Nội dung:
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Thế nào, Tỳ-kheo các Thầy lưu chuyển sanh tử trải qua bao khổ não, trong đó buồn khóc nước mắt rơi là nhiều chăng? Hay nước sông Hằng nhiều?
Các Tỳ-kheo đến trước bạch Phật:
– Chúng con khi quan sát ý nghĩa câu nói của Như Lai, trải qua sanh tử, nước mắt rơi khi buồn khóc nhiều hơn nước sông Hằng.
Phật bảo Tỳ-kheo:
– Lành thay, lành thay! Các Tỳ-kheo! Như các thầy nói không khác. Các Thầy ở trong sanh tử, nước mắt nhiều hơn nước sông Hằng. Vì sao thế? Ở trong sanh tử, cũng vì phụ mẫu mạng chung, khi ấy khóc lóc không thể tính kể. Lâu dài cha con, chị em, vợ con, ngũ thân và các quyến thuộc ân ái thương nhớ khóc lóc không thể tính kể.
Cho nên, này các Tỳ-kheo, nên chán họa sanh tử, xa lìa pháp ấy. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Khi Phật nói pháp này, có sáu mươi Tỳ-kheo được lậu tận ý giải.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Thế nào, Tỳ-kheo các Thầy, ở trong sanh tử thân thể hủy hoại, máu chảy có nhiều chăng? Hay nước sông Hằng nhiều?
Các Tỳ-kheo bạch Phật :
– Như chúng con quan sát lời nói của Như Lai, máu chảy nhiều hơn nước sông Hằng.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Lành thay, lành thay, các Tỳ-kheo! Như các Thầy nói, máu chảy nhiều hơn nước sông Hằng. Vì sao như thế? Ở trong sanh tử, hoặc làm bò, dê, heo, chó, ngựa, chim thú và vô số các loài khác nhau, trải qua khổ não. Thật đáng chán họa hoạn, nên nghĩ xa lìa. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Khi đức Thế Tôn nói pháp này, có sáu mươi Tỳ-kheo được lậu tận ý giải.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nên tư duy về tưởng vô thường, lưu bố rộng tưởng vô thường. Đã tư duy tưởng vô thường, luu bố rộng tưởng vô thường thì sẽ đoạn sạch hết dục ái, sắc ái, vô sắc ái, vô minh, kiêu mạn thảy đều trừ hết. Cũng như đem lửa đốt cây cỏ cháy sạch không còn sót, Tỳ-kheo nên biết, nếu tư duy về tưởng vô thường, lưu bố rộng tưởng vô thường thì sẽ đoạn dứt hết ái trước trong ba cõi. Xưa có quốc vương tên Thanh Tịnh Âm Hưởng thống lãnh cõi Diêm-phù-đề, có tám vạn bốn ngàn thành ấp, có tám vạn tám đại thần, có tám vạn bốn ngàn cung nhơn thể nữ, mỗi thể nữ có bốn người hầu hạ. Đại vương Âm Hưởng không có con nối dõi. Đại vương bèn nghĩ: ‘Nay ta thống lãnh quốc gia này, dùng pháp cai trị không cong vạy. Nhưng nay ta không người kế tục, nếu ta chết, sau đó dòng tộc sẽ đoạn diệt’. Nhà vua do nhân duyên cầu con, nên tự quy y chư thiên long, Quỷ thần, nhật nguyệt tinh tú, tự quy y Thích Phạm, Tứ thiên vương, sơn thần, thọ thần, dưới đến các thần thảo mộc, hoa quả, xin cầu được phước khiến vua sanh con.
Bấy giờ, nơi cung trời Ba mươi ba có một Thiên tử tên Tu-bồ-đề, mạng sống sắp hết, có năm điềm ứng tự đến ép ngặt thân. Thế nào là năm? Hoa của chư Thiên trọn không héo, Thiên tử này hoa đội đầu cũng héo. Y phục chư Thiên không có bụi nhơ, y phục của Thiên tử này sanh bụi nhơ. Hơn nữa, thân thể của chư Thiên cõi trời Ba mươi ba thơm sạch, ánh sáng chói lòa, bấy giờ thân của Thiên tử này hôi dơ không thể đến gần. Lại chư Thiên cõi trời Ba mươi ba thường có ngọc nữ vây quanh trước sau, ca hát đờn địch ngũ dục tự do vui thích, Thiên tử này mệnh sắp hết, các ngọc nữ ly tán. Lại, chư Thiên cõi trời Ba mươi ba có tòa ngồi tự nhiên ấn sâu vào đất bốn thước, khi chư Thiên đứng lên, tòa rời đất bốn thước, song Thiên tử này sắp mạng chung nên không thích tòa của mình. Đó gọi là năm điềm ứng hiện tự nhiên bứt ngặt.
Khi thiên tử Tu-bồ-đề do những điềm ứng này, Thích-đề-hoàn-nhân bảo một Thiên tử:
– Ông hãy đến cõi Diêm-phù, bảo với vua Âm Hưởng rằng: ‘Thích-đề-hoàn-nhân hỏi thăm Đại vương, ngồi nằm khinh an, đi đứng mạnh khỏe. Cõi Diêm-phù-đề không có người đức độ để làm con Đại vương, nay cõi trời Ba mươi ba có một Thiên tử tên Tu-bồ-đề, có năm điều ứng hiện tự nhiên bức bách trên thân, chắc sẽ giáng thần làm con Đại vương, tuy thế vào lúc tuổi thanh niên cường tráng, chắc sẽ xuất gia học đạo, tu Phạm hạnh vô thượng’
Vị Thiên tử ấy đáp:
– ‘Thưa vâng ! Đại vương’.
Thiên tử ấy vâng lời dạy của Đế Thích, trong khoảng lực sĩ duỗi tay, từ cõi Ba mươi ba ẩn, đến cõi Diêm-phù. Bấy giờ vua Âm Hưởng đang ở trên lầu cao, cùng với một người cầm lọng che. Khi ấy, Thiên tử kia ở trên lầu, nơi hư không bảo nhà vua:
– ‘Thích-đề-hoàn-nhân kính lời thăm Đại vương, dạo đi mạnh khỏe, ngồi đứng khinh an. Cõi Diêm-phù không có người đức độ để làm con Đại vương, nay cõi trời Ba mươi ba có vị Thiên tử tên Tu-bồ-đề, nay có năm điềm ứng bức ngặt nơi thân, sẽ giáng thần làm con Đại vương. Nhưng vào tuổi thanh niên ắt sẽ xuất gia học đạo, tu Phạm hạnh vô thượng’.
Vua Âm Hưởng nghe lời ấy rồi, vui mừng phấn khởi không thể tự kềm, liền bảo vị Thiên tử kia:
– ‘Nay đến đây bảo cho như vậy, thật hạnh phúc vô cùng. Xin cứ giáng hạ làm con tôi, muốn cầu xuất gia thì tôi trọn không trái ý’.
Vị thiên tử kia trở về chỗ Thích-đề-hoàn-nhân, liền thưa rằng:
– ‘Vua Âm Hưởng rất vui mừng. Và thưa lại rằng: ‘Xin cứ giáng thần, nếu muốn xuất gia thì tôi trọn không trái ý’.
Thích-đề-hoàn-nhân bèn qua chỗ Thiên tử Tu-bồ-đề, bảo thiên tử Tu-bồ-đề:
– ‘Nay Ông nên phát nguyện sanh vào cung của vua Âm Hưởng. Vì sao thế ? Vua Âm Hưởng không có thái tử, thường dùng Chánh pháp trị dân. Xưa Ông có phước, tạo các công đức, nay nên giáng thần sanh vào cung vua ấy’.
Thiên tử Tu-bồ-đề thưa:
– ‘Thôi, thôi, Thiên vương! Tôi không thích nguyện sanh trong cung vua cõi Người, ý tôi muốn xuất gia học đạo, ở trong cung vua học đạo rất khó’.
