấy miệng người ta nhép nhép là đoán được nói cái gì. Như vậy căn này ẩn thì căn kia sáng. Tóm lại, các căn đều có công dụng đặc biệt của nó. Phàm phu thì chỉ xài được công dụng của từng căn, nên chưa gọi là tự tại. Chư Phật sáu căn hỗ dụng thì không còn chướng ngại, có thể dùng các căn thay nhau vô cùng tự tại.
Sáu là vì tự tại nên chứng đặng tất cả pháp, Như Lai không có quan niệm chứng đặng, vì là vô sở đắc. Chúng ta luôn cho tu là phải chứng phải đắc. Ai chứng? Mình chứng. Chứng cái gì? Chứng pháp tu. Như vậy phải có mình và có pháp mới chứng được. Vậy nếu không thấy thật có mình, không thấy thật có pháp thì không có chứng đắc. Trong Bát-nhã Tâm Kinh có câu vì không có sở đắc cho nên Bồ-tát y theo Bát-nhã đắc vô thượng Bồ-đề, có vẻ mâu thuẫn. Nhưng không đắc mà đắc là chỗ đặc biệt. Vì không thấy ngã pháp là thật nên nói không đắc, như thế mới được vô thượng Bồ-đề, mới thành Phật. Nếu chúng ta còn thấy có chứng có đắc thì chưa được Niết-bàn, vì còn có ngã có pháp.
Cho nên người tu, nhất là tu thiền mà nói có chứng đắc là tối kỵ, vì nói chứng đắc đó là bệnh, là không đắc gì hết.
Bảy là diễn thuyết tự tại. Như Lai diễn thuyết nghĩa một bài kệ trải qua vô lượng kiếp cũng chẳng hết như nói về giới, định, thí, huệ v.v… Đức Như Lai chẳng có quan niệm rằng ta nói người nghe, cũng chẳng nghĩ là một bài kệ. Người đời dùng bốn câu làm một bài kệ, Như Lai thuận theo thế tục nên cũng nói là bài kệ. Tất cả pháp tánh cũng không có ngôn thuyết, do sức tự tại nên Như Lai diễn thuyết, vì diễn thuyết nên gọi là đại ngã.
Tám là Như Lai khắp đầy tất cả chỗ như hư không. Tánh hư không chẳng thể thấy được, Như Lai thật cũng chẳng thể thấy được, vì tự tại nên làm cho chúng sanh được thấy. Tự tại như vậy gọi là đại ngã.
Do nghĩa tự tại này nên gọi là đại Niết-bàn.
Bảy là Phật có thể diễn thuyết một bài kệ thời gian không biết bao lâu. Có khi một pháp mà Phật dùng đến bảy tám ví dụ, còn chúng ta ráng tìm một ví dụ nói ra cũng khó, không nói thêm được. Đại sư Trí Giả khi được tam-muội rồi, chỉ năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, ngài giảng một tuần. Người đạt được tự tại, nói năng không bị ngăn trệ, một nghĩa giảng ra rất nhiều nghĩa và dẫn rất nhiều ví dụ để cho người ta hiểu, vì vậy nói là đại ngã.
Tám là Như Lai đầy khắp tất cả như hư không, khiến cho chúng sanh được ngộ được thấy, đó gọi là đại ngã.
Đại Niết-bàn là do đại ngã, đại ngã là do tự tại, tự tại gọi là đại ngã. Không phải như thế gian, người nào chấp ngã lớn gọi là đại ngã, ngã đó là ngã của trầm luận, không phải là ngã của Niết–bàn. Ngã của Niết-bàn là do sức tự tại nên gọi là đại ngã.
Này thiện nam tử! Như kho báu chứa nhiều thứ châu báu lạ kỳ nên gọi là đại tạng. Cũng vậy, tạng pháp rất sâu, rất diệu của Như Lai chứa đầy những pháp kỳ lạ chẳng thể nghĩ bàn, nên gọi là đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Phật nhiều vô biên mới gọi là đại, Niết-bàn vô biên, vô lượng nên gọi là đại. Này thiện nam tử! Lại vì có đại lạc nên gọi là đại Niết-bàn. Niết-bàn vốn không sự vui, do vì bốn điều vui nên gọi là đại Niết-bàn. Một là vì dứt những sự vui, chẳng dứt sự vui thời gọi là khổ, nếu có khổ thời chẳng gọi là thật vui. Vì dứt sự vui nên không có khổ, không khổ không vui mới gọi là đại lạc. Tánh Niết-bàn không khổ không vui nên Niết-bàn gọi là đại lạc. Do nghĩa này mà gọi là Niết-bàn.
Bởi chứa kho báu vô tận nên gọi là đại Niết-bàn. Đây là chỗ đặc biệt của Niết-bàn. Niết-bàn là vui, mà chứng Niết-bàn là dứt tất cả cái vui. Tại sao? Nếu người nào tu hành tâm có tí xíu an ổn cảm thấy vui, Nhưng được cái vui an ổn thanh tịnh đó là do dứt tất cả vui của thế gian như ca nhạc, chợ búa… Chúng ta nhiều khi tưởng chúng là vui, nhưng sự thật không phải là vui, Tất cả vui thế gian không bao giờ có vui an tịnh được. Dứt chúng đi thì mới biết được vui của an tịnh. Ví dụ như nghe nhạc thấy vui, khi hết nghe thì buồn. Hoặc xem thấy những cảnh thích thú là vui, cảnh qua mất cảm thấy buồn. Như vậy vui đó là mầm của khổ, là gốc của vô thường. Dứt những cái vui tạm bợ kia sẽ được cái vui thuần thanh tịnh, cái vui đó gọi là vui Niết-bàn, là đại lạc.
Thế gian vì muốn vui nên khổ. Như nghe quảng cáo mời coi xiếc, coi ca vũ nhạc kịch…, những đứa bé đứng ngoài ao ước vào xem mà không có tiền thì buồn, thì khổ. Hoặc xin được tiền ba má để vào coi thì vui, mai lại nghe rao nữa, xin được một lần đâu xin được hoài, vào coi không được thì khổ. Tất cả vui đó thật là gốc của khổ. Tất cả cái vui thế gian đều như vậy, có rồi mất, lại chạy theo cái khác, cứ vậy nó dẫn mình chạy hoài hoài. Nếu chạy theo thì hết làm ăn, hết cơm hết gạo, không có cái vui an ổn. Người ta thường nhắm vào sở thích của mình, làm chúng ta nôn nao mà chạy theo, chỉ khi nào dứt được những cái vui đó thì mới được an vui thật sự.
Niết-bàn vì không khổ không vui nên gọi là rất vui, là đại lạc. Như có người tới Tu viện hỏi quý thầy ở đây có an ổn vui vẻ không, chúng ta nói an vui. Nói vui là vui của mình, người ta đâu thấy gì vui. Chính cái an tịnh không vui đó mới thật là vui, không khổ không vui mới là cái vui thật, cái vui Niết-bàn, cho nên ngày nào chúng ta cũng chúm chím cười được. Còn những người chạy theo cái vui ồn náo thì không phải là vui, đó là gốc của khổ.
Vui có hai thứ: vui của phàm phu và vui của chư Phật. Vui của phàm phu là vô thường bại hoại, nên không có thật vui. Vui của chư Phật là thường là không biến đổi nên gọi là đại lạc. Lại có ba thứ thọ: một là khổ thọ, hai là lạc thọ, ba là bất khổ bất lạc thọ. Bất khổ bất lạc đây cũng là khổ. Niết bàn dầu cũng chẳng khổ, chẳng vui nhưng là thật vui, do đây nên gọi là đại Niết-bàn.
Hai là vì đại tịch tịnh gọi là đại lạc. Tánh Niết-bàn là đại tịch tịnh, vì xa lìa tất cả sự ồn náo, do đại tịch tịnh nên gọi là đại Niết-bàn.
Ba là vì biết tất cả nên gọi là đại lạc. Như Lai biết tất cả nên gọi là đại Niết-bàn.
Bốn là vì thân chẳng hư hoại nên gọi là đại lạc. Thân Như Lai là thân kim cương không hư hoại, chẳng phải thân phiền não, chẳng phải thân vô thường, nên gọi là đại lạc, là đại Niết-bàn.
Tất cả vui của phàm phu đều vô thường, bại hoại. Như mấy người đi đánh bạc, bữa nào thắng tiền đầy túi về vui hớn hở, mà đâu phải bữa nào cũng thắng, lúc thua lại buồn rầu quạu quọ với người trong nhà. Danh lợi, ăn uống… cũng đều là cái vui vô thường bại hoại không lâu bền. Vui của chư Phật là vui an tịnh, dứt hết những phiền não, những xấu xa trong tâm, thuần thanh tịnh, thuần giác ngộ. Vui này thường còn không biến đổi, đó là đại lạc.
Xúc chạm sanh ra thọ của thân gồm ba thứ, khổ, lạc, không khổ không lạc. Khổ thì đành là khổ rồi, lạc thọ cũng vô thường nên khổ. Còn bất khổ bất lạc thấy như tương tự với không khổ không vui của Niết-bàn nhưng khác vì có thọ. Như uống nước ngọt, lưỡi chúng ta xúc chạm vị ngọt mình thích, gọi là lạc thọ. Còn nếu uống ly nước có thuốc ký-ninh đắng, không thích, gọi là khổ thọ. Uống một ly nước lạnh không đắng không ngọt thì gọi là thọ không khổ không lạc. Ba thọ này đều là vô thường nên nói thuộc khổ, bại hoại. Cái vui Niết-bàn không phải vậy, không khổ không lạc đây nghĩa là tâm hoàn toàn an lành thanh tịnh, là đại Niết-bàn.
Hai là đại tịch tịnh nên gọi là đại Niết-bàn. Người đời thích vui chán khổ, tìm những cái vui ồn náo, đông người chung hợp. Cái vui ồn náo, khi tụ họp lại đông thì vui, ly tán thì buồn. Vui đó là vô thường, là gốc của khổ. Còn người tu hay chư Phật, chư Bồ-tát cũng không thích khổ mà hướng về vui, nhưng vui của các ngài hướng về là cái vui tịch tịnh. Bởi tịch tịnh nên xa lìa mọi sự ồn náo, là cái vui an lành của tự tâm, nên lúc nào vui đó cũng còn mãi gọi là đại Niết-bàn. Đó mới là cái vui chân thật. Cho nên người tu ở chỗ vắng vẻ một mình vẫn thấy vui, thấy an lành thanh tịnh, cái vui này không ai đổi được, cũng không làm mất được.
Tại sao biết tất cả là đại lạc? Chợt tìm được cái lạ chúng ta đã vui, huống nữa là biết tất cả cái mà thế gian chưa biết thì làm sao không vui được. Vì vậy nói do biết tất cả nên gọi là đại lạc. Đại lạc cho nên gọi là đại Niết-bàn.
Sao là thân kim cương? Thân tứ đại hòa hợp này gọi là nhục thân. Nếu hướng về thân thịt, thân máu mủ này tìm cái vui thì không bền, là cái vui của bại hoại nên không thật vui. Còn người lanh lợi sáng suốt, nhận được Phật tánh không sanh không diệt không hình không tướng, nhận biết rõ ràng không ngờ vực nữa. Phật tánh đó gọi là pháp thân hằng còn, không gì xúc não được, nên ví như kim cương, chứ không phải là thân bằng ngọc hay kim cương. Ai biết trở về thân kim cương không phải thân vô thường, là đại lạc, là đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Danh tự của thế gian hoặc có nhân duyên đặt ra, hoặc không nhân duyên đặt ra. Có nhân duyên đặt ra, như Xá-lợi-phất, vì bà mẹ tên là Xá-lợi, nhân tên mẹ mà đặt tên ông là Xá-lợi-phất. Như Ma-vu-la đạo nhân, vì sanh quán tại nước Ma-vu-la, nhân tên nước mà đặt tên cho đạo nhân. Như Mục-kiền-liên, Mục-kiền-liên chính là họ, nhân họ đặt tên gọi là Mục-kiền-liên. Như ta sanh trong giòng Cù-đàm, nhân giòng họ đặt tên gọi ta là Cù-đàm. Như nhà thông thái Tỳ-xá-khư, Tỳ-xá-khư chính là tên một ngôi sao, nhân ngôi sao này đặt tên là Tỳ-xá-khư. Như người có sáu ngón tay, nhân đây gọi là người sáu ngón. Như danh từ Phật nô, Thiên nô, nhân nơi Phật, nhân nơi Thiên, mà gọi là Phật nô, Thiên nô. Như nhân nơi ẩm ướt sanh ra nên gọi là loài thấp sanh. Như nhân nơi tiếng mà gọi là Ca-ca-la, gọi là Cứu-cứu-la. Những danh từ như vậy là có nhân duyên mà đặt tên.
Không nhân duyên mà đặt ra, như hoa sen, như đất, nước, gió, lửa, hư không. Như một danh từ mạn-đà bà chỉ cho hai vật; điện đường và uống nước, điện đường chẳng phải uống nước nhưng cũng đều được gọi là mạn-đà-bà. Như tát-bà-sa-đa gọi là xà cái, thật chẳng phải là xà cái. Như trên đây gọi là không nhân mà lập danh tự.
Thế gian đặt tên tùy theo duyên, do nhân duyên cha mẹ mà đặt tên con, hoặc nhân duyên xứ sở, hoặc tùy thuộc giòng họ, hoặc nhân duyên nào đó mà đặt tên.
Ví dụ Phật nô, Thiên nô tức là kẻ tôi tớ của Phật, tôi tớ của chư thiên. Vì có Phật có chư thiên mới đặt ra tên đó để chỉ cho sự lệ thuộc.
Lại có những danh từ đặt ra mà không tùy thuộc vào cái gì. Ví dụ như hoa sen, như đất nước gió lửa hư không, những thứ này không tùy thuộc cái gì nên gọi là không nhân duyên. Hoặc những danh từ Ấn Độ như mạn-đà-bà, chỉ cho nhà cửa điện đường, hay chỉ cho uống nước, một danh từ có hai nghĩa, tùy chỗ mà dùng.
Này thiện nam tử! Đại Niết-bàn đây cũng không có nhân duyên mà lập danh tự. Như hư không chẳng nhân sự trống rỗng nhỏ mà gọi là đại không, Niết-bàn cũng chẳng nhân nơi tướng nhỏ mà gọi là đại Niết-bàn. Ví như có một vật chẳng thể cân lường chẳng thể nghĩ bàn thời gọi là đại, Niết-bàn cũng chẳng thể cân lường chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là đại Niết-bàn.
Do vì thuần thanh tịnh nên gọi là đại Niết-bàn. Thanh tịnh có bốn thứ: Một là hai mươi lăm cõi gọi là bất tịnh, vì có thể dứt hẳn nên gọi là thanh tịnh. Thanh tịnh đây tức là Niết-bàn. Niết-bàn này cũng đặng gọi là có. Nhưng thật ra Niết-bàn chẳng phải là có, Như Lai thuận theo thế tục nên nói Niết-bàn là có. Ví như người đời chẳng phải cha gọi là cha, chẳng phải mẹ gọi là mẹ, chẳng phải thật cha mẹ mà nói là cha mẹ. Cũng vậy, tùy thuận theo thế tục nên nói chư Phật có đại Niết-bàn.
Phật muốn chúng ta thoát ngoài đối đãi. Nghe nói đại Niết-bàn thì chúng ta sẽ so sánh với tiểu Niết-bàn. Nếu có đại có tiểu thì Niết-bàn đó cũng nằm trong tương đối. Đại Niết-bàn là chỉ cho Niết-bàn tuyệt đối không thể nghĩ bàn, không thể cân lường, vượt ngoài tương đối.
Danh từ thanh tịnh có nhiều nghĩa khác nhau. Ví dụ nói tu hành cho được thanh tịnh nghĩa là mình không phạm tội nói dối, ăn cắp, hay không phạm giới luật gọi là thanh tịnh. Đây Phật nói thanh tịnh là dứt hết hai mươi lăm cõi. Nếu còn chủng tử phiền não để sanh trong hai mươi lăm cõi, hay nói cách khác là còn chủng tử để luân hồi gọi là bất tịnh. Người nào dứt hết chủng tử luân hồi gọi là thanh tịnh.
Có hình tướng mới gọi là có, nếu không hình tướng thì gọi là không. Niết-bàn không hình tướng nên không, nhưng chứng được nên gọi là có. Đó là tùy thuận theo thế tục mà nói. Niết-bàn là tự khế hợp nên không nói có không nói không, nếu nói có nói không thì nằm trong tương đối rồi.
Hai là vì nghiệp thanh tịnh. Tất cả phàm phu vì nghiệp chẳng thanh tịnh nên không có Niết-bàn. Như Lai vì nghiệp thanh tịnh nên gọi là đại tịnh, do đại tịnh nên gọi là đại Niết-bàn.
Ba là vì thân thanh tịnh. Thân vô thường thời gọi là chẳng thanh tịnh. Thân Như Lai thường trụ không biến đổi nên gọi là đại tịnh, vì đại tịnh nên gọi là đại Niết-bàn.
Son Bốn là vì tâm thanh tịnh. Tâm nếu có ác lậu thời gọi là chẳng thanh tịnh. Tâm của Phật vô lậu nên gọi là đại tịnh, vì đại tịnh nên gọi là đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Đây gọi là nam tử, nữ nhân tu hành kinh Đại Niết-bàn này thành tựu đầy đủ phần công đức thứ nhất.
Tất cả nghiệp đều trong sạch nên gọi là đại Niết-bàn. Thân thanh tịnh là chỉ pháp thân hay Phật tánh. Thân đó thường hằng nên thanh tịnh, thân chúng ta là thân vô thường nên bất tịnh. Vì vậy nên nói thân thanh tịnh đó là đại Niết-bàn. Tâm thanh tịnh là tâm không còn một chút nhiễm ác, gọi là tâm thanh tịnh vô lậu, là đại Niết-bàn.
Tu đại Niết-bàn có năm công đức. Một là chỗ chẳng nghe có thể đặng nghe, hai là nghe rồi có thể làm lợi ích, ba là có thể dứt tâm nghi hoặc, bốn là được trí tuệ chánh trực, năm là có thể biết tạng bí mật của Như Lai. Trên đây là thành tựu phần công đức thứ nhất.
Này thiện nam tử! Kế đây là đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ hai.
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn, xưa chỗ chẳng dược mà nay được, xưa chỗ chẳng thấy mà nay được thấy, xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe, xưa chỗ chẳng đến mà nay được đến, xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Thế nào gọi là xưa chẳng được mà nay được? Chính là nói về thần thông. Thần thông có hai thứ: một là ngoài, hai là trong. Thần thông ngoài thời cùng ngoại đạo giống nhau. Thần thông trong lại có hai thứ: một là của Nhị thừa, hai là của Bồ-tát. Thần thông của Bồ-tát, hàng Thanh văn Bích-chi Phật chẳng có được. Hàng Nhị thừa biến hóa một tâm hiện làm một chẳng hiện được nhiều. Bồ-tát ở trong một tâm thời có thể hiện đủ tất cả thân trong lục đạo, do vì được thế lực của kinh Đại Niết-bàn. Đây gọi là xưa chỗ chẳng được mà nay được. Lại Bồ-tát được thân tự tại, tâm tự tại. Tất cả phàm phu thân cũng như tâm đều chẳng tự tại hoặc tâm theo nơi thân, hoặc thân theo nơi tâm. Ví như người say, rượu ở trong thân, lúc bấy giờ thân động tâm cũng động theo, cũng như thân mỏi mệt thì tâm cũng mỏi mệt theo, đây thời gọi là tâm theo nơi thân. Lại như trẻ thơ, thân nó nhỏ bé, tâm nó nhỏ theo, người lớn thân lớn thì tâm cũng lớn theo. Lại như có người thân thể thô rít, tâm họ thường nghĩ đến dầu mỡ muốn thoa cho được trơn nhuyễn, đây cũng gọi là tâm theo nơi thân.
Phần công đức thứ hai cũng có năm: xưa chỗ chẳng được mà nay được, xưa chỗ chẳng thấy mà nay được thấy, xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe, xưa chỗ chẳng đến mà nay được đến, xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Một là xưa chỗ chẳng được mà nay được tức là thần thông. Bồ-tát do vì được thế lực của kinh Đại Niết-bàn, ở trong một tâm có thể hiện đủ tất cả thân trong lục đạo, hàng Nhị thừa không bằng. Đây gọi là xưa chỗ chẳng được mà nay được.
Bồ-tát lại được thân tâm tự tại. Chúng ta thì hoặc tâm theo nơi thân, hoặc thân theo nơi tâm. Ngồi thiền bữa nào mệt nhọc quá, muốn giữ cho tỉnh táo nhưng một hồi lại gục, tâm cũng bị mờ mịt yếu đuối. Thân mỏi mệt tâm cũng mỏi mệt theo. Và thân có gì bực bội thì tâm cũng luôn nghĩ tới, ví dụ khi người rít rắm thì tâm nghĩ đến nước muốn tắm. Đây gọi là tâm theo nơi thân.
Thế nào gọi là thân theo nơi tâm? Chính là đi, đến, ngồi, nằm, thật hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, người sầu não thời thân gầy héo, người vui mừng thời thân tươi nở, người kinh sợ thời thân run rẩy, chuyên tâm thính pháp thời thân vui vẻ, người buồn khóc thời nước mũi, nước mắt chảy tuôn đây thời gọi là thân theo nơi tâm.
Tâm muốn đi thì thân theo đó cất bước, Tâm vừa nghĩ nằm thì thân theo đó mà nằm, Muốn ngồi, muốn đứng cũng vậy, Tâm muốn làm việc bố thí, trì giới, thân cũng tùy thuận theo. Ví dụ như bị người đánh, lúc đó tâm nghĩ phải nhẫn nhục, thì thân theo đó mà nhịn. Đó là thân theo tâm.
Chúng ta thấy rõ bệnh là gốc tại tâm, tâm buồn sanh ra bệnh hoạn. Biết thân theo tâm, nên muốn ít bệnh hoạn thì phải vui vẻ tươi tỉnh. Nếu người nào sầu não mặt nhăn nhó hoài thì dễ đau tim, hoặc đau gan đau phổi, là gốc của bệnh. Đó là nghĩa thân theo tâm.
Cho nên khi tu được tâm vững rồi, thì thân cũng theo đó mà khỏe. Việc này tôi đã kinh nghiệm nhiều. Khi tôi đau nằm nhà thương, bệnh phổi kỵ ở xứ lạnh mà tôi trái lời bác sĩ lên Bảo Lộc ở. Vì tôi tin rằng nếu tâm không lo, không phiền não thì bệnh hết. Quả thật tôi lên ở có hai năm thì hết bệnh. Như vậy tức là thân theo tâm. Tâm được an ổn thì hết bệnh, nếu bệnh mà ở chỗ nào cũng bực bội làm sao hết bệnh.
Bồ-tát thời chẳng như vậy thân tâm đều được tự tại. Đại Bồ-tát hiện thân tướng như vi trần, thân vi trần này có thể khắp đến vô lượng vô biên hằng hà sa thế giới không bị chướng ngại, mà tâm Bồ-tát thường định vẫn không di động, đây thời gọi là tâm chẳng theo nơi thân và cũng gọi là xưa chỗ chẳng đến mà nay được đến, vì tất cả Thanh văn, Bích-chi Phật chẳng thể đến được mà Bồ-tát đến được. Tất cả Thanh văn, Bích-chi Phật dầu dùng thần thông chẳng có thể biến thân nhỏ như vi trần khắp đến vô lượng hằng hà sa thế giới. Thanh văn, Bích-chi Phật lúc thân động thời tâm cũng động theo.
Đại Bồ-tát thân tâm đều được tự tại, hiện thân tướng như vi trần, đến vô lượng vô biên hằng hà sa thế giới không bị chướng ngại, mà tâm Bồ-tát thường định vẫn không di động. Đây là tâm chẳng theo nơi thân, và cũng gọi là xưa chỗ chẳng đến mà nay được đến. Nhị thừa không được vậy, thân động tâm cũng động theo.
Thường thường trong thiền tông, ai chú trọng ngồi nhiều quá bị quý ngài quở là Nhị thừa. Tại sao?
Vì Thanh văn, Duyên giác khi ngồi, thân yên tâm mới định. Khi thân yên tâm mới định thì khi thân động tâm sẽ loạn, đó là thân tâm chưa tự tại. Cho nên thiền sư tập định trong cái động, đi đứng nằm ngồi, làm tất cả các việc, đi chăn trâu, cày ruộng, cuốc đất, bửa củi đều định. Như Lục Tổ bửa củi giã gạo trong cái động mà tâm định. Thân tâm tự tại thì thân động mà tâm vẫn yên. Đó mới thật là hạnh của Bồ-tát. Cho nên ráng tập, đi cuốc đất cũng thiền, nấu cơm cũng thiền chứ không phải chỉ ngồi thiền, cái đó chưa được. Sơ cơ thì ngồi là tốt, không phải nói vậy rồi bỏ ngồi. Khi ngồi được yên, khi làm cũng phải tập cho yên nữa, như vậy mới tốt, mới tự tại.
Bồ-tát chẳng như vậy, tâm dầu chẳng động mà thân đến khắp tất cả chỗ, đây gọi là tâm chẳng theo nơi thân. Lại Bồ-tát hóa thân lớn bằng đại thiên thế giới, đem thân to lớn này chui vào thân nhỏ như vi trần, tâm của Bồ-tát cũng chẳng nhỏ theo. Thanh văn, Bích-chi Phật dầu có thể hóa thân to lớn như đại thiên thế giới nhưng chẳng thể đem thân to lớn này chui vào thân nhỏ như vị trần.
Trong việc này Nhị thừa còn chẳng làm được huống là có thể khiến tâm chẳng động theo. Đây gọi là Bồ-tát tâm chẳng theo nơi thân.
Đại Bồ-tát dùng một âm thanh có thể làm cho tất cả chúng sanh trong đại thiên thế giới đều nghe, trong tâm Bồ-tát trọn chẳng nghĩ rằng khiến âm thanh này khắp đến các thế giới làm cho chúng sanh được nghe, Bồ-tát nói rằng do tôi thuyết pháp làm cho chúng sanh được nghe, nên biết người này trọn chẳng thể đặng Vô thượng Chánh giác. Vì tâm tưởng như trên đây là tâm sanh tử. Tất cả đại Bồ-tát đã hết tâm sanh tử này vì thế nên thân tâm của Bồ-tát chẳng theo dõi nhau.
Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu thân tâm theo nhau. Bồ tát chẳng như vậy, vì hóa độ chúng sanh nên dầu hiện thân nhỏ nhưng tâm chẳng bé nhỏ vì tâm tánh của Bồ-tát luôn rộng lớn. Dầu lúc hiện thân lớn như đại thiên thế giới, nhưng tâm cũng chẳng lớn. Do nghĩa này nên tâm của Bồ-tát chẳng theo nơi thân. Đại Bồ-tát đã từ vô lượng, vô số kiếp xa lìa rượu chẳng uống, nhưng tâm cũng động, tâm không buồn khổ mà thân cũng rơi lệ, thật không kinh sợ mà thân cũng run rẩy, do đây nên biết rằng Bồ-tát thân tâm tự tại, chẳng theo dõi nhau. Đại Bồ-tát dầu hiện một thân, mà các chúng sanh mỗi người tự thấy sai khác.
Bồ-tát tự tại hiện lớn cũng được mà nhỏ cũng được, thân biến hóa lớn nhỏ mà tâm vẫn an nhiên, Trong các kinh như kinh Pháp Hoa…, các vị Bồ-tát ở cõi nước khác đi đến cõi này nghe kinh mà tâm vẫn ở trong đại định, thân có dời đổi mà tâm luôn luôn trong định, Chúng ta làm sao đi đâu làm gì tâm vẫn ở trong định thì nấu cơm nấu nước… cũng là đạo hết, không có chỗ nào không phải đạo. Nhị thừa làm lớn được mà làm nhỏ không được, nên không thể khiến tâm chẳng động theo.
Phàm phu uống rượu vào thì tâm bị kích động, thân liền bị loạn. Bồ-tát thân vẫn động, cũng đến cũng đi, cũng làm công việc, nhưng thân động không phải vì tâm động. Thân động mà tâm vẫn an định. Tâm không buồn khổ mà thân cũng rơi lệ, trong kinh thường nói, Bồ-tát khi có người đến xin mà không có gì để cho thì các ngài rơi lệ dầm dề. Khóc như vậy không phải buồn thảm phiền não mà khóc. Tâm vẫn yên, thấy sự đau khổ của chúng sanh thì rơi lệ nhưng không phải vì phiền não.
Chỗ này tế nhị khó hiểu. Bồ-tát, La-hán lẽ ra không còn đau khổ, không còn rơi nước mắt, nhưng trong phẩm Ai Thán, các ngài khóc sướt mướt khi nghe Phật sắp Niết-bàn. Bồ-tát, La-hán cũng xúc động chứ không phải không. Xúc động do từ bi thương xót chứ không phải vì phiền não đau khổ. Nhiều người tu, khi xúc động cũng chảy nước mắt, người khác cười “tu lâu mà còn rơi nước mắt, tôi mới tu mà tôi không rơi nước mắt”, nói vậy nghe như là hay nhưng không phải. Thấy cảnh đau khổ của chúng sanh có khi phải xúc động, đó là vì từ bi chứ không phải do ái trước. Chúng ta thường khóc vì ái trước, như thương con quá, khi con đi xa thì khóc, đó là vì ái, Các ngài khóc do lòng từ bi thấy người ta khổ mà không giúp được.
Khi Tứ Tổ đi đến chỗ ngài Pháp Dung, đến gần am bất chợt có một con cọp nhảy ra, Tứ Tổ giật mình. Ngài Pháp Dung hỏi: “Ngài cũng còn cái đó sao?” Cái đó không phải do tâm kinh sợ mà chỉ là một phản xạ tự nhiên của con người. Tứ Tổ hỏi lại: “Cái đó là cái gì?” Ngài Pháp Dung không trả lời được. Như vậy không phải vì kinh sợ nhưng bất thình lình thì giật mình. Cho nên nói thật không kinh sợ mà thân cũng run rẩy.
Thế nào là đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn, xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe? Đại Bồ-tát trước lấy tướng các thứ tiếng: tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng người, tiếng ốc, tiếng trống, tiếng ống tiêu, tiếng ca, tiếng cười, v.v… mà luyện tập đó, do luyện tập nên có thể nghe tất cả tiếng của những địa ngục trong vô lượng đại thiên thế giới, lại càng tu tập thêm nên được nhĩ căn khác lạ, khác hơn thiên nhĩ của Thanh văn, Bích-chi Phật. Vì nhĩ căn thanh tịnh của Nhị thừa nếu nương tứ đại tịnh diệu của Sơ thiền thời chỉ nghe tiếng cõi Sơ thiền chẳng nghe được cõi Nhị thiền, nhẫn đến Tứ thiền cũng như vậy, dầu có thể trong một lúc được nghe tất cả tiếng trong đại thiên thế giới nhưng chẳng thể nghe được tiếng trong vô lượng vô biên hằng sa thế giới. Do nghĩa này nên gọi là Bồ-tát xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe, Bồ-tát dầu nghe tiếng tâm mà trong lòng vẫn không có tướng nghe tiếng, chẳng có tướng thường, lạc, ngã, tịnh, tướng chủ, tướng y, tướng tác, tướng nhân, tướng định, tướng quả. Do nghĩa này nên các vị Bồ-tát xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe.”
Xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe là chỉ cho cái định của Bồ-tát, do đối tất cả tiếng các ngài đã luyện tập thuần thục cho nên sau này các ngài nghe được tất cả các tiếng đồng một lúc. Còn như hàng Thanh văn Bích-chi Phật, khi tu về nhĩ căn thanh tịnh của Nhị thiền thì chỉ nghe được tiếng của Nhị thiền, nhĩ căn thanh tịnh của Sơ thiền thì chỉ nghe được tiếng của Sơ thiền… còn những tiếng của các cõi kia thì không nghe được. Định của Bồ-tát vượt hơn tất cả định của hàng Thanh văn Bích-chi Phật.
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát bạch rằng: “Thế Tôn! Như Phật nói Bồ-tát chẳng thấy có tướng định, không tướng quả thời không được đúng. Vì trước kia Như Lai nói: Nếu có người nghe một chữ một câu kinh Đại Niết-bàn này quyết định được thành vô thượng Bồ-đề. Giờ đây sao Như Lai lại nói là không định không quả? Nếu được vô thượng Bồ-đề thời chính là tướng quyết định, chính là tướng quả sao lại nói rằng không định không quả? Vì nghe tiếng ác thời sanh tâm ác vì sanh tâm ác thời đọa tam đồ, nếu đọa tam đồ thời là định quả, sao lại nói rằng không định không quả?”
Như Lai khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông có thể thưa hỏi như vậy. Giả sử chư Phật nói các âm thanh là có tướng định quả, đây thời chẳng phải là tướng chư Phật, mà là tướng ma vương, là tướng sanh tử, là tướng xa lìa Niết-bàn. Vì tất cả chư Phật chỗ nói ra không có tướng định quả. Ví như dùng lưỡi dao sáng soi mặt người: dựng đứng thời thấy mặt dài, để ngang thời thấy mặt rộng (tướng nó không cố định, tùy duyên hiện ra). Do nghĩa đây nên chư Phật phàm nói ra không có tướng định quả. Đại Niết-bàn thật chẳng phải kết quả của tiếng. Giả sử Niết-bàn là quả của tiếng thời Niết-bàn chẳng phải là pháp thường trụ. Ví như những pháp trong đời theo nhân mà sanh, có nhân thời có quả, không nhân thời không quả, vì nhân vô thường nên quả cũng vô thường, nhân cũng làm quả, quả cũng làm nhân, do nghĩa này nên tất cả pháp không có tướng nhất định. Giả sử Niết-bàn từ nhân mà sanh, vì nhân vô thường nên quả cũng vô thường. Nhưng Niết-bàn chẳng từ nhân mà sanh, thể Niết-bàn chẳng phải là quả, vì thế nên Niết-bàn là thường trụ. Do nghĩa đây nên thể của Niết-bàn là không định không quả.
Này thiện nam tử! Luận về Niết-bàn, cũng có thể nói là định, cũng có thể nói là quả. Niết-bàn của tất cả chư Phật là thường, lạc, ngã, tịnh nên nói là định, không sanh già hư hoại nên nói là định. Nhất-xiển-đề phạm bốn tội nặng, hủy báng Đại thừa, tạo tội ngũ nghịch, rời bỏ bản tâm (tức là khi đã rời bỏ tâm trước) thời quyết định chứng đặng Niết-bàn, nên gọi là định.
Nếu nói nghe một tiếng kinh Đại Niết-bàn liền được kết quả thì Niết-bàn là kết quả của tiếng, nếu là do tiếng thì đó là Niết-bàn lệ thuộc bên ngoài chứ không phải trong tâm tu. Đó là ma vương nói.
Vì tất cả pháp thế gian nhân quả nương nhau, nhân làm quả quả làm nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy nên không có tướng nhất định.
Giả sử người xấu cho nên mang tội, bây giờ họ rời bỏ những nết xấu thì nhất định hết tội. Do bỏ hết những cái xấu cũ, tiến tu được Niết-bàn, nên nói là định.
Này thiện nam tử! Như ông vừa nói: Nếu có người nghe một chữ, một câu kinh Đại Niết-bàn, thời đặng vô thượng Bồ-đề. Đối với nghĩa này, ông còn chưa hiểu rõ. Ông nên lóng nghe! Nếu có người nghe một câu, một chữ kinh Đại Niết-bàn, trong tâm chẳng có quan niệm tướng chữ, tướng câu, chẳng có tướng nghe, tướng Phật, tướng nói pháp, đây gọi là tướng vô tướng. Do tướng vô tướng nên đặng vô thượng Bồ-đề.
Nếu nói nhân nơi tiếng mà được vô thượng Bồ-đề là lầm. Nghe một câu mà không thấy tướng chữ tức không chấp nơi chữ, không thấy tướng câu tức không chấp nơi câu, chẳng có tướng nghe thì không chấp nơi mình, không thấy tướng Phật tức không chấp nơi Phật, không thấy tướng nói pháp tức không chấp nơi pháp. Không chấp mình, không chấp Phật, không chấp pháp, không chấp lời, như vậy là tướng mà vô tướng. Đó là được vô thượng Bồ-đề.
Này thiện nam tử! Như ông vừa nói vì nghe tiếng ác, mà đến tam đồ, nghĩa đó không phải. Vì chẳng phải tiếng ác mà đến tam đồ. Phải biết quả này là do tâm ác. Vì như có người nghe tiếng ác mà tâm chẳng sanh ác, do đây nên biết chẳng phải do tiếng ác mà đọa trong tam đồ. Nhưng chúng sanh do nơi phiền não ác tâm quá nhiều mà phải sanh vào ba đường ác, chẳng phải là do nơi tiếng ác. Nếu tiếng có tướng quyết định, những người nghe tiếng ác, lẽ ra tất cả đều sanh tâm ác. Nay nghe tiếng ác, mà có người sanh tâm ác, có người chẳng sanh tâm ác, nên biết rằng tiếng không có tướng quyết định. Do vì không tướng quyết định nên dầu nghe tiếng ác mà chẳng sanh tâm ác.”
Ví dụ người ta nói “mày là đồ súc sanh”, chúng ta có thành súc sanh hay không? Không. Do tâm nghĩ theo tâm niệm súc sanh cho nên mới đọa làm súc sanh chứ đâu phải người ta chửi mà mình thành súc sanh. Điều này rất rõ ràng. Như có người bị mắng liền nổi sân lên và mắng lại, đó là nghe tiếng ác mà sanh tâm ác. Nhưng cũng có người nghe tiếng mắng chỉ cười, nghĩ rằng người ta đang thử mình nên không buồn phiền. Đó là do tiếng ác mà không sanh tâm ác, nên biết tiếng không có tướng quyết định.
Ngài Cao Quý Đức Vương Bồ-tát lại hỏi rằng:
“Bạch Thế Tôn! Tiếng nếu không quyết định, cớ sao Bồ-tát nay đặng nghe chỗ xưa chẳng nghe?”
“Này thiện nam tử! Tiếng không có tướng quyết định nên làm cho Bồ tát nay được nghe chỗ xưa chẳng nghe. Do nghĩa này nên Như Lai nói xưa chỗ chẳng nghe, mà nay được nghe.
