Ngài họ Tỳ-xá-khư ở nước La-duyệt, cha hiệu Quang Cái, mẹ là Nghiêm Nhất. Nguyên gia đình ông Quang Cái giàu có mà không con. Hai ông bà đồng đi lễ tháp Phật ở phía Bắc thành La-duyệt để cầu con. Sau đó, bà mộng thấy nuốt hai hạt châu một sáng một tối. Kế bà biết mình có thai.
Một hôm, có vị A-la-hán hiệu Hiền Chúng đến nhà. Ông Quang Cái ra đảnh lễ. Đến lượt bà ra lễ, Tôn giả Hiền Chúng liền tránh qua một bên ra vẻ cung kính đáp lại.
Ông Quang Cái lấy làm lạ hỏi:
– Tôi là trượng phu đảnh lễ Tôn giả chẳng nhượng, tại sao vợ tôi là phụ nữ mà Tôn giả lại kính nhượng?
Tôn giả Hiền Chúng đáp:
– Bởi ông phàm phu nên tôi nhận ông lễ, còn vợ ông đang mang thai Bồ-tát là bậc pháp khí thượng thừa nên tôi cố tránh, không phải tôi trọng nữ khinh nam.
Ông Quang Cái tạ lỗi thưa:
– Tôn giả là bậc Thánh nhân hay biết việc chưa đến.
Sau quả nhiên bà Nghiêm Nhất sanh được hai người con trai một lượt. Người con lớn đặt tên là Bà-tu-bàn-đầu, tức là Ngài. Thuở bé, Ngài ý chí siêu việt, đến 15 tuổi xin xuất gia với A-la-hán Quang Độ. Khi thọ giới được Bồ-tát Tỳ-bà-ha truyền cho, Ngài mộ hạnh của Tổ Ca-diếp nên tập tu theo hạnh đầu-đà.
Lúc gặp Tổ Xà-dạ-đa kích khởi phát sanh đại huệ và được truyền pháp. Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa khắp nơi, lần lượt đến nước Na-đề. Vua Na-đề tên là Thường Tự Tại, sanh được hai người con trai. Người con lớn là Ma-ha-la đã 40 tuổi, người con thứ là Ma-noa-la được 30 tuổi. Khi Ngài đến nước này, vua thỉnh vào cung cúng dường.
Vua hỏi Ngài:
– Phong tục nước tôi chắc không bằng phong tục thuần mỹ ở thành La-duyệt?
Ngài đáp:
– Ở thành La-duyệt xưa kia có phước đức được ba đức Phật ra đời, ở nước này hiện có hai vị hiền sĩ làm phước báo.
Vua hỏi: – Hai vị hiền sĩ là ai?
Ngài đáp:
– Xưa Phật thọ ký rằng: “Gần 1.000 năm sau ta Niết-bàn, có một thần lực đại sĩ ra nối truyền chánh pháp tại nước Na-đề tên là Ma-noa-la”, là con thứ hai của Bệ hạ. Bần tăng tuy đức mỏng cũng đảm đang một vị vậy.
Vua nghe, hoan hỷ gọi Thái tử Ma-noa-la đến, bạch với Ngài:
– Con tôi đây đã được Phật thọ ký, cúi xin Tôn giả nhận cho nó xuất gia.
Ngài bảo:
– Vị Hoàng tử này, nếu không phải tôi làm thầy, sau này, không ai độ được.
Ngài liền triệu tập Thánh chúng vào hoàng cung làm lễ xuất gia truyền giới cho Ma-noa-la. Ma-noa-la rất hoan hỷ được thọ lãnh giới pháp. Sau đó, Ngài dẫn Ma-noa-la sang hóa đạo nước khác.
Một hôm, Ngài gọi Ma-noa-la lại bảo:
– Đại pháp nhãn tạng của Như Lai nay giao phó cho ngươi, ngươi phải gìn giữ truyền bá. Nghe ta nói kệ:
Bào huyễn đồng vô ngại,
Vân hà bất ngộ liễu.
Đạt pháp tại kỳ trung,
Phi kim diệc phi cổ.
Dịch:
Bọt huyễn đồng không ngại,
Tại sao chẳng liễu ngộ.
Đạt pháp ngay trong ấy,
Chẳng xưa cũng chẳng nay.
Truyền pháp xong, Ngài đang ngồi trên tòa, bỗng thân vượt lên hư không, ngồi yên trên ấy.
Bốn chúng quỳ bạch:
– Chúng con muốn thờ xá-lợi, xin Tôn giả cho chúng con được thiêu lấy xá-lợi.
Thân Ngài liền hạ xuống ngồi yên chỗ cũ. Chúng thiêu xong, thu lượm xá-lợi xây tháp phụng thờ.
Trang trước | Mục lục | Trang sau |