Thích-đề-hoàn-nhân bảo:
– ‘Ông nên phát nguyện sanh trong cung vua ấy, Ta sẽ ủng hộ cho Ông được xuất gia học đạo’.
Tỳ-kheo nên biết! Khi ấy Thiên-tử Tu-bồ-đề liền phát thệ nguyện sanh trong cung vua. Vua Âm Hưởng cùng đệ nhất phu nhân giao tiếp nhau, phu nhân biết mình mang thai, bèn thưa cùng vua Âm Hưởng:
– ‘Đại vương nên biết ! Nay tôi biết có mang thai’.
Vua nghe rồi, vui mừng hớn hở, liền đem nệm quý báu, trải tòa ngồi tốt đẹp, dùng món ăn ngon cho phu nhân như vua không khác. Trải qua tám chín tháng, phu nhân sanh một hoàng nam rất đoan chánh, dung mạo phi thường ít có trong đời. Vua Âm Hưởng cho mời các ngoại đạo Phạm chí, quần thần bảo xem tướng, vua đem đầu đuôi mọi việc trình bày hết cho các tướng sư.
Các Bà-la-môn tâu bày:
– ‘Xin thưa Đại vương, theo lý lẽ này thì nay sanh Thái tử rất đặc biệt trong đời, xưa làm Thiên tử tên Tu-bồ-đề, nay y theo tên cũ cũng gọi là Tu-bồ-đề’.
Các tướng sư đặt tên hiệu rồi, liền rời chỗ ngồi lui ra.
Vương tử Tu-bồ-đề, được vua thương mến không hề rời mắt. Vua Âm Hưởng bèn khởi nghĩ: ‘Ta xưa nay không có con, vì muốn cầu con nên lễ bái chư Thiên, để được con. Trải qua bao lâu nay mới sanh thái tử. Song Thiên đế có dự báo, thái tử sẽ xuất gia học đạo. Nay ta phải tìm chước khéo để thái tử đừng xuất gia học đạo’.
Khi ấy, vua Âm Hưởng vì thái tử mà thiết lập cung điện ba mùa, mùa đông lập cung điện ấm, mùa hạ lập cung điện mát, mùa không lạnh không nóng lập cung điện thích hợp. Vua lại lập nên bốn cung cho cung nữ ở, cung thứ nhất có sáu vạn thể nữ, cung thứ hai có sáu vạn thể nữ, cung thứ ba có sáu vạn thể nữ, cung thứ tư có sáu vạn thể nữ. Có bốn thị tùng cung cấp ngoài tòa ngồi cho thái tử. Nếu thái tử Tu-bồ-đề muốn đạo chơi phía trước, các thể nữ liền đứng hầu ở trước, lúc ấy sàng tòa di chuyển theo thân mình, phía trước có sáu vạn thể nữ và bốn thị gia. Nếu ý Thái tử muốn dạo chơi phía sau, thì sàng tòa tùy theo thân di chuyển. Nếu thái tử muốn vui chơi cùng các thể nữ, lúc ấy sàng tòa cũng tùy thân di chuyển, khiến cho thái tử Tu-bồ-đề ý đắm trong ngũ dục không thích xuất gia.
Khi ấy Thích-đề hoàn-nhân vào lúc nửa đêm vắng người, liền đến chỗ vương tử Tu-bồ-đề, ở trên hư không bảo:
– ‘Vương tử! Ngày xưa Vương tử có khởi ý niệm này chăng? Rằng ‘nếu ta ở nhà, lúc tuổi tráng niên sẽ xuất gia học đạo’; ngày nay vì sao vui trong ngũ dục, ý lại không nguyện xuất gia học đạo? Ta cũng có lời rằng sẽ khuyến khích vương tử khiến xuất gia học đạo. Nay chính đúng lúc, nếu không xuất gia học đạo, sau hối hận vô ích’
Thích-đề-hoàn-nhân nói lời ấy rồi liền lui đi.
Vương tử Tu-bồ-đề ở trong cung bèn khởi nghĩ: ‘Vua cha đã vì ta làm lớp lưới ái dục, vì lưới ái dục này nên không xuất gia học đạo được. Nay ta phải đoạn dứt lưới này, không để cho uế trượt câu dắt, dùng lòng tin kiên cố xuất gia học đạo, ở chỗ vắng, siêng học kinh khiến cho ngày thêm tiến’.
Vương tử lại khởi ý này: ‘Phụ vương Âm Hưởng cho sáu vạn thể nữ vây quanh trước sau. Nay ta nên quan sát có lý nào tồn tại vĩnh viễn ở thế gian chăng? ‘Khi ấy Vương tử quan sát khắp trong cung, không có người nữ nào tồn tại lâu ở thế gian. Tu-bồ-đề lại khởi niệm này: ‘Nay cớ gì ta quan sát ngoại vật ? Nên quan sát trong thân, nhân duyên khởi lên. Nay trong thân này có những thứ thuộc về tóc, lông, răng, móng, xương, tủy được tồn tại lâu chăng?’ Vương tử quan sát từ đầu đến chân ba mươi sáu vật ô uế bất tịnh, do tự quan sát thấy rằng không một chút gì có thể tham đắm, cũng không có gì chân thật, toàn là huyễn ngụy, đều trở về không, không tồn tại lâu cả đời.
Vương tử Tu-bồ-đề bèn khởi ý niệm: ‘Nay ta sẽ cắt đứt lớp lưới này, xuất gia học đạo’. Khi đó Tu-bồ-đề quán thâm năm thọ ấm này: Đây là sắc khổ, đây là sắc tập, đây là sắc diệt, đây là sắc xuất yếu. Thọ, tưởng, hành, thức đều khổ cho đến thức tập, thức diệt, thức xuất yếu. Quán thân năm thọ ấm này rồi, những pháp tập đều là pháp tận. Tu-bồ-đề liền ở chỗ ngồi được thành Bích chi Phật. Lúc đó, đức Bích-chi Phật Tu-bồ-đề do giác thành Phật, bèn nói kệ:
Ta biết cội gốc dục,
Ý do tư tưởng sanh
Ta không nhớ nghĩ dục,
Ắt dục không có mặt.
Đức Bích-chi Phật nói kệ này rồi, bay trên hư không mà đi, đến một ngọn núi ngồi dưới cội cây, nơi vô dư Niết-bàn mà nhập Niết-bàn.
Bấy giờ vua Âm hưởng bảo các cận thần:
– ‘Ông đến nội cung của vương tử Tu-bồ-đề xem vương tử có vui chơi an ổn chăng!’
Đại thần vâng lệnh vua, liền đi qua nội cung của vương tử, song nội thất đóng chắc chắn. Đại thần bèn trở về, tâu vua:
– ‘Vương tử ngủ say an ổn, cửa cung đóng chắc chắn’.
Nhà vua lại ba phen bảo:
– ‘Ông hãy qua xem vương tử có ngủ ngon chăng!’
Đại thần lại đi đến cửa cung, song cửa cài chắc, lại trở về tâu vua:
– ‘Vương tử ở trong cung ngủ say không hay biết, cửa đóng kín đến giờ chưa mở’.
Khi ấy vua Âm Hưởng lại khởi niệm: ‘Vương tử con ta khi nhỏ còn chẳng ngủ say, huống gì ngày nay tráng niên sung thạnh lại ngủ say ư ? Nên tự sang xem biết con lành dữ, con ta có tật bệnh gì chăng!’ Nhà vua liền sang đến nội cung của Tu-bồ-đề, đến ngoài cửa bảo một người:
– ‘Ông thử trèo tường vào cung mở cửa cho ta’.
Người ấy vâng lệnh vua bèn trèo qua tường, vào cung mở cửa cho nhà vua. Vua vào xem xét trong cung, thấy giường nằm trống không chẳng có vương tử, bèn hỏi thể nữ:
– ‘Vương tử Tu-bồ-đề, hiện giờ ở đâu?’