Này thiện nam tử! Thế nào là chỗ xưa chẳng thấy mà nay được thấy? Đại Bồ-tát tu kinh Đại Niết-bàn, trước lấy tướng sáng: những ánh sáng mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đèn đuốc, bảo châu, lửa, Do tu tập ánh sáng mà đặng nhãn căn khác lạ, khác hơn thiên nhãn của Thanh văn Duyên giác, Thiên nhãn của Nhị thừa nếu nương nơi nhãn căn tứ đại cõi Dục thời chẳng thấy Sơ thiền, nếu nương nơi nhãn căn Sơ thiền thời chẳng thấy cõi trên, cũng chẳng thấy nhãn căn của chính mình, nhiều lắm là thấy tột đến đại thiên thế giới. Đại Bồ-tát chẳng tu thiên nhãn, thấy sắc thân tốt đẹp đều là tướng xương trắng, dầu thấy sắc tướng trong hằng hà sa thế giới khác, nhưng chẳng tưởng là sắc tướng, chẳng tưởng là tướng thường, tướng có, tướng vật, tướng danh tự, chẳng tưởng là tướng thấy, cũng chẳng nói nhãn căn này có tướng thanh tịnh vi diệu, chỉ thấy là tướng nhân duyên cùng tướng chẳng phải nhân duyên. Thế nào là nhân duyên? Sắc là cảnh duyên của nhãn căn. Giả sử sắc chẳng phải là nhân duyên, thời tất cả phàm phu lẽ ra chẳng thấy tướng sắc. Thế nào là chẳng phải nhân duyên? Đại Bồ-tát dầu thấy sắc nhưng chẳng tưởng là tướng sắc, do đây nên chẳng phải là duyên. Vì thế nên thiên nhãn thanh tịnh của Bồ-tát khác với thiên nhãn của Thanh văn Duyên giác. Trong một lúc, Bồ-tát thấy khắp chư Phật hiện tại ở mười phương thế giới. Cũng có thể thấy vị trần. Hàng Thanh văn Duyên giác chẳng thấy được như thế, Bồ-tát dầu thấy nhãn căn của mình mà vẫn không có tướng thấy, thấy tướng vô thường, thấy thân của phàm phu có ba mươi sáu vật, chứa đầy những thứ bất tịnh, thấy rõ như xem trái a-ma-lặc trong bàn tay. Nếu thấy sắc tướng của chúng sanh, Bồ-tát biết người này là căn tánh Đại thừa hay Tiểu thừa. Đụng chạm đến y phục của họ, Bồ tát cũng biết người đó có những căn lành hay căn chẳng lành. Do đây nên gọi là xưa chỗ chẳng thấy mà nay được thấy cũng gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết. Vì khi thấy thời biết chỗ xưa chẳng biết, do vì biết nên thấy chỗ xưa chẳng thấy.
Bởi tiếng không có tướng quyết định nên mới nghe được cái ngày xưa chẳng nghe. Các vị Bồ-tát khi tu định của nhãn căn đối trước tất cả những ánh sáng đều định được, nên thấy xa hơn tất cả các hàng Thanh văn và Duyên giác. Còn hàng Thanh văn Duyên giác y cứ vào định nào thì chỉ thấy chừng ngần ấy, ngoài cái đó thì không thấy. Bồ-tát tu tập tất cả các ánh sáng nên chỗ nào các ngài cũng thấy nên thù thắng hơn. Đó là nói chỗ xưa chẳng thấy mà nay được thấy.
Này thiện nam tử! Thế nào là Bồ-tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết? Đại Bồ-tát dầu biết tâm tham, sân, si của phàm phu, nhưng vẫn chẳng tưởng là tâm và tâm sở, chẳng tưởng là chúng sanh cùng vật. Thường tu tướng rốt ráo không đệ nhất nghĩa, do tu tập tướng không, nên biết được chỗ xưa chẳng biết.
Biết như thế nào? Biết không có ngã không có ngã sở, biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Vì có Phật tánh nên hàng nhất-xiển-đề rời bỏ được bản tâm thời sẽ đặng Vô thượng Chánh giác. Những điều trên đây hàng Thanh văn Duyên giác chẳng biết được mà Bồ-tát có thể biết. Vì thế nên gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Sở dĩ đại Bồ-tát biết được chỗ xưa chẳng biết là do Bồ-tát đối với tâm của chúng sanh không thấy là thật. Và cũng thường sống trong định Đệ nhất nghĩa không. Đệ nhất nghĩa không là thấy tất cả tướng không tự tánh, an định trong đó nên những chỗ xưa không biết mà nay được biết.
Tâm tham sân si của phàm phu có thật hay không? Nếu có thật thì tham phải tham hoài, sân phải sân hoài. Nhưng có khi tham có khi không tham, có khi sân có khi không sân, nó không thật. Bởi không thật nên biết tham sân si là do nhân duyên mà có nên không tự tánh. Bồ-tát không chấp đó là thật, vì vậy các ngài an trụ trong trong định Không, tức là thấy tất cả các pháp không có tự tánh. Biết rõ như vậy nên không cố chấp. Biết như vậy gọi là biết chỗ xưa chẳng biết.
Chính kinh Đại Niết-bàn này làm cho chúng ta có niềm tin mãnh liệt rằng mình có Phật tánh và quả quyết mình tu rồi cũng sẽ thành Phật, như có hạt giống thì sẽ ươm thành cây, chắc chắn như vậy. Đối với người, kinh này giúp cho chúng ta có một tâm lượng rộng rãi bao dung. Như đối với hạng nhất-xiển-đề hủy báng Đại thừa, tạo tội ngũ nghịch, là người xấu ác bậc nhất không còn một chút thiện căn, theo kinh điển Tiểu thừa thì chắc chắn họ sẽ xuống địa ngục. Nhưng kinh này Phật nói những người xấu ác như vậy nếu bỏ tâm xấu ác đi, hối hận ăn năn tu thì cũng được thành Phật. Chúng ta nghe lời này rồi nên nghĩ những người xấu ác nhưng mình hóa độ họ bỏ được tâm xấu, họ cũng thành Phật được, nếu loại họ ra không giáo hóa thì chúng ta chưa bao dung được tất cả.
Những điều trên đây hàng Thanh văn Duyên giác chẳng biết được mà Bồ-tát có thể biết. Vì thế nên gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Đại Bồ-tát tu kinh Đại Niết-bàn nhớ đời quá khứ tất cả chúng sanh bao nhiêu những giòng họ cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, bạn thân, kẻ thù. Trong một niệm Bồ-tát đặng trí khác lạ, khác với trí huệ của Thanh văn, Duyên giác. Thế nào là khác? Trí huệ của Thanh văn, Duyên giác nhớ đến giòng họ cha mẹ v.v… của chúng sanh đời quá khứ mà có tướng giòng họ cha mẹ v.v… Bồ-tát dầu nghĩ nhớ giòng họ cha mẹ thuở quá khứ, nhưng trọn chẳng tưởng có tướng giòng họ cha mẹ v.v… mà thường thấy tướng không tịch. Đây gọi là Bồ-tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn đặng tha tâm trí khác với Thanh văn, Duyên giác. Thế nào là khác? Hàng Thanh văn Duyên giác lúc dùng một niệm trí biết tâm của người, thời chẳng thể biết tâm của chư thiên, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục. Trong một niệm Bồ-tát biết khắp tất cả tâm của lục đạo chúng sanh. Đây gọi là Bồ-tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết. Bồ-tát lại ở nơi trong một tâm rõ biết từ sơ tâm đến tâm thứ mười sáu của Tu-đà-hoàn, Do đây nên gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Đây là Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ hai.
Bồ-tát dù cũng nhớ cha mẹ anh em nhưng thấy đều là duyên hợp như huyễn, tự tánh là không cho nên luôn luôn không tịch, còn Thanh văn thì thấy thật nên có khác nhau.
Thanh văn, Duyên giác trong một niệm trí chỉ biết tâm của người, còn Bồ-tát thì biết khắp tâm của ba cõi. Tại sao vậy? Một là tâm lượng các ngài rộng lớn nên các ngài biết được khắp. Hai là các ngài biết tất cả tâm lượng đều không thật nên không có gì là chướng ngại, Nhị thừa thấy là thật nên có chướng ngại. Đây gọi là Bồ-tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Này thiện nam tử! Thế nào là đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ ba? Đại Bồ-tát bỏ lòng từ đặng lòng từ, lúc đặng lòng từ chẳng do nhân duyên. Thế nào là bỏ lòng từ đặng lòng từ? Từ gọi là thế đế. Đại Bồ-tát bỏ lòng từ thế đế đặng lòng từ đệ nhất nghĩa. Lòng từ đệ nhất nghĩa chẳng do nhân duyên. Lòng từ nếu là có thể bỏ thời gọi là lòng từ của phàm phu, lòng từ nếu có thể được thời gọi là lòng từ vô duyên của Bồ-tát, dặng lòng từ lân mẫn, đặng lòng từ của Như Lai, lòng từ này là lòng từ không nhân duyên. Lại bỏ lòng từ của hoàng môn, của người không căn, hai căn, nữ nhân, đồ tể, thợ săn v.v… cũng bỏ lòng từ của Thanh văn, Duyên giác, đặng lòng từ vô duyên của Bồ-tát. Chẳng còn thấy lòng từ của mình cũng chẳng thấy lòng từ của người, cũng chẳng thấy trì giới phá giới.
Như vậy lòng từ đó đi đôi với cái trí biết các pháp tự tánh vốn là không.
Dầu tự thấy lòng bi nhưng chẳng thấy tướng chúng sanh. Dầu có chịu khổ nhưng chẳng thấy người chịu khổ. Vì Bồ-tát tu hành chân thật không đệ nhất nghĩa nên thành tựu đầy đủ phần công đức thứ ba như vậy.
Lòng từ thế đế là lòng thương của phàm tục, lòng từ đệ nhất nghĩa đế là được lòng thương phù hợp với trí quán các pháp không tự tánh của Bồ-tát. Lòng từ bi của phàm tục là hiện thân của ái, lòng từ của Bồ-tát, của Phật hiện thân của trí tuệ, nên gọi là lòng từ đệ nhất nghĩa.
Ví như bà mẹ thương con, đứa con nào có hiếu thì thương nhiều, đứa con nào bất hiếu thì ít thương, có khi còn giận nữa. Như vậy gọi là lòng từ có nhân duyên, còn lòng từ đệ nhất nghĩa thì chẳng do nhân duyên.
Lòng thương còn có thể bỏ được là lòng thương của phàm phu tức là có khi thương có khi không. Ví dụ như hôm nay có người biết tuân theo lời giáo hóa của mình thì mình thương, còn khí nào họ không còn tuân theo nữa mình cũng hết thương. Như vậy lòng từ đó có thể bỏ được. Đối với chư Phật, chư Bồ-tát thì dù thuận cũng thương, nghịch cũng thương, nên lòng từ đó không thể bỏ được, là lòng từ sẵn có, đó là lòng từ vô duyên, tức là không có nhân duyên.
Lòng từ sở dĩ được đầy đủ là do các Bồ-tát dùng đệ nhất nghĩa không, tức là quán các pháp không có tự tánh, duyên khởi như huyễn, do đó thành tựu được lòng từ, thành tựu được công đức thứ ba.
Này thiện nam tử! Thế nào là đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tư? Nơi đây có mười việc: một là căn lành sâu không bị lay động, hai là đối với thân mình có quan niệm quyết định, ba là chẳng thấy phước điền và chẳng phải phước điền, bốn là tu tập công hạnh thanh tịnh Phật độ, năm là diệt trừ ba thứ hữu dư, sáu là dứt trừ nghiệp duyên, bảy là tu thân thanh tịnh, tám là rõ biết các duyên, chín là lìa những oán địch, mười là dứt trừ nhị biên.
Thế nào là căn lành sâu khó lay động. Căn lành đây là nói chẳng phóng dật, chẳng phóng dật là căn lành của vô thượng Bồ-đề. Cội gốc pháp lành của tất cả chư Phật đều do chẳng phóng dật. Vì chẳng phóng dật nên những căn lành khác lần lần được tăng trưởng. Như trong các thứ dấu chân, dấu chân của voi là hơn hết, ở trong các pháp lành chẳng phóng dật cũng là hơn hết. Như trong các thứ ánh sáng, ánh sáng mặt trời là hơn hết, chẳng phóng dật cũng là hơn hết các pháp lành khác. Như vua Chuyển luân là bậc nhất trong các vua chúa, chẳng phóng dật cũng là bậc nhất trong các pháp lành. Như trong các dòng nước, bốn sông là hơn hết, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Như núi Tu-di là bậc nhất trong các núi, chẳng phóng dật cũng là hạng bậc nhất trong các pháp lành. Như hoa sen xanh hơn tất cả những hoa mọc trong nước, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Như hoa bà-lợi-su-ca hơn tất cả thứ hoa mọc trên đất, chẳng phóng dật cũng hơn hết các pháp lành khác. Như trong các loài thú, sư tử là hơn hết, chẳng phóng dật hơn những pháp lành khác. Như trong các loài chim, kim sí điểu là bậc nhất, chẳng phóng dật cũng là bậc nhất trong các pháp lành. Như trong loài thân to lớn, vua a-tu-la, la-hầu-la, là to hơn cả, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Như trong tất cả chúng sanh, đức Như Lai là tôn quý nhất, chẳng phóng dật cũng là bậc nhất trong các pháp lành. Như trong các đoàn thể, chư tăng là hơn hết, chẳng phóng dật cũng hơn hết trong các pháp lành. Như trong giáo pháp của Phật, kinh Đại Niết-bàn là hơn hết, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Do những nghĩa này nên căn lành chẳng phóng dật sâu bền khó lay động.
Thế nào là do chẳng phóng dật mà được thêm lớn các căn lành? Những căn lành: tín, giới, bố thí, trí huệ, nhẫn nhục, đa văn, tinh tấn, niệm, định, thiện tri thức đều do chẳng phóng dật mà được thêm lớn.
Công đức thứ tư của người trì kính Đại Niết-bàn, có mười phần.
Một là căn lành sâu khó lay động, là không phóng dật. Phóng dật là buông lung chạy theo sáu trần, ngũ dục. Nếu người buông lung thì sẽ mất hết gốc lành, không buông lung thì sẽ đầy đủ tất cả căn lành.
Như Phật tử tại gia, mỗi tối đều tụng kinh sám hối, nhưng đến tối thứ bảy có ca nhạc hay cải lương, họ ngưng tụng kinh để nghe. Vậy họ vì phóng dật nơi lỗ tai mà buông lung mất đi căn lành. Ngược lại, dù có cải lương, ca nhạc rất hay đi nữa cũng nhất định tụng thời kinh, công đức lành ngày càng tăng trưởng, căn lành ngày càng đầy đủ. Đó là trường hợp thứ nhất.
Trường hợp thứ hai, là người đã xuất gia nhưng bản tánh thích xem những cảnh đẹp, thích ngao du sơn thủy. Trong ba tháng an cư có ai tổ chức hành hương ngoài Huế hay đâu đó, nghe nói có những cảnh đẹp. Người này liền khởi tâm thích đi để được xem cho vừa mắt. Đó là vì buông lung con mắt theo trần cảnh mà mất công đức lành. Nếu buông lung sáu căn chạy theo sáu trần ngũ dục, người ta sẽ mất hết những gốc lành. Vì vậy đức Phật nói không buông lung là căn lành của vô thượng Bồ-đề.
Này thiện nam tử! Thế nào là đối với thân mình Bồ-tát có quan niệm quyết định? Bồ-tát quyết định biết rằng thân của ta đây quyết định sẽ làm pháp khí vô thượng Bồ-đề ở đời vị lai, chẳng có tâm hẹp nhỏ, chẳng có tâm biến đổi, chẳng sanh tâm Thanh văn, Bích-chi Phật, chẳng sanh tâm ma, tâm tự hưởng vui, tâm sanh tử. Thường vì chúng sanh cầu tâm từ bi. Đây gọi là đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn đối với thân mình sanh lòng quyết định.
Này thiện nam tử! Thế nào là Bồ-tát chẳng thấy phước điền và chẳng phải phước điền? Những gì là phước điền? Ngoại đạo trì giới trên đến chư Phật đây gọi là phước điền. Nếu có người nghĩ rằng những bậc này thuộc về phước điền nên biết tâm niệm này hẹp kém.
Đại Bồ-tát quán sát tất cả chúng sanh không ai chẳng phải là phước điền, do vì Bồ-tát khéo tu tập niệm xứ khác lạ, nên quán sát chúng sanh không thấy có trì giới cùng hủy giới. Thường quán sát bốn pháp bố thí của Phật nói ra đều đặng quả báo thanh tịnh. Những gì là bốn thứ bố thí? Một là thí chủ thanh tịnh, người thọ chẳng thanh tịnh. Hai là thí chủ chẳng thanh tịnh, người thọ thanh tịnh. Ba là thí chủ cùng người thọ đều thanh tịnh. Bốn là thí chủ cùng người thọ đều chẳng thanh tịnh.
Thí chủ có đủ trì giới đa văn trí huệ rõ biết nhân cùng quả bố thí, người thọ thời phá giới tà kiến không tin bố thí cùng quả báo, đây gọi thí chủ thanh tịnh mà người thọ chẳng thanh tịnh.
Nếu thí chủ phá giới tà kiến không tin bố thí cùng quả báo, người thọ thời trì giới đa văn trí huệ biết có nhân cùng quả bố thí, đây gọi là thí chủ chẳng thanh tịnh người thọ thời thanh tịnh.
Nếu người bố thí cùng người thọ đều trì giới đa văn trí huệ biết có bố thí cùng quả báo, đây gọi là người thí người thọ đều thanh tịnh.
Nếu người thí người thọ đều phá giới tà kiến không tin nhân cùng quả bố thí, đây gọi là người thí kẻ thọ đều chẳng thanh tịnh.
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy, tại sao lại nói Bồ-tát được quả báo thanh tịnh, vì không thí, không báo nên gọi là thanh tịnh?”
“Này thiện nam tử! Nếu có người chẳng thấy bố thí cùng quả báo bố thí, nên biết rằng, người này chẳng gọi là phá giới tà kiến.
Này thiện nam tử! Nếu y theo Nhị thừa nói rằng chẳng thấy bố thí cùng quả báo, đây gọi là phá giới tà kiến. Nếu nương kinh Đại Niết-bàn này mà chẳng thấy bố thí cùng quả báo thời gọi là trì giới chánh kiến. Đại Bồ-tát có niệm xứ khác lạ, do tu tập niệm xứ này nên chẳng thấy chúng sanh trì giới, phá giới, người thí, người thọ và quả báo bố thí, nên được gọi là trì giới chánh kiến. Vì những nghĩa trên đây nên đại Bồ-tát chẳng thấy phước điền và chẳng phải phước điền.
Hai là Bồ-tát quyết định thân hiện tại của mình sẽ là món đồ hữu ích trong Phật pháp để được vô thượng Bồ-đề ở đời sau. Qua đây chúng ta thấy được tâm lượng rộng lớn của Bồ-tát, quyết định mình sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, để đều được thành vô thượng Bồ-đồ.
Ba là Bồ-tát chẳng thấy phước điền và chẳng phải phước điền. Kinh A-hàm dạy chúng ta bố thí thì phải chọn phước điền mà rải, không nên rải dưới đất hoang. Phước điền là ruộng tốt, như chọn những người trì giới, tinh tấn tu hành, chứng tứ thánh quả cho đến chư Phật chư Bồ-tát. Những người phá giới, những người không tinh tấn tu hành… thì không phải phước điền. Nếu nghĩ như thế là tâm niệm còn hẹp kém chưa bình đẳng.
Đức Phật dạy có bốn thứ bố thí: Người thí kẻ thọ, có người thanh tịnh có người không thanh tịnh, hoặc tất cả thanh tịnh, hoặc tất cả không thanh tịnh.
Tại sao ở trên nói rằng nếu người bố thí mà tin được bố thí cùng tin quả báo thì người đó được gọi là người thí thanh tịnh hoặc là người thọ thanh tịnh, còn ở đây nói rằng người không bố thí và không báo mà không gọi là tà kiến? Phật giải thích: Nói như trên là y theo Nhị thừa. Nếu nương kinh Đại Niết-bàn này mà chẳng thấy bố thí cùng quả báo thời gọi là trì giới chánh kiến. Đại Bồ-tát có niệm xứ khác lạ, do tu tập niệm xứ này nên chẳng thấy chúng sanh trì giới phá giới, người thí người thọ và quả báo bố thí, nên được gọi là trì giới chánh kiến.
Như vậy sự tu tập niệm xứ khác lạ của Bồ-tát là quán không. Vì quán tất cả pháp do duyên hợp mà có như huyễn, không tự tánh. Không tự tánh thì làm gì có người thí, làm gì có quả báo bố thí. Luôn luôn dùng trí quán như vậy thì gọi đó là trì giới chánh kiến.
Bồ-tát lúc nào cũng dùng trí tuệ quán sát các pháp hiện có ở nhân gian đều không tự tánh. Không tự tánh thì làm sao quyết định đây là phước điền kia không phải phước điền. Nếu thấy đây là phước điền kia không phải phước điền tức là đã có tánh quyết định rồi, Nên từ bị mà được thành công viên mãn cũng do trí quán Không của Bồ-tát. Được tới chỗ bố thí, trì giới viên mãn cũng do trí quán Không của Bồ-tát. Nếu tu các hạnh mà thiếu trí tuệ Bát-nhã thì vẫn không đầy đủ. Tu tập niệm xứ khác lạ của Bồ-tát nghĩa là quán chúng sanh, mình và vật đều không có tự tánh, vì không tự tánh nên không có người thí, không có vật đem ra thí, không có người thọ thí, tuy thấy không có như vậy mà lúc nào cũng làm việc bố thí, đó là đặc điểm của Bồ-tát, cho nên gọi là niệm xứ khác lạ.
Thế nào gọi là thanh tịnh cõi Phật? Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn vì vô thượng Bồ-đề vì độ chúng sanh, nên lìa tâm giết hại. Do căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật, nguyện chúng sanh đặng thọ mạng dài lâu có thế lực lớn được thần thông lớn. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ-tát thành Phật, tất cả chúng trong cõi nước được thọ mạng dài lâu có thế lực lớn và thần thông lớn.
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn, vì vô thượng Bồ-đề vì độ chúng sanh, nên lìa tâm trộm cướp. Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh, đồng thành Phật. Nguyện cõi nước thuần là bảy báu, chúng sanh đầy đủ vật cần dùng tùy theo ý muốn. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ-tát thành Phật, cõi nước thuần là bảy báu, chúng sanh giàu đủ tùy ý tự tại.
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn, vì vô thượng Bồ-đề, vì độ chúng sanh, nên lìa tâm tham dục. Đem căn lành này nguyện cùng chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện tất cả chúng sanh không có tham dục, sân khuể, ngu si, cũng không có người đói khát, khổ não. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ-tát thành Phật, chúng sanh trong cõi nước xa lìa tâm tham dục, sân khuể, ngu si, không có người đói khát khổ não.
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn, vì vô thượng Bồ-đề vì độ chúng sanh nên lìa tâm vọng ngữ. Đem căn lành này nguyện tất cả chúng sanh cùng thành Phật. Nguyện các cõi nước thường có cây bông, cây trái, cây mùi thơm, chúng sanh đều được tiếng nói tốt. Do sức thệ nguyện này nên đời vị lai lúc Bồ-tát thành Phật, cõi nước thường có cây bông, cây trái, cây mùi thơm, chúng sanh đều được tiếng nói tốt thanh tịnh.
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn vì vô thượng Bồ-đề vì độ chúng sanh nên xa lìa tâm lưỡng thiệt. Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện các cõi nước tất cả chúng sanh thường hòa hiệp nhau, cùng nhau giảng nói chánh pháp. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ-tát thành Phật, tất cả chúng sanh trong cõi nước đều hòa hiệp nhau cùng nhau giảng luận pháp yếu.
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn, vì vô thượng Bồ-đề, vì độ chúng sanh nên xa lìa tâm ác khẩu. Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật, nguyện các cõi nước mặt đất bằng thẳng, không có sạn sỏi gai góc, chúng sanh đều có tâm bình đẳng. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ-tát thành Phật, cõi nước bằng thẳng không có sạn sỏi gai góc, tâm chúng sanh đều bình đẳng.
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn, vì vô thượng Bồ-đề, vì độ chúng sanh nên lìa lời nói vô nghĩa. Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúng sanh không có khổ não. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ-tát thành Phật, tất cả chúng sanh trong cõi nước không có khổ não.
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn, vì vô thượng Bồ-đề vì độ chúng sanh nên xa lìa tâm tham lam tật đố. Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúng sanh không có tham lam tật đố, não hại, tà kiến. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ-tát thành Phật, chúng sanh trong cõi nước đều không có tâm tham lam, tật đố, não hại, tà kiến.
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn vì vô thượng Bồ-đề, vì độ chúng sanh nên xa lìa tâm não hại. Dem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúng sanh đồng tu tập đại từ đại bi, đặng bậc nhất tử. Do sức thệ nguyện này nên đời vị lai lúc Bồ-tát thành Phật, chúng sanh trong cõi nước đều tu tập đại từ đại bi, được bậc nhất tử.
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn vì vô thượng Bồ-đề vì độ chúng sanh nên xa lìa tà kiến.
Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúng sanh đều được Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ-tát thành Phật, chúng sanh trong cõi nước đều được thọ trì Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật, đây gọi là Bồ-tát tu hành thanh tịnh cõi Phật.
Bốn là muốn trang nghiêm cõi Phật trước hết Bồ-tát phải giữ giới sát sanh và nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật, đồng được thọ mạng lâu dài, vì giữ giới sát sanh thì được quả báo thọ mạng lâu dài.
Lìa trộm cướp nên Bồ-tát nguyện tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Do không trộm cướp nên được quả báo giàu sang, sau khi thành Phật chúng sanh ở cõi nước của mình cũng được giàu sang, đầy đủ bảy báu.
Lìa tham dục nên nguyện chúng sanh ở cõi nước của mình không có tham dục, sân khuể và ngu si. Vì sân si do tham mà khởi, dứt được tham thì ba thứ kia liền theo đó hết, nên không đói khát khổ não.
Lìa vọng ngữ. Do giữ giới vọng ngữ nên sau khi thành Phật lại nguyện cho tất cả chúng sanh ở cõi nước mình đều được cây trái có mùi thơm ngon.
Lìa tâm lưỡng thiệt. Tức là giữ được giới hai lưỡi cho nên sau khi thành Phật thì ở cõi nước của mình chúng sanh đều hòa hợp với nhau. Vì hai lưỡi hay lưỡng thiệt làm cho hai bên đấu tranh nhau, thưa kiện nhau, giữ được giới này thì khiến cho mọi người được hòa hợp.
Lìa ác khẩu nên khi thành Phật, cõi nước mình không có sạn sỏi gai góc, còn cõi này không bằng phẳng đầy gai góc sạn sỏi là do con người ác khẩu thích chửi nhau.
Không nói lời vô nghĩa. Lời nói vô nghĩa là ỷ ngữ, tức là những lời nói đùa vô nghĩa. Đem công đức này nguyện cho tất cả chúng sanh đều thành Phật. Sau khi thành Phật rồi thì những chúng sanh trong cõi nước mình không có những thứ khổ não.
Lìa tham lam tật đố nên kết quả là sau này cõi nước mình dứt được tham lam, tật đố, não hại, tà kiến.
Lìa tâm não hại nên sau này thành Phật, ở cõi nước đó người ta đều tu tập tâm đại từ đại bi.
Lìa tà kiến. Do xa lìa tà kiến nên sau này ở xứ mình mọi người đều trì Bát-nhã ba-la-mật.
Mười điều này gọi là tu Thập thiện. Bồ-tát dùng Thập thiện để trang nghiêm cõi Phật được thanh tịnh. Nếu không khéo tu khéo giữ Thập thiện thì cõi nước không được thanh tịnh. Vậy muốn trang nghiêm Phật độ phải lấy Thập thiện để trang nghiêm, không phải lấy tiền của, vật liệu mà được.
Thế nào đại Bồ-tát dứt trừ hữu dư? Hữu dư có ba thứ: một là phiền não dự báo, hai là dư nghiệp, ba là dư hữu.
Nếu có chúng sanh quen gần tham dục (sắc dục), báo này thành thục phải đọa nơi địa ngục, ra khỏi địa ngục phải thọ thân súc sanh: bồ câu, se sẻ v.v… các loài chim, cá, trạch cùng khỉ, vượn, cheo, nai v.v… Nếu được làm người, thời phải thọ thân hoàng môn, phụ nữ, hai căn, không căn, dâm nữ. Nếu được xuất gia thời phạm giới trọng ban đầu. Đây gọi là dự báo.
Nếu có chúng sanh quen gần sân khuể, báo này thành thục phải đọa địa ngục. Ra khỏi địa ngục phải thọ thân súc sanh: rắn độc, sư tử, cọp, sói, beo, gấu, mèo, chồn, ó, diều v.v… Nếu được làm người thời đủ cả mười sáu nghiệp ác. Nếu được xuất gia thời phạm giới trọng thứ ba. Đây gọi là dư báo.
Nếu có chúng sanh quen gần ngu si, báo này thành thục sẽ đọa địa ngục. Ra khỏi địa ngục phải thọ thân súc sanh: voi, heo, bò, trâu, dê, rận, rệp, muỗi, ruồi, kiến, mối v.v… Nếu được làm người thời bị đui, điếc, câm, ngọng, lưng gù, tàn tật, thời không thể học tập. Nếu được xuất gia thời ưa phạm giới trọng. Đây gọi là dư báo.
Nếu có người quen gần kiêu mạn, báo này thành thục sẽ đọa địa ngục. Ra khỏi địa ngục thọ thân súc sanh: lạc đà, lừa, ngựa, chó v.v… Nếu được làm người thọ thân tôi tớ nghèo cùng ăn xin. Nếu được xuất gia thường bị chúng sanh khinh tiện, phạm giới thứ tư. Đây gọi là dư báo.
Như trên đây gọi là phiền não dự báo, đại Bồ-tát do tu tập kinh Đại Niết-bàn đều có thể trừ diệt.
Năm là đại Bồ-tát dứt trừ ba thứ hữu dư, nghĩa là dứt trừ được dư báo, dư nghiệp, dư hữu.
Người nhiều tham dục chịu tội ở địa ngục rồi, còn dư báo nhẹ thì làm cầm thú, hết loài cầm thú thì trở lên được làm người như những hạng người kể trên. Khá thì được xuất gia lại bị phạm giới ban đầu, đó là chỉ cho dư báo của tham.
Người nhiều nóng giận khi quả báo thành thục phải đọa địa ngục. Khi hết tội địa ngục còn dư báo phải thọ thân rắn độc, sư tử, cọp sói, beo gấu, mèo chồn, ó diều… những loài thú dữ, thứ nào cũng có thể hại người hoặc ăn tươi nuốt sống người. Đó là dư báo trong loài súc sanh. Hết dự báo trong loài súc sanh lại còn dư báo làm người đủ cả mười sáu điều ác. Nếu người đó có chút duyên lành đời trước được xuất gia thì phạm giới trọng thứ ba.
Nếu lấy đây làm thước đo thì nhìn rồi biết dự báo của mình thuở trước ra sao, hoặc biết dự báo của những người chung quanh, nghĩa là mình xét lại hành động hiện tại thì biết đó là dự báo.
Bồ-tát tu theo kinh Đại Niết-bàn thì dứt trừ được dự báo.
Thế nào là dư nghiệp? Tất cả nghiệp của phàm phu, nghiệp của Thanh văn: Tu-dà-hoàn có nghiệp bảy lần thọ thân, Tư-đà-hàm có nghiệp hai lần thọ thân, A-na-hàm có nghiệp thọ thân cõi Sắc, đây gọi là dư nghiệp. Đại Bồ-tát tu tập kinh Đại Niết-bàn đều có thể dứt trừ những nghiệp dư này.
Thế nào là dư hữu? A-la-hán đặng quả A-la-hán, Bích-chi Phật đặng quả Bích-chi Phật, không nghiệp, không kiết sử, mà còn hai quả, đây gọi là dư hữu.
Đại Bồ-tát tu tập kinh Đại Niết-bàn đều có thể trừ diệt ba thứ hữu dư trên đây, nên gọi là đại Bồ-tát diệt trừ hữu dư.
Sáu là Bồ-tát tu tập kinh Đại Niết-bàn dứt trừ được nghiệp duyên, dư nghiệp đó là chỉ cho trong hàng Nhị thừa tu còn phải thọ thân hoặc bảy lần, hoặc hai lần, hoặc thọ thân cõi Sắc… tức là còn có quả báo để thọ gọi là dư hữu.
Đại Bồ-tát tu tập kinh Đại Niết-bàn đều có thể trừ diệt ba thứ hữu dư trên đây, nên gọi là đại Bồ-tát diệt trừ hữu dư.
Thế nào là Bồ-tát tu thân thanh tịnh? Đại Bồ-tát tu giới bất sát có năm thứ tâm: hạ, trung thượng, thượng thượng, thượng trung thượng, nhẫn đến chánh kiến cũng lại như vậy. Năm mươi tâm này gọi là sơ phát tâm. Quyết định đầy đủ thành tựu năm mươi tâm này đây gọi là viên mãn. Một trăm tâm như vậy gọi là một trăm phước đức. Đầy đủ một trăm phước làm thành một tướng tốt. Lần lượt đầy đủ thành tựu ba mươi hai tướng tốt, thời gọi là thân thanh tịnh.
Sở dĩ lại tu tám mươi vẻ đẹp, vì trong đời có chúng sanh phụng thờ tám mươi vị thiên thần: thập nhị nhật thần, mười hai vị trời lớn, năm ngôi sao lớn, sao Bắc đẩu, Mã thiên, Hành Đạo thiên, Bà-la-đọa- bạt xà thiên, Công Đức thiên, nhị thập bát tú, Địa thiên, Phong thiên, Thủy thiên, Hỏa thiên, Phạm thiên, Lâu-đà thiên, Nhân-đề thiên, Câu-ma-la thiên, Bát Tý thiên, Ma-hê-thủ-la thiên, Bàn-xà-la thiên, Quỷ Tử Mẫu thiên, Tứ thiên vương thiên, Tạo Thư thiên, Bà-tẩu thiên, đây gọi là tám mươi. Vì những chúng sanh này mà Bồ-tát tu tập tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm nơi thân. Đây gọi là Bồ-tát tu thân thanh tịnh. Vì tám mươi thiên thần này được chúng sanh kính trọng, nên Bồ-tát tu tập tám mươi vẻ đẹp, thân thể không đổi dời, làm cho chúng sanh, tùy theo lòng tin, đều được thấy, sanh lòng tôn kính mà phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Ví như có người muốn thỉnh Quốc vương, thời phải sửa sang trần thiết nhà cửa cho thật sạch sẽ khéo léo, sắm đủ trăm thứ thực phẩm thơm ngon rồi sau mới rước Quốc vương ngự đến nhà. Cũng vậy, đại Bồ-tát muốn thỉnh đấng Pháp vương vô thượng Bồ-đề, thời phải trước tu thân cho thật thanh tịnh, rồi sau Pháp vương mới đến ngự.
Ví như có người muốn uống chất cam lộ thời phải trước rửa thân thật sạch. Cũng vậy, đại Bồ-tát muốn uống pháp vị vô thượng Bát-nhã ba-la-mật, trước phải tu tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm nơi thân.
Ví như đem bình vàng, chậu bạc đựng nước trong sạch thời cả trong lẫn ngoài đều trong sạch.
Cũng vậy, đại Bồ-tát dùng thân thanh tịnh chứa vô thượng Bồ-đề, thời trong ngoài đều thanh tịnh.
Như y trắng Ba-la-nại dễ ăn màu thuốc nhuộm, vì chất y vốn trắng sạch. Cũng vậy, đại Bồ-tát do thân thanh tịnh nên mau thành vô thượng Bồ-đề.
Do nghĩa này nên đại Bồ-tát tu thân thanh tịnh.
Bảy là đại Bồ-tát tu thân thanh tịnh. Ở trên là trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh phải dùng Thập thiện. Bây giờ tu thân thanh tịnh cũng là Thập thiện.
Đại Bồ-tát tu giới bất sát có năm thứ tâm: hạ, trung, thượng, thượng thượng, thượng trung thượng, nhẫn đến chánh kiến cũng lại như vậy. Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi v.v… cho đến tà kiến thứ mười cũng đều có mười tâm như vậy hết. Năm tâm qua mười giới cộng lại thành năm mươi.
Thập thiện qua năm tâm này nữa thì gọi là sơ phát tâm. Khi mới tập tu gọi là sơ phát tâm, khi đầy đủ hết thì gọi là viên mãn. Như vậy thân thanh tịnh là cũng do tu Thập thiện từ bậc thấp lên cao mà thân được từ từ thanh tịnh.
Ấn Độ thờ tám mươi vị thiên thần, họ cho rằng mỗi vị có một nét đẹp riêng. Bồ-tát muốn cho họ kính trọng, đầy đủ niềm tin đối với mình nên mới tu tám mươi vẻ đẹp. Bồ-tát tu ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp là vì để chúng sanh phát tâm, chứ không phải muốn mình được tốt đẹp.
Chúng ta muốn được thấy rõ Pháp vương của mình tức pháp thân, thì trước hết phải tu thân có đủ ba mươi hai tướng tốt thanh tịnh rồi sau mới thấy pháp thân. Cũng như ở thế gian muốn thỉnh quốc vương thì trước phải sửa sang nhà cửa cho đẹp, thực phẩm cho ngon.
Nói tóm lại, muốn chứa đựng được vô thượng Bồ-đề, tức là giác viên mãn thì trước hết phải tu thân thanh tịnh, muốn tu thân thanh tịnh phải hành Thập thiện cho đến viên mãn đầy đủ.
Thế nào là Bồ-tát khéo biết các duyên?
Đại Bồ-tát chẳng thấy sắc tướng, chẳng thấy sắc duyên, chẳng thấy sắc thể, chẳng thấy sắc sanh, chẳng thấy sắc diệt, chẳng thấy một tướng, chẳng thấy nhiều tướng, chẳng thấy người thấy, chẳng thấy tướng mạo, chẳng thấy người thọ, vì đã rõ nhân duyên. Như đối với sắc, tất cả pháp cũng như vậy. Đây gọi là Bồ-tát rõ biết các duyên.
Thế nào là Bồ-tát lìa các thù địch?
Bậc Ngũ trụ Bồ-tát chẳng xem phiền não là oán thù. Vì do phiền não mà Bồ-tát có thọ sanh, do thọ sanh nên có thể xoay vần giáo hóa chúng sanh.
Những gì là oán thù đối với Bồ-tát?
Chính là kẻ hủy báng kinh điển Đại thừa, Bồ-tát thọ sanh không sợ địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, chỉ sợ kẻ hủy báng kinh điển Đại thừa. Có tám thứ ma là oán thù của Bồ-tát, xa lìa được tám thứ ma này thời gọi là lìa thù địch.
Thế nào là Bồ-tát xa lìa hai bên?
Hai bên là hai mươi lăm cõi và ái phiền não. Bồ-tát luôn xa lìa hai mươi lăm cõi cùng ái phiền não.
Đây gọi là đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tư.
Tám là Bồ-tát khéo biết các duyên. Thế nào là rõ biết các duyên? Tức là đối với sắc thanh hương vị xúc pháp, hoặc là sắc thọ tưởng hành thức, đều không thấy sắc tướng, sắc duyên, sắc thể… Nghĩa là đối với tất cả pháp hiện hữu đều không còn chấp một pháp nào, vì pháp nào cũng do nhân duyên sanh khởi nên không có một pháp thật. Bởi không có một pháp thật cho nên không tướng, không duyên, không thể, không sanh, không diệt, không một, không nhiều, tất cả đều do nhân duyên sanh như huyễn, không có thật. Như vậy là rõ biết nhân duyên sanh.
Chín là Bồ-tát lìa các thù địch. Chúng ta xem phiền não là oán thù, bởi phiền não lôi mình đi thọ sanh. Bồ-tát coi nó không phải là oán thù, vì nhờ phiền não các ngài đi thọ sanh mới có thể giáo hóa được người.
A-hàm có một bài kinh, đại ý Phật nói; Vàng bạc là thứ rắn độc, người tu phải rời bỏ, nuôi trong nhà nó sẽ cắn chết mình. Tuy nhiên nếu chúng ta có quan niệm rộng rãi vì muốn bố thí, muốn xây dựng ngôi Tam bảo và làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, phải cần có vàng bạc. Vậy vàng bạc đâu phải là rắn độc. Nếu tâm tự lợi có vàng giữ bo bo, sợ người biết sẽ cướp giật thì nó sẽ trở thành rắn độc.
Cũng vậy, sự thọ sanh đối với Nhị thừa là đau khổ, vì còn ra đời là còn đau khổ, nhưng với các vị Bồ-tát thọ sanh là giáo hóa được chúng sanh, tức là được thêm phước đức. Các ngài không còn thấy sự trở lại là khổ nữa, mà mang ơn là được trở lại cứu độ chúng sanh. Hai quan niệm khác nhau như thế. Vì vậy chỉ cần chúng ta sanh trở lại mà không mê muội để tiếp tục giáo hóa thì không có lỗi gì.
Mười là Bồ-tát xa lìa hai bên. Hai bên là hai mươi lăm cõi và ái phiền não. Bồ-tát luôn xa lìa hai mươi lăm cõi cùng ái phiền não.
Đây gọi là đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tư.
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát bạch Phật:“Thế Tôn! Như lời đức Phật vừa nói: Nếu Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thời thành tựu mười công đức như vậy. Cớ sao đức Như Lai chỉ tu có chín điều mà không tu tịnh độ.”
Phật nói: “Này thiện nam tử! Từ xưa ta thường tu tập đủ cả mười điều. Tất cả đại Bồ-tát cùng tất cả Như Lai không có ai là chẳng tu tập trọn cả mười điều như vậy.
Giả sử thế giới đầy dẫy nhơ uế, không bao giờ Như Lai xuất hiện nơi ấy.
Này thiện nam tử! Ông chớ cho rằng chư Phật xuất hiện nơi thế giới nhơ uế. Nên biết rằng tâm tưởng như vậy là kém hẹp chẳng tốt. Ông nên biết rằng thật ra ta không có xuất hiện nơi Diêm phù-đề.
Như có người nói riêng cõi này có mặt nhật, này có mặt nguyệt, cõi khác không có. Lời nói này không có nghĩa lý.
Nếu có Bồ-tát nói cõi này nhơ uế xấu xa, cõi khác thanh tịnh xinh đẹp, đây cũng là lời không có nghĩa lý.
Này thiện nam tử! Về phương tây, cách cõi Ta-bà này bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Vô Thắng, những sự trang nghiêm xinh đẹp trong cõi đó đều bình đẳng, như cõi Cực Lạc, như cõi Mãn Nguyệt. Hiện tại ta xuất hiện trong cõi Vô Thắng đó. Vì hóa độ chúng sanh nên ta thị hiện chuyển pháp luân nơi Diêm phù đề này.
Chẳng phải riêng gì thân ta thị hiện chuyển pháp luân nơi cõi này, mà tất cả chư Phật cũng chuyển pháp luân trong cõi này.
Do nghĩa này nên chư Phật đều tu đủ cả mười điều như vậy.
Này thiện nam tử! Do thệ nguyện, nên đời đương lai, Từ Thị Bồ-tát làm cho cõi này trở thành thanh tịnh trang nghiêm.
Do nghĩa này nên tất cả thế giới của chư Phật đều thanh tịnh trang nghiêm.
Bồ-tát Cao Quý Đức Vương sau khi nghe đức Phật nói mười công đức trên, ngài nghi vì trong đó có công đức trang nghiêm tịnh độ thì được cõi nước đẹp đẽ. Nhưng cõi của Phật Thích-ca đang giáo hóa thì gai góc nhơ nhớp, như vậy Phật chỉ tu có chín công đức. Nên Bồ-tát mới hỏi Phật rằng: Cớ sao đức Như Lai chỉ tu có chín điều mà không tu tịnh độ? Trong kinh thường nói cõi này là uế độ, chúng ta cũng thấy trước mắt nào là rác rưởi, đất đai lồi lõm, ít bằng phẳng. Tại sao Phật lại hiện ra đây?
Lời Phật nói ngài không có hiện cõi này. Phật có ba thân: pháp thân thì không có hình tướng cho nên không nơi chốn, báo thân có hình tướng, theo phước báo tu hành có cõi nước là cõi nước của báo thân an trụ, còn hóa thân là tùy duyên hóa hiện, vì tùy duyên nên không thật. Vậy sở dĩ Phật nói không sanh ở cõi ô uế vì sanh ở cõi Ta-bà là hóa thân thôi, hóa thân thì đâu có thật. Vậy nên ngài nói ngài trụ ở cõi Vô Thắng, đó là báo thân của Phật Thích-ca. Thị hiện tức là hóa thân. Thị hiện là sanh, thị tịch là tử, sanh và tử đây là do hóa hiện ra chứ không phải thật, đến và đi đều không thật. Như vậy Phật đã xác định rằng ngài chỉ thị hiện ở cõi Ta-bà này vì giáo hóa chúng sanh chứ không phải là cõi quả báo của ngài. Ngài tu trang nghiêm cõi Phật cho nên cõi của Ngài là Vô Thắng, thành ra trang nghiêm đó là chỉ cho báo thân ở, còn hóa độ thì tùy duyên. Tuy cõi mình bây giờ xấu xa nhơ uế, các hóa thân Phật tới thôi, nhưng trong tương lai sẽ có một vị Phật làm cho cõi này biến thành cõi của báo thân trang nghiêm xinh đẹp như cõi Cực Lạc, cõi Vô Thắng, cõi Mãn Nguyệt vậy. Vị Phật ấy là Từ Thị Bồ-tát hay đức Phật Di-lặc.
Này thiện nam tử! Thế nào là đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn, thành tựu đầy đủ phần công đức thứ năm? Nơi đây có năm điều công đức: một là nơi thân các căn đều toàn vẹn; hai là chẳng sanh chốn biên địa; ba là chư thiên thần mến tưởng; bốn là thường được chư thiên, ma vương, Sa-môn, Bà-la-môn v.v.. cung kính; năm là được trí túc mạng. Do năng lực kinh Đại Niết-bàn mà Bồ-tát đồng đủ năm công đức như vậy.”
Cao Quý Đức Vương Bồ-tátbạch Phật:“Thế Tôn! Ngày trước Phật dạy: Nếu có người bố thí thời được năm công đức. Sao nay Như Lai lại bảo nhân kinh Đại Niết-bàn mà đặng năm công đức?”
Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Các công đức ấy đều có nghĩa sai khác. Nay ta sẽ vì ông mà giải nói.
Năm điều công đức do bố thí mà được là không định, không thường, không tịnh, không thắng, không lạ, không phải vô lậu, không thể lợi ích an lạc xót thương tất cả chúng sanh.
Nếu là năm điều công đức do y theo kinh Đại Niết-bàn mà được thời là định, là thường, là tịnh, là thắng, là lạ, là vô lậu, có thể lợi ích an lạc xót thương tất cả chúng sanh.
Này thiện nam tử! Xét về người bố thí thời xa lìa đói khát. Kinh Đại Niết-bàn có thể làm cho chúng sanh đều được xa lìa bệnh khát ái trong hai mươi lăm cõi. Do bố thí làm cho sanh tử nối luôn, kinh Đại Niết-bàn có thể làm cho sanh tử phải dứt. Nhân bố thí nên thọ lấy pháp phàm phu, nhân kinh Đại Niết-bàn mà được pháp Bồ-tát. Do bố thí nên dứt được sự nghèo cùng khổ não, kinh Đại Niết-bàn có thể dứt tất cả sự nghèo thiếu về pháp. Do bố thí mà có phần, có quả, do kinh Đại Niết-bàn mà được vô thượng Bồ-đề không phần không quả.
Đây gọi là Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ năm.
Chúng ta lưu ý khát ái khác với đói khát; đói là đói cơm, khát là khát nước, còn khát ái tức là khát khao lòng yêu thương. Như vậy tu bố thí là để cho đời sau mình khỏi bị đói khát, còn tu đại Niết-bàn là chấm dứt bệnh luyến ái, dứt sanh tử trong hai mươi lăm cõi.
Bố thí làm cho sanh tử nổi luôn là sao? Chúng ta giúp đỡ người khác mong đời sau được quả báo phước đức, như thế bố thí để làm duyên đời sau sanh ra được giàu sang, người ta đền ơn mình… Đó là gốc của sanh tử. Kinh Đại Niết-bàn dạy mình biết thế nào là hữu lậu, thế nào là vô lậu, thế nào là sanh diệt, thế nào là không sanh diệt để chúng ta thoát ly sanh diệt cho nên nói rằng do kinh Đại Niết-bàn làm cho sanh tử phải dứt.
Bố thí chỉ là pháp quả báo trong cõi người cõi trời nên gọi là pháp phàm phu, còn nhân nơi kinh Đại Niết-bàn mà phát tâm Bồ-đề nên gọi là Bồ-tát.
Bố thí thì dứt được sự nghèo cùng về tài sản, kinh Đại Niết-bàn này thì dứt tất cả sự nghèo cùng thiếu thốn về pháp bảo.
Có phần là có từng phần, có quả là có quả báo. Kinh Đại Niết-bàn này là cứu cánh viên mãn vượt ra phần đối đãi, không còn có nhân quả theo thế thường nữa, nên nói không phần không quả.
Thế nào là Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ sáu?
Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn được Kim cang tam-muội. An trụ trong chánh định này thời phá tan được tất cả pháp. Thấy tất cả pháp đều là vô thường, đều là tướng lay động, là nhân duyên của sự khủng bố, bệnh khổ, cướp trộm, niệm niệm dứt hoại không chân thật. Tất cả đều là cảnh giới của ma, không có tướng đáng thấy.
Đại Bồ-tát an trụ trong tam-muội này, nhẫn đến không thấy một chúng sanh thật. Vì chúng sanh mà Bồ-tát tinh cần tu tập Thi-la ba-la-mật, nhẫn đến Bát-nhã ba-la-mật. Nếu Bồ-tát còn thấy có một chúng sanh thời không thể rốt ráo đầy đủ Đàn ba-la-mật nhẫn đến Bát-nhã ba-la-mật.
Đó là diệu dụng của Kim cang tam-muội, được Kim cang tam-muội rồi thì thấy tất cả các pháp đều không có tướng đáng thấy.
Bồ-tát tu theo kinh Đại Niết-bàn, trụ trong Kim cang tam-muội thì không thấy có một pháp thật, nhưng vì thương xót chúng sanh mà phải tu lục độ ba-la-mật, Kim cang tam-muội là gì? Từ trước đến sau Phật không giải thích mà chỉ đưa ra ví dụ, như kim cang hay làm cho người ta giàu, hết khổ, phá hoại tất cả pháp khác…
Muốn hiểu Kim cang tam-muội thì chúng ta phải hiểu thân kim cang của Phật, đó chính là pháp thân. An trụ trong pháp thân gọi là Kim cang tam-muội. Pháp thân là quả, còn nhân là Phật tánh. Phật tánh bất sanh bất diệt, là thể của tất cả nên an trụ được Phật tánh, sống trở về Phật tánh thì gọi là được Kim cang tam-muội. Phật tánh không có hình tướng nên không có cái gì hủy hoại được, nó là gốc của muôn pháp, hay diệt trừ được muôn pháp nhưng không một pháp nào phá được nó nên dụ là Kim cang tam-muội. Chính kinh Đại Niết-bàn cốt chỉ cho chúng ta nhận ra được Phật tánh, y theo đó mà an trụ thì thành tựu được pháp thân viên mãn vô lượng công đức, gọi là trụ Kim cang tam-muội.
Này thiện nam tử! Ví như vật gì bị chất kim cang dóa đập thời đều bể tan, mà chất kim cang này không hề hư tổn. Cũng vậy, pháp gì bị Kim cang tam-muội chiếu đến thời đều nát rã, mà tam-muội này không hề hao tổn.
Trong các thứ châu báu, chất kim cang là hơn tất cả. Cũng vậy, trong các tam-muội, Kim cang tam-muội là thứ nhất. Vì Bồ-tát tu tập tam-muội này thời tất cả tam-muội đều đến quy thuộc.
Như các vua chúa nhỏ đều đến quy thuộc Chuyển luân thánh vương, tất cả chánh định đều đến quy thuộc Kim cang tam-muội.
Ví như có người là kẻ thù địch của quốc gia mọi người đều nhàm ghét, ai giết được người này thời cả nước đều ngợi khen công lao. Cũng vậy, Bồ-tát tu tập Kim cang tam-muội có thể phá hoại oán thù của tất cả chúng sanh, thế nên thường được tất cả tam-muội tôn kính.
Ví như có người mạnh mẽ không ai cự lại, nếu có người thắng được người này thời được người đời khen tặng. Cũng vậy, Kim cang tam-muội có sức phá dẹp những pháp khó phá, nên được tất cả tam-muội đến quy thuộc.
Như người đến tắm nơi biển lớn, phải biết rằng người này đã dùng nước của các sông ngòi suối ao. Cũng vậy, Bồ-tát tu tập Kim cang tam-muội, thời là đã tu tập tất cả tam-muội khác.
Như trong Hương Sơn có một suối nước tên A-na-bà-đạp-đa, người nào được uống nước suối này thời không có những bệnh hoạn, vì nước suối này đủ tám vị. Cũng vậy, Kim cang tam-muội đủ tám chánh đạo, Bồ-tát tu tập tam-muội này thời dứt sạch những bệnh nặng phiền não tội lỗi.
Như người cúng dường trời Ma-hê-thủ-la, thời là đã cúng dường tất cả chư thiên. Cũng vậy, người tu tập Kim cang tam-muội thời là đã tu tập tất cả tam-muội khác.
Này thiện nam tử! Nếu Bồ-tát an trụ trong Kim cang tam-muội thời thấy tất cả pháp không bị chướng ngại, như xem trái a-ma-lặc trong bàn tay. Bồ-tát này dầu được thấy như vậy, nhưng trọn không có quan niệm là thấy tất cả pháp.
Như có người ngồi nơi ngã tư đường, thấy mọi người đi, đứng, ngồi, nằm. Cũng vậy, Bồ-tát an trụ Kim cang tam-muội thời thấy sự sanh diệt mọc lặn của tất cả pháp.
Như người lên núi cao trông xa thấy rõ tất cả cảnh vật. Cũng vậy, Bồ-tát lên núi Kim cang chánh định thời thấy rõ tất cả pháp.
Như mùa xuân, trời mưa láy pháy, giọt mưa li ti không có chỗ hở trống, người mắt sáng thời thấy rõ ràng. Cũng vậy, Bồ-tát đặng mắt thanh tịnh Kim cang tam-muội, thấy rõ những thế giới thành hoại ở mười phương, không chướng ngại.
Như do núi Càn-đà, bảy mặt trời đồng mọc, bao nhiêu cây cối nơi núi ấy đều cháy cả. Cũng vậy, Bồ-tát tu tập Kim cang tam-muội thời bao nhiêu rừng rậm phiền não liền tiêu diệt.
Như chất kim cang dầu có thể phá nát tất cả vật, nhưng trọn không có quan niệm rằng ta hay phá nát. Cũng vậy, Bồ-tát tu tập Kim cang tam-muội có thể phá phiền não mà trọn chẳng có quan niệm rằng ta hay phá hoại phiền não. Như quả đất có thể giữ gìn muôn vật nhưng trọn chẳng có quan niệm rằng sức ta có thể giữ gìn; lửa cũng chẳng nghĩ rằng ta hay đốt cháy; nước cũng chẳng nghĩ rằng ta hay thấm nhuần; gió cũng chẳng nghĩ rằng ta hay thổi động; hư không cũng chẳng nghĩ rằng ta hay dung chứa; Niết-bàn cũng chẳng nghĩ rằng ta làm cho chúng sanh đặng diệt độ. Cũng vậy, Kim cang tam-muội dầu có thể diệt trừ tất cả phiền não, nhưng vẫn không nghĩ rằng ta hay diệt trừ.
Nếu chúng ta sống được với Phật tánh của mình thì nhìn pháp nào cũng là giả, cũng là pháp sanh diệt không thật, Kim cang tam-muội chiếu đến đâu tan rã đến đó. Trụ được Phật tánh thì đó là định tột cùng, không có định nào khác hơn nữa.
Bao nhiêu ví dụ cũng đều nói lên một ý là Kim cang tam-muội hay phá dẹp được tất cả, và tất cả đều quy tụ về Kim cang tam-muội.
Nếu có Bồ-tát an trụ nơi Kim cang tam-muội này, trong khoảng một niệm biến vô lượng thân như Phật, khắp cả hằng hà sa thế giới ở mười phương, dầu biến hóa như vậy nhưng Bồ-tát vẫn không có lòng kiêu mạn. Vì Bồ-tát thường nghĩ rằng: Ai có chánh định này và biến hóa được như vậy? Chỉ có Bồ-tát an trụ Kim cang tam-muội này mới có thể biến hóa như vậy. Bồ tát này trong một niệm đi khắp hằng hà sa thế giới ở mười phương rồi trở về bản xứ, dầu có thần lực như vậy nhưng cũng chẳng nghĩ rằng ta được thần lực ấy đó là do sức của Kim cang tam-muội. Bồ-tát này lại ở trong một niệm có thể dứt những phiền não của chúng sanh trong hằng hà sa thế giới ở mười phương, mà vẫn không có quan niệm rằng ta hay dứt phiền não của chúng sanh, đó là do sức Kim cang tam-muội. Bồ-tát này dùng một tiếng nói để thuyết pháp làm cho tất cả chúng sanh riêng theo loài của mình mà đặng hiểu rõ, lại thị hiện một sắc thân mà làm cho tất cả chúng sanh đều riêng thấy sắc thân riêng khác. Bồ-tát ở an một chỗ thân không dời đổi mà có thể làm cho chúng sanh theo chỗ ở của nó đều đặng thấy Bồ-tát diễn nói một pháp: hoặc giới, hoặc nhập, mà tất cả chúng sanh đều riêng theo chỗ đã hiểu biết mà đặng nghe đó.
Khi vào được Kim cang tam-muội là có diệu dụng như hằng sa, tức là đầy đủ mọi diệu dụng. Thiền tông thường nói mình có một kho báu đầy đủ nhưng vì chưa vào được, kinh Pháp Hoa nói khi nhập được Phật tri kiến thì đồng với chư Phật… Vì Phật tánh bất sanh bất diệt thường trụ trùm khắp tất cả nên khi nhận và sống được với Phật tánh rồi thì có đầy đủ tất cả diệu dụng, còn tất cả pháp đều là pháp sanh diệt cho nên không có pháp nào qua được Phật tánh.
Bồ-tát an trụ Kim cang tam-muội dầu thấy chúng sanh mà vẫn không có tướng chúng sanh, dầu thấy nam nữ nhưng không có tướng nam nữ, dầu thấy sắc thọ vị nhưng không có tướng sắc thọ vị, dầu thấy ngày đêm mà không có tướng ngày đêm, dầu thấy tất cả pháp nhưng không có tướng tất cả pháp, dầu thấy tất cả phiền não kiết sử cũng không có tướng tất cả phiền não, dầu thấy tám thánh đạo mà không có tướng tám thánh đạo, dầu thấy Bồ-đề thấy Niết-bàn nhưng không có tướng Bồ-đề, Niết-bàn, vì tất cả pháp vốn không có tướng. Bồ-tát này do sức Kim cang tam-muội nên thấy tất cả pháp bản lại không có tướng.
Này thiện nam tử! Thế nào gọi là Kim cang tam-muội? Như chất kim cang nếu ở trong ánh nắng thời màu sắc chẳng nhất định. Cũng vậy, Kim cang tam-muội ở trong đại chúng cũng chẳng nhất định, vì thế nên gọi là Kim cang tam-muội.
Như chất kim cang tất cả người đời không thể bình luận giá cả. Cũng vậy, Kim cang tam-muội có bao nhiêu công đức tất cả trời người không thể nghĩ lường được, do đây nên lại gọi là Kim cang tam-muội.
Như người nghèo đặng báu kim cang thời hết nghèo cùng khốn khổ, lại khỏi ác quỷ tà độc. Cũng vậy, đại Bồ-tát được tam-muội này thời có thể dứt hết phiền não khổ hoạn xa lìa các ma tà độc, do đây nên gọi là Kim cang tam-muội.
Đây gọi là Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ sáu.
Chúng ta đang sống với hình tướng nên còn thấy có chúng sanh, có nam nữ… sai khác. Khi an trụ Kim cang tam-muội, sống được với Phật tánh rồi thì không còn mắc kẹt trên hình tướng nên không còn thấy thật có chúng sanh, không thấy thật có nam có nữ, Vì vậy nói an trụ trong Kim cang tam-muội rồi thì thấy tất cả các pháp bản lai không có tướng, vì là pháp sanh diệt biến hóa không thật, chỉ có Phật tánh là chân thật.
Phật giải thích Kim cang tam-muội nhưng không giải thích gì cả, chỉ nói diệu dụng của nó mà thôi. Như chất kim cang ở trong ánh nắng người ta thấy hiện ra những màu sắc xanh vàng đỏ trắng… không nhất định, tùy chỗ phản chiếu. Cũng như vậy, an trụ trong Phật tánh rồi thì mới thấy chúng sanh do mê lầm Phật tánh mà hiện ra không biết bao nhiêu tướng trạng.
Kinh Đại Niết-bàn chỉ cho Phật tánh, an trụ Phật tánh thì được Kim cang tam-muội.
Thế nào là đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ bảy?
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát này nghĩ rằng: Pháp gì có thể làm nhân duyên gần với đại Niết-bàn? Bồ-tát này liền biết có bốn điều làm nhân duyên gần, nếu rời bốn pháp này thời không thể được đại Niết-bàn. Vì thế nên nếu nói rằng siêng tu tất cả khổ hạnh mà được đại Niết-bàn, thời không đúng.
Đây là bốn điều: một là gần gũi bạn lành, hai là chuyên tâm nghe pháp, ba là nhiếp niệm tư duy, bốn là tu hành đúng pháp.
Bốn điều này là bốn điều gần được đại Niết-bàn.
Như có người mang bệnh: hoặc nóng, hoặc lạnh, hư lao, các tà quỷ độc, người bệnh này tìm đến lương y, lương y liền theo bệnh cho thuốc. Người bệnh này hết lòng y theo lời chỉ dẫn của lương y, uống thuốc đúng cách, bệnh được lành, thân được an. Người bệnh dụ cho Bồ-tát, Lương y dụ cho thiện tri thức (Có thiện tri thức giúp cho Bồ-tát được Niết-bàn). Phương thuốc của lương y nói dụ cho kinh Đại thừa.
Y theo lời chỉ dẫn của lương y dụ cho khéo suy nghĩ nghĩa lý của kinh Đại thừa. Hiệp thuốc uống đúng cách dụ cho tu hành đúng pháp. Bệnh lành dụ cho dứt hết phiền não. Thân an dụ cho đặng Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Qua ví dụ này chúng ta thấy bốn điều Phật nói rất rõ ràng: gần thiện tri thức, chí tâm lắng nghe, nghe rồi suy nghĩ đúng pháp, suy nghĩ rồi thực hành đúng pháp. Bốn điều đó cần thiết cho người học đạo. Ví dụ như người bệnh tìm lương y, lương y cho thuốc, rồi chỉ dạy cách dùng thuốc, sắc thuốc uống. Lương y dụ cho thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức. Cho thuốc dụ cho nghe pháp. Cho thuốc rồi dạy dùng cho đúng cách đó là dụ cho suy nghĩ. Sắc thuốc uống cho hết bệnh, đó là thực hành đúng pháp. Chúng ta có đầy đủ bốn điều này thì thân an, được thường lạc ngã tịnh của đại Niết-bàn.
Ví như có Quốc vương muốn cai trị đúng pháp, làm cho nhân dân được an vui, nhà vua hỏi cách cai trị nơi các quan. Các quan bèn đem cách thức của tiên vương tâu với Quốc vương. Quốc vương liền chí tâm tin tưởng thật hành theo, đúng như pháp cai trị nước nhà, làm cho cả nước không giặc cướp, nhân dân an vui. Quốc vương dụ cho Bồ tát, các quan dụ cho bạn lành. Cách thức cai trị của các quan tâu dụ cho mười hai bộ kinh. Quốc vương hết lòng tin tưởng thật hành dụ cho Bồ-tát nhiếp tâm tư duy nghĩa lý của mười hai bộ kinh. Quốc vương cai trị đúng pháp dụ cho Bồ-tát tu hành đúng theo sáu môn ba-la-mật. Cả nước không giặc cướp dụ cho Bồ-tát đã lìa phiền não kiết sử. Nhân dân được an vui dụ cho Bồ-tát chứng được đại Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Như có người bị bệnh phong hủi, có thiện tri thức bảo rằng: Nếu ông đến được bên núi Tu-di thời bệnh có thể lành. Vì nơi đó có vị thuốc hay như cam lộ, uống được thuốc đó thời bệnh gì cũng lành. Người bệnh tin theo lời đi đến bên núi hái lấy thuốc cam lồ mà uống, tật bệnh liền hết, thân được an vui. Người bệnh dụ cho phàm phu. Thiện tri thức dụ cho đại Bồ-tát. Tin theo lời bảo dụ cho bốn tâm vô lượng. Núi Tu-di dụ tám thánh đạo. Vị thuốc cam lồ dụ cho Phật tánh. Bệnh hủi được lành dụ lìa phiền não. Đặng an vui dụ đặng Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Ví như có người nuôi những đệ tử thông minh trí huệ, ngày đêm người này luôn dạy dỗ chẳng biết mỏi. Bồ-tát cũng như vậy, tất cả chúng sanh hoặc tin, hoặc chẳng tin, Bồ-tát luôn giáo hóa không biết nhàm mỏi.
Ví dụ thứ hai, một ông vua muốn cai trị đúng pháp cho dân được an vui, bèn hỏi cách cai trị nơi các quan. Các quan đem cách cai trị của nhà vua trước nói lại. Vua nghe rồi chí tâm tin tưởng thực hành theo, đúng như pháp mà cai trị nước nhà, cả nước được an vui.
Quốc vương dụ cho Bồ-tát, bá quan dụ cho bạn lành. Cách thức cai trị của tiên vương dụ cho mười hai bộ kinh. Hết lòng tin tưởng thực hành dụ cho nghe rồi nhiếp tâm suy nghĩ. Cai trị đúng pháp chỉ cho Bồ-tát tu hành đúng theo sáu môn ba-la-mật. Như vậy trong nước được an ổn, nhân dân được vui vẻ, dụ cho Bồ-tát đã lìa phiền não kiết sử, được Niết-bàn an lạc.
Lòng của Bồ-tát lúc nào cũng luôn giáo hóa không mệt mỏi.
Này thiện nam tử! Thiện tri thức là nói chư Phật Bồ-tát và hàng Thanh văn, Bích-chi Phật, cùng những người tin kinh Đại thừa. Thế nào gọi là thiện tri thức? Hàng thiện tri thức có thể chỉ dạy cho chúng sanh xa lìa mười điều ác, tu hành mười điều lành, do nghĩa này nên gọi là thiện tri thức. Lại hàng thiện tri thức lời nói đúng như pháp thật hành đúng như lời nói, chính là tự mình chẳng sát sanh cũng bảo người chẳng sát sanh, nhẫn đến tự mình có chánh kiến, cũng đem chánh kiến dạy cho người.
Nếu có thể được như đây thời gọi là chân thật thiện tri thức. Tự mình tu tập Bồ-đề cũng có thể dạy người tu hành Bồ-đề, Tự mình tu hành chánh tín, trì giới, bố thí, đa văn, trí huệ, cũng có thể dạy người như vậy, do đây nên gọi là thiện tri thức.
Thiện tri thức là Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Bích-chi Phật, cùng những người tin được kinh điển Đại thừa. Thiện tri thức dạy chúng sanh xa lìa mười điều ác, tu mười điều lành.
Trong số chúng ta có nhiều người không quý trọng chánh kiến, mà dạy người cũng không đúng chánh kiến.
Chánh kiến là phải tin vào nhân quả, tin vào Tam bảo… Nếu dạy coi tướng coi tay, coi địa lý, xin xăm, coi ngày coi giờ…, không phải là chánh kiến. Nếu không có chánh kiến thì dạy đệ tử cũng mất chánh kiến. Thiện tri thức là người có lời nói đúng như pháp, thực hành đúng như lời nói, chính tự mình chẳng sát sanh, chẳng trộm cướp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng nói hai lưỡi…, cho đến thứ mười là chẳng tà kiến, luôn luôn giữ chánh kiến. Thiện tri thức là vậy.
Này thiện nam tử! Hàng thiện tri thức có thiện pháp. Những gì là thiện pháp? Những việc của mình thật hành chẳng mong cầu tự vui, mà thường vì chúng sanh cầu an vui, thấy người khác có lỗi chẳng rao nói, miệng thường tuyên nói những việc thuần thiện, do đây nên gọi là thiện tri thức.
Này thiện nam tử Như mặt trăng từ đêm mùng một đến đêm rằm lần lần thêm lớn đầy đủ. Cũng vậy, thiện tri thức làm cho những người học đạo lần lần xa lìa pháp ác, thêm lớn pháp lành. Nếu người gần gũi thiện tri thức, từ trước chưa có giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến nay bèn có đó, người chưa đầy đủ thời được thêm rộng, do vì gần gũi thiện tri thức. Sự gần gũi này làm cho người lại được rõ thấu nghĩa sâu của mười hai bộ kinh. Nếu có thể chăm nghe nghĩa sâu của mười hai bộ kinh thời gọi là thính pháp. Nghe kinh Đại thừa thời gọi là chân thật thính pháp. Chân thật thính pháp chính là nghe kinh Đại Niết-bàn, nghe có Phật tánh, Như Lai rốt ráo chẳng nhập Niết-bàn, do đây nên gọi là chuyên tâm thính pháp. Chuyên tâm thính pháp gọi là tám thánh đạo, do tám thánh đạo có thể dứt tham dục, sân khuể, ngu si nên gọi là thính pháp. Xét về người thính pháp gọi là mười một pháp không, do pháp không này đối với tất cả pháp chẳng thấy có tướng mạo. Xét về người thính pháp gọi là sơ phát tâm nhẫn đến rốt ráo tâm vô thượng Bồ-đề, nhân nơi sơ tâm mà đặng đại Niết-bàn, chẳng phải do nghe pháp mà đặng đại Niết-bàn. Chính là do tu tập nên chứng đại Niết-bàn. Như người bệnh dầu nghe lời chỉ dẫn của lương y cùng tên của món thuốc nhưng chẳng thể lành bệnh, phải do uống thuốc bệnh mới được lành. Dầu nghe mười hai nhân duyên nhưng chẳng thể dứt được tất cả phiền não, cần phải nhiếp niệm khéo tư duy mới dứt được phiền não. Đây gọi là pháp nhiếp niệm tư duy thứ ba.
Bởi vì thiện tri thức là những người có pháp lành, vì thương chúng sanh trước chứ không phải vì mình, lúc nào cũng đem những lời lành để khuyên dạy mọi người.
Phật đã dùng ví dụ trong kinh A-hàm. Gần gũi thiện tri thức cũng như mặt trăng từ mùng một đến rằm, mỗi đêm mỗi sáng, đến đúng ngày rằm thì tròn. Cũng vậy, gần gũi thiện tri thức thì giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, trước không có rồi từ từ có, mà có chưa đầy đủ rồi lần lần thêm lớn, được đầy đủ. Đó là lợi ích của sự gần gũi thiện tri thức.
Xét về người thính pháp, gần gũi thiện tri thức, đối với mười hai bộ kinh chưa nghe thì được nghe, nếu đã nghe thì nghe thêm rất đầy đủ, đó là nói chung. Nói riêng, người mà thật tình nghe mười hai bộ kinh mới gọi là thính pháp, người nghe kinh Đại thừa mới gọi là chân thật thính pháp, người nghe kinh Đại Niết-bàn mới là chân thật thính pháp, chuyên tâm thính pháp. Người chuyên tâm thính pháp chân thật thì có tám thánh đạo dứt được tham sân si.
Xét về pháp được nghe gọi là mười một pháp không. Pháp không này có chỗ nói là mười một pháp, có chỗ nói mười tám pháp, có chỗ nói hai mươi pháp, nhưng đại ý không ngoài thấy các pháp tướng không, tánh không, thể không, dụng không… nghĩa là không chấp pháp nào. Mỗi pháp đều không chấp là thật, gọi đó là thấy tất cả pháp không. Chỉ nghe pháp thì không được đại Niết-bàn, nhân nghe pháp rồi phát tâm tu hành mới được.
Nhiều người học Phật khi nghe hỏi Phật nghĩa là gì, liền định nghĩa Phật là giác giả, tức người giác ngộ. Giác có ba: một là tự giác, hai là giác tha, ba là giác hạnh viên mãn. Như thế cho rằng hiểu Phật rồi, nhưng có thật học và hiểu Phật chưa? Đó chỉ là định nghĩa suông, hiểu biết suông chứ chưa phải là giác, chỉ ôm một mớ danh từ như vậy rồi nói tôi thông suốt Phật pháp. Đó chỉ là ngôn ngữ mà không có lẽ thật. Như ví dụ sau của Phật: người bị bệnh muốn hết bệnh phải rước ông thầy tới cho toa thuốc, rồi mua thuốc sắc uống mới hết. Chúng ta tu mười năm, hai mươi năm mà tham sân si vẫn chưa hết. Tại sao? Vì chỉ thuộc danh từ thôi chứ không có thực hành.
Nghe nói người nào nặng về sắc dục nên quán bất tịnh, tức là quán ba mươi sáu vật như tóc, lông, răng, móng, da, thịt, gân xương… Học thuộc lòng mấy danh từ đó, rồi nói tôi biết quán bất tịnh, nhưng sau thấy sắc cũng vẫn nhiễm như thường. Nếu mình học Phật mà chỉ nói suông thì tham sân si cũng vẫn là tham sân si, không bao giờ hết được. Cho nên không thể nói tu lâu mà không hết tham sân si, đó là vì không thực hành. Người nặng về việc học quá, rốt cuộc cũng không tới đâu, chỉ là đếm của báu cho người hay đọc toa thuốc làu làu mà không uống, nên bệnh nào cũng còn nguyên bệnh nấy. Vì vậy kế phần thính pháp, Phật dạy phải chánh tư duy, tức là suy nghĩ thật kỹ, nghe pháp rồi phải nhiếp niệm tư duy.
Lại do nghĩa gì gọi là nhiếp niệm tư duy? Đây là nói ba môn tam-muội: Không tam-muội, Vô tướng tam-muội, Vô tác tam-muội. Không là đối với hai mươi lăm cõi chẳng thấy một cõi nào là có thật. Vô tác là đối với hai mươi lăm cõi chẳng mong cầu, Vô tướng là không có mười tướng, chính là không có sắc tướng, thanh tướng, hương tướng, vị tướng, xúc tướng, sanh tướng, trụ tướng, diệt tướng, nam tướng, nữ tướng. Tu tập ba môn tam-muội như vậy thời gọi là Bồ-tát nhiếp niệm tư duy.
Không tam-muội nghĩa là đối với hai mươi lăm cõi không thấy cõi nào là thật, tức là dùng trí quán hai mươi lăm cõi ấy chỉ là nhân duyên giả hợp không có thật. Trong hai mươi lăm cõi đó không có tâm mong cầu thì gọi là Vô tác tam-muội.
Không tam-muội tức là đối với hai mươi lăm cõi không thấy có thật, vì biết nó là do nhân duyên hợp, có như huyễn như hóa, như trong kinh Kim Cang nói: Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, hai mươi lăm cõi cũng là pháp hữu vi cho nên thấy không thật.
Sao gọi là Vô tướng tam-muội? Tức là đối với mười tướng cũng không thấy có thật. Mười tướng đó trước hết là sáu trần, sau là ba tướng sanh trụ diệt và hai tướng nam nữ. Mười tướng đó không thấy là thật nên gọi là vô tướng.
Vô tác là đối với hai mươi lăm cõi không có tâm mong cầu, không nghĩ tưởng, Như khi nghe nói cõi Sắc giới người sống tuổi thọ dài, ăn uống sung sướng thì có tâm muốn sanh về Sắc giới. Dù cho có cõi nào sung sướng mấy trong hai mươi lăm cõi này, cũng đều không nhiễm không cầu gọi là vô tác.
Như vậy, công đức thứ bảy này thật quan trọng. Gần gũi bạn lành là điều đầu tiên, kế đó là nghe pháp của những bạn lành chỉ dạy, kế nữa là phải nhiếp tâm suy nghĩ nghĩa là trở về công dụng của mình. Mình phải dùng trí quán. Nhiếp niệm tư duy là phải chánh quán, quán đúng theo tinh thần Đại thừa.
Thế nào gọi là tu hành đúng pháp? Chính là tu hành Đàn ba-la-mật nhẫn đến Bát-nhã ba-la-mật, biết tướng chân thật của ấm nhập giới, cũng biết Thanh văn, Duyên giác, cũng chư Phật đồng một đạo mà nhập Niết-bàn, chính là thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng sanh, già, bệnh, chết, chẳng đói khát, khổ não, chẳng thối chuyển chẳng hư mất.
Này thiện nam tử! Người hiểu nghĩa sâu của đại Niết-bàn, thời biết chư Phật trọn chẳng rốt ráo nhập Niết-bàn.
Đàn ba-la-mật là bố thí ba-la-mật, nhẫn đến Bát–nhã ba-la-mật tức là trong lục độ mỗi độ đều tu đến cứu cánh viên mãn thì gọi là tu hành đúng pháp. Biết tướng chân thật của ấm nhập giới. Ấm là ngũ ấm, nhập là thập nhị nhập, giới là thập bát giới.
Như vậy tu hành đúng pháp là tu hành lục độ đến viên mãn cứu cánh, biết rằng năm ấm, thập nhị nhập, thập bát giới đều không có thật, biết rằng chư Phật, Thanh văn và Duyên giác muốn đến đại Niết-bàn thì chỉ có một đường thôi. Khi được đại Niết-bàn thì được thường lạc ngã tịnh hết sanh già bệnh chết…
Từ đây về sau đức Phật giải lại bốn phần trên gần gũi thiện tri thức, chí tâm nghe pháp, chánh niệm tư duy, tu hành đúng pháp. Trước hết là giải thích gần gũi thiện tri thức.
Này thiện nam tử! Bậc thiện tri thức chân thật thứ nhất là Bồ-tát và chư Phật, vì bậc này thường dùng ba pháp khéo điều ngự: một là lời nói hoàn toàn dịu hòa, hai là hoàn toàn quở trách, ba là dịu hòa cùng quở trách. Do đây nên Bồ-tát và chư Phật là bậc thiện tri thức chân thật. Phật và Bồ-tát là bậc đại lương y nên gọi là thiện tri thức, vì biết bệnh, biết thuốc, cho thuốc đúng bệnh.
Ví như lương y thông thạo tám môn trị bệnh xem bệnh có ba tướng: phong, nhiệt, hàn. Người bệnh phong cho uống dầu tô, người bệnh nhiệt cho uống thạch mật, người bệnh hàn cho uống nước gừng. Do biết gốc bệnh cho thuốc được lành nên gọi là lương y. Cũng vậy, chư Phật và Bồ-tát biết phàm phu có ba thứ bệnh: tham dục, sân khuể, ngu si. Người tham dục dạy quán tướng xương trắng, người sân khuể dạy quán từ bi, người ngu si dạy quán mười hai nhân duyên. Do đây nên chư Phật và Bồ-tát gọi là thiện tri thức.
Như thuyền chủ vì giỏi đưa người nên gọi là đại thuyền chủ. Cũng vậy, chư Phật và Bồ-tát đưa chúng sanh khỏi biển sanh tử nên gọi là thiện tri thức.
Này thiện nam tử! Do Phật và Bồ-tát làm cho chúng sanh được tu hành đầy đủ những căn lành. Ví như núi Tuyết là nơi sản xuất những cội gốc thuốc hay vi diệu. Cũng vậy, chư Phật và Bồ tát là chỗ xuất sanh tất cả căn lành, do đây nên gọi là thiện tri thức.