Các thể nữ tâu:
– ‘Chúng tôi cũng không biết vương tử ở đâu’.
Vua Âm Hưởng nghe lời ấy, ngã xuống đất giây lâu mới tỉnh. Vua bèn bảo quần thần:
– ‘Con ta khi còn nhỏ sang ý niệm rằng: ‘Khi lớn lên sẽ cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, do lòng tin kiên cố xuất gia học đạo’. Nay chắc vương tử đã bỏ ta, xuất gia học đạo. Các ông nên đi bốn phía tìm kiếm vương tử xem ở đâu’.
Tức thời quần thần cỡi xa mã rong ruổi nơi nơi tìm kiếm . Bấy giờ có một đạo thần đi đến núi đó, giữa đường bèn khởi nghĩ: ‘Nếu vương tử Tu-bồ-đề xuất gia học đạo, chắc sẽ ở đây học đạo’. Đại thần xa thấy vương tử Tu-bồ-đề ngồi kiết-già dưới một cội cây. Đại thần ấy bèn nghĩ : ‘Đây chính là vương tử Tu-bồ-đề’. Đại thần nhìn kỹ, quan sát rồi trở về chỗ vua tâu rằng :
– ‘Vương tử Tu-bồ-đề ở gần đây, ngồi kiết-già dưới gốc cây trong núi’.
Vua Âm Hưởng nghe nói, liền đi đến núi đó, xa thấy Tu-bồ-đề ngồi kiết-già dưới gốc cây trong núi, vua lại ngã xuống đất: ‘Con ta khi xưa tự thệ nguyện đến năm hai mươi tuổi sẽ xuất gia học đạo; nay đã không lầm. Lại Thiên đế có bảo: ‘Con Đại vương chắc sẽ học đạo’.
Khi ấy vua Âm Hưởng đến thẳng trước mặt Tu-bồ-đề bảo:
– ‘Nay Con vì cớ gì bỏ ta mà xuất gia học đạo?’
Bích-chi Phật im lặng không đáp.
Vua lại bảo:
– ‘Mẹ con rất lo buồn, đợi gặp con mới ăn, nên đứng lên đi về cung’.
Bích-chi Phật cũng không nói không rằng, ngồi im lặng. Vua Âm Hưởng bước tới nắm tay cũng không lay động. Vua liền bảo quần thần:
– ‘Vương tử đã chết. Trước đây Thích-đề-hoàn-nhân có đến bảo ta rằng: ‘Đại vương được con, nhưng sẽ xuất gia học đạo’. Nay vương tử xuất gia học đạo, nay nên đem xá-lợi này về cõi nước hoát mình’.
Đang lúc chuẩn bị thiêu, các thần trong núi hiện nửa thân hình tâu nhà vua:
– ‘Đây là Phật Bích-chi, không phải là vương tử, pháp thiêu xá-lợi không phải như pháp thiêu vương tử. Vì sao thế? Tôi là đệ tử cửa chư Phật quá khứ, chư Phật có dạy thế này: Ở đời có bốn hạng người nên xây tháp. Thế nào là bốn? Bậc Như Lai chí Chơn Đăng Chánh Giác nên xây tháp; Bích-chi Phật nên xây tháp, bậc A-la-hán lậu tận, đệ tử của Như Lai nên xây tháp, hàng Chuyển luân Thánh Vương nên xây tháp. Khi hỏa thiêu thân Chuyển luân Thánh vương cũng như hỏa thiêu thân Phật và thân Bích-chi Phật không khác’.
Vua Âm Hưởng hỏi Thiên:
– ‘Nên cúng dường và hỏa thiêu thân Chuyển luân Thánh vương thế nào?’
Thọ thần bảo:
– ‘Thân Chuyển luân Thánh vương nên làm kim quan bằng sát, dùng dầu thơm rửa thân Chuyển luân Thánh vương, rồi dùng vải trắng quấn quanh thân, vải gấm thêu bọc bên ngoài, đặt vào kim quan, đậy nắp quan bằng sắt, đóng đinh cẩn thận. Lại dùng một trăm lớp vải trắng bao quanh kim quan, rưới các thứ nước thơm trên chỗ đất ấy kim quan đặt vào giữa, cúng dường hương hoa bảy ngày bảy đêm, treo phan lọng, đánh kỹ nhạc. Sau bảy ngày mới đem thiêu, nhặt xá-lợi rồi trải qua bảy ngày bảy đêm cúng dường không ngớt. Xây tháp tại ngã tư đường, dùng các thứ hương hoa, phan lọng cúng dường.
Đại vương nên biết! Cúng dường xá-lợi của Chuyển luân Thánh vương, việc ấy như thế. Đối với các đức Phật, các vị Bích-chi Phật và A-la hán cũng lại như thế’.
Vua Âm Hưởng bảo Thiên thần:
– ‘Do nhân duyên gì cúng dường thân Chuyển luân Thánh vương? Do nhân duyên gì cúng dường thân Phật, thân Bích-chi Phật, thân A-la hán?’.
Thiên thần bảo:
-Chuyển luân Thánh vương dùng cai trị, tự mình không sát sanh, lại dạy người khác không sát sanh; tự chẳng lấy trộm, lại dạy người khác không lấy trộm; tự mình không dâm dục, lại dạy người khác không xâm phạm vợ người; tự mình không nói dối, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt khiến đôi bên đấu tranh, ganh ghét, sân, si; ý mình chuyên chánh, thường hánh chánh kiến, cũng khiến người khác tập theo chánh kiến. Đại vương! Do nhân duyên này nên xây tháp thờ Chuyển luân Thánh vương’.
Vua lại hỏi Thiên thần.
– ‘Do nhân duyên gì nên xây tháp đối với bậc A-la hán lậu tận?’
Thiên thần bảo:
– ‘Hàng Tỳ-kheo lậu tận A-la hán, dục ái đã dứt, sân nhuế ngu si đã trừ, đã vượt qua hữu lậu đến chỗ vô vi, là ruộng tốt, bạn lành của thế gian. Do nhân duyên ấy nên xây tháp đối với bậc A-la hán lậu tận’.
Vua lại hỏi:
– ‘Do nhân duyên gì nên xây tháp đối với đức Phật Bích-chi?’.
Thiên thần bảo:
– ‘Đức Bích-chi Phật không thầy tự ngộ, ra đời rất hiếm; được pháp báo hiện tại ra khỏi đường ác, khiến người sanh cõi Trời. Do nhân duyên ấy, nên xây tháp đối với Bích- chi Phật’.
Vua lại hỏi:
– ‘Do nhân duyên gì nên xây tháp cho Như Lai?’
Thiên thần bảo:
– ‘Như Lai đầy đủ mười lực. Mười lực này chẳng phải Bích-chi, Thanh văn sánh kịp, Chuyển luân Thánh vương không sánh kịp, hạng ngu si ở thế gian không sánh kịp. Như Lai với người không được độ khiến cho được độ, người không giải thoát khiến cho giải thoát, người chưa nhập Niết-bàn khiến cho được Niết-bàn, che chở con người không ai cứu hộ, làm mắt cho người mù, làm bậc đại y vương cho người đau. Trời, Người, Ma và Thiên ma đều sùng phụng, rất đáng kính đánh quý. Xoay nẻo ác thành đường lành. Đại vương! Do nhân duyên ấy nên xây tháp đối với Như Lai. Đại vương! Do nhân duyên gốc ngọn này, mà đối với bốn hạng người nên xây tháp’.
Vua Âm Hưởng bảo vị thần:
– ‘Lành thay, lành thay, Thiên thần! Nay tôi vâng lời dạy khiến cúng dường xá-lợi này như cúng dường Bích-chi Phật.