Trong núi Tuyết có vị hương dược tên là Ta-ha, người nào thấy thuốc này thời được sống lâu, không có bệnh khổ, bốn thứ độc không làm hại được. Người nào rờ đụng thuốc này thời sống lâu đủ một trăm hai mươi tuổi. Người nào nhớ thuốc này thời được trí túc mạng. Đó là do thế lực của vị thuốc này. Cũng vậy, chư Phật và Bồ-tát, nếu ai được thấy thời tất cả phiền não đều trừ, bốn ma chẳng nhiễu loạn được. Người nào gần gũi chư Phật và Bồ-tát, vì được nghe pháp, nên được trường thọ chẳng bị sanh tử. Người nào tưởng niệm chư Phật và Bồ-tát thời được vô thượng Bồ-đề. Do đây nên chư Phật và Bồ-tát gọi là thiện tri thức.
Như trong Hương Sơn có ao A-na-bà-đạp đa, từ ao này thành nguồn bốn con sông lớn: sông Hằng, sông Tân-đầu, sông Tư-đà, sông Bác-xoa. Người đời thường nói rằng: Nếu người có tội tắm nơi bốn con sông này thời tội đều tiêu diệt. Nên biết lời nói này là hư vọng chẳng thật. Chỉ có chư Phật và Bồ-tát mới là chân thật. Vì người nào được gần gũi thời tất cả tội chướng đều tiêu trừ. Do đây nên chư Phật và Bồ-tát gọi là thiện tri thức.
Ví như trên mặt đất có bao nhiêu cỏ thuốc, rừng cây, trăm giống lúa, mía, nho, các thứ bông trái. Gặp trời nắng hạn sắp khô chết, Nan-đà long vương vì xót thương chúng sanh nên ra khỏi biển lớn làm mưa xối xuống, nhờ đó tất cả cỏ cây bông trái đều được tươi tốt. Cũng vậy, tất cả chúng sanh có bao nhiêu căn lành sắp tiêu diệt, chư Phật và Bồ-tát sanh lòng đại bi, từ biển trí huệ rưới pháp cam lồ, làm cho chúng sanh được mười hai pháp lành. Do đây nên chư Phật và Bồ-tát gọi là thiện tri thức.
Ví như lương y thông thạo tám môn trị bệnh, thấy những người bệnh thời lo chữa trị, không ngó đến giòng họ, đẹp xấu, cũng không nghĩ đến châu báu, do đây nên người đời xưng tặng là đại lương y. Cũng vậy, chư Phật và Bồ-tát thấy chúng sanh có bệnh phiền não, liền sanh lòng từ mẫn mà thuyết pháp, không ngó đến giòng họ đẹp xấu cùng của cải, chúng sanh được nghe pháp, phiền não liền trừ diệt. Do đây nên chư Phật và Bồ-tát gọi là thiện tri thức. Do vì gần gũi thiện hữu nên được gần đại Niết-bàn.
Thường thường giáo dục phải nghiêm mà cũng phải khoan, tức là phải nghiêm nghị mà cũng phải khoan dung; dung hòa cả nghiêm và khoan, nếu nghiêm không thì khắt khe, khoan quá thì trở thành dung dị, dễ quá. Khi cần hiền phải hiền, cần dữ phải dữ, có khi phải hợp cả hiền lẫn dữ. Người khéo dạy đệ tử, ban đầu thì rầy, biết lỗi rồi thì dỗ. Đó là dùng cả hai, dịu hòa và quở trách. Còn có khi chỉ quở trách không, có khi chỉ nói lời dịu hòa. Cái khéo léo của Phật và Bồ-tát là dùng cả ba cách để giáo hóa chúng sanh vì vậy gọi là bậc thiện tri thức chân thật.
Người làm cho mình xuất sanh tất cả căn lành và làm cho mình qua khỏi biển sanh tử đó gọi là thiện tri thức. Mà người nào làm được như thế? Chỉ Bồ-tát và Phật.
Trên đây là những ví dụ để chỉ thiện hữu tri thức làm cho chúng sanh qua khỏi biển sanh tử, ra khỏi khổ não, được an ổn, đầy đủ căn lành. Gần thiện tri thức mới được gần đại Niết-bàn, nếu không gần thiện tri thức thì khó được gần đại Niết-bàn, mà thiện tri thức là Phật, là Bồ-tát.
Thế nào là Bồ-tát nhờ nghe pháp mà đặng gần với đại Niết-bàn? Tất cả chúng sanh do nghe pháp mà có tín căn, vì có tín căn nên thích thật hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ, được quả Tu-đà-hoàn nhẫn đến quả Phật. Do đây nên biết rằng được những pháp lành đều là thế lực của sự nghe pháp.
Ví như Trưởng giả chỉ có một con trai, ông sai con đến nước khác buôn bán đổi chác. Ông chỉ rành đường sá, rồi lại dặn rằng: Nếu gặp dâm nữ thời con phải cẩn thận, chớ gần gũi, nếu thương yêu gần gũi thời mất tiền của và thân mạng cũng khó bảo toàn, cũng chớ giao du với người tệ ác. Người con kính thuận theo lời dạy của cha, thân tâm an ổn được nhiều của báu mang về.
Đại Bồ-tát giáo hóa chúng sanh cũng như vậy, chỉ rành đường đạo cùng những pháp chướng ác. Nhờ nghe pháp mà chúng sanh xa lìa những điều ác, đầy đủ những pháp lành, đây là do sự thính pháp mà được gần với đại Niết-bàn.
Ví như gương sáng soi rõ mặt người. Cũng vậy, người được nghe pháp thời thấy rõ pháp lành, pháp ác, do đây nên được gần đại Niết-bàn.
Tín căn tức là gốc tin. Nghe pháp có niềm tin, nếu không nghe pháp thì làm sao hiểu, không hiểu thì làm sao tin, nên nghe pháp rồi mới có lòng tin. Có lòng tin mới biết trì giới, bố thí… thực hành lục độ và chứng được các quả, nên nói tất cả pháp lành đều do nghe pháp mà được.
Như trưởng giả sai con trai độc nhất đến nước khác buôn bán đổi chác. Khi đi ông dặn phải cẩn thận đừng gần gũi với dâm nữ, bạn ác. Người đó nghe lời cha, mua bán rồi đem tiền của về, không mất. Cũng vậy những người nghe pháp biết việc lành việc dữ, tránh dữ làm lành được đầy đủ tất cả công đức.
Nghe pháp chẳng khác nào như người xem gương, nhờ gương mà biết rõ mặt mình. Phật dạy việc nào là thiện, việc nào là ác, đâu là hữu lậu, đâu là vô lậu…, nhờ nghe pháp mà biết rõ tâm mình thiện hay ác, hành động mình lành hay dữ v.v… Biết rồi làm thiện chừa ác, bỏ hữu lậu theo vô lậu thì mới đạt được sở nguyện. Như soi gương thấy trên mặt có vết dơ thì mau mau chùi cho sạch. Nếu không nghe pháp học đạo thì thích gì làm nấy, muốn được giải thoát cũng không có cách nào.
Ví như nhà tìm châu bảo chẳng biết đường sá, có người hiểu biết chỉ đường, bèn đến được chỗ châu báu. Cũng vậy, tất cả chúng sanh muốn đến chỗ lành để lấy pháp bảo, chẳng biết phương pháp tu hành, nhờ Bồ-tát chỉ dạy, chúng sanh tuân theo mà được đến chỗ lành đặng pháp bảo vô thượng đại Niết-bàn. Đây là do nghe pháp mà đặng gần với đại Niết-bàn.
Ví như voi say hung dữ, có nhà điều tượng dùng móc sắt móc rách da đầu, voi say liền điều thuận hết tâm hung dữ. Cũng vậy, tất cả chúng sanh do tham, sân, si nên muốn gây tạo nhiều tội ác, Bồ-tát vì họ thuyết pháp, làm cho họ dứt hết tâm ác, do đây nên gần được đại Niết-bàn. Vì thế nên Như Lai ở trong các kinh bảo hàng đệ tử phải nhiếp tâm lóng nghe và lãnh thọ mười hai bộ kinh, tu bảy giác chi, lìa năm thứ cái chướng. Do tu tập bảy giác chi thời được gần đại Niết-bàn.
Do thính pháp mà Tu-đà-hoàn lìa những sự khủng bố.
Trưởng giả Tu-đạt-đa trước kia mang bệnh nặng, ông rất lo rầu sợ sệt. Sau khi được nghe Xá-lợi-phất nói bậc Tu-đà-hoàn có bốn công đức, dùng mười thứ ví dụ để an ủi. Trưởng giả nghe rồi liền hết sợ sệt. Đây cũng là do thính pháp mà được gần đại Niết-bàn, vì được mở thông pháp nhãn.
Trong đời có ba người: một là không con mắt, hai là một con mắt, ba là đủ hai mắt. Người không con mắt dụ cho thường chẳng được nghe pháp. Người một con mắt dụ cho được tạm thời nghe pháp mà tâm không được an trụ. Người đủ hai con mắt dụ cho chuyên tâm nghe pháp lãnh thọ và thật hành, do đây được gần đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Ngày trước lúc ta ở thành Câu-thi-na, Xá-lợi-phất đương bệnh khổ. Ta sai A-nan đến thuyết pháp. Lúc đó Xá-lợi-phất
nghe A-nan thuyết pháp, bèn bảo bốn người đệ tử khiêng giường bệnh đến chỗ Phật để nghe pháp. Do phước lực nghe Phật thuyết pháp nên Xá-lợi-phất được lành bệnh thân thể an ổn. Vì thế nên nghe chánh pháp thời được gần đại Niết-bàn.
Đó là do nghe kinh mà được lợi ích như vậy. Đức Phật dẫn chứng: Ông Tu-đạt-đa (trưởng giả Cấp Cô Độc) sau khi thọ giới quy y Phật, tu các pháp lành chứng được Tu-đà-hoàn. Một hôm ông bệnh nặng, trong lòng lo sợ. Ngài Xá-lợi-phất đến thăm, giải thích về bốn công đức của bậc Tu-đà-hoàn, ngay đó ông hết sợ sệt, liền lành bệnh.
Diện Chẳng nghe pháp thì không nhận ra được tà chánh thiện ác, nên ví dụ như không mắt.
Có lúc ngài Xá-lợi-phất bệnh, Phật sai ngài A-nan đến thuyết pháp. Ngài Xá-lợi-phất nghe xong đến chỗ Phật, nương pháp lực Phật mà lành bệnh. Các vị đệ tử lớn của Phật ngày xưa cũng bệnh, chúng ta nhiều khi nghe các vị tu mà bị bệnh lại phàn nàn tu sao còn bệnh? Sự thật có thân thì phải bệnh thôi.
Thế nào là Bồ-tát do tư duy mà được gần đại Niết-bàn? Nhân sự tư duy này mà tâm được giải thoát, Vì tất cả chúng sanh thường bị ngũ dục ràng buộc, do tư duy nên đều được giải thoát. Đây là do tư duy mà được gần đại Niết-bàn.
Tất cả chúng sanh thường bị thường, lạc, ngã, tịnh làm điên đảo. Do tư duy nên được thấy các pháp là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Nhờ sự thấy này mà hết điên đảo. Đây cũng là do tư duy mà được gần đại Niết-bàn.
Tất cả pháp có bốn tướng: sanh tướng, lão tướng, bệnh tướng, diệt tướng. Do bốn tướng này làm cho phàm phu đến Tu-đà-hoàn bị nhiều sự khổ não. Nếu người có thể nhiếp niệm khéo tư duy, dầu gặp bốn tướng này nhưng chẳng bị khổ não. Đây cũng là do tư duy mà được gần đại Niết-bàn.
Tư duy là quán xét. Ngũ dục làm người ta mê đắm, nếu tu mà không quán xét thì làm sao trừ được ngũ dục. Đối với tài thì quán tiền của không thật, thuộc năm nhà: con bất hiếu, vua quan, trộm cướp, lửa cháy, nước trôi. Tiền của đều vô thường, nay còn mai mất… Cho tới những cái dục khác như sắc, danh, thực, thùy cũng đều quán như vậy. Nhờ quán như thế chúng ta không còn mê đắm. Đó là quán vô thường, vô ngã… theo Nhị thừa. Nếu quán theo Đại thừa thì tất cả tiền của hay danh lợi cũng đều là pháp huyễn hóa do nhân duyên hợp mà có, không thật. Ví dụ như tấm giấy một ngàn, hai ngàn đồng có thể mua được món này món nọ, nhưng thật ra nó chỉ là một tờ giấy được mọi người cùng ước định đặt cho giá trị tạm thời, tùy chỗ tùy lúc mà thay đổi, không có giá trị thật. Quán xét như vậy gọi là tư duy. Do tư duy như vậy nên không còn đắm mến ngũ dục được giải thoát, gần được đại Niết-bàn.
Cho thân mình là thường lạc ngã tịnh là điên đảo. Nếu suy nghĩ chân chánh thấy thân này thay đổi
từng ngày, biết thân là vô thường, không vui gọi là vô lạc. Vô thường vô lạc nên cũng không có ta, không có chủ tể duy nhất nên gọi là vô ngã. Lại chính thân này có ba mươi sáu vật đều bất tịnh. Do tư duy như vậy mà phá trừ được bốn thứ điên đảo, gần được đại Niết-bàn.
Sanh già bệnh chết là bốn tướng chung của mọi người, cho tới Tu-đà-hoàn cũng còn chưa thoát khỏi. Nếu biết chánh tư duy thì hết sợ bốn tướng đó. Quán thân này do nhân duyên hợp, sớm còn chiều mất, đủ duyên thì còn thiếu duyên thì mất. Biết thân không thật, chuyện còn mất bệnh hoạn không quan trọng nữa thì hết khổ, gần được đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Tất cả pháp lành đều do tư duy mà được. Vì có người dầu trải qua vô lượng vô biên vô số kiếp chuyên tâm thính pháp, nếu chẳng tư duy thời trọn không thể được vô thượng Bồ-đề. Đây cũng là do tư duy mà được gần đại Niết-bàn.
Nếu có chúng sanh tin Phật, Pháp, Tăng không biến đổi nên sanh lòng cung kính. Nên biết rằng đây là do năng lực của sự nhiếp niệm tư duy mới được dứt trừ tất cả phiền não. Đây cũng là do tư duy mà được gần đại Niết-bàn.
Chúng ta nghe rất nhiều bộ kinh nhưng không có chánh tư duy thì không được lợi ích. Như kinh nói thân này là vô thường là huyễn hóa, nhưng mình lại không biết quán xét về thân thì làm sao hết khổ não. Phải xét lại ngày xưa còn nhỏ, bây giờ đã già rồi mai mốt chết… Hoặc quán xét thân này do nhân duyên hòa hợp mà có, quán xét cho thật kỹ thì mới thật có lợi ích. Phật nói dù mình nghe pháp trải qua vô lượng vô biên vô số kiếp mà không tư duy thì cũng không được vô thượng Bồ-đề. Cho nên người tu phải thường ở chỗ vắng yên lặng suy nghĩ những lời Phật dạy, trí tuệ khai mở mới thoát được đau khổ. Còn nghe suông thì dù nghe bao nhiêu đời cũng không được lợi ích. Văn rồi phải tư, rồi tu mới có lợi ích.
Nếu nghe Phật pháp tăng không biến đổi, nghe rồi cung kính. Suy nghĩ nhận xét đúng đắn thì lòng tin mạnh mẽ, lòng tin mạnh mẽ thì được gần đại Niết-bàn. Đó chính là do nhiếp tâm tư duy mà được, học đạo mà không suy xét nhận định thì không được như thế. Đó là lợi ích của chánh tư duy.
Thế nào là Bồ-tát tu hành đúng chánh pháp? Này thiện nam tử! Dứt những pháp ác tu các pháp lành thời gọi là Bồ-tát tu hành đúng pháp. Lại thấy tất cả pháp trống rỗng không chỗ có, không thường, không lạc, không ngã, không tịnh, do sự thấy biết này nên thà bỏ thân mạng chẳng phạm cấm giới. Đây gọi là Bồ-tát tu hành đúng pháp.
Tu có hai thứ: chân thật và chẳng thật. Chẳng biết tướng của Niết-bàn, Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, thật tướng, tướng hư không v.v… đây gọi là chẳng thật. Nếu biết thời gọi là chân thật.
Thế nào gọi là biết tướng của Niết-bàn? Niết-bàn có tám điều: một là sạch hết, hai là tánh lành, ba là thật, bốn là chân, năm là thường, sáu là lạc, bảy là ngã, tám là tịnh.
Tu hành đúng pháp cũng là do trí quán biết các pháp không có tự tánh, trống rỗng, không có một tự thể thật, cho nên nó không phải là thường lạc ngã tịnh. Đã không có tướng thật thì tại sao phải vì nó mà phạm giới. Vì lẽ đó thà bỏ thân mạng mà không phạm cấm giới. Đó gọi là tu hành đúng pháp.
Nếu người tu không biết tướng của Niết-bàn, Phật tánh, Như Lai… gọi là tu hành chẳng thật. Biết được Niết-bàn, Phật tánh là bất sanh bất diệt, nên tu tiến đến Niết-bàn được bất sanh bất diệt, đó mới là chân thật.
Chỗ khác nói Niết-bàn chỉ có bốn đức: thường lạc ngã tịnh, ở đây nói tám đức: diệt sạch, tánh lành, thật, chân, thường, lạc, ngã, tịnh. Thật ra nói tám là Phật mở rộng, chứ bốn là đã đủ. Diệt sạch, tánh lành cũng nằm trong tịnh. Thật và chân nằm trong thường.
Niết-bàn lại có tám điều: một là giải thoát, hai là tánh lành, ba là chẳng thật, bốn là chẳng chân, năm là vô thường, sáu là vô lạc, bảy là vô ngã, tám là vô tịnh.
Niết-bàn lại có sáu tướng: một là giải thoát, hai là tánh lành, ba là chẳng thật, bốn là chẳng chân, năm là an lạc, sáu là thanh tịnh.
Nếu chúng sanh y theo đạo thế tục mà dứt phiền não, thời Niết-bàn đó có tám điều giải thoát chẳng chân thật, vì là vô thường. Vì vô thường nên là không thật, vì không thật thời không chân. Dầu dứt phiền não nhưng rồi sẽ khổ trở lại, do đây nên không có thường lạc ngã tịnh. Đây gọi là Niết-bàn có tám điều giải thoát không thật.
Thanh văn Duyên giác vì dứt phiền não nên gọi là giải thoát nhưng chưa được vô thượng Bồ-đề, đây gọi là chẳng thật vì chẳng thật nên chẳng chân. Đời vị lai sẽ được vô thượng Bồ-đề nên là vô thường. Vì được tám thánh đạo vô lậu nên gọi là thanh tịnh an lạc. Đây gọi là Niết-bàn có sáu tướng.
Này thiện nam tử! Nếu biết như vậy đó là biết Niết-bàn, chẳng gọi là biết Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, thật tướng, hư không.
Phật tánh có sáu điều: một là thường, hai là tịnh, ba là thật, bốn là thiện, năm là sẽ thấy, sáu là chân. Phật tánh lại có bảy điều: sáu điều như trên, bảy là có thể chứng. Đây gọi là Bồ-tát biết Phật tánh.
Người y theo đạo thế tục mà dứt được phiền não thì có thể được Niết-bàn. Niết-bàn của họ có tám điều giải thoát chẳng thật. Như tu được Phi phi tưởng định theo đạo thế tục, tưởng là an tĩnh Niết-bàn, nhưng thật ra còn vô thường, khi hết sức định thì sanh trở lại, cho nên gọi là vô thường, vì vô thường nên không thật.
Tám tướng trước thuộc Niết-bàn chân thật. Còn tám tướng kế là Niết-bàn của phàm phu. Niết-bàn sáu tướng sau là Niết-bàn của Thanh văn Duyên giác. Hai Niết-bàn sau chẳng thật, gọi là biết Niết-bàn mà không biết Phật tánh. Bởi vì Phật tánh không có hình tướng cho nên là thường. Vì không hình tướng nên không nhiễm ô là tịnh. Nhưng không như hư không nên là thật. Phật tánh là giác nên thuộc về thiện. Người tu sẽ thấy được Phật tánh nên nói sẽ thấy. Phật tánh là thường nên nói là chân không phải giả. Đó là sáu điều. Điều thứ bảy là có thể chứng nên nói là bảy điều. Hiểu được như vậy là nhận được Phật tánh.
Như Lai chính là tướng giác ngộ, tướng lành, là thường, lạc, ngã, tịnh, là giải thoát chân thật, dạy đạo có thể thấy được. Đây gọi là Bồ-tát biết tướng Như Lai.
Pháp là hoặc lành chẳng lành, hoặc thường chẳng thường, hoặc lạc chẳng lạc, hoặc ngã chẳng ngã, hoặc tịnh chẳng tịnh, hoặc tri chẳng tri, hoặc giải chẳng giải, hoặc chân chẳng chân, hoặc tu chẳng tu, hoặc sư chẳng phải sư, hoặc thật chẳng thật. Đây gọi là Bồ-tát biết pháp tướng.
Thế nào là Bồ-tát biết Tăng tướng?
Tăng là thường, lạc, ngã, tịnh, là tướng đệ tử, tướng có thể thấy, là thiện, là chân, chẳng thật, vì tất cả Thanh văn sẽ được thành Phật, vì tỏ ngộ chân tánh nên gọi là chân. Đây gọi là Bồ-tát biết tướng của Tăng.
Đạo Phật dạy có thể chứng được thấy được không phải lời nói suông. Trong kinh A-hàm, đức Phật thường hay bác những vấn đề người ta chỉ nói mà không biết. Như Bà-la-môn nói đến Phạm thiên. Phật bác, ông nói Phạm thiên mà chính ông đã thấy được Phạm thiên hay là ông nghe cha mẹ, ông bà, tổ tiên thấy thuật lại?
Bà-la-môn đáp, chỉ nghe nói Phạm thiên chứ không nghe ai thấy rồi thuật lại. Đức Phật ví dụ như có người làm cái thang bắc ngoài hư không. Có người hỏi, ông bắc thang đi đâu vậy? Ông nói, tôi bắc lên lầu mà không có lầu. Như vậy bắc thang có lên được lầu hay không? Vì không có lầu thật, có bắc thang cũng lên không được. Cũng vậy, ông nói Phạm thiên mà chính ông không thấy, rồi cha mẹ ông cũng không thấy không biết, tổ tiên cũng không thấy không biết, mà cứ nói tu theo Phạm thiên, như vậy có phải là nói gạt, như bắc thang lên lầu mà không có lầu, chỉ có thang không.
Phật nói pháp là phải có thật chứng, thật ngộ, chứ không phải nói suông. Nói Niết-bàn thì mình tu chứng được Niết-bàn, nói Phật tánh mình tu thấy Phật tánh. Vì vậy ở đây dạy đạo có thể thấy được. Đó gọi là thấy được tướng Như Lai.
Pháp là chỉ cho thiện, ác, thường, vô thường, lạc, bất lạc, ngã, vô ngã. tất cả pháp thế gian và pháp xuất thế gian chung lại gọi là pháp. Biết tất cả pháp thế gian pháp xuất thế gian, gọi là biết pháp.
Tăng ở đây có nghĩa là thánh tăng. Tại sao? Vì các hàng thánh tăng tu hành chứng được đạo quả từ Thanh văn đến Bồ-tát. Bởi chứng được đạo quả nên các ngài mới thường lạc ngã tịnh. Các ngài là tướng thật chứng cho nên có thể thấy được. Các ngài tu tất cả pháp lành nên là thiện. Các ngài chứng chỗ không sanh không diệt nên là chân. Chẳng thật là sao? Vì tất cả Thanh văn sẽ được thành Phật. Các ngài chứng quả A-la-hán tới mười muôn kiếp nữa thì thành Phật, quả A-la-hán bị dời đổi nên gọi chẳng thật. Vì tỏ ngộ chân tánh nên gọi là chân. Biết rành rẽ như vậy là biết Tăng.
Thật tướng là: hoặc thường, vô thường, hoặc lạc, vô lạc, hoặc ngã, vô ngã, hoặc tịnh, vô tịnh, hoặc thiện, bất thiện, hoặc có, hoặc không, hoặc Niết-bàn, hoặc chẳng phải Niết-bàn, hoặc giải thoát, hoặc chẳng phải giải thoát, hoặc tri, hoặc bất trị, hoặc đoạn, hoặc bất đoạn, hoặc chứng, hoặc chẳng chứng, hoặc tu, hoặc chẳng tu, hoặc thấy, hoặc chẳng thấy. Đây gọi là thật tướng, chẳng phải là Niết-bàn Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, hư không.
Đây gọi là Bồ-tát nhân tu kinh Đại Niết-bàn này biết tướng sai khác của Niết-bàn, Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, thật tướng, hư không.
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát tu kinh Đại Niết-bàn chẳng thấy hư không, vì Phật và Bồ-tát dầu có ngũ nhãn nhưng chẳng thấy, chỉ có huệ nhãn mới thấy được, Chỗ thấy của huệ nhãn là không có pháp thấy được nên gọi là thấy. Nếu là không có vật gọi là hư không, thời hư không ấy gọi là thật, do vì thật thời gọi là thường không, vì thường không nên không có lạc, ngã và tịnh.
Biết thật tướng là biết tất cả các pháp có thường vô thường, lạc vô lạc… Biết tất cả các pháp không có tướng cố định, như vậy là biết tướng thật của các pháp. Tướng thật đó không phải là tướng quyết định của Niết-bàn, Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng.
Người thế gian có cái lầm, thấy trống rỗng nói thấy có hư không, chứ thật ra hư không có gì đâu mà thấy. Ở đây Phật giảng cho chúng ta thấy, có ngũ nhãn cũng không thấy hư không, chỉ có tuệ nhãn mới thấy được hư không. Thấy mà không phải thấy, tuệ tức là trí tuệ, biết chỗ trống là hư không, chứ đâu có gì mà thấy. Phàm thấy là phải có vật mới thấy được, cái trống rỗng biết là hư không chứ không phải thấy. Cho nên phải hiểu cho thật rõ, nghe nói Niết-bàn không có hình trạng, giống như hư không rồi tưởng Niết-bàn đồng với hư không là không có gì hết, đó là lầm. Niết-bàn không có hình trạng nhưng còn thường lạc ngã tịnh, hư không thì không có gì hết, vì thường không nên không có lạc, ngã, tịnh.
Này thiện nam tử! Trống không gọi là không có pháp, không có pháp gọi là trống không. Như trong đời chỗ không có vật gọi là trống không, tánh hư không cũng như vậy, vì không chỗ có nên gọi là hư không.
Này thiện nam tử! Tánh chúng sanh cùng tánh hư không đều không có thật tánh. Như có người nói rằng: Trừ dứt những vật có rồi sau mới là không. Nhưng hư không này thật chẳng thể làm ra, vì là không chỗ có, đã không chỗ có nên biết là không có hư không. Tánh hư không này nếu có thể làm ra thời gọi là vô thường, nếu là vô thường thời chẳng gọi là hư không.
Này thiện nam tử! Như người đời nói rằng hư không là không sắc chất, không cách ngại, là thường chẳng biến đổi, do đây nên trong đời gọi tánh hư không là đại chủng thứ năm. Nhưng hư không này thật ra không có tánh, do ánh sáng nên gọi là hư không, thật ra không có hư không. Như thế đế thật ra không có tánh vì thuận theo chúng sanh mà nói là có thế đế.
Không có một hình tướng gì thì gọi là hư không. Ví dụ cái tách trước mặt chúng ta, khi có tách thì chỗ này không phải là hư không. Cái tách bị bể nát thì chỗ này thành hư không. Người ta tưởng là do cái tách bể mà thành hư không. Nếu tách bể thành hư không thì hư không bị làm ra. Sự thật không phải vậy. Vì không có vật mà gọi là hư không, chứ không phải cái tách biến thành hư không. Chúng ta dẹp sự vật thì hết sự vật, gọi đó là hư không. Nếu nói hư không do cái này cái kia làm ra thì hư không vô thường, vô thường thì không gọi là hư không, thật ra thì hư không không có.
Tánh của chúng sanh cũng vậy, không có thật cũng đồng như hư không. Bởi vì chúng sanh do nhân duyên hợp lại mà thành, bản lại là không thật, cũng giống như hư không vậy, nên nói rằng tánh chúng sanh cùng hư không đều không có thật tánh. Người ta gọi hư không là đại chủng thứ năm, sau tứ đại là không đại. Nhưng hư không không có tánh gì hết, nó rỗng không, do ánh sáng nên mình gọi là hư không. Hư không chỉ là một danh từ suông.
Thế đế tức là các pháp hữu vi, không có tánh thật nhưng thuận theo chúng sanh mà nói có thế đế. Vì vậy nói rằng tất cả pháp đều không có tự tánh. Không có tự tánh bởi nó không có thật, cũng như hư không không có thật.
Này thiện nam tử! Thể Niết-bàn cũng không có chỗ trụ, chính nơi chư Phật dứt sạch phiền não mà gọi là Niết-bàn. Niết-bàn chính là thường, lạc, ngã, tịnh. Niết-bàn dầu là lạc nhưng chẳng phải là thọ lạc, bèn là sự vui tịch diệt vi diệu vô thượng. Chư Phật có hai thứ vui: một là tịch diệt lạc, hai là giác tri lạc. Thể thật tướng có ba thứ vui: một là thọ lạc, hai là tịch diệt lạc, ba là giác tri lạc. Phật tánh có một thứ vui, vì sẽ được thấy, lúc chứng vô thượng Bồ-đề thời gọi là Bồ-đề lạc.”
Niết-bàn ở đâu? Nếu có chỗ ở thì có chỗ trụ, mà có chỗ trụ thì không phải Niết-bàn. Niết-bàn là không có chỗ trụ, chỉ dứt sạch phiền não gọi là Niết-bàn. Phật giản trạch có lạc thọ, khổ thọ và không khổ không lạc thọ. Cái lạc của Niết-bàn không phải lạc trong ba thứ, khổ lạc và không khổ không lạc kia.
Trong Pháp Bảo Đàn, có vị hỏi Lục Tổ: “Chư hạnh vô thường, thị sanh diệt pháp, sanh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc. Nói tịch diệt là vui, tịch diệt là không còn thân, không còn thân thì cái gì vui?” Lục Tổ nói: “Ông tu theo đạo giải thoát mà nói theo người trần tục,” Vì cái vui này không phải do thân thọ mà do sự lặng lẽ thanh tịnh, dứt được phiền não. Tổ chỉ rất rành rõ mà nhiều khi mình hiểu lầm, tưởng có thân là thọ vui, không có thân là không có thọ vui. Cái vui này là cái vui tịch diệt, cái vui vi diệu chứ không phải cái vui do thọ lạc.
Ví dụ trẻ con khi được cho bánh kẹo, khi được cho hát, khi được giỡn cười với nhau thì lúc đó vui. Cái vui của nó là nhận được những gì nó thích, vui khi được đông đảo đùa giỡn. Còn người lớn và nhất là người biết tu hành, nhiều khi ngồi lặng lẽ một mình, suy nghĩ đạo lý hiểu ra điều gì hay thì đó là vui, là giác tri lạc. Cái vui đó là vui trong tịch diệt. Chúng ta tu tuy chưa thấm vào đâu, nhưng vẫn có một chút vui về tịch diệt và tri lạc.
Phật tánh chỉ có một cái vui sẽ được thấy, lúc chứng vô thượng Bồ–đề, tức là đạt được Phật quả mới gọi là Bồ-đề lạc.
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu chỗ phiền não dứt là Niết-bàn thời không phải. Vì xưa kia lúc đức Như Lai mới thành Phật, đi đến bờ sông Ni-liên-thiền, Ma vương cùng quyến thuộc đến chỗ Phật thưa rằng: Thời kỳ Niết-bàn đã đến sao Thế Tôn chẳng nhập?
Phật bảo Ma vương: Nay ta chưa có hàng đa văn đệ tử giới hạnh tinh nghiêm trí huệ thông minh, có thể giáo hóa chúng sanh, nên ta chẳng nhập Niết-bàn.
Nếu nói rằng chỗ phiền não dứt là Niết-bàn, Bồ tát từ vô lượng kiếp đã dứt phiền não, cớ sao chẳng đặng gọi là Niết-bàn? Đều đồng dứt, cớ sao gọi riêng chư Phật có Niết-bàn, còn Bồ-tát thời không? Nếu dứt phiền não chẳng phải là Niết-bàn cớ sao ngày trước đức Như Lai bảo ông Sanh Danh: Chính thân của ta đây là Niết-bàn?
Lúc Như Lai ở nước Tỳ-xá-ly, Ma vương lại đến thưa: Thế Tôn ngày trước nói rằng vì chưa có hàng đệ tử đa văn trì giới thông minh trí huệ có thể giáo hóa chúng sanh, nên Thế Tôn chẳng nhập Niết-bàn. Nay đã đầy đủ cớ sao Thế Tôn chẳng nhập? Như Lai bảo Ma vương: Sau đây ba tháng ta sẽ nhập Niết-bàn.
Bạch Thế Tôn! Giả sử diệt độ chẳng phải nhập Niết-bàn, tại sao đức Như Lai lại hẹn ba tháng sẽ nhập Niết-bàn?
Bạch Thế Tôn! Nếu dứt phiền não là Niết-bàn, ngày trước lúc đức Như Lai ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề dứt hết phiền não bèn là Niết-bàn, sao lại nói với Ma vương sau ba tháng sẽ nhập Niết-bàn?
Bạch Thế Tôn! Nếu lúc đó là Niết-bàn, tại sao lại tuyên bố đến cuối đêm sẽ nhập Niết-bàn?
Đức Như Lai là đấng thành thật, cớ sao lại nói những lời hư vọng như vậy?”
Bồ-tát Cao Quý Đức Vương nghi ngờ về việc nhập Niết-bàn của đức Phật, nên đặt ra những câu hỏi, gồm hai ý chính.
Thứ nhất, Phật nói rằng dứt hết phiền não gọi là Niết-bàn. Khi Phật vừa thành Phật, Ma vương xin ngài nhập Niết-bàn, ngài nói chưa có đệ tử có thể giáo hóa chúng sanh nên chưa nhập. Lúc thành Phật là dứt hết phiền não, lẽ ra đã là Niết-bàn. Như vậy, lúc đó ngài chưa dứt hết phiền não hay sao?
Lần sau ngài nói đợi ba tháng… mới nhập. Nếu dứt hết phiền não thì tất nhiên lúc nào cũng là Niết-bàn, sao phải đợi ba tháng nữa mới nhập Niết-bàn trong rừng ta-la này. Vậy là tới bây giờ ngài mới có Niết-bàn, còn ngày xưa là chưa có Niết-bàn hay sao? Đó là Bồ-tát Cao Quý Đức Vương nghi ngờ nghĩa Phật nói ở trên và lời Phật nói với Ma vương.
Thứ hai, Niết-bàn là dứt phiền não, Bồ-tát đã dứt phiền não lẽ ra cũng được Niết-bàn, sao nói Phật nhập Niết-bàn mà không nói Bồ-tát nhập Niết-bàn?
Ngài đặt rất nhiều câu hỏi nhưng không ngoài hai ý chính đó. Kết luận Như Lai là đấng thành thật cớ sao lại nói những lời hư vọng, là lời không quyết định như vậy.
Phật bảo Cao Quý Đức Vương Bồ-tát:“Này thiện nam tử! Như Lai đã đặng tướng lưỡi rộng dài, phải biết rằng Như Lai từ vô lượng kiếp đã lìa vọng ngữ. Tất cả chư Phật và Bồ-tát phàm có nói ra đều là lời thành thật chắc chắn không hư dối.
Này thiện nam tử Ngày trước ma Ba-tuần thỉnh Phật nhập Niết-bàn, mà Ma vương chẳng biết tướng Niết-bàn, Ý Ma vương cho rằng chẳng giáo hóa chúng sanh yên lặng bất động đó là Niết-bàn. Ví như người đời thấy có ai chẳng nói chẳng làm, bèn cho rằng người này như chết. Ý Ma vương cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như Lai chẳng nói Phật, pháp và chúng tăng không có tướng sai khác. Chỉ nói thường trụ và thanh tịnh hai pháp này không sai khác. Phật cũng chẳng nói Phật cùng Phật tánh và Niết-bàn không có tướng sai khác, chỉ nói thường hằng bất biến là không sai khác. Phật cũng chẳng nói Niết-bàn và thật tướng không có tướng sai khác, chỉ nói thường trụ và thật chẳng biến đổi không có sai khác.
Phật xác nhận ngài không nói lời hư dối và giải thích sao lại là ba tháng.
Ma vương cho Niết-bàn là không làm gì hết, là yên lặng, là chết nên khuyên Phật nhập Niết-bàn. Phật cũng tùy theo lời nói Ma vương mà đáp. Như vậy ý nghĩa Phật đáp Niết-bàn tương tự như chỗ không thấy, không nói, không làm… như chết.
Mỗi danh từ có nghĩa khác nhau, có khi một danh từ có nhiều nghĩa. Phật không chỉ một bề nói Phật pháp và tăng không có tướng sai khác, mà có trường hợp ngài cũng nói Phật pháp tăng có tướng sai khác. Ngài chỉ nói thường trụ và thanh tịnh, hai pháp này không sai khác. Bởi vì đứng về đồng thể Tam bảo chỉ cho Phật tánh thường trụ, Phật tánh thanh tịnh nên không sai khác. Nếu đứng về tướng, về danh tự thì Phật Pháp Tăng có sai khác.
Phật là chỉ cho quả, Phật tánh là chỉ cho nhân và Niết-bàn cũng chỉ cho quả, Ba tướng đó về tướng thì có sai khác, nhưng về tánh bất sanh bất diệt thường hằng chẳng biến đổi thì không sai khác.
Trên tướng của các pháp thì có sai biệt, nhưng phần tánh của các pháp thì không có sai biệt. Đừng nghe một danh từ rồi cố chấp theo một bên tướng hoặc tánh rồi sanh nghi ngờ. Vì có khi Phật nhìn vào tướng mà nói, có khi căn cứ trên tánh mà nói nên có khác biệt mà không hư vọng.
Này thiện nam tử! Có lúc hàng Thanh văn đệ tử của ta sanh sự tranh tụng, như các Tỳ-kheo ở nước Câu-thiểm-di trái lời dạy của Phật phạm nhiều cấm giới, chẳng kính trọng Phật pháp tăng, giới luật hòa thượng. Những Tỳ-kheo ác này chẳng tin lời dạy của Phật. Vì những người này mà ta bảo ma Ba-tuần ông chớ lo rằng chậm. Sau ba tháng ta sẽ nhập Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Nhân vì các Tỳ-kheo ác này, khiến hàng Thanh văn chẳng thấy thân của ta, chẳng nghe ta thuyết pháp, bèn cho rằng Như Lai nhập Niết-bàn, Chỉ hàng Bồ-tát thấy được thân ta, thường nghe ta thuyết pháp, nên chẳng cho rằng Phật nhập Niết-bàn.
Dầu hàng Thanh văn nói rằng Như Lai nhập Niết-bàn, nhưng thật ra ta chẳng nhập Niết-bàn.
Nếu Thanh văn đệ tử của ta nói rằng Như Lai nhập Niết-bàn, phải biết người này chẳng phải đệ tử của Phật, là bè đảng của ma, là người tà kiến chẳng phải chánh kiến. Nếu nói Như Lai chẳng nhập Niết-bàn, phải biết người này thật là đệ tử Phật, là người chánh kiến chẳng phải bè đảng của ma.
Phật nói lý do hẹn ba tháng nhập Niết-bàn, vì răn dạy các vị Tỳ-kheo tranh tụng ở Câu-thiểm-di.
Thanh văn không thấy Phật nên cho rằng Phật đã nhập Niết-bàn. Bồ-tát lúc nào cũng thấy Phật nên không thấy Phật nhập Niết-bàn.
Nếu nói Phật nhập Niết-bàn thì thuộc Thanh văn, đó là nhìn theo hình tướng. Nhìn vào tự tánh, mỗi người đều có Phật tánh thì thân có sanh có diệt chứ Phật tánh đâu có sanh diệt. Huống nữa Phật đã viên mãn Phật tánh mà nói ngài diệt thì vô lý. Vì vậy Phật nói người nào nói Phật nhập Niết-bàn, người đó là bè đảng của ma, là người tà kiến chẳng phải chánh kiến, nếu người nào biết Phật không nhập Niết-bàn, đó mới thật là đệ tử Phật.
Này thiện nam tử! Ta chẳng thấy trong hàng đệ tử có người nào cho rằng Như Lai chẳng giáo hóa chúng sanh yên lặng bất động gọi là Niết-bàn.
Ví như trưởng giả có đông con cái, đi đến xứ khác chưa trở về. Những người con đều cho rằng cha mình đã chết. Nhưng trưởng giả này thật chẳng chết, mà những người con điên đảo tưởng rằng chết. Cũng vậy, hàng Thanh văn đệ tử vì chẳng thấy Phật, bèn cho rằng Như Lai đã nhập Niết-bàn trong rừng ta-la nơi thành Câu-thi-na, nhưng thật ra ta chẳng nhập Niết-bàn, mà hàng Thanh văn tưởng là nhập Niết-bàn.
Đệ tử Phật không ai cho rằng Phật không giáo hóa chúng sanh, yên lặng bất động là Niết-bàn. Đức Phật ví dụ một trưởng giả đông con, ông đi xa chưa về, những người con cho rằng ông đã chết. Như hàng đệ tử Thanh văn thấy Phật không hiện, bèn cho Phật nhập Niết-bàn, mà không ngờ Phật không hiện chứ không phải Phật nhập Niết-bàn, cũng như trưởng giả kia chưa về chứ không phải chết.
Ví như ngọn đèn sáng, có người che kín đó, những kẻ không biết cho rằng đèn đã tắt, nhưng đèn sáng này thật chẳng tắt, vì không biết nên cho là tắt. Cũng vậy hàng Thanh văn đệ tử dầu có huệ nhãn nhưng bị phiền não che đậy làm cho tâm điên đảo chẳng thấy được thân chân thật của Phật, bèn tưởng là Phật diệt độ, nhưng thật ra ta chẳng diệt độ.
Như người sanh manh chẳng thấy mặt trời mặt trăng, chẳng biết ngày đêm sáng tối, vì chẳng biết bèn nói rằng không có mặt trời mặt trăng thật, do vì không thấy nên sanh tưởng điên đảo. Cũng vậy hàng Thanh văn đệ tử, vì chẳng thấy Như Lai bèn cho rằng Phật nhập Niết-bàn. Nhưng thật ra Như Lai chẳng nhập Niết-bàn.
Ví như mây mù che khuất mặt trời mặt trăng, kẻ ngu si cho rằng không có mặt trời mặt trăng. Cũng vậy, vì các phiền não che đôi mắt trí huệ nên hàng Thanh văn chẳng thấy Như Lai bèn cho rằng Như Lai nhập Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Đây là đức Như Lai thị hiện anh nhi hạnh chứ chẳng phải diệt độ.
Này thiện nam tử! Như lúc mặt trời lặn, vì hắc sơn che khuất mặt trời, nên chúng sanh Diêm phù đề chẳng thấy, nhưng thật ra mặt trời không có lặn, vì không thấy nên chúng sanh tưởng là lặn. Cũng vậy, hàng Thanh văn đệ tử bị phiền não che ngăn chẳng thấy thân Phật, vì chẳng thấy nên cho rằng Như Lai nhập Niết-bàn, nhưng thật ra Phật chẳng nhập Niết-bàn.
Do đây nên Phật ở nước Tỳ-da-ly bảo ma Ba-tuần: Sau ba tháng ta sẽ nhập Niết bàn.
Ví dụ thứ hai là ngọn đèn bị che kín, người ở ngoài nhìn không thấy cho rằng đèn tắt, nhưng sự thật đèn không tắt. Con mắt phàm phu và Thanh văn không thấy được pháp thân Phật rõ ràng nên nói Phật nhập Niết-bàn, các vị Bồ-tát do thấy được pháp thân của Phật nên nói rằng Phật không nhập Niết-bàn.
Ví dụ thứ ba, như người mù từ thuở bé, không thấy mặt trời mặt trăng, chẳng biết ngày đêm sáng tối, nghe nói có mặt trời mặt trăng thì không tin, cho rằng nói dối. Các hàng Thanh văn đệ tử Phật cũng vậy, Phật nói ngài không nhập Niết-bàn thì không tin cho rằng lời nói đó không đúng sự thật.
Ví dụ thứ tư, mây mù che khuất mặt trời mặt trăng, người ngu si cho rằng không có mặt trời mặt trăng. Cũng vậy, người thiếu con mắt trí tuệ không thấy được Phật tánh hay pháp thân Như Lai thì cho rằng Như Lai nhập Niết-bàn nhưng sự thật không phải vậy.
Ví dụ thứ năm, như mặt trời qua phía tây rồi khuất, chúng ta cho là mặt trời lặn. Sự thật mặt trời không lặn, không mọc. Nói theo thời xưa bị hắc sơn che khuất, nói theo bây giờ thì do trái đất quay nên mình không thấy sáng chứ không phải mặt trời lặn hay mọc. Phật cũng vậy, pháp thân bất sanh bất diệt nên không sanh cũng không tử. Bởi không sanh không tử nên không thể nói Phật nhập Niết-bàn. Nhưng vì những người ít trí tuệ không thấy được cho là Phật có nhập Niết-bàn.
Đó là những ví dụ để chỉ Phật không nhập Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Đây là đức Như Lai thị hiện anh nhi hạnh chứ chẳng phải diệt độ. “Anh nhi” tức là không đến, không đứng, không đi, không làm, không nói, yên lặng, yên ở một chỗ. Như Lai tức thể pháp thân không đến, không đi, không tới, không lui v.v… gọi đó là nhập Niết-bàn nhưng sự thật không phải nhập Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Như Lai thấy trước rằng Ca-diếp Bồ-tát sau ba tháng căn lành sẽ thành thục, cũng thấy núi Hương Sơn ông Tu-bạt-đà-la an cư xong sẽ đến chỗ ta, nên ta bảo ma Ba-tuần sau ba tháng sẽ nhập Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Có năm trăm lực sĩ mãn ba tháng cũng sẽ phát tâm vô thượng Bồ-đề, vì họ nên ta bảo ma Ba tuần sau ba tháng Phật sẽ nhập Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Bọn ông Thuần đà năm trăm Lê-xa tử, và Am-la nữ sau ba tháng thời đạo tâm vô thượng sẽ thành thục, vì những người này nên ta bảo ma Ba-tuần sau ba tháng Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Ông Tu-na-sát-đa theo hàng ngoại đạo Ni-kiền Tử, ta vì ông thuyết pháp trọn mười hai năm, ông chẳng tin chẳng thọ, chẳng bỏ tà kiến, ta biết ác tâm tà kiến của ông sau ba tháng quyết định có thể dứt trừ, nên ta bảo ma Ba-tuần sau ba tháng Phật sẽ nhập Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Do nhân duyên gì mà ngày trước ở bên sông Ni-liên, ta bảo ma Ba-tuần vì chưa có hàng đệ tử đa văn trí huệ nên Phật chẳng nhập Niết-bàn?
Lúc đó ta muốn chuyển pháp luân độ các ông Kiều-trần như v.v.., cũng muốn độ các ông Da-xá, muốn độ bọn ông Úc-già trưởng giả, muốn độ vua Tần-bà-sa-la nước Ma-già-đà cùng vô lượng nhân thiên, muốn độ thầy trò Ưu-lâu tần loa Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, cũng muốn độ các ông Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên v.v… Vì thế nên ta bảo ma Ba-tuần: Như Lai chẳng nhập Niết-bàn.
Sở dĩ Phật nói sẽ nhập Niết-bàn sau ba tháng, vì ngài thấy căn cơ trước hết là Bồ-tát Ca-diếp, kế đó là ông Tu-bạt-đà-la, năm trăm lực sĩ, ông Thuần-đà, năm trăm Lê-xa tử, và Am-la nữ, Tu-na-sát-đa… Phật biết rằng sau ba tháng, những người đó căn cơ thuần thục, dứt trừ được các phiền não.
Tới phần sau nói về nhân duyên. Tại sao ở sông Ni-liên, Phật bảo ma Ba-tuần vì chưa có hàng đệ tử đa văn trí tuệ nên Phật chẳng nhập Niết-bàn? Đó là vì Phật muốn độ năm anh em ông Kiều-trần-như, ông Da-xá, ông trưởng giả Úc-già, vua Tần-bà-sa-la cho tới độ ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên… nên nói rằng ngài chưa nhập Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Có Niết-bàn chẳng phải là đại Niết-bàn. Chẳng thấy Phật tánh mà dứt phiền não thời gọi là Niết-bàn chẳng phải đại Niết-bàn. Bởi chẳng thấy Phật tánh nên không có thường, ngã, chỉ có lạc và tịnh, do đây nên dầu dứt phiền não mà chẳng được gọi là đại Niết-bàn. Nếu thấy Phật tánh dứt phiền não thời gọi là đại Niết-bàn, vì thấy Phật tánh nên được gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Này thiện nam tử! “Niết” nghĩa là chẳng, “Bàn” nghĩa là dệt, nghĩa chẳng dệt gọi là Niết-bàn. “Bàn” lại có nghĩa là che, chẳng bị che bèn gọi là Niết-bàn. “Bàn” lại có nghĩa là đi đến, chẳng đi chẳng đến gọi là Niết-bàn, “Bàn” lại có nghĩa là bất định, không bất định gọi là Niết-bàn. “Bàn” lại có nghĩa là mới cũ, không mới cũ gọi là Niết-bàn. “Bàn” lại có nghĩa là chướng ngại, không chướng ngại gọi là Niết-bàn.
Phật giản trạch nghĩa Niết-bàn và đại Niết-bàn. Những vị tu theo Nhị thừa tuy dứt trừ được phiền não mà không thấy được Phật tánh cho nên có lạc tịnh mà không có thường ngã, gọi là Niết-bàn mà chẳng được gọi là đại Niết-bàn. Nếu nhận ra được Phật tánh mà tu mới được gọi là đại Niết-bàn.
Chẳng dệt gọi là Niết-bàn, ví dụ như khung cửi mắc chỉ vô rồi dệt, cũng như vòng luân hồi, cứ tiếp tục liên miên thì gọi là dệt. Nếu dừng lại thì gọi chẳng dệt.
Kinh điển Nhị thừa cũng định nghĩa giống hệt như vậy. “Niết” nghĩa là chẳng, không có nhiều nghĩa, chỉ có “Bàn” mới có nhiều nghĩa.
Thứ hai, Niết-bàn là chẳng bị che.
Thứ ba, Niết-bàn là không đi không đến, nghĩa là nằm im lặng, gọi đây là chết.
Thứ tư, nói cho dễ hiểu chẳng bất định gọi là Niết-bàn. Chẳng bất định là quyết định, tức là thường. Niết-bàn là thường hằng.
Thứ năm, chẳng mới cũ, nghĩa là xưa nay cũng như một, gọi là Niết-bàn.
Thứ sáu, chẳng chướng ngại gọi là Niết-bàn.
Như vậy Niết-bàn có sáu nghĩa: Một, chẳng dệt. Hai, chẳng che. Ba, chẳng đi đến. Bốn, chẳng bất định. Năm, chẳng mới cũ. Sáu, chẳng chướng ngại. Tùy chỗ mà dùng, có khi dùng nghĩa cạn, có khi dùng nghĩa sâu. Đó là nghĩa thông thường về Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Có hàng đệ tử của phái Ưu-lâu-khư, phái Ca-tỳ-la nói “Bàn” là danh tướng, không danh tướng gọi là Niết-bàn. “Bàn” lại có nghĩa là có, không có thời gọi là Niết-bàn. “Bàn” lại có nghĩa là hòa hiệp, không hòa hiệp gọi là Niết-bàn. “Bàn” lại có nghĩa là khổ, không khổ gọi là Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Người dứt phiền não chẳng gọi là tu Niết-bàn, chẳng sanh phiền não thời gọi là Niết-bàn. Chư Phật Như Lai vĩnh viễn chẳng khởi phiền não nên gọi là Niết-bàn.
Những phái này nói Niết-bàn có bốn nghĩa: Một, không tướng. Hai, không có. Ba, không hòa hợp. Bốn, không khổ.
Như vậy nghĩa Niết-bàn rất nhiều và rộng. Niết-bàn là chẳng sanh phiền não, như vậy tu để dứt trừ phiền não thì không phải là Niết-bàn. Vì dụng công để tiêu diệt phiền não, nghĩa là còn có phiền não để chiến đấu thì đâu gọi là Niết-bàn. Niết-bàn là chẳng sanh, nên phiền não chẳng sanh mới gọi là Niết-bàn.
Có trí huệ ở nơi tất cả pháp không có chướng ngại thời gọi là Như Lai. Như Lai chẳng phải phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Đây gọi là Phật tánh.
Thân tâm trí huệ của Như Lai khắp đầy vô lượng vô biên, vô số cõi, không bị chướng ngại, đây gọi là hư không.
Như Lai thường trụ không có biến đổi, đây gọi là thật tướng.
Do nghĩa này nên Như Lai thật chẳng rốt ráo nhập Niết-bàn.
Đây gọi là Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ bảy.
Trên nói về Niết-bàn, đây nói về Phật tánh.
Như Lai là Phật tánh vì không phải phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Như Lai là hư không vì thân tâm trí tuệ trùm khắp vô lượng vô biên vô số cõi, không bị chướng ngại.
Thế nào là đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tám?
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn: trừ dứt năm việc, xa lìa năm việc, thành tựu sáu việc, tu tập năm việc, giữ gìn một việc, gần gũi bốn việc, tin thuận nhất thật, tâm thiện giải thoát, huệ thiện giải thoát.
Trừ dứt năm việc, chính là trừ năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; năm thứ này hay làm chúng sanh sống chết nối mãi, chẳng rời gánh nặng chia lìa tụ họp, buộc rằng trong ba đời, không thể cầu tìm cho ra nghĩa lý; do những lẽ này nên gọi là “ấm”.
Đại Bồ-tát dầu thấy sắc ấm, nhưng chẳng thấy tướng của nó, vì trong mười món sắc suy tìm tánh của nó trọn không thể được, vì thuận theo thế tục mà gọi là “ấm”.
Người giác ngộ rồi nhìn vào thân thấy sắc ấm là thể chất, thọ ấm là lãnh thọ khổ vui không khổ không vui, tưởng ấm là tâm tưởng tượng, hành ấm là tâm sanh diệt, thức ấm là tâm phân biệt. Năm ấm này làm cho chúng ta chết đi sống lại không cùng, chẳng rời nổi gánh nặng chia lìa và tụ họp. Chia lìa là chết, tụ họp là sống. Sống chết như mang một gánh nặng, bỏ cái này xuống gánh cái kia, gánh hoài không thể dừng. Người thế gian sống thì mừng vui, chết buồn khổ. Bồ-tát dùng mắt trí tuệ thấy thân này chỉ là một gánh nặng. Gánh nặng về tứ đại, rồi thêm thọ tưởng hành thức nữa, cứ xoay vần tụ tan mãi mãi. Nếu nhận chân được Phật tánh rồi nhìn lại thân của mình rõ ràng không đáng chi. Chúng ta mang thân này, khổ nhọc nặng nề, không biết làm gì, mang một lúc rồi bỏ, bỏ rồi lại mang nữa. Khi sống ráng tìm chút ý nghĩa như hiếu với cha mẹ, trung với quốc gia v.v… để làm theo cho đến chết. Nhưng những ý nghĩa này không có tánh nhất định, tùy xứ tùy thời mà thay đổi. Cuối cùng nhìn lại, cái nổi nhất vẫn là giành ăn giành sống với nhau rồi chết.
Lịch sử thế giới chứng minh, chỉ toàn là tranh đấu giành đất giành nước, giành địa vị quyền thế, tình cảm… mạnh được yếu thua; giành ăn, giành sống chứ có gì đâu! Chúng ta đề cao, kính trọng, quý mến những anh hùng rồi dặn người sau bắt chước, tranh giành triền miên. Xét kỹ thì không biết tại sao con người sanh ra, để rồi chết! Răng mọc mấy chục năm rồi phải rụng, tóc cũng vậy. Sao cứ phải ăn hoài, không ăn một lần cho khỏe? Hơi thở cũng khì khịt khì khịt, khi ngồi nghỉ nói cười tưởng mình khỏe mà cứ thở khì khịt khì khịt mãi không lúc nào nghỉ hết. Cái máy chạy lâu thì phải nóng, phải hư. Từ lúc lọt lòng mẹ tới giờ thân của chúng ta có khi nào được nghỉ không? Chạy hoài, chạy mãi đến ngày nào mỏi mệt, nó nghỉ luôn.
Như vậy khi mang thân năm ấm này là mang một gánh nặng. Phật tánh thì rỗng suốt không chướng ngại, lại sáng sủa không nặng nề, không sanh diệt, an lạc biết chừng nào! Nhưng mình lại không chịu sống với nó mà sống với thân luôn tụ họp chia lìa rồi tham đắm vào đó, nên Phật quở là ngu si.
Trong kinh Lăng-nghiêm, Phật nói chúng ta chấp bọt nước là biển cả. Bọt biển lúc hiện lúc tan, biển cả vẫn bao la. Cũng vậy, Phật tánh mênh mông rỗng suốt sáng sủa, không chịu nhận lại chấp thân ngũ uẩn này là mình, rồi lăn trong luân hồi sanh đi tử lại. Phật nói đó là ba khổ trong vòng luân hồi. Thế mà mình không nhận đó là khổ, còn hài lòng sung sướng được thân này nữa. Cho thân là quý, không ngờ chính là đang mang một mớ tạm hợp rồi sẽ tan mà không hay. Khi thân này sắp rã mình buồn rầu lo sợ, không biết sẽ ra sao. Nếu nhận ra Phật tánh thì sự mất còn của thân này đâu có nghĩa lý gì.
Vì vậy Tuệ Trung thượng sĩ khi có người hỏi ngài đối với vấn đề sanh tử như thế nào, ngài trả lời:
Trường không túng sử song phi cốc,
Cự hải hà phòng nhất điểm âu.
Dịch:
Giữa trời phỏng có đôi vành chuyển,
Biển cả ngại gì bọt nước xao.
Bồ-tát có mắt trí tuệ nên các ngài nhìn thấy thân sắc ấm này, chẳng thấy tướng của nó, chỉ thấy duyên hợp như huyễn mà thôi. Chẳng những sắc ấm mà cả mười món sắc đều như thế. Vậy nên thuận theo thế tục các ngài cũng nói là sắc… chứ sự thật là các ngài thấy nó không có thật.
Có một trăm lẻ tám thứ thọ, Bồ-tát dầu thấy thọ ấm, nhưng vẫn không thấy tướng của thọ. Vì thọ dầu có một trăm lẻ tám, nhưng tất cả không có nghĩa lý quyết định thật.
Như sắc và thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Vì thấy rõ năm ấm là cội gốc sanh ra phiền não, nên đại Bồ-tát dùng phương tiện làm cho dứt.
Một trăm lẻ tám thọ – chúng ta cũng không biết hết, chỉ thường biết ba thọ: khổ, lạc, không khổ không lạc – Bồ-tát cũng thấy không có tướng thật. Ví dụ như một món ăn, để vô lưỡi mình thấy ngon đó là thọ lạc. Nuốt xong, không biết cái ngon đi đâu, nó không có tánh thật. Bởi không thật nên chợt có rồi chợt mất, duyên họp thì có, duyên qua thì mất. Thọ khổ, thọ không khổ không lạc cũng vậy. Vậy mà chúng ta lại tưởng là thật rồi theo sự đòi hỏi của cảm thọ, nó muốn thọ cái gì thì mình kiếm cái đó, Thân muốn mát mẻ nên khi mua vải lựa vải cho thật mát. Lưỡi muốn ngon thì khi đi chợ lựa món cho thật ngon, Tai muốn nghe êm ái nên tìm những bản nhạc cho hay. Như vậy lệ thuộc vào cái huyễn hóa nên phải khổ. Nếu được con mắt trí tuệ như Bồ-tát thì dù có một trăm lẻ tám thọ, cũng thấy nó không thật, không có nghĩa quyết định. Lấy sắc và thọ để hiểu tưởng, hành, thức cũng vậy, đều không thật.
Bồ-tát tìm phương tiện làm cho dứt năm ấm. Dứt bằng cách nào? Nghĩa là tìm phương tiện dứt cái nhân đừng cho tiếp tục nữa, khi thân này rã thì đừng tiếp tục thân kế tiếp. Chúng ta nương cái dở này để tiến tu đạo Bồ-đề, khi nào viên mãn hết nghiệp thân tan rã, không tiếp tục thân khác là được, chứ không phải dùng phương tiện hủy hoại thân này.
Đại Bồ-tát xa lìa năm việc, chính là xa lìa năm kiến chấp: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ. Do năm kiến chấp này sanh ra sáu mươi hai thứ kiến chấp. Vì những thứ kiến chấp này mà sanh tử nối mãi chẳng dứt, nên Bồ-tát ngăn ngừa không gần gũi.
Thân kiến là chấp thân hoặc là thường hoặc vô thường… Biên kiến là chấp một bên, hoặc có hoặc không, phải hoặc chẳng phải… Tà kiến là chấp không nhân không quả… Kiến thủ là chấp chặt cái thấy của mình cho là cứu cánh. Giới thủ nói đủ là giới cấm thủ, là giữ theo các tà giới, những giới của ngoại đạo của quỷ thần, cho là cứu cánh. Cố chấp giữ gọi là năm kiến chấp, từ đây sanh ra sáu mươi hai kiến chấp của ngoại đạo, Bồ-tát ngăn ngừa không gần gũi năm thứ kiến chấp là nhân gây sanh tử tiếp nối.
Đại Bồ-tát thành tựu sáu việc, chính là thành tựu sáu chánh niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thiên, niệm Thí, niệm Giới.
Đại Bồ-tát tu tập năm việc, chính là tu tập năm định: Tri định, Tịch định, Thân tâm thọ khoái lạc định, Vô lạc định, Thủ-lăng-nghiêm định. Tu tập năm thứ định tâm này thời gần với đại Niết-bàn, vì thế nên đại Bồ-tát chuyên cần tu tập.
Bồ-tát giữ gìn một việc, chính là giữ gìn tâm Bồ-đề. Đại Bồ-tát luôn siêng năng gìn giữ tâm Bồ-đề, như người đời săn sóc đứa con một, như người chột mắt giữ gìn một mắt còn lại, như đi giữa rừng hoang vắng giữ gìn người dẫn đường. Do gìn giữ tâm Bồ-đề mà được vô thượng Bồ-đề, do được vô thượng Bồ-đề nên có đủ thường, lạc, ngã và tịnh, chính là đại Niết-bàn, do đây nên Bồ-tát gìn giữ một tâm Bồ-đề này.
Niệm Thiên là niệm thế nào? Trong kinh nói, người tu mười điều lành sẽ được sanh ở cõi trời. Tuy cõi trời là chỗ vui sướng nhưng không phải là cứu cánh dứt sanh tử luân hồi. Vì vậy niệm Thiên, một là niệm nhân của thiên là Thập thiện, nhớ pháp Thập thiện của chư thiên tu. Hai là nhớ chư thiên chưa phải chỗ cứu cánh, dù được vui nhưng chưa phải là giải thoát, nên nhớ các cõi trời chưa giải thoát mà tiến tu để cầu giải thoát. Niệm Thí tức là niệm nhớ bố thí. Niệm Giới tức là nhớ giữ giới luật của Phật.
Tri định là định luôn luôn có biết. Tịch định là định vắng lặng không xao động. Thân tâm thọ khoái lạc định là định khiến thân tâm đều vui thích. Vô lạc định là định không vui. Thủ-lăng nghiêm định là cái định vững chắc lâu bền giống như định Kim cang.
Tâm Bồ-đề là phát tâm xuất gia. Tu là tìm cầu giải thoát, cầu thành Phật, tâm đó gọi là tâm Bồ-đề. Cho nên xuất gia rồi thì nhớ giữ tâm này, đừng bao giờ quên, đừng bao giờ xao lãng. Tại sao chúng ta bỏ ngũ dục đi tu?
Vì cầu giải thoát, cầu giác ngộ, tâm đó là tâm Bồ-đề. Phật dạy người xuất gia sáng thức dậy, khi rửa mặt nhớ sờ đầu để nhớ rằng đầu mình đã cạo là hủy bỏ cái đẹp cái tốt ở thế gian mà cầu giải thoát. Phải nhớ tâm cầu giải thoát, nhớ tâm Bồ-đề. Nếu không, tu một lúc thì quên mất tâm Bồ-đề. Lúc xuất gia cương quyết bỏ nhà, có khi còn trốn lên trốn xuống, nhưng tu chừng ba bốn chục năm thì lững lững lờ lờ, chiều chiều uống trà nghe nhạc, tâm Bồ-đề biến mất. Phải nhớ gìn giữ tâm Bồ-đề quý hóa ít có từ buổi đầu. Đừng có ban đầu mới tu thì Phật tại tiền, chừng vài ba năm Phật thăng thiên, vài chục năm Phật đi về Cực lạc không còn thấy nữa. Chư Phật chư tổ thường nhắc mình “nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật thăng thiên, tam niên bất kiến Phật”. Hết tu thì hết thấy Phật. Ban đầu thì sốt sắng hăng hái lắm, bỏ hết những việc thế tục, nhưng sau đó quay lại bắt chước những cái vui thế gian.
Chúng ta phải chịu khó gan dạ nhận xét kỹ lại. Không tụng kinh thì ngồi thiền, không ngồi thiền thì đi kinh hành để quán tưởng chứ đừng nằm nghỉ, đó là việc trái đạo lý. Phải luôn luôn nuôi giữ tâm này.
Phật chỉ dạy mình giữ một thứ thôi, đó là giữ tâm Bồ-đề không cho xao lãng. Như người bị hư con mắt, còn lại một con phải ráng khéo giữ, đừng để hư luôn. Như người chỉ có một đứa con, ráng giữ không cho chết, sợ bị tuyệt tự. Như đi lạc trong rừng, ráng theo cho kịp người dẫn đường, vì nếu lạc sẽ không biết đường ra. Nhớ gìn giữ như vậy thì khả dĩ không bị lỗi là hai năm Phật thăng thiên, bảy tám năm thì Phật về Cực lạc.
Bồ-tát gần gũi bốn việc, chính là gần bốn tâm vô lượng: đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Do bốn tâm này có thể làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ-đề, nên Bồ-tát luôn gần gũi.
Bồ-tát tin thuận nhất thật, chính là rõ biết tất cả chúng sanh đều về nơi đạo duy nhất, đạo duy nhất này là Đại thừa. Nơi Đại thừa này, chư Phật và Bồ-tát chia ra làm ba thừa để dụ dẫn chúng sanh.
Bồ-tát tâm thiện giải thoát chính là đã dứt hẳn tham, sân, si.
Bồ-tát huệ thiện giải thoát, chính là đại Bồ-tát rõ biết tất cả pháp không chướng ngại. Do huệ giải thoát nên những pháp từ xưa chưa nghe mà nay được nghe, từ xưa chưa thấy mà nay được thấy, từ xưa chưa đến mà nay được đến.”
Tứ vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả có thể khiến vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ-đề nên Bồ-tát luôn gần gũi bốn việc này.
Bồ-tát tin biết có một đạo duy nhất là Đại thừa, kinh Pháp Hoa gọi là Nhất thừa hay là Phật thừa. Ba thừa là phương tiện của Phật Bồ-tát dụ dẫn chúng sanh.
Tâm thiện giải thoát là dứt tham sân si. Tuệ thiện giải thoát là biết tất cả pháp không chướng ngại. Do tuệ giải thoát nên những pháp từ xưa chưa nghe mà nay được nghe, từ xưa chưa thấy mà nay được thấy, từ xưa chưa đến mà nay được đến.
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Như lời Phật nói: “Tâm giải thoát”, xét ra không đúng nghĩa. Vì tâm vốn không hệ phược. Bản tánh của tâm không bị tham, sân, si, hệ phược. Đã là vốn không hệ phược, sao lại nói là giải thoát?
Thế Tôn! Nếu bản tánh của tâm chẳng bị tham kiết hệ phược, do nhân duyên gì mà có thể hệ phược được tâm? Ví như vắt sừng, vì vốn không sữa nên dầu tốn nhiều công lực vẫn không do đâu có sữa chảy ra. Nếu vắt vú bò, tốn công ít mà được nhiều sữa. Cũng vậy, tâm vốn không tham, sao nay lại có. Nếu trước vốn không mà sau mới có, thời chư Phật và Bồ-tát vốn không tham, nay đáng lẽ đều có.
Ngài Cao Quý Đức Vương đặt nhiều câu hỏi thật hay. Trước hết ngài nói Như lời Phật nói tâm giải thoát xét ra không đúng nghĩa. Vì sao? Bị trói thì mới cởi còn nếu không bị trói thì sao nói cởi. Bản tánh của tâm vốn không bị tham sân si hệ phược thì làm sao nói giải thoát? Nếu trước không tham bây giờ có, thì Phật và Bồ-tát vốn không tham, bây giờ lẽ ra cũng có.
Thế Tôn! Như thạch nữ vốn không con, dầu tốn nhiều công lực, nhiều nhân duyên vẫn không thể có con. Cũng vậy, tâm vốn không tham, dầu gây tạo nhiều duyên, cũng không do đâu sanh được tham.
Thế Tôn! Như dùi cây ướt không thể được lửa. Cũng vậy, dầu dùi tìm nơi tâm vẫn không thể có tham. Tại sao tham kiết hệ phược được tâm?
Thế Tôn! Ví như ép cát không thể có dầu. Cũng vậy, dầu ép nơi tâm vẫn không có tham. Phải biết rằng tham cùng tâm, lý nghĩa của hai thứ riêng khác nhau. Thiết sử có tham, đâu nhiễm ô được tâm.
Thế Tôn! Ví như đem nọc cắm giữa hư không trọn không thể đứng cứng được. Cũng vậy, đem tham cắm vào tâm, trọn không thể hệ phược được tâm, dầu dùng nhiều nhân duyên.
Thế Tôn! Nếu tâm vốn không tham mà lại gọi là giải thoát, thời chư Phật và Bồ-tát sao chẳng nhổ gai trong hư không?
Thế Tôn! Tâm quá khứ không gọi là giải thoát. Tâm vị lai cũng không giải thoát, tâm hiện tại chẳng cùng chung với đạo, thế thời tâm nào gọi là được giải thoát?
Thế Tôn! Như ngọn đèn quá khứ không thể diệt tối, ngọn đèn vị lai cũng không thể diệt tối, ngọn đèn hiện tại lại không thể diệt tối, vì sáng cùng tối, hai thứ ấy không đồng thời có. Tâm cũng như vậy, sao lại nói rằng tâm được giải thoát?
Như thạch nữ vốn không con, tâm vốn giải thoát thì đâu thể nhiễm ô được, sao lại nói rằng giải thoát? Tâm không hình tướng mà nói tham hệ phược tâm thì vô lý, cũng như đem nọc cắm giữa hư không, chỗ đâu mà cắm? Nếu nói không có tham dính được tâm, bây giờ nói rằng giải thoát thì chẳng khác nào nhổ gai trong hư không, điều đó không bao giờ làm được.
Ba tâm đều không thật hết thì tâm nào giải thoát? Chúng ta nói đang tối thì đốt đèn lên diệt hết tối thành sáng, nhưng sự thật có diệt không? Đèn vừa đốt lên, có ánh sáng thì bóng tối không, chứ có cái nào diệt cái nào đâu. Ví dụ có hai người sát phạt với nhau, người này còn sống người kia chết, đó mới có nghĩa là diệt. Còn ánh sáng với bóng tối có đụng độ với nhau không? Có tối là không có sáng, có sáng là không có tối thì sao gọi là diệt?
Câu hỏi này nhắm vào chỗ trong tâm không có tham. Vì tham với tâm khác nhau nên tham không thể dính được tâm, nên không có nghĩa là tâm giải thoát tham.
Thế Tôn! Tham cũng là có. Nếu tham là không, thời lúc thấy người nữ lẽ ra chẳng sanh tham. Nếu do người nữ mà sanh tham, thời tham là có thật. Vì có tham nên đọa ba đường ác.
Thế Tôn! Như có kẻ thấy tượng vẽ người nữ cũng sanh tham, vì sanh tham nên thành có nhiều tội lỗi. Nếu vốn không tham, tại sao thấy tướng vẽ lại sanh tham? Nếu tâm không tham, tại sao Như Lai nói Bồ-tát tâm được giải thoát? Nếu tâm có tham, sao lại phải chờ thấy người nữ rồi sau mới sanh, Người không thấy thời không sanh? Hiện tại tôi thấy có quả báo ác do tham gây ra, nên biết tham là có. Sân và si cũng như vậy.
Ở trên ngài nói tham không có trong tâm. Nếu có tham thì lẽ ra lúc nào cũng có, tại sao lúc không có cảnh lại không tham? Bình thường mình không tham tiền bạc, bây giờ có ai để quên một triệu đồng trước mặt, thấy tiền đó chúng ta có hơi tham, nghĩ tham. Có vật thì khởi tham, do khởi tham mới sanh trộm cướp nên đọa ba đường ác. Có đọa ba đường ác tức là có thật tham. Có quả tức là có nhân, thừa nhận quả phải thừa nhận nhân. Vì có quả nên biết có nhân, vì thấy có quả báo ác tham sân si nên biết cái nhân tham sân si cũng là có.
Thế Tôn! Như chúng sanh có thân không ngã, mà phàm phu chấp có ngã, dầu chấp có ngã nhưng không vì thế mà đọa ba ác đạo. Tại sao người tham đối với không tướng nữ sanh tưởng là nữ mà phải đọa ba ác đạo?
Thế Tôn! Ví như dùi cây sanh lửa, nhưng tánh lửa này trong các duyên đều không có, cớ gì mà được sanh ra lửa?
Thế Tôn! Cũng vậy, trong sắc không có tham, trong thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng đều không có tham, tại sao nơi sắc v.v… lại sanh ra tham? Nếu trong các duyên đều không có tham, tại sao riêng chúng sanh có tham, mà chư Phật và Bồ-tát không sanh tham?
Thế Tôn! Tâm cũng là bất định. Nếu tâm là nhất định thời không có tham, sân, si. Nếu tâm đã là bất định, sao lại nói rằng tâm được giải thoát? Tham cũng là bất định, nếu đã là bất định, tại sao lại nhân nơi tham mà sanh ra ba ác đạo? Kẻ tham cùng cảnh giới, cả hai đều bất định. Vì đồng chung duyên một cảnh sắc, hoặc sanh tham, hoặc sanh sân, hoặc sanh si. Nếu cả hai đều bất định, tại sao đức Như Lai nói rằng Bồ-tát tu đại Niết-bàn thời tâm được giải thoát?”
Bồ-tát dùng lý để giải thích rồi đặt thành nan vấn. Ngài nói thân của chúng sanh không thật là ngã, nhưng phàm phu chấp là ngã. Cái không thật có mà lầm chấp là có, nhưng không vì cái chấp đó mà đọa ba đường ác. Tại sao đối với không tướng nữ, tưởng là nữ mà đọa ba đường ác? Tướng nữ đó đâu phải là tướng thật, tại sao phạm tội đọa ba đường ác?
Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều không có tham, tại sao nơi đó mình khởi tham?
Kẻ tham cùng cảnh giới tức là người và cảnh, cả hai đều bất định thì tại sao nói là giải thoát? Ví dụ như năm ba người đồng xem một cái tủ, người cho là đẹp người cho là xấu, người khen người chê. Như vậy cảnh không nhất định, mà không nhất định thì không thật, không thật tại sao nói tâm giải thoát? Đó là những nghi vấn ngài đặt ra.
Phật bảo Cao Quý Đức Vương Bồ-tát:“Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Tâm cũng chẳng bị tham kiết hệ phược, cũng chẳng phải chẳng bị hệ phược; chẳng phải giải thoát, cũng chẳng phải chẳng giải thoát; chẳng phải có, chẳng phải không; chẳng phải hiện tại, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai. Vì tất cả pháp đều không tự tánh.
Này thiện nam tử! Có các nhà ngoại đạo cho rằng: Nhân duyên hòa hiệp thời có quả sanh ra.
Nếu trong các duyên vốn không tánh sanh mà có thể sanh ra, thời hư không vốn chẳng sanh lẽ ra cũng sanh được quả. Nhưng hư không vẫn chẳng sanh vì chẳng phải là nhân.
Do vì trong các duyên vốn có tánh của quả, nên hòa hiệp thời sanh được quả.
Như người đời khi muốn xây vách thời dùng bùn đất mà không dùng cọ màu, lúc muốn vẽ vời thời dùng cọ màu mà chẳng dùng cỏ cây, may áo thời dùng kim chỉ mà chẳng dùng cây bùn, cất nhà thời dùng bùn cây mà chẳng dùng kim chỉ. Người dùng đến vật đó là vì nó có thể sanh ra quả, vì sanh được quả nên biết trong các nhân tất đã có tánh. Nếu là không tánh, thời trong một vật lẽ ra phải xuất sanh tất cả vật.
Nếu là đáng lấy, đáng làm, đáng đem ra, nên biết rằng trong đó tất đã trước có tánh của quả. Nếu là không có tánh của quả thời người chẳng lấy, chẳng làm, chẳng đem ra. Chỉ có hư không là chẳng lấy, chẳng làm nên có thể xuất sanh tất cả muôn vật, do vì có nhân.
Như hột ni-câu-đà mọc lên cây ni-câu-đà, trong sữa có tánh chất đề hồ, trong sợi chỉ có tánh của vải, trong đất sét có tánh của cái bình.
Các pháp không có quyết định, vì không tự tánh, có thể có cũng có thể không, có thể giải thoát có thể không giải thoát, có thể bị hệ phược mà cũng có thể không bị hệ phược. Cho nên không tự tánh là một triết lý của Đại thừa. Nếu biết tất cả các pháp không tự tánh nên không cố định, đó là trí tuệ Bát-nhã, là đúng với lý trung đạo. Trung Quán cốt giải thích cho mình hiểu tất cả pháp đều không có tự tánh, không quyết định, do nhân duyên.
Ngoại đạo lý luận nghe cũng có lý, phàm có tánh mới sanh ra được, nếu không có tánh thì hư không không có tánh lẽ ra cũng sanh được quả. Ví dụ cây xoài có tánh của trái xoài mới sanh được trái xoài, còn cây ổi không có tánh của trái xoài nên không sanh được trái xoài. Cho nên cái sanh ra phải có tánh, trong nhân quyết định có tánh của quả, các ví dụ khác đều cùng một ý. Đó là lối chấp của ngoại đạo.
Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu bị vô minh làm mù lòa nên bày ra định thuyết: sắc có nghĩa tham luyến, tâm có tánh tham. Họ lại cho rằng: tâm phàm phu có tánh tham, cũng có tánh giải thoát, gặp duyên tham thời tâm sanh tham, nếu gặp được duyên giải thoát thời tâm giải thoát.