Bấy giờ vua Âm Hưởng bảo mọi người:
– ‘Các ông nên đưa xá-lợi của đức Bích-chi phật Tu-bồ-đề về nước’.
Quần thần nghe lệnh vua rồi, đưa thân Phật lên giường vàng trở về nước.
Khi ấy, vua Âm Hưởng ra lệnh làm kim quan, dùng dầu thơm tắm gội thân Bích-chi Phật, dùng vải trắng quấn quanh thân Phật, lại dùng gấm thêu tốt đẹp phủ bên ngoài; đặt thân vào kim quan, đậy nắp sắt, đóng đinh thật chắc chắn, dùng trăm lớp vải trắng bao quanh kim quan, rưới các hương thơm, đặt kim quan vào giữa; bảy ngày bảy đêm cúng dường hương hoa, sau bảy ngày đêm bén hỏa thiêu và nhặt xá-lợi của ngài; lại đánh kỹ nhạc cúng dường thêm bảy đêm; nơi ngã tư đường xây tháp, đem hoa hương, tràng phan, lọng dù, đánh kỹ nhạc để cúng dường tháp.
Tỳ-kheo nên biết! Nếu có chúng sanh nào cung kính cúng dường xá-lợi của Bích-chi Phật, sau khi mạng chng bèn sanh lên cõi trời Ba mươi ba. Có chúng sanh suy nghĩ về tưởng vô thường, sẽ vượt khỏi ba đường ác, sanh trong cõi Trời, Người.
Này các Tỳ-kheo! Các Thầy chớ thấy thế. Vua Âm Hưởng lúc ấy đâu phải ai lạ, chính là thân Ta.
Người tư duy về tưởng vô thường được nhiều lợi ích. Nay Ta quán sát nghĩa này rồi, bảo các Tỳ-kheo nên suy nghĩ về tưởng vô thường, lưu bố rộng tưởng vô thường. Do suy nghĩ tưởng vô thường, lưu bố rộng tưởng vô thường, liền được đoạn tận dục ái, sắc ái, vô sắc ái, vô minh kiêu mạn vĩnh viễn không thừa sót; cũng như dùng lửa đốt vỏ cây. Như trong giảng đường cao rộng tốt đẹp cửa nẻo mở rộng, không có vật gì. Tỳ-kheo tư duy về tưởng vô thường cũng lại như thế, đoạn dứt dục ái, sắc ái, vô sắc ái, vĩnh viễn không thừa sót. Cho nên, các Tỳ-kheo nên đem hết tâm ý đừng để trái mất.
Khi Phật nói pháp này, có sáu mươi Tỳ-kheo ngay tại chỗ được lậu tận ý giải.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Nếu các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không đoạn dứt năm điều ngăn che trong tâm, không trừ năm kết trong tâm thì Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ấy trong đêm ngày, với pháp lành diệt mà không tăng thêm lợi ích.
Thế nào là Tỳ-kheo không đoạn dứt năm điều ngăn che? Ở đây, Tỳ-kheo có tâm hồ nghi đối với Như Lai, không được giải thoát, không vào Chánh pháp, tâm người ấy không ở nơi tụng đọc. Đó gọi là Tỳ-kheo không đoạn dứt tâm ngăn che.
Lại, Tỳ-kheo có tâm nghi đối với Chánh pháp, cũng không giải thoát, không thâm nhập Chánh pháp, người ấy không đọc tụng. Đó gọi là Tỳ-kheo không đoạn dứt tâm ngăn che.
Lại, Tỳ-kheo có tâm nghi đối với Thánh chúng, cũng không giàả thoát, không có ý hướng hòa hợp với chúng, cũng không ở trong pháp đạo phẩm. Đó gọi là Tỳ-kheo không đoạn dứt tâm ngăn che.
Lại nữa, Tỳ-kheo phạm cấm giới không tự hối quá, đã phạm cấm giới không tự sửa đổi, cũng không để tâm vào trong đạo phẩm. Đó gọi là Tỳ-kheo không đoạn dứt tâm ngăn che.
Lại nữa, Tỳ-kheo tâm ý không định mà tu Phạm hạnh, nghĩ: ‘Ta do đức của Phạm hạnh được sanh cõi Trời như các thần tiên’. Vì Tỳ-kheo ấy do tâm hạnh này tu Phạm hạnh nên tâm không chuyên chánh trong đạo phẩm, tâm đã không ở trong đạo phẩm. Đó gọi là không đoạn dứt điều ngăn che trong tâm.
Như thế gọi là Tỳ-kheo không đoạn năm điều ngăn che trong tâm.
Thế nào gọi là Tỳ-kheo không đoạn dứt trừ năm kết? Ở đây, Tỳ-kheo tâm giải đãi không tìm cầu phương tiện. Tỳ Kheo ấy đã có giải đãi không tìm cầu phương tiện nên đó gọi là Tỳ-kheo không đoạn trừ tâm kết.
Lại nữa, Tỳ-kheo thường quên nhiều, tham ngủ nghỉ. Tỳ-kheo ấy do ưa quên nhiều, tham ngủ nghỉ nên gọi là Tỳ-kheo không đoạn tâm kết thứ hai.
Lại nữa, Tỳ-kheo ý không định, thường có nhiều rối loạn. Tâm Tỳ-kheo ấy đã loạn, không định nên gọi là Tỳ-kheo không đoạn trừ tâm kết thứ ba.
Lại nữa, Tỳ-kheo căn không định. Tỳ kheo ấy đã căn không định nên gọi là Tỳ-kheo không đoạn trừ tâm kết thứ tư.
Lại nữa, Tỳ-kheo thường thích chỗ chợ búa, không ở chỗ vắng vẻ. Đó gọi là Tỳ-kheo không đoạn trừ tâm kết thứ năm.
Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni có năm điều ngăn che trong tâm không dứt, năm kết trong tâm không trừ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ấy trong đêm ngày pháp lành đoạn tuyệt, không được tăng ích. Cũng như gà mẹ có tám hoặc mười hai trứng, không tùy thời ấp ủ, săn sóc, không tùy thời giữ gìn. Gà mẹ ấy tuy nghĩ rằng: ‘Muốn các con được an toàn, không hư hại’. Song các gà con rốt cuộc không an ổn. Vì sao thế? Đều do không tùy thời giữ gìn nên như vậy, sau trứng ấy bị hỏng không thành gà con. Đây cũng như thế, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-khèo-ni, năm tâm kết không đoạn, năm tâm ngăn che không trừ, trong đêm ngày thiện pháp bị diệt không tăng ích. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, tâm năm kết đoạn, tâm năm ngăn che trừ, trong đêm ngày pháp lành tăng ích không bị tổn giảm. Cũng như gà có tám hoặc mười hai trứng, tùy thời giữ gìn, tùy thời săn sóc, tùy thời ấp ủ. Dù cho gà mẹ có ý niệm: ‘Muốn con ta hoàn toàn không thành tựu’, các gà con tự nhiên thành tựu an ổn. Vì sao thế ? Vì tùy thời săn sóc khiến được vô sự, khi ấy các gà con đúng lúc ra khỏi vỏ. Đây cũng như thế, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni năm điều ngăn che trong tâm đoạn dứt, tâm năm kết trừ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ấy ở trong đêm ngày pháp lành tăng ích, không tổn giảm.
Cho nên Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nên phát sanh tâm không do dự hồ nghi đối với Phật, không do dự hồ nghi với Pháp, với chúng Tăng, đầy đủ giới luật, tâm ý chuyên chánh không tán loạn, cũng không khởi ý trông mong pháp khác, cũng không cầu may mà tu Phạm hạnh, nghĩ rằng : ‘Ta sẽ dùng pháp này được thân Trời thần diệu tôn quý’.
Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không hồ nghi do dự đối với Phật, Pháp, Thánh chúng, cũng không phạm giới, không để lọt mất; nay Ta bảo các Thấy, căn dặn phó chúc các Thầy rằng Tỳ-kheo ấy sẽ hướng đến hai đường hoạc sanh cõi Trời hoặc trong loài Người. Cũng như người ở trong chỗ rất nóng, lại thêm đói khát, gặp được chỗ mát mẻ, được suối mát, nước uống, người ấy tuy nghĩ rằng : ‘Ta gặp nước trong mát để uống cũng không hết khát’. Nhưng người ấy đã dứt hết nóng bức, trừ được đói khát. Đây cũng như thế, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni không do dự hồ nghi đối với Như Lai, Tỳ-kheo ấy liền hướng đến hai nơi, hoặc sanh cõi Trời hoặc trong loài Người.
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nên tìm phương tiện đoạn trừ năm điều ngăn che, dứt năm kết trong tâm. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vầy :
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Có lúc uy thế của nhà vua không trùm khắp, đạo tặc nổi lên. Đạo tặc đã dấy thì thôn xóm, gia đình, thành ấp, nhân dân đều bại vong, hoặc gặp đói khát mà chết. Nếu chúng sanh nào chết trong lúc đói khát, thì sẽ rơi vào ba đường ác.
Nay Tỳ-kheo tinh tấn cũng lại như thế. Nếu người trì giới giảm thiểu, bấy giờ Tỳ-kheo ác nổi dậy. Tỳ-kheo ấy đã dấy lên thì Chánh pháp dần dần suy, phi pháp đã tăng, chúng sanh trong ấy đều rơi trong ba đường ác.
Nếu khi ấy uy thế nhà vua lại lan xa thì đạo tặc đều ẩn núp. Uy thế nhà vua đã vang xa thì làng xóm, thành ấp, nhân dân đông đúc. Nay Tỳ-kheo tinh tấn cũng lại như thế. Nếu người trì giới đầy đủ thì bấy giờ Tỳ-kheo phạm giới giảm thiểu, Chánh pháp hưng thạnh, phi pháp suy giảm. Trong đó, chúng sanh sau khi mạng chung đều sanh lên cõi Trời, cõi Người.
Cho nên, này các Tỳ-kheo, nên nhớ đầy đủ giới luật, oai nghi lễ độ, đừng để khuyết giảm. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vầy :
Một thời đức Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Chẳng thà thường ngủ nghỉ chứ không ở trong lúc tỉnh táo tư duy loạn tưởng, thân hoại mạng chung rơi vào đường ác. Chẳng thà dùng dùi sắt nóng nung vào mắt chứ không do nhìn màu sắc mà khởi loạn tưởng. Tỳ-kheo khởi tưởng bị thức đánh bại, Tỳ-kheo đã bị thức đánh bại, ắt sẽ rơi vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Vì vậy nay Ta nói như thế.
Người ấy thà ngủ nghỉ chứ không ở trong lúc tỉnh táo mà tư duy loạn tưởng. Thà dùng dùi bén đâm lủng lỗ tai chứ không vì nghe tiếng mà khởi loạn tưởng. Tỳ-kheo khởi tưởng bị thức đánh bại.
Thà thường ngủ nghỉ chứ không ở trong lúc tỉnh táo mà khởi loạn tưởng. Thà dùng kềm nóng làm đứt lỗ mũi chứ không do ngửi mùi, mà khởi loạn tưởng. Tỳ-kheo khởi tưởng bị thức đánh bại. Đã bị thức đánh bại sẽ rơi trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Điều Ta nói chính là điều này.
Thà dùng kiếm bén cắt đứt lưỡi chứ không nói lời ác, mắng chửi để rơi trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Thà thường ngủ nghỉ chứ không ở lúc tỉnh táo mà khởi loạn tưởng. Thà dùng lá đồng nóng quấn thân chứ không giao tiếp với các người nữ, trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn. Nếu cùng họ giao tiếp nói năng qua lại, ắt sẽ rơi trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Điều Ta nói chính là điều này
Thà thường ngủ nghỉ chứ không ở lúc tỉnh táo mà có ý tưởng muốn phá hoại Thánh chúng. Đã phá hoại Thánh chúng sẽ phạm vào tội năm nghịch, dù ngàn ức chư Phật cũng không thể cứu. Phàm người gây rối loạn trong chúng, ắt sẽ bị tội không thể cứu. Cho nên nay Ta nói, chẳng thà hay ngủ nghỉ chứ không nên khi tỉnh táo, ý khởi niệm muốn phá hoại Thánh chúng, chịu tội không thể cứu.
Cho nên, này Tỳ-kheo, nên giữ gìn sáu tình, đừng để rơi mất. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-để có bốn con trai không thừa sự Phật, Pháp, Thánh chúng, cũng chẳng tự quy mạng Phật, Pháp, Thánh chúng. Lúc ấy trưởng giả A-na-bân-để bảo bốn con trai:
– Các con nên tự quy y Phật, Pháp, Thánh chúng, sẽ được phước vô lượng lâu dài.
Các con thưa cha:
– Chúng con không kham quy y Phật, Pháp, Thánh chúng.
Trưởng giả A-nê-bân-để nói:
– Nay ta sẽ tặng mỗi con ngàn lượng vàng, nếu theo lời ta dạy quy y Phật, Pháp, Thánh chúng.
Các con thưa:
– Con không kham quy y Pháp, Phật, Thánh chúng.
Cha lại bảo:
– Cha tặng thêm mỗi con hai ngàn, ba ngàn, bốn ngàn, năm ngàn lượng vàng. Các con nên tự quy y hật, Pháp, Thánh chúng, được phước vô lượng lâu dài.
Các con nghe lời, im lặng nhận chịu. Các người con nói với trưởng giả A-na-bân-để:
– Chúng con làm thế nào để tự quy y Phật, Pháp, Thánh chúng?
Trưởng giả A-na-bân-để nói:
– Các con nên theo ta đến chỗ đức Thế Tôn. Nếu Thế Tôn có dạy bảo, các con nên ghi nhớ vâng theo.
Các con thưa cha:
– Đức Như Lai hiện nay ở đâu? Gần hay xa?
Người cha bảo:
– Nay đấng Như Lai Chí Chơn Đăng Chánh Giác hiện tại ở nước Xá-vệ, nghỉ trong vườn của ta.
Khi ấy, Trưởng giả A-na-bân-để dẫn bốn người con đến chỗ đức Thế Tôn, đến nơi cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên. Trưởng giả bạch Phật:
– Nay bốn người con của con không tự quy y Phật, Pháp, Thánh chúng. Hôm nay con tặng mỗi đứa năm ngàn lượng vàng, khuyến khích chúng vâng theo Phật, Pháp, Thánh chúng. Cúi xin Thế Tôn vì chúng thuyết pháp, khiến được phước vô lượng lâu dài.
Bấy giờ, Thế Tôn vì bốn người con của trưởng giả, dần dần thuyết pháp khuyến khích cho hoan hỷ. Các con của trưởng giả nghe Phật thuyết pháp vui mừng phấn khởi không thể tự kềm, tự quỳ trước Phật, bạch rằng:
– Chúng con tự quy y với Thế Tôn, Chánh pháp, Thánh chúng. Từ nay về sau chúng con không còn sát sanh,… không uống rượu.
Bạch như thế ba lần. Trưởng giả A-na-bân-để bạch Thế Tôn:
– Nếu có người đem tài vật cho người, khiến thừa sự Phật. Phước ấy thế nào?