Những thuyết này đều không đúng nghĩa,
Có hạng phàm phu lại cho rằng: trong tất cả nhân đều không có quả; nhân có hai thứ: vi tế và thô đại; tế thời là thường, thô thời vô thường. Từ nhân vi tế chuyển thành nhân thô, từ nhân thô này lại chuyển thành quả. Vì nhân thô vô thường nên quả cũng vô thường.
Có hạng phàm phu lại cho rằng: tâm không có nhân, tham cũng không có nhân, do thời tiết thời sanh tâm tham.
Vì không biết được tâm nhân duyên, nên những hạng này luân hồi trong sáu đường, chịu đủ mọi sự sanh tử.
Ví như con chó bị xiềng, trọn ngày đi quanh cột không thể thoát lìa. Cũng vậy, tất cả phàm phu bị xiềng vô minh cột vào cột sanh tử, cứ vòng quanh mãi ở hai mươi lăm cõi không thoát ly được.
Có hạng phàm phu lại cho rằng tâm không có nhân, tham cũng không có nhân. Do gặp duyên tham thì sanh tâm tham, cũng do gặp duyên giải thoát mà giải thoát, tức là trong tâm có đủ các tánh đó. Chúng ta cũng hay nói tánh tôi nóng, tánh tôi ưa cái đó, chấp trong tâm mình có tánh tham thật, có tánh sân thật.
Phật nói thuyết của phàm phu và ngoại đạo đều không đúng nghĩa, vì không biết nhân duyên.
Phật ví dụ như con chó bị xiềng, chạy loanh quanh cũng không lìa khỏi cột. Chúng ta cũng giống hệt, bị xiềng trong hai mươi lăm cõi, chạy lên chạy xuống, chạy ngược chạy xuôi cũng loanh quanh lẩn quẩn bao nhiêu đó.
Ví như có kẻ sa vào hầm xí, đã được ra khỏi rồi lại té vào hầm. Như người bệnh được lành trở lại làm nhân cho bệnh. Như người đi đường xa gặp phải chỗ hoang vắng, đã đi qua được rồi trở lại nữa.
Như đã tắm rửa sạch sẽ trở lại lấy bùn đất trét vào. Cũng vậy, tất cả phàm phu đã được thoát khỏi cõi Vô sở hữu, chỉ chưa thoát khỏi cõi Phi phi tưởng, trở lại sa vào đến ba ác đạo. Vì tất cả phàm phu chỉ biết quán sát nơi quả, mà chẳng suy gẫm nhân duyên.
Như con chó đuổi theo cục đất chẳng chạy theo người. Cũng vậy, hạng phàm phu chỉ nhìn nơi quả mà chẳng nhìn nơi nhân duyên. Do chẳng thấy biết nhân duyên nên từ cõi Phi phi tưởng sa đến ba ác đạo.
Này thiện nam tử! Chư Phật và Bồ-tát trọn không bảo nhất định rằng: trong nhân có quả, trong nhân không quả, trong nhân cũng có cũng không quả, trong nhân chẳng phải có chẳng phải không quả.
Nếu kẻ nào cho rằng trong nhân quyết định có quả, không quả, cũng có cũng không quả, chẳng phải có chẳng phải không quả, nên biết rằng đây là bè lũ của ma, là thuộc về loài ma, là người tham ái, chẳng thể dứt hẳn sự hệ phược của sanh tử, người này chẳng rõ biết tâm tướng và tham tướng.
Này thiện nam tử! Chư Phật và Bồ tát hiển bày lý trung đạo: dầu nói các pháp là chẳng phải có, chẳng phải không, nhưng chẳng quyết định. Vì nhân nơi nhãn, sắc, minh, tâm và niệm mà có thức sanh ra. Thức này quyết định chẳng ở trong nhãn, chẳng ở trong sắc, chẳng ở trong minh, chẳng ở
trong tâm, chẳng ở trong niệm, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng phải có chẳng phải không. Vì từ các duyên sanh ra nên gọi là có. Vì không tự tánh nên gọi là không. Do đây nên Như Lai nói các pháp là chẳng phải có chẳng phải không.
Phàm phu cứ xét trên quả rồi nói có cái nhân quyết định, đó là lầm lẫn, nên Phật nói rằng không hiểu được lý nhân duyên. Đức Phật không nói nhất định theo tứ cú của ngoại đạo. Đứng về trí tuệ nhìn thấy các pháp hư giả cho nên nói chẳng phải có. Nói chẳng có chẳng không mà không bao giờ cố định là có hay là không.
Ví dụ như tôi thấy cái chuông thì trước là nhân con mắt, nhân cái chuông ở ngoài, nhân khoảng trống và ánh sáng, nhân nơi tâm niệm ở trong tôi mới biết phân biệt đây là cái chuông. Cái biết phân biệt này là do cộng tất cả các nhân đó mới có.
Thức này quyết định chẳng ở trong nhãn, chẳng ở trong sắc, chẳng ở trong minh, chẳng ở trong tâm, chẳng ở trong niệm, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng phải có chẳng phải không. Đó là cứu cánh. Chẳng phải có tức là không, chẳng phải không tức là có. Do các duyên hợp thì có nên nói có, vì không tự tánh nên nói là không.
Như vậy không có cố định. Chẳng phải có vì tự tánh nó là không, nhưng chẳng phải không vì duyên hợp huyễn có. Đó là cái xác định của trí tuệ Trung đạo hay gọi là trí tuệ Bát-nhã hay trí tuệ của Trung Quán.
Cho nên Đại thừa lúc nào cũng dùng con mắt trí tuệ đó mà nhìn xét sự vật không cố chấp một chiều, không nhất định một chiều.
Này thiện nam tử! Chư Phật và Bồ tát trọn không quyết định nói tâm có tánh thanh tịnh và tánh chẳng thanh tịnh, tánh tịnh cùng bất tịnh, vì tâm vốn vô trụ.
Do từ nơi duyên sanh ra tham nên nói là chẳng phải không, lại vì vốn không có tánh tham nên nói là chẳng phải có.
Này thiện nam tử! Do từ nơi nhân duyên mà tâm sanh ra tham, do từ nơi nhân duyên mà tâm được giải thoát. Nhân duyên có hai thứ: một là theo sanh tử, hai là theo đại Niết-bàn.
Này thiện nam tử! Vì có nhân duyên mà tâm cùng với tham sanh ra, chung với tham cùng diệt. Có nhân duyên tâm cùng với tham sanh mà chẳng chung với tham cùng diệt. Có nhân duyên tâm chẳng cùng với tham sanh mà chung với tham cùng diệt. Có nhân duyên tâm chẳng cùng với tham sanh cũng chẳng cùng với tham diệt.
Vì tâm vốn vô trụ, không cố định nên không thể nói thuần thanh tịnh hay thuần bất tịnh. Phật và Bồ-tát không bao giờ nói một chiều. Tuy không có tánh tham nhưng nhân duyên hợp thì có, nên nói rằng chẳng phải không, nhưng tự tánh nó không thật nên chẳng phải có.
Như vậy đây nói bốn mà sự thật chỉ có hai. Do nhân duyên mà tâm sanh ra tham, đó là phù hợp theo sanh tử. Do từ nhân duyên mà tâm được giải thoát, đó là phù hợp với đại Niết-bàn. Như vậy sanh tử cũng do nhân duyên mà có, giải thoát cũng do nhân duyên mà được.
Này thiện nam tử! Có hạng phàm phu chưa dứt tâm tham, huân tập tâm tham, những kẻ này, tâm của họ chung với tham cùng sanh cùng diệt.
Như chúng sanh cõi Dục, tất cả đều có khí vị Sơ thiền, hoặc tu hay chẳng tu, gặp nhân duyên thời bèn được; nơi đây nói nhân duyên chính là chỉ cho hỏa tai. Cũng vậy, tất cả phàm phu hoặc huân tập hay không huân tập, tâm của họ chung với tham cùng sanh, chung với tham cùng diệt, vì họ chẳng dứt tham vậy.
Hạng phàm phu có nhân duyên mà tâm cùng với tham sanh, cùng với tham diệt, hàng ngày cứ tham cái này muốn cái kia, tâm cũng theo ham muốn đó mà sanh diệt. Vì vậy nói tâm họ chung với tham cùng sanh cùng diệt.
Trong kinh Phật nói rằng thế giới tới thời kỳ hoại, trước hết bị hỏa tại thiêu đốt. Tất cả chúng sanh ở cõi Dục này đều có khí vị Sơ thiền, nên dù có tu hay không tu, lúc ấy cũng được sanh về cõi Sơ thiền, nhân duyên chính là do hỏa tai. Phàm phu tâm dầu có huân tập hay không huân tập, vẫn luôn luôn cùng với tham sanh rồi cùng tham diệt, vì chưa dứt tham.
Hàng Thanh văn vì có nhân duyên nên sanh tâm tham, vì sợ tâm tham nên tu tập quán bạch cốt, đây gọi là tâm cùng tham sanh mà chẳng cùng tham diệt. Lại hàng Thanh văn chưa chứng quả A-la-hán vì có nhân duyên nên sanh tâm tham, lúc đã chứng A-la-hán thời tham liền diệt, đây cũng gọi là tâm cùng tham sanh mà chẳng chung với tham cùng diệt.
Hàng Thanh văn vì có nhân duyên nên sanh tâm tham, như khi tiếp xúc người nữ họ sanh tâm dục, vì sợ tâm tham đó nên liền tu tập phép quán bất tịnh. Quán bạch cốt tức là quán xương trắng. Thân mình khi da thịt rã rời thì chỉ còn bộ xương trắng. Họ cứ quán từng phần, từng phần của bộ xương, để thấy thân này không có nghĩa lý gì hết. Đó gọi là phép quán bất tịnh. Bởi vì quán bất tịnh nên tâm tham này hết. Nên đây nói đây gọi là tâm cùng tham sanh mà chẳng cùng tham diệt. Khi tham dục hết rồi, tâm họ không diệt, nghĩa là tâm còn mà tham hết, cho nên nói tâm cùng tham sanh mà chẳng cùng tham diệt.
Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật nói: Các ông không nên tin tâm các ông, khi nào chứng A-la-hán rồi hãy tin. Ba quả trước là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm còn thuộc hữu lậu. Còn hữu lậu là còn những mầm trầm luân chưa diệt sạch nên có khi cũng dấy tham. Ví dụ có người thấy số tiền năm mười ngàn họ tham. Người khá hơn thấy năm mười ngàn không tham nhưng thấy vài trăm ngàn thì tham, khá hơn chút nữa thấy vài ba triệu mới tham, khá hơn nữa thấy vài tỷ thì tham. Nghĩa là thắng cái nhỏ, cái lớn thì thắng không nổi. Đó là vì gốc phiền não diệt chưa sạch. Khi chứng A-la-hán thì không còn tham nữa nên không cùng diệt theo tham.
Đại Bồ-tát lúc chứng bậc Bất Động cũng như vậy.
Thế nào là tâm chẳng cùng tham sanh mà chung với tham cùng diệt?
Đại Bồ-tát đã dứt tâm tham, vì độ chúng sanh mà thị hiện có tham, vì thị hiện nên có thể làm cho vô lượng chúng sanh học tập thành tựu pháp lành. Đây gọi là tâm chẳng cùng tham sanh mà với tham cùng diệt.
A-la-hán, Duyên giác, chư Phật, chư Bồ-tát trừ Bất động địa, gọi là tâm chẳng chung với tham cùng sanh cùng diệt.
Do những nghĩa trên dây, nên chư Phật và Bồ-tát chẳng quyết định nói tâm tánh vốn thanh tịnh, tâm tánh vốn không thanh tịnh.
Tâm cùng tham sanh tức là do nhân duyên cùng tham sanh nhưng không theo tham mà diệt. Tâm của Bồ-tát không cùng tham sanh mà cùng tham diệt, vì các ngài thị hiện tham chứ đâu có thật trong tâm, nên nói không cùng tham sanh. Bởi thị hiện nên lúc tham diệt thì tâm theo đó mà lặng lẽ. A-la-hán, Duyên giác, chư Phật, chư Bồ-tát trừ Bất động địa, tâm không bao giờ dính vô cái tham, cũng không có sanh diệt với tham.
Vì những lý do trên mà Phật không nói tâm quyết là thanh tịnh hay không thanh tịnh. Bởi vì do nhân duyên mà có bất tịnh, cũng do nhân duyên mà được tịnh cho nên không có nói một chiều.
Này thiện nam tử! Tâm này chẳng cùng với tham hòa hiệp, cũng chẳng cùng với sân, si hòa hiệp.
Như mặt trời, mặt trăng dầu bị khói, bụi, mây mù và La-hầu a-tu-la che chướng, làm cho chúng sanh không thấy, nhưng tánh mặt trời mặt trăng trọn chẳng cùng hòa hiệp với năm thứ ấy.
Cũng vậy, do nhân duyên mà tâm sanh tham, nhưng thật ra tâm tánh chẳng cùng tham hòa hiệp.
Nếu là tâm tham thời chính là tánh tham. Nếu là tâm chẳng tham thời chính là tánh chẳng tham. Tâm chẳng tham không thể làm tham. Tâm tham không thể chẳng tham.
Ở trên Phật chỉ cho duyên tu và duyên nhiễm. Từ đây Phật nói thẳng vào tâm chân thật tức là thể tánh chân tâm, bởi thể tánh chân tâm không có hòa hiệp với tham sân và si.
A-tu-la che chướng là nhật thực, nguyệt thực. Ví dụ như nhìn lên mặt trời mặt trăng thấy có khi mờ, có khi sáng, có khi tối. Đó là hoặc bị mây che, bị khói, bị sương mù, bị nhật thực hay nguyệt thực. Nhưng sự thật những cái đó không làm hại mặt trời và mặt trăng, mà chỉ che con mắt phàm tục không nhìn thấy được. Cũng vậy, tất cả tham sân si không làm hại được Phật tánh, mà nó chỉ che mất làm mình không thấy, nên nói là không có Phật tánh, không có chân tâm. Sự thật không phải.
Tánh của tâm, chỗ khác gọi là chân tâm, hoặc nói thể tánh chân tâm. Như vậy nếu nói tâm tham tức là tánh thuộc về tham. Tâm chẳng tham thì nói tánh chẳng tham. Nếu tánh của tâm không tham thì ai làm cho nó tham được. Nếu tánh của tâm quyết định tham thì không ai làm cho nó không tham được. Tham, sân, si đều là do nhân duyên chứ không cố định, không phải là tánh. Nếu nói tánh tức là không chuyển được, còn do nhân duyên nên chuyển được, chỉ cần thay đổi nhân duyên thì nó sẽ chuyển từ cái này sang cái khác. Như chúng ta nếu gần những bạn ác thì cũng thành người xấu, gần những bạn lành thì thành người tốt. Như vậy do nhân duyên mà thành xấu, cũng do nhân duyên mà thành tốt.
Do nghĩa trên đây nên kiết sử tham dục không thể làm nhiễm ô được tâm.
Chư Phật và Bồ-tát đã phá hẳn tham kiết, nên gọi là tâm được giải thoát.
Tất cả chúng sanh vì do nhân duyên mà sanh tham kiết, vì do nhân duyên mà được giải thoát.
Tâm tánh không bị tham sân si làm hại được, chỉ là bị che lấp bên ngoài thôi. Vì vậy nói kiết sử tham dục không thể làm nhiễm ô được tâm.
Như cái đèn bị chụp đèn che bốn phía thấy tối nói đèn tắt, khi giở chụp đèn ra thì sáng. Đèn vẫn thế nhưng bị che thì thấy tối, giở chụp đèn ra thì thấy sáng.
Cũng vậy, tâm bị tham sân si gọi là bị kiết sử che lấp. Nếu phá được những cái che đó thì gọi là giải thoát. Phá những duyên che bên ngoài mà trở nên an ổn hay sáng suốt thì gọi là giải thoát.
Chúng sanh nếu có tánh quyết định là tham thì không bao giờ hết tham được. Nếu không tham thì tham không thể làm nhiễm ô được. Phật kết thúc bằng câu: Tất cả chúng sanh vì do nhân duyên mà sanh tham kiết, vì do nhân duyên mà được giải thoát. Thế nên chúng sanh không cố định là có tánh tham, cũng không cố định không có tánh tham.
Này thiện nam tử! Như núi Tuyết, chỗ cao vót, người cùng khỉ vượn đều không đi được, hoặc có chỗ vượn đi được mà người không đi được, hoặc có chỗ vượn cùng người đều đi được.
Chỗ mà người cùng vượn đều đi được đó, như thợ săn dùng keo nhựa bay trên bàn để bắt vượn. Vì ngu si, vượn đến lấy bàn tay rờ bốc, tay dính vào nhựa. Muốn gỡ tay vượn dùng chân đạp lại dính luôn chân. Muốn gỡ chân vượn dùng miệng cạp, lại dính cả miệng. Hai tay, hai chân cùng miệng của vượn đều dính khắn vào nhựa không thể thoát được. Bấy giờ thợ lấy gậy xỏ vượn mang về nhà.
Chỗ cao vót của núi Tuyết dùng dụ cho chánh đạo của Phật và Bồ-tát chứng. Khi vượn dụ cho phàm phu. Thợ săn dụ cho ma Ba-tuần. Keo nhựa dụ cho tham dục.
Người cùng khỉ vượn đều không thể đi là dụ cho phàm phu và ma vương Ba-tuần đều không thể đi đến.
Khỉ vượn đi được mà người thời không, dụ hàng ngoại đạo có trí huệ, các ác ma dầu có dùng ngũ dục cũng không hệ phược được họ.
Người cùng khỉ vượn đều đi được là dụ cho tất cả phàm phu cùng ma Ba-tuần luôn ở trong sanh tử không thể tu hành. Hàng phàm phu bị ngũ dục hệ phược nên ma Ba-tuần tha hồ mang di. Như thợ săn kia bắt khỉ vượn mang về nhà.
Đức Phật ví dụ, chót vót trên đỉnh núi Tuyết, khỉ vượn và người đều không đi tới được. Những chỗ thấp ở dưới thì có chỗ khỉ vượn đi tới được mà người không đi được, hoặc có chỗ khỉ vượn cùng người đều đi tới được. Chỗ mà khỉ vượn đi tới được, có người khôn ngoan đánh nhựa làm bẫy. Mấy con khỉ vượn đến đó, thấy nhựa lấy tay bốc thử thì dính vô tay. Lấy chân cạy ra lại dính luôn chân, Hai tay, hai chân đều mắc kẹt hết. Lấy miệng cạp vô thì dính vô miệng, đuôi cọ lại dính cả cái đuôi. Sáu bộ phận dính mắc trong nhựa. Bấy giờ thợ săn lấy gậy xỏ chúng mang về nhà dễ dàng.
Trên đỉnh núi Tuyết cao vót là để chỉ cho đạo Đại thừa chân thật của chư Phật, tất cả ngoại đạo và phàm phu không thể tới được, ma Ba-tuần cũng không tới được. Khỉ vượn để chỉ cho hàng phàm phu, thợ săn là chỉ cho ma Ba-tuần, nhựa dụ cho tham dục. Tham dục là từ mắt tai mũi lưỡi thân ý, sáu căn đó theo ngũ dục thì ma Ba-tuần dẫn đi, như sáu bộ phận con khỉ bị dính nhựa thì thợ săn dẫn đi một cách dễ dàng.
Này thiện nam tử! Như quốc vương ở trong nước mình thời thân tâm an lạc, nếu qua đến nước khác thời tất phải gặp nhiều sự khổ não. Cũng vậy, tất cả chúng sanh nếu có thể tự trụ nơi cảnh giới của mình thời được an lạc, nếu đến cảnh giới khác tất gặp ác ma bị những khổ não.
Tự cảnh giới là chỉ tứ niệm xứ. Cảnh giới khác là nói ngũ dục.
Như ông vua ở trong nước thì tâm yên ổn, nếu qua nước khác thì có nhiều chuyện phiền muộn lo sầu, vì tai họa có thể xảy ra. Người tu trụ tâm ở trong tứ niệm xứ, như vua ở trong nước mình. Nếu tâm chạy theo ngũ dục sẽ đau khổ vì gặp ác ma, như vua đi đến nước khác. Tu hành nếu trụ cảnh giới của mình tức tứ niệm xứ thì an lạc, nếu còn chạy theo ngũ dục phải chịu nhiều khổ não, chẳng khác nào như nhà vua không ở nước mình mà đi ở xứ khác gặp chuyện bất ổn.
Thế nào gọi là hệ thuộc nơi ma? Có những chúng sanh nơi vô thường thấy là thường, nơi thường lại thấy là vô thường; nơi khổ thấy là lạc, nơi lạc lại thấy là khổ; nơi bất tịnh thấy là tịnh, nơi tịnh lại thấy là bất tịnh; nơi vô ngã thấy là ngã, nơi ngã lại thấy là vô ngã. Nơi chẳng phải giải thoát thấy là giải thoát, nơi thật giải thoát lại thấy là chẳng giải thoát. Nơi chẳng phải thừa thấy là thừa, nơi thừa lại thấy là chẳng phải thừa. Những hạng này gọi là kẻ hệ thuộc nơi ma. Phàm kẻ hệ thuộc nơi ma thời tâm họ không thanh tịnh.
Nói một thứ rồi tất cả thứ khác cũng như vậy: khổ, không, bất tịnh, vô ngã, thừa, không phải thừa. Thừa là chỗ nương tựa chỉ cho ngũ thừa, tam thừa hay nhất thừa của Phật giáo. Chỗ nương tựa thấy không phải là chỗ nương tựa, chỗ không phải nương tựa lại thấy là chỗ nương tựa. Tất cả hạng người có cái thấy điên đảo sai lầm này là tâm không thanh tịnh, nên họ lệ thuộc vào ma. Đó là trường hợp thứ nhất.
Này thiện nam tử! Nếu thấy các pháp thật có tướng nhất định là tổng là biệt, nên biết rằng người này lúc thấy sắc liền chấp tướng sắc, nhẫn đến lúc thấy thức cũng chấp tướng thức. Lúc thấy nam, nữ, nhật, nguyệt, ấm, nhập, giới v.v… liền chấp tướng nam, tướng nữ nhẫn đến tướng nhập, tướng giới. Kẻ có kiến chấp này gọi là hệ thuộc nơi ma. Kẻ hệ thuộc nơi ma thời tâm họ không thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Nếu thấy ngã là sắc, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc, sắc thuộc nơi ngã; nhẫn đến thấy ngã là thức, trong thức có ngã, trong ngã có thức, thức thuộc nơi ngã. Kiến chấp này hệ thuộc nơi ma, người này không phải đệ tử Phật.
Tướng chung gọi là tổng, tướng riêng gọi là biệt. Những người cố chấp cho tướng chung, tướng riêng là cố định, họ chấp thân này là thật, tất cả hình tướng bên ngoài là thật. Người cố chấp như vậy là lệ thuộc vào ma, tâm họ không bao giờ thanh tịnh.
Thấy sắc là ngã, tức là nhìn vào phần vật chất của thân rồi cho là mình thật. Trong sắc có ngã, tức là thấy trong phần vật chất tứ đại hợp này có ngã. Trong ngã có sắc, tức là cái ngã bao trùm tứ đại này. Sắc thuộc nơi ngã, tức là cho rằng tứ đại này thuộc về ngã. Họ thấy thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy. Hoặc là nói ngã ở trong sắc hoặc ngoài sắc…, trong thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Nếu mỗi bộ phận chấp riêng trong đó đều có ngã thì không đúng. Thấy như vậy là thấy thiên chấp lệch lạc. Người như thế Phật gọi là thuộc về ma, không phải đệ tử Phật.
Này thiện nam tử! Hàng Thanh văn đệ tử của ta xa lìa mười hai bộ kinh của Như Lai, mà tu tập theo sách vở của những ngoại đạo, chẳng tu công hạnh tịch diệt xuất gia, thuần kinh doanh sự vụ tại gia thế tục. Những gì là sự vụ tại gia thế tục? Nhận chứa tất cả vật bất tịnh, tôi tớ, ruộng, nhà, voi, ngựa, xe cộ, lạc đà, lừa, gà, chó, khỉ, vượn, heo, dê, các thứ lúa bắp; xa lìa sư trưởng, chúng tăng, gần gũi cư sĩ bạch y, trái phản thánh giáo. Bảo hàng bạch y rằng: Đức Phật cho phép Tỳ-kheo nhận chứa những vật bất tịnh. Đây gọi là sự vụ tại gia.
Tu mà không học tập kinh điển của Phật, lại theo sách vở ngoại đạo. Không học tâm hạnh của người xuất gia, lại đua đòi theo thế tục. Tức là không gần gũi thầy lành bạn tốt để học hỏi chúng tăng; gần gũi cư sĩ bạch y, trái phản thánh giáo, đi ngược lại với lời Phật dạy. Đó là người tuy hình thức là đệ tử của Phật mà không phải đệ tử Phật.
Có các đệ tử chẳng vì Niết-bàn, chỉ vì lợi dưỡng mà nghe thọ mười hai bộ kinh, ăn dùng của thường trụ như của riêng mình, tham tiếc nhà người cùng danh tiếng, gần gũi quốc vương và các vương tử, bói xủ lành dữ, suy tính đầy vơi, bài bạc, thân thiện Tỳ-kheo-ni cùng các xử nữ, chứa hai hạng Sa-di (Sa-di và Sa-di-ni), thường đến nhà hàng thịt, thợ săn, quán rượu, và chỗ ở của Chiên-đà-la, buôn bán các loại, tự tay làm đồ ăn, nhận đi sứ lân quốc, lãnh lệnh đi thư. Nên biết rằng người như trên đây là quyến thuộc của ma, không phải đệ tử Phật. Do nhân duyên này mà tâm cùng tham chung sanh, chung diệt. Sân và si cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Do đây nên tâm tánh chẳng phải tịnh, cũng chẳng phải bất tịnh. Vì thế nên ta nói rằng tâm được giải thoát.
Đệ tử Phật đi tu không vì Niết-bàn mà chỉ vì lợi dưỡng, cũng đi học kinh nhưng mà học kinh để mong lợi dưỡng. Của trong chùa là của Tam bảo mà xài như của riêng mình vậy, muốn làm gì thì làm. Thấy người ta có nghề coi tay, bói xủ gì hay, được tín đồ đông rồi mình bắt chước theo mà đâu ngờ những người đó là bè đảng của ma, phải tránh phải xa không nên học, không nên gần. Vậy mà bây giờ có người hay a tùng theo. Đó là sai lầm.
Bài bạc, thân thiện Tỳ-kheo-ni cùng các xử nữ. Cờ bạc và thích gần Tỳ-kheo-ni hay các cô gái…, là quyến thuộc của ma.
Do những nhân duyên như vậy thành ra tâm bất tịnh, còn nhân duyên khác thì tâm sẽ tịnh.
Nếu có người không nhận, không chứa tất cả vật bất tịnh, vì đại Niết-bàn mà thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, biên chép giải thuyết. Nên biết rằng người này thật là đệ tử Phật. Người này không đi nơi cảnh giới của ác ma Ba-tuần. Người này chính là tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Vì tu tập nên chẳng cùng tham mà sanh, cũng chẳng cùng với tham mà diệt.
Đây gọi là đại Bồ-tát tu hành kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tám.
Người không nhận không chứa tất cả vật bất tịnh, vì đại Niết-bàn mà thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, biên chép giải thuyết. Nên biết rằng người này thật là đệ tử Phật. Tâm họ không cùng tham mà sanh cũng không cùng tham mà diệt.
Đó là thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tám.
Thế nào là thành tựu đầy đủ phần công đức thứ chín?
Này thiện nam tử! Đại Bồ-tát tu tập kinh Đại Niết-bàn, đầu tiên phát năm điều thời được thành tựu phần công đức này: một là tín tâm, hai là trực tâm, ba là giới, bốn là gần gũi bạn lành, năm là học rộng nghe nhiều.
Thế nào là tín tâm?
Bồ-tát tin nơi Tam bảo, bố thí cúng dường thời có quả báo. Tin nơi hai đế lý, đạo nhất thừa không có nẻo nào khác, vì muốn chúng sanh mau được giải thoát mà chư Phật và Bồ-tát phân biệt làm ba thừa. Tin đế lý đệ nhất nghĩa. Tin thiện phương tiện. Đây gọi là tin.
Người có lòng tin như trên đây, không ai phá hoại được. Do đức tin này mà được tánh thánh nhân. Người này tu hành bố thí không luận ít nhiều đều được gần nơi đại Niết-bàn, chẳng đọa nơi sanh tử. Như bố thí, trì giới, đa văn và trí huệ cũng vậy. Dầu có tín tâm này nhưng cũng chẳng chấp. Đây là Bồ-tát tu đại Niết-bàn thành tựu điều ban đầu.
Trước hết giải thích về tín tâm. Bồ-tát tin Tam bảo, tin nhân quả, tin hai đế lý là tin đệ nhất nghĩa đế và tin phương tiện, tin chỉ có đạo nhất thừa, Phật vì giáo hóa chúng sanh mà lập làm ba. Nếu có lòng tin chắc chắn như vậy thì không gì phá hoại được.
Nếu mình có lòng tin như vậy thì bố thí ít nhiều cũng được gần Niết-bàn, trì giới ít nhiều cũng được gần Niết-bàn, đa văn ít nhiều cũng được gần Niết-bàn, trí tuệ ít nhiều cũng được gần Niết-bàn.
Thế nào là trực tâm?
Đại Bồ-tát đối với chúng sanh, có lòng chất trực.
Tất cả chúng sanh nếu gặp nhân duyên thời móng lòng dua vậy. Bồ-tát thời không như vậy, vì hiểu rõ các pháp đều là nhân duyên. Bồ-tát dầu thấy chúng sanh có những lỗi lầm, mà trọn không nói đến, vì sợ sanh phiền não, nếu sanh phiền não thời phải đọa ác thú.
Bồ-tát này nếu thấy chúng sanh có chút ít điều lành liền tán thán đó. Gì là lành? Chính là Phật tánh. Do Bồ-tát tán thán Phật tánh nên chúng sanh phát tâm Bồ-đề.”
Đây là thành tựu thứ hai, trực tâm.
Tất cả chúng sanh nếu gặp nhân duyên thời móng lòng dua vạy. Chúng ta khi gặp nhân duyên thì nói sai sự thật. Ví dụ như mình bây giờ có lỗi gì bị chính quyền mời, họ nói nếu Thầy hay Cô bệnh thì không phạt, nếu mạnh thì sẽ phạt. Mình trả lời sao? Ôi lúc này tôi bệnh quá, nào nóng lạnh, nào nhức đầu… Mình nói dối liền. Còn Bồ-tát chất trực, dù có nhân duyên cũng không dua vậy. Tâm niệm của phàm và thánh khác nhau như vậy đó.
Bồ-tát này nếu thấy chúng sanh biết tin chút ít về Phật tánh liền tán thán cho người ta phát tâm Bồ-đề để rồi chứng được Phật quả.
Cao Quý Đức Vương Bồ tát bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Như đức Phật vừa nói: Bồ-tát tán thán Phật tánh làm cho chúng sanh phát tâm Bồ-đề. Lời đây không đúng nghĩa. Vì đức Như Lai lúc mới khai kinh Niết-bàn nói có ba hạng: một là nếu có người bệnh gặp được thầy giỏi thuốc hay, người khán bệnh khéo thời được lành mạnh, nếu không được như trên thời bệnh không lành; hai là được gặp hay không được gặp đều không được lành; ba là được gặp hay không được gặp bệnh đều lành.
Tất cả chúng sanh cũng có ba hạng như vậy: Một là hạng gặp bạn lành, gặp Phật, Bồ-tát, nghe nói diệu pháp thời được phát tâm Bồ-đề, nếu không gặp thời không phát, đây là chỉ cho các bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi Phật.
Hai là hạng dầu được gặp bạn lành, gặp Phật, Bồ-tát, được nghe diệu pháp cũng chẳng phát tâm Bồ-đề, đây là nói hạng nhất-xiển-đề.
Ba là hạng hoặc gặp hay chẳng gặp, tất cả đều có thể phát tâm Bồ-đề, đây là nói Bồ-tát.
Nếu đã nói rằng gặp cùng chẳng gặp tất cả đều phát tâm vô thượng Bồ-đề, giờ đây tại sao đức Như Lai lại nói: Do tán thán Phật tánh làm cho chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ-đề?
Thế Tôn! Nếu nói rằng gặp cùng chẳng gặp đều không thể phát tâm Bồ đề cả, lời này cũng không đúng nghĩa, vì hạng này sẽ được vô thượng Bồ-đề. Hạng nhất xiển đề do vì có Phật tánh, nên hoặc được gặp hay không được gặp, cũng đều sẽ được vô thượng Bồ-đề.
Thế Tôn!Như đức Phật định nghĩa nhất-xiển đề là dứt thiện căn, cũng không đúng. Vì hạng này không dứt Phật tánh. Cử lý thời Phật tánh không thể dứt, sao đức Phật nói là dứt thiện căn?
Bồ-tát Cao Quý Đức Vương dẫn đoạn trước Phật nói có ba hạng người: Hạng thứ nhất nếu gặp thầy thuốc, khán bệnh giỏi được lành thì khả dĩ nói rằng tán thán Phật tánh thì phát tâm Bồ-đề. Hạng người thứ hai dù gặp thầy hay không gặp thầy hay, đều cũng chết hết, đâu có nói Bồ-tát tán thán Phật tánh người ta phát tâm Bồ-đề được. Hạng người thứ ba dù họ không gặp hay gặp thầy cũng mạnh, vì vậy tán thán hay không tán thán họ cũng phát tâm Bồ-đề được. Vậy lời nói của Phật không có nghĩa cứu cánh.
Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, dù hạng nhất-xiển-đề tức là hạng không còn chút căn lành cũng có Phật tánh. Đã có Phật tánh nhất định sẽ được Bồ-đề, đợi gì phải tán thán.
Nhất-xiển-đề là dứt thiện căn mà lại nói có Phật tánh, chuyện này nghe khó hiểu. Dứt thiện căn tức là không còn Phật tánh, có Phật tánh thì không dứt thiện căn.
Như trong mười hai bộ kinh của Phật nói ngày trước, có hai thứ thiện căn: thường và vô thường. Thiện căn thường thời không dứt, còn vô thường thời dứt.
Thiện căn vô thường có thể dứt nên đọa địa ngục. Còn thường chẳng thể dứt, cớ sao đức Phật chẳng có lời ngăn?
Chẳng dứt Phật tánh chẳng phải nhất-xiển-đề, cớ sao đức Phật lại nói là nhất-xiển-đề?
Thế Tôn! Nếu nhân Phật tánh mà phát tâm vô thượng Bồ-đề, cớ sao đức Như Lai lại vì chúng sanh nói rộng mười hai bộ kinh?
Thế Tôn! Như bốn con sông lớn từ ao A-na-bà- đạp đa chảy ra, nếu có trời, người cùng chư Phật cũng không thể bảo rằng nước sông lớn này không chảy vào biển cả sẽ trở lại nguồn.
Cũng vậy, người có Phật tánh, không luận nghe pháp hay không nghe, có giới hay không giới, có bố thí hay không bố thí, có tu hay không tu, có trí hay không trí, tất cả lẽ ra đều được vô thượng Bồ-đề.
Thế Tôn! Như từ núi A-đà-diên, mặt trời mọc lên đến hướng chánh nam, không bao giờ mặt trời có thể nghĩ rằng ta không đến hướng tây, ta trở lại phương đông. Cũng vậy, đã có Phật tánh không có lẽ chẳng được vô thượng Bồ-đề mặc dầu không nghe pháp, không trì giới, không bố thí, không tu, không trí huệ.
Thế Tôn! Như Lai nói tánh nhân quả là chẳng phải có chẳng phải không. Nghĩa này cũng chẳng đúng.
Vì như trong sữa không có tánh của chất lạc, thời tất không có lạc. Như hột ni-câu-đà không có tánh cây năm trượng cao, thời tất không mọc lên cây cao năm trượng. Nếu trong Phật tánh không có cội vô thượng Bồ-đề, sao lại có thể sanh cội Bồ-đề vô thượng. Cứ như nghĩa này, thời làm sao hiệp với nghĩa nhân quả chẳng phải có chẳng phải không của Phật đã nói?”
Phật nói dứt thiện căn mà không nói dứt thiện căn vô thường thì còn thiện căn thường. Ngài chỉ nói dứt thiện căn thôi, tức là thiếu lời ngăn ngừa.
Nếu nhân Phật tánh mà phát tâm Bồ-đề thì tại sao Phật nói kinh chi cho nhiều vậy? Như bốn con sông lớn từ ao A-na-bà-đạp-đa chảy ra. Bốn con sông đó dù cho trời, người hay đức Phật cũng không thể bảo bốn con sông chảy ngược về nguồn mà nhất định nó phải chảy ra biển. Như có Phật tánh thì nhất định phải có vô thượng Bồ-đề, không ai ngăn được hết, như vậy còn dạy, còn giáo hóa làm chi?
Như mặt trời sáng ở phương đông chiều qua phương tây chứ không đi ngược được, đó là nhất định vậy.
Ngài vấn nạn tuy nhiều câu nhưng có thể tóm lại có ba ý chính:
Ý thứ nhất, tại sao Phật nói rằng do Bồ-tát tán thán Phật tánh mà chúng sanh phát tâm Bồ-đề. Vì trước Phật đã nói chúng sanh có ba hạng, có hạng dù cho gặp thầy gặp thuốc, gặp Bồ-tát giáo hóa họ cũng không phát tâm được, đó là nhất-xiển-đề. Bây giờ nói tán thán Phật tánh thì họ phát tâm Bồ-đề, như vậy là trái.
Ý thứ hai, trong kinh đức Phật nói về Phật tánh, thiện căn có hai: thường và vô thường. Cái vô thường có thể dứt, cái thường không dứt, tại sao Phật nói nhất-xiển-đề dứt thiện căn?
Ý thứ ba, không có nhân làm sao thành quả. Ví dụ như trong chất lạc, nếu không có sữa thì làm sao.
thành lạc được, nên trong sữa nhất định có chất lạc. Cũng như trong hột cây ni-câu-đà có tính chất của cây ni-câu-đà, trong Phật tánh nhất định có tính chất vô thượng Bồ-đề. Vậy làm sao nói là nghĩa nhân quả chẳng phải có chẳng phải không. Đó là ba câu hỏi chính.
Đức Thế Tôn tán thán rằng: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Trong đời có hai hạng người rất là hy hữu như hoa ưu đàm: một là người không phạm tội ác, hai là người có tội biết hối cải.
Một là làm ơn, hai là nhớ ơn.
Lại có hai hạng người rất hy hữu: một là học hỏi điều mới, hai là ôn nhuần điều học cũ không quên.
Lại có hai hạng người rất hy hữu: một là tạo ra mới, hai là tu sửa chỗ cũ.
Lại có hai hạng người rất hy hữu: một là thích nghe pháp, hai là thích thuyết pháp.
Lại có hai hạng người rất hy hữu: một là khéo gạn hỏi, hai là khéo giải đáp.
Người khéo gạn hỏi chính là ông vậy. Người khéo giải đáp chính là Như Lai vậy.
Phật khen ngợi Bồ-tát Cao Quý Đức Vương là một người khéo hỏi, hy hữu trong số hai hạng người.
Một là người không phạm tội, hoặc có người phạm tội biết hối cải cũng là hy hữu.
Hai là mình sẵn sàng làm ơn tất cả, đó là người tốt, người ít có. Người biết nhớ ơn cũng là người hy hữu, chứ chịu ơn thì dễ quên lắm.
Ba là ví dụ như nghe kinh tới đây mà nhớ đoạn đầu Phật nói cái gì thì đó là một điều hy hữu.
Cuối là người khéo gạn hỏi và người khéo giải đáp rất là hy hữu. Phật khen Bồ-tát là người khéo gạn hỏi.
Này thiện nam tử! Do nơi khéo gạn hỏi bèn chuyển được pháp luân vô thượng, có thể làm khô cây do mười hai nhân duyên, có thể qua khỏi sông lớn sanh tử vô biên, có thể chiến đấu với ma vương Ba-tuần, có thể xô ngã thắng tràng của Ba-tuần dựng.
Phật khen nếu người khéo hỏi thì có thể được công dụng nhiều như vậy. Có thể làm khô cây do mười hai nhân duyên là cây gì? Tức là cây luân hồi, do mười hai nhân duyên kéo mình luân hồi. Người hỏi khéo có thể nhân vì đó mà giúp người nghe ngộ đạo, dứt được vòng luân hồi, tức là làm khô cây mười hai nhân duyên. Có thể chiến đấu với ma vương Ba-tuần tức là nhân câu hỏi đó mà biết được tà chánh, cái nào là sanh tử, cái nào không sanh tử, không bị lầm lẫn nữa. Có thể xô ngã thắng tràng của Ba-tuần dựng, tức là thắng được ma Ba-tuần.
Này thiện nam tử! Như trước kia Phật nói ba hạng bệnh nhân, hạng gặp thầy giỏi, thuốc hay, khán bệnh khéo, cùng không gặp đều được lành mạnh, đó là vì thọ mạng quyết định, do vì người này trong vô lượng đời đã tu ba thứ thiện căn: Thượng, Trung và Hạ, nên được thọ mạng quyết định. Như người Uất đơn việt tuổi thọ ngàn năm, nếu mắc phải bệnh, dầu gặp thầy, gặp thuốc, được săn sóc kỹ, cùng không gặp đều sẽ được lành mạnh cả, vì họ đã được tuổi thọ quyết định.
Hạng người thọ mạng quyết định ở đâu? Tức là chỉ cho hạng người ở Uất-đơn-việt. Người Uất-đơn-việt tuổi thọ tới một ngàn năm, dầu bệnh gặp có thầy hay không thầy họ vẫn sống đúng một ngàn năm. Hạng người này mình cũng hay gặp, họ đau không cần thuốc men gì hết rồi cũng mạnh. Tuổi thọ họ cố định, dù có duyên ngược lại cũng có thể qua được, còn có người đau không có duyên thì chết.
Hạng bệnh nhân nếu gặp thầy giỏi thuốc hay, khán bệnh khéo thời được lành, bằng không gặp thời chẳng lành, đây là những người thọ mạng không quyết định. Hạng người này dầu thọ mạng chưa hết, song có chín nhân duyên có thể làm họ chết yểu: một là biết ăn sẽ không an mà cứ ăn; hai là ăn quá nhiều; ba là ăn chưa tiêu mà lại ăn nữa; bốn là đại tiểu không điều hòa; năm là lúc bệnh không nghe theo lời chỉ dẫn của y sĩ; sáu là chẳng nghe lời dặn bảo của người khán bệnh; bảy là cố nín nhẫn không chịu ói; tám là đi đêm, vì đi đêm sẽ bị ác quỷ, ác trùng làm hại; chín là phòng thất quá độ. Do đây nên Phật nói hạng bệnh nhân này gặp thầy gặp thuốc thời lành, nếu không gặp thời không lành.
Hạng bệnh nhân gặp thầy gặp thuốc hay không gặp đều không được lành mạnh, đây là những người tuổi thọ đã hết.
Hạng người thứ hai, thọ mạng không quyết định do chín nhân duyên mà tuổi thọ bị thay đổi không quyết định, bị chết yểu.
Một là biết ăn sẽ không an mà cứ ăn. Tức là gặp những món ăn ngon biết nó có chất độc ăn vô có thể thành bệnh mà cứ ăn. Hai là ăn quá nhiều. Đây cũng là nhân duyên làm cho mình bệnh. Bởi vì bao tử của mình có chừng mực, ăn nhiều là nó phải làm quá sức. Ba là ăn chưa tiêu mà lại ăn nữa. Đây là bệnh của người giàu, giàu chừng nào bệnh chừng ấy. Ăn chưa tiêu lại dồn món khác, bao tử không bao giờ rảnh rang, không kịp tiêu hóa dễ sanh bệnh. Đừng nghĩ ăn nhiều là tốt.
Ba nhân duyên này gọi là bệnh tùng khẩu nhập. Bốn là đại tiểu không điều hòa. Nghĩa là không có chừng mực, bất thường. Đó cũng là gốc sanh bệnh. Những người đi đường xa đại tiểu bất thường dễ thành bệnh,
Năm là lúc bệnh không nghe theo lời chỉ dẫn của y sĩ. Nghĩa là ông thầy dặn mình phải ngừa phải cấm cái gì, mình không chịu nghe.
Sáu là chẳng nghe lời dặn bảo của người khán bệnh. Người nuôi bệnh dặn gì cũng không chịu nghe.
Bảy là cố nín nhẫn không chịu ói. Ví dụ như khi ăn trúng thực mắc ói, ói ra được thì nhẹ, mà kìm không cho ói, nó ứ lại bên trong sanh ra bệnh.
Tám là đi đêm, vì đi đêm sẽ bị ác quỷ, ác trùng làm hại. Ác trùng là rắn rết… Thành ra người ít đi đêm thì tốt.
Chín là phòng thất quá độ. Tức là nếp sống bất thường trong gia đình của người đời.
Đó là chín điều làm cho người ta chết yểu. Có nhiều khi tuổi thọ không quyết định, mình khéo biết sống thì nó kéo dài, nếu không biết sống thì nó yểu, rồi cứ đổ thừa tại số.
Hạng người thứ ba là tuổi thọ đã cùng rồi, gặp thầy hay không gặp thầy cũng chết. Như có nhiều người danh vọng, giàu có, thầy thuốc sẵn một bên nhưng tới chừng chết cũng không cứu được vì tuổi thọ đã hết.
Chúng sanh cũng như vậy. Người phát tâm Bồ-đề, nếu gặp bạn lành, chư Phật, Bồ-tát, được học hỏi pháp cao sâu, hoặc không được gặp được học, tất cả đều sẽ được thành, vì người này đã có thể phát tâm vô thượng Bồ-đề. Như người Uất-đơn việt có thọ mạng quyết định.
Bây giờ có người phát tâm tu cũng gần như có cái quyết định. Như thường thì do gặp được thầy được bạn khuyến nhủ, nhắc nhở, dạy bảo rồi sau mới phát tâm tu. Nhưng có người không gặp ai hết, gặp hoàn cảnh gì đó họ phát tâm tu, sau mới tìm thầy kiếm bạn. Dường như có cái gì cố định khiến đến lúc đó họ phải đi, phải ngộ, phải tỉnh. Có người cha mẹ hiền lành nên con nhân đó bắt chước hiền lành, nhưng có người cha mẹ hung dữ mà con lại hiền lành, đó là vì cái căn quyết định của họ. Người có căn quyết định dù gặp thầy gặp bạn hay không, vẫn phát tâm Bồ-đề được. Đây là do đã trồng sâu chủng tử, còn những người mà chủng tử sơ sơ thì gặp thầy gặp bạn mới phát được, không gặp thì chưa phát.
Hàng Nhị thừa từ Tu-đà-hoàn đến Bích-chi Phật, nếu được nghe thiện hữu, chư Phật giảng nói pháp Đại thừa thời có thể phát tâm Bồ-đề, nếu không gặp không nghe thời không thể phát tâm Bồ-đề vô thượng. Như người thọ mạng không quyết định, do chín duyên làm cho họ phải yểu thọ, nếu gặp thầy gặp thuốc thời lành, không gặp thời bệnh không lành.
Hạng nhất-xiển-đề, dầu có gặp thiện hữu, chủ Phật, Bồ-tát, có nghe pháp cao sâu, hay không nghe không gặp, đều không thể lìa tâm nhất-xiển-đề, vì họ đã dứt thiện căn. Hạng nhất xiển-đề cũng được thành vô thượng Bồ-đề, vì nếu có thể phát tâm Bồ-đề vô thượng thời chẳng còn gọi là nhất-xiển đề.
Hàng Thanh văn, La-hán hay Bích-chi Phật thì chưa gọi là phát tâm Bồ-đề. Những vị tu chứng tới quả đó nếu gặp Phật Bồ-tát giảng pháp Đại thừa thì họ liền phát tâm tiến lên gọi là phát tâm Bồ-đề, còn không gặp thiện hữu không nghe pháp Đại thừa thì không phát tâm. Như hạng người thọ mạng không quyết định, bệnh gặp thầy thì lành, không gặp thì không lành.
Nhất-xiển-đề là dứt thiện căn bởi vì họ không có lòng tin đối với Tam bảo và họ không nghĩ tưởng điều lành. Dù họ có nghe pháp hay không cũng không lìa tâm nhất-xiển-đề, và không thể phát tâm Bồ-đề được. Nhưng nếu họ bỏ niệm xấu ác thì lúc đó không còn gọi là nhất-xiển-đề nữa. Họ bỏ ác kiến tin vào Tam bảo thì làm sao không thành Phật? Danh từ không tu không còn khi họ đã chuyển qua tu, cũng như danh từ nhất-xiển-đề không còn khi họ chuyển tâm hướng về Bồ-đề.
Này thiện nam tử! Tại sao nói hạng nhất-xiển đề được vô thượng Bồ-đề?
Hạng nhất-xiển-đề, thật ra không thể được vô thượng Bồ-đề, như người tuổi thọ đã hết, dầu gặp thầy gặp thuốc, cũng không lành bệnh được.
Này thiện nam tử! “Nhất-xiển” gọi “tín”, “đề” là bất cụ, bất cụ tín gọi là nhất-xiển-đề.
Phật tánh chẳng phải là tín, chúng sanh chẳng phải là cụ, bởi bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhất-xiển” gọi là thiện phương tiện, “đề” là vì tu thiện phương tiện chẳng đầy đủ nên gọi là nhất-xiển đề.
Phật tánh chẳng phải là tu thiện phương tiện, chúng sanh chẳng phải là cụ, bởi bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhất-xiển” gọi là tiến, “đề” là bất cụ, vì tinh tiến chẳng đầy đủ nên gọi là nhất-xiển-đề.
Phật tánh chẳng phải là tiến, chúng sanh chẳng phải là cụ, vì bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhất-xiển” gọi là niệm, “đề” là bất cụ, vì niệm chẳng đầy đủ nên gọi là nhất-xiển-đề.
Phật tánh chẳng phải là niệm, chúng sanh chẳng phải là cụ, vì bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhất-xiển” gọi là định, “đề” là bất cụ, chẳng đầy đủ nên gọi là nhất-xiển đề.
Phật tánh chẳng phải là định, chúng sanh chẳng phải là cụ, vì bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhất-xiển” gọi là huệ, “đề” là bất cụ, vì huệ chẳng đầy đủ nên gọi là nhất-xiển-đề.
Phật tánh chẳng phải là huệ, chúng sanh chẳng phải là cụ, vì bất cụ nên thế nào dứt được.
“Nhất-xiển” gọi là vô thường thiện, “đề” là bất cụ, vì vô thường thiện chẳng đủ nên gọi là nhất-xiển-đề.
Nếu họ còn mang tên nhất-xiển-đề thì nhất định không bao giờ thành Phật, không bao giờ phát tâm; nếu phát tâm thì họ đã mất tên nhất-xiển-đề. Ở đây Phật phương tiện định nghĩa nhất-xiển-đề.
“Nhất-xiển” Trung Quốc dịch là “tín”, “đề” là “bất cự”. Tín là tin, bất cụ là không đủ, tức là không đủ lòng tin gọi là nhất-xiển-đề. Không đủ lòng tin là không tin Tam bảo, mà không tin Phật thì làm sao thành Phật được nên nhất định nhất–xiển-đề là không thành Phật. Khi nào họ tin là hết nhất-xiển-đề, lúc đó họ thành Phật. Nên nói rằng nhất-xiển-đề là không đủ niềm tin nên không thể phát tâm Bồ-đề.
Phật định nghĩa nhất-xiển-đề rồi mới giải thích Phật tánh vượt ra ngoài nghĩa nhất-xiển-đề, nên nói nhất-xiển-đề dứt thiện căn mà Phật tánh không bao giờ dứt. Phần định nghĩa trên đây nhiều mà tôi lược bớt. Từ không đủ niềm tin cho đến sau chót, nói vô thường thiện chẳng đủ là nhất-xiển-đề. Thành ra từ cái không đủ niềm tin mà đức Phật nói rộng ra, tu mà không có chánh niệm, không tinh tấn, không đủ tất cả điều lành, chưa thành vô thượng Bồ-đề cũng thuộc về nhất-xiển-đề.
Phật tánh là thường, chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện. Vì thiện pháp là từ phương tiện mà được, mà Phật tánh chẳng phải từ phương tiện được, nên gọi là chẳng phải thiện.
Do Phật tánh có thể được thiện quả vô thượng Bồ-đề, nên nói là chẳng phải bất thiện.
Lại vì thiện pháp sanh rồi mà được, còn Phật tánh không phải sanh rồi mà được nên nói là chẳng phải thiện.
Bởi dứt cả thiện pháp sanh và được, nên gọi là nhất-xiển-đề.
Này thiện nam tử! Như ông gạn hỏi nếu nhất-xiển-đề có Phật tánh, tại sao không ngăn tội địa ngục?
Này thiện nam tử! Trong nhất xiển-đề không có Phật tánh.
Ví như nhà vua nghe tiếng đờn véo von thánh thót, quá thích thú say sưa, bèn bảo đại thần: Tiếng quá hay như thế từ đâu mà có?
Đại thần tâu là từ cây đờn phát ra tiếng ấy.
Nhà vua truyền đem đờn đến trước mặt, rồi bảo cây đờn kêu đi! Kêu đi! Cây đờn vẫn không kêu. Nhà vua bèn bứt dây, rọc da, chẻ cây, tìm mãi vẫn không có tiếng. Nhà vua nổi giận trách đại thần là tâu dối.
Đại thần phân trần: Nếu muốn cho đờn kêu ra tiếng thời phải khéo khảy đánh, chứ không phải làm cách như vậy.
Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, vốn không chỗ trụ. Dùng phương tiện khéo thời thấy được. Vì được thấy nên được vô thượng Bồ-đề.
Đó là hai nghĩa Phật tánh không phải thiện mà không phải bất thiện. Nếu đã có Phật tánh thì không đọa địa ngục, vì có Phật tánh là sáng suốt đâu chịu đến chỗ tối tăm.
Phật giải thích trong nhất–xiển–đề không có Phật tánh. Ví dụ như nhà vua nghe tiếng đàn hay, bèn bảo đại thần đem tiếng hay đó lại. Đại thần ôm cái đàn lại, vua bảo đàn kêu đi, đàn không kêu. Vua bứt dây, chẻ đàn tìm tiếng vẫn không có, Đại thần giải thích, tuy cây đàn có tiếng hay nhưng phải nhờ tay khéo khảy mới được.
Phật tánh cũng thế, không có chỗ trụ, phải nhờ phương tiện mới hiện. Nếu mình không tìm nhân duyên thấy được Phật tánh thì Phật tánh không phát, gọi là không có. Vì vậy nói nhất-xiển-đề không có Phật tánh.
Không có Phật tánh là trường hợp có mà không phát ra cũng như không có. Ví dụ như cây đàn có tiếng hay mà không biết khảy thì không có tiếng, không có tiếng cho nên nói cây đàn không tiếng. Nếu biết khảy thì ra tiếng hay.
Người tu nếu lăng xăng lộn xộn năm này tháng nọ cứ chạy theo vọng tưởng điên đảo thì lúc nào biết được Phật tánh? Chắc chắn suốt kiếp không bao giờ thấy được. Nếu chịu khó dừng lại, chặn đứng vọng tưởng thì lúc đó Phật tánh hiển lộ. Cũng như cây đàn dù có đủ dây đủ phím, đủ tất cả mà không khéo khảy thì cũng không ra tiếng. Cho nên biết Phật tánh nhờ nhân duyên mà hiển lộ.
Hạng nhất-xiển-đề không thấy Phật tánh, làm thế nào ngăn được tội ba ác đạo!
Này thiện nam tử! Nếu nhất xiển-đề tin có Phật tánh, nên biết rằng người này không bị sa vào ba ác đạo, cũng chẳng còn gọi là nhất-xiển-đề.
Vì không tin có Phật tánh nên phải đọa ác đạo, vì đọa ác đạo nên gọi là nhất-xiển-đề.
Này thiện nam tử! Như lời ông gạn, nếu trong sữa không có tánh của chất lạc thời lẽ ra chẳng có lạc; nếu trong hột ni-câu-đà không có tánh cao năm trượng thời lẽ ra không mọc lên cây cao năm trượng?
Kẻ ngu si mới nói như thế, người trí không bao giờ nói như thế, vì là không có tánh vậy.
Này thiện nam tử! Nếu trong sữa có tánh của chất lạc lẽ ra chẳng cần nhờ công lực các duyên. Như nước và sữa trộn lộn, rồi nằm chờ đến mãn tháng trọn không thành lạc. Nếu dùng một giọt sữa rồi tìm nước cây nhiễu vào bèn thành lạc. Nếu vốn đã có lạc sao lại phải nhờ duyên.
Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, nhờ các nhân duyên thời được thấy, nhờ các nhân duyên thành vô thượng Bồ-đề. Nếu phải chờ các nhân duyên rồi sau mới thành thời chính là vô tánh vậy. Do vô tánh nên có thể thành vô thượng Bồ-đề.
Bởi vì không thấy Phật tánh nên phải đọa ba ác đạo, nếu thấy thì tất nhiên khỏi đọa. Nếu tin rồi thì họ đâu còn là nhất-xiển-đề nữa. Vì không tự tin có Phật tánh, phải đọa ba ác đạo, nên gọi là nhất-xiển-đề. Chúng ta là người tu, nói tin Tam bảo nhưng nếu không tin mình có Phật tánh thì cũng là nhất-xiến-đề, tu mà vẫn phải đọa như thường, nên phải tin mình có Phật tánh mới có thể ngăn được tội ba ác đạo.
Trước Phật khen thật là hy hữu, giờ Phật quả. Phật và Bồ-tát thường có ba cách, có khi thì quở trách, có khi an ủi dịu dàng, có khi dùng cả hai. Đây dùng cả hai, đoạn trước khen, đây quở là ngu si.
Phật quở Bồ-tát Cao Quý Đức Vương, nếu nói trong sữa không có tánh của chất lạc, thời lẽ ra chẳng có lạc. Nếu trong hột ni-câu-đà không có tánh cao năm trượng thời lẽ ra không mọc lên cây cao năm trượng.
Kẻ ngu si mới nói như thế, người trí không bao giờ nói như thế, vì là không có tánh vậy.
Nếu đã có tánh thì tự nhiên nó thành, tại làm sao mà phải nhờ công lực, nhờ các duyên. Như trộn sữa với nước rồi bỏ đó coi nó thành lạc được không? Phải nhiễu nước cây vào mới thành.
Bởi vô tánh nên mới có thể từ cái này chuyển thành cái kia được. Nếu có tánh cố định thì phàm phu là phàm phu suốt kiếp, Bồ-tát là Bồ-tát mãn đời. Phàm phu có thể thành Bồ-tát thì có nghĩa là vô tánh. Vô tánh mà không phải là vô tánh. Chúng ta đọc sách Phật thường nghe nói chẳng phải có chẳng phải không, đó là những điều khó hiểu. Chúng ta nói hoặc có, hoặc không, nhất định là như vậy, còn Phật thì không phải nói như vậy. Nếu nhân duyên hợp thì có mà nhân duyên không hợp thì không, như vậy làm sao mà cố định, chính cái đó làm cho chúng ta thấy ý nghĩa cao sâu của Phật giáo.
Này thiện nam tử! Do cớ trên đây nên đại Bồ-tát thường tán thán điều lành của người, chẳng rao nói lỗi xấu của kẻ khác, đây gọi là chất trực tâm. 2. Lại thế nào là Bồ-tát có tâm chất trực? Bồ-tát thường không phạm lỗi ác. Thiết sử có lầm lỗi thời liền sám hối với thầy, với bạn đồng học, trọn chẳng che giấu. Tự hổ thẹn, tự trách, chẳng dám tái phạm. Nơi tội khinh xem dường rất nặng. Nếu người gạn hỏi liền đáp rằng thật có phạm, là chẳng tốt, là chẳng lành, tội này là quả ác, là chính tôi gây tạo đây là do phiền não cấu tập.
Tâm chân thật ngay thẳng là tâm khen ngợi điều lành mà không nói lỗi xấu của người, tâm đó là tâm chất trực. Người ta ưa nói những lỗi mà không khen những điều tốt, tâm đó là tâm cong vẹo, không ngay thẳng. Bồ-tát thường không phạm lỗi ác. Nếu có lầm lỗi liền sám hối với thầy, với bạn đồng học, chẳng che giấu. Tự hổ thẹn, tự trách, chẳng dám tái phạm. Phạm tội nhẹ cũng xem như rất nặng.
Tâm đầy đủ điều dở lẫn điều hay. Tu là nuôi dưỡng điều hay, tiêu diệt điều dở. Đôi khi vô minh che lấp rồi mình quên, làm một hai điều dở, biết rồi phải thành tâm sám hối với thầy, với bạn. Ví dụ ở trong chúng cấm không được nghe nhạc ca múa. Nếu hôm nào đó có người phát hứng lên hát vài câu, sau nhớ lại mình đã hứa không phạm điều này sao bây giờ mình làm. Nếu không sám hối với thầy thì đến những người bạn, nói tôi tệ quá, ngu quá, nên lỡ hát xin sám hối, Thầy chứng minh giùm, từ nay về sau tôi nguyện chừa cải. Nên sám hối chứ đừng che giấu. Những việc lớn hơn cũng vậy. Còn người cứ giấu biệt lỗi của mình không cho ai biết, điều đó không nên. Theo tinh thần sám hối này các Thiền viện mỗi nửa tháng thỉnh nguyện, chúng ta lỡ có làm gì thì sẵn sàng sám hối trước thầy bạn để chừa bỏ. Đó là gan dạ mà cũng là tâm chất trực của mình, có như vậy mình mới tiến. Nếu chỉ sám hối với Phật, cứ mỗi nửa tháng lên lạy Phật, kể dài dòng với Phật, không ai biết mình có lỗi gì. Sám hối đó chưa phải là tâm chất trực. Sám hối ngay với thầy bạn, những người hiện có mặt, đó mới là gan dạ, mới là chân chính chất trực.
Khi sám hối rồi chúng ta cảm thấy hổ thẹn, tự trách mình sao mà hư như vậy, từ đó về sau không dám tái phạm nữa. Những tội nhẹ, tội phụ coi như là rất nặng, không dám phạm. Nếu người gạn hỏi liền đáp rằng thật có phạm. Ví dụ như người ta nói: Hôm đó tôi thấy Thầy hay là thấy Huynh, làm những điều đó phải không? Mình liền đáp thật: Phải, hôm đó tôi có phạm, đó là điều không tốt. Nhận như vậy, chịu như vậy chính là chất trực.
Do trực tâm nên tin có Phật tánh, vì tin Phật tánh nên không gọi là nhất-xiển-đề. Do trực tâm nên gọi là đệ tử Phật. Nếu lãnh thọ đồ cúng dường của người, dầu mỗi thứ cả ngàn muôn cũng chẳng đủ làm nhiều.
Đây gọi là Bồ-tát tâm chất trực.
Những người có tâm chất trực dù nhận cúng dường bao nhiêu cũng không gọi là nhiều, còn tâm gian trá thọ một chút cũng gọi là nhiều, vì người đó không xứng đáng đệ tử Phật, đâu có nên thọ dụng của tín đồ.
Thế nào là Bồ-tát tu trì giới luật?
Bồ-tát tu trì cấm giới, chẳng cầu sanh thiên, chẳng vì khủng bố, nhẫn đến chẳng thọ cẩu giới, kê giới, ngưu giới, trĩ giới. Chẳng thật hành phá giới, giới khuyết điểm, giới tỳ vết, giới tạp, giới Thanh văn, mà thọ trì giới đại Bồ-tát, thọ trì giới thi-la ba-la-mật được giới đầy đủ chẳng sanh kiêu mạn.
Đây gọi là Bồ-tát tu đại Niết-bàn trọn nên công hạnh thứ ba là giới.
Điều thành tựu của Bồ-tát là trì giới. Có nhiều người tu ở núi non, giữ giới không ăn giấm, có người không ăn khế, những cái giới không phải là đạo lý mà vẫn cho là giới rồi giữ. Gần đây nghe có người giữ giới không uống thuốc, đâu phải là giới mà cứ giữ, thật phi lý.
Bồ-tát nên giữ giới không cầu sanh thiên, chẳng vì sợ hãi, không thọ những giới tà, chẳng phá giới… mà thọ trì giới đại Bồ-tát, thọ trì giới ba-la-mật được giới đầy đủ chẳng sanh kiêu mạn.
Thế nào là Bồ-tát gần gũi thiện hữu?
Đại Bồ-tát thường vì chúng sanh nói thiện đạo chẳng nói ác đạo. Nói ác đạo chẳng phải quả báo lành tốt.
Này thiện nam tử! Thân của Phật đây là chân thiện tri thức của tất cả chúng sanh, vì thế nên có thể dứt tà kiến của Bà-la-môn Phú-già-la. Nếu có chúng sanh nào gần gũi Phật, dầu có tội địa ngục cũng liền được sanh thiên, như gã Tu-na-sát-đa-la v.v… đáng lẽ đọa địa ngục, do gặp được Phật tội liền tiêu trừ mà sanh lên trời cõi Sắc.
Dầu có các ông Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên v,v… nhưng chẳng gọi là chân thiện tri thức của chúng sanh, vì các ông ấy là nhân duyên sanh tâm nhất-xiển đề vậy.
Này thiện nam tử! Ngày trước lúc Phật ở nước Ba-la-nại, ông Xá-lợi-phất có dạy hai đệ tử: một người tu bạch cốt quán, một người tu sổ tức quán. Trải qua nhiều năm tu tập, cả hai người đều không được chánh định bèn sanh tà kiến cho rằng không Niết-bàn vô lậu, giả sử có thời lẽ ra chúng tôi đã được, vì chúng tôi khéo trì giới, tinh tấn tu.
Phật rõ việc này bèn gọi Xá-lợi-phất mà quở rằng: Ông không khéo dạy dỗ. Sao ông thuyết pháp điên đảo cho hai đệ tử như vậy. Hai đệ tử của ông đó, căn tánh đều khác nhau: một người vốn là thợ giặt, một người vốn là thợ kim hoàn. Thợ kim hoàn nên truyền pháp sổ tức quán, người thợ giặt phải dạy bạch cốt quán. Vì ông dạy lầm nên làm cho cả hai sanh tà kiến.
Quở xong, Phật chỉ dạy cho hai người đệ tử tu quán như đã bảo với ông Xá-lợi-phất. Sau đó, hai người đều chứng quả A-la-hán. Vì thế nên Phật là chân thiện tri thức của tất cả chúng sanh.
Điều thành tựu thứ tư là gần gũi thiện hữu. Bồ-tát giáo hóa lúc nào cũng nói điều lành, không bao giờ nói điều ác.
Phật đầy đủ tư cách của thiện tri thức. Các vị đệ tử lớn như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên v,v… Phật nói chưa xứng đáng là thiện hữu tri thức. Vì các ngài còn có những sai lầm.
Phật dẫn chi tiết, ở nước Ba-la-nại, ngài Xá-lợi-phất có hai đệ tử, ngài dạy một người quán bất tịnh, một người quán số tức. Hai người đó gốc một người là thợ kim hoàn, một người là thợ giặt. Người thợ bạc dạy quán bất tịnh, người thợ giặt dạy quán sổ tức, quán hoài không kết quả. Phật biết, liền quở ngài Xá-lợi-phất, Phật dạy người thợ bạc quán sổ tức, người thợ giặt quán bất tịnh. Vì thợ bạc có ống bễ thổi phì phì, nhân đó quán hơi thở ra vô dễ thuần, mau đạt được kết quả. Người thợ giặt đồ dơ nên quán bất tịnh hợp hơn. Họ quán theo Phật dạy được kết quả. Người biết đúng bệnh mà dạy thì gọi là chân thiện tri thức. Người dạy mà chưa đúng bệnh thì chưa phải là chân thiện tri thức. Vì vậy Phật nói chỉ có Phật là chân thiện tri thức.
Giả sử có chúng sanh nào kiết sử cực trọng mà được gặp Phật, Phật liền dùng phương tiện dứt trừ được cả.
Như em Phật, ông Nan-đà, có dục vọng rất nặng, Phật dùng phương tiện khéo làm cho Nan-đà hết dục vọng.
Như gã Ương-quật-ma-la có lòng sân rất nặng, do gặp Phật mà hết sân.
Vua A-xà-thế có ngu si dày, đến ra mắt Phật liền hết ngu si.
Như trưởng giả Bà-hi-già từ vô lượng kiếp quen tập phiền não rất nặng, quy y với Phật liền sạch phiền não.
Giả sử có kẻ tệ ác hèn hạ, được gần gũi Phật làm đệ tử, thời tất cả trời người đều cung kính mến tưởng.
Ông Thi-hội-cúc-đa tà kiến rất nặng, nhân gặp Phật mà hết tà kiến.
Do gặp Phật nên tiêu tội địa ngục thành duyên sanh thiện, như gã Chiên-đà-la Khí Hứ.
Do gặp Phật, nên lúc sắp chết trở lại được sống lâu, như Thiên đế Kiều-thi-ca.
Do gặp Phật, nên hết điên cuồng, như Sấu Cù-dàm-di.
Do gặp Phật, nên bỏ nghề giết thịt, như Tỳ-kheo Xiển đề.
Do gặp Phật, nên thà chết chứ không phạm cấm giới, như các Tỳ-kheo bị trói bằng dây cỏ tươi.
Do nghĩa trên đây, nên A-nan nói nửa phần Phạm hạnh là thiện tri thức, Phật bảo là không phải. Đầy đủ Phạm hạnh mới gọi là thiện tri thức.
Đây là Bồ tát tu đại Niết-bàn trọn nên điều thứ tư là gần gũi thiện tri thức.
Phật dẫn thêm những trường hợp nhờ gặp Phật và đã được độ. Những người nào có kiết sử trọng mà được gặp Phật liền hết vì Phật khéo dùng nhiều phương tiện mà dứt trừ. Như Phật độ Nan-đà, Ương-quật-ma-la, vua A-xà-thế v.v… Đó là Phật đầy đủ phương tiện nên gặp người khó độ mấy ngài độ cũng được, vì vậy nên ngài là chân thiện tri thức. Gần được những vị như vậy là gần gũi chân thiện tri thức.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ đa văn?
Đại Bồ-tát vì đại Niết-bàn, mười hai bộ kinh mà biên chép, đọc tụng, giải thuyết, thời gọi là Bồ-tát đầy đủ đa văn.
Trừ mười một bộ kinh, chỉ thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải thuyết bộ Tỳ-phật-lược, cũng gọi là Bồ-tát đầy đủ đa văn.
Trừ cả mười hai bộ kinh, nếu có thể thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải thuyết kinh điển vi diệu đại Niết-bàn này thời gọi là Bồ-tát đầy đủ đa văn.
Không đợi thọ trì toàn bộ kinh này, chỉ thọ trì một bài kệ bốn câu, hoặc chỉ có thể thọ trì câu. “Như Lai thường trụ tánh không biến đổi”, đây gọi là Bồ-tát đầy đủ đa văn.
Không đợi như trên, hoặc chỉ biết rằng Như Lai thường không thuyết pháp, cũng gọi là Bồ-tát đầy đủ đa văn, vì pháp vốn vô tánh. Như Lai dầu giảng nói tất cả pháp nhưng thường không chỗ nói.
Đây gọi là Bồ-tát tu tập đại Niết-bàn trọn nên điều thứ năm là đầy đủ đa văn.
Đại Bồ-tát vì đại Niết-bàn, mười hai bộ kinh mà biên chép, đọc tụng, giải thuyết, thời gọi là Bồ-tát đầy đủ da văn.
Phật chia ra từng lớp mà nói. Lớp thứ nhất; nghĩa là hàng Bồ-tát vì cầu quả Niết-bàn nên đối với mười hai bộ kinh biên chép, học tập, giải thuyết, đó là đa văn.
Lớp thứ hai; nếu không biên hết mười hai bộ, mà chỉ bộ Tỳ-phật-lược, Phật cũng gọi là đầy đủ đa văn. Lớp thứ ba; chỉ biên riêng bộ Đại Niết-bàn, Phật cũng gọi là đầy đủ đa văn. Lớp thứ tư; chỉ cần nhớ một câu Như Lai thường trụ tánh không biến đổi là thành đa văn rồi. Lại thêm một lớp nữa; không đợi như trên, chỉ biết Như Lai thường không thuyết pháp, cũng gọi là Bồ-tát đầy đủ đa văn, vì pháp vốn vô tánh. Như Lai dầu giảng nói tất cả pháp nhưng thường không chỗ nói.
Như vậy Phật đi từ rộng lần lần tới hẹp. Rộng là mười hai bộ kinh, lần lần chỉ cần có một câu Như Lai thường trụ tánh không biến đổi. Chúng ta thừa nhận Phật là bất sanh bất diệt không biến đổi, thừa nhận pháp thân của chư Phật, thừa nhận Phật tánh, như vậy gọi là đa văn. Nhưng lớp cuối, chỉ biết Như Lai không thuyết pháp, cũng gọi là Bồ-tát đầy đủ đa văn thì hơi khó hiểu. Đây là sống đúng với tinh thần Bát-nhã. Tại sao không thuyết pháp? Vì pháp vốn vô tánh. Đã là vô tánh thì có gì để nói, nhưng có nói không? Bát-nhã là nhìn thấy tất cả các pháp vô tánh, không có pháp nào thật có tự tánh. Bởi không có tự tánh nên Phật nói mà không nói. Như vậy sống đúng với trí tuệ Bát-nhã cũng gọi là đa văn.
Kinh Đại Niết-bàn lúc nào cũng nêu cao hai trường hợp này, Trường hợp thứ nhất là nêu cao tánh thường trụ của Như Lai, của đại Niết-bàn, của Phật tánh. Trường hợp thứ hai là phải dùng trí tuệ Bát-nhã xét thấy tất cả các pháp không có tự tánh. Phật nói chỉ cần nhớ một câu như vậy cũng gọi là đa văn rồi.
Chủ trương của thiền tông là kiến tánh thành Phật, thấy được Phật tánh gọi là kiến tánh. Nếu thấy được Phật tánh thì biết Như Lai thường trụ tánh không biến đổi. Chỉ cần thấy tánh thì người đó có thể tiến lên được thành Phật. Trường hợp thứ hai là thấy tất cả các pháp vô tánh, không có một pháp thật, gọi đó là cửa Không. Cửa Không là không có một pháp nào thật có tự tánh nên nói là không. Người tu thiền bước đầu là nhận được lý không, nhận điều này thì Phật tánh dễ hiển bày. Do đó mà tổ Huệ Năng ngộ được lý không, ngài liền được truyền y bát.
Này thiện nam tử! Nếu có nam tử cùng nữ nhân nào vì đại Niết-bàn mà trọn nên năm điều như trên thời làm được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn, thí được việc khó thí.
Thế nào Bồ-tát làm được việc khó làm?
Nếu nghe có người mỗi ngày ăn một hột mè mà được thành vô thượng Bồ-đề, vì tin theo đây, Bồ-tát có thể trong vô lượng vô số kiếp, mỗi ngày thường ăn một hột mè.
Nếu nghe rằng vào lửa mà được thành vô thượng Bồ-đề, Bồ-tát có thể trong vô lượng kiếp vào trong lửa dữ ở ngục A-tỳ.
Thế nào là Bồ-tát nhẫn được việc khó nhẫn
Nếu nghe rằng chịu những đau khổ: tay đánh, gậy đập, đá ném, dao chém mà được đại Niết-bàn, Bồ-tát có thể chịu đủ tất cả sự khổ ấy trong vô lượng kiếp mà không thấy là đau khổ.
Thế nào là Bồ-tát thí được việc khó thí? Nếu nghe rằng đem vợ con, nhà nước, đầu mắt tủy não bố thí cho người thời được thành vô thượng Bồ-đề, Bồ-tát liền ở trong vô lượng vô số kiếp đem những thứ ấy bố thí cho người, không một niệm hối tiếc.
Năm điều ở trên nhắc lại cho nhớ, tức là: tín tâm, trực tâm, trì giới, gần gũi thiện tri thức, đa văn. Người nào đầy đủ năm điều này thì sẽ làm được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn, thí được điều khó thí. Vì người đầy đủ niềm tin, có tâm chất trực, người biết gìn giữ giới luật, biết gần gũi thiện tri thức, đa văn, thì người đó không còn nghi ngờ sợ sệt.
Vì đạo Bồ-đề dù khổ cách mấy nhọc cách mấy, nguy hiểm cách mấy người ta cũng không từ nan, sẵn sàng liều chết để được đạo, nên nói rằng hay làm được việc khó làm. Đây là những ví dụ nói lên chuyện khó, để biết Bồ-tát sẵn sàng chịu những nguy hiểm để đạt được vô thượng Bồ-đề, Trường hợp thứ hai là Bồ-tát nhẫn được việc khó nhẫn. Nhẫn được việc khó nhẫn là nhẫn cái gì? Ví dụ bị đánh bằng tay, đập bằng gậy, bị ném đá, bị dao chém mà được đại Niết-bàn, Bồ-tát cũng có thể chịu đủ tất cả sự khổ ấy trong vô lượng kiếp mà không thấy đau khổ, Bồ-tát vì đại Niết-bàn sẵn sàng chịu chứ không có thấy đau khổ. Tại sao các ngài gan dạ quá vậy? Vì bỏ bọt nước để được biển cả thì hy sinh bọt nước đâu có gì quan trọng. Nếu thấy bọt nước là biển cả thì không bao giờ dám hy sinh. Đó gọi là thí những việc khó thí.
Người đời có gì quyến luyến bằng vợ con, nhà cửa, đầu mắt tủy não, thế mà Bồ-tát thí những cái đó một cách không hối tiếc.
Bồ-tát dầu làm, dầu nhẫn, dầu bố thí như vậy, song trọn không có quan niệm rằng tôi làm, tôi nhẫn, tôi bố thí,
Ví như cha mẹ chỉ có một con trai, rất mến yêu con, cho con ăn ngon, mặc đẹp. Nếu bị con khinh khi mắng hỗn, cha mẹ cũng không hờn giận, cũng chẳng nghĩ công nuôi dưỡng.
Cũng vậy, Bồ-tát xem chúng sanh như con một.
Nếu con phải bệnh, thời cha mẹ cũng bệnh, lo tìm thầy chạy thuốc; khi con đã được lành mạnh, cha mẹ cũng chẳng nghĩ rằng ta lo chạy chữa cho con.
Cũng vậy, Bồ-tát thấy chúng sanh bị mắc bệnh phiền não, thương xót đem chánh pháp dạy cho. Nhờ nghe chánh pháp mà chúng sanh dứt được phiền não. Bồ-tát trọn không nghĩ rằng ta làm cho chúng sanh hết phiền não. Nếu có quan niệm chúng sanh được độ thời không thể thành vô thượng Bồ-đề. Chỉ có quan niệm rằng không có một chúng sanh nào được nghe ta thuyết pháp mà dứt phiền não.