Thế Tôn bảo:
– Lành thay, lành thay! Trưởng giả hỏi như thế khiến người, Trời được an lạc, mới có thể hỏi Như Lai nghĩa này. Nên khéo suy nghĩ đó, Ta sẽ vì Ông nói:
Trưởng giả nghe lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:
– Có bốn kho tàng lớn. Thế nào là bốn? Kho Thi-la-bát-long tại nước Càn-đà-vệ, đây là một kho tàng, vô số trân bảo chất đầy trong cung. Lại có kho tàng lớn ban-trù tại nước Mật-để-la, chứa chất trân bảo không thể tính kể. Lại có kho lớn Tần-già-la tại nước Tu-lại-sát, trân bảo tích tụ không thể tính kể. Lại có kho lớn Nhượng-khư tại nước Ba-la-nại, trân bảo tích tụ không thể tính kể.
Giả sử tất cả các nam nữ lớn nhỏ trong cõi Diêm-phù-đề mỗi người đều đến nhặt châu báu trong bốn năm, bốn tháng, bốn ngày, kho Thi-la-bát trọn không giảm sút. Kho Ban-trù có người cũng đến lấy trong bốn năm, bốn tháng, bốn ngày, không hao giảm. Kho Tần-già-la bốn năm, bốn tháng, bốn ngày mọi người đến lấy cũng không hao giảm. Kho lớn Nhượng-khư tại nước ba-la-nại, mọi người đến lấy trong bốn năm, bốn tháng, bốn ngày không hề sút giảm. Trưởng giả! Đó là bốn kho tàng lớn, nếu tất cả mọi nam nữ lão ấu của Diêm-phù-đề đều đến lấy châu báu, trải qua bốn năm, bốn tháng, bốn ngày, không hề giảm thiểu.
Về đời tương lai có đức Phật tên Di-lặc xuất hiện. Bấy giờ cõi nước tên Kê Đầu do vua cai trị, chiều Đông Tây mười hai do-tuần, chiều Nam Bắc mười hai do-tuần, nhân dân đông đảo, lúa thóc phì nhiêu. Cõi nước Kê-Đầu, chung quanh thành bảy lớp ao nước, mỗi ao rộng một do-tuần, cát vàng dưới đáy, các loài hoa bát-đấu-na, hoa câu-vật-đầu, hoa phân-đà-lợi đều mọc trong ao ấy. Nước ao màu vàng, màu bạc, màu thủy tinh, màu lưu ly. Nếu nước màu bạc thì ngưng đọng hóa thành bạc, nước màu vàng thì ngưng đọng hóa thành vàng, nước màu lưu ly thì ngưng đọng hóa thành lưu ly, nước màu thủy tinh thì ngưng đọng hóa thành thủy tinh.
Trưởng giả nên biết! Bấy giờ có bốn thành lớn, trong ao nước bạc làm cửa vàng, trong ao nước vàng làm cửa bạc, trong ao lưu ly làm cửa thủy tinh, trong ao thủy tinh làm cửa lưu ly.
Trưởng giả nên biết! Bấy giờ chung quanh thành Ke-Đầu treo linh, tiếng linh phát ra nghe như tiếng ngũ nhạc. Trong thành ấy thường có bảy thứ tiếng. Thế nào là bảy? Tiếng loa, tiếng trống, tiếng đờn cầm, tiếng trống nhỏ, tiếng trống tròn, tiếng trống da, tiếng ca múa là bảy.
Trong thành Kê-Đầu tự nhiên sanh một loại lúa dài ba tấc, rất thơm ngon có vị thù thắng hơn hết, vừa gặt liền sanh, không thấy dấu gặt. Bấy giờ có vua Nhượng-khư, dùng pháp cai trị, bảy báu đầy đủ.
Trưởng giả nên biết! Bấy giờ đại thần chủ tạng tên là Thiện Bảo, cao đức trí tuệ thiên nhãn thứ nhứt, biết hết thảy tất cả kho tàng báu, kho tàng có chủ thì tự nhiên giữ gìn, kho tàng vô chủ liền đem dâng vua. Khi ấy vua rồng Thi-la-bát, vua rồng Ban-trù, vua rồng Tần-già-la, vua rồng Nhượng-khư. Bốn quan chủ báu của các vua rồng trên đều đi đến chỗ quan chủ tạng Thiện Bảo, mà nói rằng:
– ‘Nếu cần gì, chúng tôi sẽ cung cấp’
Khi ấy, bốn vua rồng nguyện dâng bốn kho tàng báu để cho đầy kho, quan chủ tạng Thiên Bảo liền lấy bốn kho báu dâng lên vua Nhượng-khư, châu báu, xe báu, vàng bạc tầng tầng.
Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:
Thi-la, tại Càn-đà
Ban-trù, tại Mật-để
Tần-già nước Tu-lại.
Nhượng-khư, nước Ba-nại.
Đây là bốn kho báu,
Các kho tàng đầy dẫy,
Lúc ấy liền xuất hiện,
Do công đức cảm nên.
Dâng lên bậc Thánh vương,
Vàng, bạc, báu, xe báu
Các thần đều ủng hộ
Trưởng giả thọ phước ấy.
Bấy giờ có Phật xuất thế hiệu Di-lặc, Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Trưởng giả nên biết! Quan chủ tạng Thiện Bảo khi đó đâu phải người nào lạ. Chớ nghĩ thế ấy, Vì xao? Quan chủ tạng ấy là trưởng giả hiện nay.
Thuở ấy, vua Nhượng-khư dùng vàng bạc làm việc phước đức rộng rãi, cùng tám vạn bốn ngàn đại thần vây quanh trước sau, đến chỗ đức Phật Di-lặc xuất gia học đạo. Khi đó quan chủ tạng cũng làm việc phước đức rộng lớn, cũng sẽ xuất gia học đạo chấm dứt mé khổ. Đấy là do trưởng giả hướng dẫn bốn người con khiến tự quy Phật, Pháp, Tỳ-kheo Tăng; do công đức này mà không rơi trong ba đường ác, cũng duyên nơi đức này được bốn kho tàng lớn; cũng do duyên này mà làm quan chủ tạng cho vua Nhượng-khư, ngay nơi đời ấy chấm dứt mé khổ. Vì sao thế? Quy y Phật, Pháp, Tăng công đức không thể lường. Người tự quy y phật, Pháp, Tăng được phước ấy như thế.
Cho nên, này trưởng giả, nên thương xót loài hữu tình, tìm phương tiện hướng về Phật, Pháp, Tăng . Như thế, Trưởng giả, nên học điều này.
Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-để hoan hỷ vui mừng không thể tự kềm, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Phật ba vòng làm lễ rồi lui ra. Bốn người con cũng lại như thế .
Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-để và bốn người con nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-để thân có bệnh nặng. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất dùng thiên nhãn thanh tịnh trong suốt, thấy trưởng giả A-na-bân-để đau nặng, liền bảo Tôn giả A-nan:
– Thầy đi với tôi đến chỗ trưởng giả A-na-bân-để thăm hỏi.
A-nan đáp:
– Nên biết đúng thời.
Bấy giờ, A-nan đến thời đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực, lần lượt đến nhà trưởng giả A-na-bân-để và vào tòa ngồi. Xá-lợi-phất ngồi trên tòa, hỏi trưởng giả A-na-bân-để:
Hôm nay bệnh của ông tăng hay giảm? Sự đau đớn có giảm bớt dần không? Tăng thêm không?
Trưởng giả thưa:
Nay bệnh của con có giảm rất ít, chỉ tăng chứ không giảm.
Xá-lợi-phất bảo:
– Như vậy, nay Trưởng giả nên nhớ đến Phật, là bậc Như Lai Chí Chơn Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện thệ, Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn; cũng nên nghĩ nhớ Pháp, Pháp của Như Lai rất là thâm sâu, đáng tôn đáng quý, không gì sánh bằng, là chỗ tu hành của Thánh chúng, cũng nên nhớ nghĩ đến Tăng chúng, chúng của Như Lai trên dưới thuận hòa, không tranh cãi, thành tựu các pháp. Thánh chúng giới thành tựu, tam muội thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, giải thoát tri kiến thành tựu. Tăng là các vị bốn đôi tám bậc. Đây gọi là Thánh chúng của Như Lai đáng tôn đáng quý, là phước điền vô thượng của thế gian. Trưởng giả! Nếu tu hành niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tang, đức ấy không thể tính kể, được vị cam lồ diệt tận. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nghĩ nhớ ba ngôi báu Phật, Pháp, Thánh chúng rồi mà rơi vào ba đường ác thì trọn không có lý ấy. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn tu niệm ba ngôi báu, ắt sẽ đến chỗ lành trong cõi Trời, cõi Người.