Tuy làm, tuy nhẫn, tuy bố thí mà vẫn không có quan niệm tôi làm, tôi nhẫn, tôi bố thí. Bởi vì Bồ-tát không thật thấy có mình, có người, có vật thì cứ làm tất cả mà không thấy mình làm, người kia là kẻ bị mình làm, vật nọ là vật của mình đang làm v.v…
Bồ-tát vì vô thượng Bồ-đề mà quên tất cả khó khổ nguy hiểm. Cũng như vì người con được cha mẹ cưng quá, cha mẹ cũng quên tất cả những chuyện cực khổ vì con, quên tất cả những chuyện hỗn mắng cha mẹ của con, mà chỉ một bề lo nuôi dưỡng con mà không nhớ công.
Chính điều này phù hợp với kinh Kim Cang là độ chúng sanh mà không thấy chúng sanh được độ. Vì Bồ-tát không bao giờ quên trí Bát-nhã nên không chấp năng độ sở độ, do đó Bồ-tát mới thành vô thượng Bồ-đề, nếu thấy mình là người hay độ, chúng sanh được độ thì phiền não không bao giờ hết. Bồ-tát chỉ có quan niệm rằng “không có chúng sanh nào được nghe ta thuyết pháp” mà dứt phiền não.
Bồ-tát đối với chúng sanh không có lòng sân hận, không có lòng hỷ lạc, vì Bồ-tát khéo tu tập Không tam-muội. Nếu là tu tập Không tam muội, thời Bồ-tát còn sanh sân, sanh hỷ đối với ai?
Ví như cụm rừng kia bị người chặt đốn, bị lửa cháy, bị nước ngập, cụm rừng sẽ sanh sân hỷ với ai? Cũng vậy, đối với chúng sanh Bồ-tát không có lòng sân hỷ, vì đã khéo tu tập Không tam-muội vậy.”
Không tam-muội tức là ở hai mươi lăm cõi đều thấy không thật. Không có tự tánh thì cõi không thật, người cũng không thật. Bồ-tát dùng trí tuệ Bát-nhã thấy thân này do năm uẩn v.v… hợp thành, chẳng khác nào như nhiều cây hợp thành cụm rừng, vô chủ, không có thật. Như rừng bị đốn, bị cháy, bị ngập không sanh sân hỷ với ai, Bồ-tát có bị chúng sanh bức hại cũng không sanh sân sanh hỷ.
Không tam-muội tức là tam-muội quán tất cả tướng không có tự tánh. Người nào thường dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu thân mình thì biết ngay năm uẩn không thật, hợp lại thì có, ly tán thì không. Mỗi uẩn riêng rẽ chứ đâu có thật. Như nhiều cây hợp lại thì nói là vườn là rừng, nếu chặt hết cây thì vườn cũng không mà rừng cũng không. Vườn rừng chỉ là sự giả hợp của duyên mà thôi. Chúng ta dùng Không tam-muội quán chiếu thì thấy tất cả pháp cũng vậy, còn gì mà sân mà hỷ. Sở dĩ sân hay hỷ là khi cho người khinh mình, người khen mình. Nếu không thấy mình thật, không thấy người thật thì sanh sân sanh hỷ với ai.
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát bạch Phật:“Thế Tôn! Tất cả các pháp là tánh nó tự không, hay là vì chẳng không nên không?
Nếu tánh nó tự không thời chẳng nên tu không rồi sau mới thấy được không. Tại sao đức Như Lai nói do tu không mà được thấy không?
Nếu tánh nó tự chẳng không, thời dầu có tu không, cũng chẳng thể làm cho nó thành không?”
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát hỏi tánh của các pháp tự không nên mình thấy nó là không hay là mình quán rồi nó biến thành không. Cũng như cỏ mọc mình nhổ hết gọi là không hay là chỗ đó không có cỏ mà nói là không. Ngài còn gạn thêm: Không thì cần gì phải tu! Dù mình tu hay không cũng biết là không, đợi gì phải tu, sao Như Lai nói do tu mà thấy không? Nếu nó đã có dù mình tu không nó cũng thành có.
Phật bảo: “Này thiện nam tử! Tất cả các pháp tánh của nó tự không, vì tánh của tất cả pháp vốn là bất khả đắc vậy.
Như sắc tánh bất khả đắc. Thế nào là sắc tánh? Xét nơi sắc, chẳng phải là địa, thủy, hỏa, phong, cũng chẳng rời ngoài địa, thủy, hỏa, phong; chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng chẳng rời ngoài xanh, vàng, đỏ, trắng; chẳng phải có, chẳng phải không, đâu có thể nói là sắc có tự tánh. Vì tánh bất khả đắc nên gọi là không.
Tất cả pháp khác cũng như vậy.
Đó là câu trả lời duy nhất. Tất cả các pháp tánh của nó tự không, Như cây viết này chúng ta thấy là có, nhưng nếu đem mở ra từng phần vỏ, quai, ruột, mỗi cái mỗi nơi thì cây viết không có. Như vậy cây viết không có tánh quyết định, đủ các phần hợp lại thì gọi là cây viết, nếu các phần rời ra thì đâu thành cây viết nữa. Nếu nó tự có tánh quyết định thì không lúc nào không là cây viết. Như vậy rõ ràng cây viết không có tự tánh, chỉ do duyên hợp giả có hình tướng, người ta đặt tên là cây viết. Nếu dùng mắt trí tuệ phân tích, chúng ta mới thấy nó không có tánh thật. Tánh của tất cả pháp tánh, tự không, là bất khả đắc.
Tại sao chúng ta cần phải tu? Vì chúng ta luôn thấy cây viết là thật có, khi nó hư hay mất thì buồn, phiền não theo. Nếu quán kỹ biết tánh nó là không, duyên hợp tạm có, là huyễn thì không phiễn não. Chúng ta luôn nhớ thì mới có tác dụng, nếu quên thì thấy thật như cũ. Tu là huân tập, xông ướp. Chúng ta muốn dùng trí tuệ Bát-nhã huân vào đầu mình thì cứ phân tích nó mãi, năm này tháng kia sẽ có trí tuệ ấy.
Nghe một bài thơ thật hay, nhưng nghe qua thôi thì không tài nào nhớ được. Nếu mình thích, biên ra đọc tới đọc lui. Đọc chừng năm lần mười lần, hai chục lần nếu chậm lắm một trăm lần thì tự nhiên bài thơ thành của mình. Nếu một trăm lần đó mình còn nghi ngờ nữa thì mai về đọc thêm một trăm lần nữa. Bài thơ mình viết có thể quăng vô sọt rác, nhưng hỏi tới mình ứng khẩu đọc được liền. Cũng vậy, trí Bát-nhã Phật Bồ-tát dùng, nói mãi như vậy nên thấy được các pháp không tự tánh. Nếu mình biết bắt chước theo cái hạnh Phật Bồ-tát mình cũng quán như vậy lâu ngày mình cũng thấy được. Đó là tu. Tụng kinh cũng là huân lời của Phật Bồ-tát để cho tâm mình thuần. Lỗi là mình tụng kinh mà mình không biết Phật nói gì, chỉ tụng như để cầu phước, điều đó nặng về tín ngưỡng, chứ nếu đọc tới đâu mình thông được tới đó thì tốt quá. Còn nếu không đọc kinh mà chúng ta cứ dùng những phương pháp Phật dạy mình tu, quán tới quán lui, huân hoài cho thuần thành cái của mình thì chúng ta sẽ có trí ngang với các vị Bồ-tát.
Lại như học trò mới đi học với thầy giáo, tưởng tượng biết bao giờ mình mới bằng thầy. Thầy trò coi như cách nhau như trời với đất. Nhưng nếu muốn trở thành thầy giáo thì trò phải làm sao? Phải chăm học. Thầy giáo trước phải trải qua bảy năm hay là mười hai năm học hành thì bây giờ trò nếu năm nào cũng tiến, bài nào cũng thuộc thì đúng thời gian cũng sẽ bằng thầy giáo. Muốn thành thầy giáo thì không có cách nào khác hơn là phải học những gì mà thầy giáo đã làm đã học. Có trình độ bằng thầy giáo thì lúc đó ngang nhiên thành thầy giáo, đâu có cách nào khác hơn nữa.
Người tu cũng vậy, khi nào trình độ mình ngang bằng Phật, Bồ-tát thì mình thành Phật, Bồ-tát. Mà Bồ-tát, Phật làm gì? Bồ-tát chỉ thấy như vậy, quán như vậy đó thì thành Bồ-tát. Mình cũng tập như vậy, quán như vậy, thấy như vậy thì lâu ngày mình thành Bồ-tát. Đó là lối tu thiết thực vô cùng chứ đâu có gì mờ ám hay khó hiểu. Nhưng mà tại mình lỳ, nghe rồi mình không chịu huân, không chịu nhắc nên mình quên rồi lâu ngày cũng trở lại phàm tình.
Đây Phật giảng thêm, sắc là chỉ cho hình hài của chúng ta, là sắc chất, Phật thường nói hình hài của chúng ta do đất, nước, gió, lửa kết hợp mà thành. Nếu hỏi hình hài này là đất phải không? Không phải. Hỏi, nó có phải là nước không? Không phải. Gió cũng không phải, lửa cũng không phải. Chỉ thẳng nó là từng cái một thì không đúng, nhưng nó cũng không rời đất nước gió lửa. Nó không thuộc về cái nào, nếu thuộc về một cái thì nó có tánh của cái đó, nó không thuộc về cái nào tất nhiên nó không có tánh, nên mới nói nó là không thể được, là không.
Sắc thuộc về màu gì? Xanh, vàng, đỏ, trắng đều không phải mà nó cũng không rời sắc xanh, vàng, đỏ, trắng. Ví dụ như mình da thì vàng, thịt thì đỏ, mỡ trắng, tóc đen… Không cố định một màu nào, không cố định một đại nào trong bốn đại nên nói rằng nó không có tánh quyết định. Vì không có tánh quyết định nên gọi là không tự tánh, bởi không tự tánh nên gọi là không. Đó là lẽ thật mà tại mình không thường xét nên không biết.
Nhìn mọi vật khác cũng như vậy, không cái nào cố định. Như cái cây do cái gì mà thành? Người ta nói do cái hột mà thành. Nghe như trúng mà đâu có trúng thật. Nếu cái hột mình bỏ trong hộp làm sao nó lên thành cây được. Hột phải có đất, đất phải có nước v.v… Như vậy mình nói quyết định từ cái hột mà lên là sai, không đúng chân lý. Phải biết tất cả các pháp không có tự tánh.
Bởi tương tợ tương tục nên phàm phu theo kiến thức của mình mà cho là các pháp tánh chẳng không tịch. Còn đại Bồ-tát nhờ đầy đủ năm công hạnh nên thấy tất cả pháp, tánh vốn không tịch.
Tương tợ tức là có hình dáng giống nhau. Tương tục tức là tiếp nối trong một thời gian bao nhiêu. Như cây viết có thể dùng năm mười năm nữa, thời gian đó luôn luôn có sự thay đổi tương tục trong đó, chứ không phải là nguyên vẹn như cũ, nó tương tự thôi nhưng tại mắt phàm mình không thấy sự sanh diệt của nó. Thân mình sống tới năm năm mười năm, năm chục năm hay bảy chục năm chẳng hạn, trong thời gian đó, nó tương tự và tương tục.
Bởi có cái tương tợ tương tục mà người ta nói mình thật, nói sự vật thật nhưng không ngờ chính thân đó nó không có tánh thật, mà do sự hợp của các duyên có hình tướng tương tự và trong đó nó từng phút giây sanh diệt tiếp nối luôn luôn, gọi là tương tục. Chỉ có cái tương tự và tương tục chứ không có cái thật nguyên vẹn thủy chung duy nhất; không có tự tánh. Nếu có tự tánh thì thủy chung, duy nhất. Không tự tánh nên nó chỉ là một giả tướng tương tự tương tục, nên nói tánh nó là không, là lặng lẽ. Tuy hiện thật có mà không thật có.
Bồ-tát có đủ năm công hạnh ở trước nên thấy tất cả các pháp nó là không tịch.
Này thiện nam tử! Nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào thấy tất cả pháp, tánh chẳng không, phải biết rằng người đó không phải là Sa-môn, Bà-la-môn, người đó không tu tập Bát-nhã ba-la-mật, chẳng được vào dại Niết-bàn, chẳng được hiện tiền thấy Phật, Bồ-tát; người đó là quyến thuộc của ma.
Này thiện nam tử! Tất cả các pháp, tánh nó vốn tự không, cũng do Bồ-tát tu tập không mà thấy các pháp là không.
Này thiện nam tử! Như tất cả pháp vì tánh nó vô thường nên diệt có thể diệt dược. Nếu chẳng phải là vô thường thời diệt chẳng thể diệt được.
Pháp hữu vi, vì có sanh tướng nên sanh có thể sanh nó, vì có diệt tướng nên diệt có thể diệt nó. Các pháp vì có tướng khổ nên khổ có thể làm cho khổ.
Phật nhấn mạnh, người không dùng trí tuệ Bát-nhã để quán chiếu các pháp không tự tánh, thì dù có cạo đầu xuất gia cũng không phải là Sa-môn, dù cho tu hành ở trong chùa của Bà-la-môn cũng không phải là Bà-la-môn, mà là bè lũ của ma chứ không phải đệ tử của Phật. Cho nên là đệ tử của Phật thì phải quán chiếu các pháp tánh không thật, không có tự tánh.
Các pháp tánh vốn tự không, nhưng nếu mình không quán không chiếu thì không biết nó là không, cho nên cũng phải do tu tập. Tự tánh là không là một, mà cũng phải do tu tập là hai, hai pháp gộp lại mới thấy được.
Tánh nóng tánh giận của mình nó là vô thường, vì vô thường nên nếu mình áp dụng pháp từ bi quán thì diệt nó được, nếu nó là thường thì không diệt được.
Các pháp hữu vi là các pháp do tạo tác có hình có tướng; hay nói cách khác, pháp nào, sự vật nào có hình tướng, có động tác đều là hữu vi. Như cái bàn, cái tủ mình thấy có hình tướng đều là hữu vi; cái tâm suy nghĩ của mình không có hình tướng nhưng có động tác thì cũng thuộc hữu vi. Cho nên những cái đó mình phải định nghĩa cho thật rõ, có hình tướng, có động tác đều thuộc về hữu vi. Ví dụ cái bàn, khi người ta đóng thành thì gọi là sanh. Như tâm niệm mình bởi có động tác cho nên khi nó dấy lên gọi là sanh, khi nó chìm xuống gọi là diệt. Bởi nó có hình tướng, có động tác nên nó có sanh, vì có sanh nên có diệt, cho nên nói vì có sanh tướng nên sanh có thể sanh nó, vì có diệt tướng nên diệt có thể diệt nó. Bởi vì nó có tướng sanh cho nên hợp đủ thì nó sanh, vì nó có tướng diệt cho nên mình dùng cái duyên ngược lại thì nó diệt. Như cái bàn này, có thợ mộc, có đủ vật liệu, đóng thì thành cái bàn, đó gọi là tướng sanh cái bàn. Nếu mình đem búa đập nó bể nát ra thì hết thành cái bàn; hoặc nếu mình nhóm lửa đốt cháy tiêu, hết thành cái bàn. Bởi pháp hữu vi thì có tướng sanh và tướng diệt, nên đủ duyên thì sanh, ngược lại thì diệt.
Các pháp vì có tướng khổ nên khổ có thể làm cho khổ. Vì các pháp nó đã có tính sanh diệt, vô thường đến thì cảm thấy rất là đau khổ, nên nói khổ làm cho khổ.
Như tánh muối là mặn nên có thể ướp mặn vật khác. Vì tánh mật là ngọt nên có thể ướp ngọt vật khác. Vì tánh giấm là chua nên có thể ướp chua vật khác. Vì tánh gừng là cay nên có thể ướp cay vật khác. Vì A-lê-lặc đắng nên có thể ướp đắng vật khác. Vì trái am-la lạt nên có thể ướp lạt vật khác. Tánh chất độc có thể làm hại, nên ướp vật khác thành độc có thể làm hại. Tánh cam lộ làm cho người không chết, nếu đem hiệp với vật khác cũng có thể thành vị bất tử.
Bồ-tát tu không cũng như vậy. Vì tu không nên thấy tất cả pháp, tánh của nó đều không tịch.”
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát lại bạch: “Thế Tôn! Nếu như muối có thể làm cho vật không phải mặn thành ra mặn. Tu Không tam-muội cũng như vậy, thời chánh định này không lành, không diệu, tánh cách điên đảo. Nếu Không tam-muội chỉ thấy không, không là không có pháp thời là thấy những gì?”
Phật bảo: “Này thiện nam tử! Không tam-muội này thấy nơi pháp chẳng phải không, mà có thể làm thành không tịch, nhưng vẫn chẳng phải là điên đảo. Như muối làm vật không mặn thành mặn. Cũng vậy, Không tam-muội làm pháp chẳng không thành không.
Này thiện nam tử! Tham là tánh có chẳng phải tánh không. Nếu tham là tánh không thời lẽ ra chúng sanh chẳng vì tham mà phải đọa địa ngục. Nếu bị đọa địa ngục, thời tham tánh đâu phải là Không!
Đức Phật nêu lên những vật có tánh mặn, ngọt, chua, cay, đắng, lạt có thể ướp vào các vật khác làm chúng cũng mặn, ngọt, chua, cay… Bồ-tát tu không cũng thế, thấy các pháp đều không tịch.
Bồ-tát Cao Quý Đức Vương không bằng lòng, cho rằng tu không như thế là không lành, không diệu, tánh cách điên đảo. Tại sao? Ví dụ như cây viết này nó có, nhưng tôi quán một hồi nó biến thành không. Như vậy có nghĩa là đổi ngược nó rồi, làm trái với sự thật. Cũng như một vật không mặn nhưng ướp riết nó trở thành mặn như vậy là mình làm đổi ngược cái sự thật của nó rồi, Cho nên mới nói là có tánh cách điên đảo, như vậy là không lành. Các vị Bồ-tát tùy theo nhận định của mình cho cái gì sai, cái gì đúng thì hỏi thẳng chứ không sợ,
Phật giải thích tánh mà đức Phật nói ở trường hợp như muối. Trước Phật nói tất cả pháp tự tánh là không Ở trước đức Phật nói tham là không có tánh, nếu có tánh thì không thể nào hết tham. Tại sao đức Phật lại nói
tham có tánh, không có tánh sao đọa địa ngục? Phật nói tánh theo đệ nhất nghĩa là chỉ cho cái chân thật, bất di bất dịch như Phật tánh. Nói các pháp không tánh, đó là nói về đệ nhất nghĩa. Còn nói tánh tham v.v… mà đọa địa ngục, tánh đó là nói theo thế tục đế hay là thế đế. Về đệ nhất nghĩa đế thì nói tất cả pháp không tánh, để các Bồ-tát quán chiếu đúng sự thật. Về thế đế, phàm phu họ nói có tánh này, có tánh kia, nên ngài nói có theo để mà giải bày, dạy dỗ họ. Nói như vậy gọi là tùy thuận theo thế đế mà nói. Thành thử khi mình đọc nếu không nhận ra sẽ thấy lộn xộn, rối đầu, không hiểu Phật nói cái gì, cái nào là chân lý.
Này thiện nam tử! Sắc tánh là có. Gì là sắc tánh? Chính là điên đảo. Do điên đảo nên chúng sanh tham đắm. Nếu sắc tánh chẳng phải điên đảo thời đâu có thể làm cho chúng sanh tham đắm! Vì sanh tham nên biết rằng sắc tánh chẳng phải là không có. Do cớ trên đây nên tu Không tam-muội chẳng phải là điên đảo vậy.
Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu nếu thấy người nữ liền sanh tướng nữ.
Bồ-tát thời không như vậy, dầu thấy người nữ nhưng không sanh tướng nữ, vì không sanh tướng nữ nên không sanh tham; tham không sanh chẳng phải là điên đảo vậy.
Tại vì người ta thấy có nên sanh điên đảo, bây giờ quán không là hết điên đảo. Đó là đức Phật nói cái có của phàm phu, phàm phu thấy sắc tánh là có nên sanh tham đắm điên đảo, còn Bồ-tát thì ngược lại quán sắc tánh là không nên hết tham đắm điên đảo. Như vậy có nghĩa quán không là không điên đảo.
Phàm phu nhìn theo giả tướng bên ngoài, cho nên phân biệt tướng nam tướng nữ và cho đó là thật nên sanh ra điên đảo. Còn Bồ-tát thì không phải vậy, các ngài nhìn thấy mỗi người đều do duyên hợp, là tứ đại, ngũ uẩn. Mà nếu đều là tứ đại ngũ uẩn thì có nói nam, nữ được không? Biết rõ tất cả chúng sanh duyên hợp như huyễn, tự tánh là không, cho nên không có nam nữ gì hết.
Vì người đời thấy có tướng người nữ, nên Bồ-tát tùy thuận nói có người nữ. Nếu lúc thấy người nam mà nói là nữ, thời là điên đảo.
Do đây nên Phật bảo Xà-đề rằng:Này Bà-la-môn Nếu cho ngày là đêm, thời là điên đảo. Cho đêm là ngày cũng là điên đảo.
Này thiện nam tử! Tất cả Bồ-tát trụ bậc Cửu địa thấy pháp có tánh, do đây nên không thấy Phật tánh, nếu đã thấy Phật tánh thời chẳng còn thấy tánh tất cả pháp. Do tu tập Không tam-muội nên chẳng thấy pháp tánh. Vì không thấy pháp tánh nên thấy Phật tánh.
Chư Phật và Bồ tát có hai thuyết: một là có tánh, hai là không tánh.
Vì chúng sanh nên nói có pháp tánh, vì các bậc hiền thánh nên nói không pháp tánh.
Vì người đời thấy có tướng người nữ nên Bồ-tát tùy thuận nói có người nữ, chứ sự thật các ngài không thấy như vậy.
Phật chỉ thật là tường tận. Người nào thấy pháp có tánh thật, người đó không thấy Phật tánh. Nếu thấy các pháp có tánh thật, thân thật, sự vật thật, cái gì cũng thật hết thì sẽ nhiễm đắm, mà nhiễm đắm tức là vô minh, vô minh che đậy thì làm sao thấy Phật tánh được. Người nào thấy các pháp không có tánh thật, người đó dễ thấy Phật tánh. Thấy thân không thật, sự vật không thật, nên mình không đắm không nhiễm phiền não theo đó mà nhẹ, phiền não nhẹ cũng giống như mây trống thì trăng hiện, cho nên thấy Phật tánh. Đó là trường hợp thứ nhất.
Trường hợp thứ hai, khi nhận ra được Phật tánh bất sanh bất diệt lúc nào cũng hiện có nơi mình, không hình tướng, không động tác mà không phải là không. Nghĩa là chúng ta thấy được cái thật thì tất cả các pháp có hình tướng, có động tác tự nhiên mình biết nó không thật. Người tu khi nhận được có Phật tánh thì thấy các pháp như hoa đốm giữa hư không, không thật. Và con mắt đó chính là con mắt mà các vị Bồ-tát thường nói, các vị thiền sư thuở xưa cũng vậy, các ngài lúc nào luôn luôn mở miệng cũng nói tam giới không thật, như huyễn như hóa.
Chư Phật và Bồ-tát có hai thuyết: một là có tánh, hai là không tánh. Vậy khi Phật nói có là vì theo chúng sanh mà gọi, đó là thế đế; còn khi vì hàng Bồ-tát thì nói là không, tức là để chỉ thẳng cái đệ nhất nghĩa đế.
Vì muốn người không thấy được pháp không, nên tu Không tam-muội khiến thấy được không. Người không thấy pháp tánh cũng do tu không nên không. Do nghĩa này nên tu không thời thấy được không.
Này thiện nam tử. Ông gạn rằng: Người thấy không đó, không là không có pháp thời thấy những gì? Này thiện nam tử! Đúng như vậy, đại Bồ-tát thật không chỗ thấy, không chỗ thấy chính là không chỗ có, không chỗ có chính là tất cả pháp.
Vì những người mà hồi đó giờ chưa thấy được tự tánh các pháp là không, nên dạy họ tu tam-muội, tức là quán không để khiến cho họ thấy được không. Tức là người mà không thấy được tánh của các pháp là không cũng do tu quán không mà thấy được là không.
Bồ-tát thật không chỗ thấy, không chỗ thấy chính là không chỗ có, không chỗ có chính là tất cả pháp.
Đại Bồ-tát tu đại Niết-bàn nơi tất cả pháp đều không chỗ thấy. Nếu có chỗ thấy thời không thấy Phật tánh, không thể tu tập Bát-nhã ba-la-mật, Chẳng được vào nơi đại Niết-bàn. Vì thế nên Bồ-tát thấy tất cả pháp, tánh vô sở đắc.
Này thiện nam tử! Bồ-tát chẳng những nhân tu tam-muội mà thấy không, Bát-nhã ba-la-mật cũng không, Thiền ba-la-mật cũng không, Tỳ-lê-gia ba-la-mật cũng không, Sằn-đề ba-la-mật cũng không, Thi-la ba-la-mật cũng không, Đàn ba-la-mật cũng không, sắc cũng không, nhãn cũng không, thức cũng không, Như Lai cũng không, đại Niết-bàn cũng không. Vì thế nên Bồ-tát thấy tất cả pháp đều là không.
Như vậy chúng ta càng hiểu thêm Bát-nhã. Bát nhã nói các pháp không có thật, bởi không thật cho nên không có sở đắc, bởi không có sở đắc cho nên mới được Niết-bàn. Còn thấy sở đắc là còn thấy các pháp thật, thì còn mê muội, sao được Niết-bàn? Vì vậy trong kinh Bát-nhã nói vì không có sở đắc nên Bồ-tát y Bát-nhã mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Các pháp thế gian, Bồ-tát thấy nó là không, không thật, còn các pháp xuất thế gian các ngài thấy nó là thật hay không? Lục độ tức là trí tuệ, thiền định, tỳ-lê-gia là tinh tấn, sằn-đề là nhẫn nhục, thị-la là trì giới, đàn là bố thí, cũng là không. Như vậy lục độ thấy cũng không thật, Cho tới Như Lai, đại Niết-bàn v.v… cũng không thật. Bởi vì đối với pháp thế gian, mà lập ra pháp xuất thế gian. Đó là pháp đối đãi. Mà thấy pháp thế gian không tự tánh thì pháp xuất thế gian cũng không thật. Miễn còn cái danh từ lập ra đều là không thật. Tới chỗ cứu cánh tuyệt đối là không ngôn ngữ không văn tự, không còn có một hình tướng sanh diệt nữa. Vì thế Bồ-tát thấy tất cả pháp đều là không.
Do đây nên lúc ở thành Ca-tỳ-la, Phật bảo A-nan: “Ông chớ sầu não khóc lóc!” A-nan bạch: “Thế Tôn! Nay quyến thuộc của tôi đều bị giết chết cả, làm sao tôi không sầu não khóc lóc được! Như Lai cùng tôi đồng sanh trưởng tại thành này, đồng là thân thích của giòng Thích-ca, tại sao chỉ riêng có Như Lai là không sầu não, dung nhan lại tươi sáng như vậy?” “Này A-nan! Ông thấy thành Ca-tỳ-la là có thật, còn Phật thời thấy là không tịch trọn không chỗ có. Ông thấy giòng Thích-ca là thân thích, còn Phật vì tu không nên đều không chỗ thấy. Vì thế nên ông sanh lòng sầu khổ, còn dung nhan của Phật càng thêm tươi sáng.”
Này thiện nam tử! Vì chư Phật và Bồ-tát tu tập Không tam-muội như vậy nên chẳng sanh sâu não.
Đây gọi là Bồ-tát tu tập kinh Đại Niết-bàn, thành tựu đầy đủ phần công đức thứ chín.
Câu chuyện nguyên thế này: Vua Lưu Ly cũng là Phật tử, khi ông dẫn binh đánh giòng họ Thích ở thành Ca-tỳ-la-vệ, Phật đón đường khuyên, ông rút về. Được vài ngày, bá quan thúc giục, ông lại kéo quân đi lần nữa. Phật cũng đón đường khuyên ông lần thứ hai, ông cũng rút về. Đến lần thứ ba, Phật biết rằng định nghiệp của giòng họ Thích không thể chuyển, cho nên Phật không đón đường nữa, và giòng họ Thích bị vua Lưu Ly giết sạch. Ngài A-nan khổ não khóc lóc, vì vậy Phật mới khuyên ngài A-nan đừng có sầu não khóc lóc. Khi đó ngài A-nan mới bạch Phật:
Nay quyến thuộc của tôi đều bị giết chết cả, làm sao tôi không sầu não khóc lóc được! Như Lai cùng tôi đồng sanh trưởng tại thành này, đồng là thân thích của giòng Thích-ca, tại sao chỉ riêng có Như Lai là không sầu não, dung nhan lại tươi sáng như vậy?
Lời này là lời khen hay lời trách? Ngài thấy quyến thuộc bị giết, ngài đau khổ quá, trong khi Phật cũng là con của giòng họ Thích sao lại không có vẻ buồn mà lại tươi tỉnh như thường? Khi ấy Phật mới bảo A-nan, bởi vì Phật thấy không thật, nên Phật không có đau buồn, còn ngài A-nan vì thấy có thật nên ngài đau buồn.
Như vậy, đau khổ có, khi chúng ta thấy các pháp là thật; đau khổ sẽ hết khi mình thấy các pháp không thật.
Người tu muốn hết đau khổ thì không thể thiếu trí tuệ Bát-nhã được, nếu thiếu trí tuệ Bát-nhã thì dầu tu nghìn năm cũng vẫn còn khổ. Nếu quán thật kỹ các pháp không thật thì còn mất chỉ là trò chơi thôi. Đó là trí tuệ Bát-nhã, có công dụng rất lớn lao trong sự tu hành giải thoát đau khổ.
Này thiện nam tử! Thế nào là Bồ-tát tu tập kinh Đại Niết-bàn, thành tựu đầy đủ phần công đức thứ mười rốt sau cả?
Bồ-tát tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo vào đại Niết-bàn thường, lạc, ngã, tịnh. Vì các chúng sanh phân biệt giải thuyết kinh Đại Niết-bàn hiển thị Phật tánh,
Nếu Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật, Bồ-tát tin lời trên đây thời đều được vào đại Niết-bàn. Nếu người không tin thời luân hồi sanh tử.”
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn! Những chúng sanh nào ở trong kinh này chẳng sanh lòng cung kính?”
Phật bảo: “Này thiện nam tử! Sau khi ta nhập Niết-bàn có hàng Thanh văn đệ tử ngu si phá giới ưa sanh sự đấu tranh, bỏ mười hai bộ kinh, mà đi đọc tụng văn kệ sách vở của ngoại đạo, nhận chứa tất cả vật bất tịnh, nói rằng Phật cho phép. Những người ngu si này đem chiên-đàn tốt đổi lấy gỗ tạp, đem vàng đổi lấy thau, đem bạc đổi lấy nhôm, hàng lụa đổi lấy bố gai, đem vị cam lộ đổi lấy chất độc.
Thế nào là chiên-đàn đổi lấy gỗ tạp?
Như các đệ tử vì cúng dường mà thuyết kinh pháp cho hàng bạch y. Hàng bạch y phóng dật không thích nghe pháp. Bạch y ngồi cao, Tỳ-kheo ngồi thấp. Nhẫn đến đem những đồ ăn uống ngon để cung cấp mà họ vẫn chẳng bằng lòng nghe. Đây gọi là đem chiên đàn đổi lấy gỗ tạp.
Thế nào là đem vàng đổi lấy thau?
Thau là dụ cho sắc, thanh, hương, vị, xúc năm dục trần, vàng là dụ cho giới. Đệ tử của ta vì sắc mà phá giới đã thọ. Đây là đem vàng đổi lấy thau.
Phần công đức thứ mười, Phật dạy y theo kinh Đại Niết-bàn mà tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo để đạt Niết-bàn thường lạc ngã tịnh. Sau khi được rồi, mình giải nói cho tất cả chúng sanh nghe, để họ biết có Phật tánh.
Như Bồ-tát Cao Quý Đức Vương hỏi, không biết ai lại không cung kính kinh này? Phật nói: Có hàng Thanh văn đệ tử ngu si phá giới ưa sanh sự đấu tranh… Đem chiên-đàn tốt đổi lấy gỗ tạp, đem vàng đổi lấy thau, đem bạc đổi lấy nhôm, hàng lụa đổi lấy bố gai, đem vị cam lộ đổi lấy chất độc.
Thế nào là chiên-đàn đổi lấy gỗ tạp? Là những người vì cúng dường mà thuyết pháp cho bạch y không đúng pháp, cầu cạnh chiều chuộng mà họ không thèm nghe. Thời bây giờ cũng hay có những điều đó, mời những vị quan trọng lại ngồi đãi ăn đãi uống đàng hoàng tử tế nhưng nghe pháp họ không thèm nghe gì hết. Tất nhiên là mình đem chiên-đàn đổi gỗ tạp.
Thế nào là đem vàng đổi lấy thau? Vàng dụ cho giới, thau là dụ cho sắc thanh hương vị xúc, sáu trần. Bỏ giới luật để chạy theo sáu trần là đem vàng đổi thay.
Thế nào là đem bạc đổi lấy nhôm?
Bạc dụ cho thập thiện, nhôm dụ cho thập ác. Đệ tử của ta vất bỏ mười hạnh lành mà làm mười điều ác. Đây là đem bạc đổi nhôm vậy.
Thế nào là đem lụa đổi gai bố?
Gai bố dụ cho vô tàm vô quý. Lụa dụ cho tàm quý. Đệ tử của ta bỏ tàm quý quen tập vô tàm vô quý. Đây là đem lụa đổi gai vậy.
Thế nào là vị cam lồ đổi chất độc?
Chất độc dụ cho các thứ lợi dưỡng. Cam lồ dụ cho pháp vô lậu. Đệ tử của ta vì lợi dưỡng mà tự khoe với hàng bạch y rằng mình được vô lậu. Đây là cam lồ đổi chất độc.
Thế nào là đem bạc đổi lấy nhôm? Bạc là chỉ thập thiện, nhôm là chỉ thập ác. Bỏ thập thiện làm thập ác là đem bạc đổi nhôm.
Thế nào là đem lụa đổi gai bố? Lụa là chỉ tàm quý, gai là chỉ vô tàm vô quý, không hổ thẹn. Bỏ cái hổ thẹn để đem đổi cái không hổ thẹn là đem lụa đổi gai.
Thế nào là vị cam lồ đổi chất độc? Chất độc là gì? Chất độc là chỉ cho các thứ lợi dưỡng, còn cam lồ chỉ cho các pháp vô lậu, tức là các pháp giải thoát. Đệ tử Phật vì lợi dưỡng mà không cố gắng tu hành theo các pháp vô lậu, gọi là đem cam lồ đổi chất độc.
Sau này kinh Đại Niết-bàn lưu hành ở Diêm-phù-đề, có các đệ tử Phật thọ trì, đọc tụng, biên chép, diễn thuyết sẽ bị các ác Tỳ-kheo đây giết hại.
Lúc đó các ác Tỳ-kheo nhóm họp nhau lập chế ước nghiệm rằng: Vị nào đọc tụng thọ trì biên chép diễn thuyết kinh Đại Niết-bàn, đều chẳng được cùng ở, cùng ngồi, cùng đàm luận chuyện trò. Vì kinh Đại Niết-bàn chẳng phải của Phật nói, do người tà kiến tạo ra. Người tà kiến là lục sư, kinh điển của lục sư chẳng phải kinh điển của Phật. Vì tất cả chư Phật đều nói các pháp là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Nếu nói các pháp là thường, lạc, ngã, tịnh thời đâu phải là kinh do Phật nói.
Chư Phật cho các đệ tử chứa các thứ vật, còn lục sư chẳng cho các đệ tử cất chứa tất cả vật. Nếu cấm chứa thời thế nào lại là lời của Phật?
Chư Phật chẳng cấm đệ tử dứt hẳn năm vị sữa bò và ăn thịt. Còn lục sư chẳng cho ăn năm thứ muối, năm thứ vị sữa bò và huyết mỡ. Nếu cấm những thứ này thời đâu phải là kinh điển chánh của Phật!
Phật giải thích thêm, giải những nghi ngờ của người sau. Vì người sau nghi ngờ rằng kinh này không phải Phật nói vì những điều kiện: Thứ nhất, căn cứ trong các bộ A-hàm sẽ thấy rằng trong kinh A-hàm nói các pháp vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh mà ở đây Phật nói thường lạc ngã tịnh, cho nên nói là không phải Phật nói. Điểm thứ hai đáng chú ý đó là trong A-hàm, giới luật Phật còn cho Tỳ-kheo được ăn ngũ tịnh nhục, được ăn sữa, nhưng qua kinh Đại Niết-bàn này Phật thường hay quở, cấm không cho ăn thịt cá, ăn thịt cũng như ăn thịt con, rồi sữa cũng phải bớt. Như vậy họ nói kinh này không hợp, không phải Phật dạy, giống như ngoại đạo, vì như Bà-la-môn dạy ăn chay, kinh này cũng dạy ăn chay nên kinh này không phải là kinh Phật, là kinh ngoại đạo mà ở đây nói là lục sư. Đó là những nghi ngờ của người sau.
Chư Phật nói ba thừa, mà kinh này thuần nói nhất thừa và đại Niết-bàn, thời đâu gọi là kinh điển chánh của Phật được!
Chư Phật rốt ráo nhập Niết-bàn, còn kinh này nói Phật là thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng nhập Niết-bàn.
Kinh này không ở trong số mười hai bộ, chính là ma thuyết, chẳng phải Phật thuyết.
Này thiện nam tử! Người như trên đây dầu là đệ tử Phật mà chẳng thể tin thuận kinh Đại Niết-bàn này.
Này thiện nam tử! Trong thời kỳ như vậy, nếu có chúng sanh tin kinh điển này nhẫn đến nửa câu, phải biết rằng người này thật là đệ tử của Phật, do sự tin này mà thấy Phật tánh nhập đại Niết-bàn.”
Nghi ngờ thứ ba, trong kinh A-hàm nói tam thừa, mà ở đây nói có nhất thừa, nói chỉ có Phật thừa thôi không có gì khác nữa, thì e đây không phải Phật nói.
Nghi thứ tư, trong mười hai bộ kinh thì kinh Đại Niết-bàn không nằm trong đó, cho nên nghi không phải Phật nói.
Ở đây Phật nói, sau này những ai đối với kinh điển này, nếu tin được một câu hoặc nửa câu, người đó thật là đệ tử Phật, có thể thấy được Phật tánh và có thể nhập được Niết-bàn.
Cao Quý Đức Vương Bồ-tát nói; “Lành thay! Lành thay! Ngày nay đức Như Lai khéo khai thị kinh Đại Niết-bàn.
Thế Tôn! Tôi nhân việc này bèn được giải ngộ kinh Đại Niết-bàn một câu nửa câu. Do hiểu một câu đến nửa câu nên thấy chút phần Phật tánh. Cứ như lời Phật nói, tôi cũng sẽ được vào đại Niết-bàn.
Đây gọi là Bồ-tát tu tập kinh Đại Niết-bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ mười.
Cuối cùng Bồ-tát Cao Quý Đức Vương nói, căn cứ theo lời Phật nói, con đối với kinh này tin được một câu nửa câu, như vậy con cũng sẽ được đại Niết-bàn.