Lại nữa, Trưởng giả! Chớ khởi tưởng về sắc, cũng đừng y cứ sắc mà khởi thức. Chớ khởi về thanh, đừng y cứ vào thanh mà khởi thức. Chớ khởi về hương, đừng y cứ vào hương mà khởi thức. Chớ khởi về vị, đừng y cứ vào vị mà khởi thức. Chớ khởi xúc giác, đừng y cứ vào xúc mà khởi thức. Chớ khởi ái, đừng y cứ vào ái mà khởi thức. Vì sao thế? Vì duyên ái có thọ, duyên thọ có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh tử, ưu bi khỗ não không thể tính kể. Đây là, có năm thạnh ấm khổ này, không có ngã, nhơn, thọ mạng, sĩ phu, mầm móng của loài hữu tình.
Nếu khi mắt khởi, thời không biết chỗ đến, nếu mắt diệt thời diệt, không biết chỗ đi. Từ không mắt sinh, mắt có rồi mắt diệt, đều do các pháp nhân duyên hội họp. Pháp nhân duyên nghĩa là duyên đây mà có đây, không đây thì ắt không. Đó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên tử, tử duyên ưu bi khổ não không tính kể. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Không có mà sanh, có rồi thì diệt; cũng không biết chỗ đến, cũng không biết chỗ đi; đều do các pháp nhân duyên hội họp. Này Trưởng giả! Đây gọi là hành không, pháp đệ nhất.
Bấy giờ Trưởng giả A-na-bân-để buồn khóc rơi lệ không ngừng. Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi:
– Vì sao buồn khóc như thế?
Trưởng giả thưa:
– Con bị cảm vì từ xưa đến nay, con thừa sự đức Phật, và tôn kính chư Tỳ-kheo trưởng lão, cũng chưa được nghe pháp tôn trọng như thế, như lời chỉ dạy của Tôn giả Xá-lợi-phất.
Khi ấy, tôn giả A-nan bảo A-na-bân-để:
– Trưởng giả nên biết! Như Lai có dạy, thế gian có hai hạng người. Thế nào là hai? Một là biết vui, hai là biết khổ. Người tập vui là Tôn giả Da-du-đề (Tu-bồ-đề) con nhà hào tộc. Người tập khổ là Tỳ-kheo Bà-già-lê.
Lại này Trưởng giả! Tỳ-kheo Tu-bồ-đề giải không đệ nhất. Người được tín giải thoát là Tỳ-kheo Bà-già-lê. Này Trưởng giả! Người biết khổ, người biết vui, cả hai người tâm đều giải thoát, cả hai đều là đệ tử của Như Lai, không ai bằng. Do hai vị ấy không chết, không sanh, hai người siêng năng vâng lời Phật dạy không lười nhác bỏ qua. Chỉ vì tâm có tăng giảm, nên có người biết, người không biết. Như lời Trưởng giả nói: ‘Con từ xưa đến nay thừa sự Phật, cung kính chư Tỳ-kheo trưởng lão, ban đầu chưa nghe được pháp tôn trọng như thế, như lời Tôn giả Xá-lợi-phất nói’. Tỳ-kheo Tu-bồ-đề quán sát nơi đất mà tâm được giải thoát. Tỳ-kheo Bà-già-lê quán sát nơi đạo tức thời tâm được giải thoát. Cho nên, này Trưởng giả, nên làm như Tỳ-kheo Bà-già-lê.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất thuyết pháp rộng cho Trưởng giả, khuyến khích khiến ông hoan hỷ, khiến phát tâm vô thượng. Xong rồi Tôn giả rời tòa đi.
Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả A-nan đi chưa bao lâu, giây lát trưởng giả A-na-bân- để mạng chung, liền sanh lên cõi trời Ba mươi ba. Khi ấy, Thiên tử A-na-bân-để có được năm công đức hơn các chư Thiên. Thế nào là năm? Là tuổi thọ trời, sắc đẹp trời, niềm vui trời, oai thần trời, ánh sáng trời. Thiên tử A-na-bân-để bèn khởi niệm: ‘Nay ta được thân trời này đều do ân đức của Như Lai. Nay ta không nên vui chơi trong ngũ dục, trước hết nên đến chỗ Thế Tôn quỳ lạy hỏi thăm’.
Thiên tử A-na-bân-để dẫn chư Thiên vây quanh trước sau, đem các hoa trời rải trên thân Phật. Khi ấy đức Phật đang ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp cô Độc, thiên tử ấy ở trên hư không chấp tay hướng về đức Phật, và nói kệ:
Đây là vườn Kỳ-hoàn,
Chúng tiên nhơn vui chơi,
Chỗ Pháp vương ngự trị,
Nên phát tâm vui mừng.
Thiên tử A-na-bân-để nói kệ xong, đức Như Lai im lặng hứa khả, Thiên tử ấy bèn nghĩ: ‘Như Lai đã mặc nhiên hứa khả, ta nên cả thần túc, ngồi một bên’. Thiên tử A-na-bân-để bạch Phật:
– Con là Tu-đạt, cũng có tên là A-na-bân-để mọi người biết rõ, là đệ tử của Như Lai, vâng lời dạy tôn thánh, nay mạng chung sanh lên trời Ba mươi ba.
Thế Tôn bảo:
– Ông do ân đức gì nay được thân Trời này?
Thiên tử bạch Phật:
– Nhờ oai lực của Thế Tôn, được thọ thân Trời.
Thiên tử A-na-bân-để lại dùng hoa trời rải trên thân Như Lai, cũng rải trên A-nan và Xá-lợi-phất, đi nhiễu quanh tinh xá Kỳ-hoàn bảy vòng, rồi ẩn không hiện.
Sáng ngày, Thế Tôn bảo A-nan:
– Đêm qua, có Thiên tử đến chỗ Ta, nói kệ:
Đây là vườn Kỳ hoàn,
Chúng tiên nhơn vui chơi,
Chỗ Pháp vương ngự trị,
Nên phát tâm vui mừng.
Thiên tử ấy đi nhiễu quanh vườn Kỳ-hoàn bảy vòng rồi đi. A-nan! Thầy biết Thiên tử ấy chăng?
A-nan bạch Phật:
– Chắc là Trưởng giả A-na-bân-để.
Phật bảo:
– Như lời Thầy nói. Lành thay! Thầy có thể dùng trí vi tri mà biết được thiên tử ấy. Vì sao? Đó là Thiên tử A-nan-bân-để.
A-nan bạch Phật:
– A-na-bân-để nay sanh cõi trời tên là gì?
Phật bảo:
– Cũng tên A-na-bân-để. Vì sao thế? Ngay hôm Thiên tử ấy sanh, chư thiên ai cũng nói: ‘Thiên tử này khi ở cõi Người là đệ tử của Như Lai, thường đem tâm bình đẳng bố thí tất cả, cứu giúp kẻ cùng khổ thiếu thốn; làm công đức ấy rồi, nay là vị Trời ở cõi Ba mươi ba’. Vì thế này theo đó, tặng cho tên A-na-bân-để.
Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Tỳ-kheo A-nan có công đức lớn, thành tựu trí tuệ. Tỳ-kheo A-nan hiện ở địa vị hữu học mà trí tuệ không ai bằng. Vì sao thế? Điều mà trí tuệ của A-la-hán biết, A-nan cũng biết. Những điều nên học từ chư Phật quá khứ, A-nan đều biết rõ. Thời quá khứ có người vừa nghe liền biết rõ, như Tỳ-kheo A-nan của Ta hiện nay nhìn qua liền biết Như Lai cần điều này, không cần điều này. Đệ tử của chư Phật quá khứ nhập định mới biết được việc chưa rõ; ngày nay, Tỳ-kheo A-nan của Ta, vừa quán sát liền biết rõ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Trong hàng Thanh văn của Ta, người học rộng biết nhiều, có sức dõng mãnh, tinh tấn, ý niệm không tán loạn, đa văn đệ nhất, kham nhậm làm việc là Tỳ-kheo A-nan.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Khi ấy, trưởng giả A-na-bân-để có con dâu tên Thiện Sanh, dung mạo đoan chánh, mặt như sắc hoa đào, là con gái quan đại thần của vua Ba-tư-nặc. Nàng ấy ỷ vào dòng họ, cậy gia thế vọng tộc, không cung kính mẹ chồng và chồng, cũng không thừa sự Phật, Pháp, Tỳ-kheo Tăng, cũng không kính phụng Ba ngôi báu.
Bấy giờ, trưởng giả A-na-bân-để đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ chân Phật lui ngồi một bên. Trưởng giả bạch Phật:
– Con vừa cưới vợ cho con trai của con, cô ấy là con gái quan đại thần đệ nhất của vua Ba-tư-nặc, tự ỷ thị dòng họ vọng tộc mà không thừa tự Ba ngôi báu, trưởng lão tôn ti. Cúi xin Thế Tôn thuyết pháp cho con dâu ấy, khiến phát tâm hoan hỷ, mở rộng tâm ý.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Trưởng giả lại bạch Phật:
– Cúi xin Thế Tôn nhận lời con thỉnh cùng chúng Tỳ-kheo Tăng.
Trưởng giả thấy Như Lai đã im lặng thọ thỉnh, liền rời chỗ ngồi lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi đi. Trở về nhà, trưởng giả sắp đặt các thức ăn uống; trải nệm ngồi tốt đẹp và đến bạch Phật.
– Đúng thời, cúi xin Thế Tôn nhận lời con thỉnh. Thức ăn uống đã đủ.
Thế Tôn dẫn chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau đến nhà trưởng giả, vào chỗ ngồi. Trưởng giả lại đem ghế nhỏ ngồi trước Như Lai. Thế Tôn bảo nàng Thiện Sanh:
– Này Trưởng giả nữ! Nên biết làm vợ có bốn cách. Thế nào là bốn? Có người vợ như mẹ, có người vợ như bạn thân, có người vợ như giặc, có người vợ như nô tỳ.
Nay Cô nên biết! Vợ như mẹ là tùy thời chăm sóc chồng, không để cho thiếu thốn, thừa sự cúng dường. Người ấy được sự ủng hộ của chư Thiên, dù Nhân hay Phi nhân không hại được, chết được sanh cõi trời. Đây gọi là người vợ như mẹ.
Thế nào là vợ như bạn thân? Này Trưởng giả nữ! Thấy chồng mà không có tâm tăng giảm, cùng chung khổ vui. Đó là người vợ như bạn thân.
Thế nào là vợ như giặc? Này Trưởng giả nữ! Nếu thấy chồng bèn ôm lòng sân giận, ghét chồng, không thừa sự cung kính lễ bái, thấy chồng mà muốn hại, tâm để nơi người khác, chồng không thân với vợ, vợ không thân với chồng, không được người ái kính, chư Thiên không ủng hộ, ác quỷ xâm hại, thân hoại mạng chung rơi vào địa ngục; đó gọi là người vợ như giặc.
Thế nào gọi là vợ như nô tỳ? Ở đây, người vợ trinh lương, thấy chồng bèn tùy thời săn sóc, nhẫn nhịn lời nói không trả lời lại, nhẫn nại sự lạnh khổ, thường có lòng từ; đối với Ba ngôi báu cũng sanh ý niệm rằng: ‘Ba ngôi báu còn, ta còn, Ba ngôi báu mất, ta mất’. Do việc này người ấy được chư Thiên ủng hộ, dù Người hay Phi nhân đều thương tưởng nghĩ nhớ, khi chết sanh cõi lành, trên trời.
Này Trưởng giả nữ! Đó là bốn hạng vợ, nay Cô ở vào hạng vợ nào?
Nàng ấy nghe lời Phật dạy, liền đến trước lễ Phật, bạch rằng:
– Cúi xin Thế Tôn! Nay con sửa đổi lỗi cũ, không dám phạm. Từ nay về sau con thường làm pháp lễ độ như nô tỳ.
Khi ấy, nàng Thiện Sanh trở lại chỗ chồng, cúi đầu lễ, nguyện săn sóc chồng như nô tỳ đối với chủ. Nàng Thiện Sanh lại đến chỗ Phật, cúi lạy lui ngồi một bên.
Đức Thế Tôn dần dần thuyết pháp cho nàng, nói về luận bố thí, luận giới, luận sanh thiên, ái dục là tưởng bất tịnh, dâm dục là nhơ uế lớn. Thế Tôn biết nàng đã mở rộng tâm , bèn nói về pháp mà các đức Phật thường nói: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, đức Phật nói hết cho nàng. Nàng ấy liền tại chỗ ngồi được pháp nhãn tịnh. Cũng như chiếc áo mới dễ nhuộm màu, đây cũng vậy, nàng ấy phân biệt các pháp khéo hiểu nghĩa thâm diệu, tự quy y Ba ngôi báu, thọ ngũ giới.
Bấy giờ nàng Thiện Sanh nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy lui ngồi một bên, giây lát sau rời chỗ ngồi, bạch Phật:
– Thế Tôn thường khen hào tộc cao quý, không nói đến thấp hèn. Song, bạch Thế Tôn, con không khen tôn quý không nói thấp hèn, chỉ nói với hàng trung lưu khiến được xuất gia học đạo.
Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
– Thầy tự nói rằng không khen hàng tôn quý, không nói thấp hèn, chỉ nói hàng trung lưu được xuất gia học đạo. Nhưng nay Ta không nói về nơi thọ sanh thượng, trung, hạ. Vì sao thế? Phàm thọ sanh là rất khổ, không đủ mong muốn. Như đống phân kia kia chút ít còn rất hôi huống gì nhiều; nay sự thọ sanh cũng lại như vậy, một đời hai đời còn khổ nạn, huống gì lưu chuyển mãi mãi mà có thể cam chịu. Do hữu có sanh, do sanh có lão, do lão có bệnh có tử, lo buồn khổ não, có gì đáng tham ưa, bèn thành thân ngũ thạnh ấm. Nay Ta quán sát nghĩa này mà nói như thế. Một đời hai đời còn khổ nạn, huống gì lưu chuyển mãi mãi mà có thể cam chịu.
Này Xá-lợi-phất! Nếu có ý muốn thọ sanh, nên phát nguyện sanh trong gia đình hào quý, không sanh nơi ty tiện. Vì sao thế? Chúng sanh bị tâm ràng buộc lâu dài, chứ không bị hào tộc ràng buộc. Này Xá-lợi-phất! Như Ta ở trong gia đình hào quý, là dòng Sát-lợi Chuyển luân Thánh vương, nếu như Ta không xuất gia học đạo thì sẽ làm vua Chuyển luân. Nay Ta bỏ địa vị Chuyển quân Thánh vương, xuất gia học đạo thành đạo Vô Thượng. Còn nếu sanh trong nhà thấp hèn, không được xuất gia học đạo thì trở lại bị rơi trong đường ác.
Cho nên, Xá-lợi-phất! Nên tìm phương tiện hàng phục tâm. Như thế, Xá-lợi-phất, nên học điều này!
Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Trang trước | Mục Lục | Trang sau |